Tài liệu Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Bảo Việt Hà Nội: ... Ebook Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Bảo Việt Hà Nội
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1550 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Bảo Việt Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội thì nhu cầu an toàn là nhu cầu thiết yếu, nó chỉ xếp sau nhu cầu ăn uống, sinh hoạt của con người. Con người luôn tìm cách bảo vệ chính bản thân và tài sản của mình trước những rủi ro biến cố bất ngờ trong cuộc sống cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong lịch sử thì con người đã tìm ra rất nhiều cách để bảo vệ mình, trong đó bảo hiểm là một trong những biện pháp hữu hiệu và có hiệu quả nhất mà con người áp dụng để bảo vệ mình và tài sản.
Bảo hiểm cháy là nghiệp vụ được triển khai từ rất sớm. Hiện nay ở hầu hết các công ty bảo hiểm phi nhan thọ đều đã triển khai nghiệp vụ này. Trong thời gian thực tập ở Phòng cháy và các rủi ro hỗn hợp tại Bảo Việt Hà Nội, em đã nhận thấy rằng : công tác quản trị rủi ro là một trong những khâu quan trọng và phức tạp của bảo hiểm cháy. Vì thông qua công tác này thì một mặt có thể đưa ra các biện pháp nhằm ngăn chặn và hạn chế tổn thất do rủi ro hỏa hoạn gây ra, giúp người tham gia bảo hiểm ổn định về mặt tài chính, yên tâm sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển, đảm bảo trật tự xã hội.
Như vậy, công tác quản trị rủi ro có vai trò vô cùng quan trọng, xuất phát tự mục đích muốn được tìm hiểu thực trạng triển khai công tác này tại Bảo Việt Hà Nội, bản thân em cũng rất mong muốn công tác này ngày càng được chú trọng và thực sự phát huy hiệu quả trong hoạt động kinh doanh đặc biệt trong nghiệp vụ bảo hiểm cháy. Do đó, em quyết định chọn đề tài “ Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Bảo Việt Hà Nội “
Nội dung gồm có 3 chương
Chương 1 : Lý luận chung về công tác quản trị rủi ro nghiệp vụ bảo hiểm cháy
Chương 2 : Thực trạng công tác quản trị rủi ro nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 2003- 2007
Chương 3 : Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị rủi ro nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Bảo Việt Hà Nội
Em xin gửi lời cảm ơn tới các anh chị trong Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp, và lời cảm ơn sâu sắc tới chú Lê Xuân Bảy – Phó phòng Bảo hiểm cháy và các rủi ro hỗn hợp đã hướng dẫn tận tình và tạo điều kiện tốt nhất giúp em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Và đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo Nguyễn Thị Lệ Huyền đã quan tâm và hướng dẫn em trong suốt quá trình làm chuyên đề tốt nghiệp.
Hà Nội, ngày tháng năm 2008
Sinh viên
Nguyễn Thị Phương Thảo
Chương 1 : Lý luận chung về công tác quản trị rủi ro nghiệp vụ bảo hiểm cháy
I.Sự cần thiết khách quan và lịch sử phát triển của bảo hiểm cháy
Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm cháy
Từ hàng triệu năm về trước, việc tìm ra lửa đã đánh dấu bước ngoặt lớn trong tiến trình phát triển của loài người. Phát minh ra lửa và sử dụng lửa là một phát minh vĩ đại nhất và lửa đã mang lại cho con người bao nhiêu niềm vui, hạnh phúc và trở thành công cụ không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong sản xuất kinh doanh. Nhưng ngược lại lửa cũng gây ra không ít những hiểm họa cho cuộc sống con người. Theo số liệu thống kê, trên thế giới hàng năm có khoảng 5 triệu vụ cháy lớn nhỏ gây thiệt hại hàng trăm tỷ đô la và rất nhiều người thiệt mạng.
Hiện nay, các vật liệu đốt từ các nguồn tự nhiên ngày càng bị cạn kiệt dần, do đó để tồn tại phát triển con người đã không ngừng nghiên cứu khoa học phát minh ra nhiều nhiên liệu thay thế sử dụng để phục vụ cuộc sống như : xăng, ga, thiết bị điện tử, hóa chất, hàng hóa…Việc ứng dụng các thành tựu tiến bộ vào sản xuất và đời sống sinh hoạt của người dân ngày càng đa dạng. Thêm vào đó thì điều kiện tự nhiên ngày một khắc nghiệt cùng với sự hạn chế trong hiểu biết của người dân về việc PCCC làm cho các vụ cháy ngày một gia tăng.
Hàng năm trên thế giới trung bình có khoảng 5 triệu vụ cháy lớn nhỏ với ước tính thiệt hại 600 tỷ USD. Hỏa hoạn không chỉ xảy ra với nước có kinh tế chậm phát triển mà ngay cả những nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ , Đức…và nước càng phát triển thì thiệt hại do cháy càng lớn và hậu quả càng nặng nề. Có những vụ cháy không thể phai mờ trong tiềm thức nhân loại, đó là vụ cháy thành phố LONDON, nước Anh. Đám cháy bắt đầu từ 02/09/1966 cho đến ngày 09/09/1966 đã thiêu hủy 13200 căn nhà ( gần hết thành phố LONDON lúc bấy giờ ) . Còn ở Mỹ mỗi năm có khoảng2,4 triệu vụ cháy, thiệt hại 300.000 mạng người, tổn thất khoảng 1.8 tỷ USD.
Ở Việt Nam trong vòng 30 năm kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phòng cháy chữa cháy ( 04/10/1961 ) đến 04/10/1991 cả nước đã xảy ra 566.036 vụ cháy lớn nhỏ gây thiệt hại về vật chất ước tính 948 tỷ đồng, làm chết 2574 người. Các vụ cháy lớn có tỷ lệ ngày càng tăng. Năm 1990 số vụ cháy xảy ra là 902 vụ, chết và bị thương 380 người, gây thiệt hại hơn 11.3 tỷ đồng. Từ 1992-1993 cả nước có 1710 vụ cháy , làm chết 213 người, làm bị thương 348 người, thiệt hại vật chất ước tính 114.76 tỷ. Năm 1996 thống kê cho thấy có 961 vụ cháy lớn nhỏ xảy ra, gây thiệt hại 43.8 tỷ đồng, số người bị chết và bị thương là 162 người. Những vụ cháy gây thiệt hại lớn trong những năm qua , điển hình là :
- Ngày 22/07/1993 Công ty LD sản xuất Giầy Hiệp Hưng – TP.HCM bị cháy thiệt hại 14 tỷ đồng
- Ngày 14/07/1994 cháy chợ Đồng Xuân, thiệt hại hàng hóa ước tính 14 tỷ đồng, có 2346 hộ kinh doanh và hàng ngàn đại lý tại chợ bị thiệt hại, những hộ kinh doianh lâm vào tình trạng khó khăn, nhiều gia đình lâm vào cảnh túng quẫn.
- Ngày 26/06/1997 cháy kho xăng dầu Thủy Nguyên – Hải Phòng làm thiệt hại 31 tỷ đồng.
- Ngày 15/09/1998 cháy nhà máy giầy Đồng Nai thiệt hại ước tính 12 triệu đồng.
- Năm 2000 đã xảy ra những vụ cháy lớn có thể kể đến như vụ cháy công ty may Hải Sơn với thiệt hại là 7,5 tỷ đồng , vụ cháy ở công ty TNHH Thịnh Khang thiệt hại ước tính 6,2 tỷ đồng, vụ cháy ở công ty Muraya Việt Nam với thiệt hại 6,25 tỷ đồng.
- Vụ cháy xưởng sản xuất của công ty Interfood ngày 1/4/2003 làm thiệt hại hơn 5 triệu USD
- Ngày 09/05/2003 cháy dây chuyền sản xuất mì ăn liền của công ty chế biến lương thực Hà Việt -Pháp Vân -Thanh Trì - Hà Nội thiệt hại gần 8 tỷ đồng.
- Ngày 07/05/2004 cháy công ty TNHH Trần Thành – Từ Liêm – Hà Nội gây thiệt hại gần 3,2 tỷ đồng
- Khoảng 2 giờ sáng ngày 29/03/2005 lửa phát cháy trong xưởng sản xuất giấy ăn và băng vệ sinh của Công ty TNHH Thống Nhất tại 670 Ngô Gia Tự - Phường Đức Giang – Quận Long Biên – Hà Nội , thiệt hại 7,4 tỷ đồng.
- Ngày 1/6/2007 cháy kho thuốc nổ tại Cẩm Phả - Quảng Ninh, nguyên nhân chưa xác định rõ, thiệt hại ước tính 1,8 tỷ đồng. Bảo Việt đã tạm thời bồi thường cho công ty 500 triệu đồng và đến ngày
- Ngày 07/12/2007 cháy kho hàng hóa màn tuyn của phân xưởng Văng Sấy, Phúc Yên, Vĩnh Phúc ( thuộc công ty dệt 10-10).
- Ngày 09/07/2007 xảy ra cháy tại công ty cổ phần ống thép Việt Đức tại Khu công nghiệp Đồng Xuyên- Vĩnh Phúc với nguyên nhân là do ma sât các loại hạt bụi kim loại phát ra các tia lửa
Trên đây chỉ là những con số thiệt hại về tài sản còn những thiệt hại về người, thiệt hại gián đoạn kinh doanh… vẫn chưa được kể đến. Ta thấy rõ ràng khi hỏa hoạn xảy ra thì những thiệt hại mà nó đem lại thường rất lớn, có thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất kỳ lúc nào. Ngay cả những nơi có trang bị tốt về PCCC thì hỏa hoạn vẫn có thể xảy ra nhưng với xác suất rủi ro thấp hơn. Do việc PCCC hiện nay đang là vấn đè cấp thiết đặt ra đối với nhiều quốc gia trên toàn thế giới và Việt Nam cũng là quốc gia mà tình hình cháy đang ở mức báo động. Hiện nay có hai biện pháp hữu hiệu để hạn chế tổn thất, giảm bớt thiệt hại do cháy gây ra là PCCC và bảo hiểm. PCCC sẽ giúp cho các doanh nghiệp và cá nhân đề phòng và hạn chế tổn thất kho có rủi ro cháy xảy ra. Và bảo hiểm cháy với hai vai trò là “ một giá đỡ ’’ cho doanh nghiệp, cá nhân tham gia bảo hiểm. sẽ giữ cho các danh nghiệp có thể bảo toàn và nhanh chóng khắc phục hậu quả đưa lại cho doanh nghiệp trở lại quỹ đạo kinh doanh.
2 – Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm cháy
Theo tài liệu lịch sử để lại từ thời trung đại đến thời phục hưng con người vẫn chưa có hệ thống PCCC nào hiệu quả. Chỉ đến thời hoàng đế La Mã trị vì họ đã nghĩ ra một phương thức hiệu quả để phòng cháy chữa cháy, đó là ở các thành phố lớn và thị trấn nhà nào cũng phải dự trữ các xô nước đầy. Đêm có các đội tuần tra đi dọc phố nếu phát hiện ra cháy họ sẽ báo ngay cho chủ nhà biết. Nếu hỏa hoạn xảy ra người bị thiệt hại có thể được phường hội trợ giúp với điều kiện họ phải là thành viên của hội. Tuy nhiên khoản trợ giúp này chưa thể coi là khoản bồi thường thực sự. Phường hội đầu tiên theo kiểu này do nhà lái buôn thành phố Rowen ( Pháp ) thành lập năm 1374. Theo điều kiện của phường hội, khi một thành viên bị thiệt hại sẽ được các thành viên khác sửa chữa thiệt hại do hỏa hoạn xảy ra.
Thời gian trôi qua các biện pháp khắc phục hậu quả của hỏa hoạn vẫn chưa có hiệu quả, cho đến năm 1666 sau khi vụ cháy kinh hoàng ở thành phố Luân Đôn, nước Anh và các nước Châu Âu mới thấy được tầm quan trọng của việc thiết lập nên hệ thống PCCC và bồi thường cho những người thiệt hại một cách hữu hiệu. Với mức độ nghiêm trọng của thảm họa này đã khiến cho các nhà kinh doanh phải nghĩ đến việc cộng đồng chia sẻ rủi ro hỏa hoạn, họ đã nhận thức rằng cần có bảo hiểm hỏa hoạn và từ đó dẫn đến sự ra đời lần lượt của các công ty bảo hiểm hỏa hoạn. Đó là các tổ chức sau:
Fire office thành lập năm 1667 với tiền thân là những người lính cứu hỏa
Friendly Society Office là Công ty Bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên ra đời năm 1684. Công ty này hoạt động trên nguyên tắc tương hỗ và hệ thống phí cố định, người được bảo hiểm không bồi thường toàn phần mà phải chịu một phần thiệt hại xảy ra.
Sau đó hàng loạt công ty bảo hiểm cháy khác tiếp tục ra đời ở Anh như : Amicable (1969), Sun (1710), Union (1714). Phần lớn các công ty này tồn tại đến ngày nay và vẫn tiếp tục tăng trưởng và phát triển. Sau khi công ty bảo hiểm đầu tiên ra đời ở Anh, bảo hiểm cháy lan rộng sang các nước Châu Âu, cụ thể là Đức năm 1667
Anh em nhà Perien thành lập công ty bảo hiểm đầu tiên tại Pháp năm 1686 và 100 năm sau một số công ty có tên là “ La Royale Incendic” chính thức thành lập.
Công ty bảo hiểm cháy đầu tiên tại Mỹ là công ty bảo hiểm tương hỗ Beamjamen franklia và một số thành viên sáng lập năm 1752 mang tên “The Philadenphia Contrition ship” chuyên bảo hiểm cháy cho nhà cửa.
Ngày nay, nghiệp vụ bảo hiểm cháy đã được tiến hành ở hầu hết các nước trên thế giới và ngày càng phát triển dẫn đên sự cạnh tranh gay gắt trong việc tìm kiếm dịch vụ trên thị trường. Hầu hết ác công ty bảo hiểm phi nhân thọ khi đặt văn phòng để mở rộng thị phần, nghiệp vụ đầu tiên mà họ tiến hành đó là nghiệp vụ bảo hiểm cháy.
Ở Việt Nam, bảo hiểm cháy bắt đầu thực hiện từ năm 1989 sau khi có quyết định số 06/TCQĐ ngày 17/01/1989 của Bộ Tài Chính ban hành quy tắc và biểu phí bảo hiểm cháy. Sau một thời gian thực hiện, để phù hợp với thực tế, Bộ Tài chính lại có quyết định số 142/TCQĐ ban hành quy tắc và biểu phí mới và Quyết định số 212/TCQĐ ngày 12/4/1993 ban hành biểu phí bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt với mức phí cao nhất thay cho biểu phí bảo hiểm cháy theo quyết định số 142/TCQĐ
Hiện nay, tuy còn một số vấn đề tồn tại trong khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy nhưng cùng với sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Năm, hầu hết các công ty bảo hiểm đều nhận thấy rằng bảo hiểm cháy là một nghiệp vụ vô cùng thiết yếu đối với nền kinh tế nói chung và cuộc sống con người nói riêng. Do đó, đã có nhiều công ty trong và ngoài nước tiến hành triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này. Có thể nói rằng, bảo hiểm cháy đã dần đi vào tiềm thức của con người Việt Nam, đáp ứng được đòi hỏi tất yếu của xã hội và ngày càng củng cố vững chắc vị trí của mình trong cơ cấu chung của ngành bảo hiểm Việt Nam.
3 – Vai trò, tác dụng của bảo hiểm cháy
Thứ nhất, bảo hiểm cháy là “ lá chắn kinh tế” của các doanh nghiệp, góp phần giảm thiểu những hậu quả, những ảnh hưởng của những rủi ro liên quan đến đời sống vật chất và hoạt động sản xuất kinh doanh của người tham gia bảo hiểm.
Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh đôi khi rủi ro xảy ra bất ngờ mà không ai lường trước được. Những vụ cháy đã và đang gây nên những thiệt hại về tài sản, tính mạng con người, làm gián đoạn quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp. Khi tham gia bảo hiểm cháy các doanh nghiệp,các cá nhân sẽ nhanh chóng khắc phục được hậu quả của rủi ro nhờ số tiền bồi thường mà các công ty bảo hiểm chi trả cho người được bảo hiểm. Trong đa phần các trường hợp thì số tiền bồi thường của công ty bảo hiểm đủ để bù đắp cho những mất mát, thiệt hại mà doanh nghiệp gánh chịu do rủi ro mang đến. Điều này cũng giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhanh chóng trở lại quỹ đạo của nó.
Trên thực tế các công ty bảo hiểm sử dụng phần lớn số tiền thu được chỉ để bồi thường cho người tham gia bảo hiểm, thường số tiền bảo hiểm chiếm khoảng 20 – 40% doanh thu phí bảo hiểm. Khả năng tích lũy của từng công ty bảo hiểm không lớn nhưng các công ty bảo hiểm lại có khả năng bảo hiểm cho những giá trị rất lớn thông qua sự phân chia, phân tán rủi ro. Việc phân chua, phân tán rủi ro trong hoạt động bảo hiểm được thực hiện thông qua các hợp đồng đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm không chỉ khai thác bảo hiểm ở một khu vực mà tiến hành các nghiệp vụ bảo hiểm ở một phạm vi rộng, điều này sẽ làm tăng khả năng ký kết hợp đồng bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm kể cả các hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn. Chính điều này đã giúp các doanh nghiệp bảo toàn được vốn khi có rủi ro xảy ra. Bên cạnh đó, cùng với sự chuyển đổi của cơ chế quản lý, nhà nước đã chủ động giao vốn cho các doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. trong việc bảo tồn và phát triển các nguồn vốn doanh nghiệp không còn nhận được sự hỗ trợ của nhà nước như trong thời kỳ bao cấp trước đây. Do đó, nếu có xảy ra tổn thất thì doanh nghiệp không được quyền ghi giảm vốn. vì vậy, bảo hiểm cháy sẽ tạo ra sự ổn định tâm lý cũng như tài chĩnh cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh, các cá nhân khi có hỏa hoạn xay ra.
Thứ 2, bảo hiểm cháy góp phần đề phòng nguy cơ cháy mang lại lợi ích cho toàn xã hội.
Do bảo hiểm là hoạt động kinh doanh nên muốn kinh doanh có hiệu quả cao các công ty bảo hiểm phải luôn theo dõi , thống kê tình hình tai nạn , tổn thất. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp nhằm đề phòng và hạn chế rủi ro. Các công ty bảo hiểm tham gia tích cực vào việc dự đoán, thông báo tai nạn, bồi thường những chi phí hợp lý cho người tham gia bảo hiểm để họ đề phòng và hạn chế tổn thất, đề ra các quy định chặt chẽ để tăng cường trách nhiệm của những bên có liên quan đến đối tượng bảo hiểm… Vì vậy có thể nói bảo hiểm cháy góp phần đề phòng hạn chế tổn thất, mang lại sự an toàn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói riêng và xã hội nói chung.
Thứ ba, bảo hiểm cháy góp phần tăng thu ngân sách cho nhà nước, thúc đẩy nền kinh tế phát triển:
Với vai trò là trung gian tài chính, hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một kênh huy động vốn dài hạn để đầu tư trở lại cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sử phát triển của thị trường vốn ở Việt Nam, mang lại các lợi ích không chỉ về kinh tế mà còn mang lại lợi ích về mặt xã hội. Các doanh nghiệp bảo hiểm đã thực hiện đa dạng hóa đầu tư : tham gia thành lập công ty cổ phần, cho vay, tham gia dự án đầu tư, mua trái phiếu, tính phiếu kho bạc nhà nước, mua cổ phiếu, gửi tiết kiệm…. cụ thể : đầu tư chứng khoán 29,2 % , bất động sản 6,8 %, góp vốn liên doanh 7,2 % , cho vay 4,7 % và cao nhất là gửi ngân hang 52,1 % ( năm 2002 ) ( nguồn : Tạp chí Bảo hiểm )
Thứ tư, bảo hiểm cháy góp phần làm giảm tình trạng thất nghiệp:
Ý nghĩa kinh tế xã hội của bảo hiểm cháy còn được thể hiện thông qua hoạt động bảo hiểm đã thu hút được một số lao động nhất định, góp phần làm giảm bớt tình trạng thất nghiệp. Đồng thời thông qua việc bồi thường doanh nghiệp bảo hiểm đã giúp cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhanh chóng trở lại hoạt động bình thường và tránh rơi vào tình trạng phá sản sau vụ hỏa hoạn lớn. điều này cũng giúp các lao động trong doanh nghiệp tránh được tình trạng thất nghiệp.
4 – Mục đích và tác dụng của bảo hiểm
Mặc dù con người đã dung biện pháp để kiểm soát rủi ro như :
+ Tránh né rủi ro
+ Ngăn ngừa tổn thất
+ Giảm thiểu rủi ro
Nhưng rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào vì rủi ro là ngẫu nhiên và bất ngờ, thậm chí hậu quả của nó rất khôn lường nhất là rủi ro hỏa hoạn. Qua thực tế cho thấy một trong những biện pháp phòng cháy tốt nhất là tham gia bảo hiểm cháy, là một nghiệp vụ cơ bản của bảo hiểm thương mại. Bảo hiểm cháy là một loại hình bảo hiểm tài sản áp dụng đối với các nhà máy xí nghiệp… nhằm bù đắp tài chính cho người tham gia bảo hiểm.
Tham gia bảo hiểm cháy có những lợi ích nhất định, đó là :
Đối với người tham gia bảo hiểm : với nguyên tắc số đông bù số ít, tham gia bảo hiểm cháy không những tự giúp mình khắc phục hậu quả do cháy gây ra mà từ đó còn nhanh chóng giúp doanh nghiệp ổn định và tiếp tục sản xuất kinh doanh, đặc biệt đối với các DNNN từ khi chuyển đổi cơ chế, nhà nước chủ động giao vốn cho các doanh nghiệp tự bảo tồn và phát triển vốn, không có sự hỗ trợ nhiều của nhà nước như trong thời kỳ bao cấp trước đây. Do đó, dù có bất kì thiệt hại gì xảy ra thì bảo hiểm sẽ vẫn là biện pháp hữu hiệu nhất giúp các doanh nghiệp bảo toàn vốn, khắc phục hậu quả của rủi ro.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn tự mình phải đề phòng hạn chế tổn thất do các rủi ro gây ra. Nhưng khi tham gia bảo hiểm cháy thì các doanh nghiệp được các công ty bảo hiểm cung cấp những biện pháp PCCC hữu hiệu nhất. Vì các công ty bảo hiểm khi tiến hành kinh doanh nghiệp nghiệp vụ bảo hiểm cháy họ không bao giờ muốn rủi ro xảy ra gây tổn thất phải bồi thường. Do đó, họ luôn tích cực tìm kiếm các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất tốt nhất bởi vì họ có những cán bộ chuyên môn về đánh giá rủi ro và quản trị rủi ro. Những cán bộ này không những giúp cá nhân, tổ chức tham gia bảo hiểm biết được những cách đề phòng – hạn chế tổn thất mà còn đưa ra các gợi ý giúp các cá nhân, tổ chức áp dụng các trang thiết bị PCCC phù hợp với điều kiện doanh nghiêp. Mặt khác, công ty bảo hiểm còn hỗ trợ vật chất và kinh phí cho đơn vị tham gia nhằm thực hiện tốt nhất công tác đề phòng hạn chế tổn thất.
Đối với Nhà nước: Khi tham gia bảo hiểm cháy, người tham gia bảo hiểm phải đóng một khoản phí bảo hiểm tạo thành một quỹ tài chính Bảo hiểm. Quỹ này ngoài mục đích để bù đắp kịp thời những thiệt hại do rủi ro được bảo hiểm gây ra, nhằm ổn định tình hình tài chính cho họ, nó cũng có vai trò to lớn trong việc cung cấp vốn đầu tư cho nền kinh tế. Về bản chất thì các công ty bảo hiểm là các trung gian tài chính. Ngoài hoạt động kinh doanh bảo hiểm, các công ty bảo hiểm còn tham gia các hoạt động tài chính. Qua đó, các công ty bảo hiểm đã tạo ra bàn tay vô hình thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đây cũng chính là nhiệm vụ chủ yếu của các công ty bảo hiểm góp phần quan trọng vào việc tăng doanh thu của công ty trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay.
Ở nước ta, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường trong điều kiện xuất phát thấp là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, để Việt nam trở thành nước có nền kinh tế phát triển trong khu vực Đông Nam Á và sánh vai cùng với các nước phát triển, Nhà nước ta đang thực hiện quá trình CNH – HĐH trong điều kiện kinh tế mở nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các chủ đầu tư nước ngoài do quen với việc tham gia bảo hiểm cháy nên khi đầu tư vào Việt Nam, họ sẽ rất an tâm nếu các công ty bảo hiểm trong nước cung cấp đầy đủ các dịch vụ để tham gia bảo hiểm đối với các lĩnh vực mà họ kinh doanh. Như vậy, việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy có thể tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy quá trình mở rộng phát triển kinh tế đối ngoại trong công cuộc xây dựng đất nước.
Ngoài ra, việc các doanh nghiệp tham gia bảo hiểm cháy còn có ý nghĩa kinh tế - xã hội, đó là tạo công ăn việc làm cho người lao động và Nhà nước thông qua hình thức thuế sử dụng mục đích đảm bảo phúc lợi xã hội
II – Nội dung cơ bản của bảo hiểm cháy
1 – Các khái niệm có liên quan :
Bảo hiểm cháy là một loại hình bảo hiểm tài sản nhằm áp dụng đối với các nhà máy,xí nghiêp,tổ chức… thuộc mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Giá trị được bảo hiểm thường rất lớn. Khi rủi ro xảy ra, tổn thất không chỉ là một đơn vị nhỏ mà có khi là đối với toàn bộ tài sản.
Trong nghiệp vụ bảo hiểm cháy có 1 số khái niệm sau
Cháy : Là phản ứng hóa học có tỏa nhiệt và phát sáng
Hỏa hoạn : Là cháy xảy ra không kiểm soát được ngoài luồng lửa chuyên dùng gây thiệt hại cho tài sản và người ở xung quanh.
Rủi ro cháy : là khả năng gây ra thiệt hại hư hỏng hoặc mất mát tài sản do cháy. Bao gồm : cháy do sét đánh, do lỗi bất cẩn của con người trong sinh hoạt, cháy do chập điện…
Đơn vị rủi ro : Là nhóm tài sản tách biệt khỏi nhóm tài sản khác với khoảng cách không cho phép lửa từ nhóm này lan sang nhóm khác ( khoảng cách tối thiểu ) . Đơn vị rủi ro còn có thể là một hay một số ngôi nhà, bộ phận của nhà hoặc kho tàng ngoài trời liền nhau nhưng cách biệt với các ngôi nhà hoặc kho tàng khác về không gian hoặc cấu trúc.
Đơn vị rủi ro được coi là tách biệt về mặt không gian khi khoảng cách giữa các ngôi nhà hoặc kho ngoài trời bằng vật liệu không cháy đảm bảo tối thiểu 10m. Đối với các kho ngoài trời bằng vật liệu không cháy khoảng cách đó phải đảm bảo 20m
Đơn vị rủi ro được coi là tách biệt về mặt cấu trúc nếu các ngôi nhà, bộ phận nhà hoặc kho được ngăn cách bằng tường ngăn cháy.
Tường ngăn cháy : là tường ngăn để chia ngôi nhà hoặc kho ngoài trời thành nhiều đơn vị rủi ro. Tường ngăn cháy có các đặc điểm sau đây:
- Tường ngăn cháy phải có giới hạn chịu lửa ít nhất 90 phút.
- Tường ngăn cháy phải được xây kín ở hết các tầng và so le nhau
- Nếu mái nhà là loại khó cháy thì tường ngăn cháy phải được xây kín tới tận mái. Nếu mái nhà là loại dễ cháy thì phải được xây vượt quá mái nhà ít nhất 30cm
- Nếu có các cấu kiện khác nằm trong tường ngăn cháy thì phần độ dày còn lại vẫn phải đảm bảo giới hạn chịu lửa tối thiểu
- Không được để vật liệu hoặc cấu kiện xây dựng dễ cháy vắt ngang qua tường ngăn cháy.
- Tường ngăn cháy phải xây cách lỗ hở trên mái ít nhất 5cm
g. Tổn thất : là sự hư hỏng mất mát thiệt hại một đối tượng nào đó ngoài ý muốn của chủ sở hữu do cháy
2. Đối tượng của bảo hiểm cháy
Đối tượng của bảo hiểm cháy bao gồm những bất động sản, động sản ( trừ các phương tiện giao thông, cây trồng vât nuôi và các loại tài sản đang trong giai đoạn sản xuất kinh doanh dở dang thuộc loại hình bảo hiểm khác), TNDS và thiệt hại gián tiếp
-Tài sản
+ Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa vào sử dụng ( trừ đất đai)
+ Sản phẩm, vật tư, hàng hóa dự trữ trong kho…
+ Trang thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh
+ Nguyên vật liệu, sản phẩm dở
+ Các loại tài sản khác
-Trách nhiệm dân sự (TNDS) : trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người khác. Nhà bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm cho tất cả các loại hình trách nhiệm phát sinh từ vụ hỏa hoạn và các rủi ro khác như:
+ TNDS của chủ nhà đối với người thuê nhà
+ TNDS của người thuê đối với chủ nhà
+ TNDS phát sinh đối với hàng xóm
-Thiệt hại gián tiếp : Nhà bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm cho các loại thiệt hại gián tiếp nảy sinh từ vụ hỏa hoạn đã gây thiệt hại trực tiếp cho các tài sản đã được bảo hiểm, bao gồm
+ Thiệt hại sử dụng
+ Thiệt hại tiền thuê
+ Thiệt hại kinh doanh
3.Phạm vi bảo hiểm
a. Rủi ro có thể được bảo hiểm
(A) Hỏa hoạn
* Rủi ro hỏa hoạn : Nhà bảo hiểm sẽ bảo hiểm cho những rủi ro hỏa hoạn do bất kỳ nguyên nhân nào gây ra nhưng phải đảm bảo các điều kiện về cháy
- Có nguồn phát cháy thực sự
- Đám lửa đó phải bất ngờ ngẫu nhiên đối với người được bảo hiểm
- Bắt buộc phải có vật cháy
Ngoài ra, những thiệt hại sau cũng được bồi thường
- Thiệt hại do nước chữa cháy
- Thiệt hại do phá dỡ để ngăn chặn cháy lan
- Thiệt hại do khói mà nguồn lửa gây ra thuộc trách nhiệm bảo hiểm
- Thiệt hại mà người được bảo hiểm phải gánh chịu do việc bảo vệ tài sản và kiểm soát sự phát triển của ngọn lửa
Tuy nhiên,lại loại trừ những thiệt hại do
- Động đất, núi lửa phun hoặc bất kỳ biến động nào của thiên nhiên
- Thiệt hại do tài sản tự lên men hoặc tỏa nhiệt hoặc quá chịu tác động của quá trình xử lý nhiệt
- Bất kì thiệt hại nào gây nên bởi hoặc do hậu quả của việc đốt rừng, bụi cây, đồng cỏ, hoang mạc, rừng nhiệt đới, hoặc đốt cháy với mục đích làm sạch đồng ruộng, đất đai, dù là ngẫu nhiên hay không.
* Rủi ro sét đánh : Người bảo hiểm chỉ bồi thường cho những tài sản bị phá hủy trực tiếp do sét hoặc do sét đánh gây cháy
* Rủi ro nổ : Nổ trong rủi ro cơ bản chỉ giới hạn ở các trường hợp cháy phát sinh từ nổ nồi hơi, hơi đốt sử dụng cho mục đích sinh hoạt.
( B ): Nếu nổ dẫn đến hỏa hoạn thì được coi là rủi ro hỏa hoạn do nổ gây ra. Nếu hỏa hoạn mà gây ra nổ thì những tài sản nằm trong không gian bị hỏa hoạn thì được bảo hiểm, còn lại những tài sản không nằm trong khu vực hỏa hoạn nhưng do nổ gây ra thì không được bảo hiểm
Loại trừ các trường hợp sau :
+ Nổ các bình chịu áp suất hơi nước của người được bảo hiểm
+ Thiệt hại phá hủy đối với nồi hơi hoặc máy móc thiết bị và các chất bên trong do nổ các chất liệu đó.
+ Thiệt hại gây nên bởi hoặc do hậu quả trực tiếp hay gián tiếp của những hành động khủng bố.
(C) Máy bay hoặc các phương tiện trên không khác hoặc các thiết bị trên các phương tiện đó rơi vào
(D) Gây rối, đình công, bãi công, sa thải
Những thiệt hại gây nên trực tiếp bởi :
+ Hành động của bất kì người nào cùng với những người khác tham gia vào việc làm mất trật tự xã hội ( dù có liên quan đến đình công, bãi công, hay sa thải hay không )
+ Hành động của bất kì chính quyền hợp pháp nào trong việc trấn áp hành động gây rối hoặc trong việc hạn chế hậu quả của những hành động gây rối đó.
+ Hành động cố ý của bất kì người bãi công hay bị sa thải nào nhằm ủng hộ bãi công hoặc chống sa thải
+ Hành động của bất kì chính quyền hợp pháp nào nhằm ngăn chặn hoặc cố gắng ngăn chặn những hành động như vậy hay hạn chế hậu quả của những hành động đó.
Nhưng loại trừ :
Những thiệt hại gây nên bởi hoặc do hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp của :
+ Phong trào quần chúng có quy mô hoặc có thể phát triển thành một cuộc khởi nghĩa quần chúng.
+ Hành động ác ý của bất kì người nào ( dù cho hành động đó có được thực hiện trong việc gây mất trật tự hay không ) khác với hành động cố ý của người tham gia bãi công hoặc của công nhân bị sa thải nhằm ủng hộ bãi công hoặc chống lại việc sa thải
(2)
+ Tổn thất do mất thu nhập, do chậm trễ, do mất thị trường hay bất kì tổn thất nào mang tính chất hậu quả hay mang tính chất gián tiếp dưới bất kì phương tiện và hình thức nào
+ Thiệt hại do ngừng toàn bộ hay một phần công việc của người được bảo hiểm hoặc do chậm trễ, bị gián đoạn hay ngừng bất kì một quy trình hoạt động nào
+ Thiệt hại do người được bảo hiểm bị tước quyền sở hữu vĩnh viễn hay tạm thời do tài sản bị tịch biênm tịch thu, trưng dụng, phá hủy theo lệnh của nhà cầm quyền hợp pháp.
(E) Hành động ác ý : thiệt hại xảy ra đối với tài sản được bảo hiểm mà nguyên nhân trực tiếp là hành động ác ý của bất kỳ người nào mà ( dù hành động này có xảy trong quá trình gây rối trật tự xã hội hay không ) nhưng loại trừ những thiệt hại do trộm cắp hoặ cố gắng thực hiện hành đồng trộm cắp.
(F) Động đất, núi lửa phun bao gồm cả lụt và nước biển tràn do hậu quả của động đất và núi lửa phun
(G) Giông bão nhưng loại trừ :
+ Thiệt hại gây ra do nước tràn từ các ngồn nước tự nhiên hay nhân tạo, các kênh, hồ, đập,các bể chứa nước, thiết bị chứa nước hay đường ống dẫn hay nước tràn từ biển dù la do bão hay các nguyên nhân nào khác gây ra.
+ Thiệt hại gây ra do sương muối hay sụt lở đất.
+ Thiệt hại xảy ra đối với bạt che nắng, bình phong, biển quảng cáo, các trang thiết bị lắp đặt phía ngoài, hàng rào, cổng ngõ và các động sản để ngoài trời
+ Thiệt hại xảy ra đối với công trình đang trong giai đoạnh xây dựng cải tạo hay sửa chữa, trừ khi tất cả cửa ra vào, cửa sổ, các ô mở khác đã được hoàn thành và bảo vệ chống giông bão.
+ Thiệt hại do nước hoặc mưa, ngoại trừ nước và mưa tràn vào các công trình thông qua các cửa và ô trống khác do tác động trực tiếp của giông bão
(H) Xe cộ hay súc vật không thuộc quyền sở hữu, kiểm soát của người được bảo hiểm ay nhân viên họ đâm vào.
b. Rủi ro loại trừ
* Những thiệt hại gây ra do
+ Gây rối, quần chúng nổi dậy, bãi công, sa thải công nhân trừ khi trường hợp rủi ro được ghi nhận là được bảo hiểm trong giấy chứng nhận bảo hiểm nhưng trong phạm vi bảo hiểm đã được quy định tại rủi ro đó.
+ Chiến tranh, xâm lược, hành động thù địch, hành động khiêu khích quân sự của nước ngoài, nội chiến.
+ Binh biến, dấy binh, bạo loạn, khởi nghĩa, cách mạng, bạo động, đảo chính, thiết quân luật,phong tỏa, giới nghiêm hoặc những biến cố và nguyên nhân dẫn đến việc tuyên bố và duy trì tình trạng khẩn cấp hoặc giới nghiêm, tịch thu, trưng dụng, trưng thu, quốc hữu hóa, phá hoại và hành động khủng bố do một nhóm hành động đại diện cho hoặc có liên quan đến một tổ chức
* Thiệt hại xảy ra đối với bất kì tài sản nào, hoặc bất kì tổn thất hoặc chi phí nào bắt nguồn từ hoặc phát sinh thiệt hại đó hoặc bất kì tổn thất có tính chất hậu quả nào, trực tiếp hoặc gián tiếp gây nên bởi hoặc phát sinh từ :
+ Nguyên liệu vũ khí hạt nhân
+ Phóng xạ ion hóa hay nhiễm phóng xạ từ nhiên liệu hạt nhân hoặc từ chất thải hạt nhân do đốt cháy nhiên liệu hạt nhân
+ Sử dụng cố ý hoặc không cố ý tên lửa hoặc bất kỳ loại vũ khí chiến tranh nào
* Những thiệt hại xảy ra đối với bất kì máy móc, khí cụ điện hay bất kì bộ phận nào của thiết bị do chạy quá tải, quá áp lực, đoản mạch, tự đốt nóng, rò điện hay bất kì nguyên nhân nào
* Những thiệt hại gây ra do ô nhiễm, nhiễm bẩn nhưng ngoại trừ :
+ Ô nhiễm, nhiễm bẩn phát sinh từ những rủi ro được bảo hiểm
+ Bất kì rủi ro nào được bảo hiểm phát sinh từ ô nhiễm hay nhiễm bẩn
* Hàng hóa nhận ủy thác hay nhận bảo quản, vàng bạc, đá quý, tiền, séc, thư bảo lãnh, tín phiếu, tem, tài liệu, bản thảo, sổ sách kinh doanh, hệ thống dữ liệu máy tính, hàng mẫu, vật mẫu, quần áo mẫu, tượng,sơ đồ, bản vẽ hay tài liệu thiết kế, chất nổ
4. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
a.Giá trị bảo hiểm
Cơ sở để xá định số tiền bảo hiểm là giá trị bảo hiểm ( giá trị của tài sản được bảo hiểm ) .Giá trị của tài sản được bảo hiểm trong bảo hiểm cháy thường có giá trị rất lớn như nhà cửa, công trình kiến trúc, máy móc thiết bị…
Trong bảo hiểm cháy giá trị bảo hiểm của tài sản được bảo hiểm được xác định như sau :
- Giá trị bảo hiểm nhà cửa, công trình kiến trúc… được xác định theo giá trị mới hoặc._. theo giá trị còn lại ( sau khi đã khấu hao ) hay được xác định trên chi phí nguyên vật liệu và xây lắp
- Giá trị bảo hiểm của máy móc thiết bị và các loại tài sản cố đinhk khác được xác định trên cơ sở giá trị mua mới ( bao gồm cả chi phí vận chuyển lắp đặt ) hoặc giá trị còn lại ( giá trị mới đã khấu hao nhỏ hơn 70% giá trị mới của tài sản được bảo hiểm )
- Giá trị bảo hiểm của thành phẩm, vật tư trong kho, trên dây chuyền sản xuất, trong cửa hàng, trong văn phòng, có mặt trong thời điểm bảo hiểm hoặc hàng giá mua cộng với chi phí vận chuyển (nếu có)
b. Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là khoản tiền nhất định ghi trong đơn hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm để xác định giới hạn trách nhiệm của người được bảo hiểm trong quá trình bồi thường.
Số tiền bảo hiểm là giới hạn bồi thường tối đa của người bảo hiểm trong trường hợp tài sản được bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ. Số tiền bảo hiểm do người bảo hiểm và người được bảo hiểm thỏa thuận và ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm, số tiền này không vượt quá giá trị bảo hiểm
Trong bảo hiểm cháy, nhà bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm bộ phận mà chỉ có thể chấp nhận bảo hiểm dưới giá trị ( Bảo Việt chấp nhận bảo hiểm bằng 50% giá trị bảo hiểm) . Khi người tham gia bảo hiểm muốn mua bảo hiểm tài sản với số tiền bảo hiểm thấp hơn giá trị bảo hiểm ( bảo hiểm dưới giá trị ) thì phải ghi rõ trong đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm là số tiền bảo hiểm bằng bao nhiêu phần trăm giá trị bảo hiểm nhưng không thấp hơn một tỷ lệ nhất định. Tỷ lệ này là căn cứ để xét bồi thường
Trong mọi trường hợp, số tiền bồi thường của nhà bảo hiểm không vượt quá giá trị bảo hiểm. Nếu nhà bảo hiểm bồi thường nhiều lần ( nhiều vụ tổn thất khác nhau) đối với cùng một tài sản thì tổng số tiền bảo hiểm trong các vụi tổn thất cũng không lớn hơn số tiền bảo hiểm trong cùng thời hạn của hợp đồng bảo hiểm. Sau mỗi lần bồi thường, số tiền bảo hiểm lại giảm đi một lượng bằng với số tiền bồi thường đã trả. Muốn khôi phục lại số tiền bồi thường như cũ thì người được bảo hiểm phải nộp thêm một khoản phí bổ sung tương ứng số tiền bồi thường tăng thêm và tỷ lệ với khoảng thời gian còn lại hợp đồng bảo hiểm.
5. Phí bảo hiểm
a. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà người tham gia bảo hiểm phải trả cho nhà bảo hiểm để nhận được sự đảm bảo trước các rủi ro được nhà bảo hiểm chấp nhận. Phí bảo hiểm chính là giá cả của dịch vụ bảo hiểm. Chính vì vậy, tính toán mức phí vừa phù hợp với khả năng của khách hàng vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh có hiệu quả là vấn đề quan trọng đối với nhà bảo hiểm trong giai đoạn hiện nay.
Phí bảo hiểm gồm 2 phần : phí thuần và phụ phí
Phí thuần chính là phí cơ bản và là cơ sở để hình thành nên quỹ bồi thường cho phép nhà bảo hiểm thực hiện việc chi trả bồi thường đối với những trách nhiệm phát sinh từ những hợp đồng kí kết. Mức phí thuần được xác định dựa vào xác suất rủi ro, xác suất này được tính :
X=t/T
Trong đó :
X : Xác suất rủi ro
T : tổng số đơn vị rui ro tham gia bảo hiểm
T : số đơn vị rủi ro gặp hỏa hoạn
Mức phí thuần được tính như sau
f= X*Sbt
Trong đó :
f : mức phí thuần
X : xác suất rủi ro
Sbt : số tiền bồi thường bình quân mỗi vụi tổn thất
Phụ phí : là khoản phí thu cho phép nhà bảo hiểm đảm bảo các chi phí cần thiết trong hoạt động nghiệp vụ
b. Phương pháp xác định phí bảo hiểm
Đối với nhà bảo hiểm, vấn đề định phí bảo hiểm bao giờ cũng là vấn đề quan trọng nhất trong quá trình triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm. Thông thường trong bảo hiểm cháy việc định phí được tiến hành theo các bước sau:
Xác định tỷ lệ phí cơ bản, tỷ lệ phí này được quy định cho từng đối tượng bảo hiểm theo ngành nghề kinh doanh.
Điều chỉnh mức phí theo từng yếu tố làm tăng giảm phí
c. Các nhân tố ảnh hưởng đến mức phí bảo hiểm cháy
Trong bảo hiểm cháy, để xác định được mức phí phù hợp, nhà bảo hiểm phải quan tâm đến các yếu tố thường xuyên ảnh hưởng đến việc định phí bảo hiểm cháy
Các yếu tố đó là :
Ngành nghề kinh doanh chính của người được bảo hiểm khi sử dụng tài sản được bảo hiểm vào kinh doanh
Vật liệu xây dựng : tùy theo các yếu tố kết cấu, vật liệu xây dựng có thể chịu được lâu dài hay không đối với sức nóng
Vị trí địa lý của tài sản được bảo hiểm : chẳng hạn tài sản nằm xa hay gần trạm cứu hỏa, vùng địa lý chịu ảnh hưởng của động đất, lũ lụt… có ảnh hưởng tới việc định phí bảo hiểm cháy.
Độ bền của nhà xưởng, vật kiến trúc ( khung nhà, tường nhà, sàn, nóc và mái nhà )
Yếu tố sử dụng điện trong khu vực có tài sản được bảo hiểm
Trang thiết bị PCCC, nếu công tác PCCC được đảm bảo, trang thiết bị PCCC tốt …. Hạn chết tới mức thấp nhất rủi ro xảy ra thì phí sẽ được tính thấp hơn.
d. Các nhân tố làm tăng (giảm) phí bảo hiểm
Các nhân tố làm tăng phí : Khi đối tượng bảo hiểm có các công trìnhphuj trợ dễ cháy như dây chuyền sản xuất sơn, gỗ hay chứa các thiết bị dễ cháy, tỏa nhiệt, phát nhiệt hay các trung tâm máy tính không có tường ngăn chống lửa, không có trang thiết bị PCCC cần thiết…
Các nhân tố làm giảm phí :
+ Khi công trình được bảo hiểm có các thiết bị báo cháy tự động, nối liền với trạm cứu hỏa công cộng, với đội PCCC của doanh nghiệp
+ Mức miễn thường : Mức miễn thường bắt buộc trong bảo hiểm cháy là 0,2 % số tiền bảo hiểm nhưng không thấp hơn 100 $ và không cao hơn 2000$ cho mỗi vụ tổn thất. Nếu người tham gia bảo hiểm với mức miễn thường cao hơn sẽ được công ty bảo hiểm giảm phí
+ Số liệu thống kê về tổn thất : Nếu người tham gia bảo hiểm trong nhiều năm cho cùng một đối tượng bảo hiểm mà không có tổn thất xảy ra hoặc tổn thất nhỏ sẽ được công ty bảo hiểm giảm phí.
6 – Giám định và bồi thường tổn thất.
a. Công tác giám định : Công tác giám định tổn thất là tiền đề cho công tác bồi thường. Khi tổn thất xảy ra người tham gia bảo hiểm phải kịp thời thông báo cho công ty bảo hiểm bằng văn bản, điện thoại, điện tín, fax… Việc thông báo phải đảm bảo những nội dung sau:
- Thời điểm xảy ra tổn thất
- Đối tượng thiệt hại
- Dự đoán nguyên nhân của tổn thất
Ngay sau khi nhận được thông báo thiệt hại xảy ra, công ty bảo hiểm phải cử nhân viên có trách nhiệm và chuyên môn tới để giám định hiện trường. Và khi tiến hành giám định còn có cả các bên liên quan như công an, kiểm toán, thuế, chính quyền sở tại và các cơ quan chức năng khác, cùng tham gia kiểm tra hiện trường, kiến nghị cách xử lý. Các giám định viên phải nắm vững nguyên nhân cũng như tang vật của vụ cháy, họ có trách nhiệm thu thập tang chứng cũng như lời khai của các nhân chứng để nắm rõ hơn về nguyên nhân gây ra vụ cháy.Và sau khi đã tiến hành giám định, hướng dẫn thu gom hiện trường, di chuyển tài sản hư hỏng, công ty thống nhất phương án làm việc. Nếu phát sinh thiệt hại liên quan đến bên thứ 3, người tham gia bảo hiểm phải cung cấp những thông tin cần thiết để giúp công ty bảo hiểm truy đòi bên thứ 3.
b. Công tác bồi thường
Bồi thường là trách nhiệm chủ yếu của nhà bảo hiểm khi rủi ro được bảo hiểm xảy ra. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm cháy, công ty bảo hiểm căn cứ vào biên bản giám định, xét bồi thường theo một trong 2 cách sau:
Cách 1 : Bồi thường theo nguyên tắc tỷ lệ số tiền bảo hiểm
Theo cách này thì có thể phòng tránh những phiền toái cho nhà bảo hiểm khi người tham gia bảo hiểm khiếu nại hoặc có ý định trục lợi bảo hiểm. Quá trình của phương pháp này được thực hiện như sau :
- Nếu số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị thực tế của tài sản được bảo hiểm, thì tại thời điểm xảy ra tổn thất số tiền bồi thường sẽ là :…………………………………………………………….
Trong trường hợp số tiền bảo hiểm bằng giá trị bảo hiểm của tài sản tại thời điểm xảy ra tổn thất thì số tiền bồi thường ngang bằng giá trị thiệt hại.
Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất, giá trị thực tế của tài sản giao dịch trên thị trường lớn hơn giá trị của tài sản khi tham gia bảo hiểm, số tiền bồi thường lúc này sẽ là………………………………….
Nếu tại thời điểm tài sản bị hư hỏng trong khi lại được bảo hiểm mà tài sản đó được bảo hiểm bằng một hợp đồng bảo hiểm khác thì trách nhiệm của người bảo hiểm trong bất kì trường hợp nào cũng chỉ chịu trách nhiệm giới hạn tổn thất phân bổ cho hợp đồng bảo hiểm mà mình bảo hiểm theo một tỷ lệ như sau……………………………………..
Cách 2 Bồi thường theo quy tắc tỷ lệ phí
Trong một số trường hợp người tham gia bảo hiểm không nộp đủ mức phí mà công ty bảo hiểm ấn định thì khi tổn thất xảy ra, số tiền bồi thường được tính theo cách như sau :……………………………
III – Đánh giá và quản lý rủi ro trong bảo hiểm cháy
Sự cần thiết khách quan phải quản trị rủi ro trong bảo hiểm cháy
Hoả hoạn là một dạng rủi ro mang tính hậu quả và thường để lại những hậu quả nặng nề về người và tài sản. Từ trước đến nay đã có nhiều biện pháp hạn chế và ngăn chặn rủi ro và hoả hoạn nhưng hình thức phổ biến và hữu hiệu nhất cho đến nay vẫn là phòng cháy chữa cháy và bảo hiểm cháy.
Trong bảo hiểm, người tham gia không mong muốn rủi ro xảy ra với mình và công ty bảo hiểm cũng không muốn mình phải bồi thường nhiều hơn so với mức phí thu được, vì vậy cần có những biện pháp giảm thiểu và ngăn chặn những rủi ro, đặc biệt là rủi ro hoả hoạn. Do đó để hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm cháy, một nhiệm vụ không thể thiếu là quản trị rủi ro để không những giúp công ty nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình mà nó còn giúp hạn chế được thiệt hại đối với xã hội nói chung và nguời tham gia nói riêng.
Công việc đầu tiên khi tiếp nhận một hợp đồng bảo hiểm là công ty bảo hiểm cần phải tiến hành đánh giá rủi ro của đối tượng được bảo hiểm để tìm các biện pháp nhằm quản trị rủi ro. Đây là khâu rất quan trọng bởi vì quản trị rủi ro là hoạt động nhằm nhận dạng, đánh giá và đo lường các rủi ro ảnh hưởng đến cá nhân tổ chức, tài sản và đồng thời đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế tổn thát có thể xảy ra cho người tham gia bảo hiểm. Bên cạnh đó chính công việc này sẽ giúp cho công ty bảo hiểm ngăn ngừa sự trục lợi của người mua bảo hiểm. Ngoài ra nó còn là cơ sở pháp lý để giải quyết khiếu nại đảm bảo tính công bằng cho người tham gia bảo hiểm và những người được quyền lợi bảo hiểm. Hơn nữa, công tác đánh giá và quản trị rủi ro còn tránh được trùng lặp trong nghiệp vụ. Sau đó giai đoạn phân loại rủi ro sẽ được tiến hành để có những biện pháp phù hợp cho từng loại rủi ro ở các mức độ khác nhau nhằm đạt kết quả cao nhất.
Cũng giống như các ngành nghề kinh doanh khác, hiện nay thị trường kinh doanh bảo hiểm đang cạnh tranh gay gắt với hàng trăm công ty bảo hiểm trong nước và quốc tế với nhiều hình thức được đưa ra nhằm thu hút khách hàng như: mức phí thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh, trả hoa hồng cao hơn hay chào mời sản phẩm với dịch vụ khách hàng tốt hơn. Bởi vì bảo hiểm cháy là một loại hình bảo hiểm tài sản và việc tính phí rất phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong khi đó mỗi doanh nghiệp, cá nhân đều có thể gặp phải những loại rủi ro khác nhau với mức độ khác nhau. Bên cạnh đó mức phí bảo hiểm là yếu tố quyết định trong việc bán các sản phẩm bảo hiểm nên các doanh nghiệp này sẽ hạ mức phí xuống mức thấp nhất có thể để chiếm lĩnh thị trường và thu lợi nhuận.
Thực hiện công tác quản trị rủi ro sẽ giúp công ty kinh doanh bảo hiểm xác định, đo lường rủi ro từ đó sử dụng các biện pháp thích hợp để hạn chế và phòng ngừa tổn thất ở mức thấp nhất, để giảm chi phí bồi thường và tăng lợi nhuận - đây là mục tiêu kinh doanh của công ty. Nếu thực hiện công tác quản trị rủi ro tốt thì không những giảm được các rủi ro về đạo đức mà còn hạn chế tối đa các khiếu nại bảo hiểm từ đó tạo lòng tin vững chắc từ phía khách hàng đối với công ty bảo hiểm.
Quản trị rủi ro không chỉ được thực hiện trong các doanh nghiệp bảo hiểm mà các doanh nghiệp tham gia bảo hiểm cũng phải tiến hành công tác này. Vì quản trị rủi ro sẽ giúp cho các doanh nghiệp hạn chế thấp nhất các tổn thất không đáng có, làm giảm sự dao động lợi nhuận hàng năm, duy trì được khả năng tồn tại thông qua công tác đề phòng hạn chế tổn thất do doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm cung cấp góp phần là phát triển doanh nghiệp và nền kinh tế xã hội
Khi nền kinh tế phát triển càng cao thì công tác quản trị rủi ro càng trở lên thiết thực và quan trọng đối với các công ty bảo hiểm. Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng: Công tác quản trị rủi ro là nhiệm vụ hàng đầu của công ty bảo hiểm nói chung và trong nghiệp vụ bảo hiểm cháy nói riêng
2. Công tác quản trị rủi ro trong bảo hiểm hoả hoạn
2.1. Nhận dạng rủi ro
Nhận dạng rủi ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các rủi ro và bất định của một tổ chức. Các hoạt động nhận dạng nhằm phát triển thồng tin về nguồn rủi ro các yếu tố mạo hiểm, hiểm hoạ và nguy cơ rủi ro.
a) Các nguồn rủi ro
Rủi ro có thể phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau như sau:
(1) Môi trường vật chất:
Các tác động của con người đối với môi trường mà chúng ta sống và ngược lại cùng với sự bất lực của con người trong việc hiểu biết nó là nguyên nhân chủ yếu của nguồn rủi ro này. Các rủi ro phát sinh từ môi trường vật chất mang tính tự nhiên, bất ngờ. Ví dụ: Tai nạn, cháy nổ…
(2) Môi trường xã hội:
Những sự thay đổi về những nhận thức xã hội hay trong các chuẩn mực giá trị hành vi của con người cấu trúc xã hội, các định chế…sẽ là những tác nhân gây ra rủi ro trong môi trường này.
(3) Môi trường chính trị:
Trong thể chế của một đất nước với nền tảng chính trị, kinh tế văn hóa xá hội và các chính sác vĩ mô khác nhau thì các doanh nghiệp hoạt động đều phải chịu ảnh hưởng nhất định tại. Ở các quốc gia khác nhau sẽ gặp phải những rủi ro là khác nhau.
(4) Môi trường hoạt động:
Trong quá trình hoạt động của tổ chức có thể làm phát sinh các rủi ro và bất định… Về khía cạnh rủi ro suy đoán thì môi trường hoạt động cuối cùng sẽ đưa ra một sản phẩm hay dịch vụ mà từ đó tổ chức sẽ thành công hay thất bại.
(5) Môi trường kinh tế:
Trong một môi trường hội nhập của các nền kinh tế khác nhác đã tạo ta một sân chơi chungDo sự phát triển rộng lớn của thị trường toàn cầu đã tạo ra một môi trường kinh tế chung cho tất cả các nước. Loại rủi ro mà các tổ chức thường gặp phải là rủi ro thuần tuý và suy đoán.
(6) Vấn đề nhận thức:
Môi trường nhận thức là nguồn rủi ro đầy thách thức trong việc nhận diện và phân tích các rủi ro vì đối với hầu hết các tổ chức thì sự nhận thức và thực tế hoàn toàn khác nhau vì khả năng của một nhà quản trị rủi ro trong việc tìm hiểu, xem xét, đo lường, đánh giá chưa phải là hoàn hảo.
Việc xác định được các nguyên nhân có thể dẫn đến rủi ro là rất quan trọng trong khi đánh giá rủi ro. Vì từ đó ta có thể xác định được các loại rủi ro gặp phải, các nguy hiểm nảy sinh trong các nguồn đó. Vì vậy một khía cạnh quan trọng nữa của nhận dạng rủi ro là xác định nguy cơ rủi ro đối với bảo hiểm cháy.
b) Nguy cơ rủi ro đối với bảo hiểm cháy
Nguy cơ rủi ro là khả năng được hay mất đối với tài sản vật chất hay tài sản vô hình (danh tiếng, thương hiệu, quyền tác giả) và do các hiểm họa hoặc rủi ro gây ra
Bản chất bảo hiểm cháy là một loại hình bảo hiểm tài sản, vì vậy nó thường được xem xét dựa trên các nguy cơ rủi ro chủ yếu sau đây:
- Rủi ro về bản thân tài sản: đó là những rủi ro thông thường có liên quan trực tiếp đến bản thân tài sản, nó phụ thuộc vào đặc điểm của từng loại tài sản.
- Rủi ro môi trường: Mỗi môi trường hoạt động của doanh nghiệp có thể tạo ra những rủi ro khác nhau. VD: các doanh nghiệp sản xuất gang thép, nung đốt vật liệu… thì rủi ro cháy cao hơn so với các doanh nghiệp khác.
- Rủi ro đạo đức: đây là rủi ro xuất phát từ bản thân người tham gia bảo hiểm. Đạo đức là thái độ của người tham gia bảo hiểm trong việc kê khai các loại tài sản, giá trị tài sản và các thông tin liên quan đến định phí bảo hiểm. Vì vậy khi chấp nhận bảo hiểm người khai thác viên cần xem xét kỹ khía cạnh này khi đánh giá rủi ro. Để khống chế rủi ro đạo đức thông thường trong một đơn bảo hiểm thường có những giới hạn sau:
+ Giới hạn về số tiền bảo hiểm: Số tiền bảo hiểm được xác định theo giá trị của tài sản bảo hiểm. Mức độ giới hạn này tuỳ thuộc và công cty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm.
+ Giới hạn thời hạn bảo hiểm: Thông thường chỉ bảo hiểm trong thời gian ngắn ( thường là một năm), sau đó nếu người tham gia bảo hiểm tiếp thì ký hợp đồng tái tục.
+ Đưa ra mức miễn thường: Để tăng tính trách nhiệm của người tham giá bảo hiểm trong việc đề phòng hạn chế tổn thất và để tránh những tổn thất xảy ra với giá trị nhỏ.
+ Giới hạn về phạm vi bảo hiểm.
c, Các phương pháp nhận dạng rủi ro.
Nhận dạng rủi ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các rủi ro và bất định của một tổ chức. Các hoạt động nhận dạng rủi ro nhằm phát triển thông tin về nguồn rủi ro, các yếu tố mạo hiểm, hiểm hoạ và nguy cơ rủi ro. vì rủi ro luôn ở dạng tiểm ẩn nên cần có các phương pháp nhận dạng rủi ro, bao gồm:
(1) Bảng liệt kê:
Là phương pháp mà các công ty kinh doanh bảo hiểm thường xuyên sử dụng để xác định các rủi ro tiềm năng. Bảng liệt kê được thiết lập bằng các hình thức khác nhau, có thể là bản câu hỏi điều tra hoặc báo cáo chi tiết và cũng có thể là biên bản kiểm tra hiện trường. Trong bảng liệt kê phải có đầy đủ các thông tin về rủi ro và xác định các nguồn rủi ro có thể xảy ra đối với một doanh nghiệp trong đối với từng đối tượng: con người, tài sản.
(2) Lập bảng câu hỏi điều tra.
Bảng câu hỏi điều tra là bảng câu hỏi mà trong đó người đánh giá rủi ro đưa ra các câu hỏi đối với người tham gia bảo hiểm để khai thác các thông tin về người tham gia bảo hiểm từ đó quyết định có chấp nhận tham gia bảo hiểm này không, nếu có thì theo mức nào.
Bảng câu hỏi điều tra thường được dùng cho khách hàng có cơ sở nhỏ, giá trị tài sản không lớn như nhà ở, văn phòng... Ngoài ra còn có các phiếu điều tra khác dùng cho khách hàng có các cơ sở lớn, phức tạp đòi hỏi phái chú ý đến công tác phòng cháy chữa cháy như: nhà máy, xí nghiệp, kho tàng... Đối với bảo hiểm cháy khi lập câu hỏi điều tra nhất thiết phải kém theo hồ sơ mặt bằng để trên cơ sở đó phân chia thành các đơn vị rủi ro, xác định rõ số tiền của mỗi đơn vị rủi ro được bảo hiểm
(3) Phân tích báo cáo, tài chính.
Bằng phương pháp này từng tài khoản sẽ được nghiên cứu để thực hiện kiểm soát các rủi ro tiềm năng có thể phát sinh. Kế quả nghiên cứu được báo cáo cho từng tài sản. Phương pháp này dựa trên số liệu có sẵn có thể trình bày một cách rõ ràng và ngắn gọn nên đáng được tin cậy, khách quan và có thể được dùng cho cả quản trị rủi ro và cho các nhà tư vấn doanh nghiệp. Ngoài việc nhận dạng rủi ro, phương pháp này cũng có ích cho việc đo lường và định ra các cách quản lý tốt nhất cho các nguy cơ rủi ro.
(4) Phương pháp lưu đồ.
Các nhà quản trị rủi ro sử dụng phương pháp này để xây dựng một dãy các lưu đồ để trình bày mọi hoạt động của một tổ chức nhằm phát hiện ra các rủi ro tiềm năng của tổ chức đó về người, tài sản, trách nhiệm pháp lý.
(5) Các phương pháp nhận dạng rủi ro khác.
- Thanh tra hiện trường: Là việc các nhà quản trị rủi ro cần làm bằng phương pháp quan sát các bộ phận của tổ chức và các hoạt động tiếp sau đó của nó, từ đó nhà quản trị rủi ro có thể phát hiện ra các rủi ro mà tổ chức có thể gặp.
- Nghiên cứu số liệu tổn thất trong quá khứ: Là tham khảo các hồ sơ nghiên cứu về tổn thất và phân tích chúng, các nhà quản trị rủi ro sẽ đánh giá các xu hướng của tổn thất mà tổ chức đó đã trải qua và so sánh cá nhân kinh nghiệm này với các tổ chức khác…từ đó tìm ra nguyên nhân của rủi ro đã xảy ra.
- Làm việc với các bộ phận chức năng trong tổ chức: Phương pháp này có thể thực hiện được thông qua màn phỏng vấn miệng hoặc yêu cầu các bộ phận chức năng báo cáo bằng văn bản.
- Xử lý các nguồn thông tin khác từ bên ngoài: Các nhà quản trị rủi ro cần trao đổi hợp tác cùng với những người có vai trong tổ chức để tìm hiểu xem những người này có nhận ra các rủi ro nào mà mình đã bỏ sót hoặc bản thân mình đã tạo ra những rui ro mới hay không.
Tóm lại hiện nay có rất nhiều các phương pháp nhận dạng rủi ro. Bản thân mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm riêng, nhất định, vì vậy các nhà quản trị cần kết hợp nhiều phương pháp bổ sung cho nhau trong từng trường hợp cụ thể để tìm thông tin về rủi ro một cách chính xác nhất.
2.2 Đo lường và đánh giá.
Công tác đo lường rủi ro được tiến hành ngay sau khi nhận dạng được các loại rủi ro mà doanh nghiệp đó có thể gặp phải. Đó là việc ước lượng hậu quả về tái chính có thể có khả năng xảy ra các hậu quả này. Để tránh những ảnh hưởng không tốt tới sự phân bổ nguồn lực cho quản trị và kiểm soát rủi ro thì công việc này sẽ phải được tiến hành
Những công tác cần làm trong đo lường rủi ro:
a, Đo lường tần số tổn thất.
Đo lường tần số tổn thất là việc đo lường khả năng (xác suất) của rủi ro xảy ra. Dùng một phương pháp ước lượng tần số tổn thất để quan sát xác suất một nguy hiểm sẽ gây ra tổn thất trong một năm. Mức độ chính xác của các ước lượng tần số tổn thất có thể bị phụ thuộc vào mối quan hệ giữa mối nguy hiểm và đối tượng chịu rủi ro. Và chất lượng thông tin có chính xác về bản chất của rủi ro đều phải dựa trên việc chọn lọc thông tin ban đầu một cách hợp lý, do đó việc bổ sung thêm thông tin sẽ làm cho ước lượng chính xác hơn.
b, Đo lưòng mức độ nghiêm trọng của tổn thất.
Mức độ nghiêm trọng của tổn thất được đo lường bằng hai đại lượng phổ biến là: Tổn thất lớn nhất có thể xảy ra và tổn thất lớn nhất có lẽ có.
Tổn thất lớn nhất có thể là giá trị thiệt hại lớn nhất có thể xả ra, có thể nhận thức được. Còn tổn thất lớn nhất có lẽ có là giá trị thiệt hại lớn nhất nhà quản trị tin rằng có thể xảy ra.
Alan Friedlander - nhà quản trị rủi ro đã đưa ra bốn đại lượng để đo mức độ nghiêm trọng của thiệt hại vật chất đối với nhà cửa bị hoả hoạn, là:
(1) Tổn thất thông thường: Là loại tổn thất trung bình khi cả hai hệ thống chữa cháy của công cộng và tư nhân đều hoạt động tốt.
(2) Tổn thất lớn nhất có lẽ có: Là loại tổn thất trung bình khi một bộ phận quan trọng trong hệ thống chữa cháy (ví dụ là hệ thốn phun nước tự động) không được bảo trì hay hoạt động không đạt hiệu quả.
(3) Tổn thất lớn có thể thấy trước: là loại tổn thất trung bình xảy do không có một hệ thống chữa cháy tự nhiên nào hoạt động. Trong trường hợp này lửa sẽ cháy cho đến khi nào bị chặn bởi các bức tường chịu lửa, hoặc tới nhiên liệu bị đốt hết, hay cho đến khi có sự tham gia của lực lượng chữa cháy
(4) Tổn thất có thể có: Là loại tổn thất trung bình xảy ra do cả hệ thống chữa cháy công cộng và tư nhân đều không hoạt động hoặc hoạt động không có hiệu quả.
Như vậy xác suất tổn thất xảy ra giảm dần khi đi từ "tổn thất thông thường" cho đến "tổn thất lớn nhất có thể có". Bốn giá trị này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cấu trúc xây dựng, thời gian có người làm việc, hệ thống phòng cháy của đơn vị, hệ thống phòng cháy công cộng.
c, Đánh giá tổn thất tiềm năng của tài sản
Công tác đánh giá tổng mức tổn thất tiềm năng là công việc còn lại của nhà quản trị rủi ro, được thực hiện sau khi nhận dạng được nguy cơ rủi ro đối với tổn thất của một tài sản của một tổ chức.
Đánh giá rủi ro nhằm mục tiêu để ước lượng hậu quả của sự hư hỏng tài sản đối với chủ sở hữu của tổ chức. Hầu hết các phương pháp đánh giá được sử dụng trong đánh giá rủi ro. Thông thường căn cứ vào chi phí thay thế hay chi phí sửa chữa ước tính. Ba phươg pháp thường được sử dụng trong đánh giá rủi ro: Giá trị thị trường (thị giá), chi phí thay thế và chi phí thay thế trừ đi giá trị khấu hao.
* Phương pháp định giá theo giá trị thị trường (thị giá)
Thị giá bất động sản hay động sản là giá trị của một tài sản mà một người mong muốn bán sẽ đồng ý bán và một người mong muốn mua sẽ trả tiền để mua tài sản đó trong một giao dịch vào ngày tài sản được định giá. Thị giá tài sản phụ thuộc vào cung - cầu về từng loại tài sản cụ thể tại một thời điểm. Thị giá của bất động sản không chỉ phục thuộc vào giá trị của nó còn phụ thuộc vào giá trị tổn thất vị trí có thể ảnh hưởng rất lớn đến thị giá và nó không phải là đối tượng bị các mối nguy hiểm phá hỏng (hoả hoạn).
* Phương pháp định giá theo chi phí thay thế mới.
Chi phí thay thế mới là chi phí mua tài sản mới có tính chất đặc trưng tượng tự như tài sản đã bị hư hỏng. Ví dụ: Một nhà quản tị rủi ro có thể xác định chi phí mới cho một ngôi nhà dựa trên các nhà khác với diện tích và khoảng không tương đương theo thiết kế mới nhất.
Ưu điểm của phương pháp này là ít bị ảnh hưởng bởi ý kiến chủ quan hơn một số phương pháp khác. Nhược điểm áp dụng phương pháp này sẽ xuất hiện khi chi phí mới tài sản lớn hơn thị giá tài sản hư hỏng.
* Phương pháp định giá theo giá trị còn lại.
Trong định giá tổn thất loại tài sản các nhà quản trị rủi ro thường định giá theo giá trị còn lại bởi vì ở tình trạng mới tài sản thường có giá trị lớn hơn so với tài sản cũ. Nhưng một tổ chức có quyền quyết định thay thế tổn thất không mong đợi. Vì vậy trong những năm gần đây phương pháp chi phí thay thế mới có nhiều ưu điểm và thuận tiện tương tự như phương pháp định giá tổn thất tài sản.
Các hợp đồng hiểm thông thường sử dụng chi phí thay thế trừ bớt hao mòn bảo hiểm tài sản nói chung và trong bảo hiểm cháy nói riêng. Nhưng nhược điểm chung của phương pháp định giá này đó là việc tính hao mòn hữu hình và lạc hậu kinh tế có phần khá chủ quan.
2.3 Lựa chọn rủi ro có thể bảo hiểm ( Quyết định bảo hiểm)
Công ty bảo hiểm sẽ nhận được giấy yêu cầu bảo hiểm và sử dụng các phương pháp để nhận dạng và đo lường đánh giá các rủi ro có thể xảy ra tại công ty yêu cầu bảo hiểm để từ đó các nhà đánh giá rủi ro sẽ đưa ra cá quyết định khác nhau, chấp nhận hoặc từ chối hợp đồng, nếu chấp nhận thì chấp nhận những bảo hiểm loại rủi ro nào, với mức phí là bao nhiêu, những loại rủi ro nào không đựơc bảo hiểm. Quá trình trên được gọi là lựa chọn rủi ro. Đối với bảo hiểm cháy các nghiệp vụ cũng tương tự như vậy. Dựa vào những rủi ro được bảo hiểm và những rủi ro loại trừ trong đơn bảo hiểm đã được định dạng, tiêu chuẩn và quá trình đánh giá rủi ro mà nhà quản trị lựa chọn những rủi ro cần phải bảo hiểm theo thoả thuận của hai bên: Người tham gia bảo hiểm vào công ty cung cấp dịch vụ bảo hiểm. Với khả năng xảy ra rủi ro là lớn thì mức phí mua bảo hiểm sẽ cao và ngược lại. Đối với những tài sản có khả năng rủi ro lớn, nếu người tham gia bảo hiểm chấp nhận một mức phí cao thì khi đó công ty bảo hiểm phải thực hiện tái bảo hiểm.
Việc lựa chọn rủi ro bảo hiểm là rất quan trọng đặc biệt là trong bảo hiểm cháy vì loại rủi ro này thường gây ra tổn thất lớn và có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của công ty bảo hiểm. Vì vậy cán bộ thực hiện phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt để có thể đưa ra các quyết định bảo hiểm chính xác nhất.
2.4.Ý nghĩa của công tác quản trị rủi ro trong bảo hiểm cháy.
Quản trị rủi ro là quá trình tối thiểu hoá tổn thất, tối đa hoá lợi nhuận thông qua các công cụ thích hợp trên cơ sở xác định các nguồn tổn thất đe doạ đến đời sống cá nhân và doanh nghiệp.
Công tác quản trị rủi ro đóng một vai trò lớn, không chỉ có ý nghĩa đối với công ty bảo hiểm mà còn rất quan trọng đối với người tham gia bảo hiểm vì việc đảm bảo sự an toàn cho tài sản và con người, giúp con người tránh khỏi sự nguy hiểm hay rắc rối do trách nhiệm pháp lý phát sinh trong cuộc sống và hoạt động sản xuất kinh doanh chính là kết quả của việc xây đựng được một chương trình quản trị rủi ro tốt. Hơn nữa, khi có một chương trình quản trị rủi ro hữu hiệu doanh nghiệp cũng sẽ có thể giảm các chi phí phát sinh góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mặt khác chức năng quản trị rủi ro còn có mối quan hệ mật tương tác lẫn nhau các chức năng khác của doanh nghiệp như: quản trị chiến lược, quản trị hoạt động. Đây là ba chức năng tồn tại cùng song hành và kết hợp với nhau giúp doanh nghiệp thực hiện để đạt được những mục tiêu của mình.
Nhiệm vụ của quản trị rủi ro bao gồm:
Nhận dạng rủi ro trong các tổ chức
Ngăn chặn và kiểm soát tổn thất trên cơ sở lựa chọn các công cụ quản trị rủi ro cho phù hợp.
Nghiên cứu các hợp đồng và tài liệu liên quan nhằm thực hiện nhiệm vụ quản trị rủi ro.
Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình an toàn trong lao động.
Thực hiện tốt các chương trình phúc lợi đối với người lao động theo quy định của nhà nước.
Xem xét giải quyết các khiếu lại và đàm phán với các đại diện pháp lý khi có hiện tượng tranh chấp xảy ra.
Mua bảo hiểm là nền tảng cơ sở của quản lý rủi ro. Việc mua bảo hiểm là yếu tố quan trọng của nhà quản lý ngay cả trong các tổ chức lớn với những tài sản có giá trị rất lớn như các tập đoàn kinh tế, tổng công ty...
Như vậy, so những nhiệm vụ khác, ta có thể thấy quản trị rủi ro có vài trò vô cùng quan trọng không chỉ đối với chủ tài sản mà còn có ý nghĩa to lớn đối với các công ty bảo hiểm. Tuy nhiên, quản trị rủi ro giữa hai chủ thể này là hoàn toàn khác nhau:
Công tác quản trị rủi ro đối với chủ sở hữu tài sản.
Công tác quản trị rủi ro có vai trò quan trọng đối với chủ hữu tài sản vì xây dựng một chương trình quản trị rủi ro sẽ giúp các công ty mua bảo hiểm duy trì khả năng tồn tại trước các nguy cơ rủi ro lớn, giảm chi phí phát sinh không cần thiết, đưa ra các quyết định kịp thời hơn và nếu không xảy ra rủi ro, đối mặt với tổn thất thì tài sản sẽ nhanh chóng được khắc phục và duy trì được quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó đây chính nguyên nhân khiến cho hầu hết các doanh nghiệp lớn trên thế giới đều tiến hành xây dựng chương trình quản trị rủi ro cho riêng họ.
Một chương trình quản lý rủi ro bao gồm các bước sau:
(1) Xác định mục tiêu của quản lý rủi ro: Lựa chọn và sắp xếp theo các thứ tự ưu tiên những mục tiêu của quản trị rủi ro căn cứ vào quy mô của doanh nghiệp, nguồn lực tài chính của doanh nghiệp cũng như các mục tiêu tăng trưởng thu nhập hay chi phí khác. Xác định những mục tiêu và chỉ tiêu về quản lý rủi ro này đóng một tầm quan trọng để tạo ra nền tảng cho tất cả những hoạt động quản trị rủi ro.
(2) Đánh giá rủi ro và bất định: Bao gồm các hoạt động liên quan đến nhau như sau:
- Nhận dạng rủi ro: là việc xác định các mối hiểm hoạ và những nguy cơ có thể xảy ra.
+ Những mối hiểm hoạ là những nhân tố làm ảnh hưởng đến hậu quả tổn thất, làm tăng hoặc giảm tổn thất khi hiểm hoạ xảy ra.
+ Mối nguy hiểm là các nguyên nhân gây ra tổn thất. Một nguy cơ mất mát là các đối tượng chịu hậu quả.
- Xem xét phân tích sự tác động lẫn nhau giữa các mối hiểm hoạ và nguy cơ rủi ro.
- Đo lường rủi ro: định lượng._. Nam.
Địa chỉ: 15 Lô 14 B Trung Yên, Trung Hoà, Hà Nội.
Điện thoại trụ sở chính 78311950: Fax: 7831953.
Đt và Fax tại số máy: 8772319.
Số ca làm việc : Tổ máy có 3 ca, các tổ khác làm theo giờ hành chính
Số nguời có mặt lúc đông nhất : 110 nguời
Quy mô các hạng mục công trình, kho bãi có chứa tài sản đuợc bảo hiểm
Tổng diện tích mặt bằng : 4500m2
Đối tượng bảo hiểm : Địa điểm đuợc bảo hiểm
Nhà xuởng Phường Phương Biên- Long Biên-HàNội
- Nhà xuởng
- Máy móc thiết bị sản xuất mũ bảo hiểm xe máy và ắc quy xe ô tô, xe máy
- Vật tư, nguyên vật liệu, thành phẩm, bán thành phẩm
Trong nhà máy tại Phường Giang Biên- Long Biên – Hà Nội
Loại hình sản xuất, kinh doanh : Sản xuất mũ bảo hiểm nhãn hiệu Amổ và ắc quy ô tô, xe máy nhãn hiệu Fontana
2. Số tiền bảo hiểm : Giá trị các đơn vị rủi ro :Các tài sản đuợc bảo hiểm cùng trong 01 đơn vị rủi ro
3. Khả năng tổn thất lớn nhất ( PML ) : 3 tỷ VND
4. Bậc chịu lửa của công trình
Không cháy (D) Khó cháy(N) Dễ cháy (L)
Mô tả kết cấu công trình
Các hạng mục công trình
Diện tích xây dựng
Chiều cao
( m, số tầng)
Bậc chịu lửa
Khu nhà văn phòng
13m x 16m
4m
Tường gạc kèo sắt, mái tôn sắt
Kho nhiên liệu 2 tầng
15m x 16m
8m
Tường gạch kèo sắt, mái tôn sắt
Xưởng máy
40m x 50m
6m
Khung sắt mái tôn sắt
Xưởng sơn
33m x 12m
6m
Khung sắt mái tôn sắt
Xuởng lắp ráp
24m x 12m
6m
Khung sắt mái tôn sắt
Kho thành phẩm
24m x 17m
6m
Khung sắt mái tôn sắt
Xưởng ắc quy
33m x 17m
4m
Khung sắt mái tôn sắt
Xưởng may
24m x 13m
4m
Khung sắt mái tôn sắt
Trạm biếnáp 400 KVA
5. Vị trí, địa thế, an toàn
5.1 Bố trí mặt bằng có hợp lí không?
Hợp lý ¨ Chấp nhận đuợc ¨ Kém ¨
5.2 Xe chữa cháy có dễ tiếp cận không
Có ¨ Không ¨
5.3 Thời gian xe chữa cháy tới nơi
Dưới 10 phút ¨ 10 phút đến 30 phút ¨ Trên 30 phút ¨
5.4 Có nguồn nguy hiểm từ bên ngoài không
Có ¨ Không ¨
( Nếu có nêu sơ bộ )
5.5 Có các yếu tố làm tăng mức độ rủi ro không
Có ¨ Không ¨
5.6 Có điều kiện không thuận lợi đối với rủi ro đuợc bảo hiểm không?
Có ¨ Không ¨
( Nếu có hãy miêu tả sơ bộ )
5.7 Có hệ thống chống sét không?
Có ¨ Không ¨
5.8 Có hàng rào bảo vệ chắc chắn không
Có ¨ Không ¨
5.9 Có biển báo cấm lửa ở những nơi cần thiết không
Có ¨ Không ¨
5.10 Việc chấp nhận nội quy PCCC có tốt không
Tốt ¨ Chấp nhận đuơc ¨ Kém ¨
5.11 Việc trực, kiểm tra, canh gác 24/24 giờ ( mô tả sơ bộ )
Lực lượng bảo vệ có 4 người : ngày 01 nguời, đêm có 03 nguời
6. Trang thiết bị, tổ chức công tác PCCC
6.1 Phát hiện, báo cháy
6.1.1 Có hệ thống báo cháy bằng nút ấn ?
Có ¨ Không ¨
6.1.2 Có hệ thống báo cháy tự động không?
Có ¨ Không ¨
Loại đầu báo nhiệt ¨ Khói ¨ Khác ¨
6.1.3 Hệ thống báo cháy có đuợc nối thẳng tới đội chữa cháy không?
Có ¨ Không ¨
6.2 Nguồn nước chữa cháy
6.2.1. Có hệ thống cấp thoát nước chữa cháy công cộng không?
Có ¨ Không ¨
6.2.2. Có hệ thống cấp nước chữa cháy riêng không?
Có ¨ Không ¨
6.2.3. Bể chứa 4m3 A0, hồ 400m3 Sông ¨ Khác ¨
Quy trình quản trị rủi ro trong bảo hiểm cháy tại Bảo Việt Hà Nội
……………………………………………
Ta thấy, theo sơ đồ trên thì quy trình quản trị rủi ro trong nghiệp vụ bảo hiểm cháy gồm những bước sau đây
- Xác định rõ mục tiêu quản lý rủi ro, đó là ngăn chặn, giảm thiểu tối đa tổn thất, tối đa hóa lợi nhuận thông qua các công cụ thích hợp
- Tiến hành đánh giá rủi ro và bất định, gồm có nhận dạng rủi ro,đo lường và đánh giá rủi ro, lựa chọn rủi ro trước khi quyết định nhận bảo hiểm
- Phối hợp với chủ sở hữu tài sản để nhằm thực hiện tốt nhất các phương án PCCC
- Hỗ trợ về vật chất cho công tác đề phòng và hạn chế tổn thất khi nhận hiểm
- Phối hợp với cảnh sát PCCC để tiến hành kiểm tra và thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất đối với người tham gia
- Kiểm tra, giám sát thường xuyên đối với các rủi ro được bảo hiểm đối với đối tượng bảo hiểm
- Quản lý chương trình chung
IV – Kết quả đạt được và những vấn đề còn tồn tại trong công tác quản trị rủi ro trong nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Bảo Việt Hà Nội
1 Kết quả đạt được
Trong thời gian vừa qua Công ty Bảo Việt Hà Nội đã quan tâm và đẩy mạnh đến việc hiệu quả hoạt động của công tác quản trị rủi ro. Do đó, việc kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm cháy của công ty đã đạt được kết quả khả quan và ngày càng chứng tỏ được bảo hiểm cháy là một trong những nghiệp vụ mạnh đem lại nhiều doanh thu và lợi nhuận cho công ty. Kết quả đạt được của công tác quản trị rủi ro thường được thể hiện thông qua các chỉ tiêu mà công ty sử dụng : đó là số hợp đồng khai thác mới, doanh thu phí bảo hiểm, thị phần của công ty trên thị trường bảo hiểm, uy tín của công ty đối với khách hàng
Tình hình khai thác nghiệp vụ ( em xin bổ sung sau)
B, tình hình công tác bồi thường và giám định( em sẽ bổ sung sau)
C, Hiệu quả kinh doanh của công ty( em sẽ bổ sung sau)
Những vấn đề còn tồn tại
Vấn đề còn tồn tại đầu tiên là về đội ngũ cán bộ, nhân sự. Tuy vào thời điểm hiện nay đội ngũ cán bộ của Công ty phần lớn đã là những người có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề, tỷ lệ các cán bộ qua đào tạo ở các mức cao nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh doanh. Nguyên nhân là do trong thời gian vừa qua công ty đã chưa có định hướng cho cán bộ tự đào tạo nên dẫn đến mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề đào tạo, đó là tỷ lệ cán bộ tốt nghiệp trong các ngành kinh tế, thương mại, tài chính quá cao trong khi cán bộ được đào tạo chuyên ngành bảo hiểm, kỹ thuật, luật.. lại rất ít. Trong khi đó để thực hiện tốt công tác đánh giá và quản lý rủi ro lại đòi hỏi người cán bộ phải hiểu sâu rộng và nắm bắt rõ ràng về các ngành sản xuất kinh doanh, về an toàn trong sản xuất và kĩ thuật, về nghiệp vụ PCCC và đầy đủ kiến thức về loại tài sản mà công ty nhận bảo hiểm… Vì thế đây cũng là một điểm còn hạn chế trong công tác quản trị rủi ro tại Bảo Việt Hà Nội, trong khi xã hội ngày càng phát triển, các đối tượng tham gia bảo hiểm cũng ngày càng đa dạng và có nhiều đặc điểm riêng biệt và phức tạp nên nếu cán bộ đánh giá và quản lý rủi ro không có trình độ chuyên môn cao thì rất khó khăn để nắm bắt được đầy đủ các rủi ro có thể xảy ra đối với tài sản.
Một trong những hạn chế lớn cần phải nói đến trong quá trình quản trị rủi ro tại Bảo Việt Hà Nội, đó là ý thức của người tham gia bảo hiểm. Khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Việt Nam, do trình độ hiểu biết chung của người dân về PCCC còn rất hạn chế vì thế cán bộ quản trị rủi ro rất khó để tiếp cận được với khách hàng. Thêm một lí do nữa là, khi đã tham gia bảo hiểm cháy thì người tham gia lại có tâm lý ỷ lại cho nhà bảo hiểm, họ không có ý thức ngăn ngừa và đề phòng rủi ro vì họ biết sẽ nhận được bồi thường từ nhà bảo hiểm. Vì thế, nhiệm cụ của cán bộ đánh giá là phải khắc phục được tâm lý này của khách hàng bằng cách giải thích cho họ biết và hiểu được nghĩa vụ và quyền lợi của họ khi tham gia bảo hiểm cháy
Ngoài ra, tại Bảo Việt HN thì những trang thiết bị để phục vụ cho công tác đánh giá rủi ro trong nghiệp vụ bảo hiểm cháy còn rất nghèo nàn. Các cán bộ của công ty chỉ có những công cụ, thiết bị chủ yếu như : máy chụp ảnh, máy quay phim còn các dụng cụ khác như máy đo độ ẩm, máy đo độ rung, máy đo phóng xạ… thì hầu như không có. Đây cũng là điểm khó khăn cho công tác này vì hiện nay tài sản tham gia Bảo hiểm thường có giá trị lớn, kỹ thuật phức tạp nên rất khó phát hiện ngay được rủi ro nếu không có trang thiết bị đánh giá rủi ro hiện đại và tiên tiến.
Công tác đánh giá và quản lý rủi ro tại Bảo Việt Hà Nội hiện nay còn sơ sài, chưa tuân thủ quy trình. Với những đối tượng bảo hiểm có giá trị nhỏ thì thường bỏ qua hoặc đánh giá rủi ro sơ sài còn đối với đối tượng bảo hiểm có giá trị lớn thì họ lại chủ quan vì cho rằng những đơn vị này có hệ thống PCCC hiện đại, do vậy không cần đánh giá rủi ro và đề phòng hạn chế tổn thất. Mặt khác, cán bộ đánh giá hầu như chỉ quan tâm đến nguy cơ rủi ro về tài sản mà lại ít lưu ý đến nguy cơ rủi ro về mặt đạo đức.
Trên đây là những hạn chế mà công ty cần nhanh chóng đưa ra biện pháp khắc phục để có thể hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong nghiệp vụ bảo hiểm cháy
Chương III : Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị rủi ro nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Bảo Việt Hà Nội
Mục tiêu, định hướng kinh doanh của Bảo Việt Hà Nội
1. Mục tiêu và định hướng kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Bảo Việt Hà Nội trong năm 2008
Trong năm 2007 vừa qua kinh tế cả nước nói chung và thủ đô Hà Nội nói riêng vẫn tiếp tục phát triển với mức tăng trưởng 12%. Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm thứ 2, theo đó một số lĩnh vực trong nền kinh tế được điều chỉnh theo những quy định chung dẫn dến thay đổi chính sách trong một số ngành. Điều này cũng sẽ ảnh hưởng nhất định đến thị trường bảo hiểm tại Việt Nam nói chung, Hà Nội nói riêng.
Bước sang năm 2008 này, quán triệt định hướng kinh doanh “ Đổi mới- hiệu quả- tăng trưởng “ và xác định được những cơ hội và thách thức, công ty Bảo Việt Hà Nội đã có mục tiêu và phương hướng cụ thể trong việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy.
Một là, Công ty sẽ tiếp tục duy trì việc phân cán bộ theo dõi địa bàn đồng thơi giao kế hoạch doanh thu nghiệp vụ cháy cho phòng
Hai là, đối với những khách hàng truyền thống công ty sẽ có những chính sách phù hợp để đối đãi và giữ khách hàng, tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
Ba là, tiếp tục quan hệ tốt với chính quyền và các cơ quan trên địa bàn để nắm bắt tình hình thông tin về các dự án mới để chào phí giành dịch vụ. Trước mắt sẽ tập trung vào các dự án đang triển khai như : Lưới điện Miền Bắc, công ty dệt may Quang Minh và các doanh nghiệp trong khu công nghiệp Quang Minh- Vĩnh Phúc, các doanh nghiệp trong khu công nghiệp Tiên Sơn – Hà Bắc, dự án tổng cục hóa chất, công ty FPT, công ty giày xuất khẩu Vĩnh Phúc, khu công nghiệp vừa và nhỏ Sài Đồng- Gia Lâm
Bốn là, đối với khách hàng lớn thì công tu sẽ có thể kết hợp với các công ty bảo hiểm khác để phân tán rủi ro thông qua phương thức đồng và tái bảo hiểm. Song công ty cũng cần khéo léo tiếp cận với khách hàng, tăng cường thế chủ động khi môi giới hoặc các công ty bảo hiểm khác không ủng hộ Bảo Việt
Năm là, công ty sẽ duy trì các mối quan hệ sẵn có với các ngân hàng cho vay vốn, các kho bạc nhà nước, các công ty cho thuê tài chính để mở rộng khai thác
Sáu là, công ty phối hợp với cảnh sát PCCC Công an thành phố Hà Nội thực hiện luật bảo hiểm bắt buộc theo Nghị định 130/NĐ- CP ra ngày 08/11/2006
Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị rủi ro nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Bảo Việt Hà Nội
Hiện nay, trong xu thế hội nhập và sau 2 năm tham gia vào tổ chức kinh tế thế giới ( WTO), Việt Nam cũng đang tiến từng bước vững chắc vào hội nhập với nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Cùng với cả nươc, kinh tế của Thủ đô Hà Nội cũng đang duy trì tốc độ tăng trưởng 12%/ năm, dự kiến năm 2008 vẫn giữ được tốc độ này. Chiều hướng phát triển kinh tế có những tác động không nhỏ tới thị trường bảo hiểm Việt Nam và bảo hiểm tại Hà Nội. Thời gian tới đây, sẽ có rất nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài sẽ đầu tư khai thác tại Việt Nam, trong đó có một loạt các công ty như Prutidential ( Mỹ), AAA( Mỹ), AIA( Anh), Manulife( Canada)….thế mạnh của các công ty này không chỉ có kinh nghiệm dày dặn trong kinh doanh, đội ngũ cán bộ được qua đào tạo bài bản mà còn được hẫu thuẫn bởi nguồn lực tài chính hùng mạnh. Đây chính là thế mạnh của các công ty nước ngoài và lại chính là điểm trở ngại lớn của các công ty bảo hiểm trong nước. Trước đây, công ty Bảo Việt là công ty bảo hiểm hoàn toàn độc quyền trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam nhưng đến nay thì do sự cạnh tranh đã làm cho thị phần của công ty giảm dần ( tính đến năm 2007 chỉ còn chiếm hơn 40% thị phần ). Ngoài ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty với nhau để giành giật khách hàng đang là một vấn đề hết sức đáng lo ngại đối với các công ty bảo hiểm nói chung và Bảo Việt Hà Nội nói riêng. Thêm vào đó khi Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, gia nhập WTO, AFTA thì nhà nước sẽ không còn chính sách bảo hộ đối với bất kì công ty nào trong nước, vì thế mọi công ty sẽ cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, yêu cầu mỗi công ty phải nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như chất lượng phục vụ khách hàng
Trước những tình hình như vậy, công ty Bảo Việt Hà Nội phải tìm ra những phương án cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Cũng như vậy, đối với nghiệp vụ bảo hiểm cháy và công tác quản trị rủi ro của nghiệp vụ cần có những hướng thay đổi để nhằm hoàn thiện sản phẩm và chất lượng để thu hút khách hàng. Sau thời gian thực tập tại Phòng cháy và rủi ro hỗn hợp, em xin mạnh dạn đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tại Bảo Việt Hà Nội
Đối với công ty
Thứ nhất, Công tác quản trị rủi ro nghiệp vụ bảo hiểm cháy chủ yếu là do phòng cháy và rủi ro hỗn hợp thực hiện, phần lớn là dựa vào giấy yêu cầu bảo hiểm và do chính những khai thác viên bảo hiểm tiến hành. Đồng thời, họ lại đảm nhận những chức năng khác nhau như : giao nhận hợp đồng, cấp đơn bảo hiểm đối với những tài sản có thể bảo hiểm, giám định và bồi thường tổn thất, giải quyết khiếu nại bồi thường cho khách hàng… Đối với công ty thì giảm được rất nhiều chi phí khi một khai thác viên cùng lúc làm được nhiều công đoạn nhưng bên cạnh đó cũng có phần hạn chế, đó là tính chuyên môn trong công tác đánh giá rủi ro chưa chuyên sâu. Vì vậy, để khắc phục nhược điểm này thù nên chăng công ty nên có chương trình đào tạo những cán bộ có chuyên môn trong công tác đánh giá và quản lý rủi ro. Và đối với những khách hàng lớn, giá trị tài sản nào bảo hiểm lớn, kĩ thuật đánh giá phức tạp thì công ty nên mời những công ty có uy tín trên thế giới hợp tác như : Caringham, Macloren, Vivaco… cùng phối hợp thực hiện để đảm bảo an toàn kĩ thuật, khách quan, tạo uy tín đối với khách hàng đồng thời là cơ hội cho cán bộ của công ty có thể học tập kĩ năng đánh giá rủi ro của những công ty hàng đầu trên thế giới. Khi đó, công tác quản trị rủi ro sẽ đạt hiệu quả cao hơn rất nhiều
Thứ hai, do trình độ hiểu biết chung của người Việt Nam về PCCC và bảo hiểm cháy còn rất hạn chế, một số doanh nghiệp chỉ nắm về tình hình kinh doanh chứ không hề biết tới PCCC và rủi ro cháy. Vì thế sau Nghị định 130/NĐ – CP ngày 08/11/2006 thì rất nhiều doanh nghiệp tổ chức thuộc diện tham gia bảo hiểm cháy bắt buộc nhưng họ vẫn có thái độ thờ ơ hoặc cố tình tránh né. Đây cũng là một điểm khó khăn cho công tác đánh giá và quản lý rủi ro khi cán bộ khai thác viên tiếp xuc với khách hàng. Vì thế, theo em thì công ty nên có những chương trình tuyên truyền lớn trên phương tiện thông tinh đại chúng với nội dung dễ hiểu để người dân có thể được biết rõ hơn về PCCC và những quyền lợi và nhiệm vụ của mình khi tham gia bảo hiểm cháy. Ngoài ra , công ty có thể mở riêng một trang web hoặc diễn đàn để có thể tư vấn cho khách hàng hoặc để khách hàng ở xa có thể dễ dàng hơn khi tiếp xúc với thông tin và có thể đăng kí bảo hiểm nhanh chóng hơn.
Thứ ba, quy trình đánh giá và quản trị rủi ro trong nghiệp vụ bảo hiểm cháy đã đáp ứng được đòi hỏi của nghiệp vụ , nghĩa là đã khá đầy đủ và nắm sát thực tiễn nước ta hiện nay. Thế nhưng trong quá trình thực hiện thì vẫn có thái độ chủ quan của cán bộ khi thác, họ chỉ thông qua đơn bảo hiểm để đánh giá mà thiếu mất khâu xuống cơ sở để xem xét và đánh giá hiện trạng hoặc theo dõi tình hình quá khứ của đối tượng bảo hiểm, hoặc thu thập thông tin đại chúng…. Vì thế, nhiều lúc quá trình quản trị rủi ro chưa có hiệu quả cao vì quá trình đánh giá chưa mang tính xác thực, hơn nữa còn có rủi ro về mặt đạo đức của người tham gia. Nếu cán bộ đánh giá chỉ kiểm tra sơ sài thì họ có thể tạo những hiện trạng tốt hơn về cơ sở nhằm giảm phí… Vì thế, công ty hoàn toàn có thể rút bớt các bước trong quy trình đánh giá rủi ro nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu của nghiệp vụ tạo thuận lợi cho cả người tham gia và cán bộ đánh giá, không nên áp dụng quá máy móc theo đúng quy trình. Và để phòng tránh rủi ro về mặt đạo đức của người tham gia bảo hiểm thì công ty có thể cử cán bộ xuống đạt xuất kiểm tra tính hiện thực của doanh nghiệp tham gia bảo hiểm.
Thứ tư, một trong những hạn chế hiệu quả của công tác đánh giá và quản trị rủi ro nghiệp vụ bảo hiểm cháy là do khan hiếm các thiết bị để phục vụ công tác này. Hiện nay công ty chỉ mới có thể trang bị những thiết bị như máy ảnh, máy quay phim mà chưa thể đáp ứng những dụng cụ tiên tiến nhưng lại rất cần thiết cho quá trình đánh giá rủi ro như : máy đo độ ẩm, máy đo độ rung, máy đo phóng xạ…. Vì thế nếu như công ty có thể dành ra một nguồn kinh phí để mua sắm các thiết bị này thì chắc chắn hiệu quả của công tác đánh giá rủi ro sẽ được nâng lên rất nhiều.
Thứ năm, như đã nói đến ở trên, một trong hạn chế của nghiệp vụ bảo hiểm cháy đó là công ty còn thiếu hụt rất nhiều cán bộ chuyên trách đánh giá và quản lý rủi ro được đào tạo cơ bản. Mặc dù, hiện nay, Bảo Việt Hà Nội cũng có nhiều cán bộ có học vấn cao nhưng chủ yếu là được đào tạo về chuyên môn kinh tế, tài chính nhưng lại rất ít cán bộ về chuyên môn Luật và bảo hiểm, kĩ thuật.. Trong khi đó, thị trường ngày càng mở rộng, đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm cháy đang có rất nhiều tiềm năng mở rộng, thì càng đòi hỏi cán bộ đánh giá có hiểu biết sâu rộng về nghiệp vụ cũng như quá trình sản xuất của máy móc tiên tiến. Vì thế, theo em công ty nên có những chính sách thu hút và đào tạo cán bộ có chuyên môn để thực hiện một cách tốt nhất công tác quản trị rủi ro, để làm được như vậy công ty cần phải :
- Tiến hành tuyển dụng thêm cán bộ điều tra rủi ro không những chỉ đối với nghiệp vụ bảo hiểm cháy mà còn với các nghiệp vụ khác vì trên thực tế khi tiến hành công tác này thì cán bộ đánh giá phải có kiến thức tổng hợp trong nhiều lĩnh vực mới có thể phát hiện ra loại rủi ro tiềm ẩn. Ngoài ra, công ty cũng nên chú trọng thu hút nguồn nhân lực có kinh nghiệm, năng lực và trình độ.
- Nâng cao chất lượng cán bộ dưới nhiều hình thức như tổ chức các lớp học ngắn hạn, đào tạo mới… và có thể cử những cán bộ chủ chốt sang các nước tiên tiến để học hỏi thêm kinh nghiệm để về phục vụ cho công ty sau này. Thực ra công việc này đã và đang được thực hiện tại Bảo Việt Hà Nội nhưng do hạn chế về kinh phí nên chưa đạt được hiệu quả cao, vì thế công ty nên thực hiện thường xuyên hơn.
- Công ty có chế độ ưu đãi và khuyến khích cán bộ công nhân viên tích cực nâng cao trình độ về mọi mặt
Thứ sáu, một vấn đề công ty cần quán triệt đó là công tác PCCC. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất không chỉ mang lại cho công ty bảo hiểm hiệu quả kinh doanh mà còn thực hiện mục đích chính của bảo hiểm dó là mang lại sự an toàn về người và tài sản, an tâm trong sản xuất cho đơn vị tham gia bảo hiểm. Và đây cũng chính là công việc chủ yếu của quản trị rủi ro, vì thế công ty cần phải :
- Thường xuyên xuống cơ sở, đơn vị tham gia bảo hiểm để xem xét và kiến nghị công tác để đề phòng và hạn chế tổn thất, sau đó mới cấp đơn bảo hiểm. Cán bộ của công ty phối hợp cùng với cảnh sát PCCC thành phố đi kiểm tra bao quát toàn bộ cơ quan, đơn vị tham gia bảo hiểm cháy.
- Công ty nên trích một khoản kinh phí để mở một chương trình đào tạo về PCCC cho tất cả các đơn vị tham gia bảo hiểm và hướng dẫn cho họ về công tác an toàn, đề phòng hạn chế tổn thất để có thể chủ động trong những trường hợp rủi ro xảy ra
- Công ty cần giữ liên lạc thường xuyên với đơn vị tham gia để nắm bắt kịp tình hình và luôn có những phương án đề phòng hạn chế tổn thất kịp thời, tránh nguy cơ rủi ro có thể xảy ra.
Thứ bảy, Công ty nên chú trọng cho công tác giám định bồi thường và công tác thống kê. Vì để thực hiện công tác đánh giá rủi ro tốt và chính xác hơn thì cán bộ đánh giá cần sử dụng những số liệu này để xe xét về phục vụ cho việc định phí bảo hiểm.
Thứ tám, công ty nên giữ mối quan hệ với các tổ chức cá nhân có liên quan như : phòng cảnh sát PCCC, chính quyền các cấp và các cơ quan chức năng, các chuyên môn kĩ thuật… để phối hợp trong công tác đánh giá rủi ro trong trường hợp đối tượng bảo hiểm có giá trị lớn, kĩ thuật phức tạp để đảm bảo an toàn nhận dạng chính xác các rủi ro tiềm năng.
Thứ chín, bảo hiểm cháy và vấn đề đánh giá rủi ro cho các chợ Hà Nội vẫn là một vấn đề cần thiết mà công ty cần phải chú ý
Cháy chợ đã được gọi là “ nạn dịch’’ mà bảo hiểm thì lại chưa có phương pháp quản lý rủi ro được. Bởi vì, chợ là nơi buôn bán, và được coi là kho tàng. Hiện nay, mới chỉ có ban quản lý chợ Đồng Xuân và chợ Hàng Da mua bảo hiểm, nhưng chủ yếu là phần khung chợ. Trong khi đó, bảo hiểm cho các chợ lẽ ra cần phải mua bảo hiểm cho cả hai đối tượng đó là : bản thân nhà chợ ( khung chợ) và số hàng hóa chứa trong chợ.
Là một thành phố đông dân chợ mọc khắp nơi nên vấn đề bảo hiểm chợ ở Hà Nội là rất cần thiết. Để đảm bảo an toàn tính mạng cho nhân dân, các hộ kinh doanh và nhà nước, đảm bảo trật tự an toàn xã hội chung ở Thủ đô, theo em cần đưa bảo hiểm cháy chợ vào loại hình bắt buộc
Thứ mười, khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm sẽ bị đe dọa khi nhận bảo hiểm cho nhiều đối tượng có khả năng rủi ro cao. Tuy nhiên, không phải vì thế mà công ty lại không nhận bảo hiểm cho những đối tượng rủi ro này. Tái bảo hiểm là biện pháp tốt nhất giúp công ty vẫn giữ được khách hàng mà vẫn có khả năng thanh toán. Nhưng tái được với tỷ lệ bao nhiêu lại là vấn đề của cán bộ đánh giá rủi ro, một tỷ lệ tái hợp lí sẽ đem lại phần lợi nhuận tối đa cho Công ty
2 Đối với người tham gia bảo hiểm
Để công tác đánh giá và quản lý rủi ro của công ty bảo hiểm nói riêng cũng như để để phòng hạn chế tổn thất cho chính đơn vị mình và xã hội nói chung thì người tham gia bảo hiểm cần phải thực hiện những điều sau:
Thứ nhất, khai báo trung thực, chính xác những thông tin về đơn vị và đối tượng bảo hiểm khi cán bộ tiến hành điều tra rủi ro, không được có những hành vi gian dối, trục lợi bảo hiểm. Điều này là rất quan trọng đối với cán bộ điều tra rủi ro vì qua những thông tin mà người tham gia bảo hiểm cung cấp thì họ có thể nhận dạng được những rủi ro tiềm năng để từ đó đưa ra những biện pháp đề phòng , hạn chế tổn thất.
Thứ hai, phối hợp tốt với công ty để thực hiện công tác PCCC sau khi đã tham bảo hiểm vì công tác đề phòng hạn chế tổn thất không chỉ được thực hiện bởi công ty mà bảo hiểm mà cần thiết phải có sự hợp tác chặt chẽ của người tham gia bảo hiểm. Vì thế người tham gia cần phải :
- Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về PCCC, thực hiện tốt các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất theo đúng quy trình mà công ty bảo hiểm đã đề ra
- Luôn chủ động trong công tác bảo vệ và quản lý tài sản của mình, bảo dưỡng theo định kỳ bởi các thiết bị này có thể bị hư hỏng do tác động hóa học và thời gian… Ngoài ra, theo thống kê thì 85% các doanh nghiệp hiện nay chưa trang bị máy bơm nước phát nổ, điều này thì mỗi đơn vị nên nhanh chóng khắc phục. Vì khi xảy ra hỏa hoạn thì thường phải cắt điện, nên nếu dùng máy bơm điện để chữa cháy thì không hiệu quả. Ngoài ra, nguồn nước chữa cháy ở một số đơn vị hầu như không có hoặc rất xa, gây bất tiện cho việc chữa cháy. Vì vậy, người quản trị rủi ro của đơn vị phải phối hợp với công ty bảo hiểm đề nghị cơ quan có thẩm quyền tháo gỡ khó khăn.
- Hàng năm đơn vị nên trích khoản kinh phí phục vụ cho công tác PCCC, ví dụ như trang bị thêm thiết bị hệ thống PCCC, mời các chuyên gia về PCCC về giảng dạy cho công nhân viên trong đơn vị….
Thứ ba, phối hợp với cảnh sát PCCC khi cần các thiết bị PCCC bởi vì họ là những người có kiến thức và kinh nghiệm về lĩnh vực này. Ngoài ra, người tham gia cũng nên nhờ đến các cơ quan, chính quyền địa phương giúp đỡ trong công tác của PCCC cho đơn vị mình. Do vây, người tham gia bảo hiểm luôn có mối quan hệ với công ty nhận bảo hiểm để biện pháp ngăn chặn rủi ro kịp thời
Thứ tư, người phụ trách về quản trị rủi ro của đơn vị tham gia bảo hiểm luôn phải trau dồi kiến thức về PCCC, chủ động tìm hiểu học hỏi kinh nghiệm để có những phương pháp quản trị rủi ro hữu hiệu nhất. Để rồi từ đó có thể tuyên truyền tới toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty để cùng tham gia tốt công tác đề phòng ngăn chặn rủi ro
Thứ năm, người tham gia bảo hiểm cũng luôn theo dõi, thống kê chi tiết đầy đủ các tốn thất của đơn vị mình, Bởi vì qua đó, cán bộ đánh giá rủi ro có thể thấy được nguyên nhân, tính toán xác suất xảy ra rủi ro của đơn vị,
3- Đối với nhà nước
Thị trường bảo hiểm cháy ở Việt Nam so với các nước phát triển trên thế giới thì còn rất non trẻ ( ở Bảo Việt đã triển khai được 18 năm ) nên còn rất yếu kém về vốn, kĩ thuật, khả năng tài chính của người tham gia còn rất hạn hẹp… Thêm vào đó, những năm vừa qua, luôn có sự cạnh tranh khắc nghiệt của những nước bảo hiểm nước ngoài với các công ty bảo hiểm trong nước nên ý thức của người dân đã có những cải thiên rõ rệt về công tác PCCC nhưng vẫn còn rất hạn chế.Vì thế đây là điểm gây khó khăn lớn cho các công ty bảo hiểm trong nước.Trước tình hình đó, để tạo thuận lợi cho các công ty kinh doanh bảo hiểm trong nước và hạn tổn thất do cháy xảy ra, năm 2001 Nhà nước đã ban hành luật PCCC và kinh doanh Bảo hiểm. Đây là cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Nhờ đó một số khách hàng tham gia bảo hiểm cháy ngày càng nhiều hơn, đặc biệt là sau Nghị định 130/NĐ- CP ra ngày 08/11/2006 quy định về tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt buộc thì có rất nhiều cơ sở, doanh nghiệp tham gia bảo hiểm cháy. Vì vây, Nhà nước nên có những chính sách hỗ trợ, bảo vệ các công ty Việt Nam như : đưa ra các chính sách ưu đãi về thuế, đề ra các biện pháp để giảm bớt sự cạnh tranh, có chế tài ưu đãi tài chính để khuyến khích các công ty bảo hiểm nhận các hợp đồng lớn. Từ đó, người tham gia bảo hiểm đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài sẽ yên tâm hơn khi tham gia bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm Việt Nam.
Trong xu thế mở cửa hội nhập thị trường hiện nay thì Nhà nước cũng nên có những tính toán, cân nhắc đồng thời phải có những phương hướng để bảo vệ công ty bảo hiểm trong nước và quản lý, giám sát chặt chẽ hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài như yêu câu các tổ chức này không được giảm phí quá mức phí sàn ở Việt Nam, đưa ra các quy định các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động ở Việt Nam và nếu tham gia bảo hiểm ở công ty bảo hiểm nước ngoài thì chỉ được tham gia với một tỷ lệ nhất định…
Theo luật PCCC ban hành ngày 29/06/2001 chỉ quy định đối với số doanh nghiệp đặc thù bắt buộc phải mua bảo hiểm cháy, nhưng trên thực tế số doanh nghiệp này còn chiếm một tỷ lệ rất ít so với tổng doanh nghiệp hiện nay có ở Việt Nam, chưa kể đến một số doanh nghiệp thuộc diện bắt buộc tham gia nhưng vẫn cố tình tránh né nếu không có biện pháp quản lý. Theo em thì nhà nước nên đưa bảo hiểm hỏa hoạn vào loại hình bảo hiểm bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp, và coi đây là khoản chi phí bắt buộc mà doanh nghiệp phải trích ra hàng năm. Ngoài ra, nhà nước cũng nên đưa ra các chế tài để quản lý chặt chẽ đối với những trường hợp cố tình không tham gia bảo hiểm, ví dụ như thu hồi giấy phép kinh doanh…còn đối với các doanh nghiệp nước ngoài thì cần có những quy định rõ ràng hơn.
Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác PCCC thì Nhà nước cũng phải thường xuyên tổ chức tuyên truyền cho người dân về PCCC bằng cách thiết lập các chương trình hấp dẫn và gây chú ý cho mọi người trên phương tiện thông tin đại chúng ( đài, báo, tạp chí, truyền hình, áp phích, tờ rơi…) các hình thức hội nghị, hội thảo… Công tác này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác đánh giá và quản trị rủi ro vì lúc đó khi cán bộ điều tra rủi ro xuống cơ sở thì người tham gia bảo hiểm sẽ nhanh chóng nắm được kĩ thuật PCCC, vậy nên công việc của cán bộ bảo hiểm sẽ thuận lợi hơn rất nhiều.
Nhà nước cũng cần hoàn thiện hệ thống Pháp luật cho hoạt động kinh doanh, đặc biệt trong điều kiện hội nhập hiện nay thì công ty bảo hiểm sẽ có cơ hội nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nhà nước nên có hình thức phổ biến rõ ràng hơn đối với các quy định mới, ví dụ như đối với nghị đinh 130 vừa qua chưa được áp dụng một cách triệt để vì nhà nước chưa quán triệt được các doanh nghiệp thuộc diện bắt buộc tham gia bảo hiểm cháy. Vì thế Nhà nước cần có những biện pháp tích cực hơn nữa
Trong thời gian tới, thị trường bảo hiểm sẽ diễn ra rất sôi động với sự cạnh tranh khắc nghiệt của các doanh nghiệp nước ngoài đối với các công ty bảo hiểm trong nước nhưng chúng ta đều tin tưởng với sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cùng với sự phấn đấu, nỗ lực không ngừng của nhân viên, cán bộ ngành bảo hiểm, thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ ngày càng phát triển , đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm cháy.
Kết luận
Khi đời sống kinh tế- xã hội của con người ngày càng phát triển thì nhu cầu về bảo hiểm cũng tăng theo, đặc biệt là bảo hiểm cháy, một loại hình bảo hiểm tài sản. Đối tượng của bảo hiểm cháy cũng rất rộng, áp dụng đối với các nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp… tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Trên thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay, bảo hiểm cháy đã thực sự khẳng định được vị trí của mình thông qua các chỉ tiêu như : doanh thu phí nghiệp vụ ngày càng tăng và chiếm thị phần cao hơn hẳn so với các nghiệp vụ khác.
Trong khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy thì khâu đánh giá và quản lý rủi ro là không thể thiếu. Thông qua công tác nay, người tham gia có thể giảm thiểu tối đa tổn thất, yên tâm sản xuất kinh doanh, ngoài ra giup công ty bảo hiểm nâg cao hiệu quả kinh doanh khi triển khai nghiệp vụ này. Thấy rõ tầm quan trọng của công tác quản trị này, Bảo Việt HN đã có nhiều nỗ lực thực hiện tốt công tác này.
Tuy nhiên, do một số yếu tố khách quan cũng như chủ quan từ nhiều phía, hoạt động công tác này vẫn chưa còn một số hạn chế. Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu và đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác quản trị rủi ro có ý nghĩa rất quan trọng đối với các công ty bảo hiểm nói chung và đối với Bảo Việt HN nói riêng, khi tiến hành kinh doanh bảo hiểm. Với sự nỗ lực không ngừng của Bảo Việt HN và sự quan tâm giúp đỡ của cơ quan các cấp, hi vọng rằng Bảo Việt Hà Nội sẽ đạt được kết quả cao hơn nữa trong thời gian tới,
Dù thời gian thực tập ở Bảo Việt Hà Nội không nhiều song những kiến thức em thu thập được vô cùng bổ ích, góp phần nâng cao nghiệp vụ để em có điều kiện ứng dụng vào công tác thực tế sau này,
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31365.doc