LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường tiềm ẩn các rủi ro. Trong điều kiện hiện tại, khi mà xu hướng tự do hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế ngày càng phát triển thì nguy cơ gặp phải rủi ro của các doanh nghiệp ngày càng lớn. Việc chủ động phòng ngừa rủi ro, đảm bảo an ninh tài chính và khả năng phát triển bền vững của các doanh nghiệp trở thành vấn đề thực sự cấp thiết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh d
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1318 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Công ty Điện lực 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh, một trong những yếu tố quan trọng tác động đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp là việc huy động và sử dụng tài sản bằng tiền. Do đó, nhiệm vụ quan trọng của nhà quản lý là luôn giữ được sự cân bằng hợp lý giữa các luồng tiền vào và luồng tiền ra của doanh nghiệp, hay nói cách khác là duy trì được một lượng tiền nhất định đủ để đáp ứng các nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo luật doanh nghiệp, khi một doanh nghiệp không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn phải trả thì chủ nợ có quyền yêu cầu phá sản doanh nghiệp. Hiểu được tầm quan trọng của việc đảm bảo khả năng thanh toán trong mọi thời điểm, mỗi doanh nghiệp đều phải quan tâm tới quản lý ngân qũy của mình.
Công ty Điện lực 1 là đơn vị trực thuộc Tổng công ty điện lực Việt Nam. Với chiến lược phát triển của ngành điện lực trong xu thế hội nhập, cạnh tranh, quản lý tốt ngân quỹ đã và đang là một yêu cầu đối với công ty Điện lực 1.
Vì vậy, sau thời gian thực tập tại Công ty Điện lực 1, em đã chọn đề tài “Hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại công ty Điện lực 1” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Nội dung chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương I: Công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng quản lý ngân quỹ tại công ty Điện lực 1
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại công ty Điện lực 1
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Vũ Duy Hào đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề tôt nghiệp này, cảm ơn các cô chú, anh chị công tác tại phòng tài chính – kế toán công ty điện lực1 đã tạo điều kiện cho em trong quá trình thực tập và viết chuyên đề tốt nghiệp.
CHƯƠNG I
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ TRONG HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1.1. Vị trí và vai trò công tác quản lý ngân quỹ trong hoạt động tài chính doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm ngân quỹ
Ngân quỹ là khái niệm dùng để chỉ tiền (bao gồm tiền mặt trong két tại doanh nghiệp và tiền gửi ngân hàng) và các khoản tương đương tiền như chứng khoán dễ bán. Các loại chứng khoán giữ vai trò như một “bước đệm” cho tiền mặt, vì nếu số dư tiền mặt nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, nhưng khi cần thiết cũng có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng và ít tốn kém chi phí. Những khoản phải thu có khả năng thu hồi được tiền ngay khi cần cũng được coi là một phần của ngân quỹ.
Chúng ta có thể hiểu ngân quỹ là khoản chênh lệch giữa thực thu ngân quỹ và thực chi ngân quỹ tại một thời điểm nhất định của doanh nghiệp.
Ngân quỹ tác động tới cả đầu vào và đầu ra của hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là công cụ giúp doanh nghiệp thực hiện việc thanh toán các khoản chi, trao đổi hàng hóa…nhằm mục tiêu sinh lợi. Doanh nghiệp duy trì một mức dự trữ tiền dương là nhằm để có phương tiện giao dịch giúp doanh nghiệp mua sắm hàng hóa, nguyên vật liệu và thanh toán các khoản chi cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong hiện tại cũng như những khoản chi bất thường hay những nhu cầu về tiền đột xuất trong tương lai. Tiền giúp doanh nghiệp thực hiện được điều đó vì tiền có các chức năng chủ yếu: tiền là phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, phương tiện đo lường giá trị, phương tiện dự trữ về mặt giá trị.
1.1.1.2. Vai trò công tác quản lý ngân quỹ trong hoạt động tài chính doanh nghiệp
Chu trình tài chính của doanh nghiệp có 3 chu kỳ: Chu kỳ tạo vốn, chu kỳ sử dụng vốn, chu kỳ phân chia thu nhập. Đối với một doanh nghiệp đang hoạt động thì ba chu kỳ này đan xen nhau, có lúc kế tiếp, có lúc song hành và cũng có lúc gián đoạn. Điều này tương ứng với tính chất đan xen trong việc hình thành nhu cầu cũng như khả năng tài trợ của doanh nghiệp trong suốt một thời kỳ nhất định. Trong giai đoạn ngắn hạn, việc đảm bảo cân bằng giữa khả năng và nhu cầu tài trợ thường xuyên được xem là mục tiêu chính của quản lý tài chính. Việc đảm bảo cân bằng tài chính ngắn hạn sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động ổn định, có hiệu quả, cơ sở của sự tăng trưởng đều đặn và liên tục theo định hướng chiến lược. Vì vậy, ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp, với mục tiêu kiểm soát quá trình hoạt động của doanh nghiệp theo thời gian.
Các doanh nghiệp dự trữ tiền mặt vì 3 động lực: động lực giao dịch, động lực dự phòng, động lực đầu cơ.
Động lực dự trữ tiền để giao dịch là doanh nghiệp dự trữ tiền để có thể mua sắm hàng hóa, nguyên vật liệu và thanh toán các chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tùy vào đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể cần nhiều tiền hay ít. Đối với các doanh nghiệp bán lẻ, hầu như hoạt động nào cũng đòi hỏi cần đến tiền. Có những thời điểm, nhu cầu tiền của doanh nghiệp rất cao, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp dịch vụ vào các dịp lễ tết hay các doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh theo mùa vụ… Đến thời điểm này, nhu cầu tiền của doanh nghiệp lên rất cao để mua hàng hóa, nguyên vật liệu. Ngoài ra, khi ngân quỹ thặng dư, tiền sẽ giúp doanh nghiệp có khả năng thanh toán nhanh cho nhà cung ứng, điều này có thể là thuận lợi cho doanh nghiệp vì uy tín doanh nghiệp được nâng cao và doanh nghiệp có thể hưởng lợi thế chiết khấu.
Doanh nghiệp giữ tiền nhằm phòng ngừa khả năng thu chi tiền trong tương lai biến động không thuận lợi như sự thay đổi các chính sách của Nhà nước, đình công, hỏa hoạn, khó khăn do yếu tố thời vụ và chu kỳ kinh doanh. Điều đó cũng có nghĩa là nếu khả năng dự báo thu chi bằng tiền trong tương lai của doanh nghiệp kém thì nhu cầu tiền dự phòng là cao và ngược lại, nếu doanh nghiệp nắm rõ được dòng tiền vào ra trong thời gian tới thì nhu cầu tiền dự phòng sẽ thấp…. Doanh nghiệp sẽ không thể duy trì hoạt động bình thường để tồn tại và cạnh tranh trên thị trường nếu không có một mức tồn quỹ rộng rãi đủ để bù đắp sự mất mát về máy móc, nguyên vật liệu…
Ngoài ra, doanh nghiệp giữ tiền vì động lực đầu cơ nhằm chuẩn bị sẵn sàng để tận dụng ngay các cơ hội tốt trong kinh doanh, đầu tư khi phát sinh những cơ hội đem lại lợi nhuận, thường là đầu tư vào các chứng khoán dễ bán. Việc đầu tư vào chứng khoán dễ bán còn nhằm mục đích dự phòng mà không phải giữ tiền mặt.
Như vậy, ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của một doanh nghiệp, là phương tiện giúp doanh nghiệp duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh và đảm bảo khả năng thanh toán. Doanh nghiệp sẽ phải làm thế nào để ổn định mức cân đối ngân quỹ, tránh những trường hợp biến động bất thường xảy ra. Điều này đòi hỏi phải quản lý tốt ngân quỹ.
1.1.2. Sự cần thiết phải quản lý ngân quỹ doanh nghiệp
Mục tiêu của quản lý tài chính là cực đại hóa giá trị của doanh nghiệp. Một cách cụ thể, quản lý tài chính là việc thiết lập và thực hiện thủ tục phân tích, đánh giá và hoạch định tài chính, giúp cho nhà quản lý đưa ra các quyết định đúng đắn cũng như kiểm soát hữu hiệu quá trình thực hiện các quyết định về mặt tài chính với các nguyên tắc:
Không bao giờ để thiếu tiền đảm bảo khả năng thanh toán
Đưa ra các quyết định đầu tư đúng, đạt hiệu quả cao
Đưa ra các quyết định tài trợ hợp lý với chi phí vốn thấp
Ngân quỹ là một bộ phận của vốn lưu động có tính lỏng cao nhất, với hai bộ phận chủ yếu là tiền mặt và tiền gửi ngân hàng liên quan đến các dòng tiền vào ra doanh nghiệp – có nghĩa là nó liên quan tới các khoản phải thu, chi bằng tiền. Bất cứ khi nào phát sinh các khoản thu chi liên quan đến tiền, mức dự trữ tiền trong ngân quỹ đều biến động. Mặt khác, các khoản thu chi tiền mặt lại không đồng thời và thường diễn ra bất thường, ảnh hưởng không nhỏ tới mức dự trữ tiền. Vì vậy, để tránh những trường hợp biến động bất thường của ngân quỹ đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lý ngân quỹ.
1.1.2.1. Đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Doanh nghiệp luôn quan tâm tới mức dự trữ tiền vì ngân quỹ biến động theo chiều hướng bất lợi sẽ ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Như vậy, một vai trò quan trọng của quản lý ngân quỹ là giúp cho doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán là khái niệm dùng để chỉ khả năng đáp ứng các khoản nợ hay các khoản chi khi đến hạn. Do sự khác biệt về thời điểm ghi nhận giữa thu nhập và chi phí với thu và chi ngân quỹ, lợi nhuận trên báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp chỉ là con số trên sổ sách kế toán, lợi nhuận này nếu không được thực hiện dưới hình thái tiền, thì cho dù cao đến mức nào cũng không thể hiện được khả năng tái sản xuất mở rộng cũng như đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp được diễn ra bình thường. Trong nhiều trường hợp doanh nghiệp không đủ tiền để trang trải các khoản nợ, khoản chi phát sinh do các dòng tiền vào, ra doanh nghiệp không diễn ra cùng thời điểm, độ lớn, chu kỳ. Trong khi đó, việc dự đoán khi nào phát sinh các khoản thu, các khoản chi bằng tiền, số lượng là bao nhiêu và chu kỳ các khoản thu, các khoản chi đó như thế nào là rất khó.
Vì vậy, khả năng thanh toán tốt có ý nghĩa quan trọng với doanh nghiệp bởi lẽ nó quyết định tới mối quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng, ảnh hưởng tới uy tín của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp thường xuyên thanh toán đúng hạn có thể được hưởng chiết khấu hay các ưu đãi khác, duy trì được mối quan hệ lâu dài với nhà cung cấp, có được nguồn hàng ổn định. Ngoài ra, một doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt sẽ dễ dàng vay tiền từ ngân hàng hay tìm kiếm các nguồn tài trợ khác cả trong ngắn hạn và dài hạn. Ví dụ, doanh nghiệp có thể xin được hưởng chính sách tín dụng thương mại hay phát hành chứng khoán ra công chúng để huy động vốn. Vì vậy, doanh nghiệp cần nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý ngân quỹ để dự báo những trường hợp có thể dẫn đến thiếu hụt tiền, có thể đẩy doanh nghiệp vào trạng thái khó khăn, từ đó có biện pháp khắc phục như tìm nguồn tài trợ hay tìm cách tăng thu giảm chi. Đồng thời dự báo những trường hợp ngân quỹ có thể thặng dư để có biện pháp sử dụng tiền nhàn rỗi, tạo thêm nguồn cho ngân quỹ, phòng ngừa những biến động bất thường có thể diễn ra trong tương lai.
1.1.2.2. Lựa chọn nguồn tài trợ với chi phí thấp
Khi ngân quỹ thâm hụt do phát sinh nhiều các khoản chi nhằm duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải tìm cách tạo nguồn ngắn hạn để bù đắp thâm hụt, tránh tình trạng mất khả năng thanh toán. Doanh nghiệp có nhiều cách để tìm nguồn tài trợ ngắn hạn nhưng vì những lí do đó, doanh nghiệp không thể tìm được nguồn chi phí thấp mà phải vay các tổ chức, vay cá nhân, hay huy động từ các nguồn có chi phí cao hơn. Nếu doanh nghiệp có kế hoạch phòng ngừa trường hợp này, doanh nghiệp đã có thể có biện pháp khắc phục tối ưu. Chẳng hạn, doanh nghiệp có thể giảm các khoản phải thu của khách hàng, tăng cường quan hệ tốt với các nhà cung cấp bằng cách thanh toán nhanh để có thể được hưởng các ưu đãi về giá hay trả chậm trong tương lai; đầu tư tiền vào chứng khoán và đặc biệt là có kế hoạch vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, hạn chế các khoản vay không cần thiết để vay trong tương lai. Nếu doanh nghiệp không có kế hoạch chủ động trước sẽ khiến doanh nghiệp có thể phải “vay nóng” từ các tổ chức, cá nhân có chi phí cao, phải chịu các điều kiện ràng buộc bất lợi cho doanh nghiệp.
Như vậy, các hình thức tài trợ với chi phí lớn khiến chi phí vốn của doanh nghiệp cao, làm chi phí của doanh nghiệp trong tương lai tăng lên, ảnh hưởng tới lợi nhuận đồng thời hạn chế khả năng huy động vốn của doanh nghiệp trong tương lai. Và đặc biệt trong trường hợp doanh nghiệp không thể tìm được nguồn tài trợ nào, doanh nghiệp sẽ có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Rõ ràng, nếu không có sự quản lý chặt chẽ ngân quỹ, để tình trạng thâm hụt ngân quỹ bất lợi xảy ra, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng và việc tối thiểu hóa chi phí vốn sẽ không đạt được.
Đối với doanh nghiệp dịch vụ, mọi khoản chi lớn thường đã phát sinh vào kỳ trước, đến kỳ sau, doanh nghiệp mới thực hiện cung dịch vụ và đồng thời nhận được các khoản thu bằng tiền. Như vậy, ngân quỹ của doanh nghiệp sẽ thặng dư tiền vì thu bằng tiền của doanh nghiệp vượt trội các khoản chi trả bằng tiền trong kỳ. Tiền để tại két của doanh nghiệp hay gửi không kỳ hạn vào ngân hàng không đem lại nhiều lợi nhuận. Doanh nghiệp cũng không thể tính tới việc đầu tư dài hạn vì đây chỉ là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong ngắn hạn; cho dù đầu tư dài hạn sẽ hứa hẹn nhiều lợi nhuận thì nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro khi doanh nghiệp có nhu cầu thanh toán. Một số doanh nghiệp sẽ tìm cách đầu tư ngắn hạn tiền nhàn rỗi vào tài sản sinh lợi mà độ rủi ro có thể chấp nhận. Tuy nhiên sẽ có những doanh nghiệp không đầu tư tiền nhàn rỗi mà chỉ gửi tiền vào tài khoản ở ngân hàng bởi họ luôn duy trì một mức dự trữ tiền rộng rãi. Như vậy, quản lý ngân quỹ tốt sẽ tạo cơ hội sinh lợi, tăng lợi nhuận và lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp với chi phí thấp.
1.1.2.3. Dự phòng cho những biến động bất thường
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp không tránh khỏi những biến động bất thường như thiên tai, đình công, khách hàng của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán…. Những tác động trên có thể trực tiếp làm giảm các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp hay buộc doanh nghiệp phải chi những khoản chi bất thường. Vì vậy, doanh nghiệp phải dự trữ một khoản tiền nhất định để dự phòng cho những biến động bất thường đó. Chi phí cho việc dự phòng những biến động bất thường đó chính là khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể thu được nếu sử dụng khoản tồn quỹ đó vào kinh doanh.
Khi xảy ra những tổn thất, khoản được doanh nghiệp sử dụng ngay để thanh toán cho những tổn thất là ngân quỹ. Nếu mức tồn quỹ không đủ tài trợ cho những tổn thất có nghĩa là thời điểm đó có thể doanh nghiệp đã mất khả năng thanh toán. Vì vậy, công tác quản lý ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp.
1.2. NỘI DUNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ
1.2.1. Xác định dòng tiền vào ra
Công tác quản lý ngân quỹ không quan tâm đến tất cả các khoản thu, chi của doanh nghiệp mà chỉ quan tâm đến các khoản thực thu và thực chi
1.2.1.1. Các khoản thực thu: là các khoản thực thu bằng tiền từ hoạt động kinh doanh, tài chính và bất thường
Thực thu từ hoạt động kinh doanh:
Thu bằng tiền từ doanh thu bán hàng của hoạt động kinh doanh là nguồn thu chủ yếu của doanh nghiệp, về lý thuyết, nguồn thu này tính theo công thức:
Thu bằng tiền trong kỳ
=
Phải thu đầu kỳ
+
Doanh thu bán hàng trong kỳ
-
Phải thu cuối kỳ
=
Doanh thu bán hàng trong kỳ
+
Chênh lệch khoản phải thu
Trong đó:
- Thu tiền bán hàng trong kỳ:
Trong kỳ doanh nghiệp bán hàng cho khách và thu được tiền luôn trong kỳ theo đúng các điều khoản trong hợp đồng được ký kết, nó bao gồm: giá bán thành phẩm, thuế gián thu như: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu…
- Thu nợ tiền hàng kỳ trước của khách hàng (giảm các khoản phải thu):
Áp dụng các chính sách thương mại, doanh nghiệp thường cho khách hàng nợ tiền hàng. Khoản tín dụng doanh nghiệp cấp cho khách hàng kỳ trước, kỳ này sẽ được khách hàng thanh toán và sẽ được coi là một khoản thực thu ngân quỹ của kỳ này.
- Thu từ những khoản tiền trả trước của khách hàng: đó là những khoản tiền đặt cọc hay là khoản ứng trước của khách hàng cho hàng hóa đặt mua, đến những kỳ sau doanh nghiệp mới phải giao hàng.
- Thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh khác: đó là các khoản phải thu nội bộ, phải thu khác…
Thu từ hoạt động tài chính
Các khoản lãi đầu tư hoặc tiền thu được do kinh doanh, mua bán, chuyển nhượng chứng khoán
Thu từ cho thuê tài sản
Lãi từ việc cho vay vốn
Thu từ hoạt động hợp tác, liên doanh
Thu từ các khoản đầu tư ngắn hạn
Thu lãi hoặc gốc tiền gửi, cho vay ngân hàng trong kỳ
Thu từ hoạt động tài chính khác
Thực thu từ hoạt động bất thường
Tiền thu từ việc nhượng bán, bán, thanh lý tài sản cố định
Tiền thu do khách hàng, đối tác vi phạm hợp đồng
Tài sản thừa doanh nghiệp được hưởng
Các khoản nợ đã đưa vào nợ khó đòi nay đòi được
Các khoản nợ phải trả nhưng không còn chủ nợ
Các khoản thu bất thường khác
1.2.1.2. Các khoản thực chi
Bao gồm thực chi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt động bất thường
Thực chi cho hoạt động sản xuất kinh doanh
Chi tiền mua hàng trong kỳ:
Chi bằng tiền trong kỳ
=
Phải trả người bán đầu kỳ
+
Chi mua hàng trong kỳ
-
Phải trả người bán trong kỳ
=
Chi mua hàng trong kỳ
+
Chênh lệch khoản phải trả người bán
Chi mua hàng kỳ trước: Khi nhà cung cấp cấp cho một khoản tín dụng cho phép trả chậm số tiền hàng đã nhận vào kỳ trước, đến hạn, doanh nghiệp phải chi tiền trả cho nhà cung cấp
Chi tiền đầu tư cơ bản (chi đầu tư tài sản cố định), chi tiền thanh toán lương, các chi phí quản lý, chi phí bán hàng và chi phí khác
Chi trả lãi vay ngân hàng
Chi thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước: chi trả thuế, phí, lệ phí…
Chi cho hoạt động sản xuất kinh doanh khác
Thực chi hoạt động tài chính:
Chi cho hoạt động đầu tư
Tiền lỗ do kinh doanh, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán
Chi tiền trả vốn gốc ngân hàng
Chi tham gia góp vốn liên doanh và tiền lỗ về góp vốn liên doanh
Chi phí khác do hoạt động tài chính
Thực chi cho hoạt động bất thường
Chi phí thanh lý, nhượng bán, bán tài sản cố định
Tiền doanh nghiệp phải nộp phạt do vi phạm cam kết hợp đồng
Tiền phải nộp phạt và bị truy thu thuế
Các khoản mất tài sản doanh nghiệp phải chịu
Chi cho các hoạt động bất thường khác
Từ những phân tích đó về các khoản thực thu và thực chi của doanh nghiệp, nhà quản trị tài chính phải đi tới tìm hiểu và dự đoán trước các luồng thu, chi tiền phát sinh trong các tháng, nhu cầu và khả năng tiền mặt để chủ động trong đầu tư hay huy động vốn tài trợ.
1.2.2. Xác định mức ngân quỹ tối ưu
Mức tồn quỹ tối ưu là mức tồn tiền mặt cho phép ngân quỹ của doanh nghiệp đạt được tính lỏng cao và khả năng sinh lợi lớn. Để xác định mức tồn quỹ tiền mặt tối ưu, nhà quản trị phải dựa vào nhiều yếu tố của thị trường cũng như của bản thân doanh nghiệp mình.
Một trong số các yếu tố cần quan tâm khi xác định mức ngân quỹ tối ưu là: lãi suất của thị trường, mà ở Việt Nam thường được xác định là lãi suất của trái phiếu Chính phủ.
Yếu tố thứ hai chính là từ các nội dung của quản lý ngân quỹ. Tùy thuộc vào đặc điểm riêng có, nhu cầu của mình, doanh nghiệp sẽ xác định mức tồn quỹ tiền mặt hợp lý. Các nhà tài chính đã nghiên cứu và đưa ra một số mô hình cho quản lý tiền mặt của doanh nghiệp.
Mô hình 1: Mô hình EOQ
Người đầu tiên vận dụng mô hình độ lớn của đơn hàng tối ưu (EOQ) vào quản trị tiền mặt là nhà khoa học Hoa Kỳ William J. Baumol (1952). Mô hình này cho rằng, mỗi doanh nghiệp đều có một dòng lưu kim thuần ổn định, là kết quả của dòng lưu kim chi phí và dòng lưu kim thu nhập trên phương diện kế hoạch.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải tính toán mức tiền mặt dự trữ hợp lý và hiệu quả nhất sao cho chi phí cơ hội của doanh nghiệp là nhỏ nhất đồng thời doanh nghiệp gặp ít rủi ro thanh toán nhất. Vì vậy, doanh nghiệp sẽ thường tìm cách đầu tư số tiền mặt nhàn rỗi vào hình thức đầu tư ít rủi ro nhất đó là tín phiếu kho bạc.
Tín phiếu kho bạc là loại chứng khoán được coi là ít rủi ro nhất và dễ chuyển hóa thành tiền nhất. Vì thế chúng ta có thể coi chi phí cơ hội của việc giữ tiền là lãi suất tín phiếu kho bạc. Việc dùng tiền nhàn rỗi để đầu tư vào tín phiếu kho bạc sẽ đem lại cho doanh nghiệp khoản lợi nhất định. Tuy nhiên, tín phiếu kho bạc không phải là phương tiện thanh toán nên doanh nghiệp khi cần tiền mặt phải tìm cách bán tín phiếu. Điều này làm phát sinh chi phí bán các tín phiếu kho bạc. Như vậy, chi phí cơ hội tăng lên nếu dự trữ tiền tăng lên đồng thời chi phí bán tín phiếu sẽ giảm đi nếu số lần phải bán tín phiếu ít đi tức là dự trữ tiền tăng lên. Do đó mức tiền dự trữ hợp lý và hiệu quả nhất đạt được khi tổng chi phí cho việc duy trì lượng tiền đó trong ngân quỹ là nhỏ nhất.
Chi phí do dự trữ tiền gây ra
Chi phí cơ hội
của dự trữ tiền
Chi phí do thiếu tiền
Lượng tiền dự trữ
Mức dự trữ tiền mặt tối ưu (mức tồn quỹ tối ưu) đạt được khi:
Chi phí do thiếu tiền cận biên = Chi phí cơ hội của dự trữ tiền cận biên
Khi hết tiền trong ngân quỹ doanh nghiệp mới đem bán tín phiếu nên tại thời điểm đó, lượng tiền mặt dự trữ bằng 0. Khi doanh nghiệp bán tín phiếu doanh nghiệp có đủ lượng tiền dự trữ tính toán. Như vậy, lượng tiền dự trữ bình quân trong doanh nghiệp là:
Lượng tiền dự trữ (tính toán)
2
Vậy chi phí cơ hội của việc giữ tiền là:
Lượng tiền dự trữ (tính toán)
x
Chi phí cơ hội của lượng tiền dự trữ
2
Lượng tiền dự trữ
Chi phí cơ hội của việc dự trữ tiền cận biên là:
Chi phí cơ hội của một đơn vị tiền dự trữ
2
Từ đó có thể tính được lượng dự trữ tiền tối ưu là:
Q =
Theo giả định ban đầu, toàn bộ tiền nhàn rỗi khi đã tính lượng tiền dự trữ hợp lý được đầu tư toàn bộ vào tín phiếu kho bạc nên áp dụng cho trường hợp này ta suy ra được công thức tính lượng tiền dự trữ tối ưu:
Q =
Như vậy mô hình Baumol giả định việc chi trả các hóa đơn là đều đặn, chủ động mà không tính đến sự bất thường của các dòng tiền đi ra doanh nghiệp, hơn thế nữa không tính đến các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp cũng làm thay đổi mức dự trữ tiền mặt mà giả định khi thu về, tiền được dùng để chuyển hóa luôn thành tín phiếu. Do đó, các nhà kinh tế học đã xây dựng mô hình phù hợp hơn với thực tế, tức là mô hình này có tính đến cả những khả năng tiền ra vào ngân quỹ.
Mô hình 2: Mô hình Miller – Orr
Để khắc phục tình trạng biến động tiền mặt trong doanh nghiệp, các nhà kinh tế học đã đưa ra mô hình kiểm soát ngân quỹ căn cứ sự biến động của dòng vào và dòng ra với đơn vị thời gian là ngày. Mô hình này cho phép nhà quản lý nắm giữ tiền ở mức độ hoàn toàn tự do khi nó đạt tới điểm giới hạn trên và giới hạn dưới.
Ta có đồ thị sau:
Giới hạn trên
Mức tồn quỹ theo thiết kê
Giới hạn dưới
Lượng tiền mặt
Trong mô hình này, nhà quản lý cần xác định được 3 chỉ tiêu: Giới hạn trên, giới hạn dưới của cân đối tiền mặt và mức tồn quỹ theo thiết kế. Tại giới hạn trên hoặc giới hạn dưới, doanh nghiệp sẽ phải điều chỉnh mức tồn quỹ bằng cách đầu tư ngắn hạn hoặc tài trợ cho ngân quỹ để có mức tiền mặt theo thiết kế ban đầu. Khoảng dao động của mức cân đối tiền mặt trong mô hình phụ thuộc các yếu tố: nếu như mức dao động của thu chi ngân quỹ hàng ngày rất lớn hoặc là chi phí cố định của việc đầu tư ngắn hạn cao thì doanh nghiệp nên quy định khoảng doa động tiền mặt lớn. Ngược lại, nếu như lợi tức khoản đầu tư ngắn hạn cao thì doanh nghiệp nên thu hẹp khoảng dao động tiền mặt. Khoảng dao động tiền mặt được xác định theo công thức sau:
Khoảng cách của giới hạn trên và giới hạn dưới của mức cân đối tiền
= 3
Doanh nghiệp thường thiết kế mức cân đối tiền mặt ở điểm một phần ba khoảng cách kể từ giới hạn trên. Mức tiền mặt theo thiết kế được xác định như sau:
Mức tiền theo thiết kế
=
Mức tiền mặt giới hạn dưới
+
Khoảng dao động tiền
3
Mô hình Miller – Orr trên đây chỉ ra rằng nếu doanh nghiệp duy trì được mức tiền theo như thiết kế ban đầu thì doanh nghiệp sẽ tối thiểu hóa chi phí giao dịch và chi phí do lãi suất gây ra.
Mô hình Miller – Orr có thể thích ứng với nhu cầu kiểm soát ngân quỹ trong đơn vị thời gian rất ngắn (ngày) và phù hợp với một thị trường tài chính năng động. Mô hình này xem xét mức dao động của ngân quỹ trong hành lang giới hạn trên, giới hạn dưới của mức cân đối tiền và coi một nửa của mức dao động này thể hiện nhu cầu cần điền mức thiếu hụt tiền. Cách đặt vấn đề này cho phép xem xét đồng thời dòng vào và ra nhưng đòi hỏi doanh nghiệp phải dự báo được dòng vào và dòng ra một cách chi tiết (hàng ngày là tốt nhất). Vì vậy, khi doanh nghiệp có những trở ngại trong công tác dự báo ngân quỹ, mô hình Baumol vẫn có giá trị ứng dụng nhất định vì sự đơn giản của nó.
1.2.3. Cân đối ngân quỹ
1.2.3.1. Xử lý thâm hụt ngân quỹ
Bán chứng khoán ngắn hạn và các giấy tờ có giá khác
Các loại chứng khoán gần như tiền mặt giữ vai trò như một “bước đệm” cho tiền mặt, khi cần thiết có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng mà ít tốn kém chi phí. Thế nhưng mỗi loại chứng khoán lại có tính lỏng khác nhau. Tính lỏng cao nhất là trái phiếu chính phủ, trái phiếu hay tín phiếu kho bạc nhà nước.
Nhưng khi sử dụng loại hình tài trợ này phải lưu ý nhiều tới chi phí của việc bán chứng khoán. Nếu chi phí quá cao thì doanh nghiệp phải tìm kiếm một nguồn tài trợ khác.
Vay ngân hàng
Đây là cách thức mà nhiều doanh nghiệp thường dùng khi thiếu hụt ngân quỹ.
Doanh nghiệp có thể vay với thời hạn ngắn theo 2 phương thức: vay theo món hoặc vay theo hạn mức tín dụng. Nhưng khi đi vay, doanh nghiệp cần phải quan tâm tới những hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn (lãi suất)
Muốn vay, doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu đảm bảo an toàn tín dụng, các hình thức đảm bảo tiền vay như thế chấp, tín chấp, cầm cố. Bên cạnh đó, chi phí của phương thức tài trợ này cũng tương đối lớn.
Huy động từ tín dụng thương mại
Nguồn tài trợ này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Trong một doanh nghiệp, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng phải trả có thể chiếm tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm 40% tổng nguồn vốn.
Với doanh nghiệp, tài trợ bằng hình thức này có ưu điểm là rẻ, tiện dùng và linh hoạt trong kinh doanh, hơn nữa nó còn góp phần mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên, hạn chế của nó là rủi ro tín dụng khi quy mô tài trợ quá lớn.
Chi phí của hình thức tài trợ này thể hiện thông qua lãi suất của khoản vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua hàng hóa trả chậm, chi phí này có thể “ẩn” dưới hình thức thay đổi mức giá, tùy thuộc quan hệ và thỏa thuận cụ thể giữa các bên. Trong xu hướng hiện nay, các hình thức tín dụng ngày càng được đa dạng hóa và linh hoạt hơn, với tính chất cạnh tranh hơn, do đó các doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp.
Các hình thức tài trợ khác
Doanh nghiệp có thể tài trợ cho việc mức tồn quỹ thấp hơn mức tồn quỹ tối ưu bằng cách đi vay từ chính cán bộ nhân viên, đơn vị có mối quan hệ chặt chẽ hay bán các khoản nợ.
Đây là những phương thức tài trợ trong ngắn hạn được sử dụng khi cần thiết. Đi vay từ cán bộ doanh nghiệp hay của các đơn vị phụ thuộc, công ty mẹ được thực hiện một cách dễ dàng và với chi phí thấp. Bán các khoản nợ là cách chiết khấu, cầm cố thương phiếu cho các ngân hàng hay các tổ chức tín dụng khác. Số tiền thu được phụ thuộc vào mức độ khó đòi của các thương phiếu.
1.2.3.2. Xử lý thặng dư ngân quỹ
Khi tồn quỹ tiền mặt của doanh nghiệp vượt mức tối ưu có nghĩa là khả năng thanh toán của doanh nghiệp đã được đảm bảo, số tiền dư (khoản chênh lệch giữa giới hạn trên với mức tồn quỹ tối ưu) sẽ phải được sử dụng hợp lý để đạt được mục đích tối đa hóa giá trị vốn chủ sở hữu.
Đầu tư chứng khoán
Doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận với thị trường chứng khoán và trở thành nhà đầu tư. Theo đó, doanh nghiệp sẽ nhận được khoản lãi do chênh lệch giữa giá mua và giá bán chứng khoán. Thường thì họ sẽ đầu tư vào những chứng khoán an toàn, tính lỏng cao như: trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc nhà nước, cổ phiếu của các công ty mạnh như: Vinamilk, Kinh Đô.
Khi tham gia vào hình thức đầu tư này, doanh nghiệp cần phải có một trình độ chuyên môn cao về tài chính, thị trường tài chính.
Có nhiều loại chứng khoán với những đặc điểm khác nhau, nhưng trong khuôn khổ chuyên đề, em chỉ đề cập tới một số loại chứng khoán thường được các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư.
+ Tín phiếu kho bạc
Tín phiếu kho bạc là chứng khoán có thu nhập cố định, có thời gian đáo hạn dưới 1 năm do hệ thống kho bạc nhà nước phát hành. Do có rủi ro thấp, tỷ lệ lợi tức của tín phiếu kho bạc thấp hơn lợi tức trên thị trường vốn trong cùng thời điểm. Doanh nghiệp có thể bán lại trên thị trường bất kỳ lúc nào, thậm chí với khối lượng lớn. Nếu doanh nghiệp nắm giữ tín phiếu kho bạc, bên cạnh việc thu lãi từ tín phiếu, doanh nghiệp có thể thu được chênh lệch giữa giá trên thị trường của tín phiếu với mệnh giá khi cầu về tín phiếu trên thị trường tăng làm giá tín phiếu tăng lên.
+ Trái phiếu công ty
Trái phiếu công ty được đưa vào thị trường vốn dưới dạng các phiếu nợ và được đảm bảo bằng thu nhập hoặc tài sản của công ty. Về nguyên tắc, trài phiếu công ty được phát hành với lãi suất cao hơn so với những chứng khoán có thu nhập cố định trong cùng một thời điểm
+ Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận
Đó là một hối phiếu do một công ty phát hành, được thanh toán trong thời hạn sắp tới và được ngân hàng đảm bảo với một khoản lệ phí bằng cách đóng dấu “đã chấp nhận” lên hối phiếu. Nó có thể được mua bán trên thị trường trước ngày đáo hạn. Đây là một công cụ khá an toàn đối với việc đầu tư ngân quỹ khi nhàn rỗi.
+ Chứng chỉ tiền gửi
Chứng chỉ tiền gửi là một công cụ vay nợ ngân hàng thương mại bán cho người gửi tiền. Người gửi được thanh toán lãi hàng năm theo một tỷ lệ nhất định và khi đến hạn thanh toán thì được hoàn trả gốc theo giá mua ban đầu. Hiện nay, chứng chỉ tiền gửi đã có thể được mua đi bán lại trên thị trường và có tính lỏng rất cao, thời hạn thường không quá 6 tháng kể từ ngày phát hành và được chấp nhận thanh toán giống như séc, tiền mặt nhưng lãi suất của nó cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
Trả trước cho người cung cấp
Doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi của mình để thanh toán trước cho người cung cấp. Khi đó, họ sẽ được người cung cấp cho hưởng một khoản chiết khấu tiền mặt.
Trả trước cho người cung cấp sẽ giúp đẩy nhanh tốc độ thu tiền. Bên cạnh đó, áp dụng phương thức tài trợ này còn làm tăng mối quan hệ lâu dài đối với người cung cấp, tăng uy tín của bản thân doanh nghiệp.
1.2.4. Lập kế hoạch quản lý ngân qũy
Việc lập kế hoạch quản lý ngân quỹ bao gồm các quyết định để sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi khi có thặng dư ngân quỹ vuợt quá giới hạn trên theo mô hình mà doanh nghiệp áp dụng và các quyết định tìm nguồn tài trợ khi có ngân quỹ xuống thấp hơn giới hạn cho phép của mô hình. Đối với hình thức tài tr._.ợ hay sử dụng ngân quỹ nào thì doanh nghiệp cần phải xem xét có phù hợp với chu kỳ kinh doanh và chu kỳ tiền mặt của đơn vị mình hay không.
Chu kỳ kinh doanh là khoảng thời gian mà tất cả các bước của quá trình tái sản xuất phải trải qua như: nguyên vật liệu – sản phẩm dở dang – bán thành phẩm – thành phẩm - giao hàng – chờ thu tiền về.
Chu kỳ kinh doanh = Chu kỳ dự trữ + Chu kỳ chờ thu tiền
Chu kỳ dự trữ là khoảng thời gian từ lúc bắt đầu mua nguyên vật liệu nhập kho cho đến khi xuất kho sản phẩm giao cho khách hàng.
Chu kỳ chờ thu tiền được tính từ khi giao hàng cho khách đến khi nhận lại tiền bán hàng.
Chu kỳ kinh doanh còn được tính theo chu kỳ trả tiền và chu kỳ tiền mặt
Chu kỳ kinh doanh = Chu kỳ trả tiền + Chu kỳ tiền mặt
Chu kỳ tiền mặt là khoảng thời gian từ khi trả tiền cho nhà cung cấp cho đến khi thu được tiền của khách hàng. Như vậy, trong quản lý ngân quỹ doanh nghiệp cần phải quan tâm đến chênh lệch độ dài chu kỳ thu tiền và độ dài chu kỳ trả tiền để đưa ra những quyết định phù hợp cho công tác quản lý ngân quỹ.
- Các nguồn tài trợ ngắn hạn cho ngân qũy
+ Bán chứng khoán ngắn hạn, giấy tờ có giá
+ Vay ngân hàng
+ Tín dụng thương mại
- Các biện pháp sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi
+ Đầu tư vào chứng khoán thanh khoản cao trên thị trường
+ Cung cấp tín dụng cho khách hàng
+ Trả trước cho nhà cung cấp
1.2.5. Tổ chức quản lý ngân quỹ
Khi ngân sách cho ngân quỹ được lập, người quản lý ngân quỹ phải:
Theo dõi mục tiêu ngân quỹ tối ưu
Đàm phán các điều kiện với ngân hàng
Chọn phương tiện thanh toán và nguồn tài trợ ngắn hạn
Chọn mẫu đặt lời
Kiểm tra các nghiệp vụ
Các doanh nghiệp có những cách thức quản lý ngân quỹ khác nhau và để đánh giá được kết quả của quá trình quản lý đó, nhà quản trị quan tâm đến hiệu quả quản lý ngân quỹ. Hiệu quả là một khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định. Để đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ, nhà quản trị dựa vào hệ thống chỉ tiêu đánh giá sau:
1.2.5.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân qũy thông qua đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Khả năng thanh toán hiện hành
Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành =
Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Tỷ lệ này cho biết một đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được đảm bảo bằng bao nhiêu đồng giá trị tài sản lưu động. Tài sản lưu động thường bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng, các khoản phải thu và dự trữ (tồn kho). Nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác…
Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành thể hiện khả năng thanh toán tổng quát của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ. Nếu tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành >1 thì doanh nghiệp được coi như đang ở trạng thái thuận lợi. Tuy nhiên hệ số này chưa đủ chặt chẽ trong việc đánh giá cân bằng tài chính ngắn hạn vì còn tính đến khoản mục hàng tồn kho. Nếu khoản mục này chiếm tỷ trọng đáng kể trong tài sản lưu động và thời gian chuyển hóa cần thiết đủ dài thì vẫn tồn tại nguy cơ mất cân bằng ngắn hạn.
Khả năng thanh toán nhanh
Tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh =
TS lưu động – TS dự trữ
Nợ ngắn hạn
Đây là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho).
Khả năng thanh toán tức thời
Tỷ lệ khả năng thanh toán tức thời =
Ngân quỹ
Nợ ngắn hạn
Khả năng thanh toán tức thời thể hiện khả năng thanh toán ngay bằng tiền cho các khoản nợ đến hạn. Nếu tỷ lệ khả năng thanh toán tức thời cao thì tỷ lệ này có thể minh chứng cho khả năng thanh toán tốt nhưng mặt khác lại thể hiện sự kém hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực tài chính với một ngân quỹ ứ đọng. Còn với một giá trị đủ nhỏ thì nguồn lực tài chính được sử dụng dường như có hiệu quả nhưng khả năng thanh toán sẽ yếu đi, đặc biệt khi các thành phần khác của tài sản lưu động có khả năng luân chuyển kém (nhất là đối với các doanh nghiệp mà hoạt động có đặc trưng mùa vụ).
Ngoài các chỉ tiêu trên, các nhà quản lý ngân quỹ còn xem xét đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng và nhu cầu vốn lưu động ròng. Hai chỉ tiêu này cũng là yếu tố quan trọng và cần thiết cho việc đánh giá điều kiện cân bằng tài chính của một doanh nghiệp
Vốn lưu động ròng (VLĐR) là khoản chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động (TSLĐ) và tổng nợ ngắn hạn hoặc giữa nguồn dài hạn và tài sản cố định (TSCĐ)
VLĐR = Nguồn vốn dài hạn – TSCĐ = TSLĐ - Nguồn vốn ngắn hạn
VLĐR < 0, có nghĩa nguồn vốn dài hạn không đủ đầu tư cho TSCĐ. Doanh nghiệp phải đầu tư vào TSCĐ một phần nguồn vốn ngắn hạn. TSLĐ không đủ đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất cân bằng, doanh nghiệp phải dùng một phần TSCĐ để huy động vốn ngắn hạn hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư dài hạn hoặc thực hiện đồng thời cả 2 giải pháp đó.
VLĐR nguồn vốn ngắn hạn do vậy khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt. Tuy nhiên, nếu VLĐR quá cao thì sẽ làm giảm hiệu quả đầu tư vì lượng TSLĐ quá nhiều so với nhu cầu và phần dư thêm này không làm tăng thu nhập
Tỷ lệ dự trữ trên VLĐR:
Tỷ lệ dự trữ trên VLĐR =
Dự trữ
VLĐR
Tỷ lệ này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm vốn lưu động ròng. Trên đây mới chỉ là ràng buộc về mặt giá trị mang tính chất chung. Với doanh nghiệp cụ thể, thường có thể xác định gần đúng “độ hóa lỏng” của TSCĐ căn cứ vào đặc trưng công nghệ và hoạt động thương mại. Khi độ hóa lỏng của TSLĐ lớn hơn tính cấp thiết của khoản nợ ngắn hạn thì một mức VLĐR âm cũng không gây ra sự mất cân bằng như đối với các công ty kinh doanh siêu thị chẳng hạn. Trong trường hợp ngược lại, vẫn có thể xảy ra mất cân bằng khi VLĐR dương không vượt quá một giá trị an toàn nhất định.
Nhu cầu VLĐR là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần TSLĐ, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu.
Nhu cầu vốn lưu động ròng = Tồn kho và các khoản phải thu – Nợ ngắn hạn
+ Khi nhu cầu VLĐR > 0, tức là tồn kho và các khoản phải thu > Nợ ngắn hạn, nghĩa là các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh lệch
+ Khi nhu cầu VLĐR < 0, tức là tồn kho và các khoản phải thu < nợ ngắn hạn, nghĩa là các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh.
1.2.5.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân qũy thông qua đánh giá khả năng hoạt động
Vòng quay tiền
Vòng quay tiền là chỉ tiêu quan trọng đánh giá tốc độ vận động của tiền trong doanh nghiệp
Tỷ lệ này được tính bằng cách chia doanh thu tiêu thụ trong năm cho tổng số tiền mặt và các tài sản tương đương tiền bình quân (chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng), nó cho biết số vòng quay của tiền trong năm.
Vòng quay tiền =
Doanh thu tiêu thụ trong năm
Tiền + Các chứng khoán ngắn hạn
Vòng quay tiền phụ thuộc vào tốc độ sử dụng tiền của doanh nghiệp. Khi tốc độ tăng lên của doanh thu không bằng với tốc độ tăng của việc sử dụng tiền của doanh nghiệp sẽ làm cho tiền và các chứng khoán ngắn hạn giảm xuống, vòng quay tiền sẽ lớn. Ngược lại, khi tốc độ tăng lên của doanh thu nhanh hơn so với tốc độ tăng của việc sử dụng tiền sẽ làm cho vòng quay tiền giảm đi.
Vòng quay dự trữ (hàng tồn kho)
Vòng quay dự trữ là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ lệ giữa doanh thu tiêu thụ trong năm và giá trị tài sản dự trữ (nguyên vật liệu, vật liệu phụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hóa) bình quân.
Vòng quay dự trữ =
Doanh thu tiêu thụ trong năm
Các khoản phải thu bình quân
Nếu các khoản phải thu được thu hồi nhanh thì số vòng quay của các khoản phải thu sẽ cao và doanh nghiệp ít bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên, số vòng quay các khoản phải thu nếu quá cao sẽ không tốt vì có thể ảnh hưởng đến khối lượng hàng tiêu thụ do phương thức thanh toán quá chặt chẽ (chủ yếu là thanh toán ngay hay thanh toán trong thời gian ngắn).
Kỳ thu tiền trung bình
Kỳ thu tiền trung bình phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu
Kỳ thu tiền trung bình =
365
Vòng quay các khoản phải thu
Nếu số ngày này lớn hơn thời gian bán chịu quy định cho khách hàng thì việc thu hồi các khoản phải thu là chậm và ngược lại, số ngày quy định bán chịu cho khách hàng lớn hơn thời gian này thì có dấu hiệu chứng tỏ việc thu hồi nợ đạt trước kế hoạch về thời gian.
Tuy nhiên, kỳ thu tiền trung bình cao hay thấp trong nhiều trường hợp chưa thể có kết quả chắc chắn mà còn phải xem xét cụ thể các mục tiêu và chính sách của doanh nghiệp như: mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín dụng của doanh nghiệp. Ngoài ra, kỳ thu tiền trung bình còn phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp thương mại bán lẻ thì hệ số này rất nhỏ.
1.2.5.3. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng dự phòng những biến động bất thường
Tùy vào từng tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp, vào mức độ hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp lập ra các quỹ dự phòng. Trong doanh nghiệp thường có các khoản dự phòng như: Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn, dự phòng các khoản phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn, quỹ dự phòng tài chính và quỹ dự phòng mất việc làm.
Với các nhà quản lý ngân qũy trong doanh nghiệp cần phải quan tâm đến các khoản dự phòng này vì nó có thể là một nguồn tài trợ tức thời cho ngân quỹ trong ngắn hạn, nâng cao độ an toàn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, khi đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ họ phải tính đến các chỉ tiêu đánh giá khả năng dự phòng những biến động bất thường của doanh nghiệp
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ
1.3.1. Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp
1.3.1.1. Quan điểm của nhà lãnh đạo doanh nghiệp về quản lý ngân quỹ
Mục tiêu của quản lý tài chính là cực đại hóa giá trị doanh nghiệp. Vì vậy, mặc dù quản lý ngân quỹ là một trong các bộ phận của quản lý tài chính doanh nghiệp nhưng mục tiêu quản lý ngân quỹ có tính chất bao trùm các bộ phận khác.
Công tác quản lý ngân quỹ tại một doanh nghiệp bị chi phối sâu sắc bởi người lãnh đạo doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể thực hiện chính sách đầu tư vốn lưu động “lỏng lẻo”, theo đó người ta duy trì một khối lượng lớn tiền mặt, đồng thời doanh thu bán ra được khuyến khích bằng các khoản bán chịu rộng rãi, nhờ đó khoản phải thu cũng tăng lên. Đây là chính sách an toàn cho doanh nghiệp trước khả năng nhu cầu thị trường tăng lên đột ngột, tuy nhiên thu nhập của doanh nghiệp sẽ thấp. Ngược lại, doanh nghiệp có thể theo đuổi chính sách vốn lưu động “chặt chẽ”. Theo đó người ta cố gắng duy trì một khối lượng hạn chế tiền mặt, chứng khoán dễ bán và hàng tồn kho, đồng thời kiểm soát chặt chẽ các khoản bán chịu để giảm tới mức thấp nhất các khoản phải thu. Đây là một chính sách có thể mang lại thu nhập cao, nhưng đồng thời cũng là một chính sách rủi ro nếu có những biến động bất thường.
Quan điểm của nhà lãnh đạo doanh nghiệp là nhân tố quan trọng, con người được đề cập đến là bộ máy quản lý và lực lượng lao động trong doanh nghiệp (chủ doanh nghiệp). Giám đốc doanh nghiệp là người toàn quyền quản lý và sử dụng toàn bộ tài sản và tiền vốn của doanh nghiệp và là người chịu trách nhiệm, quyết định mọi vấn đề về tài chính doanh nghiệp. Quyết định của các nhà quản lý tài chính trong doanh nghiệp là đúng đắn, phù hợp xu hướng phát triển thì doanh nghiệp kinh doanh có lãi, đồng vốn được sử dụng một cách tiết kiệm và đem lại hiệu quả cao. Ngược lại, nếu quyết định đó là sai lầm, không phù hợp sẽ dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh.
1.3.1.2. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Công tác quản lý ngân quỹ trong doanh nghiệp chịu tác động lớn bởi đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tính chất ngành kinh doanh ảnh hưởng tới thành phần và cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới tốc độ luân chuyển vốn, cách thức đầu tư và thể thức thanh toán chi trả. Đối với các doanh nghiệp mà các dòng tiền vào và ra tương đối cân đối về mặt thời gian và khối lượng, nhu cầu vốn lưu động giữa các thời kỳ trong năm thường không có biến động lớn thì nội dung và phương pháp công tác quản lý sẽ đơn giản. Trong khi đó, rất nhiều doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của tính chất thời vụ trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là trong các hoạt động bán lẻ hoặc trong ngành du lịch, dịch vụ, sản xuất các mặt hàng có nhu cầu không thường xuyên. Trong thời kỳ nhu cầu hạ thấp, nhu cầu tiền tệ giảm mạnh, thậm chí còn xuất hiện hiện tượng dôi thừa tiền tệ. Ngược lại, khi đến gần thời vụ kinh doanh, hàng hóa cần được tích trữ, do đó hoạt động kinh doanh cần được hỗ trợ từ các nguồn tiền bên trong hoặc bên ngoài doanh nghiệp. Tại thời điểm chính vụ, nhu cầu này vẫn tồn tại trong thời gian ngắn do sự tăng lên của các khoản phải thu đầu tiên đến thời hạn thu hồi. Đối với các doanh nghiệp này, việc tổ chức đảm bảo nguồn vốn cũng như đảm bảo sự cân đối giữa thu và chi bằng tiền của doanh nghiệp khó khăn hơn nên đòi hỏi công tác quản lý ngân quỹ càng phải được chú trọng hơn, phải có phương pháp quản lý phù hợp.
1.3.1.3. Chiến lược sản xuất kinh doanh
Chiến lược sản xuất kinh doanh trong thời gian tới cũng có ảnh hưởng tới nhận thức cũng như việc tổ chức quản lý ngân quỹ trong doanh nghiệp. Việc xác định mục tiêu của chiến lược kinh doanh có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Thông thường mục tiêu chiến lược kinh doanh gồm: Lợi nhuận, tạo thế lực trong cạnh tranh, an toàn tranh rủi ro. Để tăng lợi nhuận cần phải tăng thu, giảm chi phí (trong đó có giảm chi phí vốn), một trong rất nhiều biện pháp là phải quan hệ tốt với bạn hàng, cả nhà cung cấp lẫn người mua…mà để làm điều đó có vai trò quan trọng của công tác quản lý ngân quỹ. Đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, chiến lược kinh doanh là phương hướng hoạt động của doanh nghiệp trong một thời gian dài, nó quy định loại sản phẩm hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp đảm nhận, quy mô kinh doanh, các nguồn lực của sản xuất, khả năng sinh lời cũng như triển vọng phát triển của doanh nghiệp. Việc đảm bảo khả năng thanh toán cũng như có các chính sách tín dụng thương mại hấp dẫn sẽ giúp cho doanh nghiệp này thu được nhiều lợi nhuận, có chỗ đững vững chắc và an toàn trong kinh doanh, chủ động thích ứng với môi trường.
1.3.1.4. Cơ chế quản lý tài chính của doanh nghiệp
Đó là những nguyên tắc về quản lý tài chính đối với hoạt động của doanh nghiệp trong đó quy định cụ thể việc quản lý, sử dụng vốn là tài sản, quản lý doanh thu chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Cơ chế quản lý tài chính trong doanh nghiệp vừa cụ thể hóa những quy định về tài chính của Nhà nước vừa là những quy định áp dụng riêng cho doanh nghiệp. Quản lý ngân quỹ cũng là một hoạt động quản lý tài chính nên không nằm ngoài sự điều chỉnh của quy chế. Do vậy, hiệu quả của quản lý ngân quỹ ít nhiều chịu ảnh hưởng của những quy định trong quy chế tài chính của doanh nghiệp.
1.3.1.5. Hệ thống thông tin phục vụ cho công tác quản lý ngân quỹ
Hoạt động của ngân quỹ biến động từng ngày, từng giờ và tác động đến nhiều bộ phận của doanh nghiệp nên quản lý ngân quỹ đòi hỏi quá trình xử lý thông tin và đưa ra các quyết định nhanh chóng, chính xác. Kinh nghiệm thành công của nhiều doanh nghiệp cho thấy việc nắm các thông tin cần thiết, biết xử lý và sử dụng các thông tin đó kịp thời là điều kiện rất quan trọng để ra các quyết định kinh doanh có hiệu quả cao, đem lại thắng lợi trong cạnh tranh. Vì vậy, để đạt được thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp cần thu thập và xử lý thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần nắm được các thông tin liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của mình như tỷ giá, lãi suất, đối thủ cạnh tranh…để phục vụ cho việc phân tích, so sánh làm cơ sở cho công tác quản lý ngân quỹ. Do đó, các doanh nghiệp cần phải áp dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin để xây dựng hệ thống thông tin phục vụ cho công tác quản lý ngân quỹ.
1.3.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
1.3.2.1. Trạng thái của nền kinh tế
Tình hình nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái hay tăng trưởng cũng có ảnh hưởng tới công tác quản lý ngân quỹ. Nền kinh tế phát triển ổn định, có tăng trưởng bền vững là điều kiện cho sự phát triển của doanh nghiệp. Ngược lại, nền kinh tế suy thoái sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự vận động chu kỳ và khủng hoảng kinh tế là có tác động lâu dài đến hoạt động của doanh nghiệp. Những ảnh hưởng này không đều đặn, khó dự đoán trước và thường đi kèm với rất nhiều yếu tố khác, ví dụ như thay đổi về lượng cung và giá cả nguyên vật liệu, lạm phát, các điều kiện cạnh tranh, nhu cầu đầu tư vốn. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, các nhà quản lý cần kịp thời nhận biết tình hình, từ đó có các chính sách cắt giảm vốn bằng tiền, hàng tồn kho, giảm nhân công và các chi phí khác, thận trọng trong sử dụng và cung cấp các khoản tín dụng. Ngược lại, khi nền kinh tế phục hồi thì việc chậm trễ trong quá trình ta quyết định có thể dẫn đến sản lượng và hàng hóa tồn kho không đủ để thực hiện hoạt động kinh doanh. Điều tất yếu nhu cầu tiền tệ của doanh nghiệp sẽ thay đổi.
1.3.2.2. Môi trường hoạt động của doanh nghiệp
Môi trường kinh doanh là một thực thể khách quan bao gồm tất cả các chủ thể kinh doanh trên thị trường và tổng thể các yếu tố, các mối quan hệ tác động, chi phối mọi hành vi, hoạt động của họ.
Sự ổn định của thể chế chính trị có tác động tích cực cho việc thu hút vốn đầu tư, tạo môi trường kinh doanh tin cậy cho người đầu tư và khả năng huy động vốn của doanh nghiệp trên thị trường. Bên cạnh đó, môi trường pháp luật thông thoáng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, sự không ổn định của pháp luật và chính sách kinh tế có thể gây ra những tác động bất lợi đối với doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh trong đó thói quen coi trọng chữ tín và đạo đức của người kinh doanh hoặc các thông tin liên quan tới hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp được công khai minh bạch theo các quy định của luật pháp cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp. Từ đó, chúng tác động tới mức tồn quỹ, vòng quay tiền và các dòng thu, chi ngân quỹ.
1.3.2.3. Môi trường cạnh tranh
Tác động qua lại lẫn nhau giữa các đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng nhất định đến môi trường kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp. Các điều kiện về giá bán, thời hạn tín dụng, tỷ lệ chiết khấu, uy tín, thị phần của doanh nghiệp thay đổi dẫn đến nhu cầu về vốn bằng tiền thay đổi. Ví dụ, trong trường hợp giá bán giảm xuống với điều kiện số lượng hàng bán không đổi làm cho giá trị các khoản phải thu giảm nhưng chỉ bù đắp được một phần nào sự tổn thất doanh thu của doanh nghiệp và kết quả là nhu cầu tiền tệ tăng lên. Hiện tượng này sẽ kết thúc khi doanh nghiệp thực thi các quyết định cắt giảm quy mô kinh doanh. Để kiểm soát yếu tố này, doanh nghiệp cần phải xác định vị thế của mình trong lĩnh vực kinh doanh, khả năng và chiến lược cạnh tranh, từ đó xây dựng chiến lược huy động vốn đáp ứng kịp thời nhu cầu tiền tệ phát sinh hoặc có chính sách cắt giảm kịp thời đảm bảo hiệu quả của doanh nghiệp.
1.3.2.4. Chính sách tài chính tiền tệ và chính sách thuế của Nhà nước
Các chính sách về tài chính tiền tệ cũng như chính sách thuế có tác động lớn đến công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp. Trong trường hợp Chính phủ cắt giảm các khoản chi tiêu ngân sách hoặc giảm thuế sẽ làm cho lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp tăng lên, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao hơn, và kết quả là doanh nghiệp có điều kiện để xây dựng các kế hoạch đầu tư mới dẫn đến nhu cầu tiền tệ phát sinh. Mặt khác, khi Chính phủ thực hiện các chính sách tiền tệ, biểu hiện bằng sự tăng hoặc giảm mức cung tiền tệ hoặc sự phá giá đồng tiền, thậm chí sử dụng chính sách thả nổi tỷ giá thì nó ảnh hưởng nhanh chóng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ví dụ, khi Chính phủ tăng mức cung tiền trong toàn bộ nền kinh tế sẽ dẫn đến lãi suất tiền gửi hạ xuống và từ đó khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả là làm tăng thêm nhu cầu tiền tệ của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải chú trọng đến công tác quản lý ngân quỹ để đạt được hiệu quả trong đầu tư.
1.3.2.5. Các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền đó để cho vay và làm phương tiện thanh toán. Ngày nay các doanh nghiệp thường sử dụng các dịch vụ của ngân hàng trong hoạt động thanh toán của mình. Như vậy, ngân hàng càng cung cấp nhiều dịch vụ thì các doanh nghiệp càng thuận lợi hơn trong thanh toán với nhà cung cấp và khách hàng của mình. Hoạt động thanh toán của ngân hàng đa dạng và hiện đại sẽ đẩy nhanh quá trình thanh toán. Có thể nói, các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng thương mại là một yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý ngân quỹ.
1.3.2.6. Khách hàng của doanh nghiệp
Trong kinh tế thị trường, khách hàng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đây là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến việc quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp. Những khách hàng thường xuyên thua lỗ sẽ trì trệ trong thanh toán, làm ảnh hưởng đến ngân quỹ của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải nghiên cứu khách hàng của mình trên thị trường để xác định những đặc điểm tâm lý, thị hiếu của khách hàng. Nghiên cứu nhu cầu để dự báo được thay đổi nhu cầu, khả năng thanh toán. Các nhà quản lý thường duy trì mức tồn quỹ lớn hơn để dự phòng khả năng không thu hồi được nợ đúng hạn, đồng thời cũng tăng cường theo dõi, lên kế hoạch tài trợ cho ngân quỹ ngay từ đầu.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ TẠI CÔNG TY ĐIỆN LỰC 1
2.1. ĐẶC ĐIỂM CÔNG TY ĐIỆN LỰC 1
2.1.1. Tổng quan về công ty
2.1.1.1. Giới thiệu về công ty
Công ty điện lực 1 được thành lập lại theo quyết định số 146/TT ngày 07/04/1993 của Thủ tướng Chính phủ, là một trong bảy công ty phân phối điện, hạch toán độc lập trực thuộc Tổng công ty điện lực Việt Nam.
Công ty điện lực 1 có trụ sở tại: 20 Trần Nguyên Hãn – Hà Nội
Điện thoại: 84 – 48255074
Fax: 84 – 48244033
Công ty có nhiệm vụ kinh doanh phân phối điện năng trên địa bàn 27 tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ với diện tích 145.244 km2 và dân số 30.856.100 người (2001) chiếm 43% diện tích và 39% dân số Việt Nam
Công ty điện lực 1 quản lý và vận hành toàn bộ lưới điện phân phối bao gồm các đường dây và trạm biến áp từ cấp điện áp 110kV trở xuống, bán điện trực tiếp tới các khách hàng sử dụng điện sinh hoạt, dịch vụ, công nghiệp và nông nghiệp
Ngày 16/7/2002 Công ty đã vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới vì những thành tích đặc biệt xuất sắc của Công ty trong thời gian 10 năm đổi mới
Mục tiêu của Công ty trong những năm gần đây là nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng tính cạnh tranh của Công ty trong môi trường thay đổi, thỏa mãn nhu cầu điện năng của khách hàng với chất lượng và độ tin cậy ngày càng cao hơn, thực hiện tốt các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước đối với cung cấp điện cho khu vực nông thôn và miền núi.
- Lĩnh vực hoạt động
Kinh doanh điện năng
Thiết kế, xây dựng, quản lý, khai thác và qui hoạch hệ thống lưới điện phân phối
Sản xuất, chế tạo và sửa chữa các thiết bị vật tư ngành điện
Thí nghiệm điện, đo lường điện các thiết bị, trạm điện có điện áp đến 500kV
Nhập khẩu thiết bị, vật tư, vật liệu phục vụ ngành điện
Đào tạo mới, nâng cao nghiệp vụ cho CBCNV chuyên ngành điện
Tư vấn xây dựng chuyên ngành điện
Kinh doanh khách sạn
- Phạm vi hoạt động
27 tỉnh, thành phố miền Bắc, từ Hà Tĩnh trở ra.
2.1.1.2. Tổ chức bộ máy quản lý Công ty điện lực 1
Ban giám đốc
Giám đốc công ty
Phó Giám đốc phụ trách Kỹ thuật
Phó Giám đốc phụ trách Xây dựng cơ bản
Phó Giám đốc phụ trách Kinh doanh
Các phòng chức năng nghiệp vụ
Văn phòng
Phòng Kế hoạch sản xuất và đầu tư xây dựng
Phòng tổ chức Cán bộ
Phòng Kỹ thuật
Phòng Tài chính – Kế toán
Phòng vật tư và xuất nhập khẩu
Phòng lao động tiền lương
Phòng quản lý xây dựng
Phòng kinh doanh điện năng và điện nông thôn
Phòng kinh doanh viễn thông và công nghệ thông tin
Phòng thanh tra an toàn
Phòng thanh tra bảo vệ và pháp chế
Phòng kinh tế đối ngoại
Phòng phát triển kinh doanh
Phòng thi đua tuyên truyền
Phòng cổ phần hóa doanh nghiệp
Phòng quản lý đấu thầu
2.1.2. Đặc điểm công ty
Lĩnh vực hoạt động chính của công ty là kinh doanh điện năng do đó công ty có những đặc điểm đặc thù của một doanh nghiệp trong ngành điện. Doanh thu bán điện được ghi nhận ngay khi công ty cung cấp điện năng cho khách hàng nhưng phải đến kỳ sau công ty mới thu được tiền. Các khoản này thường được thanh toán vào đầu năm do đó ngân quỹ của công ty tại thời điểm lập các báo cáo tài chính vào cuối năm thường không có nhiều tiền mặt.
Công ty còn kinh doanh trên lĩnh vực thiết kế, xây dựng, quản lý, khai thác, qui hoạch hệ thống lưới điện phân phối, sản xuất, chế tạo và sửa chữa các thiết bị vật tư, nhập khẩu thiết bị, vật tư, vật liệu phục vụ ngành điện. Lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản cần nhiều vốn do đó công ty phải vay từ rất nhiều nguồn trong đó chủ yếu là vay ưu đãi dài hạn. Số vốn vay này do tổng công ty điện lực Việt Nam đứng tên vay và phần lớn các công trình đầu tư xây dựng cơ bản của công ty điện lực 1 được tổng công ty thanh toán vào thời điểm đầu năm sau khi các công trình hoàn thành. Công ty hoạch toán các khoản công nợ này vào khoản mục phải trả cho người bán nhưng lại không chịu áp lực phải trả nợ do đó khi tính các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán ta không nên đưa khoản mục phải trả người bán vào vì khoản mục này bao gồm chủ yếu là các công trình xây dựng cơ bản nói trên.
Công ty được phân cấp quản lý trên phạm vi 27 tỉnh thành phía bắc, hạch toán tập trung, xác định doanh thu, lợi nhuận tập trung, phát sinh các khoản phải trả phải nội bộ lớn. Công ty là đơn vị trực thuộc tổng công ty, mua điện của tổng công ty và bán lại cho các đơn vị thành viên. Nguồn mua và bán điện do tổng công ty quản lý và thời điểm đầu năm sau công ty mới ký các quyết định trả tiền. Do vậy, thời điểm lập các báo tài chính khác với thời điểm công ty nhận được các quyết định trả tiền và nên loại trừ các khoản phải trả, phải thu nội bộ trong báo cáo tài chính hợp nhất của công ty điện lực 1 khi tính các chỉ số đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ.
2.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ TẠI CÔNG TY ĐIỆN LỰC 1
2.2.1. Đặc điểm hoạt động ngân quỹ
Ngân quỹ của Công ty điện lực 1 chủ yếu bao gồm tiền mặt và tiền gửi ngân hàng. Công ty điện lực 1 có tài khoản tiền gửi tại Hội sở chính ngân hàng công thương, ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam…
Hiện nay công tác quản lý tài chính của công ty do phòng Tài chính – Kế toán đảm nhiệm. Công tác kế toán tại đây được hạch toán theo hình thức chứng từ ghi sổ trên máy vi tính. Công ty điện lực 1 tổ chức hạch toán và lưu trữ chứng từ kế toán tại đơn vị, lập các báo cáo kế toán nội bộ theo quy định gửi về Tổng công ty điện lực Việt Nam. Mọi công việc quản lý đều được thực hiện qua mạng máy tính. Công tác quản lý ngân quỹ được coi là một phần công việc của các nhân viên kế toán và thủ quỹ. Các kế toán viên và thủ quỹ có nhiệm vụ báo cáo với kế toán trưởng khi có tình huống bất lợi cho ngân quỹ xảy ra. Công tác quản lý ngân quỹ của Công ty điện lực 1 dựa vào sự biến động của tài khoản tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và các tài khoản có liên quan như tài khoản theo dõi các khoản phải thu, phải trả…
2.2.2. Thu – chi ngân quỹ
Các khoản thực thu ngân quỹ
Thu từ bán hàng và cung cấp dịch vụ:
+ Thu từ bán điện: khoản thu này chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các khoản thực thu của Công ty trong kỳ, ngoài ra còn có khoản thu công suất phản kháng.
+ Thu từ hoạt động tiêu thụ sản phẩm: bao gồm xây lắp điện; khảo sát thiết kế công trình điện; cơ khí; mắc dây, đặt điện; sửa chữa thí nghiệm điện; thông tin viễn thông; sản xuất các sản phẩm khác.
+ Thu từ cung cấp dịch vụ: bao gồm nhà khách, khách sạn; vận tải, bốc dỡ; dịch vụ khác.
+ Thu từ nhượng bán vật tư hàng hóa
Thu từ hoạt động tài chính
+ Cho thuê công tơ, máy biến áp
+ Cho thuê nhà ở, TSCĐ khác
+ Cho thuê nhà ở cán bộ công nhân viên
+ Lãi tiền gửi ngân hàng
+ Lãi chênh lệch tỷ giá
+ Các khoản thu khác
Thu từ hoạt động bất thường
+ Thanh lý nhượng bán TSCĐ
+ Thu từ xử lý vi phạm sử dụng điện
+ Thu khác
Các khoản thực chi ngân quỹ
Chi cho hoạt động bán hàng:
+ Chi trả lương nhân viên bán hàng
+ Chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn
+ Chi mua vật liệu
+ Chi mua dụng cụ, đồ dùng
+ Chi sửa chữa lớn TSCĐ
+ Chi bảo hành sản phẩm
+ Chi cho sửa chữa thường xuyên
+ Chi dịch vụ mua ngoài
Chi cho hoạt động quản lý doanh nghiệp
+ Chi trả lương nhân viên quản lý
+ Chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn
+ Chi mua vật liệu văn phòng
+ Chi mua dụng cụ đồ dùng
+ Chi thuế và lệ phí
+ Chi dịch vụ mua ngoài
Chi cho hoạt động tài chính
+ Chi trả lãi vay ngân hàng
+ Chi cho các hoạt động cho thuê.
- Chi cho hoạt động bất thường: Thanh lý nhượng bán TSCĐ, vi phạm sử dụng điện
2.2.3. Quản lý các khoản phải thu và phải trả
Qua các bảng báo cáo tài chính của Công ty ta có:
Bảng 2.1: Dự trữ, phải thu, phải trả năm 2004 – 2005
Đơn vị: Triệu đồng
Khoản mục
31/12/2004
31/12/2005
Bình quân
Các khoản phải thu._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36458.doc