LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình chuyển đổi từ cơ chế quản lý bao cấp sang cơ chế thị trường, đã từng bước khẳng định xu thế phát triển kinh tế hiện nay ở nước ta. Cơ chế kinh tế thị trường đã và đang chi phối phần lớn các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
Lưu thông phân phối là một trong những lĩnh vực kinh tế đặc biệt quan trọng. Trong quá trình phối hợp cùng các lĩnh vực kinh tế khác thúc đẩy kinh tế phát triển, nó là một trong những mắt xích quan trọng trong quá trình tái sản xuất của xã h
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1558 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về Thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội và cũng chịu sự chi phối mạnh mẽ của cơ chế thị trường.
Nghị quyết đại hội, đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ : "Vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô Nhà nước, đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị kinh doanh, nhằm phát huy những tác động tích cực to lớn đi đôi với ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường".
Nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở rộng giao lưu kinh tế trong và ngoài nước. Do đó hoạt động thương mại phát triển ở khắp nơi. Đã có rất nhiều thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực này. Song hoạt động thương mại nói chung, của các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng vẫn còn những khiếm khuyết, yếu kém, hoạt động còn lúng túng hiệu quả thấp, chưa thể hiện rõ vai trò thành phần kinh tế chủ đạo, then chốt trong lĩnh vực thương mại, hoạt động thương mại của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển nhanh nhưng chưa lành mạnh, quản lý Nhà nước về thương mại còn nhiều bất cập.
Qua thời gian thực tập tốt nghiệp tại Ban Cơ chế - Chính sách, Viện Nghiên cứu Thương mại, xuất phát từ tình hình thực tế và khả năng cá nhân, với sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Nguyễn Duy Bột và sự giúp đỡ, tạo điều kiện của các cô chú cán bộ trong Ban, em đã chọn đề tài : "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác Quản lý Nhà nước về Thương mại".
Quản lý Nhà nước về thương mại là một lĩnh vực rộng, đã được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Đề tài tập trung chủ yếu vào việc quản lý Nhà nước về thương mại gồm nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ của bộ máy quản lý Nhà nước về thương mại, các chính sách, môi trường hoạt động thương mại, kiểm tra - kiểm soát, qui hoạch phát triển thương mại trong phạm vi toàn quốc.
Bài viết gồm 3 chương :
Chương I : Một số vấn đề lý luận về quản lí Nhà nước đối với lĩnh vực Thương mại ở nước ta.
Chương II: Thực trạng công tác quản lí Nhà nước về Thương mại .
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QLNN về Thương mại ở nước ta hiện nay.
Thời gian thực tập tại Viện nghiên cứu Thương mại chưa lâu, với kinh nghiệm và kiến thức bản thân còn nhiều hạn chế nên bài viết còn có nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý của thầy giáo hướng dẫn và các thầy cô giáo trong Khoa.
Qua đây em xin bầy tỏ lòng biết ơn các cô chú trong Ban Cơ chế & Chính sách - Viện nghiên cứu Thương mại - Bộ Thương mại và cô Phạm thị Cải đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành đợt thực tập này. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Nguyễn Duy Bột đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình thực tập cũng như khi viết bài.
Sinh viên
NGUYỄN CẢNH TÚ
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI
I. HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ
1. Khái niệm về hoạt động thương mại
Thương mại là một ngành kinh tế độc lập trong nền kinh tế quốc dân hình thành và phát triển trong xã hội có sản xuất và lưu thông hàng hoá. Điều quan trọng quyết định sự tồn tại sản xuất và lưu thông hàng hoá, là sự phân công lao động xã hội. Các Mác viết : "Sự phân chia nền sản xuất xã hội thành những ngành lớn như công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp là sự phân công lao động chung". Sự phân công này phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sở hữu. Thương mại là một hình thức tổ chức của lưu thông hàng hoá, thực chất là quá trình trao đổi hàng hoá thông qua mua bán trên thị trường.
Thương mại là một hình thức lưu thông hàng hoá, một ngành kinh tế quốc dân. Mục đích kinh doanh thương mại nhằm phục vụ tốt tiêu dùng và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
Thương mại là quá trình trao đổi hàng hoá thông qua hoạt động mua bán trên thị trường là khâu tất yếu của quá trình tái sản xuất. Thương mại được coi là mạch máu của nền kinh tế quốc dân hoạt động theo cơ chế thị trường. Có thể nói bản chất của thương mại là hoạch định kinh doanh, tức là hoạt động nhằm mục đích sinh lời.
Theo Luật Thương mại thì : "Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc thực hiện các chính sách kinh tế xã hội".
Hoạt động thương mại bao gồm các nội dung chủ yếu sau :
- Hoạt động điều tra, nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về các hàng hoá và dịch vụ. Cung cấp thông tin thị trường cho nhà sản xuất, tránh rủi ro trong kinh doanh. Đây là khâu đầu tiên trong quá trình kinh doanh thương mại.
- Huy động và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên để thoả mãn nhu cầu xã hội. Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế hàng hoá, việc khơi nguồn để đáp ứng các nhu cầu là công việc rất quan trọng. Ai nắm được thông tin nhanh hơn, chính xác hơn về nguồn hàng thì có nhiều cơ hội thành công trong kinh doanh.
- Tổ chức mối quan hệ giao dịch thương mại. Đây là khâu nối liền giữa hai nội dung trên.
- Tổ chức hợp lý kênh phân phối hàng hoá. Đây là quá trình có liên quan đến việc điều hành và vận chuyển hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng với điều kiện tối ưu nhất để đạt được hiệu quả kinh tế tối đa. Quá trình giải quyết vấn đề như : Thay đổi quyền sở hữu tài sản, di chuyển hàng hoá qua các khâu vận chuyển, dự trữ, bảo quản, đóng gói, bốc dỡ.
- Quản lý hàng hoá ở các doanh nghiệp và xúc tiến mua bán hàng hoá. Đối với doanh nghiệp thương mại thì đây là nội dung công tác quan trọng kết thúc quá trình kinh doanh hàng hoá.
2. Vai trò của thương mại trong nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường thương mại có vai trò rất quan trọng. Xác định đúng vai trò của thương mại trong nền kinh tế thị trường cho phép thương mại hoạt động đúng hướng và tạo điều kiện để thương mại phát triển.
Thứ nhất, thương mại là một bộ phận hợp thành của tái sản xuất, nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng. Ở vị trí cấu thành của tái sản xuất thương mại được coi như hệ thống dẫn lưu tạo ra tính liên tục trong quá trình tái sản xuất. Nếu hệ thống dẫn lưu này bị ách tắc hàng hoá sản xuất ra không thể tiếp cận được với thị trường.Tiêu thụ sẽ ứ đọng gây ra nhiều hậu quả khó lường đối với nhà sản xuất và ngược lại nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường có nhưng lại không có hàng hoá cung ứng. Thương mại là hợp phần của sản xuất hàng hoá, sản phẩm hàng hoá có mục đích từ trước là để thoả mãn nhu cầu người khác để trao đổi mua bán, không thể tách rời khâu sản xuất hàng hoá và thương mại.
Thương mại là khâu trung gian đảm bảo cung ứng một cách đầy đủ kịp thời, đồng bộ tất cả các yêu cầu của nhà sản xuất, người tiêu dùng và các đối tượng có nhu cầu một cách tốt nhất. Vì vậy mà thương mại góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Sản xuất phát triển tạo ra nhiều sản phẩm, lao động cho xã hội, dẫn đến tăng thu nhập của người dân, cải thiện đời sống, tăng cầu hàng hoá trên thị trường. Nếu thương mại hoạt động tốt sẽ làm cho chu kỳ này hoạt động thông suốt.
Thương mại là mắt xích nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng. Nhu cầu thị trường nhằm định hướng cho các nhà sản xuất xác định phương án đầu tư, mở rộng qui mô và cải tiến công nghệ, tạo ra những sản phẩm mới, chất lượng phù hợp với nhu cầu thị trường.
Thứ hai, thương mại là cho sản xuất hàng hoá phát triển và thông qua hoạt động mua bán sẽ tạo động lực kích thích đói với các nhà sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất, hình thành các vùng chuyên môn hoá sản xuất lớn. Điều đó thể hiện đúng kết luận khoa học của Các Mác và Ăng ghen đã khẳng định: "Khi thị trường nghĩa là lĩnh vực trao đổi mở rộng ra thì qui mô sản xuất cũng tăng lên, sự phân công trong sản xuất cũng trở nên sâu sắc hơn".
Thương mại góp phần thúc đẩy phân công lao động và hợp tác quốc tế trao đổi kinh nghiệm tiên tiến và khoa học kỹ thuật hiện đại. Thương mại góp phần khai thác tiềm năng của đất nước. Sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tận dụng mọi thế mạnh của từng vùng, từng khu vực là tăng giá trị tài sản quốc gia, tăng thu nhập quốc dân.
Thứ ba, thương mại kích thích nhu cầu và luôn tạo ra nhu cầu mới, người tiêu dùng mua hàng hoá không xuất phát từ tình cảm mà từ ý chí, lợi ích của sản phẩm tạo ra khả năng tái tạo nhu cầu. Thương mại buộc các nhà sản xuất phải đa dạng hoá về kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng sản phẩm.
Thứ tư, thương mại kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, lợi nhuận là mục đích của hoạt động thương mại. Nhà sản xuất tìm đủ mọi cách để cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề và tính toán hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách tiết kiệm các nguồn lực, không ngừng nâng cao năng suất lao động đó chính là những nhân tố tác động đến lưu lượng sản xuâts và làm cho hàng hoá sản xuất phát triển.
Thứ năm, thương mại góp phần giải quyết mối quan hệ giữa công nghiệp với nông nghiệp, giữa thành thị với nông thôn. Thương mại làm cho hàng hoá thông suốt, rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các khu vực.
Thứ sáu, thương mại góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, làm cho quan hệ thương mại giữa các quốc gia không ngừng phát triển, giúp cho các dân tộc hiểu biết nhau hơn, gần gũi nhau hơn qua lưu thông và tiêu dùng hàng hoá của nhau. Quan trọng hơn, ý nghĩa hơn ở chỗ thương mại là nhịp cầu nối liền, gắn kết sự phát triển khoa học, công nghệ giữa các quốc gia.
Thứ bẩy, phương diện quốc tế, hoạt động thương mại giữa các quốc gia giúp cho việc tìm hiểu và phát hiện những tiềm năng sản xuất của từng quốc gia. Dẫn đến xác định được trọng tâm cho ngành nghề cụ thể. Điều đó có nghĩa là phát huy lợi thế so sánh, phân công lao động quốc tế. Bởi vì dẫu một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối về bất cứ một ngành hàng nào nhưng điều đó không có nghĩa là quốc gia đó không thể tham gia thương mại quốc tế. Bất kỳ một quốc gia nào cũng có lợi thế so sánh cho dù quốc gia đó không có lợi thế tuyệt đối về tất cả các ngành hàng. Đối với nước so với các nước phát triển thì hầu như chúng ta hoàn toàn không có lợi thế tuyệt đối, song nhờ có lợi thế so sánh mà chúng ta vẫn có quan hệ ngoại thương với rất nhiều quốc gia phát triển trên thế giới và thu được những thành tựu đáng mừng.
Như vậy thương mại có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế nước ta hiện nay, nó làm phát sinh phát triển nhu cầu và là động lực cho sự phát triển sản xuất kinh đoạn, phát triển nền kinh tế quốc dân.
Theo như qui định tại Điều 45 của Luật Thương mại thì nội dung chủ yếu của hoạt động thương mại của thương nhân thông qua hành vi thương mại bao gồm :
+ Mua bán hàng hoá + Đấu thầu hàng hoá
+ Đại diện cho thương vận + Dịch vụ giao nhận hàng hoá
+ Môi giới thương mại + Dịch vụ giám định hàng hoá
+ Uỷ thác mua bán hàng hoá + Khuyến mại
+ Đại lý mua bán hàng hoá + Quảng cáo thương mại
+ Gia công thương mại + Trình bày giới thiệu hàng hoá
+ Đấu giá hàng hoá + Hội chợ triển lãm thương mại.
Như vậy thương mại ngày nay nó đã mở rộng ra nhiều lĩnh vực, nó không chỉ là buôn bán mà còn tạo điều kiện và là cầu nối liền cho mọi quan hệ hoạt động khác của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên theo khái niệm về thương mại của thế giới, thương mại của Việt Nam chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp. Trong điều kiện hội nhập đây là một vấn đề cần nghiên cứu giải quyết cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
3. Tính tất yếu tồn tại và phát triển thương mại.
Sản xuất hàng hoá, lưu thông hàng hoá và thương mại là một phạm trù lịch sử. Nó sinh ra, phát triển và mất đi trong những điều kiện kinh tế nhất định.
Sản xuất hàng hoá thống nhất quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, lưu thông hàng hoá là hình thức phát triển của trao đổi hàng hoá có tiền tệ làm vật ngang giá chung, vai trò môi giới để mua bán hàng hoá.
Quá trình tái sản xuất mở rộng bao gồm bốn khâu liên kết mật thiết với nhau : Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Các Mác nhấn mạnh : sản xuất thể hiện là điểm xuất phát, tiêu dùng là điểm cuối cùng phân phối và trao đổi là điểm trung gian. Điểm trung gian này có hai yếu tố.
Thương mại nằm ở khâu trao đổi, nó giữ vị trí trung gian trong quá trình tái sản xuất mở rộng xã hội. Trao đổi hàng hoá là cầu nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng,giữa sản xuất với phân phối, giữa phân phối với tiêu dùng.
Lưu thông ách tắc, sản xuất bị cản trở, bị kìm hãm, nghĩa là kinh tế kém phát triển. Dẫn đến thu nhập của người dân giảm, tình trạng thất nghiệp gia tăng. Thương mại trở thành khâu tất yếu của quá trình sản xuất phân phối trao đổi tiêu dùng. Tính tất yếu ấy thể hiện ra tính phổ biến với quan hệ tỷ lệ thuận. Sản xuất càng phát triển qui mô thương mại càng lớn.
Ở nước ta do ảnh hưởng sâu sắc của mô hình "kinh tế chỉ huy" kéo dài, nền kinh tế nước ta đã rơi vào tình trạng khủng hoảng. Đảng ta tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã nghiêm khắc tự phê bình và đề ra đường lối đổi mới.
Có thể nói đại hội VI là cái mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa cuả nhân dân ta. Song cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam có thể xem như thật sự khơi dậy từ năm 1989. Từ đó đến nay nền kinh tế nước ta không những đứng vững mà còn đạt được những thành tựu nổi bật. Trên đà đổi mới và phát triển chung đó có lĩnh vực lưu thông hàng hoá và dịch vụ.
Thông qua thương mại Việt Nam đã tiến được nhiều bước trong quá trình hội nhập quốc tế. Hàng hoá xuất khẩu ngày càng nhiều trên thị trường thế giới. Quan hệ hợp tác kinh tế thương mại với nhiều nước và tổ chức quốc tế ngày càng mở rộng, góp phần không nhỏ cải thiện vị thế kinh tế cũng như chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thương nghiệp Nhà nước đã từng bước chuyển đổi về tổ chức và phương thức quản lý để thích ứng với cơ chế quản lý Nhà nước về thương mại, thích ứng với thị trưởng trong tình hình mới. Cơ chế quản lý mới đã thực sự đang làm chức năng định hướng và cung cấp, hướng dẫn thông tin tương đối kịp thời, tạo môi trường và hành lang pháp lý cho sản xuất và kinh doanh phát triển, góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc trên thị trường. Hoạt động thương mại Việt Nam đã, đang chuyển hẳn việc mua bán hàng hoá từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang mua bán hàng hoá theo cơ chế thị trường.
Thương nghiệp Nhà nước cũng đã và đang cùng các thành phần kinh tế khác hoạt động kinh doanh sôi nổi đáp ứng các nhu cầu của sản xuất và đời sống. Có thể nói đây là bước chuyển đổi đầy ý nghĩa trong đó có thương nghiệp đã góp phần tích cực vào việc thúc đẩy sản xuất phát triển, phân công lại lao động xã hội, thúc đẩy các ngành đổi mới công nghệ thay đổi cơ cấu sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm làm cho sản xuất từng bước gắn với nhu cầu thị trường, bước đầu phát huy được lợi thế so sánh giữa các miền, gắn giá thị trường trong nước với thị trường nước ngoài. Tích cực góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế, từng bước cải thiện đời sống của nhân dân.
Như vậy trong điều kiện hiện nay, vấn đề mới đặt ra là tạo cơ sở pháp lý để phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác xã là nền tảng cho nền kinh tế quốc dân. Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ thương mại trên các vùng đất nước, mở rộng giao lưu thương mại với nước ngoài.
Hoạt động thương mại ở nước ta không chỉ đơn thuần vì mục đích lợi nhuận mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, là phương tiện đảm bảo thực hiện nhiệm vụ chính trị và mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước ta. Thực tiễn cho thấy hiệu quả hoạt động thương mại và sự phát triển của nó cũng như đóng góp vào tăng trưởng kinh tế quốc dân, giải quyết vấn đề kinh tế xã hội của đất nước lại phụ thuộc vào quản lý Nhà nước về thương mại.
II. NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm vai trò quản lý Nhà nước về thương mại
1.1. Khái niệm quản lý Nhà nước về thương mại
Quản lý Nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội, hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội, trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cần phân biệt được quản lý Nhà nước về kinh tế và quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực thương mại. Trước đây trong thời kỳ nền kinh tế tập trung hai chức năng quản lý này không được phân biệt một cách thật rõ ràng. Các cơ quan quản lý Nhà nước can thiệp sâu vào các quyết định sản xuất kinh doanh nhưng lại không chịu trách nhiệm về sự can thiệp ấy. Để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực thương mại tốt hơn, Việt Nam đã có sự phân định rõ ràng sau khi chúng ta đổi mới nền kinh tế. Theo như Luật Thương mại đã khẳng định :
Quản lý Nhà nước về thương mại bằng pháp luật, chính sách, chiến lược, qui hoạch và kế hoạch phát triển thương mại.
1.2. Vai trò quản lý Nhà nước về thương mại ở nước ta
1.2.1.Một số đặc điểm chi phối quản lý Nhà nước ở nước ta hiện nay
Ở nước ta một nền kinh tế hiện vật với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường đã nẩy sinh những khó khăn rất lớn trong tất cả mọi lĩnh vực, trong đó vấn đề quản lý Nhà nước về kinh tế. Việc hoạch định các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô giữ một vai trò rất lớn. Một mặt tài chính tiền tệ là công cụ điều tiết vĩ mô chủ yếu của Nhà nước đối với hoạt động kinh tế - xã hội, mặt khác trên toàn bộ hoạt động của Nhà nước, các chính sách vĩ mô đều thể hiện thành pháp luật theo nguyên tắc hiến pháp, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Yếu thực lực về kinh tế, kém về pháp luật sẽ là yếu tố cản trở đáng kể trong việc khai thác tiềm năng phục vụ cho tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
Bước vào công cuộc đổi mới, sự hình thành các quan hệ kinh tế hàng hoá, sự phát triển của các thành phần kinh tế đã làm xuất hiện những đặc điểm mới ảnh hưởng đến quản lý Nhà nước về kinh tế nói chung và về thương mại nói riêng.
- Sự xuất hiện của các loại thị trường và sự bất cấp, lúng túng, bị động, đối phó của cơ quan Nhà nước trong việc quản lý thị trường.
- Tính xen lẫn giữa các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh chiếm ưu thế, nhưng đang có xu hướng đi xuống, bị lấn át và bị lợi dụng.
- Tính tự phát vô kỷ luật của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tình trạng buôn lậu, trốn thuế khá phổ biến, bên cạnh đó có sự móc nối từ một số cán bộ là viên chức Nhà nước.
- Sự phát triển nhanh chóng về các tổ chức kinh doanh dẫn đến sự hỗn độn của các tổ chức đó và gây ra khó khăn cho quản lý Nhà nước.
- Sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực thương mại dịch vụ với sự phát triển không tương xứng của lĩnh vực sản xuất.
- Sự chỉ huy trực tiếp của kế hoạch đã giảm bớt nhưng sự quản lý của Nhà nước bằng công cụ khác chưa hoàn thiện.
1.2.2. Vai trò quản lý Nhà nước về thương mại ở nước ta
Từ những đặc điểm trên đặt ra yêu cầu cấp bách phải thấy rõ vai trò Nhà nước, tức là phải làm rõ nội dung mới của quản lý Nhà nước về kinh tế nói chung, quản lý thương mại nói riêng. Ta có thể khái quát vai trò quản lý Nhà nước về thương mại ở nước ta hiện nay như sau :
- Thiết lập trật tự thị trường cho hoạt động kinh doanh thương mại - dịch vụ thông qua hệ thống các văn bản pháp luật, chính sách quản lý tạo dựng hành lang pháp lý. Nhất là đối với nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi. Thương mại bung ra khắp mọi nơi và chưa được quản lý chặt chẽ, có nhiều lĩnh vực hoạt động thương mại hoặc hoạt động có liên quan đến thương mại chưa có pháp luật hay điều chỉnh chưa toàn diện.
- Thiết lập hệ thống tổ chức để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về thương mại. Đó là việc xác định mô hình tổ chức và qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm đúng đắn cho từng bộ phận, từng cấp của cơ cấu tổ chức quản lý đang đòi hỏi bức xúc hiện nay.
- Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, định mức các mặt hoạt động kinh doanh dịch vụ thương mại.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý về thương mại phù hợp với yêu cầu mới của nền kinh tế.
- Thực hiện chức năng phối hợp điều hoà hoạt động thương mại với thương mại quốc tế và khu vực. Để điều hoà một cách hợp lý, đưa các thành phần tham gia kinh doanh thương mại đi vào khuôn khổ, phát triển đúng hướng đáp ứng mong muốn của công cuộc đổi mới thì cho thấy vai trò quản lý Nhà nước về thương mại là rất cần thiết và hết sức quan trọng.
2. Nội dung cơ bản của quản lý Nhà nước về thương mại ở nước ta hiện nay.
Xuất phát từ đặc điểm và vai trò của quản lý Nhà nước về thương mại hiện nay nội dung quản lý Nhà nước về thương mại theo điều 245 của Luật Thương mại bao gồm :
Một là, ban hành các văn bản pháp luật về thương mại, xây dựng chính sách, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển thương mại. Đây là một nội dung rất quan trọng vì việc ban hành các văn bản qui phạm pháp luật chính là việc điều hoà các qui phạm pháp luật, từ đó tạo ra các cơ sở pháp lý cho việc hoạt động thương mại, là công cụ bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt động thương mại. Mặt khác nó định hướng cho hoạt động thương mại phát triển. Việc xây dựng các chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển thương mại. Đây là công việc mang tính chất ở tầm vĩ mô của cơ quan quản lý trong việc qui hoạch thị trường, đề ra các phương hướng, mục tiêu và những biện pháp để thực hiện những mục tiêu đó.
Hai là, tổ chức đăng ký kinh doanh thương mại. Mục đích của việc đăng ký kinh doanh nhằm công bố với cơ quan quản lý Nhà nước về việc hình thành và hoạt động của tổ chức. Qua đó yêu cầu cơ quan quản lý Nhà nước chấp thuận và bảo hộ về mặt pháp lý sự tồn tại và hoạt động hợp pháp của họ. Đồng thời còn là sự giới thiệu của tổ chức với các bạn hành cũng như các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan. Nó còn là căn cứ pháp lý để các cơ quan quản lý Nhà nước hữu quan thực hiện chức năng quản lý của mình đối với tổ chức và xác định trách nhiệm của tổ chức trong việc thực hiện khác nhau. Hiện nay ở nước ta việc đăng ký kinh doanh và kiểm tra sau đăng ký còn có nhiều bất cập. Cơ quan đăng ký kinh doanh khác với cơ quan kiểm tra sau đăng ký dẫn đến thương nhân chỉ đăng ký còn sau đó hoạt động như thế nào thì không ai biết. Tuy nhiên nếu để cơ quan đăng ký và cơ quan kiểm tra là một thì dễ dẫn đến tình trạng vừa đánh trống vừa thổi còi. Cần nhất là phải có sự phối hợp thường xuyên liên tục chặt chẽ giữa hai cơ quan này.
Ba là, tổ chức thu thập xử lý, cung cấp thông tin dự báo và định hướng về thị trường trong và ngoài nước. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà nền kinh tế đang có bước tiến rõ rệt, thị trường trong và ngoài nước hoạt động sôi nổi. Chúng ta đang từng bước mở rộng và củng cố vị thế của mình trên thị trường thế giới, xu hướng hội nhập khu vực và thế giới. Để làm tốt được điều đó thì việc thu thập, xử lý, cung cấp thông tin dự báo về thị trường là một vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp nhất là trong thời đại thông tin như hiện nay. Các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại phải đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về tình hình thị trường, sự biến động, xu thế cả trong và ngoài nước giúp doanh nghiệp có cái nhìn tổng thể, khái quát về thị trường. Hơn nữa, nó còn giúp doanh nghiệp có thông tin đầy đủ về môi trường hoạt động, bạn hàng, các cơ chế chính sách mới. Giúp cho doanh nghiệp phát triển một cách vững vàng hơn. Quan trọng hơn, đối với từng thương nhân kinh doanh việc thu thập và xử lý thông tin là cực kỳ quan trọng. Nó quyết định phương hướng đầu tư sản xuất, phát triển mở rộng kinh doanh. Đối với quốc gia, đây là một mục tiêu hàng đầu. Nếu nắm đầy đủ thông tin sẽ là cơ sở để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, xây dựng chính sách kinh tế phù hợp.
Bốn là, hướng dẫn tiêu dùng hợp lý tiết kiệm. Đây là một nội dung không kém phần quan trọng trong việc quản lý Nhà nước về thương mại. Khi mà nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, chúng ta tập trung nguồn lực trong nước và việc phát triển kinh tế thì việc tiêu dùng tiết kiệm có một ý nghĩa lớn. Muốn thực hiện tốt được công việc này cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại với cương vị là người lãnh đạo, hướng dẫn phải có những phương hướng, kế hoạch cho việc tiêu dùng trong nước. Giúp người tiêu dùng trong nước có thể thoả mãn nhu cầu của mình một cách tốt nhất song chi phí lại thấp nhất, cũng như hướng các doanh nghiệp sử dụng nguồn nguyên liệu đầu vào và đầu ra một cách hợp lý. Hướng tiêu dùng của dân cư và các hàng hoá sản xuất trong nước nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước phát triển.
Năm là, điều tiết lưu thông hàng hoá theo định hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước và theo qui định của pháp luật. Điều đó có nghĩa cơ quan quảnlý Nhà nước về thương mại thông qua các cơ chế, chính sách để quản lý vĩ mô việc cân đối cung cầu hàng hoá trong nước, điều tiết lưu thông hàng hoá trên thị trường sao cho phù hợp. Phân luồng hàng hoá đến tất cả các vùng, các nơi có nhu cầu tránh tình trạng có chỗ thì ứ đọng, song có vùng lại khan hiếm gây rối loạn thị trường. Phải tổ chức tốt hệ thống thu mua một cách kịp thời sản phẩm do người nông dân sản xuất ra. Có chủ trương định hướng tập hợp vào phát triển những ngành hàng, mặt hàng chủ lực để làm trọng tâm điều tiết thị trường và động lực thúc đẩy các ngành hàng, mặt hàng khác phát triển theo. Điều tiết lưu thông hàng hoá còn có một ý nghĩa quan trọng nữa đối với Nhà nước ta trong việc thực hiện các chính sách kinh tế đối với vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc ít người. Đây là một trong những đặc điểm thể hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Được thể hiện ở việc trợ giá, trợ cước cho nhiều mặt hàng để người tiêu dùng, cũng như người sản xuất ở vùng sâu, vùng xa. Giúp người sản xuất có thể tồn tại được khi mà giá cả hàng hoá sản xuất thấp hơn chi phí. Tất cả những vấn đề đó đặt ra cho cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại phải có kế hoạch, biện pháp để thực hiện nội dung quản lý của mình đạt được những kết quả tốt nhất.
Sáu là, quản lý chất lượng hàng hoá lưu thông trong nước và hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Ngày nay khi mà hàng hoá đã tràn ngập thị trường, không còn cảnh tem phiếu như thời bao cấp. Người tiêu dùng có quyền lựa chọn hàng hoá mà mình có nhu cầu. Mỗi mặt hàng trên thị trường tồn tại vô vàn chủng loại : hàng nội, hàng ngoại, hàng gia công và hàng nhái. Khi hàng hoá đã phong phú về chủng loại dồi dào về số lượng thì vấn đề chất lượng hàng hoá luôn được coi là trọng tâm, có tính quyết định. Vì vậy để quản lý một cách chặt chẽ hơn về chất lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường trong nước là một việc làm mang tính cấp thiết và liên tục. Quản lý tốt được hàng hoá lưu thông trên thị trường sẽ bảo đảm được quyền cho người tiêu dùng, giúp các nhà sản xuất chân chính giúp giữ được uy tín hàng hoá của mình. Tránh việc hàng hoá kém chất lượng vẫn được lưu thông. Tạo nên một thị trường ổn định. Hơn nữa việc quản lý chất lượng hàng hoá xuất khẩu đóng một vai trò rất quan trọng. Quản lý tốt sẽ giúp cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam tạo được lòng tin, uy tín nơi bạn hàng quốc tế, tìm được chỗ đứng vững chắc cho mình.
Bảy là, tổ chức, hướng dẫn hoạt động xúc tiến thương mại. Khi mà người sản xuất tăng lên theo cấp số nhân, người tiêu dùng chỉ tăng lên theo cấp số cộng. Vấn đề đặt ra cho sự tồn tại và phát triển của các nhà sản xuất là phải tiêu thụ được hàng hoá. Như vậy xúc tiến thương mại đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc giúp các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm của mình. Không những xúc tiến thương mại đẩy mạnh việc tiêu dùng hàng hoá trong nước mà nó còn là một bộ phận quan trọng trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu. Hiện nay chúng ta mới có ban xúc tiến thương mại trực thuộc Bộ Thương mại và các bộ phận xúc tiến thuộc Sở. Với cơ cấu này chưa đáp ứng được yêu cầu mà thị trường đòi hỏi. Khi mà Việt Nam đang nỗ lực để mở rộng việc xuất khẩu hàng hoá, việc xúc tiến thương mại lại càng trở nên quan trọng. Công tác xúc tiến thương mại có quan hệ chặt chẽ đến công tác về thông tin. Trên cơ sở các thông tin, nghiên cứu, xây dựng các kế hoạch đến xúc tiến thương mại. Việc xây dựng xúc tiến thương mại, qui mô hoạt động bài bản sẽ góp phần không nhỏ trong việc phát triển sản xuất, kinh doanh của thương nhân và toàn bộ nền sản xuất của đất nước ta.
Tám là, đào tạo xây dựng đội ngũ cán bộ thương mại. Thương mại là một lĩnh vực hoạt động nó không trực tiếp tạo ra sản phẩm vật chất song nó cũng đóng góp không nhỏ vào thu nhập quốc dân. Lao động trong lĩnh vực thương mại không phải đơn thuần là lao động phổ thông. Lao động ở đây đòi hỏi phải có trình độ. Hoạt động trong lĩnh vực này đòi hỏi người lao động phải có kiến thức, kỹ năng, năng động sáng tạo. Công tác đào tạo xây dựng đội ngũ cán bộ thương mại có tính chiến lược lâu dài. Tổ chức tốt công tác này sẽ tạo ra nguồn nhân lực giỏi trong lĩnh vực quản lý và phát triển ngành thương mại. Khi mà chúng ta mở rộng quan hệ với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là những nước phát triển thì trình độ của người cán bộ đòi hỏi rất cao. Có như vậy chúng ta mới có thể hợp tác với nước ngoài một cách bình đẳng.
Chín là, tổ chức quản lý công tác nghiên cứu khoa học thương mại. Đây là một công việc mang tính chất vĩ mô. Cơ quan quản lý nghiên cứu các qui luật, các cơ chế, chính sách về thương mại cả trong và ngoài nước để áp dụng những yếu tố phù hợp nhất.
Mười là, ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế về thương mại. Trong hoạt động ngoại giao quan hệ ngoại thương là một lĩnh vực quan trọng. Trong giai đoạn Việt Nam đang mở rộng quan hệ ngoại thương, tiến trình hội nhập khu vực và thế giới. Với vai trò là một thành viên chúng ta phải tuân thủ và chấp hành các qui định, điều ước của khu vực cũng như trên thế giới trong hoạt động ngoại giao nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng. Trong quan hệ với nước ngoài vừa phải thoáng để phù hợp với các nước, vừa phải phù hợp với nền kinh tế, chính sách kinh tế của nước ta. Bảo vệ thị trường trong nước, bảo đảm quyền lợi của Việt Nam.
Mười một là, đại diện và quản lý hoạt động thương mại Việt Nam ở nước ngoài. Việt Nam đã và đang thiết lập mối quan hệ ngoại thương với rất nhiều quốc gia trên thế giới, hàng hoá của chúng ta đang từng bước thâm nhập tìm được chỗ đứng trên thị trường thế giới. Hiện nay Việt Nam đã có hơn 40 đại._. diện thương mại ở nước ngoài trực tiếp chịu sự quản lý của Bộ Thương mại. Sự xuất hiện của hoạt động này cần có sự hướng dẫn và định hướng của cơ quan quản lý nhằm đưa hoạt động này phát triển hơn nữa và đạt hiệu quả cao. Tuân thủ nghiêm chỉnh các qui tắc trong và ngoài nước về hoạt động thương mại.
Mười hai là, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển Thương mại và việc chấp hành pháp luật về Thương mại, xử lý các vi phạm pháp luật về thương mại, tuyên truyền tổ chức việc đấu tranh chống buôn lậu, buôn bán hàng cấm, hàng giả, chống đầu cơ lũng đoạn thị trường, kinh doanh trái phép và các hành vi vi phạm khác trong hoạt động Thương mại. Đây là một nội dung lớn, nhiệm vụ quan trọng của một cơ quan quản lý Nhà nước về Thương mại. Trực tiếp do Cục quản lý thị trường thuộc Bộ Thương mại và các Chi cục quản lý thị trường thuộc Sở thực hiện. Đối với công việc này do sự nỗ lực của cán bộ công nhân viên trong ngành đã đạt được một số thành tựu nhất định. Chính sách, quy hoạch kế hoạch phát triển thương mại mà đúng đó là yếu tố tiên quyết cho sự phát triển. Nhưng nếu việc kiểm tra kiểm soát không có hiệu quả thì khó có thể thực hiện được các chính sách, kế hoạch đi theo đúng hướng đặt ra. Kiểm tra kiểm soát thị trường giúp ổn định thị trường, chống và loại bỏ các hành vi vi phạm pháp luật.
Trên đây là 12 nội dung về quản lý Nhà nước về thương mại của cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại từ trung ương đến địa phương tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan. Đối với Bộ Thương mại là cơ quan thay mặt Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước ở trung ương sẽ thực hiện những nội dung quản lý Nhà nước như việc ban hành các văn bản phát triển thương mại, ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế, đại diện và quản lý hoạt động thương mại của Việt Nam ở nước ngoài.
Còn lại 9 nội dung thì cả bộ máy cơ quan quản lý Nhà nước từ trung ương đến địa phương thực hiện theo cấp quản lý của mình.
3. Hệ thống tổ chức cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại
3.1. Tổ chức hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước ta về thương mại
- Chính phủ là cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại, thống nhất trên toàn lãnh thổ.
- Bộ Thương mại chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện việc quản lý Nhà nước về thương mại.
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm quản lý Nhà nước về thương mại đối với lĩnh vực được phân công phụ trách. Chính phủ qui định cụ thể trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc phối hợp với Bộ Thương mại để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về thương mại.
- Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện việc quản lý Nhà nước về thương mại trong phạm vi địa phương theo sự phân công của Chính phủ.
3.1.1. Chức năng quản lý Nhà nước trung ương.
Ở nước ta hiện nay Bộ Thương mại là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại của tất cả các thành phần kinh tế trong phạm vi cả nước, bao gồm hoạt động thương mại của các tổ chức và cá nhân người nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam.
Bộ Thương mại thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước của mình theo Nghị định 15/CP ngày 2/3/1993 cụ thể như sau :
- Xây dựng trình Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền các qui chế về quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu.
- Quản lý hạn ngạch xuất nhập khẩu, cấp và thu hồi giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu đối với các tổ chức kinh tế theo sự phân cấp của Chính phủ, căn cứ vào định hướng của Đảng và Chính phủ trong từng thời kỳ ban hành các văn bản cần thiết qui định các nội dung cụ thể về xuất nhập khẩu.
- Cấp giấy phép xuất nhập khẩu cho các tổ chức liên doanh với nước ngoài theo Luật đầu tư nước ngoài.
- Thực hiện việc quản lý Nhà nước về hoạt động tư vấn, môi giới, hội chợ, quảng cáo, giới thiệu hàng hoá và các hoạt động xúc tiến thương mại ở trong và ngoài nước.
- Phối hợp với các cơ quan có liên quan xét duyệt các chương trình dự án đầu tư gián tiếp về thương mại.
- Xét cho phép các tổ chức kinh tế nước ngoài lập văn phòng đại diện hoặc công ty, chi nhánh ở Việt Nam.
- Quản lý chỉ đạo nghiệp vụ các cơ quan đại diện kinh tế thương mại của Việt Nam đặt ở nước ngoài.
- Soạn thảo trình Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền các qui chế quản lý hoạt động thương mại và dịch vụ thương mại ở trong nước. Xây dựng soạn thảo kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế thương mại đối với miền núi, vùng cao, vùng đồng bằng dân tộc ít người.
- Tổ chức tiếp nhận, xử lý và cung cấp thông tin kinh tế thương mại trong nước và trên thế giới phục vụ cho các tổ chức kinh tế theo sự chỉ đạo của Chính phủ.
- Quản lý Nhà nước về công tác đo lường và chất lượng hàng hoá trong hoạt động thương mại thuộc lĩnh vực Bộ Thương mại phụ trách trên thị trường cả nước.
- Hướng dẫn và chỉ đạo cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại ở địa phương trên các mặt nghiệp vụ chuyên môn.
Để thực hiện đầy đủ, đúng đắn và hiệu lực Bộ Thương mại nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của các chức năng nhiệm vụ của mình. Đó là cơ quan quản lý Nhà nước cao nhất về thương mại. Theo tinh thần mới của Luật Thương mại bao gồm 12 nội dung về quản lý Nhà nước về thương mại Bộ Thương mại phải đi vào xem xét phân tích giữa chức năng nhiệm vụ trách nhiệm của mình theo Nghị định 95/CP ra ngày 2/3/1993 là văn bản đầu tiên qui định về chức năng nhiệm vụ quyền hạn của Bộ Thương mại sau khi đất nước mới chuyển đổi nền kinh tế. Do đó nó còn nhiều điểm thiếu hoặc chưa phù hợp với yêu cầu mới của quản lý thương mại hiện nay mà trong Luật Thương mại đặt ra : có nghĩa là ở Luật Thương mại đã có những bước tiến mới hơn. Hay nói cách khác chưa có sự thống nhất giữa chức năng, nhiệm vụ quyền hạn về quản lý Nhà nước của Bộ Thương mại giữa Nghị định 95/CP và Luật thương mại đó bao gồm các vấn đề sau :
Trong bối cảnh đất nước ta hiện nay đang trong giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường, nền kinh tế phát triển theo hướng mở rộng quan hệ, với xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá, trong mọi hoạt động kinh tế nói chung và trong lĩnh vực thương mại nói riêng có sự cạnh tranh rất khốc liệt giữa các thành phần kinh tế đặc biệt giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế ngoài quốc doanh (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Từ tình hình thực tế này khi xây dựng Luật Thương mại đã thấy cần thiết phải đưa việc xúc tiến thương mại vào hoạt động và đây là một yêu cầu cấp thiết có tầm quan trọng rất lớn. Song thực tế ở Nghị định 95/CP ngày 4/12/1993 chưa đề cập nhiều đến vấn đề này.
Thứ hai, quản lý chất lượng hàng hoá lưu thông trong nước và hàng hoá xuất nhập khẩu là một vấn đề lớn đătj ra đối với ngành thương mại. Từ trước đến nay chúng ta chưa có uy tín, chỗ đứng trên thị trường thế giới vì vậy để khẳng định được mình và từng bước thâm nhập vào thị trường thế giới cũng như củng cố lòng tin trên thị trường trong nước việc quản lý chất lượng hàng hoá không thể coi nhẹ. Hiện nay song song tồn tại hai bộ phận quản lý chất lượng hàng hoá đó là một bộ phận của Bộ Thương mại và một bộ phận của Cục Tiêu chuẩn đo lường thuộc Bộ Công nghiệp và Môi trường.
Bộ phận của Bộ Thương mại hoạt động theo chức năng qui định của Nghị định 95/CP ngày 4/12/93 thì không phù hợp với yêu cầu của Luật Thương mại.
Thứ ba, trong bối cảnh song song tồn tại nhiều thành phần kinh tế cạnh tranh nhau trên thị trường đây cũng là một nhân tố tích cực thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh song cũng xuất hiện không ít tiêu cực dẫn đến làm mất ổn định thị trường gây thiệt hại đến người tiêu dùng. Theo như Nghị định 95/CP Cục Quản lý Thị trường thuộc Bộ Thương mại thực hiện việc quản lý thị trường. Nhưng hoạt động của bộ phận này mang lại hiệu quả chưa cao, chưa phù hợp với yêu cầu thực tế, chính vì vậy mà trong Luật Thương mại đã thiết lập thanh tra chuyên ngành thương mại để thực hiện chức năng này. Phạm vi chức năng của thanh tra chuyên ngành thương mại rộng hơn.
3.1.2.Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương
Do Sở Thương mại là cơ quan chuyên môn giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh - thành phố trực thuộc trung ương thực hiện chức năng nhiệm vụ quyền hạn theo Thông tư 09 ngày 14/04/95.
Sở Thương mại quản lý Nhà nước về các hoạt động thương mại bao gồm xuất nhập khẩu, kinh doanh trên thị trường nội địa, dịch vụ thương mại và thống nhất chỉ đạo công tác quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh bao gồm việc tổ chức phối hợp hoạt động giữa các ngành ở địa phương trong việc chống đầu cơ buôn lậu, sản xuất và buôn bán hàng giả và các hành vi kinh doanh trái phép khác.
Sở Thương mại chịu sự chỉ đạo hướng dẫn kiểm tra về chuyên môn. Sở Thương mại có 5 nhiệm vụ và quyền hạn sau :
- Tổ chức thực hiện pháp luật, cơ chế chính sách.
- Công tác qui hoạch, kế hoạch và phát triển thương mại.
- Công tác thanh tra, kiểm tra thương mại quản lý thị trường.
- Công tác đào tạo.
- Giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước thuộc tỉnh hoạt động thương mại.
Qua nhiều năm thực hiện theo Thông tư 09/TTLT ngày 14/4/1995 này do sự thay đổi của tình hình kinh tế và xã hội nên Thông tư trên bộc lộ ra nhiều điểm bất cập đó là trên thực tế chức năng của Sở Thương mại với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại tại tỉnh, thành phố bị mờ nhạt, bởi vì những chức năng nhiệm vụ qui định còn chung chung, thiếu cụ thể, đặc biệt là không xác định được những nhiệm vụ cụ thể mà Sở Thương mại phải thực hiện. Một số công việc quan trọng liên quan đến quản lý Nhà nước về thương mại thì lại không do Sở Thương mại thực hiện như việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do Sở Kế hoạch và Đầu tư làm, cấp giấ phép kinh doanh cho các hộ kinh doanh thuộc NĐ 66/HĐBT do huyện làm.
Do những điểm bất cập trên đây và những nội dung về quản lý Nhà nước và thương mại được qui định trong Luật Thương mại mà Bộ Thương mại, Ban tổ chức của Bộ Thương mại về chuyên môn, nghiệp vụ và việc thực hiện cơ chế chính sách, pháp luật thương mại.
Trong thông tư 36/TTLT ngày 27/01/2000 qui định 8 nhiệm vụ và quyền hạn của Sở Thương mại.
- Công tác qui hoạch, kế hoạch và tổ chức thị trường.
- Công tác phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện pháp luật về thương mại.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát thị trường.
- Công tác quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh thương mại trên địa bàn Sở.
- Công tác đào tạo.
- Công tác chỉ đạo hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ quản lý nhà nước về thương mại đối với cơ quan quản lý về thương mại ở cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và quận thuộc thành phố trực thuộc trung ương.
- Yêu cầu các cơ quan quản lý chuyên môn khác của Uỷ ban nhân dân tỉnh cung cấp thông tin có liên quan tới hoạt động thương mại các tổ chức và cá nhân hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh cung cấp số liệu thống kế báo cáo kết quả hoạt động thương mại của đơn vị mình.
Từ qui định quyền hạn và nghĩa vụ giữa hai Thông tư 09/TTLT ngày 14/4/1995 và Thông tư 36/TTLT ngày 27/1/2000 ta thấy ở Thông tư 36 đầy đủ và chi tiết hơn phù hợp hơn với những nội dung quản lý Nhà nước về thương mại qui định trong Luật Thương mại và phần nào giải quyết được những bất cập ở Thông tư số 09. Bổ sung những quyền hạn nhiệm vụ mới theo yêu cầu thực tế. Song đây mới chỉ là những điểm mới mà trên lý thuyết ta chỉ ra. Thông tư 36/TTLB này mới được ban hành ngày 27/1/2000 thay thế Thông tư 09/CP ngày14/4/1995. Để áp dụng văn bản pháp luật này vào cuộc sống hay triển khai Thông tư 36/2000 TTLT đạt được những điều như chúng ta mong muốn là một điều rất khó và cần sự cố gắng nỗ lực tự tiếp thu nghiên cứu một cách nghiêm túc của cả cơ quan cấp trên và cấp dưới.
Hệ thống quản lý Nhà nước về thương mại từ trung ương đến địa phương bao gồm Bộ Thương mại, Sở Thương mại và cuối cùng là Phòng Thương mại. Thương mại là mộtlĩnh vực hoạt động quan trọng và rộng khắp. Theo như định nghĩa về hoạt động thương mại trong Luật Thương mại thì thương mại có ở khắp nơi và nó có vai trò rất quan trọng. Chính vì vậy mà ta không thể buông lỏng quản lý Nhà nước về hoạt động này. Ở Thông tư số 09/TTLB ra ngày14/04/1995 có qui định tổ chức quản lý Nhà nước về thương mại ở huyện chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra của Sở Thương mại về chuyên môn, nghiệp vụ và có biên chế nằm trong Phòng kế hoạch tài chính huyện chuyên làm công tác hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, thanh tra về thương mại trên địa bàn huyện, tiếp nhận và thẩm định hồ sơ của các hộ xin đăng ký kinh doanh thương mại theo NĐ 66/HĐBT. Hoạt động thương mại ở cấp huyện ngày càng phát triển và phức tạp, song do biên chế quá ít không chuyên trách một lĩnh vực nhất định nên việc quản lý Nhà nước về thương mại ở cấp huyện gần như bị buông lỏng.
TrongThông tư 36 TTLT/2000/BTM-BTCCB đã bổ sung việc thànhlập riêng các phòng thương mại huyện tuỳ thuộc vào cấp độ đô thị và số thương nhân kinh doanh trên địa bàn huyện. Đây là một điểm mới trong thông tư này và nó sẽ giúp các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, quận thuộc thành phố trực thuộc Trung ương quản lý tốt hơn hoạt động thương mại trên địa bàn huyện.
Để cho toàn nền kinh tế nói chung và ngành thương mại nói riêng phát triển nhanh mạnh bền vững và đúng hướng trong cơ chế thị trường thì không thể thiếu sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc hoàn thiện quản lý của Nhà nước về thương mại ta phải thực hiện từ trung ương đến địa phương coi trọng như nhau ở tất cả các cấp. Để từng bước hoàn thiện quản lý Nhà nước về thương mại phải xuất phát từ thực trạng thương mại nước ta và vấn đề quản lý hiện nay giải quyết được những bất cập và thực hiện một cách tốt nhất những thay đổi đã đề ra theo đúng tinh thần của NQTW 6 và những nội dung quản lý Nhà nước về thương mại mà Luật thương mại đã qui định.
3.2.Yêu cầu khách quan của quản lý Nhà nước về thương mại hiện nay
Bước sang đầu thời kỳ đổi mới, hoạt động thương mại nhìn chung còn mang nặng tính tự phát, quản lý Nhà nước về thương mại còn nhiều lúng túng, bất cập. Do đó việc tiếp tục hoàn thiện quản lý Nhà nước về thương mại đặt ra như một đòi hỏi tất yếu. Cụ thể là :
+ Cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý nói chung, trong lĩnh vực thương mại nói riêng đã thay đổi căn bản. Từ chỗ thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã là chủ yếu, chiếm ưu thế tuyệt đối trong nền kinh tế với cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ, chuyển sang thương mại nhiều thành phần và với cơ chế kinh doanh, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần đều được đặt trước thị trường, cạnh tranh quyết liệt, tồn tại và phát triển trên cơ sở qui luật thị trường. Điều đó đã và đang đòi hỏi phải từng bước đổi mới và hoàn thiện hệ thống quản lý và hệ thống tổ chức các doanh nghiệp kinh doanh thương mại trong nền kinh tế quốc dân.
Doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh ngày càng sa sút trước sự biến đổi của cơ chế thị trường, nhiều doanh nghiệp thua lỗ phải giải thể, bên cạnh đó các thành phần kinh tế khác thì ngày càng phát triển theo chính sách kinh tế nhiều thành phần. Sự chuyển đổi ấy phát sinh không ít tiêu cực tự phát, vô tổ chức. Do đó cần từng bước lập trật tự trên cả hai phương diện: Hệ thống kinh doanh và hệ thống quản lý.
Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước chưa hoàn thiện, không xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống tổ chức thương mại từ trung ương đến cơ sở, chưa tách hẳn chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng quản lý kinh doanh theo qui định của Luật thương nghiệp.
Đội ngũ cán bộ chậm được thay đổi cho phù hợp với tình hình mới, công tác đào tạo lại cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, một bộ phận cán bộ đã bị thoái hoá, biến chất, tham ô, hối lộ ... nhưng cũng chưa có qui định chặt chẽ về xử lý hình thức kỷ luật đã gây ảnh hưởng đến hoạt động thương mại.
Tất cả các yêu cầu trên đang đòi hỏi cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại phải tạo kịp môi trường, định hướng điều tiết, kiểm soát, dẫn dắt sao cho hệ thống thương mại hoạt động hiệu quả, nghiêm minh, góp phần phát triển kinh tế quốc dân. Muốn cho thương nghiệp ngày càng phát triển phù hợp với xu thế thời đại, chúng ta cần phải đánh giá đúng đắn tình hình và thực trạng quản lý Nhà nước về thương mại ở nước ta hiện nay.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI
I.THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ THƯƠNG MẠI TRONG NƯỚC
1. Khái quát đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế của Việt Nam
1.1. Một số đặc trưng của Việt Nam
Việt Nam là một nước có vị trí khá quan trọng nằm trên bán đảo Đông Dương, có chiều dài tiếp giáp với biển rất lớn, bên cạnh Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan là một trong các thành viên của khu vực Đông Nam Á, là khu vựcđang phát triển nhanh của thế giới. Với nguồn tài nguyên dồi dào và phong phú như tài nguyên đất đai, tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản. Đây là những điều kiện thuận lợi cho chúng ta phát triển nền kinh tế trong giai đoạn công nghiệp hiện đại hoá đất nước.
Việt Nam có một hệ thống bờ biển, sông ngòi lớn, đây là một thuận lợi lớn cho việc phát triển giao thông đường thuỷ, một yếu tố rất quan trọng trong lĩnh vực thương mại.
1.2. Tình hình chung về thương mại
Những năm qua thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, ngành thương mại đã cùng các ngành, các địa phương nỗ lực phấn đấu, đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá và dịch vụ, góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc trên thị trường trong nước và vị thế mới trên thị trường nước ngoài.
Chuyển việc mua bán hàng hoá từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang mua bán theo cơ chế thị trường. Giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị và quan hệ cung cầu.
Chuyển thị trường từ trạng thái chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính kiểu "tự cấp tự túc" sang tự do lưu thông theo qui luật kinh tế thị trường và theo pháp luật. Với sự tham gia của nhiều thành phần phần kinh tế bước đầu đã huy động được các tiềm năng về vốn, kỹ thuật vào lưu thông hàng hoá, làm cho thị trường trong nước phát triển sống động. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá xã hội tăng nhanh.
Thị trường ngoài nước được mở rộng theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Các loại hình dịch vụ gắn liền với lưu thông hàng hoá phát triển manh, thúc đẩy kinh doanh, sản xuất, góp phần phục vụ đời sống và giải quyết việc làm cho người lao động.
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 10 năm (1991-2000) qua hai chặng đường thực hiện trong 2 kỳ kế hoạch hoá 5 năm. Trong 5 năm đầu 1991-1995 đã hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kinh tế, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 8.2% trong đó GDP các ngành dịch vụ tăng bình quân 13.6%/năm.
Giai đoạn hai là giai đoạn 1996-2000 là bước quan trọng của thời kỳ phát triển mới, tuy nhiên tình hình không như dự kiến, nền kinh tế nước ta những năm đầu của kế hoạch 5 năm 1996-2000 nhất là từ giữa năm 97 đến nay phải đối mặt với những khó khăn và thử thách rất quyết liệt từ cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực nên tốc độ tăng trưởng giảm bình quân chỉ còn 6.0%. Tuy vậy từ năm 1991 đến nay GDP trung bình năm tăng 7% so với kế hoạch đề ra là (6.9 - 7,5%). Dự kiến GDP năm 2001 có thể gấp đôi năm 1991 nhưng GDP bình quân đầu người chỉ đạt 1.7 lần năm 1990.
Chỉ số giá tiêu dùng trên thị trường xã hội trong giai đoạn 96-99 tăng không đáng kể năm 96 so với năm 95 bằng 101%, năm 97 so với 96 là 103,6%, năm 1998 so với 97 là 109.2% đặc biệt năm 99 so với 98 là 100.1%, như vậy qua các năm ta thấy giá tăng chậm, xu thế ổn định điều này chứng tỏ nền kinh tế của chúng ta đang bị chững lại. Tuy vậy ở một số mặt hàng chỉ số giá cả qua các năm cùng tăng đáng kể như lương thực, thực phẩm điều đó cho ta thấy sự phát triển tốt của ngành đó tuy nhiên bên cạnh đó là sự chững lại của một số ngành như xây dựng.
Trong thời kỳ 5 năm 1991-1995 tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội tăng với tốc độ bình quan trên 30%/năm tạo ra sự sôi động và những thành tựu quan trọng trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá dịch vụ, góp phần cơ cấu lại các khu vực và thị trường trong nước.
Từ năm 1996 đến nay tốc độ tăng tổng mức bán lẻ xã hội tăng chậm lại chỉ mức 10 - 12% (kể cả tốc độ tăng giá cả). Tình trạng khó tiêu thụ một số mặt hàng trên thị trường đã khiến cho một số doanh nghiệp chỉ sản xuất cầm chừng.
Các thành phần kinh tế tham gia lĩnh vực Thương mại phong phú đa dạng. Thương nghiệp quốc doanh (Trung ương và địa phương) chiếm tỷ trọng trên 20% tổng mức lưư chuyển hàng hóa bán lẻ. Thương nghiệp hợp tác xã chiếmtỷ trọng 0,7%. Thương nghiệp hộ gia đình ngoài quốc doanh, cá thể chiếm tỷ trọng 74%.
Qua số liệu trên ta thấy trong tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ toàn xã hội thì thương nghiệp Nhà nước chiếm một tỷ trọng chưa lớn mà chủ yếu do thương nghiệp ngoài quốc doanh. Các hộ kinh doanh cá thể chiếmgần 3/4 tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ trong đó thương nghiệp Nhà nước chỉ chiếm chưa được 1/4. Thành phần hợp tác xã chiếm tỷ trọng không đáng kể chưa đầy 1%. Tuy nhiên thương nghiệp Nhà nước đã từng bước chuyển đổi tổ chức và phương thức kinh doanh. Đối với những mặt hàng thiết yếu các doanh nghiệp Nhà nước đã vươn lên nắm 70% tỷ trọng bán buôn và cũng chi phối được thị trường bán lẻ. Khu vực kinh tế tập thể đã từng bước được củng cố, phát triển và làm ăn có hiệu quả.
Để có được những kết quả trên đây là sự đóng góp tích cực của các thành phần kinh tế và sự quản lý kinh tế nói chung, quản lý Nhà nước về Thương mại nói riêng.
2. Thực trạng các thành phần kinh tế trong ngành Thương mại
Hoạt động của các lực lượng kinh tế trong ngành Thương mại bao gồm:
2.1. Khối Thương mại Nhà nước (DNNN trong lĩnh vực Thương mại)
Thương nghiệp Nhà nước đã có sự chuyển đổi tổ chức và phương thức kinh doanh, từng bước ứng với cơ chế mới, đang giữ tỷ trọng khá lớn về xuất nhập khẩu, 70% bán buôn, có tỷ trọng cao trong bán lẻ đối với một số mặt hàng thiết yếu, đóng góp ngày càng nhiều cho Nhà nước, thực hiện các mặt hàng chính sách đối với đồng bào miền núi và dân tộc. Một số doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, phát huy được vai trò chủ đạo trên thị trường nội địa, bước đầu tìm chỗ đứng trên thị trường thế giới. Một số doanh nghiệp đang chuyển đổi tổ chức và thực hiện quá trình liên kết và tích tụ, mở rộng thị trường là lực lượng kinh tế mạnh của Nhà nước trong việc điều hoà cung cầu, ổn định giá cả.
Số doanh nghiệp thương nghiệp Nhà nước qua các năm tăng khá nhanh cả về số tuyệt đối và số tương đối. Năm 1992 số doanh nghiệp thương nghiệp Nhà nước là 277 chiếm 18.5% tổng số doanh nghiệp Nhà nước, đến năm 1996 số doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực Thương mại là 1,796 chiếm 27.5% tổng số doanh nghiệp Nhà nước trong cả nước. Như vậy nếu so sánh số lượng doanh nghiệp Thương mại Nhà nước năm 1996 so với 1992 thì tăng gấp 6.48 lần. Như vậy chỉ qua một số năm mà số lượng các doanh nghiệp Nhà nước tham gia vào lĩnh vực thương mại tăng khá nhanh, điều đó chứng tỏ thương mại là một hoạt động đầy hứa hẹn.
Các doanh nghiệp Nhà nước đã tổ chức được mạng lưới bán hàng một số mặt hàng thiết yếu thuận tiện, từ trung ương đến địa phương phục vụ đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng một cách kịp thời. Các doanh nghiệp biết cách phối hợp chặt chẽ giữa người sản xuất và tiêu dùng để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Một số doanh nghiệp triển khai các địa điểm kinh doanh mới theo phương thức liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác.
Tuy nhiên do hoạt động trên đại bàn rộng và đứng trước sự phát triển nhanh chóng của khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các tiểu thương nhiều doanh nghiệp thiếu vốn phải vay dưới nhiều hình thức, nhiều doanh nghiệp có công nợ vượt quá xa mức bình thường, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh, hiệu quả kinh doanh không cao. Có doanh nghiệp phá sản, cơ sở vật chất xuống cấp, thiếu vốn. Song với địa bàn phục vụ rộng nên các doanh nghiệp Nhà nước chưa đảm đương được nhiệm vụ bán lẻ trên khắp các khu vực.
2.2. Khối hợp tác xã Thương mại
Hợp tác xã Thương mại dịch vụ là một trong những loại hình khá phổ biến trong giai đoạn nền kinh tế tập trung. Sau khi nền kinh tế đổi mới loại hình kinh tế này giải thể hầu hết do hoạt động không hiệu quả. Nhưng những năm trở lại đây loại hình kinh tế này đang từng bước củng cố và phát triển, đã góp phần vào việc lưu thông hàng hoá trên thị trường, cung cấp: hàng tiêu dùng cho dân cư và tiêu thụ nông sản. Đồng thời đóng góp vào ngân sách Nhà nước. Do luật hợp tác xã ra đời khá muộn năm 1997 cho nên sự phát triển của thành phần này tương đối chậm chiếm tỷ trọng không đáng kể trong ngành Thương mại nói riêng và nền kinh tế nói chung. Tuy vậy khối hợp tác xã cũng là một thành phần kinh tế hứa hẹn trong tương lai sẽ phát triển nhanh và đóng góp đáng kể vào thu nhập của nền kinh tế đất nước.
2.3. Các thành phần kinh tế khác
+ Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Nhìn chung, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động tương đối ổn định có hiệu quả. Còn một số ít hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ phải giải thể hoặc ngừng hoạt động. Việc quản lý sau cấp phép đối với các doanh nghiệp này trong thời gian qua chưa chặt chẽ.
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Cùng với tốc độ tăng vốn đầu tư nước ngoài vào các dự án trong toàn quốc, kim ngạch xuất khẩu thuộc thành phần kinh tế này tăng nhanh qua các năm. Kin ngạch xuất khẩu năm 1993 đạt 577 triệu USD cho đến năm 1999 đạt 5,972triệu USD con số này có khả năng lên đến 6,600 triệu USD vào năm 2000.
+ Hộ tiểu thương (hộ kinh doanh nhỏ theo Nghị định 66/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng này là Chính phủ).
Hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh này phong phú về ngành nghề, mặt hàng kinh doanh, tham gia ở tất cả các khu vực trên toàn quốc.
Số hộ kinh doanh tăng lên nhanh chóng góp phần thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư làm phong phú thị trường.
Đặc điểm của nhóm này đông nhưng vốn nhỏ, khả năng đầu tư mở rộng, tiếp nhận Thông tin khó khăn, nghiệp vụ chuyên môn hạn chế.
3. Thực trạng hoạt động Thương mại qua các thời kỳ từ năm 1991 đến nay
3.1. Tình hình thực hiện mục tiêu kế hoạch Thương mại-Dịch vụ 1991- 1999
3.1.1. Hoạt động thương mại dịch vụ
Tổng mức bán lẻ trên thị trường xã hội năm 1991 là 33,403,625 triệu đồng đến năm 1995 đạt 121,160,000 triệu đồng.
Tổng mưc lưu chuyển hàng hoá bán lẻ trên thị trường xã hội năm 1990 là 5,789 tỷ đồng đến năm 1995 là 27,367 tỷ đồng, tăng gấp 4 lần so với năm 90. Tốc độ tăng trung bình năm là 37%, đã đáp ứng được nhu cầu hàng hoá tiêu dùng cho nhân dân.
Khu vực kinh tế Nhà nước có mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ chiếm tỷ trọng không lớn. Có tăng về số tuyệt đối, song có xu hướng giảm dần tỷ trọng qua các năm. Năm 1990 lưu chuyển hàng hoá bán lẻ của kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng 30.42% năm 91 xuống còn 26.95% và đến năm 95 chỉ còn 23.05%.
Khu vực kinh tế tập thể (hợp tác xã) hoạt động trong lĩnh vực Thương mại ngày càng sa sút. Tỷ trọng mức lưu chuyển hàng hoá của khu vực này rất nhỏ hầu như không đáng kể. Năm 1990 chiếm 3% tổng mức lưu chuyển bán lẻ toàn xã hội đến năm 1995 chỉ chiếm 1%. Đây là một thực trạng về thành phần kinh tế tập thể làm ăn kém hiệu quả trong gia đoạn này.
Thành phần kinh tế tổng hợp (Kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) là thành phần kinh tế chiếm đa số trong tổng mực lưu chuyển hàng hoá bán lẻ toàn xã hội. Về số tuyệt đối năm 1990 đạt 12.723 tỷ đến năm 1995 đạt 90.313 tỷ tăng 7 lần so với năm 90. Đối với các thành phần kinh tế này tăng nhanh cả về số tuyệt đối và tỷ trọng cũng tăng đáng kể. Năm 1990 chiếm 67% tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ toàn xã hội, đến năm 1995 tăng lên 76% chiếm 3/4 mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ của xã hội, đây là con số lớn. Như vậy, thành phần kinh tế hỗn hợp này gần như thao túng toàn bộ thị trường bán lẻ.
3.1.2. Hoạt động xuất nhập khẩu
Với chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế, tình hình hoạt động ngoại thương ở nước ta giai đoạn 91- 95 có những bước phát triển đáng kể. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu thời kỳ 1991- 1995 là 39,879 tỷ USD. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm 28%/năm (tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu 35.37%). Ta thấy một điều tốc độ tăng về kim ngạch xuất nhập khẩu tăng gấp 3- 4 lần tốc độ tăng trưởng trong cùng một thời kỳ.
Cơ cấu hàng xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng hàng chế biến sâu và nhóm hàng công nghiệp tăng lên, số lượng mặt hàng chủ lực tăng nhanh.
Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh hơn so với các doanh nghiệp có vốn trong nước. Nếu như thời kỳ 88- 89 chưa tính kim ngạch xuất khẩu dầu thô thì mới chỉ xuất khẩu được 52 triệu USD năm 1992 tăng lên 112 triệu USD và năm 1995 tăng lên 440 triệu USD.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu chuyển dịch theo hướng thị trường Châu Âu và Châu Mỹ tăng dần, thị trường Châu Á giảm dần.
Thời kỳ bao cấp thị trường xuất khẩu chính của ta là Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. Năm 1990 tỷ lệ này 42.4% năm 1991, giảm mạnh xuống còn 11.1%, năm 95 còn 2.5%. Châu Á trở thành thị trường xuất khẩu chính của ta. Tỷ trọng của khu vực này năm 1991 là 74% nhưng tỷ trọng này giảm dần cho đến năm 1995 còn hơn 60%.
Trong giai đoạn tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu cũng khá nhanh trung bình là 35.37%. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị, vật tư, nguyên liệu hàng tiêu dùng thiết yếu cho phát triển kinh tế. Nhập khẩu đã đảm bảo được nhu cầu thiết bị, máy móc, vật tư nguyên liệu hàng tiêu dùng thiết yếu cho phát triển kinh tế. Hàng hoá phong phú đa dạng, giá cả ổn định. Cơ cấu hàng nhập khẩu đã được cải tiến năm 1991 tỉ trọng nhập máy móc thiết bị chiếm 21.8% tổng kim ngạch nhập khẩu đến năm 1995 chiếm 25.7%. Nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất luôn chiếm tỉ lệ cao hàng năm đều ở mức trên 60% tổng kim ngạch nhập khẩu. Hàng tiêu dùng tăng không đáng kể, năm 1991 tỉ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng chiếm 13.9% đến năm 1995 chiếm 15.3%. Trong thời kỳ 91- 95 , những năm đầu thì nhập siêu không đáng kể song năm 94 và 95 thì thâm hụt cán cân Thương mại khá lớn điển hình là năm 1995 nhập siêu 270.6 triệu USD.
BIỂU I: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU 1991- 1995
Nguồn: Báo cáo tình hình thương mại 1990- 2000 (Bộ Thương mại)
Đơn vị tính: Triệu USD
Danh mục
1991
1992
1993
1994
1995
Mức tăng bình quân/năm
I. Tổng kim ngạch xuất khẩu
2,087
2,581
2,985
4,054
5,449
27%
* Phân theo cơ cấu
- Hàng nông lâm thuỷ sản
1,090
1,272
1,444
1,948
2,521
23.3%
- Hàng công nghiệp nhẹ v._.hững hộ kinh doanh không chấp hành đúng chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
1.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp
Ở nước ta, qua những năm đổi mới. Nền kinh tế với các loại hình sở hữu khác nhau có điều kiện đua tài cạnh tranh trong thị trường có sự định hướng của Nhà nước. Các doanh nghiệp đã góp phần đáng kể vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, nhưng nhìn chung hiệu quả chưa cao. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước chưa tận dụng tốt những cơ hội phát triển do nền kinh tế thị trường tạo ra mà ngược lại bị điêu đứng trước sự cạnh tranh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài. Cần nghiên cứu "áp dụng chính sách bảo hộ hợp lý, giúp đỡ và thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh". Do vậy, trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường, vấn đề tiếp tục hoàn thiện hệ thống Thương mại Nhà nước và hợp tác xã Thương mại là một yêu cầu bức thiết trong việc hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động Thương mại. Đó là:
Sắp xếp lại các doanh nghiệp Thương mại hiện có, đầu tư phát triển có trọng điểm, đặc biệt đối với các doanh nghiệp được xác định là then chốt. Đồng thời thực hiện việc cổ phần hóa đối với các doanh nghiệp không nhất thiết đuy trì hình thức l00% vốn Nhà Nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động Thương mại dịch vụ, kiên quyết xử lý dứt điểm những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài. Đổi mới quản lý, đổi mới phương thức kinh doanh và cơ chế quản lý của doanh nghiệp Nhà nước. Để vốn liếng tài sản của doanh nghiệp Nhà nước sử dụng một cách có hiệu quả, có chủ sở hữu đích thực, tạo động lực thúc đẩy phát triển, cần sớm khắc phục tình trạng doanh nghiệp Thương mại Nhà nước chịu sử quản lý chi phối theo 2 bộ phận như hiện nay. Đó là sự quản lý, sự chỉ đạo không đầy đủ, thiếu rõ ràng về trách nhiệm quyền hạn chuyên môn cấp tiến với tư cách cơ quan chủ quản và chi phối quản lý về vốn của Tổng cục vốn Nhà nước. Điều này làm cho doanh nghiệp Nhà nước nói chung, doanh nghiệp Thương mại Nhà nước nói riêng vừa thụ động trước thị trường, vừa không xác định là trách nhiệm của chính doanh nghiệp.
Trong khi chờ có chủ trương về cơ chế "Chủ quản" cũng như giải quyết những vấn đề sở hữu về vốn và tài sản của doanh nghiệp Nhà nước, điều quan trọng mang tính tình thế hiện nay là phải tổ chức thật tốt bộ máy lãnh đạo cũng như quản lý trong doanh nghiệp. Phải xác định rõ tiêu chuẩn chức danh cán bộ, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ: đặc biệt là giám đốc doanh nghiệp. Giám đốc doanh nghiệp cũng phải có tư tưởng mới và luôn xác định làm giám đốc là một nghề, là một người làm thuê mà Nhà nước là chủ, được Nhà nước giao vốn và kinh doanh theo đúng mục tiêu nhiệm vụ do Nhà nước giao cho.
Các doanh nghiệp cần xác định mục tiêu chiến lược, nắm chắc thị trường, hoạt động đồng bộ, thống nhất, hợp tác chặt chẽ với người sản xuất để làm đại lý bao tiêu sản phẩm, liên doanh với sản xuất trực tiếp đầu tư sản xuất, mở rộng hệ thống đại lý, chuyển dần từ bán lẻ sang bán buôn. Việc đổi mới kinh doanh Thương mại phải đi đôi với đổi mới phương thức quản lý bằng cách hoàn thiện cơ chế khoán - hạch toán đúng theo chế độ thống kê - kế toán của Nhà nước.
Tăng cường quản lý xác định trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn cho doanh nghiệp Nhà nước.
· Các doanh nghiệp Nhà nước cần phải:
Chủ động nâng cao hiệu quả kinh doanh, đảm bảo kinh doanh có lãi, tự bổ sung vốn. Đồng thời chú trọng nghiên cứu nhu cầu vốn cho kinh doanh trong từng thời vụ, lúc mà doanh nghiệp cần mua nguồn hàng phù hợp nhất.
Rà soát lại trong từng doanh nghiệp, xác định rõ bộ phận tài sản, công nợ dây dưa, vận dụng phù hợp chính sách chế độ quy định hiện hành, tập trung xử lý đưa vào nguồn vốn lưu chuyển phục vụ sản xuất kinh doanh.
Sử dụng tốt nguồn vốn ngân sách cấp:
Ngoài nguồn vốn tín dụng Thương mại trung hạn và dài hạn được vay theo từng dự án khả thi có thể tranh thủ các nguồn vốn từ Trung ương, nguồn tín dụng ưu đãi Trên cơ sở quy hoạch đã được xác định, các đề án đã được xác định, tiến hành gọi vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước Nhanh chóng hình thành thị trường vốn tạo điều kiện để các doanh nghiệp mua bán cổ phiếu, huy động vốn trên thị trường theo các quy định của pháp luật.
Chuyển doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. Mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là chuyển một phần sở hữu Nhà nước thành sở hữu các cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh: huy động được một nguồn vốn nhất định trong và ngoài nước nhằm tăng vốn đầu tư cho kinh doanh, tạo điều kiện để người lao động thật sự làm chủ doanh nghiệp tạo sự quan tâm gắn bó của người lao động đối với doanh nghiệp. Chỉ tiến hành cổ phần hóa những doanh nghiệp kinh doanh các ngành không quan trọng, kinh doanh tổng hợp.
· Đối với hợp tác xã mua bán
Quản lý Nhà nước về Thương mại trên các địa bàn tỉnh, huyện hướng vào việc tiếp tục củng cố, phát triển các hợp tác xã theo luật hợp tác xã. Để cùng Thương mại Nhà nước thực hiện chức năng đầu tư phục vụ sản xuất, tiêu thụ hàng hóa nông sản - thực phẩm, phục vụ tiêu dùng dân cư nhất là dân cư vùng sâu vùng xa. Trên từng địa bàn tỉnh, huyện tiến hành sơ kết rút kinh nghiệm quản lý và chính sách đối với các hợp tác xã đã được củng cố và thành lập trong thời gian qua để có biện pháp phát triển trong thời gian tới. Tạo mối liên kết giữa các doanh nghiệp có vốn cổ phần chi phối của Nhà nước và hợp tác xã. Để hợp tác xã có điều kiện phát triển ổn định, đồng thời làm đại lý cho các doanh nghiệp có vốn cổ phần chi phối của Nhà nước. Hướng dẫn về pháp luật, chính sách có liên quan và giúp đỡ trong việc tổ chức hợp tác xã như điều lệ mẫu đại hội xã viên, đăng ký kinh doanh, cách hạch toán lỗ lãi, phương án ăn chia, tuyên truyền rộng rãi luật Hợp tác xã để tạo niềm tin và khuyến khích các hộ tiêu thương, các doanh nghiệp nhỏ cùng nhau góp vốn, góp sức để thành lập mới hợp tác xã.
· Các thành phần kinh tế khác.
Với các thành phần kinh tế khác quản lý Nhà nước hướng vào việc:
* Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hình thành và phát triển tận dụng khả năng kinh doanh và vốn đầu tư, đẩy nhanh tốc độ phát triển Thương mại - dịch vụ. Hướng dẫn, giúp đỡ các doanh nghiệp kinh doanh theo đúng pháp luật, đúng định hướng quy hoạch phát triển Thương mại. Cung cấp Thông tin về các chính sách, chế độ của Nhà nước có liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tiếp nhận, giải quyết nhu cầu của các doanh nghiệp kịp thời, thỏa đáng phù hợp với quy định hiện hành. Giúp các doanh nghiệp tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ cung cấp Thông tin có liên quan đến kinh tế và pháp luật.
* Tiếp tục thực hiện tốt việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp nhất là sau cấp giấy phép kinh doanh. Trường hợp vi phạm trong kinh doanh như kinh doanh không giấy phép, kinh doanh sai nội dung giấy phép, không thực hiện tốt pháp lệnh thống kê - kế toán, lợi dụng đầu cơ nâng giá, tranh mua, tranh bán, trốn lậu thuế, làm và bán hàng giả phải kiên quyết xử lý đúng pháp luật. Đối tượng những hộ không chấp hành đủ chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước phải thu hồi giấy phép và tuỳ theo mức độ vi phạm, nếu nặng phải chuyển sang xử lý hình sự. Hàng năm chúng ta phải tổ chức các hội nghị gặp gỡ các doanh nghiệp nhằm trao đổi Thông tin, giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện chính sách và pháp luật trong kinh doanh.
* Phối hợp giữa Bộ Thương mại - Sở Thương mại và các ngành, ủy ban nhân dân các cấp để quản lý và kiểm tra doanh nghiệp, tránh chồng chéo hoặc buông lỏng quản lý.
4.3. Quy hoạch phát triển mạng lưới Thương mại dịch vụ
- Quy hoạch sắp xếp các chợ
Đối với hệ thống chợ ở nước ta hiện nay đã được phần thành 3 cấp, chợ loại 1, loại 2 và 3. Ngoài ra còn có rất nhiều chợ nhỏ tự phát do đó phải có giải pháp quy hoạch sắp xếp chợ như sau:
* Quy hoạch mạng lưới chợ trong đó cải tạo, nâng cấp xây dựng một số chợ mới, quản lý chặt chẽ hoạt động của chợ nhất là đối với chợ loại 1 và loại 2. Quy hoạch và xây dựng các chợ ở các xã nông thôn theo từng quy mô hợp lý và phải phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội Ở từng địa phương để tránh tình trạng quy hoạch xong chợ mà không có người đến mua bán. Củng cố tổ chức và hoàn thiện bộ máy quản lý chợ một cách thống nhất và có hiệu quả.
- Quy hoạch mạng lưới kinh doanh các ngành hàng
Quy hoạch đối với các ngành hàng kinh doanh có điều kiện theo Nghị định 1l/CP ngày 3/3/99.
- Quy hoạch mạng lưới kinh doanh giết mổ gia súc, gia cầm
Quy hoạch các điểm giết mổ gia súc, gia cầm trên địa bàn các thành phố và các tỉnh làm cơ sở cho việc thực hiện chức năng quản lý chuyên ngành. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của từng cơ sở tư nhân để đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Quy hoạch mạng lưới kinh doanh xăng dầu khí đốt và hoá lỏng, xăng dầu và khí đốt là nguyên nhiên vật liệu rất quan trọng trong công nghiệp cũng như sinh hoạt. Vì vậy việc cung cấp dịch vụ này là rất quan trọng tránh sự cố xảy ra sẽ ảnh hưởng rất lớn trong sinh hoạt và sản xuất. Trong thời gian tới cần tiếp tục quy hoạch mạng lưới kinh doanh xăng đầu trong toàn quốc, cần thường xuyên rà soát lại quy hoạch để kịp thời điều chỉnh, bổ xung cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế. Sắp xếp và củng cố hoàn chỉnh mạng lưới kinh doanh gas để tránh tình trạng xẩy ra việc nâng giá như những tháng vừa qua.
- Quy hoạch mạng lưới kinh doanh nhà trọ
Hiện nay ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp. Sinh viên và công nhân, người làm thuê về rất đông. Từ đó nhu cầu nhà trọ cho họ tăng lên rất nhanh mà chủ yếu là tự phát ở hộ dân. Vì thế thời gian tới chúng ta phải: Quy hoạch cụ thể mạng lưới kinh doanh nhà trọ, nhà tập thể cho công nhân và sinh viên thuê. Tổng rà soát, thẩm tra và quy hoạch mạng lưới này. Quy hoạch phát triển nhà trọ thành khu vực do Nhà nước quản lý để cho thuê trách tình trạng phát triển tự pháp khó quản lý như hiện nay. Đối với các hộ xây dựng kinh doanh cho. thuê nhà trọ . phải xin phép và nộp thuế '
- Quy hoạch mạng lưới kinh doanh đá quý, vật liệu xây dựng, nhà hàng, ăn uống bình dân
Từng bước quy hoạch sắp xếp lại để các ngành nghề này đi vào hoạt động có nề nếp theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước.
2. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường để điều tiết bằng kinh tế đúng mức, đúng pháp luật tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong lĩnh vực thương mại
Để góp phần tổ chức tốt công tác thị trường thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về Thương mại trong giai đoạn hiện nay. Lực lượng quản lý thị trường từ Trung ương đến địa phương cần tăng cường thanh tra, kiểm soát việc chấp hành pháp luật thương mại, tổ chức việc đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, làm và bán hàng cấm, hàng giả, đầu cơ lũng đoạn thị trường, các hành vi kinh doanh trái phép khác vi phạm pháp luật thương mại. Đây là nội dung cơ bản được quy định trong Luật Thương mại.
Để làm tốt công tác này cần tập trung vào: Nghiên cứu từ thực tế, khuyến nghị Chính phủ sớm có Nghị định về tổ chức, quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ quyền hạn việc chuyển đổi cục quản lý thị trường thành thanh tra chuyên ngành Thương mại, trên cơ sở sắp xếp lại lực lượng quản lý thị trường theo Luật Thương mại.
Sớm sửa đổi và bổ sung pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, đồng thời ban hành những chế định pháp lý bức thiết về thương mạt để đảm bảo thực thi luật Thương mại nói riêng và pháp luật nói chung.
Bộ máy thanh tra chuyên ngành Thương mại cần được tổ chức thành hệ thống dọc, thống nhất từ trung ương đến địa phương. Từ Bộ Thương mại đến Sở Thương mại và dưới đó là các đội để bám sát địa bàn. Thống nhất phối hợp thanh tra kiểm tra và xử lý những vi phạm. Cán bộ thanh tra chuyên ngành Thương mại phải có kiến thức về quản lý thị trường, có nghiệp vụ chuyên sâu, hiểu biết, nắm vững pháp luật. Đồng thời đội ngũ cán bộ này phải là những người có nhiệt tình, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng để hạn chế những tùy tiện hay những tiêu cực cá nhân trong khi thi hành công vụ. Cần thiết phải trang bị cấp hiệu, cờ hiệu cho thanh tra chuyên ngành thương mại, thanh tra chuyên ngành Thương mại ở địa phương cần được cơ quan tài chính địa phương cấp phát trực tiếp vì trong những năm qua Sở Tài chính đã quản lý cơ quan quản lý thị trường. Do vậy, những yêu cầu bức xúc về kinh phí, phương tiện hoạt động được giải quyết kịp thời đáp ứng yêu cầu hoạt động kiểm tra kiểm soát. Nếu kinh phí hoạt động qua Sở Thương mại thì việc cấp phát đó chỉ là hình thức, thêm cầu nối và bị bó hẹp trong phạm vi kinh phí hành chính thì thanh tra chuyên ngành thương mại không thể hoạt động được.
Có chế độ đãi ngộ cho cán bộ làm công tác này như chế độ tiền lương, tiền thưởng, chế độ công tác phí và kể cả chế độ khi bị thương tật, hy sinh khi thi hành công vụ. Ngoài ra, còn có chế độ thích đáng cho mạng lưới đặc tình, chế độ mua tin quần chúng. Có sự phối hợp thường xuyên để tạo sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp thì công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại mới có kết quả, không chồng chéo nhau khi kiểm tra.
3. Rà soát thường xuyên luật lệ, chính sách đối với hoạt động thương mại dịch vụ góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý ngành thương mại của nước ta
Hoàn thiện quản lý Nhà nước về Thương mại cần tập trung vào tạo dựng môi trường lành mạnh, thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển đồng thời quản lý có hiệu quả, hiệu lực trong các hoạt Thương mại.
3.1. Hoàn thiện chính sách thị trường
Mặc dù luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân đã có tác dụng tích cực, đóng góp đáng kể vào quá trình đổi mới phát triển kinh tế nước ta. Đến nay nội dung của 2 luật trên không còn phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước, không đủ khả năng để điều chỉnh các đối tượng kinh doanh ngày càng nhiều và vô cùng phức tạp, đến nay không còn hiệu lực. Vì vậy, ngày 12/6/1999, Luật Doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X kỳ họp thứ 5 Thông qua. Đã mở rộng hơn nửa phạm vi điều chỉnh, nội dung đầy đủ hơn, bao quát hơn, phù hợp với yêu cầu tăng cường quản lý Nhà nước và yêu cầu đa dạng của giới kinh doanh. Phù hợp với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa. Góp phần không nhỏ vào việc cải thiện môi trường kinh doanh. Thúc đẩy thêm việc huy động nội lực và phát triển kinh tế nước ta trong những năm tới . .
Luật Doanh nghiệp có hiệu lực thực hiện từ ngày 1/1/2000 do đó cần có Nghị định và các văn bản có liên quan khác, cần cụ thể hóa hơn các nội dung và luật đã quy định
Nghị quyết 12/BCT ngày 3/1/1996 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã được thực hiện và có phát huy tác dụng, dần dần đã đi vào cuộc sống. Ngành Thương mại trong thời gian qua đã có những chuyển hướng nhất định. Trên cơ sở quan điểm từng bước hoàn thiện về cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý: Bộ Thương mại và cơ quan chức năng cùng các sở chuyên ngành Thương mại cần tiến hành sở kết, tổng kết rút kinh nghiệm, hướng phát triển thương mại trong thời gian tới tạo điều kiện vừa phát triển thương mại đối với thị trường trong nước mà còn định hướng phát triển thương mại với thị trường nước ngoài, đặc biệt là thị trường khu vực ASEAN.
- Tiếp lục hoàn thiện, sử dụng đúng đắn các công cụ tài chính tín dụng, thuế.
Hai luật thuế mới là thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đã được thực hiện từ năm 1999. Qua hơn 1 năm thực hiện bước đầu đã thu được một số kết quả nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc, chưa phù hợp với tình hình kinh doanh hiện nay và đang cần được Chính phủ sửa đổi bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp hơn với chủ trương của cả nước và thông lệ quốc tế. Hoàn thiện cơ chế giả, chính sách quản lý giá thật chủ động sát thực tiễn để có giải pháp hữu hiệu, tránh đột biến có thể xảy ra.
3.2. Tiếp tục nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động Thương mại
Để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động Thương mại cần tập trung giải quyết những vấn đề sau:
* Theo điều 246 luật Thương mại, Chính phủ phải thống nhất quản lý Nhà nước về Thương mại. Bộ Thương mại chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về Thương mại. Các bộ, cơ quan ngang bộ quản lý theo lĩnh vực được phân công phụ trách và phối hợp với Bộ Thương mại, UBND các cấp thực hiện việc quản lý Nhà nước về Thương mại trong phạm vi địa phương theo sự phân cấp của Chính phủ. Như vậy Bộ Thương mại là cơ quan Trung ương cao nhất thay mặt Chính phủ quản lý Nhà nước về lĩnh vực thương mại từ Trung ương đến địa phương. Tiếp đến là Sở Thương mại là cơ quan tham mưu giúp UBND tỉnh trực tiếp quản lý chức năng Nhà nước về hoạt động thương mại đối với các thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực thương mại trong phạm vi tỉnh.
Mặc dù được đánh giá ở Việt Nam "Thương mại hợp pháp vẫn chịu sự quản lý sát sao" song với Luật Thương mại nói trên, đánh giá qua quá trình thực hiện chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị, như Thương mại - Tài chính - Thuế - Quản lý thị trường - Quản lý chất lượng hàng hóa v.v... đã dẫn đến tình trạng hiện nay vừa thiếu chặt chẽ lại có sự chồng chéo giữa chức năng nhiệm vụ của các cơ quan.
Đặc biệt là đối với các hộ kinh doanh nhỏ, thì phòng Tài chính kế hoạch huyện cấp giấy phép kinh doanh, chi cục thuế chỉ chuyên về vấn đề thu thuế. Đội quản lý thị trường chuyên về vấn đề kiểm tra và xử phạt. Điều này đã dẫn đến tình trạng mạnh ngành nào ngành ấy làm, vừa gây phiền hà, không khớp nhau, có hộ đăng ký kinh doanh nhưng trốn thuế, có hộ nộp thuế đầy đủ nhưng không đăng ký kinh doanh ...
* Tiếp tục hoàn thiện chế độ đăng ký kinh doanh tổ chức và tạo điều kiện cấp phép dễ dàng hơn, thuận lợi hơn tránh thủ tục phiền hà. Hiện nay việc cấp giấy phép kinh doanh, giấy phép thành lập doanh nghiệp do nhiều cơ quan đảm nhận. Bộ, Sở Kế hoạch và đầu tư, Ban Tổ chức chính quyền, Sở, Bộ Thương mại. Điều này gây khó khăn trong cấp phép vừa khó quản lý đối với cơ quan quản lý chuyên ngành Thương mại. Nếu để cho ngành thương mại vừa cấp giấy phép vừa quản lý thì chưa chắc đã tốt. Bởi vì nó có sự thống nhất, song thực tế lại mắc vào tình huống vừa đánh trống vừa thổi kèn dẫn đến hiệu quả quản lý không cao. Nên chăng vẫn để cho Bộ, Sở Kế hoạch và đầu tư cấp giấy phép còn việc quản lý sau giấy phép vẫn giao cho ngành thương mại nhưng có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan cấp đăng ký và cơ quan quản lý để việc quản lý chặt chẽ hơn. Ví dụ như khi cấp đăng ký kinh doanh xong thì cơ quan đăng ký phải báo ngay cho cơ quan quản lý và ngược lại cơ quan quản lý phải quản lý chặt chẽ việc kinh doanh đúng mặt hàng và thời gian để phản hồi lại cho cơ quan cấp đăng ký.
Sở Thương mại có trách nhiệm tổng hợp báo cáo UBND tỉnh - Bộ Thương mại đồng thời chỉ đạo lực lượng quản lý thị trường phối hợp với các cơ quan chức năng để quản lý kiểm tra sau khi cấp giấy phép, xử lý kiên quyết những trường hợp kinh doanh không đúng quy định của pháp luật. Nhanh chóng có biện pháp củng cố và quy định thống nhất về việc chấp hành chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đối với cơ quan quản lý Nhà nước nên thống nhất chế độ báo cáo chuyên ngành quản lý.
4. Tăng cường củng cố và hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nước từ Thương mại
4.1. Bộ Thương mại
Bộ Thương mại là cơ quan thay mặt Chính phủ quản lý Nhà nước về Thương mại. Bộ máy Bộ Thương mại được sắp xếp theo hướng tinh gọn, giảm mạnh biên chế, sát nhập những bộ phận không cần thiết để phù hợp hơn với tình hình mới. Tuy đã đạt được những kết quả nhất định trong việc củng cố và hoàn thiện bộ máy quản lý ở Bộ song tổ chức bộ máy của Bộ Thương mại theo Nghị định 95/ CP ngày 4/12/1993 bộc lộ một số hạn chế, nhược điểm. Vì vậy để từng bước hoàn thiện hơn nữa bộ máy quản lý Nhà nước về Thương mại ở Trung ương
Căn cứ vào nội dung cơ bản của quản lý Nhà nước về Thương mại theo điều 244 ® 246 Luật Thương mại và căn cứ nội dung của Nghị định 95/CP ngày 4/12/1993 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Bộ Thương mại, với yêu cầu thực tế là chúng ta đang hội nhập với khu vực và với thế giới. Việt nam đã là thành viên của ASEAN, AFEC tham gia nhiều tổ chức kinh tế khác và Bộ Thương mại là đầu mối đàm phán Hiệp định Thương mại với Mỹ và thực tiễn chỉ đạo và điều hành hoạt động Thương mại cần tổ chức như sau: Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ theo yêu cầu mới và vai trò của Bộ Thương mại là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện việc thống nhất quản lý Nhà nước về Thương mại. Để xác định đúng chức năng, nhiệm vụ của Bộ Thương mại bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ trong hoạt động quản lý. Xây dựng bộ máy tố chức hợp lý tinh gọn, phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các Vụ, Cục kết hợp với việc đổi mới đội Ngũ cán bộ đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với tiến trình cải cách hành chính. Trong điều kiện chuyển cơ chế thì cần phải làm rõ để hướng mạnh hoạt động của các Vụ, Cục hiện có vào việc thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ.
Xây dựng chiến lược quy hoạch kế hoạch phát triển Thương mại. Xây dựng chính sách và luật pháp làm cơ sở pháp lý để điều tiết và phát triển Thương mại.
Tổ chức phát triển thị trường trong và ngoài nước, xúc tiến Thương mại, nhất là xuất khẩu. Kiểm tra, kiểm soát thị trường, quản lý chất lượng hàng hoá, chống hoạt động kinh doanh phi pháp.
Quản lý và giám sát hoạt động của các doanh nghiệp trực thuộc Bộ.
Phương châm sắp xếp lại bộ máy tổ chức của Bộ Thương mại phải bảo đảm tính khoa học và thực tiễn, kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục những mặt hạn chế của bộ máy hiện có để từng bước hoàn thiện để bộ máy cơ quan Bộ hoạt động có hiệu quả hơn.
4.2. Sở Thương mại
Nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của Sở Thương mại là công cụ của UBND tỉnh có chức năng quản lý về thương mại trên địa bàn tỉnh. Sở Thương mại có vai trò quan trọng trong việc tổ chức thị trường, phổ biến hướng dẫn thực hiện pháp luật, giám sát việc chấp hành của các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kính tế. Tiếp cận trực tiếp với sự vận động của thị trường. Do đó, Sở là địa chỉ phản hồi đầy đủ nhất các thông tin quản lý.
Nhưng trên thực tế hoạt động thương mại trong cơ chế thị trường ngày càng phát triển mạnh và vô cùng phức tạp. Song ở Thông tư 09/CP ngày 14/4/95 chưa quyết định thống nhất tổ chức bộ máy ở các Sở làm cho công tác quản lý Nhà nước về Thương mại ở các địa phương thiếu thống nhất, đồng bộ. Chỉ vì yêu cầu đặt ra phải có bộ máy quản lý hoạt động động thương mại có hiệu lực trên địa bàn tỉnh, huyện mà Bộ Thương mại đã thông qua Chính phủ ban hành Thông tư 36/TTLB ngày 20/1/2000 hướng dẫn chức năng nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức bộ máy ở Sở Thương mại.
Để Sở Thương mại thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quyền hạn quản lý Nhà nước ở địa phương theo luật Thương mại.
Bộ Thương mại trực tiếp hướng dẫn các Sở Thương mại từng bước thực hiện Thông tư 36/TTLB để sắp xếp lại bộ máy tổ chức của Sở Thương mại. Trước hết Sở Thương mại xác định được rằng chi cục quản lý thị trường không phải là một phòng chuyên môn thuộc Sở tạo điều kiện cho tính độc lập sáng tạo của quản lý thị trường. Thông tư 36 cũng đã xác định rõ số lượng phòng cần thiết cho tất cả các Sở và một số phòng theo yêu cầu đặc biệt nhưng trên thực tế cần có sự linh hoạt vào điều kiện thực tế cụ thể của từng địa bàn.
Hiện nay Sở Thương mại còn được Bộ Thương mại ủy quyền cấp giấy phép xuất nhập khẩu cho các hoạt động gia công đối với nước ngoài và các dự án của nước ngoài tại Việt nam, quản lý văn phòng đại diện, quảng cáo Thương mại, hội chợ triển lãm Thương mại và các hoạt động xúc tiến Thương mại, quản lý chất lượng hàng hoá. Xuất phát từ yêu cầu mở rộng thị trường Xã hội nhất là thị trường nông thôn và miền núi từ ủy quyền nói trên để tăng cường vai trò quản lý Nhà nước về Thương mại trên từng địa bàn hệ thống các phòng ban của Sở đã được sắp xếp lại phù hợp hơn bao gồm:
Phòng Tổ chức - Hành chính và thanh tra.
Phòng Kế hoạch - Tổng hợp và xúc tiến Thương mại.
Phòng Quản lý Thương mại:
Phòng Quản lý du lịch trực thuộc Sở.
Đây là cơ quan tham mưu của Sở Thương mại ngoài ra căn cứ vào yêu cầu, nội dung và khối lượng công việc có thể thành lập phòng như Phòng Quản lý văn phòng đại diện, Chi nhánh thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài, Phòng Quản lý xuất nhập khẩu trung tâm Thông tin và xúc tiến Thương mại. Tại địa bàn địa phương (các tỉnh) vẫn duy trì tổ chức chi cục quản lý thị trường trực thuộc Sở thương mại. Qua nhiều năm hoạt động đã thu được nhiều thành tựu trong việc kiểm tra kiểm soát và chống buôn lậu, gian lận thương mại. Song trong Luật Thương mại lại nói tới thanh tra chuyên ngành thương mại có chức năng tương tự như quản lý thị trường nhưng quyền hạn lại ít hơn vậy nên chăng chúng ta phải bổ xung thêm chức năng cho thanh tra chuyên ngành thương mại như cục quản lý thị trường trước đây để phát huy hiệu quả hoạt động.
4.3. Phòng Thương mại huyện
Trong điều kiện hiện nay, thị trường phát triển rất nhanh thành phần kinh tế tư nhân, cá thể phát triển nhanh từ thành thị đến nông thôn cho nên bộ máy quản lý Nhà nước về Thương mại cấp huyện cũng phải được củng cố tương xứng với việc phát triển của thị trường và để giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động Thương mại.
Hiện nay, hầu hết các huyện chưa có Phòng Thương mại mà nó chỉ là một bộ phần nằm trong Phòng Hành chính với số lượng nhân viên quá ít, chỉ có một người, trình độ chuyên môn thiếu, vì vậy để thực hiện việc quản lý được tốt và có hiệu quả nhất thiết các quận huyện phải căn cứ vào quy định tại TTLT số 36/2000 quy định đối với các quận của thành phố thuộc Trung ương, các thành phố thị xã thuộc tỉnh được xếp hạng đô thị Loại II; III thành lập Phòng Thương mại du lịch.
Các thị xã không thuộc diện trên và các huyện có nhiều hơn 2000 thương nhân thành lập Phòng Thương mại - Dịch vụ. Các huyện còn lại thành lập bộ phận quản lý về thương mại thuộc một phòng chuyên môn khác. Các huyện phải nhanh chóng triển khai thực hiện việc củng cố lại bộ máy này để đáp ứng yêu cầu thực tế rất phức tạp tại địa phương mà hầu như từ trước đến nay chưa dược quản lý.
5. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý thương mại nói chung, quản lý Nhà nước về Thương mại
Tiếp tục hoàn thiện quản lý Nhà nước về Thương mại, ngoài việc lổ chức bộ máy còn phải chú trọng đến đội ngũ cán bộ. Với bộ máy tinh gọn thì đội ngũ cán bộ phải giỏi chuyên môn, từ về phẩm chất đạo đức mới mang lại hiệu quả cao . Thực trạng đội ngũ cán bộ hiện nay mặc dù đã qua nhiều năm củng cố và sàng lọc nhưng nhìn chung cán bộ cấp Sở, huyện cần phải được đào tạo lại thì mới có thể đảm đương được nhiệm vụ được giao.
Làm tốt việc quy hoạch cán bộ , gửi cán bộ đi đào tạo tại nước ngoài để bảo đảm chất lượng cán bộ đối với từng vị trí ,chức danh. Cần thường xuyên kiểm tra chuyên môn , sàng lọc sắp xếp lại đội ngũ cán bộ , kiên quyết thay thế các cán bộ có chuyên môn thấp , phẩm chất năng lực kém .
Thực hiện tốt công tác tuyển chọn, sử dụng cán bộ có khả năng và trình độ chuyên môn để phát huy hết sở trường . Có chế độ ưu đãi đối với cán bộ tự học tập nâng cao trình độ .
6. Hoàn thiện, đổi mới công tác thông tin Thương mại và hoạt động xúc tiến Thương mại
Thông tin đối với hoạt động Thương mại ngày nay là nhu cầu không thể thiếu được. Đối với quản lí Nhà nước về Thương mại thông tin là rất quan trọng nói .Thiếu thông tin Nhà nước sẽ không có định hướng phát triển sản xuất, kinh doanh phù hợp .Thiếu thông tin sẽ làm cho sự phối kết hợp giữa các ngành , các cơ quan hữu quan không được chặt chẽ . Công việc thu thập và xử lí thông tin phải được giao cho Cục xúc tiến thương mại và các tham tán thương mại Việt Nam ở nước ngoài . Cục xúc tiến thưong mại và các tham tán cần phân tích thị trường , dự báo về tiềm năng và phổ biến đến các doanh nghiệp để các doanh nghiệp có cơ hội tìm kiếm thị trường và định hướng kinh doanh đúng đắn đồng thời các doanh nghiệp qua đó giới thiệu mình với bạn hàng tốt hơn. Cần phải đào tạo đội ngũ cán bộ thông tin Thương mại có trình độ để có thể nâng cao chất lượng của thông tin.
Việc hoàn thiện hệ thông thống tin thương mại còn phải giải quyết tốt các vấn đề sau: Hoàn thiện và hiện đại hoá hệ thống phương tiện máy móc, thiíet bị cần thiết cho việc thu thập , xử lí thông tin dữ liệu và lưu trữ thông tin. Hệ thống này cần phải đảm bảo cung cấp đầy đủ , chính xác và kịp thời cho các hoạt động quản lí thương mại.
7. Quản lí chặt chẽ chất lượng hàng hoá kinh doanh Thương mại, tăng cường công tác đấu tranh chống gian lận thươngmại
Chất lượng hàng hoá trong kinh doanh là yếu tố quyết định sự sống còn đối với doanh nghiệp. Do đó muốn đảm bảo uy tín thương mại đối với người tiêu dùng và bạn hàng ngoài nước , Nhà nước cần tăng cường quản lí chặt chẽ chất lượng hàng hoá trên thị trường, kiên quyết không để hàng giả , hàng kếm chất lượng tham gia vào thị trường, đấu tranh chống các hoạt động gian lận thương mại . Đây là một khâu vô cùng quan trọng nhưng hiện nay trách nhiệm chưa được phân định rõ thuộc về bộ phận nào. Chính phủ nên sớm chuyển nhiệm vụ quản lí chất lượng sang một cơ quan chuyên môn nhue Bộ Thương mại để cho phù hợp với Luật Thương mại, vai trò và vị trí của Bộ Thương mại.
MỤC LỤC
BỘ THƯƠNG MẠI
UBND TỈNH
Các tổ chức giúp đỡ Bộ trưởng
thực hiện chức năng QLNN
Các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Thương mại
Các tổ chức sự nghiệp
Sở Thương mại
các tỉnh thành phố
Văn phòng Bộ
Vụ Khoa học kỹ thuật
Tổng công ty Xăng dầu
Viện nghiên cứu TM
Phòng t/c hành chính thanh tra
Vụ xuất nhập khẩu
Vụ Pháp chế
Phòng Kinh doanh tổng hợp
Vụ Đầu tư
Vụ Tài chính Kế toán
Tổng công ty Muối
Tạp chí Thương mại
Phòng Quản trị Du lịch
Vụ Thống kê
Vụ Tổ chức cán bộ
Tổng công ty máy phụ tùng
Báo Thương mại
Ban Thanh tra
Vụ c/s thị trường trong nước
Vụ Thanh tra Bộ
Trung tâm thông tin TM
Chi cục quản lý
Vụ c/s thị trường đa biên
Cục quản lý thị trường
Các trường ĐT chuyên môn
Vụ c/s thị trường các nước khác Châu á và TBD
Cục quản lý chất lượng hàng hoá và đo lường
Vụ c/s thị trường các nước Âu Mỹ và các t/c kinh tế quốc tế
Các phòng ban TM huyện
Vụ c/s thị trường Châu Phi Tây
Phòng Thương mại huyện
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5640.doc