Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh

Lời mở đầu: Đất nước ta đã bước sang năm thứ ba kể từ khi nước ta chính thức ra nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế ( ngày 07/11/2006). Trong những năm qua xã hội, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến lớn để hội nhập cùng với kinh tế quốc tế; đời sống của nhân dân ta cũng đã có nhiều tiến bộ hơn trước. Trong những năm tới đây, nhiệm vụ phát triển kinh tế vẫn được đặt lên hàng đầu. Chúng ta đang đẩy mạnh cải cách, phát triển tài chính nhằm tạo dựng nền tài chính quốc gia vững mạnh, cơ chế tà

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i chính phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập mở cửa. Ngân sách nhà nước với đặc thù là nội lực tài chính để phát triển trong thời gian qua đã thể hiện được vai trò của mình đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế hàng năm lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Trên tinh thần phát triển kinh tế của Đại hội Đảng X ngân sách Nhà nước hơn lúc nào hết thể hiện rõ trách nhiệm, vai trò của mình trong tình hình mới, là động lực của sự phát triển. Với chủ trương phát triển toàn diện của Đảng, cấp ngân sách Quận- Huyện đang ngày càng thể hiện rõ chức năng, vai trò, nhiệm vụ của mình trên địa bàn quận, huyện. Sau ba tháng thực tập tại phòng Tài chính- Kế hoạch huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh em đã tiếp thu được rất nhiều kiến thức thực tế để củng cố thêm các lý luận đã học của mình. Nhận thấy vai trò, tầm quan trọng cũng nhưng những đòi hỏi về Ngân sách em xin mạnh dạn đi vào nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách huyện Quế Võ, tình Bắc Ninh” Qua việc nghiên cứu đề tài , em đã lĩnh hội được rất nhiều kiến thức về quản lý ngân sách nói chung và ngân sách huyện nói riêng, cả lý luận và thực tiễn. Em hi vọng rằng, những ý kiến đề xuất nhỏ bé của mình nêu trong đề tài phần nào giúp cho các cơ quan chức năng trong quá trình kiện toàn Ngân sách Nhà nước, Ngân sách Quận- Huyện. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của PGS, TS Nguyễn Thị Bất; sự giúp đỡ chỉ bảo nhiệt tình của các cô, các bác và các anh chị tại phòng Tài Chính- Kế hoạch huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đã giúp em hoàn thành đề tài này. Mặc dù đã cố gắng nỗ lực hết sức nhưng trong đề tài vẫn không thể tránh khỏi những sai xót. Em mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo tận tình của cô giáo và các cô, chú trong phòng. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I: Quản lý và hiệu quả quản lý ngân sách Quận – Huyện: 1.1. Khái quát về ngân sách nhà nước (NSNN): 1.1.1.Khái niệm NSNN Trong thời kì mở cửa hội nhập cùng kinh tế quốc tế ở nước ta như hiện nay không những đòi hỏi sự chuyển đổi về thể chế và cơ cấu kinh tế nói chung mà còn đòi hỏi những chuyển biến cần thiết về cả nhận thức và thể chế tài chính, ngân sách. Do đó việc nhận thức đúng đắn bản chất, chức năng NSNN sẽ giúp cho chúng ta sử dụng nhạy bén công cụ NSNN trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô.Việc nghiên cứu và tìm hiểu bản chất chức năng và vai trò của NSNN trong kinh tế thị trường là hoàn toàn cần thiết.Tuy nhiên trước hết chúng ta phải thống nhất định nghĩa về NSNN trên cơ sở đó mới có thể sử dụng và quản lý NSNN một cách đúng đắn và có hiệu quả cao hơn. Trên thế giới có rất nhiều định nghĩa về NSNN, ở mỗi nước thì có cách nhìn nhận về NSNN khác nhau điển hình như sau: Tại Pháp thì: “NSNN là văn kiện được Nghị viện hoặc Hội đồng thảo luận và phê chuẩn mà trong đó các nghiệp vụ tài chính (thu, chi) của một tổ chức công (Nhà nước, chính quyền địa phương, đơn vị công) hoặc tư (doanh nghiệp, hiệp hội) được dự kiến và cho phép”. Đối với Trung Quốc thì NSNN lại được hiểu là: “NSNN là kế hoạch thu- chi tài chính hang năm của Nhà nước được xét duyệt theo trình tự pháp định” Ở Việt Nam chúng ta cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về NSNN tuy nhiên theo luật Ngân sách Nhà nước Việt Nam thì: “Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu- chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. Như vậy, Ngân sách nhà nước phản ánh các mối quan hệ kinh tế giữa một bên là Nhà nước với một bên là các chủ thể khác trong xã hội. Các quan hệ kinh tế này phát sinh trong quá trình Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của mình. Các quan hệ đó biểu hiện thông qua các nội dung thu- chi của Ngân sách nhà nước, phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội và nhiệm vụ của Nhà nước trong mỗi thời kì tương ứng. 1.1.2. Bản chất NSNN: Lịch sử hình thành và phát triển của các nước trên thế giới cho thấy NSNN ra đời, phát triển cùng với kinh tế hang hóa và Nhà nước. Kinh tế hàng hóa và Nhà nước là hai điều kiện tiền đề để cho NSNN ra đời, phát triển.Cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa và mức độ hoàn thiện của Nhà nước phạm trù NSNN cũng phát triển tương ứng. Bản chất kinh tế của NSNN là quan hệ kinh tế- tài chính giữa một bên là nhà nước và bên kia là các tác nhân khác của nền kinh tế hàng hóa trong quá trình phân bổ, sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế, phân phối và phân phối lại thu nhập cho các tác nhân kinh tế mơi sáng tạo ra. Bản chất kinh tế không tác rời bản chất chính trị của NSNN. Bản chất chính trị của NSNN gắn liền với bản chất của giai cấp cầm quyền, NSNN là ngân sách của Nhà nước của giai cấp cẩm quyền, do Nhà nước đó mà sinh ra, vì Nhà nước đó mà tồn tại và phát triển. Bản chất chính trị của NSNN giải thích lý do ra đời, điều kiện tồn tại, mục tiêu và sứ mạng mà NSNN phụng sự là lợi ích của giai cấp cẩm quyền. 1.1.3. Vai trò của Ngân sách Nhà nước: Trong hệ thống Tài chính, Ngân sách nhà nước là khâu chủ đạo để nhà nước thực hiện chức năng nhiệm vụ do hiến pháp quy định. Đồng thời NSNN là công cụ quan trọng của Nhà nước để điều chỉnh vĩ mô đối với toàn bộ đời sống kinh tế- xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng. Vai trò của NSNN được xác định trên cơ sở các chức năng và nhiệm vụ cụ thể của nó trong từng giai đoạn khác nhau theo từng yêu cầu thực hiện các chức năng của nhà nước. Vai trò điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô nền kinh tế xã hội của NSNN được thể hiện chủ yếu trên ba khía cạnh sau: - Thứ nhất : NSNN góp phần kích thích tăng trưởng kinh tế vai trò điều chỉnh trong lĩnh vực kinh tế. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, với việc Nhà nước can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của sản xuất kinh doanh, vai trò của NSNN trong việc điều chỉnh các hoạt động kinh tế trở nên hết sức thụ động. Ngân sách Nhà nước gần như chỉ là cái túi đựng số thu để rồi thực hiện sự bao cấp tràn lan cho các hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua cấp vốn cố định, vốn lưu động, bù lỗ, bù giá… Trong điều kiện đó, hiệu quả của các khoản thu, chi NSNN không được coi trọng và tất yếu là tác động của thu, chi ngân sách đến hoạt động của thu, chi ngân sách đến hoạt động kinh tế nhằm điều chỉnh các hoạt động đó thúc đẩy sự tăng trưởng là hết sức hạn chế. Chuyển sang cơ chế thị trường, trong lĩnh vực kinh tế, Nhà nước định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. Thực hiện vai trò này Ngân sách Nhà nước thông qua thuế và chi ngân sách để kích thích và gây sức ép đối với doanh nghiệp nhằm kích thích sự tăng trưởng để tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, Ngân sách nhà nước thông qua công cụ chi tiêu đã cung cấp nguồn kinh phí đầu tư cho kết cấu hạ tầng như: điện, nước, thủy lợi, giao thông hoặc hình thành các doanh nghiệp thành các ngành then chốt, các công trình kinh tế mũi nhọn có tác dụng đối với tốc độ tăng trưởng của ngành kinh tế. Việc hình thành các doanh nghiệp nhà nước cũng là một biện pháp căn bản để chống độc quyền, trên khía cạnh khác trong những trường hợp cần thiết nguồn kinh phí của Ngân sách Nhà nước cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ phát triển của các doanh nghiệp cần nâng đỡ, khuyến khích phát triển thông qua chính sách trợ cấp cùng các ưu đãi về thuế để đảm bảo cho sự ổn định về cơ cấu hoặc chuyển sang cơ cấu hợp lý hơn. Ngoài ra để góp phần điều chỉnh các hoạt động kinh tế xã hội, chính phủ có thể áp dụng các các giải pháp hỗ trợ giá để hỗ trợ sản xuất và tiêu dùng.Tuy nhiên, trong thời kì kinh tế thị trường và hội nhập mở cửa như hiện nay thì việc trợ giá của Ngân sách không nên mang tính chất bao cấp tràn lan mà chỉ áp dụng các cho các đối tượng quan trọng có tầm ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế. - Thứ hai: NSNN góp phần điều chỉnh và giải quyết các vấn đề xã hội Trong bất cứ giai đoạn nào thì các vấn đề xã hội quan trọng luôn luôn được Đảng, chính phủ và Nhà nước ta quan tâm và điều chỉnh một cách cần thiết và NSNN cũng luôn luôn được xen là công cụ thực thi hàng đầu. Mặc dù vậy trong điều kiện nước ta hiện nay thì sự đòi hỏi cần giải quyết của rất nhiều vấn đề bên cạnh đó thì nguồn thu Ngân sách còn hạn hẹp thì việc quán triệt phương trâm Nhà nước cùng nhân dân chăm lo giải quyết các vấn đề xã hội có ý nghĩa rất quan trọng nhằm nâng cao vai trò của NSNN trong việc điều chỉnh các vấn đề xã hội. - Thứ ba: Ngân sách nhà nước góp phần bình ổn thị trường, giá cả, hạn chế lạm phát – vai trò điều chỉnh trong lĩnh vực thị trường. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì sự đơn nhất chế độ sở hữu bó khung trong trong hai hình thức quốc doanh và tập thể đã dẫn đến sự phát triển yếu ớt của các quan hệ thị trường. Trong giai đoạn cơ chế thị trường hiện nay, giá cả phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường. Do đó để ổn định giá cả chúng ta có thể sử dụng các chính sách tác động vào cung hoặc cầu của hàng hóa. Việc thực hiện các tác động này thông qua thuế và NSNN đóng vai trò rất quan trọng. Bằng nguồn NSNN và các quỹ dự trữ dự phòng chính phủ có thể kiểm soát được thị trường tránh để xảy ra những biến động bất thường ảnh hưởng tới tình hình ổn định kinh tế xã hội và đời sống của nhân dân. Như trong tình hình kinh tế xã hội 3 tháng đầu năm 2008 tình hình lạm phát và giá cả thị trường tăng lên một cách đột biến chính phủ đã sử dụng các biện pháp kinh tế vĩ mô và sử dụng hợp lý nguồn NSNN để kiềm chế tác động tăng giá và góp phần đảm bảo cho kinh tế và đời sống của nhân dân ổn định 1.2. Tổ chức hệ thống NSNN và phân cấp quản lý NSNN: 1.2.1. Tổ chức hệ thống NSNN: Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp Ngân sách gắn bó hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp ngân sách. Cấp ngấn sách được hình thành trên cơ sở cấp chính quyền nhưng phải đảm bảo hai điều kiện cơ bản là: - Nhiệm vụ của cấp chính quyền được giao phó tương đối toàn diện nghĩa là chính quyền cấp đó không chỉ có nhiệm vụ phát triển nhanh chính sách xã hội mà còn có nhiệm vụ tổ chức quản lý và phát triển kinh tế trên vùng lãnh thổ và cấp chính quyền đó. - Khả năng nguồn thu trên vùng lãnh thổ và chính quyền đó quản lý có thể đáp ứng được phần lớn nhu cầu chi tiêu của chính quyền cấp đó. Như vậy để có một cấp Ngân sách trước hết phải có một chính quyền với những nhiệm vụ phát triển toàn diện, đồng thời phải có khả năng nhất định về nguồn thu trên vùng lãnh thổ đó. Nguyên tắc tổ chức hệ thống Ngân sách ở mỗi nước có sự khác biệt riêng nhưng đều có những nét chung cơ bản là: - Tính tập trung, thống nhất: bắt nguồn từ yêu cầu của việc tổ chức hệ thống chính quyền. - Tính tự chủ, chịu trách nhiệm của mỗi cấp Ngân sách xuất phát từ yêu cầu nâng cao trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc thực hiện các nhiệm vụ chung của quốc gia. Tổ chức hệ thống ngân sách ở nước ta là hệ thống các ngân sách trong hệ thống đều có mối liên hệ hữu cơ gắn bó với nhau thông qua việc thực hiện nhiệm vụ thu, chi. Ở nước ta, việc tổ chức hệ thống Ngân sách Nhà nước gắn bó với việc tổ chức bộ máy Nhà nước và vai trò, vị trí của bộ máy đó trong quá trình phát triển của đất nước. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, vai trò kinh tế xã hội của chính quyền cấp huyện được đề cao. Huyện được coi là đơn vị kinh tế quản lý kinh tế một cách toàn diện. Chính vì lẽ đó, bên cạnh Ngân sách Trung Ương thì Ngân sách huyện (quận ), xã (thị trấn) được hình thành và nằm trong hệ thống Ngân sách Nhà nước. Hệ thống NSNN ta từ sau Đại hội Đảng lần thứ IV, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 1992 và Luật NSNN được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 03 năm 1996. Như vậy NSNN bao gồm: Ngân sách Trung ương và Ngân sách các cấp chính quyền địa phương. Ngân sách các cấp chính quyền địa phương bao gồm: - Ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ( gọi chung là ngân sách cấp tỉnh). - Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh ( gọi chung là ngân sách cấp huyện) - Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn ( gọi chung là ngân sách xã) Ngân sách Trung ương: phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo ngành, tập trung các nguồn lực cơ bản để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nước và giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống Ngân sách nhà nước. Ngân sách địa phương: Phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo lãnh thổ, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn diện kinh tế, xã hội của chính quyền cấp tỉnh, thành phố. Ngân sách cấp huyện: Phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo lãnh thổ bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn diện kinh tế xã hội của chính quyền cấp huyện. Ngân sách cấp xã: Nhằm đảm bảo điều kiện tài chính để chính quyền xã chủ động khai thác các thế mạnh đất đai, lao động phát triển kinh tế, xã hội đặc biệt là xây dựng, phát triển nông thôn mới, thực hiện các chính sách xã hội giữ gìn an ninh trật tự địa phương. 1.2.2 Phân cấp ngân sách nhà nước: 1.2.2.1 Khái niệm phân cấp NSNN: Khi đã hình thành hệ thống NSNN gồm nhiều cấp thì việc phân cấp ngân sách là một tất yếu khách quan bởi vì mỗi cấp ngân sách đều có nhiệm vụ hoạt động thu- chi ngân sách mang tính độc lập tương đối, khái niệm về phân cấp NSNN có thể được hiểu theo 2 quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất, nếu coi NSNN là duy nhất và thống nhất do Chính phủ Trung ương trực tiếp quản lý và sử dụng thì phân cấp NSNN là một sự ủy quyền của Nhà nước Trung ương cho các cấp chính quyền địa phương thực hiện một số nhiệm vụ thu- chi cần thiết của NSNN. Việc phê duyệt dự toán, quyết toán hoặc cân đối thu- chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn do Nhà nước Trung ương đảm nhận. Với ý nghĩa đó quan điểm này phủ nhận sự tồn tại độc lập của Ngân sách địa phương, phủ nhận việc phân cấp NSNN, nghĩa là Nhà nước Trung ương chỉ phân giao nhiệm vụ quản lý một số nghiệp vụ nhất định trong hoạt động của NSNN cho chính quyền địa phương. Do vậy qua điểm ngược lại cho rằng, mỗi cấp chính quyền Nhà nước phải có Ngân sách riêng, độc lập trong hệ thống NSNN thống nhất. Như vậy ý kiến này khẳng định sự thống nhất của NSNN, nhưng đó là sự thống nhất của các khâu độc lập trong hệ thống chứ không phải là sự thống nhất trong bản thân một cá thể duy nhất (phi hệ thống ). Với quan điểm trên ngoài NSNN do chính quyền Nhà nước Trung ương quản lý và quyết định sử dụng, vẫn cần thiết tồn tại ngân sách địa phương do chính quyền địa phương các cấp quản lý sử dụng. NSNN là một thể thống nhất gồm nhiều cấp Ngân sách, mỗi cấp vừa chịu sự rằng buộc của các chế độ, thể lệ chung vừa có tính độc lập chịu trách nhiệm thì cấp Ngân sách có nghĩa là sự phân chia quyền hạn trong việc quản lý, điều hành nhiệm vụ thu- chi của Ngân sách. Các cấp chính quyền trên cơ sở những chế độ, thể lệ quản lý NSNN của Trung ương, có quyền phê duyệt dự toán, quyết toán và cân đối Ngân sách cấp mình. Theo quan điểm này thực chất của việc phân cấp ngân sách là việc giải quyết các mối quan hệ giữa chính quyền Nhà nước Trung ương với các cấp chính quyền địa phương trong việc xử lý các vấn đề của hoạt động NSNN. Phân cấp Ngân sách theo quan điểm thứ nhất có ưu điểm là tập trung được nguồn thu vào tay Nhà nước Trung ương, tránh được tình trạng địa phương cục bộ, bảo đảm sự công bằng giữa các địa phương và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên phân cấp theo quan điểm này cũng có hạn chế là không phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các địa phương trong việc khai thác nguồn thu và bố trí các khoản thu hợp lý để giải quyết các nhu cầu tại chỗ của địa phương, tạo tâm lý ỷ lại của cơ sở, nảy sinh bệnh quan liêu của cấp trên… Phân cấp theo quan điểm hai sẽ khắc phục được những hạn chế trên. Mặc dù vẫn còn những nhược điểm nhất định nhưng xu hướng phân cấp theo quan điểm thứ hai được coi là hợp lý hơn trong tình hình hiện nay của nước ta do trong giai đoạn hội nhập mở cửa như hiện nay có rất nhiều vấn đề kinh tế vĩ mô đang đòi hỏi Nhà nước, chính phủ phải tập trung giải quyết mang tầm chiến lược quốc gia… 1.2.2.2 Nội dung phân cấp Ngân sách: Phân cấp NSNN chính là giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính quyền trong việc sử dụng NSNN. Trong quá trình quản lý và sử dụng NSNN giữa các cấp chính quyền thường nảy sinh các mối quan hệ quyền lực và quan hệ vật chất… Giải quyết mối quan hệ đó được coi là nội dung của phân cấp ngân sách. Cụ thể phân cấp ngân sách bao gồm các nội dung sau: - Giải quyết mối quan hệ quyền lực giữa các cấp chính quyền trong việc ban hành các chính sách chế độ thu- chi, quản lý ngân sách. Đây là nội dung cốt yếu của phân cấp NSNN. Qua phân cấp phải xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm ban hành các chính sách, chế độ tiêu chuẩn thuộc về ai; phạm vi, mức độ quyền hạn của mỗi cấp trong việc ban hành chính sách chế độ. Có như vậy, việc quản lý và điều hành NSNN mới đảm bảo tính ổn định, tính pháp lý, tránh được tư tưởng cục bộ địa phương. - Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình phân giao nhiệm vụ thu, chi và cân đối ngân sách.Đây là mối quan hệ phức tạp trong phân cấp NSNN vì đây là mối quan hệ lợi ích. Để giải quyết mối quan hệ này trong phân cấp ngân sách cần phải xác định rõ ràng nhiệm vụ kinh tế, chính trị của mỗi cấp chính quyền địa phương; khả năng tạo ra nguồn thu trên từng địa bàn mà chính quyền đó quản lý, đồng thời nghiên cứu các biện pháp có thể áp dụng để điều hòa được mối quan hệ này. - Giải quyết mối quan hệ trong quá trình thực hiện chu trình ngân sách, chu trình ngân sách chính là chu trình lập, chấp hành và quyết toán ngân sách. Phân cấp NSNN phải xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cấp chính quyền trong việc lập, chấp hành và quyết toán ngân sách và kiểm tra ngân sách sao cho vừa nâng cao được trách nhiệm của chính quyền Trung ương, vừa phát huy được tính năng động sáng tạo của chính quyền địa phương, cơ sở. 1.2.2.3 Các nguyên tắc phân cấp ngân sách: Việc phân cấp NSNN phải được thực hiện theo một số nguyên tắc nhât định: - Phân cấp NSNN phải được tiến hành đồng thời với việc phân cấp và tổ chức bộ máy hành chính. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính quyền, xác định rõ nguồn thu trên địa bàn và quy định được nhiệm vụ chi của các cấp chính quyền một cách chính xác, hợp lý. - Đảm bảo thực hiện vai trò chủ đạo của Ngân sách Trung ương và vị trí độc lập của ngân sách địa phương trong hệ thống NSNN. Vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương thể hiện ở chỗ: + Đảm nhận cấp phát kinh phí cho yêu cầu thực hiện chức năng của Nhà nước Trung ương ( an ninh, quốc phòng, ngoại giao, đầu tư phát triển kinh tế…) + Là trung tâm điều hòa hoạt động Ngân sách của các địa phương. Vị trí độc lập của ngân sách địa phương được thể hiện ở: + Các cấp chính quyền có quyền lập, chấp hành, quyết toán ngân sách của mình trên cơ sở chính sách chế độ đã ban hành. + Mặt khác các cấp chính quyền phải chủ động sáng tạo trong việc khai thác các thế mạnh của địa phương để tăng nguồn thu bảo đảm chi và thực hiện cân đối ngân sách của cấp mình. - Bảo đảm nguyên tắc công bằng trong phân cấp ngân sách, một trong những nội dung phân cấp là giải quyết mối quan hệ vật chất giữa các cấp chính quyền. Như vậy phân cấp NSNN là một tất yếu khách quan, nó bắt nguồn từ sự phân cấp kinh tế và hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước. Phân cấp ngân sách trước hết là xác định quyền lực của các cấp chính quyền trong việc ban hành các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức liên quan đến ngân sách; Phân cấp ngân sách còn là việc giải quyết mối quan hệ vật chất giữa các cấp chính quyền, đồng thời xác định quyền lợi và nghĩa vụ của các cấp chính quyền trong việc thực hiện chu trình ngân sách. 1.3 Ngân sách Quận – Huyện và quản lý ngân sách Quận- Huyện: 1.3.1 Ngân sách Quận- Huyện: 1.3.1.1 Khái niệm vâ lịch sử hình thành: Trong thời kì kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, NSNN của nước ta tổ chức thành hai cấp: Ngân sách Trung ương và Ngân sách tỉnh, thành phố. Việc phân cấp là phù hợp vơi nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền trong việc huy động tối đa nguồn lực tài chính. Ở thời kì này ngân sách quận, huyện chỉ đóng vai trò là một cấp dự toán. Ngày 15/05/1978, với chủ trương xây dựng quận, huyện thành một cấp có cơ cấu hoàn chỉnh, có tư cách là một đơn vị kinh tế công nông nghiệp phát triển toàn diện, Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị quyết 108/CP xác định quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương cấp Quận, huyện về quản lý tài chính, ngân sách. Nghị quyết có quy định khoản thu, chi ngân sách Quận- Huyện. Tiếp đó đến ngày 19/11/1983 Hội đồng bộ trưởng ra Nghị quyết số 138/HĐBT về việc cải tiến ngân sách địa phương, nói rõ hơn về quyền hạn và trách nhiệm của Ngân sách Quận, Huyện. Sau Đại hội Đảng lần thứ VI nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng XHCN. Cùng với sự đổi mới của nền kinh tế đất nước, Ngân sách Quận, Huyện cũng được xác định lại vai trò, nhiệm vụ của mình. Cụ thể là ngày 27/11/1989 Hội đồng bộ trưởng đã ra Nghị quyết số 186/ HĐBT về phân cấp quản lý ngân sách địa phương trong đó có ngân sách Quận, Huyện. Ngày 16/02/1992 Hội đồng bộ trưởng ban hành Nghị quyết số 186/HĐBT sửa đổi bổ sung cho Nghị quyết 186/HĐBT ngày 27/11/1989. Kỳ họp Quốc hội khóa IX đã khẳng định: “ Quận, Huyện là một cấp chính quyền có Ngân sách, ngân sách Quận- Huyện là một bộ phận hợp thành ngân sách địa phương thuộc hệ thống NSNN “. Như vậy ngân sách Quận- Huyện là một cấp ngân sách thực hiện vai trò chức năng, nhiệm vụ của NSNN trên phạm vi địa bàn Quận, Huyện. Tìm hiểu qua trình hình thành ngân sách Quận- Huyện ta có thể thấy ngân sách Quận- Huyện từ một cấp dự toán đã trở thành một cấp ngân sách có nguồn thu và nhiệm vụ chi riêng. Đó là một hướng đi đúng đắn trong quá trình phát triển nền tài chính quốc gia. Trước tiên nó giúp ngân sách cấp tỉnh, Trung ương giảm được khối lượng công việc, bên cạnh đó nó cũng giúp các cấp chính quyền có thể nắm bắt được tình hình kinh tế nói chung và tài chín nói riêng từ cơ sở. Ngân sách Quận- Huyện mang bản chất của NSNN, đó là mối quan hệ giữa ngân sách Quận- huyện với các tổ chức, cá nhân trên địa bàn quận, huyện trong quá trình phân bổ sử dụng các nguồn lực kinh tế của Quận, Huyện. Mối quan hệ đó được điều chỉnh, điều tiết sao cho phù hợp với bản chất Nhà nước XHCN. Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà nước Việt Nam là nhà nước của công nhân và nhân dân lao động- bộ phận chiếm tuyệt đối đại đa số trong xã hội. Do vậy lợi ích của Nhà nước XHCN Việt Nam không có gì hơn ngoài mong muốn được phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân. Có thể nói việc ngân sách Quận – Huyện trở thành một cấp ngân sách đã làm cho bộ mặt NSNN mang một diện mạo, sắc thái mới, nền tài chính quốc gia trở nên lành mạnh hơn. Thực tế đã chứng minh trong những năm qua, xét ở cấp độ Quận, Huyện tình hình kinh tế- kinh tế tài chính có những bước tiến đáng kể. Ngoài ra, Ngân sách Quận- Huyện còn thể hiện bản chất chính trị của Nhà nước ta thông qua việc thực hiện đúng đắn, hiệu quả, có sáng tạo các chủ trương chính sách cảu Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên bên cạnh những điểm đã phát huy được là một loạt những hạn chế cần khắc phục kịp thời, đòi hỏi sự quan tâm, tâm huyết của các cá nhân, ban, ngành phối hợp cùng giải quyết. 1.3.1.2 Vai trò của Ngân sách Quận- Huyện: Ngân sách Quận- Huyện có vai trò đảm bảo chức năng Nhà nước an ninh, quốc phòng; thúc đẩy phát triển ổn định kinh tế xã hội, bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, giữ vững ổn định công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. a/ Ngân sách Quận- Huyện bảo đảm thực hiện chức năng Nhà nước, bảo vệ an ninh trật tự cấp Quận- Huyện. Cấp chín quyền Quận, Huyện cũng tổ chức ra cho mình một hệ thống các cơ quan, đoàn thể hành chính nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước. Điều đó cũng có nghĩa là để cho các cơ quan đoàn thể đó hoạt động cần phải có một quỹ tài chính tập trung cho nó- Đó chính là Ngân sách Quận- huyện. Mặc dù không lớn mạnh như ngân sách Trung ương nhưng ngân sách Quận- huyện cũng tạo cho mình một vị thế nhất định nhằm chủ động trong việc chủ động trong việc thực hiện chức năng Nhà nước ở địa phương. Tùy theo phạm vi địa lý, tình hình kinh tế xã hội trên từng Quận, Huyện mà nhu cầu được đảm bảo là khác nhau. Hiện nay trên nước ta có trên 1 triệu công chức đang làm việc trong bộ máy Nhà nước. Điều đó có nghĩa là để duy trì hoạt động của bộ máy này phải tốn một khoản ngân sách khổng lồ. Mặc dù vậy trong khi Nhà nước đang chắt chiu trong chi tiêu và sử dụng và NSNN thì ở một số đơn vị việc sử dụng ngân sách vẫn lãng phí và còn tồn tại rất nhiều sai phạm bất cập. Do vậy, đòi hỏi Ngân sách Quận, Huyện với tư cách là Ngân sách của các đơn vị cơ sở cần phải quản lý chặt trẽ, cấp phát đúng chính sách, đúng chế độ và hạn mức giúp cho bộ máy Nhà nước hoạt động tốt mà vẫn tiết kiệm, hiệu quả. Trong các chức năng của Nhà Nước, chức năng đảm bảo an ninh trật tự, quốc phòng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Đây là công cụ quyền lực của Nhà nước nhằm bảo vệ ý chí của Nhà nước, tạo điều kiện an toàn để Quận, Huyện phát triển mọi mặt. Do vậy để có thể đảm bảo được chức năng này, Ngân sách Quận, Huyện cần phải có kế hoạch cụ thể, chi tiết, có các khoản dự phòng hợp lý. b/ Ngân sách Quận, Huyện – công cụ thúc đẩy phát triển ổn định kinh tế: Để thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế- tài chính của cấp trên thì Quận, Huyện cần phải sử dụng các công cụ sẵn có của mình để điều tiết, định hướng. Một trong những công cụ đắc lực là Ngân sách. Các Quận, Huyện phải căn cứ vào thế mạnh của địa phương mình để định hướng phát triển, hình thành cơ cấu kinh tế, kích thích phát triển. Đồng thời các Quận, Huyện phải cung cấp kinh phí, vốn đầu tư, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Quận, Huyện phải xây dựng cho mình một tiềm lực kinh tế riêng. Đó là các doanh nghiệp Nhà nước do cấp Quận, Huyện quản lý. Loại hình doanh nghiệp này đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Quận, Huyện và cũng giúp Quận, huyện chủ động trong việc xây dựng và phát triển kinh tế. c/ Ngân sách Quận, Huyện- Phương tiện bù đắp khiếm quyết thị trường đảm bảo công bằng xã hội và các vấn đề môi trường. Đây là vai trò không thể thiếu đối với Ngân sách mỗi quốc gia. Nó có tác dụng xoa dịu nền kinh tế thị trường. Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường là chạy theo lợi nhuận. Do vậy mà để lại một loạt các hậu quả như: Thất nghiệp, phân cấp giàu nghèo, các vấn đề xã hội, đời sống của nhân dân không được quan tâm, môi trường bị ô nhiễm … Những điều đó tạo ra cho nền kinh tế- xã hội một vực thẳm phía trước. Cấp Quận, Huyện theo dõi các báo cáo tổng hợp từ cấp xã, phường phải có biện pháp quản lý giải quyết cụ thể. Ngoài việc quan tâm đến đời sống vật chất của người lao động, Quận và Huyện phải thường xuyên quan tâm đến đời sống văn hóa, tinh thần của quần chúng nhân dân, xây dựng và cải tạo các khu vui chơi, giải trí lành mạnh tiến bộ phục vụ cho nhân dân; các dịch vụ công cộng như giáo dục, y tế phải giảm được chi phí cho người dân giúp cho đời sống của nhân dân ngày càng được đảm bảo và nâng cao. 1.3.1.3. Nội dung Ngân sách Quận, Huyện: Trong nội dung của Ngân sách Quận, Huyện bao gồm có hai nội dung cơ bản đó là Thu ngân sách và chi ngân sách. a/ Nội dung thu ngân sách Quận, Huyện: Đây chính là quá trình tạo lập, hình thành ngân sách Quận, Huyện đóng vai trò quan trọng quyết định đến khâu sau ( chi ngân sách). Để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách cần phải có chính sách thu hợp lý, hiệu quả. Chính sách thu ngân sách là tập hợp các biện pháp, chủ trương nhằm huy động nguồn thu vào cho NSNN a.1/ Vị trí của chính sách thu ngân sách: Thứ nhất, chính sách thu Ngân sách là một bộ phận trong quản lý kinh tế nói chung và tài chính nói riêng. Việc tăng hay giảm ở một lĩnh vực nào đó được thực hiện theo chiến lược phát triển kinh tế, chính vĩ mô. Một khi chính sách thu ngân sách thay đổi thì lập tức cơ cấu kinh tế dù ít hay nhiều cũng có sự chuyển dịch. Do đối tượng thu của Ngân sách là rất đa dạng, rộng lớn phong phú và đặt biệt nhạy cảm với các chính sách thu ( thuế, phí, lệ phí…) Thứ hai, các chính sách thu của ngân sách có tác động đến các chính sách quản lý kinh tế, tài chính khác. Dường như vị trí này trùng lặp với vị trí trên nhưng nó hoàn toàn khác. Các chính sách kinh tế, tài chính khác ở đây là thuộc các lĩnh vực ngoài Ngân sách (kinh tế, tài chính của các tổ chức, doanh nghiệp nên NSNN có thể can thiệp sâu vào doanh nghiệp. a.2/ Các quan điểm cần quán triệt khi xây dựng và thực hiện các chính sách thu Ngân sách. Một là, các chính sách thu phải góp phần vào khuyến khích và phát triển sản xuất kinh doanh, mở rộng lưu thông hàng hóa và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Việc đánh thuế có những tác động rất nhạy cảm đến các đối tượng trong nền kinh tế. Và việc thu thuế là có giới hạn nghĩa là thu từ thuế chỉ đạt được hết hiệu quả tối đa tại một điểm thuế suất nào đó. Khi chính phủ cứ tăng thuế để tăng nguồn thu thì sẽ có những tác động rất tiêu cực làm trì trệ tình hình sản xuất, bên cạnh đó còn có xuất hiện hiện tượng trốn thuế, tiêu cực thuế… Hai là, chính sách phải đảm bảo tập trung quản lý vốn hợp lý nguồn thu cho ngân sách, đồng thời bảo đảm mức sống hợp lý cho các đối tượng dân cư dưới tác động của chính sách thu. Theo quy định của Nhà nước ta thì tất cả các khoản thu đều được tập trung vào kho bạc Nhà nước cùng với sự phối hợp của Ban Tài chính cơ quan Thuế và Hải Quan. Ba là, chính sách thu phải đảm bảo công bằng xã hội công bằng cho các tầng lớp dân cư. Ở đây bao gồm cả công bằng theo chiều dọc và công bằng theo chiều ngang. Công bằng theo chiều dọc nghĩa là đối tượng nào có khả năng nộp thuế nhiều hơn sẽ phải nộp nhiều hơn. Còn công bằng theo chiều ngang nghĩa là các đối tượng có khả năng nộp thuế như nhau sẽ phải nộp thuế như nhau. Bốn là, chính sách thu phải đảm bảo tính quần chúng. Do trình độ của các đối tượng nộp thuế là khác nhau, thậm chí chênh lệch nhau rất lớn nhưng việc đưa các chính sách thuế vào áp dụng phải có được tính quần chúng có nghĩa là các chính sách thu phải thật đơn giản, dễ hiểu, dễ dàng thực hiện được thực hiện. a.3/ Các khoản thu của Ngân sách Quận- Huyện: Theo quy định của Pháp luật nước ta hiện nay._., Ngân sách Quận- Huyện có các những nguồn thu như sau: */ Các khoản thu 100%: - Thuế môn bài thu từ các doanh nghiệp, hợp tác xã và các hợp tác xã sản xuất kinh doanh ngoài quốc doanh gồm: + Từ bậc 1 đến bậc 3 thu trên địa bàn xã, thị trấn + Từ bậc 1 đến bậc 6 thu trên địa bàn phường. - Thuế phát sinh thu từ các doanh nghiệp giết mổ gia trên địa bàn phường. - Các khoản phí và lệ phí từ các hoạt động do cơ quan thuộc cấp Quận- Huyện quản lý. - Tiền thu từ hoạt động sự nghiệp của các đơn vị do cấp Quận- huyện quản lý. Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân từ nước ngoài cho cấp Quận , Huyện theo quy định của Pháp luật. Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở cho Ngân sách Quận- huyện. Thu từ xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thu từ hoạt động chống buôn lậu và kinh doanh trái pháp luật theo phân cấp của tỉnh. Thu kết dư ngân sách cấp huyện. Bổ sung từ ngân sách cấp tỉnh. Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. */ Các khoản thu được phân chia theo tỉ lệ phần trăm giữa ngân sách cấp tỉnh và ngân sách Quận- Huyện và Ngân sách xã, phường, thị trấn: Thuế chuyển quyền sử dụng đất Thuế nhà đất. Tiền sử dụng đất. Các khoản thu phân chia theo tỉ lệ phần trăm giữa ngân sách cấp tỉnh và ngân sách Trung ương, do tỉnh quy định trong phạm vi được phân cấp. Các khoản thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế tài nguyên, lệ phí trước bạ nhà đất, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước thu vào mặt hàng thuốc lá vàng mã, hàng mã và các dịch vụ kinh doanh vũ trường, mát- xa, karaoke, kinh doanh gôn, kinh doanh casino… **/ Riêng đối với thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh: Được phân chia thêm một phần theo tỉ lệ với lệ phí trước bạ không kể lệ phí trước bạ nhà đất phát sinh nộp trên địa bàn và được tiến hành lập quỹ đầu tư theo quy định của Chính phủ. b/ Nội dung chi của Ngân sách Quận- Huyện: Nếu như thu ngân sách là quá trình tạo lập hình thành Ngân sách thì chi ngân sách lại là quá trình sử dụng ngân sách. Nó không hoàn toàn ngược lại với quá trình thu nhưng lại chịu sự điều khiển của quá trình thu tức là không thể chi nhiều trong khi thu ít và ngược lại, đồng thời tạo thêm nguồn thu nhờ việc chi vào đầu tư ngân sách nhàn rỗi vào sản xuất kinh doanh. Chi ngân sách là quá trình sử dụng quỹ NSNN theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà nước. b.1/ Đặc điểm chi Ngân sách Quận- Huyện: Với tư cách là một quá trình sử dụng quỹ NSNN chi ngân sách có các đặc điểm sau: Một là, chi tiêu ngân sách luôn gắn liền với nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà Nhà nước đảm nhiệm trong mỗi thời kì. Đặc điểm này có thể nhìn ra tù vai trò của Ngân sách và bản chất NSNN. Ngân sách nhà nước mang bản chất chín trị, duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, ổn định phát triển kinh tế, đảm bảo xã hội ổn định, phát triển. Hai là, tác dụng của các khoản chi ngân sách bao giờ cũng được xem xét ở tầm vĩ mô bởi vì thông thường những khoản chi ngân sách sẽ phát huy tác dụng trong phạm vi nhất định. Việc chi tiêu ngân sách Quận- Huyện phải phát huy được tác dụng trong phạm vi Quận, Huyện. Ba là, tính hiệu quả của các khoản chi được thể hiện toàn diện trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Đặc điểm này biểu hiện mối quan hệ giữa tài chính với kinh tế, chính trị, xã hội. b.2/ Một số yêu cầu cần đạt được trong quá trình chi Ngân sách: Thứ nhất, khi xem xét, đánh giá tính hiệu quả của chi Ngân sách, chúng ta phải xây dựng một loạt các chỉ tiêu, chỉ số bao gồm cả định tính và định lượng. Điều đó sẽ giúp cho các nhà phân tích có thể đưa ra các nhận định, đánh giá đúng đắn hơn, chính xác hơn tính hiệu quả của chi Ngân sách. Thứ hai,trong khi thực hiện chi ngân sách vừa phải đảm bảo đúng dự toán vừa đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả. b.3/ Nhiệm vụ chi của Ngân sách Quận- Huyện: */ Chi thường xuyên về: Các hoạt động sự nghiệp Giáo dục- Đào tạo, Y tế thực hiện theo phân cấp của tỉnh. Các hoạt độn sự nghiệp văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, xã hội và các hoạt động xã hội khác do cơ quan cấp huyện quản lý. Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do cơ quan cấp huyện quản lý: + Nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp thủy lợi + Giao thông. + Sự nghiệp hành chính. + Các sự nghiệp kinh tế khác. + Quốc phòng, an ninh trật tự và an toàn xã hội. Hoạt động của các cơ quan Nhà nước cấp huyện. Hoạt động của cơ quan cấp Huyện của Đảng cộng sản Việt Nam. Hoạt động của cơ quan cấp Huyện, của mặt trận tổ quốc Việt Nam, Đoàn TN CSHCM, Hội LHPN VN, Hội nông dân Việt Nam. Tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp cấp Quận, Huyện theo quy định của pháp luật. Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. */ Chi đầu tư phát triển: Gồm có: Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội theo phân cấp của tỉnh, thành phố. Chi đầu tư xây dựng các trường phổ thông quốc lập, các công trình phúc lợi công cộng, điện chiếu sáng cấp thoát nước, giao thông nội thị, an toàn giao thông vệ sinh đô thị. Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới. b.4/ Cấp phát kinh phí, các khoản chi của Ngân sách Quận, Huyện Căn cứ vào dự toán chi NSNN năm được giao và dự toán Ngân sách từng quý; căn cứ vào yêu cầu thực hiện nhiệm chi, phòng tài chính- vật giá tiến hành cấp phát kinh phí theo nguyên tắc cấp trực tiếp đến các đơn vị sử dụng Ngân sách và thanh toán trực tiếp từ kho bạc Nhà nước cho người được hưởng. Các hình thức cấp phát kinh phí: Cấp phát bằng hạn mức kinh phí: Đối tượng cấp phát theo hạn mức kinh phí là các khoản chi thường xuyên của các đơn vị dự toán NSNN bao gồm: các cơ quan hành chính nhà nước; các đơn vị sự nghiệp hoạt động dưới hình thức thu đủ, chi đủ hoặc gần thu- bù chi; các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội và tổ chức xã hội nghề nghiệp thường xuyên được NSNN cấp kinh phí. Cấp bằng hình thức lệnh chi tiền: Áp dụng với các đối tượng là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội không có quan hệ thường xuyên với ngân sách, các khoản giao dịch của Chính phủ với các tổ chức và cá nhân nước ngoài; các khoản bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới và một số khoản chi đặc biệt khác theo quyết định của thủ trưởng của cơ quan tài chính. Chi cho vay của ngân sách Quận, Huyện: Đối với các khoản chi cho vay của Ngân sách Quận, huyện, cơ quan tài chính chuyển nguồn cho cơ quan được giao nhiệm vụ cho vay hoặc chuyển tiền theo hợp đồng cho tổ chức được vay trong trường hợp cho vay trực tiếp. Cơ quan được giao nhiệm vụ cho vay hoặc cơ quan tài chính trong trường hợp cho vay trực tiếp có trách nhiệm quản lý, cho vay, thu hồi nợ gốc, lãi gộp vào NSNN và quyết toán theo chế độ quy định. - Chi trả nợ vay của Ngân sách Quận, Huyện: Đối với các khoản chi trả nợ, chi cục Kho bạc Nhà nước thực hiện thanh toán theo lệnh chi của phòng Tài chính- kế hoạch. - Đối với chi sự nghiệp kinh tế: Cơ quan tài chính, Kho bạc nhà nước thực hiện cấp phát, thanh toán theo quy trình cấp phát hạn mức kinh phí trừ một số khoản kinh phí sự nghiệp kinh tế có tính chất đặc thù Bộ Tài chính có văn bản hướng dẫn riêng. - Đối với các khoản chi cho các chương trình mục tiêu quốc gia: Với các khoản chi đã giao cho đơn vị trực tiếp thực hiện thì cấp phát theo quy trình Với các khoanar chi ủy quyền thì cơ quan tài chính cấp trên chuyển kinh phí ủy quyền cho cơ quan tài chính cấp dưới cấp dưới để cấp phát. - Cấp phát và cho vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản: Thực hiện theo quy trình, quy định của Chính phủ, Bộ Tài chính sẽ có những văn bản hướng dẫn thêm. - Chi bằng hiện vật và ngày công lao động: Đối với các khoản chi bằng hiện vật: căn cứ vào biên bản bàn giao hiện vật, giá hiện vật được duyệt, cơ quan tài chính quy đổi ra đồng Việt Nam để làm lệnh ghi thu, ghi chi Ngân sách gửi kho bạc Nhà nước để hạch toán thu, chi NSNN. Đối với các khoản chi bằng ngày lao động: căn cứ trên ngày lao động được duyệt, cơ quan tài chính làm lệnh ghi thu, chi gửi kho bạc Nhà nước để hạch toán thu, chi ngân sách. - Cấp phát kinh phí ủy quyền Trong trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước ủy quyền cho cơ quan quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ thuộc chức năng của mình thì phải chuyển kinh phí từ cấp trên cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó. Hình thức chuyển kinh phí chủ yếu bằng hạn mức kinh phí.Đối với các khoản kinh phí nhỏ, nội dung chi đã xác định rõ thì có thể chuyển kinh phí bằng hình thức lệnh chi tiền. - Cấp phát cho các tổ chức chính trị- xã hội và tổ chức xã hội nghề nghiệp: + Đối với các tổ chức chính trị xã hội: Được ngân sách đảm bảo cân đối chi phí hoạt động theo quy định. Sau khi được giao nhiệm vụ chi Ngân sách, từng tổ chức chính trị- xã hội thực hiện phân bổ dự toán ngân sách ( phần được NSNN cấp) chi tiết theo mục lục NSNN hiện hành. + Đối với các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp thuộc đối tượng được Nhà nước tài trợ theo quy định: Cấp phát theo hình thức hạn mức kinh phí như các tổ chức chính trị- xã hội nếu là tài trợ thường xuyên; cấp phát theo hình thức ghi lệnh chi tiền nếu được tài trợ đột xuất theo mục tiêu cụ thể. c/ Cân đối Ngân sách Quận, Huyện: Cân đối ngân sách là phương hướng xuyên suốt trong toàn bộ quá trình tạo lập và sử dụng ngân sách. Căn cứ vào dự toán thu, cơ chế quản lý Ngân sách mới có thể đưa ra được dự toán chi. Tuy nhiên để an toàn, các nhà hoạch định chính sách thường đảm bảo tổng thu lớn hơn tổng chi một lượng hợp lý để đề phòng những rủi ro có những khoản chi đột biến. Điều 8 mục 3 luật NSNN có quy định : “Ngân sách địa phương được cân đối theo nguyên tắc tổng chi không được vượt quá tổng thu”. Quy định này nhằm đảm bảo tính ổn định cho Ngân sách địa phương. Với tư cách là một Ngân sách địa phương, Ngân sách Quận- Huyện cũng phải tuân thủ những quy định vể cân đối Ngân sách. Hầu hết các Quận, Huyện đều có xu hướng khai thác tối đa các nguồn thu trên địa bàn nhằm tạo cho ngấn sách Quận, Huyện đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu phát triển địa phương. Để có thể cân đối được Ngân sách chúng ta phải tìm cách khai thác các nguồn thu do pháp luật quy định thậm chí có thể đi vay. Số dư Ngân sách của Quận, Huyện = Tổng số thu ngân sách Quận, Huyện – Tổng chi ngân sách Quận, Huyện. + Ngân sách bội thu khi số dư ngân sách Quận, Huyện > 0, tức là tổng thu lớn hơn tổng chi. + Ngân sách bội chi khi số dư ngân sách Quận, Huyện < 0, tức là tổng thu nhỏ hơn tổng chi. Trong trường hợp bội chi ngân sách sẽ tác động xấu đến nền kinh tế và ảnh hưởng tới cả các năm tiếp theo. Thông thường thâm hụt ngân sách xảy ra do các nguyên nhân sau: Một là, do Quận, Huyện thực hiện một số chủ trương, chính sách trong việc quản lý kinh tế, quản lý tài chính. Mặc dù đã dự toán nhưng do Quận, Huyện không khảo sát hết các khoản chi nên khi thực hiện chính sách xuất hiện các khoản chi vượt dự toán. Nguyên nhân này xuất phát từ khâu lập dự toán. Hai là, do sự yếu kém trong quản lý và điều hành ngân sách. Nguyên nhân này là một bức xúc hiện nay- cải cách hành chính. Bộ máy hành chính cồng kềnh, công tác thu chi đều phải trải qua nhiều cửa, cán bộ quản lý yếu kém, biến chất, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu. Ba là, do tác động của các yếu tố điều kiện tự nhiên. Đó là sự tăng chi cho khắc phục những thiên tai bất thường như lũ lụt,hạn hán… Để khắc phục nguyên nhân này cần có các khoản dự phòng ngân sách cho các vấn đề thiên tai. Bốn là, do diễn biến của chu kì kinh doanh, thông thường chi ngân sách vận động ngược chiều với chu kì kinh doanh. Khi chu kì kinh doanh ở giai đoạn tăng trưởng thì chi ngân sách lại ít, khi chu kì kinh doanh đang suy thoái thì chi ngân sách tăng vì phải bơm thêm vốn vào nền kinh tế. Như vậy, với hai nguyên nhân đầu mang tính chủ quan, xuất phát từ việc quản lý ngân sách. Do vậy, chúng ta cần phải lập dự toán thật chi tiết từ cơ sở, không ngừng nâng cao trình độ, năng lực cán bộ quản lý, cải cách hành chính, cải tạo cơ sở hạ tầng. Đối với nguyên nhân thứ ba và thứ tư, chúng ta phải luôn luôn theo dõi diễn biến, phân tích để có thể đưa ra những biện pháp phòng chống, khắc phục. 1.3.2 Quản lý ngân sách Quận, Huyện: 1.3.2.1 Tính tất yếu của công tác quản lý Ngân sách Quận, Huyện: Trong các phần đã nghiên cứu về Ngân sách Quận - Huyện, về vai trò, chức năng, nội dung của Ngân sách Quận -Huyện. Qua đó, ta có thể hiểu rõ được tầm quan trọng, tính phức tạp của Ngân sách Quận -Huyện. Ngân sách Quận - Huyện là thuộc về chính quyền Quận - Huyện, nó thể hiện tiềm lực tài chính của chính quyền Quận - Huyện. Thế nhưng tiềm lực đó phải tương xứng với nền kinh tế của Quận - Huyện, có nghĩa là phải đủ mạnh, đủ lớn để có thể đáp ứng được các yêu cầu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của Quận - Huyện. Vậy làm cách nào có thể tạo dựng được một Ngân sách Quận -Huyện đủ lớn mạnh để đáp ứng những yêu cầu trên? Không còn cách nào khác là phải quản lý Ngân sách Quận -Huyện và không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý Ngân sách Quận -Huyện. Cho nên quản lý Ngân sách Quận -Huyện là tất yếu bởi: Thứ nhất, không có một doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nào tự nguyện nộp thuế cho Nhà nước. Các đối tượng nộp thuế, phí luôn luôn tìm cách trốn thuế, tránh thuế, lách thuế, thậm chí còn “rút ruột thuế”. Như chúng ta dã biết, trong những năm qua, việc áp dụng thuế giá trị gia tăng khuyến khích xuất khẩu đã tạo ra những “lỗ hổng”, tạo điều kiện cho kẻ xấu lợi dụng chính sách hoàn thuế đã “rút” ngân sách đền hàng trăm tỷ đồng. Thế mà, thuế lại là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách. Nếu như chúng ta để cho các đôi tượng nộp tự nguyện nộp thuế thì Ngân sách sẽ rỗng không. Lý do này xuất phát từ đặc điểm “không hoàn trả trực tiếp” của thuế. Khác với phí và lệ phi, thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp: Nếu như các đối tượng nộp phí, lệ phí thì họ sẽ được hưởng trực tiếp các hàng hoá, dịch vụ mà nhà nước cung cấp còn thuế thì không, các đối tượng phải nộp thuế mà không thu được bất cứ hàng hoá dịch vụ nào. Thứ hai, các đối tượng được Ngân sách cấp phát chi sẽ ra sức “rút ruột” Ngân sách để phục vụ cho tổ chức, cá nhân mình mà không nghĩ đến tổ chức cá nhân khác. Đây là hiện tượng làm lãng phí, thất thoát Ngân sách. Chính vì vậy, chúng ta phải quản lý Ngân sách: quản lý từ các nguồn thu đến các khoản chi. 1.3.2.2. Nội dung quản lý ngân sách Quận- Huyện: Ở phần trên chúng ta đã nghiên cứu nội dung Ngân sách Quận- Huyện gồm có: Thu, chi và cân đối ngân sách. Tuy nhiên ở dưới góc độ quản lý thì Ngân sách Quận- Huyện bao gồm các khâu sau: - Lập dự toán ngân sách Quận- Huyện. - Chấp hành ngân sách Quận- Huyện - Kế toán và quyết ngân sách Quận- Huyện. Quản lý ngân sách Quận- Huyện là quá trình quản lý hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của chính quyền Nhà nước cấp Quận- Huyện; quản lý các khoản thu, chi của Quận- Huyện đã dự toán bởi UBND tỉnh, thành phố và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của cấp trên giao và Quận- Huyện đề ra. a/ Lập dự toán ngân sách Quận- Huyện: a.1/ Yêu cầu của việc lập dự toán Thứ nhất, dự toán Ngân sách Quận -Huyện phải phản ánh đầy đủ các khoản thu, chi theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức, kể cả các khoản thu, chi từ nguồn viện trợ và các khoản vay. Thứ hai, dự toán Ngân sách Quận -Huyện phải lập theo đúng biểu mẫu, đúng thời gian quy định và phải lập chi tiết theo Mục lục NSNN. Thứ ba, dự toán Ngân sách Quận -Huyện phải tổng hợp theo từng lĩnh vực thu, chi, theo cơ cấu giữa chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi trả nợ. Thứ tư, bản báo cáo Ngân sách Quận -Huyện phải kèm theo bản thuyết minh chi tiết các cơ sở, căn cứ tính toán. Thứ năm, dự toán Ngân sách Quận -Huyện phải đảm bảo cân đối theo nguyên tắc sau: Dự toán Ngân sách của các năm trong thời kì ổn định phải cân bằng giữa thu, chi trên cơ sở số thu của Ngân sách. a.2/ Căn cứ lập dự toán Ngân sách Quận -Huyện Một là, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo quốc phòng an ninh; chỉ tiêu nhiệm vụ của năm kế hoạch và những chỉ tiêu phản ánh quy mô, nhiệm vụ, đặc điểm hoạt động, điều kiện kinh tế -xã hội và tự nhiên. Hai là, các luật, pháp lệnh thuế chế độ thu; chế độ, tiêu chuẩn định mức do cấp có thẩm quyền quyết định; các chế độ chính sách hiện hành làm cơ sở lập dự toán chi Ngân sách. Trường hợp cần sửa đổi, bổ xung phải được nghiên cứu và ban hành trước thời điểm lập dự toán Ngân sách Ba là, những quy định về phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, phân cấp quản lý Ngân sách. Bốn là, tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu và mức bổ xung từ Ngân sách cấp trên. Năm là, chỉ thị của Thủ tướng CP về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán Ngân sách năm sau; Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính về lập dự toán Ngân sách và văn bản hướng dẫn của các Bộ. Sáu là, số kiểm tra về dự toán Ngân sách do cơ quan có thẩm quyền thông báo. Bảy là, tình hình thực hiện dự toán các năm trước. a.3/ Nhiệm vụ, quyền hạn của phòng Tài chính - Vật giá trong việc lập dự toán Ngân sách Quận -Huyện. Tổ chức làm việc với UBND cấp dưới, các cơ quan đơn vị cùng cấp về dự toán Ngân sách; có quyền yêu cầu bố trí lại các khoản thu, chi trong dự toán chưa đúng chế độ, tiêu chuẩn chưa hợp lý, chưa tiết kiệm, chưa phù hợp với khả năng Ngân sách và định hướng phát triển kinh tế -xã hội. Trong quá trình thảo luận để tổng hợp và lập dự toán Ngân sách, nếu còn có ý kiến khác nhau, cơ quan tài chính ở cấp địa phương phải báo ngay UBND cùng cấp quyết định . Chủ trì phối hợp với cơ quan kế hoạch và đầu tư, các cơ quan, đơn vị khác liên quan trong việc tổng hợp lập dự toán Ngân sách và phương án phân bổ dự toán Ngân sách của cấp mình. Phối hợp với cơ quan kế hoạch đầu tư cùng cấp trong việc lập và phân bổ dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản tập trung cho từng đơn vị, từng dự án, công trình. Phối hợp với cơ quan quản lý chương trình quốc gia trong việc lập phương án phân bổ dự toán chi chương trình quốc gia. Đề xuất các phương án cân đối Ngân sách và các biện pháp nhằm thực hiện chính sách tăng thu, tiết kiệm chi Ngân sách. Phòng Tài chính xem xét dự toán Ngân sách của các đợn vị thuộc Quận - Huyện, dự toán thu do cơ quan thuế lập; dự toán thu, chi Ngân sách của các xã, phường; lập dự toán thu NSNN trên địa bàn, dự toán thu, chi Ngân sách Quận -Huyện (gồm dự toán Ngân sách cấp xã và dự toán Ngân sách Quận g -Huyện), dự toán các khoản kinh phí uỷ quyền trình UBND Quận - Huyện để báo cáo thường trực HĐND xem xét báo cáo UBND tỉnh, đồng gửi Sở Tài chính -Vật giá, Sở Kế hoạch -Đầu tư (phần dự toán Ngân sách theo lĩnh vực, dự toán chi đầu tư XDCB), Sở quản lý ngành, lĩnh vực, cơ quan quản lý chương trình quốc gia của tỉnh (phần dự toán chi chương trình quốc gia). a.4/ Phân bổ, giao Ngân sách Quận -Huyện Sau khi Quận - Huyện nhận được quyết định giao nhiệm vụ thu, chi Ngân sách của UBND Tỉnh, Thành Phố, Phòng tài chính có tránh nhiệm giúp UBND Quận Huyện trình HĐND Quận Huyện quyết định dự toán thu, chi Ngân sách Quận -Huyện, phương án phân bổ Ngân sách cấp Quận -Huyện; UBND Quận - Huyện có tránh nhiệm báo cáo UBND tỉnh, Sở tài chính - vật giá dự toán ngân sách Quận - Huyện và dự toán phân bổ Ngân sách Quận -Huyện đã được HĐND Quận - Huyện quyết định. Căn cứ vào Nghị quyết của HĐND Quận - Huyện, UBND Quận - Huyện quyết định giao nhiệm vụ thu, chi Ngân sách cho từng cơ quan, đơn vị trực thuộc Quận - Huyện; nhiệm vụ thu, chi và mức bổ sung Ngân sách cho từng xã, phường. a.5/ Điều chỉnh dự toán Ngân sách . Khi có một số đơn vị dự toán phải điều chỉnh, các đơn vị này phải điều chỉnh dự toán Ngân sách của mình (chủ động hoặc theo yêu cầu của cơ quan tài chính cùng cấp hay cơ quan tài chính cấp trên), lập dự toán Ngân sách điều chỉnh gửi cơ quan tài chính cấp trên hoặc cùng cấp, cơ quan kế hoạch và đầu tư. Cơ quan tài chính có trách nhiệm báo cáo UBND. b/ Chấp hành Ngân sách Quận Huyện. b.1/ Dự toán Ngân sách quý Trên cơ sở nhiệm vụ thu cả năm được giao và nguồn thu dự kiến phát sinh trong quý, cơ thu lập dự toán thu Ngân sách quý có chia ra khu vực kinh tế, địa bàn và đối tượng thu chủ yếu và hình thức thu, gửi cơ quan tài chính cùng cấp. Dự toán thu quý gửi trước ngày 10 của tháng cuối quý trước. Trên cơ sở dự toán chi cả năm được duyệt và nhiệm vụ phải chi trong quý, các đơn vị sử dụng Ngân sách lập dự toán chi quý (có chia tháng), chi tiết theo các mục trên của mục lục NSNN gửi cơ quan quản lý cấp trên. Cơ quan quản lý cấp trên tổng hợp, lập dự toán chi Ngân sách quý (có chia ra tháng), gửi cơ quan tài chính đồng cấp trước 10 ngày của tháng cuối quý trước . Cơ quan tài chính căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi trong quý lập dự toán điều hành Ngân sách quý báo cáo UBND. Trong báo cáo, cân đối Ngân sách phải được lập một cách chắc chắn, đồng thời nêu rõ các biện pháp thực hiện và các kiến nghị cần thiết đối với các cấp có thẩm quyền. b.2/ Tổ chức thu Ngân sách Quận -Huyện . Căn cứ và tờ khai thuế và các khoản phải nộp NSNN của các tổ chức cá nhân có nghĩa vụ phải nộp Ngân sách, cơ quan thu kiểm tra, xác định số thuế và các khoản phải nộp Ngân sách và ra thông báo thu Ngân sách gửi đối tượng nộp. Nếu hết thời hạn nộp tiền trong thông báo thu Ngân sách mà tổ chức, cá nhân vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ nộp thì cơ quan thu được quyền yêu cầu Ngân Hàng hoặc Kho Bạc Nhà nước trích số tiền phải nộp từ tài khoản của tổ chức, cá nhân đó để nộp Ngân sách hoặc áp dụng các biện pháp tài chính khác để thu Ngân sách. Phương thức thu NSNN: Toàn bộ các khoản thu của NSNN phải nộp trực tiếp vào Kho bạc Nhà nước trừ các khoản dưới đây do cơ quan thu có thể thu trực tiếp song phải định kỳ nộp vào Kho bạc Nhà nước trong thời hạn quy định: -Thu phí, lệ phí -Thu thuế Hộ kinh doanh không cố định -Các khoản thu ở địa bàn xã, nơi không có điểm thu của Kho bạc Nhà nước . b.3/ Hoàn trả các khoản thu Ngân sách Quận -Huyện . Các trường hợp được trả thu Ngân sách là: +Thu không đúng chính sách, chế độ. +Trả lại đối tượng nộp theo chính sách của Nhà nước . Việc hoàn trả các khoản thu Ngân sách được thực hiện theo các nguyên tắc sau: Một là, Ngân sách Quận -Huyện được hưởng khoản thu này từ cơ quan tài chính cấp Quận - Huyện ra quyết định hoàn trả. Nếu khoản thu đã phân chia giữa Ngân sách các cấp thì cơ quan tài chính ở cấp cao nhất ra quyết định hoàn trả. Hai là, khoản thu đã hạch toán vào chương, loại, khoản, mục, tiểu mục nào thì hoàn trả từ chương, loại, mục, tiểu mục đó. Trường hợp hoàn trả cho khoản thu đã quyết toán vào niên độ Ngân sách các năm trước cơ quan tài chính ra lệnh cấp hoàn trả vào chương “ Các quan hệ khác của Ngân sách". Ba là, khoản thu đã hạch toán và quỹ Ngân sách Quận -Huyện thì được hoàn trả từ quỹ Ngân sách Quận -Huyện . Bốn là, căn cứ vào chứng từ hoàn trả của cơ quan tài chính, Kho Bạc Nhà nước hạch toán giảm thu hoặc hạch toán chi NSNN và thanh toán trực tiếp cho đối tượng được hưởng . b.4/ Tăng giảm thu, chi Ngân sách Số tăng thu hoặc tiết kiệm chi số dự toán được đuyệt được sử dụng để giảm bội chi, tăng trả nợ hoặc bổ sung quỹ dự chữ tài chính, hoặc tăng chi một số khoản cần thiết khác, kể cả tăng chi cho Ngân sách cấp dưới nhưng không được tăng chi về quỹ tiền lương, trừ trường hợp Nhà nước thay đổi chính sách về tiền lương hoặc các khoản trợ cấp, thưởng có tính chất tiền lương. Nếu giảm thu so với dự toán được duyệt thì phải xắp xếp lại để giảm một số khoản chi tương ứng. Khi phát sinh các công việc đột xuất như khắc phục hậu quả thiên tai, địch hoạ và các nhu cầu chi cấp thiết chưa được bố trí hoặc bố trí chưa đủ trong dự toán được giao mà sau khi xắp xếp lại các khoản chi, cơ quan chủ quản đơn vị sử dụng Ngân sách không xử lý được thì từng cấp phải chủ động sử dụng dự phòng cấp mình để xử lý. Nếu không còn dự phòng Ngân sách thì sắp xếp lại chi để đáp ứmg nhu cầu chi đột xuất. b.5/ Xử lý thiếu hụt tạm thời Khi xảy ra thiếu hụt Ngân sách tạm thời do nguồn thu và các khoản vay trong kế hoạch tập trung chậm hoặc có nhiều nhu cầu phải chi trong cùng thời điểm dẫn đến mất cân đối tạm thời về quỹ Ngân sách . Ngân sách Quận -Huyện được vay quỹ dự trữ tài chính của tỉnh theo quyết định của Chủ tịch UBND Tỉnh. Các khoản vay quỹ dự trữ tài chính phải được hoàn trả trong năm Ngân sách. Nếu đến thời hạn mà không trả thì bên cho vay có quyền yêu cầu Kho bạc Nhà nước trích tài khoản của bên vay để trả nợ. b.6/ Sử dụng quỹ dự phòng, quỹ dự trữ tài chính. Dự phòng Ngân sách được sử dụng để khắc phục hậu quả thiên tai, địch hoạ và trong trừơng hợp phát sinh nhu cầu chi cấp thiết chưa được bố trí. Quỹ dự trữ tài chính được sử dụng để cho vay hoặc đầu tư . c/ Kế toán và quyết toán Ngân sách Quận -Huyện . Các cơ quan quản lý Ngân sách Quận -Huyện, các đơn vị dự toán có trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác kế toán Ngân sách thuộc phạm vi quản lý, lập quyết toán thu chi Ngân sách, tổng hợp báo cáo quyết toán Ngân sách. c.1/ Tổ chức bộ máy kế toán Ngân sách Đơn vị dự toán và cấp chính quyền, phải tổ chức bộ máy kế toán Ngân sách. Những cán bộ làm công tác kế toán phải được bố trí theo đúng chức danh tiêu chuẩn quy định của Nhà nước và được bảo đảm quyền độc lập về chuyên môn nghiệp vụ. Khi thay đổi cán bộ kế toán phải thực hiện bàn giao giữa cán bộ kế toán cũ với cán bộ kế toán mới, cán bộ kế toán cũ vẫn phải chịu trách nhiệm về công việc của mình đã làm kể từ ngày bàn giao về trước, cán bộ kế toán mới phải chịu trách nhiệm về công việc của mình kể từ ngày nhận bàn giao. Khi giải thể, sát nhập hoặc chia tách đơn vị kế toán, thủ trưởng và kế toán trưởng hoặc người phụ trách công tác kế toán phải hoàn thành việc quyết toán của đơn vị cũ đến thời điểm đó. c.2/ Khoá sổ kế toán Ngân sách Hết kỳ kế toán (thángt, quý, năm) các đơn vị dự toán và Ngân sách các cấp chính quyền phải thực hiện công tác khoá sổ kế toán. c.3/ Báo cáo kế toán thu, chi Ngân sách Các đơn vị dự toán các cấp phải báo cáo kế toán theo chế độ kế toán hành chính sự nghiệp và các Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính. Cơ quan kho bạc Nhà nước tổ chức hạch toán và kế toán xuất, nhập quỹ NSNN theo chế độ kế toán Kho bạc Nhà nước. Cơ quan tài chính phải tổ chức hạch toán kế toán và báo cáo kế toán thu, chi NSNN theo chế độ kế toán NSNN hiện hành. Hàng tháng, lập báo cáo thu NSNN, chi Ngân sách địa phương gửi UBND và cơ quan tài chính cấp trên. c.4/ Quyết toán Ngân sách Nguyên tắc lập báo cáo quyết toán Ngân sách: - Số liệu trong báo cáo quyết toán phải chính xác trung thực. Nội dung báo cáo quyết toán Ngân sách phải theo đúng các nội dung ghi trong dự toán được duyệt và phải báo cáo quyết toán chi tiết theo Mục lục NSNN. - Báo cáo quyết toán năm của đơn vị dự toán gửi cơ quan tài chính phải gửi kèm các báo cáo sau đây: + Bảng cân đối tài khoản cuối ngày 31/12. + Báo cáo thuyết minh quyết toán năm. (Báo cáo quyết toán năm phải có xác nhận của Kho bạc Nhà nướcB) - Báo cáo quyết toán Ngân sách của các đơn vị dự toán và của các cấp chính quyền không được quyết toán chi lớn hơn thu. - Cấp dưới không được quyết toán các khoản kinh phí uỷ quyền của Ngân sách cấp trên vào báo cáo quyết toán Ngân sách cấp mình. Phòng Tài chính có trách nhiệm thẩm tra báo cáo quyết toán thu, chi Ngân sách cấp Quận - Huyện; tổng hợp báo cáo thu NSNN trên địa bàn; quyết toán thu, chi Ngân sách Quận -Huyện trình UBND Quận - Huyện để gửi Sở tài chính - Vật giá và HĐND Quận - Huyện phê chuẩn. Trường hợp báo cáo quyết toán năm do HĐND Quận - Huyện phê chuẩn có thay đổi so với quuết toán năm do UBND Quận - Huyện đã gửi Sở tài chính - Vật giá thì UBND Quận - Huyện phải báo cáo bổ sung, điều chỉnh gửi Sở tài chính - Vật giá. Chương II: Thực trạng công tác quản lý ngân sách Huyện Quế Võ- tỉnh Bắc Ninh: 2.1 Một số đặc trưng về kinh tế, văn hóa, xã hội huyện Quế Võ: 2.1.1 Về địa lý hành chính: Huyện Quế Võ nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Bắc Ninh; phía Bắc giáp tỉnh Yên Dũng- Bắc Giang, phía Nam giáp huyện Gia Lương- Bắc Ninh, Phía Đông giáp huyện Chí Linh- Hải Dương,phía Tây giáp thành phố Bắc Ninh. Huyện Quế Võ bao gồm 24 xã và thị trấn, là huyện lớn nhất của tỉnh Bắc Ninh. Phòng Tài chính Kế hoạch nằm ngay trung tâm của huyện.Đó là thị trấn Phố Mới, là điểm nối giữa các tuyến giao thông liên tỉnh liên huyện và liên xã. Đây cũng chính là địa bàn cơ sở của nhiều cơ quan hành chính quan trọng. Do có điều kiện địa lý như vậy nên việc thực hiện các chủ trương- chính sách của Đảng và Nhà nước rất thuận lợi và nhanh chóng.Ngoài ra việc chỉ đạo, kiểm tra của phòng với các cơ quan đơn vị trực thuộc cũng có nhiều thuận lợi. 2.1.2. Về kinh tế: Đến cuối năm 2007 cơ cấu kinh tế của huyện như sau: + Nông- lâm- ngư nghiệp : 40,0% + Công nghiệp- XDCB : 36,2% + Thương mại dịch vụ : 23,8% 2.1.2.1 Nông- lâm- ngư nghiệp: Sản xuất Nông- lâm- ngư nghiệp tiếp tục phát triển và giữ vai trò ổn định trong nền kinh tế. Sau đây là một số kết quả sản xuất nông nghiệp trong năm 2007: - Diện tích gieo trồng cả năm 2007 là 21.963 ha, trong đó diện tích lúa là 16.000 ha - Hệ số sử dụng đất là: 2,39 lần. - Tổng số lượng lương thực có hạt đạt 100.200- 100.500 tấn, năng suất lúa bình quân 58,5- 60 tạ/ ha, giá trị canh tác của 1 ha đạt 36,5 triệu đồng/ năm. - Tính đến cuối năm 2007 trên địa bàn huyện đã có 167 trang trại, thu nhập bình quân trên 1 ha trang trại đạt trên 70 triệu đồng. Từ đó, Huyện ủy, UBND Huyện đã tập trung chỉ đạo phát triển mạnh nông nghiệp và kinh tế nông thôn: - Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, tăng tỉ trọng chăn nuôi thủy sản, ứng dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất nông nghiệp, quy hoạch các vùng sản xuất tập trung và chuyên canh, dồn điền đổi thửa, phát huy thế mạnh sẵn có, và mở rộng vùng sản xuất nông sản hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Tập trung xây dựng và mở rộng nhiều cánh đồng có giá trị thu nhập cao từ 50 triệu đồng/ 1ha trở lên, trước mắt xây dựng mỗi xã có một cánh đồng từ 5 ha trở lên; chuyển dịch cơ cấu mùa vụ theo hướng mở rộng cây rau mầu để nâng cao hệ số quay vòng đất…. - Về chăn nuôi và thủy sản: khuyến khích mô hình chăn nuôi gia súc gia cầm theo phương thức công nghiệp và bán công nghiệp; ổn định diện tích nuôi trồng thủy sản, đảm bảo phát huy hiệu quả 1.100 ha đồng trũng được chuyển đổi, tận dụng triệt để diện tích mặt nước hiện có đê nuôi trồng thủy sản - Về kinh tế trang trại._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24721.doc