Tài liệu Hoàn thiện công tác phát hành trái phiếu chính phủ tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội: ... Ebook Hoàn thiện công tác phát hành trái phiếu chính phủ tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1349 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác phát hành trái phiếu chính phủ tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢN THẢO CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
ĐỀ TÀI: Hoàn thiện công tác tổ chức phát hành trái phiếu chính phủ tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
Giáo viên hướng dẫn : Th.s.Phan Thu Hiền
Sinh viên thực hiện : Bùi Anh Quốc
Lớp : Kinh tế đầu tư 47A
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam hiện nay, tương tự như chuẩn chung của thế giới, qui định về phát hành trái phiếu cũng chặt chẽ hơn phát hành cổ phiếu. Đối với trái phiếu doanh nghiệp, ngoài qui định phải có mức vốn điều lệ đã góp từ mười tỷ trở lên và hoạt động kinh doanh của năm liền trước phải có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế như với phát hành cổ phiếu, công ty muốn chào bán trái phiếu ra công chúng còn phải đảm bảo không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm. Thêm vào đó, công ty phải có thời gian hoạt động từ 1 năm trở lên và báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán để đảm bảo tính minh bạch và công khai về thông tin cho các nhà đầu tư.Thị trường trái phiếu của Việt Nam còn nhỏ với tổng giá trị khoảng trên 70 nghìn tỷ đồng Việt Nam, bằng 7,7% GDP, nhưng môi trường kinh tế xã hội của Việt Nam ổn định, tỷ giá USD/VND trong những năm qua ít biến động, nên thị trường trái phiếu VN được đánh giá sẽ tiếp tục là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Thêm vào đó, xu hướng các doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra công chúng thay vì chủ yếu huy động vốn vay từ ngân hàng sẽ mang đến một diện mạo mới cho thị trường trái phiếu, một sự chuyển mình và phát triển mạnh, bền vững. Trên thị trường trái phiếu hiện nay đáng chú ý có hai loại trái phiếu chính là trái phiếu Chính phủ Việt Nam và trái phiếu chuyển đổi của một số ngân hàng
Trái phiếu Chính phủ Việt Nam được các nhà đầu tư đánh giá khá cao. Tháng 10 năm 2005, lần đầu tiên trái phiếu Chính phủ Việt Nam được phát hành ra thị trường vốn quốc tế. 750 triệu USD trái phiếu đã được các nhà đầu tư mua hết ngay trong vòng 30 giây sau khi phát hành. Một kết quả khó có thể khả quan hơn. Đợt trái phiếu này sẽ được mua bán lại trên tất cả các trung tâm chứng khoán (thị trường thứ cấp) lớn như Hongkong, Singapore, London, New York, Boston... liên tục đến năm 2016.Trong bài báo của tác giả Beth Thomas trên tờ Bloomberg số ra ngày 23/3/2007, công ty Pacific Investment Management Co. and HSBC Holdings Plc cho rằng nếu Việt Nam nới lỏng các hạn chế về phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ thì có thể khai thác tốt hơn nhu cầu của các nhà đầu tư quốc tế cũng như cắt giảm chi phí vay nợ. Còn tại hội nghị do Tổng Công ty Đầu tư vốn Nhà nước và Euromoney phối hợp tổ chức tại Hà Nội, ông Brian Baker, CEO của Pimco Asia Ltm đã phát biểu: "Các bạn đang có một thị trường nước ngoài rất hấp dẫn, thật đáng tiếc là vẫn còn quá nhiều thủ tục phải thông qua để phát hành được trái phiếu." Hiện nay nhu cầu đối với trái phiếu Chính phủ Việt Nam trên thị trường quốc tế là rất lớn. Trong đợt phát hành trái phiếu đầu tiên với lãi suất 6,875%, đáo hạn vào năm 2016, để huy động vốn cho ngành đóng tàu, nhu cầu của các nhà đầu tư đã cao gấp 6 lần so với số trái phiếu thực tế được phát hành. Mức lãi suất của trái phiếu chính phủ Việt Nam hiện đang là 5,78%, thấp hơn mức 5,95% của loại trái phiếu có kỳ hạn và xếp hạng tín dụng tương đương của Chính phủ Brazil. Điều này chứng tỏ trái phiếu của Việt Nam có mức độ hấp dẫn hơn. So với trái phiếu Chính phủ kỳ hạn tương đương Mỹ, hiện nay lãi suất của trái phiếu Việt Nam cũng chỉ cao hơn có 1,25%.Các quỹ lương, các công ty bảo hiểm cũng như các quỹ phòng hộ đều đang săn lùng các khoản đầu tư toàn cầu khi mà các ngân hàng trung ương đã ngừng tăng lãi suất và theo một dự đoán khác, FED sẽ giảm lãi suất vào tháng 6 năm nay. Theo ông Joshua Matthews, thuộc HSBC, Chính phủ Việt Nam có thể huy động hàng tỷ USD trên thị trường quốc tế nếu họ thực sự muốn, hiện đang có một số lượng ngoại tệ quá lớn tìm kiếm một số lượng trái phiếu quá ít ỏi.
Trong năm nay, VND đã tăng giá 0,3% so với USD, hiện đứng ở mức 16.014 VND/USD, VN Index đã tăng 48%, những con số hấp dẫn với nhà đầu tư quốc tế. Gần đây còn có thông tin trên kênh tài chính Blooberg của Mỹ cho thấy định mức tín nhiệm của Việt Nam được nâng lên. Tập đoàn Standard & Poor (S&P) nâng tín nhiệm của mình từ BB - lên BB (cao hơn nữa là BB+). Còn tập đoàn rất lớn là Moody cũng nâng lên mức Ba3.
Ở thị trường vốn trong nước, Chính phủ Việt Nam cũng đã phát hành thành công nhiều đợt trái phiếu theo phương thức đấu giá lãi suất. Trung tuần tháng 3/2007, 300 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ lần đầu tiên được phát hành đấu thầu theo lô lớn (lô 100, 200, 300... tỷ đồng) đã được các nhà đầu tư nước ngoài mua hết với mức lãi suất thấp nhất trong vòng ba năm trở lại đây 6,8%/năm. Từ sau lần này, những đợt phát hành tiếp theo lãi suất trái phiếu sẽ cố định, nhưng mệnh giá sẽ thay đổi. Giá trái phiếu sẽ không là 100.000 đồng nữa, mà có thể xuống 99.000-98.000 đồng hay lên 101.000-102.000 đồng. Sức hấp dẫn của trái phiếu càng cao, thì giá trúng thầu sẽ càng thấp hơn mệnh giá và ngược lại.Ngay sau đợt phát hành trái phiếu lô lớn trên, ngày 15/3, tập đoàn định mức tín nhiệm Moody’s của Mỹ đã nâng mức tín nhiệm đối với trái phiếu chính phủ Việt Nam từ ổn định lên tích cực trong bậc xếp hạng Ba3 hiện có. Theo của Moody's, mức trần đánh giá của trái phiếu giao dịch bằng ngoại tệ vẫn đứng ở mức Ba2, với triển vọng "ổn định". Mức trần đánh giá của tiền gửi chính phủ bằng ngoại tệ tăng từ "ổn định" lên "tích cực" trong bậc xếp hạng B1 hiện có. Mức trần đánh giá của trái phiếu Chính phủ giao dịch bằng nội tệ vẫn đứng ở mức Ba1.
Xuất phát từ thực tế đó,cùng với sự gợi ý của giáo viên hướng dẫn và anh chị hướng dẫn thực tập, em đã chọn đề tài :
Hoàn thiện công tác phát hành trái phiếu chính phủ tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Nội dung của đề tài bao gồm:
Chương 1: Lý luận chung về phát hành Trái phiếu Chính phủ.
Chương 2 : Thực Trạng công tác phát hành Trái phiếu Chính phủ tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCKHN).
Chương 3: : Một số giải pháp hoàn thiện công tác phát hành trái phiếu chính phủ tại TTGDCKHN.
LỜI CẢM ƠN.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu tại nhà trường kết hợp với thời gian thực tập tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội , được sự giúp đỡ hết sức nhiệt tình của thầy cô và của Trung tâm,phòng Quản lý giao dịch ,đã giúp đỡ em đã hoàn thành chuyên đề này .
Em xin bày tỏ lòng biết ơn Cô giáo:Th.s. Phan Thu Hiền đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này .
Em cũng xin chân thành cảm ơn Anh Nguyễn Tiến Dũng và Anh Đỗ Tuấn, cùng các anh chị ở Trung tâm đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại Trung tâm.
Chương I : Lý luận chung về phát hành Trái phiếu Chính phủ.
1. Phát hành chứng khoán.
Khái niệm về phát hành chứng khoán: Việc chào bán lần đầu tiên chứng khoán mới gọi là phát hành chứng khoán. Nếu đợt phát hành dẫn đến việc đưa một loại chứng khoán của một tổ chức lần đầu tiên ra công chúng thì gọi là phát hành lần đầu ra công chúng. Nếu việc phát hành đó là việc phát hành bổ sung bởi tổ chức đã có chứng khoán cùng loại lưu thông trên thị trường thì gọi là đợt phát hành chứng khoán bổ sung. Tuy nhiên, không phải mọi đối tượng đều được phát hành chứng khoán mà chỉ những chủ thể phát hành mới có được quyền này.
1.1. Các phương thức phát hành chứng khoán.
Có 2 phương thức phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Đó là phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng.
Phát hành riêng lẻ (Private Placement): Là việc công ty phát hành chào bán chứng khoán của mình trong phạm vi một số người nhất định (thông thường là cho các nhà đầu tư có tổ chức có ý định nắm giữ chứng khoán một cách lâu dài) như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí... với những điều kiện hạn chế chứ không phát hành rộng rãi ra công chúng. Các ngân hàng đầu tư cũng có thể tham gia vào việc phát hành riêng lẻ với tư cách nhà phân phối để hưởng phí phát hành. Đa số các đợt phát hành trái phiếu đều thực hiện dưới hình thức phát hành riêng lẻ, việc phát hành cổ phiếu thường - cổ phiếu phổ thông ít khi được thực hiện dưới hình thức này.
Phát hành chứng khoán ra công chúng: là việc phát hành trong đó chứng khoán có thể chuyển nhượng được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn người đầu tư nhất định (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định.
Ý nghĩa của việc phân biệt giữa phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng
Việc phân biệt phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng là để xác định những người phát hành rộng rãi ra công chúng phải là những công ty có chất lượng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, nhằm bảo vệ cho công chúng đầu tư nói chung, nhất là những nhà đầu tư nhỏ thiếu hiểu biết. Đồng thời, đây cũng là điều kiện để xây dựng một thị trường chứng khoán an toàn, công khai và có hiệu quả.
Việc phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh của Luật Công ty. Chứng khoán phát hành dưới hình thức này không phải là đối tượng được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán sơ cấp.
1.2. Bảo lãnh phát hành chứng khoán
1.2.1. Khái niệm
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên thế giới, các ngân hàng đầu tư thường là những tổ chức đứng ra làm bảo lãnh phát hành.
Tổ chức bảo lãnh là người chịu trách nhiệm mua hoặc chào bán chứng khoán của một tổ chức phát hành nhằm thực hiện việc phân phối chứng khoán để hưởng hoahồng.
1.2.2. Các phương thức bảo lãnh phát hành việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các phương thức sau:
* Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối được hết chứng khoán hay không. Trong hình thức bảo lãnh tổ hợp theo "cam kết chắc chắn", một nhóm các tổ chức bảo lãnh hình thành một tổ hợp để mua chứng khoán của tổ chức phát hành với giá chiết khấu so với giá chào bán ra công chúng (POP) và bán lại các chứng khoán đó ra công chúng theo giá POP. Chênh lệch giữa giá mua chứng khoán của các tổ chức bảo lãnh và giá chào bán ra công chúng được gọi là hoa hồng chiết khấu.
* Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: đây là phương thức thường được áp dụng khi một công ty đại chúng phát hành bổ sung thêm cổ phiếu thường ở các nước phát triển. Trong trường hợp đó, công ty cần phải bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông hiện hữu, và như vậy, công ty phải chào bán cổ phiếu bổ sung cho các cổ đông cũ trước khi chào bán ra công chúng bên ngoài. Dĩ nhiên, sẽ có một số cổ đông không muốn mua thêm cổ phiếu của công ty. Do vậy, công ty cần có một tổ chức bảo lãnh dự phòng sẵn sàng mua những quyền mua không được thực hiện và chuyển thành những cổ phiếu để phân phối ra ngoài công chúng. Có thể nói, bảo lãnh theo phương thức dự phòng là việc tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua nốt số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành và bán lại ra công chúng. Tại các nước đang phát triển, khi các tổ chức bảo lãnh còn non trẻ và chưa có tiềm lực lớn thì phương thức bảo lãnh phát hành dự phòng lại là phương thức bảo lãnh thông dụng nhất.
* Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh tổ chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng hết sức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành phần còn lại.
* Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không: trong phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số lượng chứng khoán nhất định, nếu không phân phối được hết sẽ huỷ toàn bộ đợt phát hành.
* Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: là phương thức trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất định (mức sàn). Vượt trên mức ấy, tổ chức bảo lãnh được tự do chào bán chứng khoán đến mức tối đa quy định (mức trần). Nếu lượng chứng khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn mức yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị huỷ
1.3. Phương pháp hành chứng khoán.
Nói chung, tất cả các đơn vị muốn phát hành chứng khoán ra công chúng trước hết phải được phép của Uỷ ban chứng khoán quốc gia. Để Uỷ ban có cơ sở xem xét một đơn vị có đủ điều kiện phát hành chứng khoán hay không, đơn vị phải làm đơn xin phát hành kèm theo một bản cáo bạch.
Theo Nghị định 48/1998 NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
* Thủ tục và thời hạn cấp giấy phát hành:
Hồ sơ xin cấp giấy phép phát hành chứng khoán ra công chứng được gửi Uỷ ban Chứng khoán Nhà Nước. Trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ xin cấp giấy phép phát hành, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp hoặc từ chối cấp giấy phép. Trường hợp từ chối cấp giấy phép, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước phải giải thích rõ lý do bằng văn bản.
* Sử dụng thông tin trước khi được phép phát hành:
Trong thời gian Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xem xét hồ sơ xin cấp giấy phép phát hành, tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành và các đối tượng có liên quan chỉ được sử dụng trung thực và chính xác các thông tin trong bản cáo bạch đã gửi Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước để thăm dò thị trường.
* Công bố việc phát hành:
Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận được giấy phép phát hành có nghĩa vụ công bố việc phát hành trên năm số báo liên tiếp của một tờ báo trung ương và một tờ báo địa phương nơi tổ chức phát hành đặt trụ sở chính. Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc đại diện chỉ được sử dụng thông tin trong hồ sơ xin cấp giấy phép phát hành đã được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước chấp thuận để phát hành.
Nếu thực hiện phát hành chứng khoán qua TTCK tập trung, bản cáo bạch khi được trình lên UBCKQG thì đồng thời cũng được gởi đến Sở giao dịch chứng khoán kèm theo đơn xin đăng ký yết giá tại Sở giao dịch chứng khoán.
Sau thời hạn tối đa (3 tháng) kể từ ngày Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận cho phép phát hành, nếu loại chứng khoán đó không được phát hành thì sẽ bị huỷ bỏ, và sẽ được công bố công khai. Cũng có thể có sự gia hạn thêm một thời hạn nhất định (có thể là 1 đến 2 tháng) cho những đơn vị có lý do chính đáng, theo đề nghị của đơn vị phát thành.
* Thời hạn chào bán:
Tổ chức phát hành phải phát hành chứng khoán theo phương án đã được duyệt trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày giấy phép phát hành có hiệu lực. Quá thời hạn trên, tất cả các chứng khoán chưa bán hết không được phát hành tiếp ra công chúng.
* Đình chỉ phát hành:
Tổ chức được cấp giấy phép phát hành bị đình chỉ việc phát hành, nếu Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước phát hiện những sai lệch hoặc những thông tin không chính xác trong bản cáo bạch có thể ảnh hưởng tới quyết định đầu tư và gây thiệt hại cho người đầu tư. Tổ chức phát hành phải sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và thông báo công khai việc sửa đổi, bổ sung này.
Trường hợp việc phát hành bị đình chỉ, người đầu tư có quyền huỷ bỏ việc đặt mua chứng khoán hoặc trả lại chứng khoán đã mua; trong trường hợp này tổ chức phát hành và các tổ chức có liên quan khác có nghĩa vụ hoàn trả tiền cho người mua trong vòng 30 ngày, kể từ ngày việc phát hành bị đình chỉ.
Sau khi được phép của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, công ty có thể chọn những cách phát hành sau:
1). Bán riêng cho các nhà đầu tư lớn:
Tại những nước đã phát triển những định chế trung gian như: công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ hưu bổng,.v.v… sẽ là những khách hàng mua chứng khoán với khối lượng lớn. Do đó, công ty có thể bán trực tiếp cho những đối tượng này.
2). Chào bán trực tiếp cho công chúng theo giá đã quy định:
Thường công ty nhờ đến các nhà phát hành làm cố vấn, các nhà phát hành này thường là các ngân hàng thương mại hay công ty tài chính sẽ cố vấn cho các công ty muốn huy động vốn và tổ chức phát hành. Công ty và các cố vấn của mình phải cố gắng đạt được một sự cân đối giữa giá tốt nhất cho quyền lợi công ty và giá chào bán đủ hấp dẫn để lôi kéo sự quan tâm của công chúng và bảo đảm cho việc phát hành thành công.
3). Chào bán qua các nhà môi giới:
Cũng là một cách bán chứng khoán ra công chúng nhưng sự khác biệt ở chỗ nhà môi giới mua các chứng khoán đã phát hành từ công ty và sau đó chào bán lại cho công chúng.
Thường có hai cách để nhà môi giới mua chứng khoán từ công ty:
* Bằng phương pháp đấu thầu (Offer bay tender):
Công ty cổ phẩn chỉ ấn định một giá đăng ký tối thiểu, nhà môi giới phát hành nào đưa ra giá cao nhất sẽ được mua.
* Bằng phương pháp thương lượng (Negotiated offering):
Công ty phát hành sẽ đàm phán với các ngân hàng nhận bao tiêu những chứng khoán do công ty phát hành. Cuộc thương lượng này liên quan đến các điều kiện về giá nhượng bán cho ngân hàng nhận bao tiêu toàn bộ số cổ phiếu phát hành. Sau đó, ngân hàng sẽ bán lại dần cho các nhà đầu tư cuối cùng. Hoặc ngân hàng chỉ nhận làm môi giới - nhà đại lý tiêu thụ - thương lượng phí hoa hồng phát hành cho việc bằng mọi nỗ lực tiêu thụ cổ phần.
4). Các loại bảo đảm phát hành:
Các định chế tài chính trung gian (công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư) thường ký các hợp đồng bảo đảm phát hành các hình thức thức sau:
Loại 1: Bảo lãnh bao tiêu (underwritng) là hình thưc bảo đảm chắc chắn (firm commitment):
Theo hình thức này, công ty môi giới khi nhận bán sẽ mua toàn bộ số chứng khoán của một đợt phát hành của công ty cổ phần và sau đó bán lại cho nhà đầu tư với giá cao hơn để hưởng chênh lệch.
Hoặc thể ký hợp đồng nhận bán toàn bộ chứng khoán với một giá nhất định cho đến hạn không còn ai mua nữa thì công ty môi giới sẽ nhận mua toàn bộ só chứng khoán còn lại. Thường chỉ có những tập đoàn tài chính ngân hàng lớn mới có đủ khả năng tài chính để nhận bảo lãnh phát hành chứng khoán. Khi nhận nhiệm vụ này họ phải mặc nhiên chấp nhận rủi ro do giá của cổ phần có thể lên hay xuống thấp hơn giá mua. Do đó, trước khi nhận bao tiêu chứng khoán cho một công ty nào, công ty môi giới phải thẩm tra tình hiình mọi mặt của công ty, quan trọng nhất là tình hình tài chính: cơ cấu nguồn vốn và khả năng sinh lợi.
Ví dụ: Công ty muốn bán toàn bộ số cổ phiếu có giá trị là $10.000.000, công ty môi giới chỉ có thể bán được $8.000.000, số còn lại $ 2.000.000 cổ phiếu không bán được sẽ được công ty môi giới mua bằng tài khoản của chính họ.
Loại 2: Đại lý phát hành với cố gắng cao nhất (best effort): Các nhà phát hành nhạn bán chứng khoán nhưng không nhận mua hết số chứng khoán không được bán. Nghĩa là không ký kết đảm bảo hết toàn bộ chứng khoán. Họ chỉ cam kết sẽ cố gắng hết sức để bán chứng khoán trong thời hạn, nếu không bán hết số chứng khoán còn lại sẽ được trả cho công ty cổ phần.
Hình thức làm đại lý phát hành thường được các công ty môi giới không nhiều vốn chấp nhận bởi vì họ không muốn lãnh chịu rủi ro trong kinh doanh chứng khoán, họ chỉ đơn giản nhận bán hộ để hưởng hoa hồng.
Ví dụ: Công ty muốn bán toàn bộ số cổ phiếu $10.000.000, công ty môi giới chỉ có thể bán được $ 8.000.000 giá trị cổ phiếu họ phải trả lại số cổ phiếu có giá trị $ 2.000.000 cho công ty phát hành.
Loại 3: Bảo đảm tất cả hoặc không (all-or-none):
Trường hợp này, công ty cổ phần cần một số lượng tối thiểu cổ phiếu phải bán hết, nếu không sẽ bị huỷ bỏ toàn bộ số lượng đã phân phối và tiền sẽ được trả lại cho những người đặt mua cổ phiếu.
Ví dụ: Công ty muốn bán toàn bộ cổ phiếu $10.000.000. Yêu cầu công ty môi giới phải bán tối thiểu 70% giá trị đợt phát hành tức là công ty phải nhận được số tiền tối thiểu $7.000.000 hoặc toàn bộ đợt phát hành bị huỷ bỏ.
Nói chung, trong công việc phát hành chứng khoán ra công chúng, tất nhiên công ty có thể tự làm nhưng thường là thông qua một hay nhiều ngân hàng, công ty tài chính.
Tuy phí tổn phát hành có cao hơn, nhưng là một sự hợp tác có lợi cho cả đôi bên.
Công ty phát hành sẽ được hỗ trợ về kinh nghiệm vận động bán chứng khoán theo đúng luật định - nhận được sự tài trợ khi công ty chưa được công chúng biết đến hoặc để huy động một khối lượng vốn đúng hạn. Về phía các ngân hàng hoặc công ty tài chính nhận làm cố vấn, bao tiêu hay đại lý sẽ được hưởng phí hoa hồng hay chênh lệch giá nhưng họ cũng phải nghiên cứu kỹ để tránh rủi ro.
Hình1.1. Sơ đồ các phương pháp phát hành chứng khoán
CHỦ THỂ PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN
BÁN RA CÔNG CHÚNG
BÁN TRỰC TIẾP CHO CÁC NHÀ ĐẦU TƯ CUỐI CÙNG
BÁN RIÊNG
THƯƠNG LƯỢNG
ĐẤU GIÁ
BẢO LÃNH
ĐẠI LÝ
BẢO LÃNH
CÔNG TY CK
CÔNG TY CK
CÔNG TY CK
CÁ NHÂN VÀ CÁC TỔ CHỨC
CÁC TỔ CHỨC
ĐẦU TƯ CK
2. Phát hành trái phiếu chính phủ.
Khác với phát hành trái phiếu và cổ phiếu công ty, việc phát hành trái phiếu Chính phủ không phải xin phép Uỷ ban Chứng khoán Quốc gia và phương pháp phát hành cũng có những điểm khác biệt so với hai loại trên.
Trái phiếu Chính phủ là loại chứng khoán có độ tin cậy tín dụng cao nhất và lãi suất của trái phiếu Chính phủ thường là lãi suất chuẩn cho các loại lãi suất khác. Có hai loại trái phiếu Chính phủ: trái phiếu chiết khấu (Zero coupon) và trái phiếu trả lãi định kỳ (Coupon). Người sở hữu trái phiếu chiết khấu sẽ nhận được cả vốn gốc và lãi tương đương với mệnh giá ghi trên trái phiếu. Ngược lại, trái phiếu trả lãi thanh toán lãi suất định kỳ 1 năm hay 6 tháng một lần cho người sở hữu.
Việc phát hành trái phiếu Chính phủ được tiến hành chủ yếu dựa trên cơ sở đấu giá lãi suất hay đấu giá trên cơ sở giá.
Phương pháp đấu giá lãi suất cũng khác nhau chẳng hạn như kiểu Hà Lan hay kiểu Mỹ. (Xem ví dụ).
- Nếu khối lượng phát hành là 600 triệu USD thì các đơn vị A, B và C là những đơn vị trúng thầu.
Ví dụ:
Tên người
đăng ký
Mức đăng ký
(Triệu)
Cộng dồn
Lãi suất đăng ký
(% năm)
A
200
200
7,55
B
100
300
7,56
C
300
600
7,57
D
100
700
7,58
E
100
800
7,59
- Nếu theo phương pháp Hà Lan thì mức lãi suất cao nhất trong những người trúng thầu (7,57%) là mức lãi suất chung áp dụng cho tấ cả những người trúng thầu.
- Nếu theo phương pháp của Mỹ, người A sẽ được thanh toán theo lãi suất 7,55%; người B sẽ theo lãi suất 7,56% và người C sẽ theo lãi suất 7,57%.
Bên cạnh phương pháp đấu giá (được coi là phương pháp chủ yếu) như đã trình bày ở trên, một số nước còn áp dụng thêm một số phương pháp phát hành khác như sau:
+ Phát hành qua tổ hợp các ngân hàng đầu tư: Theo phương pháp này, một tổ hợp các ngan hàng đầu tư lớn nhất sẽ đứng ra thảo luận mức lãi xuất với ngân hàng Trung ương. Sau đó, toàn bộ khối lượng phát hành sẽ được tổ hợp đảm nhận và phân phối.
+ Phương pháp bán lẻ: Ngân hàng Trung ương sẽ đứng ra bán lẻ cho các nhà đầu tư.
Tuy nhiên, dù phát hành bằng phương pháp gì tất cả các loại trái phiếu Chính phủ đều do ngân hàng Trung ương làm đại lý thay mặt cho Kho bạc đứng ra tổ chức phát hành.
2.1. Quy trình phát hành trái phiếu Chính phủ tại Việt Nam.
Việc phát hành trái phiếu Chính phủ được tiến hành theo từng đợt; trước mỗi đợt phát hành 7 ngày, Bộ Tài chính (Kho bạc Nhà nước) sẽ thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng những nội dung có liên quan đến đợt phát hành trái phiếu như: mức phát hành, thời hạn, lãi suất, mệnh giá, thời gian, địa điểm phát hành, quyền lợi của người mua trái phiếu và các quy định khác về phát hành và thanh toán gốc, lãi trái phiếu.
Các Bộ, Ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố muốn phát hành trái phiếu công trình phải có các điều kiện và hồ sơ sau:
- Công trình đã được ghi trong kế hoạch đầu tư của Nhà nước. Có dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt: Bộ quản lý ngành (đối với công trình Trung ương), Uỷ ban Nhân dân tỉnh thành phố (đối với công trình địa phương).
- Có phương án phát hành trái phiếu được Bộ Tài chính phê duyệt, bảo đảm thu hồi vốn để hoàn trả nợ gốc và lãi theo đúng thời hạn quy định.
- Có đơn đề nghị Bộ Tài chính cho phép phát hành trái phiếu công trình theo mẫu quy định của Bộ Tài chính (Kho bạc nhà nước).
- Có chỉ định cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng vốn và thu hồi vốn hoàn trả nợ được Bộ Tài chính đồng ý.
Các hồ sơ tài liệu trên gửi cho Bộ Tài chính (Kho bạc nhà nước) 45 ngày trước ngày dự kiến phát hành để xem xét và ra quyêt định việc phát hành trái phiếu công trình.
2.2. Phương thức phát hành đối với trái phiếu kho bạc và trái phiếu công trình.
a) Phát hành trực tiếp qua hệ thống Kho bạc Nhà nước:
Các đơn vị Kho bạc Nhà nước các tỉnh, thành phố, các quận, huyện trực tiếp tổ chức phát hành các loại trái phiếu kho bạc và trái phiếu công trình cho các đối tượng mua trái phiếu theo quyết định của Bộ Tài chính và hướng dẫn cụ thể của Cục Kho bạc Nhà nước.
b) Phát hành thông qua các đại lý:
- Đại lý phát hành trái phiếu bao gồm: các Ngân hàng thương mại, các Công ty tài chính, Công ty bảo hiểm, Tổ chức tín dụng thuộc cấp tỉnh và cấp trung ương quản lý.
- Các Chi cục Kho bạc Nhà nước được lựa chọn và ký hợp đồng với các đơn vị đại lý phát hành trái phiếu chính phủ theo hướng dẫn của Cục Kho bạc Nhà nước.
- Cuối mỗi ngày, đại lý bán trái phiếu kho bạc và trái phiếu công trình phải chuyển tiền thu bán trái phiếu vào Kho bạc Nhà nước và cơ quan đại lý thực hiện thanh lý hợp đồng.
c) Phát hành theo phương thức đấu thầu:
+ Cơ quan tổ chức đấu thầu bao gồm:
- Bộ Tài chính đối với các loại trái phiếu kho bạc và trái phiếu công trình.
- Các doanh nghiệp Nhà nước do Bộ Tài chính quyết định đối với trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước.
+ Thông báo đấu thầu trái phiếu: Trước mỗi đợ tổ chức đấu thầu trái phiếu 7 ngày, cơ quan tổ chức đấu thầu trái phiếu phải thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng các thông tin cần thiết về việc đấu thầu, bao gồm loại trái phiếu đấu thầu, tổng mức vốn cần huy động, thời hạn đăng ký đấu thầu.v.v…
+ Các đơn vị đặt thầu phải có đơn đăng ký đấu thầu theo mẫu quy định gửi đến cơ quan tổ chức đấu thầu chậm nhất trước ngày mở thầu 2 ngày làm việc.
+ Đặt thầu: Các đơn vị đặt thầu phải có phiếu đặt thầu gửi đến cơ quan tổ chức đấu thầu trước 12 giờ của ngày mở thầu.
+ Mở thầu: vào 12 giờ của ngày đấu thầu, cơ quan tổ chức đấu thầu tiến hành mở các phiếu đặt thầu, phân loại phiếu hợp lệ và không hợp lệ.
+ Xác định khối lượng trúng thầu: khối lượng trúng thầu được tính theo thứ tự tăng lên của lãi suất đặt thầu.
+ Xác định giá phát hành trái phiếu:
Phương thức 1:
Theo phương thức này, thay vì thanh toán lãi, giá phát hành được tính thấp hơn giá trị trái phiếu và được hoàn trả theo giá trị trái phiếu khi đến hạn. Công thức tính giá phát hành trái phiếu như sau:
G =
Trong đó:
- G : Giá phát hành.
- MG : Giá trị khối lượng trái phiếu trúng thầu.
- Lst : Lãi suất trái phiếu trúng thầu của mỗi đơn vị đặt thầu.
- T : Kỳ hạn của trái phiếu.
Phương thức 2;
Giá phát hành theo phương thức lãi suất cố định.
Theo phương thức này, người ta sở hữu trái phiếu được thoanh toán tiền lãi khi đến hạn thanh toán theo mức lãi suất cố định của trái phiếu, giá phát hành trái phiếu được tính căn cứ vào lãi suất cố định và lãi suất trung thầu của từng đơn vị theo công thức sau:
G =
Trong đó:
- G : Giá phát hành.
- MG : Giá trị trái phiếu trúng thầu = MG x khối lượng.
- Lst : Lãi suất trái phiếu trúng thầu.
- LsCD: Lãi suất cố định.
- T : Kỳ hạn của trái phiếu.
- n : Số lần trả lãi trong kỳ hạn trái phiếu.
- Thông báo kết quả đấu thầu: kết quả đấu thầu được thông báo cuối ngày mở thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng, được niêm yết công khai tại ban tổ chức đấu thầu và gửi cho tất cả các đơn vị đặt thầu vào ngày tiếp theo sau ngày mở thầu.
- Thanh toán khối lượng trái phiếu trúng thầu: Ngày phát hành trái phiếu được ấn định vào ngày thứ 2 kể từ ngày sau ngày đấu thầu. Đồng thời, đơn vị trúng thầu nhận được chứng chỉ trái phiếu hoặc được cấp giấy chứng nhận sở hữu trái phiếu (nếu là hình thức trái phiếu ghi sổ).
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến trái phiếu Chính phủ.
Nói chung, giá thị trường của bất cứ loại chứng khoán nào cũng phụ thuộc vào cung và cầu, vì thế khi muốn biết điều gì quyết định giá trái phiếu chúng ta chỉ cần tim hiểu nhân tố nào đứng sau cung và cầu.
Khả năng tài chính của người cung cấp trái phiếu.
Cung cấp trái phiếu là một chức năng của người đi vay nhằm giải quyết vấn đề vốn. Do đó nhà đầu tư rất quan tâm đến khả năng thanh toán lãi và vốn gốc của người cung cấp trái phiếu.
Nếu có những biến động bất lợi về khả năng tài chính của chủ phát hành, thì lập tức giá trái phiếu đó sẽ tụt giảm trên thị trường chứng khoán. Mặc dù lãi suất trái phiếu có vẽ hứa hẹn nhưng độ rủi ro hàm chứa lại cao hơn.
Thời gian đáo hạn.
Một trái phiếu có thời gian đáo hạn càng gần thì giá của nó càng tăng trên thị trường bởi vì độ rủi ro càng thấp. Ví dụ 1 trái phiếu sẽ được thanh toán theo đúng mệnh giá vào cuối năm thứ 10 kể từ ngày pháp hành, nếu không có biến động xấu về khả năng tài chính của của đơn vị phát hành và lãi suất thị trường bình ổn, thì giá trái phiếu kể từ năm thứ 5 trở đi sẽcó khuynh hướng càng cao so với các năm đầu tiên. Trên thực tế người ta gọi hiện tượng này là “ kéo gía tới hời hạn ”.
Dự kiến về lạm phát.
Nếu lạm phát có dự kiến tăng thì các chứng khoán có lãi suất cố định trả theo lãi trái phiếu chỉ được thanh toán theo danh nghĩa, và như vậy sẽ kém hấp dẫn hơn các tài sản khác có khả năng loại trừ lạm phát. Dẫn đến kết quả là giá thị trường của các chứng khoán có lãi suất cố định bị giảm và điều này cũng buộc tăng lãi cho các chứng khoán đó, phần lãi tăng này sẽ đền bù cho thiệt hại của những người giữ trái phiếu trong tương lai bị ảnh hưởng của lạm phát.
Sự vận động của giá trái phiếu với các thời hạn khác nhau sẽ vẽ nên một phác thảo về thị trường trái phiếu và khả năng diễn biến của lạm phát.
Biến động lãi suất thị trường.
Lãi suất thị trường là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong việc định giá của các chứng khoán có Lãi suất cố định. Nếu lãi suất bắt đầu tăng thì lợi tức đối với đối với các trái phiếu đang tồn tại chắc chắn thay đổi. Trong trường hợp này vốn sẽ chảy vào thị trường nào hứa hẹn lợi nhuận cao hơn. Như vậy giá của trái phiếu có lợi tức cố định sẽ giảm. Nhìn khía cạnh khác nếu gía trấi phiếu giảm do người ta dự đoán lạm phát tăng, thì việc tăng lãi suất ( Chính việc này làm giảm giá trái phiếu ) có thể coi là dấu hiệu của Chính phủ quyết định đẩy lùi lạm phát. Ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng lãi suất được đền bù bởi tác động tích cực triển vọng lạm phát được cải thiện.
Thay đổi tỷ giá hối đoái.
Yếu tố này ảnh hưởn đến các loại trái phiếu được thanh toán bằng nội tệ hoặc ngoại tệ. Ví dụ đồng dollar Mỹ có gí trị cao hơn so với đồng bảng Anh thì sẽ làm tăng giá trị của loại Trái phiếu được thanh toán bằng dollar Mỹ.
3. Tổng._. quan về thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam.
Trái phiếu chính phủ bắt đầu phát hành từ năm 1991, lúc đó trái phiếu Chính phủ phát hành có kỳ hạn là 3 tháng
Từ năm 1991 đến năm 1995 phát hành trái phiếu Chính phủ qua Kho bạc NN với kỳ hạn ngắn (6t, 1n)
Đến tháng 6 năm 2000 Trái phiếu Chính phủ được phát hành Ngân hàng NN và bán lẻ với kỳ hạn 2-3n
Từ năm 2000 đến nay Trái phiếu Chính phủ được phát hành với quy mô lớn hơn và kỳ hạn đa dạng hơn thông qua hai phương thức chủ yếu là đấu thầu và bảo lãnh.
Từ năm 2000 TPCP đã thực hiện đấu thầu tại TTGDCK Tp. HCM (nay là Sở GDCK Tp. HCM)
Ngày 19/4/2005, HASTC tổ chức phiên đấu thầu TPCP đầu tiên do Quỹ hỗ trợ phát triển (nay là Ngân hàng Phát triển VN) phát hành;
Ngày 20/6/2006, Bộ Tài chính ban hành QĐ 2276/QĐ-BTC về việc tập trung đấu thầu TPCP tại HASTC. Theo đó, toàn bộ trái phiếu kho bạc và trái phiếu đầu tư đều tập trung đấu thầu tại HASTC kể từ ngày 01/7/2006;
Ngày 6/9/2006 Bộ Tài chính ban hành QĐ 46/2006/QĐ-BTC ban hành Quy chế phát hành TPCP lô lớn
Các tổ chức phát hành trái phiếu Chính phủ được Chính phủ bảo lãnh bao gồm : Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Các tổ chức phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh.
Từ năm 2000 đến năm 2005 phương thức phát hành trái phiếu chủ yếu là đấu thầu qua NHNN ( chiếm 53%), còn lại là Bán lẻ qua hệ thống KBNN (23,5%) Bảo lãnh phát hành (11%) Bảo hiểm xã hội mua (6,7%) Đấu thầu qua 02 TTGDCK (chỉ chiếm 4,9%). Tuy nhiên từ năm 2006 đến nay phương thức đấu thầu qua TTGDCK đã tăng rõ rệt ( chiếm 24.3%) chủ yếu là đấu thầu tại TTGDCKHN đây sẽ là phương thức chủ đạo để phát hành trái phiếu chính phủ từ nay về sau và sẽ tập trung đấu thầu tại TTGDCKHN.
Với các phương thức phát hành đa dạng như vậy từ năm 2000 đến năm 2008 phát hành trái phiếu Chính phủ đã đạt được những kết quả đáng kể. Năm 2000 phát hành được 5416 tỷ VND trong đó đấu thầu tại TTGDCK được 600 tỷ, bảo lãnh phát hành được 500 tỷ, bán lẻ qua kho bạc nhà nước được 4316 tỷ. Đến năm 2008 phát hành được 34809 tỷ VND trong đó đấu thầu tại TTGDCK được 6608 tỷ, bảo lãnh phát hành được 28201 tỷ, bắt đầu từ năm 2007 không thực hiện bán lẻ TPCP qua KBNN. Từ 2000 – 30/6/2006 đấu thầu TPCP được thực hiện trên cả 2 TTGDCK. Theo QĐ 2276/QĐ-BTC hoạt động đấu thầu TPCP được tập trung về HASTC từ ngày 01/7/2006. Kết quả cụ thể được thể hiện rõ trong bảng 1.1.
Bảng 1.1. KẾT QUẢ PHÁT HÀNH TPCP GIAI ĐOẠN 2000 - 2008
Năm
ĐT tại TTGDCK
BLPH
Bán lẻ qua KBNN
2000
600
500
4.316
2001
1.333
250
2.667
2002
231
0
4.117
2003
672
1.650
7.186
2004
1.419
2.390
6.444
2005
2.235
9.945
7.736
2006
7.885
12.241
2.815
2007
18.939
18.400
0
2008
6.608
28.201
0
(Nguồn : TTGDCK Hà Nội)
Với khối lượng lưu hành đạt khoảng trên 11% GDP, Trái phiếu Chính Phủ (TPCP) luôn là kênh huy động vốn gián tiếp hữu hiệu cho nền kinh tế. Lợi thế ổn định tương đối về lãi suất và ít biến động về giá đã giúp TPCP trở thành kênh đầu tư chiếm vị trí không nhỏ trong danh mục của các nhà đầu tư “ nội ” và “ ngoại ” . Thế nhưng, những lợi thế vốn có kể trên của trái phiếu hiện đang bị “ lung lay ” , thậm trí mang tới rủi ro khá lớn cho các nhà đầu tư nắm giữ công cụ này. Trái phiếu và cổ phiếu là 2 loại hàng hoá phổ biến nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn hiện nay, trong đó trái phiếu có mức rủi ro thấp hơn đi kèm với lợi suất thấp. TTCK suy giảm gần một năm qua khiến nhiều nhà đầu tư đã chọn giải pháp an toàn: tăng tỷ trọng trái phiếu trong danh mục đầu tư của mình làm thị trường giao dịch trái phiếu trở nên sôi động hơn trong khi thị trường cổ phiếu ảm đạm. Thế nhưng, trái phiếu chịu ảnh hưởng rất nhiều của các yếu tố thuộc về môi trường v ĩ mô, đặc biệt và trực tiếp nhất đó là lãi suất. Cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng thương mại (NHTM) đã tác động làm giảm tính thanh khoản của trái phiếu: lãi suất huy động không kỳ hạn của các NHTM lên tới 8%/năm, lãi suất có kỳ hạn tới 18- 19%/năm trong khi lãi suất cuống phiếu của TPCP chỉ có 9%/năm. Để tăng tính thanh khoản của TPCP, nhà đầu tư đã buộc phải tăng tỷ lệ chiết khấu khiến cho giá trái phiếu bị đẩy xuống mức thấp. Cuối tháng 5/2008, TPCP được giao dịch với mức lợi suất chiết khấu lên tới 25%, thậm chí 30% đối v ới loại có thời gian đáo hạn (TGĐH) dưới 2 năm và từ 14-16% đối v ới loại có thời gian đáo hạn 5 năm trở lên. Lợi suất chiết khấu cao làm giá TPCP giảm xuống còn 75.000 đồng/TP với TPCP mệnh giá 100.000 đồng, kỳ hạn 5 năm và 80.000 đồng/TP, kỳ hạn lớn hơn 5 năm. Giá TPCP càng bị đẩy xuống mức thấp hơn khi mà vào đầu tháng 6/2008, dự đoán mức lãi suất ngân hàng sẽ tiếp tục tăng trước động thái NHNN công bố tăng lãi suất cơ bản lên 14%/năm. Hệ quả là tỷ lệ chiết khấu TPCP bị đẩy lên cao, đặc biệt là những TP có TGĐH ngắn 2 hoặc 3 năm chỉ còn được giao dịch v ới mức giá 65.000 đồng/TP mệnh giá 100.000 đồng. Giá “ siêu rẻ ” cộng v ới tính chất giao dịch lô lớn khiến các nhà đầu tư nhỏ lẻ chỉ biết đứng ngoài cuộc do không đủ khả năng tài chính, phải nhường sân cho nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức có tiềm lực tài chính, đặc biệt là các NHTM trong và ngoài nước. Cách đây một năm, các tổ chức và cá nhân sử dụng v ốn vay để đầu tư TP chỉ phải trả mức lãi suất vay 8%/năm và hưởng mức lãi cuống phiếu 9%/năm, thế nhưng cho tới nay, khi lãi cuống phiếu vẫn ở mức 9%/năm nhưng nhà đầu tư lại phải trả mức lãi vay tới 19-21%/ năm. Chính vì vậy mà hiện nay, những đối tượng này lại đang đứng trước nhiều rủi ro với danh mục đầu tư trái phiếu của mình. Đối v ới NHTM, họ có thể hưởng lợi từ việc sử dụng nguồn vốn huy động được nhưng lại đứng trước rủi ro khi sử dụng chính nguồn vốn này v ới chi phí cao (lớn hơn 18%) để tài trợ cho khoản đầu tư vào trái phiếu với lãi suất cuống phiếu chỉ 9%/năm, đặc biệt với những NHTM không xác định đầu tư dài hạn vào trái phiếu. Mặt khác, nằm trong gói 8 giải pháp của Chính phủ ban hành tháng 3/2008, giải pháp then chốt và được nhiều nhà kinh tế cho là giải pháp mang tính hiện thực nhất xét từ góc độ chính sách tài khóa cũng như mối tương quan giữa các ngành đầu tư khác nhau trong xã hội, đó là điều chỉnh đầu tư công, đầu tư từ nguồn TPCP và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước để chống làm phát. Theo kế hoạch, năm 2008, tổng nguồn vốn đầu tư phát triển là 567,3 ngàn tỷ đồng tương đương 35 tỷ USD trong đó nguồn từ TPCP và TP giáo dục là 32 ngàn tỷ đồng. Thực tế tính tới thời điểm 26/06, lượng vốn đầu tư đã cắt giảm trên cả nước xấp xỉ đạt 17,7 nghìn tỷ đồng trong đó hơn một nửa là giảm v ốn từ TPCP. Việc cắt giảm các dự án huy động qua TPCP ngay lập tức tác động tới TTCK: nhà đầu tư nước ngoài trong tuần từ 2/6 tới 6/6 đã bán tới 20.656 triệu TP trong khi chỉ mua vào 9.578 triệu trái phiếu. Tháng 6/2007, TTCK có những tín hiệu phục hồi , tình hình kinh tế đất nước khả quan hơn do tác động của 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính Phủ, huy động v ốn của các NHTM đã bớt căng thẳng, vì thế mà tỷ lệ chiết khấu TPCP đã giảm xuống chỉ còn trung bình là 20%, giá TP có xu hướng phục hồi nhẹ. Thêm vào đó, NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng có lãi suất huy động bình quân lớn hơn 17,5%/năm phải giải trình là một động thái giúp giảm nhiệt thị trường tín dụng, giúp giảm áp lực bán trái phiếu góp phần vào việc tăng giá trái phiếu. Thêm vào đó, ngày 2/6/2008 thị trường trái phiếu chuyên biệt đã chính thức đi vào hoạt động, được đánh dấu bằng sự kiện chuyển 275 mã TPCP có TGĐH từ 6 tháng trở lên từ Sở giao dịch chứng khoán Tp.HCM sang Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HASTC) với giá trị chuyển là 43.300 tỷ đồng, chiếm 30% giá trị tổng số TPCP niêm yết tại HASTC. Như vậy, tổng số TPCP niêm yết tại HASTC hiện tại là 479 mã với giá trị 142.665 tỷ đồng theo mệnh giá trong đó có 228 mã trái phiếu do Kho Bạc Nhà nước phát hành và 244 mã TP do Ngân hàng Phát triển Việt Nam phát hành. Giao dịch trái phiếu chính phủ tập trung sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu trong nước, là một kênh huy động v ốn hiệu quả của nền kinh tế. Đặc biệt, đây sẽ là cơ hội không những cho trái phiếu chính phủ mà còn cho cả trái phiếu công ty, một loại hàng hóa có v ẻ như đang yếu thế trên thị trường trái phiếu (Trái phiếu chính phủ chiếm hơn 80% tổng lượng trái phiếu phát hành) trong khi chính trái phiếu công ty mới là yếu tố quyết định sự sôi dộng và sức hấp dẫn của thị trường này. Với sự ra đời của thị trường trái phiếu chuyên biệt, nhà đầu tư, các quỹ đầu tư sẽ ngày càng quan tâm hơn đến thị trường trái phiếu với niêm tin vào một thị trường trái phiếu sôi động và minh bạch hơn.
Chương II : Thực Trạng công tác phát hành Trái phiếu Chính phủ tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCKHN).
1. Khái quát về TTGDCKHN.
1.1. Quá trình hình thành và phát triển.
1.1.1.Lịch sử hình thành của TTGDCK Hà Nội:
Ngày 11 tháng 07 năm 1998, Chính phủ ra Quyết định số 127/1998/QÐ-TTg thành lập hai Trung tâm giao dịch chứng khoán trực thuộc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Theo đó, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân sách Nhà nước cấp. Biên chế của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội thuộc biên chế của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước.
Trụ sở Trung tâm GDCK Hà Nội - Số 2 Phan Chu Trinh, Hà Nội TTGDCK Hà Nội có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
Tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán;
Quản lý, điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán;
Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ việc mua bán chứng khoán, dịch vụ lưu ký chứng khoán;
Thực hiện đăng ký chứng khoán.
1.1.2. Quá trình xây dựng mô hình hoạt động của TTGDCK Hà Nội:
Việc xây dựng mô hình hoạt động cụ thể cho Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội có ý nghĩa rất quan trọng, vừa phải đáp ứng những nhu cầu cấp thiết của nền kinh kế, vừa phải phù hợp với quy mô và lộ trình phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
Ngày 05/8/2003 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến 2010. Theo đó, xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội, chuẩn bị điều kiện để sau 2010 chuyển thành Thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC).
Tháng 6/2004, Bộ tài chính ra Thông báo số 136/TB/BTC nêu kết luận của Lãnh đạo Bộ về mô hình tổ chức và xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán Việt Nam. Trong đó, định hướng xây dựng Trung tâm GDCK Hà Nội thành một thị trường giao dịch phi tập trung (OTC) đơn giản, gọn nhẹ, theo đó, Trung tâm GDCK Hà Nội sẽ phát triển theo hai giai đoạn:
Giai đoạn đầu, từ 2005 đến 2007 - thực hiện đấu giá cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và đấu thầu trái phiếu chính phủ đồng thời tổ chức giao dịch chứng khoán chưa niêm yết theo cơ chế đăng ký giao dịch.
Giai đoạn sau 2007 - Phát triển TTGDCKHN thành thị trường phi tập trung phù hợp với quy mô phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Mô hình hoạt động của TTGDCK Hà Nội đã từng bước được cụ thể hoá. Bộ Tài chính đã ra Quyết định số 244/2004/QÐ-BTC ban hành Quy chế tạm thời tổ chức giao dịch chứng khoán tại TTGDCK Hà Nội. Như vậy, có thể nói cơ sở pháp lý ban đầu cho hoạt động của TTGDCK Hà Nội đã được thiết lập.
Theo đó, có thể khái quát các nội dung hoạt động chính trong giai đoạn đầu của TTGDCK Hà Nội như sau:
Tổ chức đấu giá cổ phần cho các doanh nghiệp : TTGDCKHN cung cấp các phương tiện để thực hiện đấu giá cổ phần, đặc biệt là cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, theo tinh thần Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần vừa được Chính phủ ban hành và thông tư số 126/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 187/2004/NÐ-CP. Trong đó quy định các doanh nghiệp khi cổ phần hoá phải bán đấu giá công khai ra bên ngoài tối thiểu 20% vốn điều lệ. Trường h ợp doanh nghiệp cổ phần hóa có khối lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ đồng phải tổ chức đấu giá cổ phần tại TTGDCK để thu hút người đầu tư, các trường hợp khác cũng được khuyến khích đấu giá qua TTGDCK.
Tổ chức đấu thầu trái phiếu : TTGDCKHN tổ chức đấu thầu
trái phiếu, bao gồm các loạ trái phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu công trình
Tổ chức giao dịch chứng khoán theo cơ chế đăng ký giao dịch:
Hàng hoá giao dịch trên TTGDCK Hà Nội:
Các loại chứng khoán của các công ty cổ phần có vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên, ch ưa th ực hiện niêm yết tại TTGDCKTP. HCM, hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký giao dịch phải có lãi, số cổ đông tối thiểu là 50 người (kể cả trong và ngoài doanh nghiệp).
Các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa ph ương Phương thức giao dịch áp dụng tại TTGDCKHN:
+ Phương thức giao dịch thoả thuận.
+ Phương thức giao dịch báo giá trung tâm.
- Ngày 8.3.2005 TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động, đánh dấu một bước phát triển mới của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Những hoạt động đầu tiên của TTGDCK Hà Nội:
Ngay sau thời điểm khai trương, TTGDCK HÀ Nội triển khai hoạt động đấu giá cổ phần cho các doanh nghiệp nhà n ước cổ phần hoá.
- Ngày 08.03.2005 tổ chức đấu giá cổ phần Nhà máy Thiết bị Bưu điện
- Ngày 10.03.2005 tổ chức đấu giá cổ phần Nhà máy Thuỷ điện Vĩnh Sơn – Sông Hinh.
- Ngày 17.03.2005 tổ chức đấu giá cổ phần Ðiện lực Khánh Hoà.
- Ngày 14.7.2005 TTGDCK Hà Nội khai trương Sàn Giao dịch chứng khoán thứ cấp. Sau khi khai trương sàn giao dịch chứng khoán thứ cấp, đã có 6 doanh nghiệp được đưa vào giao dịch đợt đầu, bao gồm:
Công ty cổ phần Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng
Công ty cổ phần Giấy Hải Âu
Công ty cổ phần Hacinco
Công ty cổ phần Điện lực Khánh Hòa
Công ty cổ phần Thủy điện Vĩnh Sơn-Sông Hinh 6. Công ty cổ phần Thăng Long
1.2. Cơ cấu tổ chức.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của TTGDCKHN
(Nguồn: www.hastc.org.vn)
1.2.2Chức năng, nhiệm vụ của TTGDCKHN:
1.2.2.1.Nhiệm vụ quyền hạn của TTGDCKHN :
Tổ chức đấu giá cổ phần của các doanh nghiệp, đấu giá tài sản tài chính, đấu thầu trái phiếu; quản lý, điều hành hệ thống đấu giá, đấu thầu;
Tổ chức, quản lý và giám sát hoạt động giao dịch đối với các chứng khoán đăng ký giao dịch tại Trung tâm; quản lý, điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán;
Quản lý, giám sát và kiểm tra hoạt động đăng ký giao dịch chứng khoán theo quy định của pháp luật;
Quản lý, giám sát và kiểm tra hoạt động của các thành viên và các tổ chức phụ trợ theo quy định của pháp luật;
Tổ chức, quản lý và thực hiện việc công bố thông tin thị trường; cung cấp dịch vụ thông tin thị trường theo quy định của pháp luật;
Tổ chức, quản lý đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán theo quy định của pháp luật;
Ban hành, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các quy trình chuyên môn, nghiệp vụ được áp dụng tại Trung tâm theo quy định của pháp luật;
Chủ trì phối hợp với các đơn vị thuộc Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước báo cáo Chủ tịch Uỷ ban trình Bộ các kiến nghị, đề xuất giải pháp ổn định và phát triển các hoạt động giao dịch tại Trung tâm;
Thu các khoản phí và lệ phí theo quy định của pháp luật;
Phát hiện và kiến nghị xử lý các vi phạm hành chính về chứng khoán và thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật;
Làm trung gian hoà giải theo yêu cầu khi phát sinh tranh chấp liên quan đến chứng khoán đăng ký giao dịch tại Trung tâm;
Thực hiện chế độ báo cáo thống kê, kế toán, kiểm toán; quản lý, sử dụng viên chức thuộc Trung tâm theo quy định của pháp luật, hướng dẫn của Bộ Tài chính và Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước;
Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh v ực chứng khoán và thị trường chứng khoán theo quy định của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước;
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước giao.
1.2.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban củaTTGDCKHN:
Phòng hành chính tổng:
* Chức năng:
- Tham mưu cho Ban Giám độc trong việc chỉ đạo và thực hiện công tác tổ chức bộ máy quản lý cán bộ Trung tâm theo đúng các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; các quy định quy chung của Bộ, của Trung tâm đã ban hành.
- Tổ chức giao dịch hành chính, trao đổi thông tin giữa Ban Giám đốc với các cơ quan khác trong nước, CBCNV, trong trung tâm.
- Tham mưu cho Ban Giám đốc về các chủ trương, biện pháp, kế hoạch, tổ chức các hoạt động nhằm giáo dục toàn diện về công tác chính trị, tư tưởng trong Trung tâm
* Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu đề xuất xây dựng bộ máy tổ chức đội ngũ và tổ chức điều hành trong Trung tâm.
- Xây dựng và hướng dẫn thực hiện các nội quy, quy chế về định biên và quản lý biên chế.
- Lập và quản lý hồ sơ về lương, thủ tục đề nghị nâng bậc và điều chỉnh lương hàng năm.
- Chỉ đạo và thực hiện công tác bảo vệ chính trị, trật tự an ninh trong tung tâm.
- Tổ chức quản lý, lưu trữ hồ sơ lý lịch của CBCNV, bổ sung và nhận xét hàng năm.
Phong tài chính kế toán:
* Chức năng:
Tham mưu, tổng hợp, đề xuất ý kiến, giúp Hiệu trưởng tổ chức quản lý về công tác tài chính, kế toán và quản lý cán bộ, nhân viên thuộc phòng theo sự phân cấp của Hiệu trưởng. Trưởng phòng là người trực tiếp điều hành các công việc của phòng và chịu trách nhiệm trước Hiệu trưởng theo quy định của pháp luật.
* Nhiệm vụ:
- Xây dựng kế hoạch tài chính hàng năm của trung tâm;
- Quản lý các nguồn thu;
- Quản lý quỹ tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền gửi Kho bạc;
- Quản lý việc chi tiêu theo Luật Ngân sách nhà nước;
- Thanh toán các hóa đơn, chứng từ, phục vụ kịp thời cho các hoạt động của Trung tâm một cách có hiệu quả;
- Thanh toán tiền lương, tiền thưởng, các khoản phụ cấp cho cán bộ, giáo viên, nhân viên đúng chế độ;
- Cân đối nguồn vốn, tiết kiệm chi tiêu để đầu tư chiều sâu;
- Báo cáo kiểm toán, quyết toán hàng quý, năm trình Bộ;
- Theo dõi công tác đầu tư, công nợ, sửa chữa xây dựng;
- Chủ trì, phối hợp với Phòng Quản trị - Đời sống thực hiện việc quyết toán các hạng mục công trình;
- Tham gia khảo giá, đánh giá, đấu thầu, kiểm tra các hợp đồng ký kết với khách hàng, quản lý việc thực hiện các hợp đồng kinh tế;
- Quản lý tài sản cố định;
- Công khai tài chính hàng năm;
- Tham gia nghiệm thu các loại vật tư, thiết bị, công trình xây dựng, các hợp đồng kinh tế;
- Chủ trì công tác quản lý tài chính và kiểm kê hàng năm;
- Phối hợp với các đơn vị trong trung tâm giải quyết các công việc có liên quan và thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc phân công.
Phòng công nghệ tin học:
* Chức năng:
Tham mưu và giúp Giám đốc Sở thực hiện quản lý Nhà nước về công nghệ thông tin, điện tử.
- Nhằm tạo môi trường pháp lý, thể chế, chính sách, điều hành phối hợp, đào tạo, hợp tác quốc tế, thúc đẩy và hỗ trợ cho công nghệ thông tin, điện tử phát triển.
* Nhiệm vụ:
- Tham mưu xây dựng quy hoạch, kế hoạch ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin – điện tử trên địa bàn tỉnh phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của quốc gia, tỉnh và tổ chức triển khai thực hiện sau khi được phê duyệt theo sự phân công của Giám đốc.
- Tham gia xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin, điện tử trong trung tâm; chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt theo sự phân công của Giám đốc.
- Tham mưu Giám đốc, chính sách nhằm thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, điện tử phù hợp với đặc thù của thành phố và phù hợp với quy hoạch phát triển công nghệ thông tin, điện tử của Quốc gia.
- Theo dõi và hỗ trợ hoạt động của các hội ngành nghề liên quan đến công nghệ thông tin, điện tử.
- Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các hoạt động dịch vụ công về công nghệ thông tin trong trung tâm
- Tổ chức thẩm định và chịu trách nhiệm về nội dung thẩm định đối với các thiết kế kỷ thuật, dự toán, tổng dự toán các dự án về công nghệ thông tin trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật;
- Phối hợp với các cơ quan chức năng có thẩm quyền liên quan tổ chức kiểm tra giám sát, đánh giá nghiệm thu các hạng mục công trình liên quan đến công nghệ thông tin và các dự án mua sắm máy móc, thiết bị đối với các dự án thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin theo thẩm quyền quản lý được phân cấp;
- Tổ chức thực hiện các chương trình tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin – điện tử.
- Tổ chức, phối hợp với các đơn vị có liên quan (Trường, viện, cơ quan nghiên cứu ) nghiên cứu, thử nghiệm, ứng dụng các tiến bộ Khoa học công nghệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin - điện tử.
- Tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế, đầu mối tổ chức các hội nghị, hội thảo trong lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử trong và ngoài nước; tham gia chuẩn bị nội dung về công nghệ thông tin, điện tử để Ban Giám đốc tham dự các hội nghị trong nước và quốc tế.
- Thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên khác do Giám đốc phân công;
- Xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai các chương trình, dự án ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong cơ quan quản lý nhà nước (huyện, thị, sở, ngành).
- Nghiên cứu và ứng dụng về an toàn và bảo mật thông tin trong hệ thống hạ tầng cơ sở mạng truyền thông của trung tâm.
- Hợp tác nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ Khoa học công nghệ trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin.
- Hỗ trợ việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các ngành sinh học, hóa học, cơ khí, điện tử, …
- Tổ chức chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin qua các khóa đào tạo và qua các hợp đồng chuyển giao công nghệ nhằm hiện đại hóa quy trình quản lý và sản xuất của các doanh nghiệp, chịu trách nhiệm triển khai hoăïc hỗ trợ triển khai theo sự phân công của Giám đốc.
- Thực hiện nghiên cứu các chương trình và đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin.
Phòng thông tin thị trường:
-Tổ chức thu thập, phân tích, xử lý và cung cấp kịp thời thông tin về thị trường chứng khoán, theo yêu cầu của Giám đốc Trung tâm;
- Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các Phiên giao dịch chứng khoán của Sàn giao dịch chứng khoán;
- Tư vấn cho nhà đầu tư về các chính sách, quy định của Pháp luật về chứng khoán
- Phối hợp với các phòng thuộc Trung tâm thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Trung tâm giao
1.3. Các hoạt động chủ yếu của TTGDCKHN.
1.3.1. Tổ chức việc đấu giá chứng khoán
Thủ tục đấu giá
- Đối tượng và điều kiện Các tổ chức kinh tế, cá nhân Việt Nam và nước ngoài theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần (sau đây gọi chung là nhà đầu tư) có đủ điều kiện sau đây được tham dự đấu giá-
Có tư cách pháp nhân (đối với các tổ chức kinh tế); có địa chỉ cụ thể, rõ ràng; Nếu người đại diện pháp nhân thì phải có giấy ủy quyền; Nếu là cá nhân phải có chứng minh thư nhân dân, giấy tờ tùy thân hợp lệ và có đủ năng lực hành vi dân sự.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài: ngoài các quy định như đối với pháp nhân và cá nhân trong nước, phải mở tài khoản tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và tuân thủ pháp luật Việt Nam. Mọi hoạt động liên quan đến mua cổ phần đều ph ải thông qua tài khoản này.
Tổ chức tài chính trung gian thực hiện định giá hoặc đấu giá bán cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hoá không được tham gia đấu giá mua cổ phần của doanh nghi ệp đó Các tổ chức tài chính trung gian nhận uỷ thác đầu tư: Trường hợp các tổ chức tài chính trung gian nhận uỷ thác đầu tư của cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, tổ chức nhận uỷ thác đầu tư có trách nhiệm tách biệt rõ số lượng nhà đầu tư, số cổ phần của từng nhà đầu tư trong và ngoài nước đăng ký mua
- Tìm hiểu thông tin Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội sẽ công bố thông tin về đợt bán đấu giá cổ phần tối thiểu 20 ngày trước ngày tổ chức đấu giá trên 03 số báo liên tiếp của thời báo Kinh tế Việt Nam và báo địa phương nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính. Thông tin chi tiết v ề doanh nghiệp, Quy chế đấu giá và các thông tin liên quan được cung cấp tại trụ sở doanh nghiệp bán đấu giá, các địa điểm đại lý nhận đăng ký và các website: www.hastc.org.vn, www.ssc.gov.vn
- Thủ tục tham gia đấu giá
Đăng ký tham dự đấu giá Nhà đầu tư nhận đơn hoặc trực tiếp in mẫu đơn đăng ký tham gia đấu giá tại các địa điểm nhận đăng ký của đại lý đấu giá và địa chỉ website www.hastc.org.vn.
(1) Nộp tiền đặt cọc: Nhà đầu tư phải nộp tiền đặt cọc bằng 10% giá trị cổ phần đăng ký mua tính theo giá khởi điểm. Tiền đặt cọc nộp bằng đồng Việt Nam (bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản) vào tài khoản của Đại lý đấu giá. Tiền đặt cọc sẽ không được hưởng lãi.
(2) Nộp đơn đăng ký tham gia đấu giá: Nhà đầu tư điền đầy đủ thông tin vào đơn đăng ký tham gia đấu giá và nộp tại địa điểm làm thủ tục đăng ký kèm theo xuất trình: -
Đối với cá nhân trong nước:
(1) CMND hoặc hộ chiếu. Trường hợp nh ận uỷ quyền, phải có giấy uỷ quyền theo quy định của pháp luật
.(2) Giấy nộp tiền hoặc giấy chuyển tiền đặt cọc; -
Đối với tổ chức trong nước: Ngoài quy định như đối với cá nhân trong n ước còn nộp thêm Giấy chứng nh ận đăng ký kinh doanh hoặc giấy tờ khác tương đương, giấy uỷ quyền cho đại diện thay mặt tổ chức thực hiện thủ tục trừ trường h ợp người làm th ủ tục là đại diện theo pháp luật của tổ chức
Đối với cá nhân và tổ chức nước ngoài: Ngoài các quy định như đối với cá nhân và tổ chức trong n ước phải xuất trình giấy xác nhận mở tài khoản tại một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam
Lập và nộp phiếu tham dự đấu giá Sau khi hoàn tất thủ tục đăng ký, nhà đầu tư được cấp Phiếu tham dự đấu giá Nhà đầu tư phải xem xét kỹ các nội dung trong phiếu; điền đầy đủ, rõ ràng các thông tin theo quy định, kiểm tra lại cẩn thận trước khi bỏ phiếu tham dự đấu giá. Phiếu tham dự đấu giá hợp lệ là Phiếu:
(1) Do đại lý cấp; có đóng dấu treo của nơi cấp phiếu và đảm bảo: điền đầy đủ, rõ ràng các thông tin theo quy định;
(2) Không được tẩy xoá hoặc rách nát; giá đặt mua không thấp hơn giá khởi điểm;
(3) Tổng số cổ phần đặt mua bằng mức đăng ký.
(4) Không vi phạm các quy định về bước giá, bước khối lượng đặt mua được quy định trong Quy chế của từng đợt đấu giá
(5) Nộp phiếu đúng thời hạn quy định
(6) Phiếu tham dự đấu giá phải được bỏ trong phong bì có chữ ký của nhà đầu tư trên
1.3.2. Quản lý, điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán
Trung tâm giao dịch chứng khoán thực hiện hai phương thức giao dịch:
1.3.2.1.Phương thức giao dịch khớp lệnh liên tục:
1). Đơn vị yết giá
+ Đối với cổ phiếu:100 đồng.
+ Đối với trái phiếu: không quy định.
2). Đơn vị giao dịch: 100 cổ phiếu hoặc 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) tính theo mệnh giá trái phiếu.
3). Khối lượng giao dịch tối thiểu: không quy định
4). Loại lệnh giao dịch: lệnh giới hạn.
5). Nguyên tắc thực hiện lệnh giao dịch khớp lệnh liên tục
- Các lệnh có mức giá tốt nhất được ưu tiên thực hiện trước
- Nếu có nhiều lệnh cùng mức giá thì lệnh nào được nhập vào hệ thống trước sẽ được thực hiện trước.
-Nếu lệnh mua và lệnh bán cùng thoả mãn nhau về giá thì mức giá thực hiện sẽ là mức giá của lệnh được nhập vào hệ thống trước.
- Lệnh giao dịch có thể được thực hiện toàn bộ hoặc một phần theo bội số của đơn vị giao dịch.
6). Trình tự giao dịch khớp lệnh liên tục:
- Sau khi nhà đầu tư đặt lệnh (mua/bán) tại các công ty chứng khoán, đại diện giao dịch của công ty chứng khoán sẽ nhập các lệnh của khách hàng vào hệ thống giao dịch tại TTGDCK Hà Nội.
- Các lệnh đặt này được hiển thị trên màn hình của đại diện giao dịch và màn hình thông tin của công ty chứng khoán.
- Các lệnh nhập vào hệ thống sẽ được tự động khớp ngay với các lệnh đối ứng có mức giá thoả mãn tốt nhất đã chờ sẵn trong hệ thống. Tức là, nếu thoả mãn về giá thì các lệnh mua có mức giá cao nhất sẽ được khớp với các lệnh bán có mức giá thấp nhất. Mức giá thực hiện được xác định là mức giá của lệnh được nhập vào hệ thống trước.
- Nếu ở cùng một mức giá mà có nhiều lệnh mua/lệnh bán thì lệnh nào nhập vào hệ thống trước sẽ được thực hiện trước.
- Các lệnh có thể được thực hiện một phần hoặc toàn bộ (nếu các lệnh đối ứng đáp ứng được toàn bộ khối lượng). Các lệnh chưa được thực hiện hoặc mới thực hiện một phần sẽ được lưu lại trên hệ thống để chờ thực hiện với các lệnh mới.
- Kết quả giao dịch sẽ được hiển thị trực tuyến trên màn hình thông tin của các công ty chứng khoán.
Kết thúc phiên giao dịch, TTGDCK Hà Nội sẽ xác nhận kết quả giao dịch với công ty chứng khoán thành viên và công ty chứng khoán thành viên thông báo cho khách hàng.
7). Sửa lệnh giao dịch khớp lệnh liên tục
- Trong phiên giao dịch, các lệnh đã nhập vào hệ thống không được phép sửa, trừ trường hợp sửa giá và trường hợp đại diện giao dịch (sau đây viết tắt là ĐDGD) nhập sai so với lệnh gốc của khách hàng.
- Trường hợp sửa giá theo yêu cầu của khách hàng, ĐDGD được tiến hành sửa lệnh ngay trên hệ thống.
- Trường hợp nhập sai lệnh của khách hàng so với lệnh gốc, ĐDGD được phép sửa lệnh theo trình tự trong quy trình Sửa lệnh giao dịch khớp lệnh liên tục. Trường hợp này sẽ tính vào lỗi của ĐDGD.
- Việc sửa lệnh giao dịch khớp lệnh liên tục chỉ được thực hiện đối với các lệnh chưa được khớp hoặc phần chưa được khớp của lệnh.
8). Hủy lệnh giao dịch khớp lệnh liên tục
Trong phiên giao dịch, ĐDGD được thực hiện huỷ lệnh theo yêu cầu của khách hàng đối với các lệnh chưa được khớp hoặc phần chưa được khớp của lệnh.
9). Hình thức thanh toán: Tất cả các giao dịch khớp lệnh liên tục (gồm cả giao dịch cổ phiếu và giao dịch trái phiếu) được thanh toán theo hình thức thanh toán đa phương (T+3).
1.3.2.2.Phương thức giao dịch thỏa thuận:
1). Đơn vị yết giá: không quy định.
2). Đơn vị giao dịch: không quy định
3). Khối lượng giao dịch tối thiểu
- Đối với cổ phiếu: 5.000 cổ phần.
- Đối với trái phiếu: 100.000.000 đồng (100 triệu đồng) tính theo mệnh giá.
4).Trình tự giao dịch thoả thuận
+ Trường hợp đã xác định được đối tác giao dịch:
Nếu nhà đầu tư đã tìm được đối tác giao dịch và đã hoàn tất thoả thuận giao dịch thì thông báo cho công ty chứng khoán về thoả thuận này, công ty chứng khoán sẽ thực hiện nhập lệnh giao dịch vào hệ thống của Trung tâm GDCK Hà Nội.
+ Trường hợp chưa xác định được đối tác giao dịch:
* Khi có nhu cầu giao dịch, nh._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21584.doc