Mục lục
Trang
Lời mở đầu
3
Chương I: Lý luận chung về phân tích tài chính doanh nghiệp
5
I.
Khái niệm tài chính doanh nghiệp
5
1.
Khái niệm doanh nghiệp
5
2.
Khái niệm tài chính
5
3.
Khái niệm tài chính doanh nghiệp
7
II.
Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp
12
1.
Khái niệm
12
2.
Tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp
12
3.
Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
16
4.
Trình tự phân tích tài chính doanh nghiệp
88 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1179 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
18
5.
Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
19
6.
Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
21
7.
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tài chính
36
Chương II: Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty Vật tư Kỹ thuật xi măng
38
I.
Giới thiệu chung về Công ty Vật tư Kỹ thuật xi măng
38
1.
Quá trình hình thành và phát triển, chức năng, nhiệm vụ của Công ty
38
2.
Cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý của Công ty VTKTXM
40
3.
Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty
43
4.
Kết quả hoạt động kinh doanh những năm qua
46
II.
Thực trạng công tác kế toán và lập báo cáo tài chính tại Công ty
50
III.
Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty VTKTXM
52
1.
Tổ chức phân tích tài chính
52
2.
Thông tin và công nghệ phân tích
52
3.
Phương pháp phân tích
57
4.
Nội dung phân tích
58
5.
Dự báo và lập kế hoạch tài chính
66
6.
Đánh giá chung về công tác phân tích tài chính tại công ty VTKTXM
67
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty VTKTXM
69
I.
Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty
69
1.
Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt một quy trình phân tích tài chính tại công ty
69
2.
Nâng cao chất lượng nhân sự cho công tác phân tích tài chính
72
3.
Sử dụng đầy đủ, chính xác thông tin
74
4.
Sử dụng đúng, và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu, bảng biểu, sơ đồ phân tích kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp phân tích
76
II.
Kiến nghị
79
1.
Kiến nghị với công ty
79
2.
Kiến nghị với cơ quan quản lý cấp trên
81
3.
Kiến nghị với nhà nước
82
Kết luận
85
Tài liệu tham khảo
86
Lời mở đầu
Trong giai đoạn kinh tế hiện nay và thời gian tới, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh về vốn, nhân sự, công nghệ mới mong tồn tại và phát triển. Điều này đòi hỏi họ phải nghiên cứu, đánh giá và phân tích hoạt động sản xuất, kinh doanh nói chung và phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp nói riêng thông qua một hệ thống các chỉ tiêu phù hợp với quy chế quản lý tài chính hiện hành. Phân tích tài chính được thực hiện sẽ cung cấp thông tin một cách toàn diện, kịp thời về tình hình tài chính của doanh nghiệp: tình hình huy động vốn và sử dụng vốn, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời…cho các nhà quản lý doanh nghiệp, giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp đánh giá, kiểm soát đều đặn hiệu quả hoạt động kinh doanh quá khứ đồng thời dự báo các chỉ tiêu, rủi ro tài chính trong tương lai và ra các quyết định quản lý. Đối với các nhà đầu tư, nhà cho vay và các đối tượng quan tâm khác, phân tích tài chính cũng quan trọng trong việc họ thực hiện các quyết định của mình.
Một thực tế hiện nay ở Việt Nam đó là trong khi phân tích tài chính, một trong những hoạt động chủ yếu của quản lý tài chính doanh nghiệp đang ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết thì nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa đổi mới tư duy, chưa coi trọng công tác phân tích tài chính doanh nghiệp, do đó hiệu quả công tác này chưa cao. Thực tế đó cần được khắc phục. Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng cũng không phải là ngoại lệ. Phân tích tài chính ở Công ty mới chỉ mang tính chất báo cáo tổng kết, đánh giá sau 6 tháng đầu năm, cả năm và 5 năm nên đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng các quyết định tài chính và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của Công ty.
Qua thời gian học tập ở trường Đại học Kinh tế Quốc dân và thực tập tại công ty Vật tư kỹ thuật xi măng tôi nhận thấy phân tích tài chính có ý nghĩa không chỉ về lý luận mà cả trong thực tiễn quản lý tài chính doanh nghiệp. Với Công ty, nó có ý nghĩa trong việc quyết định huy động vốn, bán hàng (đặc biệt là chính sách mua bán chịu), đầu tư…
Vì thế, dù đề tài hoàn thiện công tác phân tích tài chính không mới mẻ nhưng tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình với mong muốn công tác này được công ty tiến hành thường xuyên liên tục và ngày một hiệu quả hơn để góp phần nâng cao hiệu quả các công tác khác của công ty.
Kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về phân tích tài chính doanh nghiệp.
Đây là phần tìm hiểu chung về doanh nghiệp, phân tích, phân tích tài chính và tầm quan trọng của phân tích tài chính.
Chương II: Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty vật tư kỹ thuật xi măng.
Nội dung của chương nhằm giới thiệu về công ty, xem xét thực trạng công tác kế toán và lập báo cáo tài chính có ảnh hưởng đến công tác phân tích tài chính, nghiên cứu thực trạng công tác phân tích tài chính tại công ty, đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế để có cơ sở khắc phục.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty vật tư kỹ thuật xi măng.
Đây là phần kết của luận văn, trong đó nêu lên các giải pháp và các kiến nghị nhằm nâng cao công tác phân tích tài chính tại công ty.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp bậc cử nhân, phần giải pháp ở đây chỉ được đề cập ở mức độ khái quát, định tính.
Chương I: Lý luận chung về phân tích
tài chính doanh nghiệp
I. Khái niệm Tài chính doanh nghiệp.
1. Khái niệm doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. (khoản 1 Điều 3 Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999, có hiệu lực từ 1/1/2000).
Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình doanh nghiệp rất đa dạng: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH (trong đó có công ty TNHH 1 thành viên), công ty hợp danh, hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (gồm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh),…
Người ta cũng có thể phân chia: doanh nghiệp mẹ và doanh nghiệp con, tập đoàn kinh doanh hoặc công ty mẹ và công ty con, tổng công ty và công ty thành viên hạch toán độc lập, công ty thành viên hạch toán phụ thuộc.
Hoặc có thể chia theo cách khác: doanh nghiệp nhà nước và các loại hình doanh nghiệp tư nhân (từ “tư nhân” ở đây khác với “tư nhân” nói trên, “tư nhân’ ở đây nghĩa là “không phải nhà nước”, còn “doanh nghiệp tư nhân” nói trên là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ, tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp ).
Tuỳ theo từng nước mà khái niệm từng loại doanh nghiệp có sự khác nhau.
2. Khái niệm về Tài chính.
2.1. Nguồn gốc tài chính
Tài chính là một phạm trù kinh tế mang tính lịch sử. Sự ra đời và tồn tại của tài chính gắn liền với tiền tệ và vai trò của nhà nước. Sản xuất và sự trao đổi hàng hoá đã dẫn đến sự ra đời của tiền tệ. Hình thức tiền tệ cũng thay đổi qua các thời kì: vỏ sò, hạt coca, xương, da, lông thú, kim loại, bạc, vàng, tiền giấy…Tài chính manh nha xuất hiện từ các quan hệ cho vay nặng lãi. Nhà nước ra đời thúc đẩy mạnh mẽ việc sử dụng tiền tệ trong lưu thông hàng hoá vì nhà nước cần chi tiêu duy trì bộ máy và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Nhà nước nắm quyền phát hành tiền, quy định hiệu lực của tiền tệ trong lưu thông ở phạm vi quốc gia, tập trung một bộ phận của cải của xã hội cho mình, tham gia phân phối của cải với tư cách chủ thể của quyền lực chính trị. Tiền tệ trở thành đối tượng chủ yếu trong quan hệ phân phối và giao dịch dân sự. Đồng thời với việc sử dụng rộng rãi tiền tệ trong quan hệ phân phối của cải cũng như trong các giao dịch dân sự thì các quỹ tiền tệ cũng được hình thành. Các quỹ tiền tệ là nội dung vật chất của tài chính. Vậy là tài chính gắn liền với tiền tệ nhưng không đồng nhất với tiền tệ, nội dung vật chất của tài chính là các quỹ tiền tệ mà không phải tiền tệ với tư cách đơn lẻ, tiền tệ với tư cách là các bộ phận hợp thành các quỹ tiền tệ gắn với các quan hệ phận phối của cải mới được coi là nội dung vật chất của tài chính (tài chính không đồng nhất là các quỹ tiền tệ). Khác với tiền tệ có các chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán, tiền tệ quốc tế, tài chính gồm có chức năng phân phối và chức năng giám đốc.
2.2. Chức năng tài chính
2.2.1 Chức năng phân phối
Đây là phương diện, mặt hoạt động chủ yếu của tài chính trong phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Chức năng phân phối thể hiện bản chất của tài chính trong đời sống KT-XH. Nhờ có chức năng này của tài chính mà của cải của xã hội được phân phối dưới hình thức giá trị. Khi tài chính thực hiện chức năng phân phối, của cải xã hội dưới hình thức giá trị là đối tượng phân phối. Dưới tác động của các quan hệ phân phối, các đại lượng tiền tệ vận động trong quá trình tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội. Sự vận động của tiền tệ hoàn toàn không phải là sự vận động cơ học mà là sự vận động mang tính xã hội. Sự vận động của tiền tệ tạo ra bởi các quan hệ phân phối giữa các chủ thể thông qua việc chuyển giao các đại lượng tiền tệ thể hiện về mặt vật chất của các nguồn tài chính (tài lực). Có thể nói, sự tồn tại của chức năng phân phối của tài chính là hoàn toàn khách quan, chức năng này tồn tại như là khả năng tiềm ẩn của tài chính còn việc sử dụng nó mang tính chất chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ phân phối của cải dưới hình thức giá trị.
2.2.2. Chức năng giám đốc
Đây là mặt hoạt động chủ yếu của tài chính trong quá trình kiểm tra quá trình vận động của các nguồn tài chính để tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ. Cũng như chức năng phân phối, chức năng giám đốc của tài chính cũng mang tính khách quan, nhờ vào khả năng này mà các chủ thể tham gia quá trình phân phối của cải dưới hình thức giá trị thực hiện sự kiểm tra sự vận động của các nguồn tài chính. Quá trình thực hiện chức năng phân phối, sự kiểm tra có thể diễn ra dưới dạng: xem xét tính cần thiết, quy mô của việc phân phối các nguồn tài chính, hiệu quả của việc phân phối qua các quỹ tiền tệ.
Giám đốc tài chính mang tính chất tổng hợp toàn diện, tự thân và diễn ra thường xuyên vì giám đốc tài chính là quá trình kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính nhằm phát hiện những ưu điểm để phát huy, tồn tại để khắc phục.
Hoạt động tài chính diễn ra trên mọi lĩnh vực của quá trình tái sản xuất xã hội trên tầm vĩ mô và vi mô. Trong các hoạt động đó tài chính không chỉ phản ánh kết quả sản xuất mà còn thúc đẩy phát triển. Động lực để thúc đẩy nhanh nền sản xuất xã hội không chỉ phụ thuộc vào sự phân phối cân bằng, hợp lý và cân đối giữa các bộ phận mà còn trực tiếp phụ thuộc vào sự kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt mọi hoạt động tài chính.
Tóm lại, dựa vào bản chất của tài chính cho phép định nghĩa tài chính như sau:
Tài chính là các quan hệ phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm thoả mãn các nhu cầu của các chủ thể thực hiện hoạt động phân phối.
2.3. Hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường (sơ đồ):
Ngân sách nhànước
Tài chính doanh nghiệp
Các chính sách tài chính
T/c tài chính trung gian
Tài chính hộ gia đình
Tài chính đối ngoại
3. Khái niệm tài chính doanh nghiệp.
3.1. Khái niệm:
Tài chính doanh nghiệp được thể hiện bằng các quan hệ tài chính phát sinh trong hoạt động của doanh nghiệp nhằm tạo lập, sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp, là một bộ phận cấu thành trong các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Nó có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại với các hoạt động kinh tế khác. Mối quan hệ tác động qua lại này phản ánh và thể hiện sự tác động gắn bó thường xuyên giữa phân phối sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Phân phối vừa phản ánh kết quả của sản xuất và trao đổi, lại vừa là điều kiện cho sản xuất và trao đổi có thể tiến hành bình thường và liên tục.
Tài chính doanh nghiệp là tài chính của các tổ chức sản xuất kinh doanh có và không có tư cách pháp nhân và là một khâu tài chính cơ sở trong hệ thống tài chính. Vì tại đây diễn ra quá trình tạo lập và chu chuyển vốn gắn liền với qua trình sản xuất, đầu tư, tiêu thụ và phân phối.
Tài chính doanh nghiệp - thoạt nhìn chúng ta lại hiểu là tiền tệ, như một doanh nghiệp sẽ phải trích một khoản tiền lương để trả cho cán bộ công nhân viên. Khi tiền lương tham gia phân phối giữa các loại lao động có trình độ nghề nghiệp khác nhau và điều kiện làm việc khác nhau. Tài chính tham gia phân phối sản phẩm quốc dân cho người lao động thông qua quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền lương và các quỹ phúc lợi công cộng khác. Do vậy giữa tài chính doanh nghiệp và tiền của doanh nghiệp là hai phạm trù kinh tế khác nhau. Tiền chỉ là phương tiện cho hoạt động tài chính nói chung và hoạt động tài chính doanh nghiệp nói riêng. Thông qua phương tiện này, các doanh nghiệp có thể thực hiện nhiều hoạt động khác nhau trong mọi lĩnh vực, nếu như chúng ta chỉ nhìn bề ngoài thì chỉ thấy các hoạt động đó hoạt động tách riêng nhau, nhưng thật ra lại gắn bó với nhau trong sự vận động và chu chuyển vốn, chúng được tính toán và so sánh với nhau bằng tiền. Toàn bộ các quan hệ kinh tế được biểu hiện bằng tiền phát sinh trong doanh nghiệp thể hiện nội dung của tài chính doanh nghiệp. Nó bao gồm các quan hệ tài chính sau:
+ Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp.
Xuất phát từ mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như những mối quan hệ về phân phối và phân phối lại dưới hình thức giá trị của cải vật chất sử dụng và sáng tạo ra ở các doanh nghiệp.
Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: đó là những quan hệ về phân phối, điều hoà cơ cấu thành phần vốn kinh doanh, chuyển hoá các nguồn tài chính hướng tới việc hình thành các quỹ và ngược lại, phân phối thu nhập giữa các thành viên trong nội bộ doanh nghiệp; các quan hệ về thanh toán hợp đồng lao động giữa chủ doanh nghiệp và công nhân viên chức.
Các mối quan hệ này đều thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ ở doanh nghiệp như: vốn cố định, vốn lưu động, quỹ tiền lương, quỹ khấu hao, quỹ dự trữ tài chính... nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với ngân sách nhà nước.
Thể hiện trong việc các doanh nghiệp nộp thuế cho chính phủ và sự tài trợ của chính phủ trong một số trường hợp cần thiết để thực hiện vai trò can thiệp vào kinh tế của mình.
ở nước ta do còn thành phần kinh tế quốc doanh nên sự tài trợ của nhà nước được thể hiện rõ bằng việc bảo đảm một phần vốn pháp định cho các doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả và nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế đất nước sẽ được nhà nước chú trọng đầu tư vốn nhằm giúp doanh nghiệp phát triển tốt hơn. Cũng trong quá trình hoạt động kinh doanh này, các doanh nghiệp nhà nước phải nộp các khoản thuế, phí, lệ phí như các doanh nghiệp khác và còn phải nộp thuế sử dụng vốn cho ngân sách nhà nước. Khoản thu này chiếm tỉ trọng lớn trong thu ngân sách giúp nhà nước có nguồn để phục vụ cho quốc kế dân sinh nói chung và tạo hành lang pháp lý để bảo vệ nền kinh tế cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế và hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hoặc không hoạt động ở những then chốt, nhà nước sẽ cho cổ phần hoá. Nghĩa là toàn bộ số vốn của doanh nghiệp theo dạng này sẽ bao gồm : Cổ phần của nhà nước, cổ phần của doanh nghiệp và cổ phần của ngân hàng. Nếu doanh nghiệp bán cổ phần của mình cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp thì lúc đó sẽ có các cổ phần của cán bộ công nhân viên. ở một chừng mực nào đó, khi thị trường chứng khoán Việt Nam vận hành thì cổ phần đó sẽ được mua đi bán lại trên thị trường và nảy sinh ra cổ phần xã hội. Trong điều kiện đó mối quan hệ giữa ngân sách nhà nước với doanh nghiệp cũng có sự thay đổi đáng kể. Nhà nước còn tham gia vào nền kinh tế với tư cách là một cổ đông.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức tài chính trung gian.
Hiện nay các tổ chức tài chính trung gian ở nước ta mới chỉ hiện rõ nét bằng hoạt động của các ngân hàng thương mại và của công ty bảo hiểm. Nhưng để có một nền kinh tế thị trường phát triển tất yếu phải có sự thiết lập các hình thức phong phú, đa dạng trong lĩnh vực môi giới về vốn. Nhằm biến những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở các hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức khác thành những nguồn vốn dành để đầu tư cho kinh tế.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với nhau và với hộ gia đình.
Mối quan hệ này phát sinh trong quá trình cung ứng, thanh toán các sản phẩm và dịch vụ đầu vào và đầu ra, trong việc góp vốn liên doanh, vốn cổ phần và chia lợi nhuận do vốn liên doanh cổ phần mang lại.
Cùng với sự phát triển của các yếu tố cấu thành trong nền kinh tế thị trường, các mối quan hệ về kinh tế giữa các doanh nghiệp có xu thế ngày càng tăng lên. Các hoạt động đó đan xen vào nhau và tự điều chỉnh theo các quan hệ cung cầu về vốn tiền tệ và khả năng thu hút lợi nhuận.
- Quan hệ giữa các doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế nước ngoài phát sinh trong quá trình vay, cho vay, trả nợ và đầu tư với giữa doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế trên thế giới. Nền kinh tế thị trường gắn liền với chính sách mở cửa, các hoạt động giữa các doanh nghiệp trong nước và các tổ chức kinh tế nước ngoài ngày càng có xu thế hoà nhập lẫn nhau, hợp tác với nhau để phát huy hết khả năng và thế mạnh của mình trong việc khai thác các nguồn vốn đưa vào sản xuất kinh doanh để có chi phí ít nhất với hiệu quả kinh tế cao nhất.
Tóm lại ta có thể rút ra kết luận về tài chính doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp để phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các nhu cầu chung của xã hội.
Hay, tài chính doanh nghiệp là những mối quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh.
Hoặc tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động và chuyển hoá các nguồn tài chính trong quá trình phân phối để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đạt tới những mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong khuôn khổ cho phép của pháp luật.
3.2. Chức năng của tài chính doanh nghiệp.
3.2.1. Chức năng huy động và bố trí nguồn vốn.
Một doanh nghiệp có thể hoạt động sản xuất kinh doanh được thì cần phải có vốn và quyền sử dụng nguồn vốn bằng tiền của mình một cách chủ động. Tuy nhiên cũng cần phảI làm rõ một vấn đề là: Các nguồn vốn được lấy ở đâu ? Làm thế nào để có thể huy động được vốn ?
Trước đây trong cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung ngân sách nhà nước cấp toàn bộ vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho việc thiết lập các xí nghiệp quốc doanh. Hiện nay khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự hoạt động của các doanh nghiệp trong mọi thành phần kinh tế khác nhau, nhiều xí nghiệp quốc doanh đã tỏ ra sự yếu kém của mình. Thực trạng đó đặt ra cho các nhà quản lý kinh tế nói chung và các nhà quản lý tài chính nói riêng một vấn đề là: làm thế nào để đưa các xí nghiệp làm ăn thua lỗ đó thoát khỏi tình trạng hiện nay ? Chính sự bất ổn định này đã tạo ra một sự chưa được nhất quán trong việc định hình các nguồn vốn cho các doanh nghiệp ở nước ta.
Tuy nhiên, dù thay đổi cụ thể như thế nào chăng nữa thì mọi doanh nghiệp với mọi hình thức sở hữu trong các lĩnh vực sản xuất, lưu thông, dịch vụ đều có thể huy động được vốn từ các nguồn sau:
- Vốn do ngân sách nhà nước cấp hoặc cấp trên cấp đối với doanh nghiệp nhà nước được xác định trên cơ sở biên bản giao nhận vốn mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển số vốn giao đó. Khi mới thành lập nhà nước hoặc cấp trên cấp vốn đầu tư ban đầu để công ty thực hiện sản xuất kinh doanh phù hợp với quy mô và ngành nghề. Số vốn này thường bằng hoặc lớn hơn số vốn pháp định. Sau quá trình hoạt động nếu thấy cần thiết, nhà nước sẽ cấp bổ sung vốn cho doanh nghiệp để phục vụ cho việc phát triển sản xuất kinh doanh.
- Vốn tự bổ sung: là vốn nội bộ của doanh nghiệp bao gồm:
+ Phần vốn khấu hao cơ bản để lại doanh nghiệp
+ Phần lợi nhuận sau khi đã nộp thuế
+ Phần tiền nhượng bán tài sản (nếu có)
- Vốn liên doanh liên kết : đó là sự góp tiền hoặc góp tài sản của các doanh nghiệp khác để cùng với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh .
- Vốn vay: chủ yếu là vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Ngoài các loại vốn nói trên, các doanh nghiệp còn có thể huy động vốn của cán bộ công nhân viên và doanh nghiệp sẽ trả lãi cho số vốn vay đó theo lãi suất ngân hàng.
Qua đó ta hình dung ra được, quá trình thành lập doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn đầu tư tối thiểu. Đối với doanh nghiệp nhà nước số vốn này do ngân sách nhà nước cấp có thể là 100% hoặc tối thiểu là 51%. Còn đối với các Công ty cổ phần, Công ty TNHH thì số vốn đầu tư ban đầu được hình thành từ việc đóng góp vốn hoặc hùn vốn của các cổ đông dưới hình thức cổ phần. Mức vay vốn được quy định theo từng doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp còn có vốn nợ mà không do đi vay, đó là các khoản phải trả người bán nhưng chưa đến kì hạn trả hoặc được gia hạn trả, các khoản phải nộp ngân sách, phải trả công nhân viên, phải trả phải nộp khác…
Để tồn tại và phát triển kinh doanh, trong quá trình sản xuất kinh doanh doanh nghiệp vẫn phải tiếp tục đầu tư trung và dài hạn vì vậy doanh nghiệp có thể huy động vốn bên trong doanh nghiệp như vốn tự tài trợ. Nếu như nguồn tự tài trợ mà nhu cầu đầu tư dài hạn vẫn không đáp ứng được thì doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài như các hình thức đã nêu ở trên.
Với chức năng bố trí vốn, tài chính doanh nghiệp không đơn thuần chỉ thực hiện việc huy động vốn mà còn phải tiến hành bố trí vốn sao cho với số vốn pháp định, vốn tự có và các nguồn vốn huy động, doanh nghiệp có thể sử dụng chúng một cách có hiệu quả. Muốn vậy, trong từng thời kỳ kinh doanh doanh nghiệp phải xác định được nhu cầu về vốn là bao nhiêu và kết cấu như thế nào là hợp lý.
3.2.2 Chức năng phân phối.
Sau khi huy động vốn và đã sử dụng nguồn vốn đó sẽ thu được kết quả là việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp tiến hành phân phối kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
ở nước ta, do tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, hình thức sở hữu khác nhau, cho nên quy mô và phương thức phân phối ở các loại hình doanh nghiệp cũng khác nhau. Sau mỗi kỳ kinh doanh, số tiền mà doanh nghiệp thu được bao gồm cả giá vốn và chi phí phát sinh. Do vậy các doanh nghiệp có thể phân phối theo dạng chung như sau:
Bù đắp chi phí phân bổ cho hàng hoá đã tiêu thụ bao gồm:
+ Trị giá vốn hàng hoá.
+ Chi phí lưu thông và các chi phí khác mà doanh nghiệp đã đã bỏ ra như lãi vay ngân hàng, chi phí giao dịch, lợi tức trái phiếu.
+ Khấu hao máy móc.
- Phần còn lại sau khi bù đắp các chi phí được gọi là lợi nhuận của doanh nghiệp. Phần lợi nhuận này, một phần phải nộp cho ngân sách nhà nước dưới hình thức thuế, phần còn lại tuỳ thuộc vào quy định của từng doanh nghiệp mà tiến hành chia lãi liên doanh, trả lợi tức cổ phần, trích lập các quỹ doanh nghiệp.
3.2.3 Chức năng giám đốc.
Nội dung giám đốc tài chính doanh nghiệp là giám đốc sự vận động và chu chuyển của nguồn vốn tiền tệ với hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp , giám đốc việc lập và chấp hành các chỉ tiêu kế hoạch, các định mức kinh tế tài chính, giám đốc quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ, quá trình hạch toán kinh tế và giám đốc việc chấp hành các chính sách về tài chính.
Thực hiện quản lý tài chính đã khẳng định, để thực hiện triệt để và có hiệu quả việc giám đốc tài chính cần phải thường xuyên đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính phù hợp với cơ chế chính sách quản lý kinh tế và thực tiễn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Thông qua đó giúp cho việc thực hiện các giải pháp tối ưu nhằm làm lành mạnh tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
II. Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp.
1. Khái niệm.
Trước hết ta tìm hiểu xem phân tích như thế nào ?
Phân tích trong lĩnh vực tự nhiên được hiểu là sự chia nhỏ sự vật hiện tượng trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành của sự vật hiện tượng đó như phân tích các chất hoá học bằng những phản ứng, phân tích các vi sinh vật bằng kính hiển vi. Còn trong lĩnh vực kinh tế xã hội, các hiện tượng cần phân tích chỉ tồn tại bằng những khái niệm trừu tượng.
Phân tích tài chính cũng thuộc về lĩnh vực kinh tế xã hội. Vậy thế nào là phân tích tài chính của doanh nghiệp ?
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp cho người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp.
2.Tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp.
Như chúng ta đã biết mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp đều nằm trong thể tác động liên hoàn với nhau. Bởi vậy, chỉ có thể phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp mới đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh tế trong trạng thái thực của chúng. Trên cơ sở đó, nêu lên một cách tổng hợp về trình độ hoàn thành các mục tiêu- biểu hiện bằng hệ thống chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật tài chính của doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp đều có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của mình như các nhà đầu tư, nhà cho vay, nhà cung cấp...Mỗi đối tượng này quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên những góc độ khác nhau. Song nhìn chung, họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức lợi nhuận tối đa. Phân tích tài chính cho biết điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp để cho các bên quan tâm đưa ra các quyết định phù hợp, đúng đắn.
2.1 Đối với người quản lý doanh nghiệp
Để tiến hành sản xuất, kinh doanh, nhà doanh nghiệp phải giải quyết được ba vấn đề quan trọng sau:
Thứ nhất: Doanh nghiệp nên đầu tư vào đâu cho phù hợp với loại hình sản xuất, kinh doanh lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp.
Thứ hai: nguồn vốn tài trợ là nguồn nào?
Để đầu tư vào các tài sản, doanh nghiệp phải có các nguồn tài trợ, nghĩa là phải có tiền để đầu tư. Các nguồn tài trợ của doanh nghiệp được phản ánh bên phải của Bảng cân đối kế toán. Một doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hoặc vay nợ dài hạn, ngắn hạn. Nợ ngắn hạn có thời gian hoàn trả dưới một năm, còn nợ dài hạn có thời hạn trên một năm. Vốn chủ sở hữu là khoản chênh lệch giữa giá trị tổng tài sản và nợ của doanh nghiệp.Vấn đề đặt ra ở đây là doanh nghiệp sẽ huy động nguồn tài trợ với cơ cấu như thế nào cho phù hợp và mang lại lợi nhuận cao nhất? Liệu doanh nghiệp có nên sử dụng toàn bộ vốn chủ sở hữu để đầu tư cho tài sản đó hay đi vay, đi thuê, tận dụng các khoản phải trả? Điều này liên quan đến vấn để cơ cấu vốn và chi phí vốn của doanh nghiệp.
Thứ ba: Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như thế nào?
Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ tới quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính ngắn hạn liên quan đến dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ. Nhà quản lý tài chính cần quan tâm đến sự lệch pha giữa các dòng tiền.
Ba vấn đề trên không phải là tất cả các khía cạnh của tài chính doanh nghiệp, nhưng đó là các vấn đề quan trọng nhất. Phân tích tài chính là cơ sở để đề ra cách thức giải quyết ba vấn đề đó.
Nhà quản lý tài chính phải chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính và dựa trên cơ sở các nghiệp vụ tài chính thường ngày để đưa ra các quyết định vì lợi ích của doanh nghiệp. Các quyết định và hoạt động của các nhà quản lý tài chính đều nhằm vào các mục tiêu tài chính của doanh nghiệp : đó là sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, tránh được sự căng thẳng về tài chính và phá sản, có khả năng cạnh tranh và chiếm được thị phần tối ưu trên thị trường, tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận và tăng trưởng thu nhập một cách vững chắc. Doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động tốt và mang lại sự giàu có cho chủ sở hữu khi các quyết định của nhà quản lý đưa ra là đúng đắn. Muốn vậy, họ phải thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp. Công việc này được gọi là phân tích tài chính nội bộ. Do có đầy đủ các thông tin và hiểu rõ về doanh nghiệp, các nhà phân tích tài chính trong doanh nghiệp là những người có lợi thế để phân tích tài chính một cách tốt nhất.
Trên cơ sở phân tích tài chính mà nội dung chủ yếu là phân tích khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi, nhà quản lý tài chính có thể dự đoán được kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Từ đó họ có thể định hướng cho Giám đốc, Giám đốc tài chính cũng như Hội đồng quản trị (tuỳ từng loại hình doanh nghiệp ) trong các quyết định đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức cổ phần và lập kế hoạch dự báo tài chính. Cuối cùng phân tích tài chính còn là công cụ để kiểm soát các hoạt động quản lý.
2.2 Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp
Các cổ đông là những người đã bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp và họ có thể phải gánh chịu rủi ro. Những rủi ro này liên quan đến việc giảm giá cổ phiếu trên thị trường, đến nguy cơ phá sản của doanh nghiệp. Chính vì vậy, quyết định của họ đưa ra luôn có sự cân nhắc giữa mức độ rủi ro và doanh lợi đạt được.
Đối với các cổ đông, sự quan tâm hàng đầu là khả năng tăng trưởng, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị của chủ sở hữu. Do đó, họ quan tâm trước hết đến lĩnh vực đầu tư và nguồn tài trợ. Trên cơ sở phân tích các thông tin về tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh hằng năm, các nhà đầu tư sẽ đánh giá được khả năng sinh lời và triển vọng phát triển của doanh nghiệp, từ đó có quyết định phù hợp. Các nhà đầu tư chỉ chấp thuận đầu tư vào một dự án nếu giá trị hiện tại ròng của nó dương. Khi đó, lượng tiền mà dự án mang lại lớn hơn lượng t._.iền cần thiết để trả nợ và cung cấp một mức lãi suất yêu cầu cho nhà đầu tư. Số tiền vượt quá đó mang lại sự giàu có cho những người sở hữu doanh nghiệp.
Chính sách phân phối cổ tức và cơ cấu nguồn tài trợ của doanh nghiệp cũng là một vấn đề được các nhà đầu tư hết sức coi trọng vì nó trực tiếp tác động đến thu nhập của họ. Ta biết rằng thu nhập của các cổ đông bao gồm phần cổ tức được chia hằng năm và phần tăng giá trị của cổ phiếu trên thị trường. Một nguồn tài trợ với tỷ trọng nợ và vốn chủ sở hữu hợp lý sẽ tạo đòn bẩy tài chính tích cực vừa giúp doanh nghiệp tăng vốn đầu tư vừa làm tăng giá cổ phiếu và thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS). Hơn nữa, các cổ đông chỉ chấp nhận đầu tư mở rộng quy mô doanh nghiệp khi quyền lợi của họ ít nhất không bị ảnh hưởng. Bởi vậy, các yếu tố như tổng lợi nhuận ròng trong kì có thể dùng để trả lợi tức cổ phần, mức chia lãi trên một cổ phiếu năm trước, sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp cũng như hiệu quả của việc tái đầu tư luôn được nhà đầu tư xem xét trước tiên khi thực hiện phân tích tài chính.
2.3 Đối với các chủ nợ của doanh nghiệp
Nếu phân tích tài chính được các nhà đầu tư và quản lý doanh nghiệp thực hiện nhằm đánh giá khả năng sinh lời và tăng trưởng của doanh nghiệp thì phân tích tài chính lại được ngân hàng và các nhà cung cấp tín dụng thương mại cho doanh nghiệp sử dụng nhằm đảm bảo về khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
Trong nội dung phân tích này, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được xem xét trên 2 khía cạnh ngắn hạn và dài hạn. nếu những khoản cho vay ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp, nghĩa là khả năng ứng phó của doanh nghiệp đối với các món nợ ngắn hạn khi đến hạn trả. Nếu là những khoản cho vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc về khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc hoàn vốn và trả lãi sẽ phụ thuộc vào khả năng sinh lời này.
2.4 Đối với người hưởng lương trong doanh nghiệp
Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà quản lý và các chủ nợ doanh nghiệp, người hưởng lương cũng rất quan tâm đến những thông tin tài chính của doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả hoạt động của doanh nghiệp có tác dụng trực tiếp đến tiền lương, khoản thu nhập chính của người lao động. Ngoài ra, trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham gia góp vốn mua một số cổ phần nhất định. Như vậy, họ vừa lao động vừa là người chủ doanh nghiệp nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp.
2.5 Đối với các cơ quan quản lý của Nhà nước
Dựa vào các báo cáo tài chính doanh nghiệp, các cơ quan quản lý của Nhà nước thực hiện phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có đúng chính sách, chế độ và luật pháp quy định không.
3. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
Sự phát triển của một doanh nghiệp dựa vào nhiều yếu tố:
- Các yếu tố bên ngoài: sự tăng trưởng của nền kinh tế, tiến bộ của khoa học kỹ thuật, chính sách tiền tệ, chính sách thuế…
- Các yếu tố bên trong: cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, tính chất của sản phẩm, quy trình công nghệ, khả năng tài trợ cho tăng trưởng, năng suất lao động…
Phân tích tài chính có mục tiêu đưa ra những dự báo tài chính giúp cho việc ra quyết định về mặt tài chính và giúp cho việc dự kiến kết quả trong tương lai của doanh nghiệp nên thông tin sử dụng để phân tích không chỉ giới hạn trong những báo cáo tài chính mà phải mở rộng sang các lĩnh vực:
- Các thông tin chung về kinh tế
- Các thông tin về ngành kinh doanh của doanh nghiệp
- Các thông tin liên quan đến tài chính doanh nghiệp. Đó là các báo cáo tài chính doanh nghiệp
3.1 Các thông tin chung
Đây là các thông tin về tình hình kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong năm. Sự suy thoái kinh tế hoặc tăng trưởng của nền kinh tế có tác động mạnh mẽ đến cơ hội kinh doanh, đến sự biến động của giá cả các yếu tố đầu vào và thụ trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, từ đó tác động đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi các tác động diễn ra theo chiều hướng có lợi, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận tăng và nhờ đó kết quả kinh doanh trong năm là khả quan. Tuy nhiên, khi các tác động diễn ra theo chiều hướng bất lợi, nó sẽ ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, để có được một đánh giá khách quan và chính xác về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chúng ta phải xem xét tới cả các thông tin kinh tế bên ngoài của doanh nghiệp có liên quan.
3.2 Các thông tin theo ngành kinh tế
Nội dung nghiên cứu trong phạm vi ngành là việc đặt sự phát triển của doanh nghiệp trong mối liên hệ với các hoạt động chung của ngành kinh doanh.
Đặc điểm ngành kinh doanh liên quan đến:
- Tính chất của sản phẩm
- Quy trình kỹ thuật áp dụng
- Cơ cấu sản xuất: công nghiệp nặng hay công nghiệp nhẹ, những cơ cấu sản xuất này có ảnh hưởng đến khả năng sinh lời, vòng quay vố dự trữ, phương tiện tài trợ…
- Nhịp độ phát triển của các chu kì kinh tế
Thông tin theo ngành kinh tế đặc biệt là hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành là cơ sở tham chiếu để ngươì phân tích có thể đánh giá, kết luận chính xác về tình hình tài chính doanh nghiệp.
3.3 Thông tin liên quan đến tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng làm rõ mục tiêu của dự đoán tài chính. Từ những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài, thông tin số lượng đến những thông tin giá trị đều giúp cho những nhà phân tích có thể đưa ra những nhận xét, kết luận sát thực. Tuy nhiên, thông tin kế toán là nguồn thông tin đặc biệt cần thiết. Nó được phản ánh đầy đủ trong các báo cáo kế toán của doanh nghiệp. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính - được hình thành thông qua việc xử lý các báo cáo kế toán.
Các báo cáo tài chính gồm có:
Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Nó được lập dựa trên những thứ mà doanh nghiệp có (tài sản) và những thứ mà doanh nghiệp nợ và sở hữu theo nguyên tắc cân đối (tài sản bằng nguồn vốn). Đây là báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp.
Bên tài sản của Bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp :đó là tài sản cố định, tài sản lưu động. Bên nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành các tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo : đó là vốn chủ sở hữu và các khoản nợ.
Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp cho các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính hoặc khả năng thanh toán và cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
Báo cáo kết quả kinh doanh
Một thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả kinh doanh. Khác với Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của nguồn vốn trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ; nó cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh đồng thời cũng giúp cho các nhà phân tích so sánh doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở đó ta có thể xác định được kết quả sản xuất, kinh doanh: lãi hay lỗ trong năm. Như vậy, báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình tài chính và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật, trình độ quản lý sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc mà bất kì doanh nghiệp nào cũng phải lập để cung cấp cho những người sử dụng thông tin của doanh nghiệp. Nếu Bảng cân đối kế toán cho biết các nguồn lực của cải (tài sản) và nguồn hình thành các tài sản đó; và báo cáo kết quả kinh doanh cho biết thu nhập và chi phí phát sinh để tính được kết quả lãi, lỗ trong một kì kinh doanh thì Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập để trả lời các vấn đề liên quan đến luồng tiền vào, ra của doanh nghiệp, tình hình thu chi ngắn hạn của doanh nghiệp. Những luồng tiền vào ra và các khoản được coi như tiền được tổng hợp thành ba nhóm: lưu chuyển tiền từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư và lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính.
Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp những thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh chưa có trong các báo cáo tài chính trên, đồng thời giải thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa được trình bày.
4. Trình tự phân tích tài chính
Trình tự phân tích tài chính theo các nghiệp vụ phân tích thích ứng với từng giai đoạn dự đoán tài chính theo các sơ đồ sau:
Giai đoạn dự đoán
Nghiệp vụ phân tích
Chuẩn bị và xử lý các nguồn thông tin
- Thông tin kế toán nội bộ
- Thông tin khác từ bên ngoài
Áp dụng các công cụ phân tích
- Xử lý thông tin kế toán
-Tính toán các chỉ số
- Tập hợp các bảng biểu
Xác định các biểu hiện đặc trưng
Giải thích và đánh giá các chỉ số
- Biểu hiện hoặc hội chứng khó khăn
- Điểm mạnh và điểm yếu
- Cân bằng tài chính
- Năng lực hoạt động tài chính
- Cơ cấu vốn và chi phí vốn
- Cơ cấu đầu tư và doanh lợi
Phân tích thuyết minh
Tổng hợp quan sát
- Nguyên nhân khó khăn
- Phương tiện thành công và điều kiện bất lợi
Tiên lượng và chỉ dẫn
Xác định
- Hướng phát triển
- Giải pháp tài chính và giải pháp khác
5. Phuơng pháp phân tích tài chính
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm 1 hệ thống các công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết, từ đó đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.
Trước hết phương pháp luận chung cho các khoa học là phương pháp duy vật biện chứng, phân tích và tổng hợp…Ngoài ra, phân tích tài chính doanh nghiệp còn sử dụng các phương pháp riêng: phương pháp phân tích so sánh, tỷ lệ và phương pháp phân tích tài chính Dupont. Để phân tích tốt hơn, các phương pháp kinh tế lượng, độ co giãn cũng cần sử dụng trong phân tích tài chính.
5.1 Phương pháp phân tích so sánh
Phương pháp so sánh được áp dụng rộng rãi để so sánh số hiện thực kì này với số hiện thực kì trước để thấy rõ xu hướng thay đổi để đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi của doanh nghiệp, nó còn dùng để so sánh số hiện thực và số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. Tuy nhiên chỉ thực hiện được phương pháp này khi các chỉ tiêu thống nhất về không gian, nội dung, tính chất. Các tỷ lệ sẽ có ý nghĩa hơn nếu biết được con số tăng, giảm tuyệt đối.
5.2 Phương pháp phân tích tỷ lệ
Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện bởi các lý do sau:
- Thứ nhất: nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải thiện và được cung cấp đầy đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành những tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỷ lệ cả một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp.
- Thứ hai: việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích luỹ dữ liệu và thúc đẩy nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ lệ.
- Thứ ba: phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích tài chính khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục và theo từng giai đoạn.
Phương pháp phân tích tỷ lệ dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ lệ tài chính chính là sự biến đổi các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp này yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu.
5.3 Phương pháp phân tích tài chính Dupont
Ngoài phương pháp phân tích tỷ lệ, các nhà phân tích tài chính còn sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont nhằm đánh giá các tác động tương hỗ giữa các tỷ lệ tài chính. Đó là quan hệ hàm số giữa doanh lợi vốn, vòng quay toàn bộ vốn và doanh lợi tiêu thụ sản phẩm.
Công ty Dupont là công ty đầu tiên ở Mỹ sử dụng phương pháp này để phân tích các tỷ lệ tài chính. Vì vậy nó được gọi là phương pháp Dupont. Ngày nay, phương pháp này được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia.
Theo phương pháp này, trước hết chúng ta xem xét mối quan hệ tương tác giữa doanh lợi tiêu thụ sản phẩm với hiệu suất sử dụng tổng tài sản và kí hiệu là R1
Công thức
Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần
R1 = ´
Doanh thu thuần Tổng tài sản
Lợi nhuận sau thuế
=
Tổng tài sản
Tỷ số R1 cho thấy tỷ suất sinh lời của tài sản phụ thuộc vào 2 yếu tố:
-Thu nhập ròng của doanh nghiệp trên một đồng doanh thu.
- Một đồng tài sản thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.
Phân tích R1 cho phép xác định và đánh giá chính xác nguồn gốc làm thay đổi lợi nhuận của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó nhà doanh nghiệp đưa ra các giải pháp nhằm tăng tiêu thụ và tiết kiệm chi phí.
Tiếp theo, chúng ta xem xét tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu (R) của doanh nghiệp được tạo thành bởi mối quan hệ giữa tỷ lệ tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu (R2) và R1.
R = R1*R2
Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần Tổng tài sản
R = ´ ´
Doanh thu thuần Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu
Lợi nhuận sau thuế
=
Vốn chủ sở hữu
Tỷ lệ tổng tài sản/vốn chủ sở hữu có thể biến đổi thành:
Tổng tài sản Tổng tài sản 1
= =
Vốn chủ sở hữu Tổng tài sản - Nợ phải trả Nợ phải trả
1-
Tổng tài sản
Tổng tài sản 1
=
vốn chủ sở hữu 1- Rd
Trong đó Rd là tỷ lệ Nợ phải trả/Tổng tài sản.
Công thức trên cho thấy khi Rd tăng lên thì R sẽ tăng. Do vậy, khi tỷ lệ nợ cao sẽ khuyếch trương lợi nhuận: nếu doanh nghiệp có lợi nhuận trong kì thì lợi nhuận sẽ càng cao và ngược lại, nếu doanh nghiệp thua lỗ thì hậu quả càng nặng nề.
6. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Tuỳ theo mục đích mà nội dung phân tích có sự khác nhau nhưng thường là:
- Phân tích các tỷ lệ tài chính
- Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn
- Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh
- Phân tích dòng ngân quỹ của doanh nghiệp
6.1 Phân tích các tỷ lệ tài chính
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động và nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời.
Các tỷ lệ tài chính cung cấp cho người phân tích khá đầy đủ các thông tin về từng vấn đề liên quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nhiệm vụ của người phân tích là tìm hiểu mối liên hệ giữa các tỷ lệ từ đó đưa ra các kết luận khái quát về toàn bộ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình phân tích nên lưu ý rằng một tỷ lệ riêng rẽ không nói lên điều gì. Nó cần phải được so sánh với tỷ lệ ở các năm khác nhau của chính doanh nghiệp và so với tỷ lệ tương ứng của các doanh nghiệp trong cùng ngành hoạt động và cùng loại hình doanh nghiệp (sản xuất, thương mại, …)
Nhìn chung, mối quan tâm trước hết của các nhà phân tích là tình hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh hay không? Liệu doanh nghiệp có khả năng đáp ứng các khoản nợ đến hạn không? Để trả lời câu hỏi này họ cần phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
6.1.1 Các tỷ lệ về khả năng thanh toán
Trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, để tài trợ cho các tài sản của mình, các doanh nghiệp không chỉ dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu mà còn phải dựa vào các nguồn tài trợ khác như nợ vay và nợ không do vay. Việc vay nợ được thực hiện với nhiều đối tượng và dưới nhiều hình thức khác nhau. Cho dù là đối tượng nào đi chăng nữa thì để đi đến kết luận doanh nghiệp có nên vay, nợ, cho vay, cho nợ hay không, họ đều quan tâm đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kì với các khoản phải thanh toán trong kì. việc phân tích các tỷ lệ về khả năng thanh toán không những giúp cho các chủ nợ giảm được những rủi ro trong quan hệ tín dụng và bảo toàn được vốn của mình mà còn giúp cho bản thân doanh nghiệp thấy được khả năng chi trả thực tế từ đó có biện pháp trong việc điều chỉnh các khoản mục tài sản cho hợp lý để nâng cao khả năng thanh toán.
Các tỷ lệ về khả năng thanh toán bao gồm :
+ Khả năng thanh toán chung:
Là tỷ lệ được tính bằng cách chia tài sản lưu động cho nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả khác…...Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định – tới một năm. Tỷ lệ khả năng thanh toán chung là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, cho cho biết mức độ các khoản nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương ứng với thời hạn của các khoản nợ đó.
Tài sản lưu động
Khả năng thanh toán chung =
Nợ ngắn hạn
Tỷ lệ này có giá trị càng cao thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng tót và ngưọc lại. Nếu khả năng thanh toán chung nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy nhiên nếu con số này quá cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động so với nhu cầu. Thông thường thì phần vượt trọi đó sẽ không sinh thêm lợi nhuận. Vì thế mà việc đầu tư đó sẽ kém hiệu quả, Vấn đề này đòi hỏi nhà doanh nghiệp phải phân bổ vốn như thế nào cho hợp lý.
Khả năng thanh toán nhanh
Một tỷ lệ thanh toán chung cao chưa phản ứng được chính xác việc doanh nghiệp có thể nhanh chóng đáp ứng được các khoản nợ ngắn hạn trong thời gian ngắn với chi phí thấp hay không vì nó còn phụ thuộc vào tính thanh khoản của các khoản mục trong tài sản lưu động và kết cấu của các khoản mục này. Vì vậy chúng ta cần phải xét đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán nhanh được tính bằng cách chia các tài sản quay vòng nhanh cho nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm : tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Dữ trữ ( tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán dự trữ (tồn kho).
Tài sản lưu động – Dự trữ
Khả năng thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Nói chung, tỷ lệ này lớn hơn 1 là có thể chấp nhận được vì nó cho thấy nếu doanh nghiệp bán đi các tài sản tương đương tiền và thu hồi được các khoản phải thu thì nó có thể thanh toán được các khoản nợ ngắn hạn mà không phải bán đi dự trữ.
Khả năng thanh toán tức thời
Đây là tỷ lệ thể hiện chính xác nhất khả năng thanh toán của doanh nghiệp vì nó loại bỏ tính không chắc chắn của các khoản phải thu cũng như khả năng chuyển đổi thành tiền chậm của dự trữ. Nó được tính bằng cách lấy tổng của tiền và chứng khoán dễ bán chia cho nợ ngắn hạn.
Tiền và chứng khoán dễ bán
Khả năng thanh toán tức thời =
Nợ ngắn hạn
Nhìn vào tỷ lệ này người ta có thể biết được toàn bộ số nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được đảm bảo ngay lập tức là bao nhiêu. Đối với các doanh nghiệp khan hiếm tiền mặt thường có tỷ lệ trên thấp. Đối với các doanh nghiệp mà công tác quản lý dự trữ, tiêu thụ và các khoản phải thu chưa tốt dẫn đến tốc độ quay vòng vốn chậm. Tuy nhiên, tỷ lệ này quá cao cũng là điều khong mong muốn vì tiền dự trữ quá dư thừa để thanh toán không sinh lãi.
6.1.2 Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn
Tỷ lệ này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ cho doanh nghiệp. Nó còn được coi là tỷ lệ đòn bẩy tài chính và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp để thấy mức độ tin tưởng vào sự bảo đảm an toàn cho các khoản nợ. Nếu chủ sở hữu của doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn thì rủi ro trong sản xuất, kinh doanh chủ yếu do chủ nợ gánh chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ sở hữu vẫn nắm được quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay lớn hơn tiền lãi phải trả thì lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ gia tăng đáng kể.
Những doanh nghiệp có tỷ lệ nợ thấp phải chịu rủi ro lỗ ít hơn khi nền kinh tế suy thoái đồng thời có lợi nhuận kì vọng thấp hơn khi nền kinh tế tăng trưởng. Hay nói cách khác, những doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao có nguy cơ lỗ lớn nhưng lại có cơ hội nhận được lợi nhuận cao. Tuy lợi nhuận kì vọng cao nhưng phần lớn các nhà đầu tư ghét rủi ro. Vì thế, quyết định về sử dụng nợ phải cân bằng giữa lợi nhuận và rủi ro.
Trên cơ sở phân tích kết cấu nguồn vốn, doanh nghiệp sẽ nắm được khả năng tự tài trợ về mặt tài chính, mức độ chủ động trong sản xuất, kinh doanh hay những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong khai thác nguồn vốn.
Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản
Nợ
Hệ số nợ =
Tổng tài sản
Tỷ lệ này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ đã góp vốn vào doanh nghiệp. Thông thường, các chủ nợ thích tỷ lệ vay nợ vừa phải vì tỷ lệ này càng thấp thì các khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ doanh nghiệp ưa thích tỷ lệ nợ cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Song nếu tỷ lệ nợ quá cao, doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
Để đánh giá được việc sử dụng nợ cũng như mức độ sử dụng nợ của doanh nghiệp, người ta tính mức độ đòn bầy tài chính (Degree of Financial Leverage – DFL) của doanh nghiệp.
Mức độ ảnh hưởng của DFL cũng được xác định như là tỷ lệ thay đổi về doanh lợi vốn chủ sở hữu phát sinh do sự thay đổi về lợi nhuận trước thuế và lãi vay phải trả.
Q(P – V) – F
DFL =
Q(P – V) – F - I
Trong đó: Q là sản lượng
P: giá bán đơn vị sản phẩm
V: chi phí biến đổi dơn vị sản phẩm
F: chi phí cố định
I: lãi vay
Từ công thức trên, ta thấy khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay không đủ lớn để trang trải lãi vay thì doanh lợi vốn chủ sở hữu bị giảm sút. Nhưng khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay đủ lớn để trang trải lãi vay phải trả thì chỉ cần một sự gia tăng nhỏ về sản lượng cũng mang lại một biến động lớn về doanh lợi vốn chủ sở hữu.
Khả năng thanh toán lãi vay hay số lần có thể trả lãi
Tỷ lệ này được tính bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi vay cho lãi tiền vay
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Khả năng thanh toán lãi vay =
Lãi tiền vay
Khả năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo cho khả năng trả lãi hằng năm. Việc không trả được các khoản nợ này có thể làm cho doanh nghiệp bị phá sản. Cùng với tỷ lệ nợ trên tổng tài sản, tỷ lệ này giúp ta thấy được tình hình thanh toán công nợ của doanh nghiệp tốt hay xấu. Một tỷ lệ nợ trên tổng tài sản cao cộng với khả năng thanh toán lãi vay thấp so với mức trung bình của ngành sẽ khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc gia tăng nợ.
Khả năng độc lập về tài chính
Vốn chủ sở hữu
Khả năng độc lập về tài chính =
Vốn trung và dài hạn
Tỷ lệ này phản ánh khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và tính chủ động trong kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ lệ này càng lớn, tài sản của doanh nghiệp càng ít chịu rủi ro. Tuy nhiên, chi phí của vốn cổ phần lớn hơn chi phí nợ vay và việc tăng vốn cổ phần có thể dẫn đến bị san sẻ quyền lãnh đạo doanh nghiệp.
Tỷ lệ về cơ cấu tài sản
Đồng thời với việc xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý, doanh nghiệp cần phải xem xét việc sử dụng vốn đó như thế nào để đáp ứng nhu cầu kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh tế đồng vốn. Việc phân tích tình hình phân bổ vốn hay kết cấu tài sản của doanh nghiệp sẽ cho ta thấy việc sử dụng vốn của doanh nghiệp có hợp lý không, có phù hợp với đặc điểm loại hình kinh doanh không và sự thay đổi kết cấu tài sản qua từng thời kì có ảnh hưởng gì đến kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Tài sản cố định hoặc tài sản lưu động
Tỷ lệ về cơ cấu tài sản =
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung và máy móc thiết bị nói riêng của doanh nghiệp. Nó cho biết năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Giá trị của chỉ tiêu này tuỳ thuộc vào từng ngành kinh tế cụ thể.
6.1.3 Các tỷ lệ về khả năng hoạt động
Các tỷ lệ về khả năng hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp được đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định và tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm đến đo lường hiệu quả sử dụng của tổng nguồn vốn mà còn quan tâm đến hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp.
Vòng quay tiền
Tiền là khoản mục có tính lỏng cao nhất trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Việc lưu giữ tiền và các tài sản tương đương tiền đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi thế như chủ động trong kinh doanh, mua hàng trả tiền ngay được hưởng chiết khấu, ngoài ra khi vật tư, hàng hoá giá rẻ, doanh nghiệp có thể dự trữ với lượng lớn tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất. Tuy nhiên, tiền được lưu giữ ở mức không hợp lý có thể gây ra nhiều bất lợi. Thứ nhất, trong điều kiện thiếu vốn phổ biến ở các doanh nghiệp thì việc giữ quá nhiều tiền sẽ gây ra tình trạng ứ đọng vốn, hạn chế khả năng đầu tư vào các tài sản khác. Thứ hai, do tiền có giá trị theo thời gian và do có lạm phát, tiền sẽ bị mất giá. Vì vậy, ta cần quan tâm đến tốc độ quay vòng tiền sao cho đem lại khả năng sinh lời cao nhất cho doanh nghiệp.
Doanh thu thuần
Vòng quay tiền =
Tiền và chứng khoán ngắn hạn dễ bán
Vòng quay dự trữ
Dự trữ và tồn kho thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tài sản lưu động của doanh nghiệp. Vì vậy, một mặt, ta cần phải giới hạn mức dự trữ này ở mức tối ưu, mặt khác phải tăng vòng quay của chúng. Dự trữ là một khoản đầu tư cần thiết để đảm bảo tính liên tục của sản xuất và không bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh. Khoản đầu tư này được giải phóng khi sản phẩm được tiêu thụ.
Vòng quay Dự trữ là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, nó được xác định bằng công thức sau:
Doanh thu thuần
Vòng quay dự trữ =
Dự trữ
Chỉ tiêu Vòng quay dự trữ phản ánh số lần hàng tồn kho được bán ra trong kỳ kế toán và có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu vốn luân chuyển. Con số nay càng cao chứng tỏ khả năng bán ra càng lớn. Trên góc độ chu chuyển vốn thì hệ số vòng quay hàng tồn kho lớn sẽ giảm bớt được số vốn đầu tư vào công việc này, hiệu quả sử dụng vốn sẽ cao hơn. tuy nhiên, khi phân tích tài chính cũng phải chú ý đến các nhân tố khác ảnh hưởng đến vòng quay hàng tồn kho như việc áp dụng phương thức bán hàng, kết cấu hàng tồn kho, thị hiếu tiêu dùng, tình trạng nền kinh tế, đặc điểm theo mùa vụ của doanh nghiệp, thời gian giao hàng của nhà cung cấp…
Biến động của chỉ tiêu vòng quay dự trữ cung cấp cho ta nhiều thông tin. Việc giảm vòng quay vốn dự trữ có thể do chậm bán hàng, quản lý dự trữ kém, trong dự trữ có nhiều sản phẩm lạc hậu. Nhưng giảm vòng quay dự trữ cũng có thể là kết quả của quyết định của doanh nghiệp tăng mức dự trữ nguyên vật liệu khi biết trước giá cả của chúng sẽ tăng hoặc có thể sẽ có sự gián đoạn trong việc cung cấp nguyên vật liệu này (có đình công, suy giảm sản xuất). Ngược lại, việc tăng vòng quay dự trữ có thể là do những cải tiến được áp dụng trong khâu bán hàng hay hàng hoá của doanh nghiệp đạt chất lượng cao, kết cấu hợp lý. Đây là điều đáng khích lệ. Còn nếu doanh nghiệp duy trì mức tồn kho thấp thì cũng là cho hệ số vòng quay hàng tồn kho tăng nhưng điều này đôi khi gây ra tình trạng thiếu hàng để bán và ảnh hưởng đến việc tăng doanh thu.
Kỳ thu tiền bình quân
Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, việc tồn tại các khoản phải thu là điều khó tránh khỏi. Nhờ bán chịu, doanh nghiệp có thể thu hút thêm khách hàng, mở rộng thị trường và duy trì thị trường truyền thống, do đó có thể giảm được hàng tồn kho, duy trì được mức sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị. Hơn nữa, nó còn có thể mang lại lợi nhuận tiềm năng cao hơn nhờ việc tăng giá cho khách hàng mua chịu. Song việc bán chịu cũng đẩy doanh nghiệp vào tình trạng phải đối mặt với không ít rủi ro. Đó là giá trị hàng hoá lâu được thực hiện dẫn đến giảm tốc độ chu chuyển của vốn, đặc biệt trong tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp phải huy động nguồn tài trợ cho việc bán chịu; một điều đáng lo ngại hơn là rủi ro về khả năng thu nợ, chi phí đòi nợ. Vì vậy, nhiện vụ của người quản lý doanh nghiệp là phải quan tâm đến kì thu tiền bình quân và có biện pháp rút ngắn thơì gian này.
Các khoản phải thu
Kì thu tiền bình quân = ´ 360
Doanh thu thuần
Trong phân tích tài chính, chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi vốn trong thanh toán của doanh nghiệp. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ là phụ thuộc vào nhiều yếu tố :
+ Tính chất của việc doanh nghiệp chấp nhận bán chịu: một số doanh nghiệp có chính sách mở rộng bán chịu và chấp nhận kéo dài thời hạn thanh toán hơn các đối thủ cạnh tranh để mở rộng thị trường.
+ Tình trạng của nền kinh tế: khi tình hình thuận lợi, các doanh nghiệp có khuynh hướng dễ dàng chấp nhận bán chịu và ngược lại. Nếu chấp nhận tăng thời gian bán chịu cho khách hàng mà không tăng được mức tiêu thụ thì đó là dấu hiệu xấu về tình hình kinh doanh. Doanh nghiệp cần phải thay đổi chính sách tiêu thụ để giữ khách hàng hoặc nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Nhưng tình trạng đó cũng có thể do khách hàng gặp khó khăn trong chi trả nhất là vào thời kì kinh._.i gian tuỳ thuộc vào điều kiện công ty và tương quan về trình độ chuyên môn hiện tại so với mức yêu cầu.
- Hiện tại, cần đào tạo và bồi dưỡng kiến thức về tài chính doanh nghiệp và phân tích tài chính một cách quy củ cho các bộ kế toán đang kiêm nhiệm vụ phân tích tình hoạt động kinh doanh để trong giai đoạn này cố gắng nâng cao chất lượng chuyên môn trong công tác phân tích tài chính của công ty. Công ty nên mời các chuyên viên về tài chính doanh nghiệp của Bộ Tài chính hay cơ quan chủ quản cấp trên về và tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tào ngay tại công ty.
- Sau này, công ty cần tuyển bổ sung các cán bộ trẻ được đào tạo một cách chính quy về tài chính doanh nghiệp và phân tích tài chính doanh nghiệp , thành thạo ngoại ngữ và vi tính. Biện pháp này có tác dụng thúc đẩy sự chuyên môn hoá trong phòng, giảm bớt chi phí đào tạo và do đó cũng nâng cao trình độ chung về phân tích tài chính doanh nghiệp của Phòng Kế toán Tài chính.
- Trong dài hạn Ban giám đốc công ty cần lựa chọn ra một số cán bộ phân tích có năng lực và phẩm chất để gởi đi đào tào nhằm tạo ra một số nhân chủ chốt cho công tác phân tích tài chính của công ty.
- Tổ chức hướng dẫn cụ thể cho các cán bộ nói chung và các bộ phận nói riêng về việc áp dụng các văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của Công ty mới được ban hành.
2.3. Tổ chức nhân sự cho công tác phân tích
2.3.1. Nhân sự phân tích trực tiếp:
- Trước mắt, Trưởng phòng Kế toán Tài chính là người phụ trách toàn bộ công tác này, do đó là người chịu trách nhiệm trước Ban giám đốc Công ty về hoạt động của công tác này. Để đảm bảo hiệu quả phân tích Trưởng phòng Kế toán tài chính cần bố trí công việc kế toán cho cán bộ phân tích một cách hợp lý cả về số lượng và thời gian công việc bởi các cán bộ kế toán công ty đang phải kiêm nhiệm công tác phân tích tài chính, do đó có ít điều kiện theo dõi tình hình tài chính doanh nghiệp.
- Về sau này nên tổ chức một cơ cấu phòng ban hợp lý và chắt chẽ hơn và có phòng chuyên trách về tài chính: Có thể chia Phòng Kế toán Tài chính thành hai bộ phận riêng biệt. Nhân sự cho hoạt động phân tích tài chính của phòng Tài chính sẽ là một số cán bộ ở Phòng Kế toán Tài chính cũ, Phòng Kỹ thuật đầu tư (cán bộ phân tích tài chính dự án), Phòng Quản lý thị trường và bổ sung mới.
2.3.2. Nhân sự gián tiếp:
Muốn công tác phân tích đạt hiệu quả cao thì từ khâu thu thập thông tin đến khâu thực hiện đều phải kết hợp chặt chẽ. Muốn vậy phải xây dựng kế hoạch chung giữa các Phòng ban chức năng về công tác phân tích đặc biệt là Phòng Kinh tế Kế hoạch, Phòng Quản lý thị trường, Phòng Điều độ và quản lý kho, Phòng Tiêu thụ và các Chi nhánh. Kế hoạch này một mặt phải phù hợp với quy định của công ty về công tác phân tích, mặt khác phải thống nhất, kết hợp cả về số lượng nhân sự và thời gian thực hiện để phân tích tài chính, thể hiện vai trò của nó trong việc đẩy mạnh hoạt động bán hàng, tăng doanh thu, lợi nhuận. Các cán bộ thực hiện kế hoạch đã được xây dựng và thống nhất ở trên đúng thời gian, sau đó phải tiến hành đánh giá những kết quả đạt được để có những điều chỉnh thích hợp.
3. Sử dụng đầy đủ, chính xác thông tin
3.1. Với nguồn thông tin bên trong
Với nguồn thông tin nội bộ của công ty, phòng Kế toán Tài chính nên lập đủ các báo cáo tài chính – nguồn thông tin chủ yếu cho việc phân tích . Điều đó có nghĩa là cần phải lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo tài chính còn lại duy nhất mà công ty chưa lập. Khi đó, các cán bộ phân tích sẽ không gặp khó khăn trong việc phân tích , đánh giá khả năng tạo ra luồng tiền trong tương lai, khả năng tài trợ, đầu tư ngắn hạn của công ty. Việc lập đủ các Báo cáo tài chính sẽ tạo ấn tượng tốt về sự quy củ trong quản lý tài chính của công ty đối với các đối tượng bên ngoài, tạo thuận lợi cho công ty trong thời gian tới – khi mà các quan hệ tương tác với các nước trong khu vực được mở rộng.
Sử dụng đầy đủ các thông tin phải kết hợp với yêu cầu thông tin sử dụng phải có tính chính xác. Vì vậy, Trưởng phòng Kế toán tài chính nên chỉ đạo công tác kiểm tra kế toán trong công ty để đảm bảo thông tin được sử dụng là thông tin “sạch”. Bên cạnh đó, công ty còn khuyến khích sự phân tích , kiến nghị của CBCNV về tình hình sản xuất, kinh doanh bởi đây cũng là nguồn bổ sung thông tin cần thiết. Và khi đó, lãnh đạo Phòng Kế toán tài chính, Ban giám đốc công ty cũng phải chú ý đến những thông tin này. Việc này vừa đảm bảo tính dân chủ vừa góp phần làm tăng thông tin cho công tác phân tích.
Sử dụng đầy đủ thông tin nhưng là các thông tin cập nhật, sự cập nhật cũng là một khía cạnh của sự chính xác. Hiện tại các phòng ban công ty đều có máy vi tính nhưng chưa tiến hành nối mạng trong toàn công ty và các chi nhánh, chỉ có các máy trong phòng Kế toán tài chính là kết nối với nhau. Kế toán ở các chi nhánh và xí nghiệp vận tải vẫn phải ghi số liệu vào đĩa mềm và đem về phòng Kế toán tài chính của công ty vào cuối tháng. Công ty cần nghiên cứu vi tính hoá hơn các hoạt động của mình, nên có nối mạng giữa máy tính của Ban giám đốc, trưởng phòng Kế toán tài chính và các phòng ban công ty, nếu có thể với cả các chi nhánh, xí nghiệp; Số lượng chứng từ của công ty rất lớn, khâu tập hợp, hạch toán, kiểm tra đều thuộc Phòng Kế toán Tài chính công ty làm chậm tiến độ công việc lập báo cáo, công ty cũng nên xem xét phương án có kế toán tổng hợp tại các trung tâm tiêu thụ và các chi nhánh và ở những nơi đó có nối mạng với phòng Kế toán tài chính của công ty. Để làm được như vậy, mạng lưới bán của công ty cần tập trung hơn, phải làm tốt công tác bảo mật, chế độ kiểm tra kiểm soát chặt chẽ, ý thức trách nhiệm lãnh đạo, cán bộ kế toán phải cao.
3.2. Với nguồn thông tin bên ngoài:
Nguồn thông tin bên ngoài bao gồm những thông tin về tình hình kinh tế trong nước có liên quan đến hoạt động kinh doanh của công ty. Do đó, cán bộ phân tích tài chính công ty cần thực hiện theo các biện pháp sau:
- Theo dõi sự biến động của lãi suất ngân hàng thường xuyên vì nó ảnh hưởng tới các khoản tiền gửi, đến chi phí các khoản phải thu (cho nợ thì không thu được lãi so với đem khoản đó đi gửi ngân hàng), đến các khoản đầu tư tài chính của công ty.
- Thu thập các thông tin về sự thay đổi chỉ số giá các loại hàng hoá sử dụng trong hoạt động kinh doanh để kết hợp trong phân tích các giải pháp hợp lý trong trường hợp khan hiếm hàng hoá hoặc trong trường hợp chỉ số giá biến động thất thường… Ngoài ra, phải nắm bắt các chủ trương, chính sách của Nhà nước liên quan đến ngành xi măng, vật liệu xây dựng, xây dựng công trình: các khu đô thị, các tuyến đường giao thông…
Để có được nguồn thông tin này, các cán bộ phân tích tài chính phải theo dõi trên các phương tiện thông tin đại chúng một cách thường xuyên. Công ty nên đặt mua dài hạn các loại báo: Nhân dân, Lao động, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Tạp chí Xây dựng, Báo Đầu tư…, đặt mua hoặc đề nghị cơ quan quản lý cấp trên cung cấp các văn bản pháp luật mới ban hành liên quan đến hoạt động kinh doanh của công ty. Đấy là việc nên làm bởi chi phí không lớn và nó thực sự cần thiết cho công tác phân tích tài chính của công ty. Ngoài ra cần phối hợp với các Phòng Điều độ và quản lý kho, Phòng Quản lý thị trường, Phòng Tiêu thụ, các chi nhánh để nắm bắt các thông tin về cầu và cung thị trường, từng địa bàn tiêu thụ xi măng của công ty.
Cán bộ phân tích sử dụng nguồn thông tin này chủ yếu trong việc dự đoán nhu cầu tài chính doanh nghiệp và xây dựng phương án kinh doanh năm tới.
Đối với phương pháp phân tích tỷ lệ, hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành là thông tin quan trọng bởi đây là hệ thống chỉ tiêu phù hợp nhất cho việc lựa chọn hệ thống chỉ tiêu tham chiếu – cơ sở cho việc đánh giá kết quả phân tích theo không gian và theo thời gian. Hệ thống chỉ tiêu này là cơ sở để chúng ta đánh giá được điểm yếu và điểm mạnh của công ty theo một mức độ nào đó, xác định được vị trí của công ty trong toàn ngành để từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp cụ thể. Hiện tại các công ty trong ngành vẫn biết được tình hình kinh doanh của nhau nhưng ở mức độ khái quát chứ không cụ thể. Hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành chưa có. Theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính, hàng năm các doanh nghiệp nhà nước phải gửi Báo cáo tài chính cho Cục quản lý tài chính doanh nghiệp , cơ quan thuế, cơ quan thống kê. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn phải nộp cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Doanh nghiệp khác phải nộp báo cáo tài chính cho cơ quan thuế và cơ quan thống kê. Công ty có thể tìm các thông tin về ngành và các doanh nghiệp trong ngành, các doanh nghiệp cùng tính chất ở đây với một số đảm bảo về nguồn tin này. ở nước ta, hoạt động phân tích tài chính chưa trở thành việc làm thường xuyên và hệ thống thông tin chưa được hoàn hảo nên các chỉ tiêu ngành dù quan trọng nhưng hiện tại chỉ nên xem là tiêu chuẩn để tham khảo, ngay cả trong trường hợp sự tính toán thực sự khách quan. Chỉ có cán bộ phân tích giỏi về chuyên môn, am hiểu thị trường thì mới có thể đưa ra những nhận xét xác đáng.
Nói chung, vì các thông tin trong các báo cáo tài chính là các thông tin “tĩnh” do đó cần gắn chúng hơn với các thông tin động kể cả trong và ngoài công ty.
4. Sử dụng đúng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu, bảng biểu, sơ đồ phân tích, kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp phân tích
- Phương pháp tỷ lệ cung cấp cho chúng ta một bức tranh khá toàn diện về tình hình tài chính của công ty chỉ khi hệ thống chỉ tiêu của nó được sử dụng đúng, không có những chỉ tiêu không cần thiết, không bỏ qua các chỉ tiêu quan trọng, được đặt trong mối quan hệ so sánh với các doanh nghiệp cùng tính chất. Vì thế, Công ty nên thống nhất các khái niệm doanh thu, chi phí – nên hiểu chúng không bao gồm thuế gián thu. Bởi thuế gián thu là thuế đánh vào người tiêu dùng, người tiêu dùng là đối tượng chịu thuế chứ không phải là doanh nghiệp, doanh nghiệp chỉ là người thu hộ cho nhà nước, nộp hộ cho người tiêu dùng. Chẳng hạn như khái niệm doanh thu không được gồm VAT, thuế doanh thu. Công ty cũng cần thống nhất khái niệm chi phí bán hàng, tránh sự hiểu khác nhau trong khi phân tích.
Việc lựa chọn cụ thể các chỉ tiêu nào phải được phân tích và tính toán, điều này tuỳ theo quan điểm của từng doanh nghiệp. Theo người viết, Công ty là doanh nghiệp thương mại nên ngoài các chỉ tiêu về thanh toán, sinh lợi cần quan tâm đến các chỉ tiêu về khả năng hoạt động và phân tích dòng ngân quỹ: Vòng quay tiền (= Doanh thu thuần/Tiền và chứng khoán dễ bán), Vòng quay dự trữ ( Doanh thu thuần/Dự trữ), Chu kì tiền mặt, Chu kì dự trữ, Chu kì chờ thu tiền (Kì thu tiền bình quân), Chu kì trả tiền, Vòng quay vốn lưu động, hiệu suất sử dụng tổng tài sản, hiệu suất sử dụng tài sản cố định, hiệu suất sử dụng tài sản lưu động,.. Công ty nên lập bảng sau để dễ theo dõi:
STT
Chỉ tiêu
Năm N
Năm N+1
Năm N+2
1
Doanh thu thuần
2
Dự trữ
3
Các khoản phải thu
4
Các khoản phải trả
5
Tài sản
Tài sản cố định
Tài sản lưu động
6
Chu kì dự trữ
Vòng quay dự trữ
7
Chu kì chờ thu tiền(3)*360/(1)
8
Chu kì trả tiền(4)*360/(1)
9
Chu kì tiền mặt
Vòng quay tiền
10
Hiệu suất sử dụng Tổng tài sản
Hiệu suất sử dụng TSCĐ
Hiệu suất sử dụng TSLĐ
Công ty cần chú ý khi các chỉ tiêu có liên quan đến nợ ngắn hạn và dài hạn vì nợ khác cũng gồm ngắn hạn và dài hạn. Vì doanh thu thuần không gồm VAT nên các khoản phải thu, phải trả không nên gồm VAT.
- Là doanh nghiệp thương mại, công ty nên phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh với các bảng biểu lập cho 3 năm như sau:
Vốn lưu động thường xuyên
STT
Chỉ tiêu
Năm N
Năm N+1
Năm N+2
1
Tài sản cố định
2
Vốn chủ sở hữu
3
Nợ dài hạn
4
Vốn lưu động thường xuyên
(4)=(2)+(3)-(1)
Nhu cầu vốn lưu động
STT
Chỉ tiêu
Năm N
Năm N+1
Năm N+2
1
Khoản phải thu
2
Dự trữ có bao gồm TSLĐ khác
3
Nợ ngắn hạn
4
Tổng nhu cầu vốn lưu động
(4)=(1)+(2)-(3)
Tiền
STT
Chỉ tiêu
Năm N
Năm N+1
Năm N+2
1
Vốn lưu động thường xuyên
2
Nhu cầu vốn lưu động
3
Tiền
(3)=(1)-(2)
- Công ty cũng cần lưu ý đến đặc điểm mùa vụ của sản phẩm xi măng để dự tính tiền mặt và hàng dự trữ của công ty sao cho chi phí cơ hội của việc giữ tiền và dự trữ hàng giảm thiểu. Lý thuyết tài chính doanh nghiệp và mô hình toán kinh tế có phương pháp tính toán cho bài toán này nhưng do số liêụ không đầy đủ nên người viết không thể đưa ra ví dụ ở đây. Thông thường các tháng 3, 4, 5, 10, 11, 12 xi măng bán chạy và khan hiếm hơn các tháng khác do chủ công trình được duyệt vốn, thời tiết thuận lợi, yêu cầu hoàn thành công trình công ty cần có sự dự trữ hàng nhiều hơn để không lỡ các cơ hội sinh lời.
- Để theo dõi các chi phí công ty nên lập biểu chi phí (chi tiết và tổng)/doanh thu thuần để biết được biến động của chúng không phụ thuộc vào doanh thu cao, thấp từ đó có các giải pháp quản lý đối với chi phí, tránh lãng phí…, tăng lợi nhuận cho công ty.
- Cán bộ phân tích cũng nên phân tích các phương án huy động và sử dụng vốn để tìm phương án hiệu quả, rõ ràng thiếu vốn trung dài hạn để đầu tư cho nợ ngắn hạn là điều đáng lo ngại nhưng “ thừa vốn” chủ sở hữu như trường hợp của công ty cũng chưa hẳn là tốt vì chúng ta biết vốn chủ sở hữu là nguồn có chi phí cơ hội cao hơn nguồn vốn khác. Tiền có chi phí cơ hội của nó nên công ty cần có phương án sử dụng hiệu quả hơn .
- Sơ đồ là một công cụ cho phép chúng ta dễ dàng so sánh các chỉ tiêu trong cùng thời điểm hoặc một chỉ tiêu trong các thời điểm, dễ thấy xu hướng vận động của chúng. Hơn nữa thực hiện công cụ này không phải là khó. Phần mềm Excel cho phép ta vẽ nếu có số liệu. Công ty nên sơ đồ hoá các chỉ tiêu tài chính nếu có sự so sánh chúng về thời gian, về tỷ trọng… Chẳng hạn như các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, lợi nhuận theo các năm như trong Bảng Tổng hợp tình hình thực hiện các chỉ tiêu tài chính.
- Trong nền kinh tế thị trường, việc xử lý nhanh chóng các thông tin và đưa ra ngay các giải pháp là việc rất cần thiết, nếu chỉ sử dụng riêng phương pháp so sánh và tỷ lệ thì khó có thể cho kết quả mong muốn. Vì vậy công ty cần ứng dụng cả phương pháp khác như phương pháp phân tích tách đoạn, độ co giãn, ước lượng theo mô hình hồi quy…để tìm nguyên nhân chủ yếu tạo ra bức tranh tài chính hiện thời, xác định liều lượng cần tác động vào các nhân tố có ảnh hưởng quan trọng tới kết quả cuối cùng để đạt được mục tiêu đề ra, dự báo các chỉ tiêu tài chính. Hệ số co giãn được xây dựng cho nhiều cặp yếu tố như Lợi nhuận/ Tài sản, Doanh thu/Tài sản…Việc xem xét các hệ số co giãn sẽ giúp công ty biết được sự thay đổi của yếu tố này theo yếu tố khác, từ đó nếu công ty có một quyết định thay đổi một yếu tố nào đó thì sẽ biết sự biến đổi tương ứng các yếu tố còn lại. Quả là các phương pháp sau đòi hỏi phải có trình độ cũng như kỹ năng tính toán, nhất là phương pháp phân tích kinh tế lượng trong dự báo tài chính thậm chí đòi hỏi phải có phần mềm chuyên dụng với nguồn số liệu lớn. Tuy nhiên, người viết tin tưởng rằng khi đã hiểu được tầm quan trọng của phân tích tài chính thì vừa học vừa làm, công ty sẽ làm được. Các phương pháp phải được áp dụng thuần thục, nhuần nhuyễn tuỳ mục tiêu của phân tích tài chính, không nên áp dụng dàn trải, phân tích rộng nhưng không sâu. Trong chuyên đề này, do số liệu không đầy đủ nên người viết không có điều kiện phân tích ví dụ dự báo tình hình tài chính. Tất nhiên, điều kiện không thể thiếu để áp dụng các phương pháp là công nghệ hỗ trợ phân tích.
II. Kiến nghị
1. Kiến nghị với Công ty
Để công tác phân tích tài chính của công ty ngày càng mang lại hiệu quả khi thực hiện theo quy trình phân tích đã xây dựng trong phần giải pháp thì yếu tố đầu tiên cần có là Bán giám đốc và Trưởng phòng Kế toán tài chính thực sự nhận thức được tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính đối với hoạt động kinh doanh của công ty. Sự quan tâm thể hiện ở những quyết tâm và những việc làm thiết thực của cấp lãnh đạo công ty là điều kiện tiền đề cho sự thành công của hoạt động phân tích tài chính. Khi yếu tố này được đảm bảo, người viết xin đề xuất thêm một số kiến nghị sau:
1.1. Kiến nghị về quy định của công tác phân tích tài chính
Các quy định về công tác phân tích tài chính phải được xây dựng một cách hợp lý tạo thành một bộ phận nội dung cơ bản của quy định quản lý tài chính của công ty. Cần quy định mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng, quy trình phân tích, quyền lợi và trách nhiệm của các bộ phận, cá nhân liên quan đến công tác phân tích tài chính, kinh phí cho hoạt động phân tích, công tác cán bộ cho phân tích…
Báo cáo về công tác phân tích tài chính phải là một nội dung chính được đưa ra trình bày về công tác quản lý tài chính của công ty trong Hội nghị tổng kết hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng năm của công ty.
Thời gian tiến hành phân tích tài chính nên quy định là ngay sau khi các báo cáo tài chính của công ty được lập xong, độ dài thời gian tiến hành cần được xác định rõ (Trưởng phòng Kế toán tài chính và các cán bộ phân tích thống nhất với nhau sau đó trình Ban giám đốc thông qua).
1.2. Kiến nghị về nâng cao chất lượng chuyên môn cho cán bộ phân tích
Về hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ phân tích, công ty nên tạo điều kiện về kinh phí, thời gian…cho cán bộ phân tích để họ nâng cao trình độ chuyên môn của mình một cách sớm nhất.
Công ty nên lựa chọn ra một số cán bộ phân tích để đào tạo chuyên sâu trong việc lập hồ sơ về tài chính, phân tích và thẩm định dự án (phù hợp với xu hướng đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian tới).
Bên cạnh đó, để thích ứng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế xã hội thì việc nâng cao trình độ chuyên môn không chỉ đơn thuần là nâng cao về phân tích tài chính doanh nghiệp mà còn phải nâng cao trình độ vi tính và ngoại ngữ thông dụng: Anh, Pháp, Trung Quốc…Công ty nên tạo điều kiện về vật chất, thời gian để cán bộ học ngoại ngữ và tin học, coi tin học và ngoại ngữ thành thạo là một trong các tiêu chuẩn tuyển dụng cho các vị trí như phân tích tài chính.
1.3. Kiến nghị về cung cấp và sử dụng thông tin trong phân tích
Vì thông tin phân tích chính xác góp phần quan trọng đến chất lượng hoạt động phân tích và từ đó quyết định đến quyết định của Ban lãnh đạo để điều hành hoạt động công ty nên các thông tin sử dụng phải là các thông tin “sạch”, chứ không phải thông tin đã qua sửa chữa. Các cán bộ, nhân viên liên quan đến công tác phân tích nên tạo điều kiện cho cán bộ phân tích trong việc cung cấp tin chính xác, đầy đủ, kịp thời bởi đây là vì lợi ích của toàn công ty. Tất nhiên, với thông tin bên ngoài thì cán bộ phân tích cần phải xem xét nhiều chiều, biết lựa chọn thông tin đúng. Với các chỉ tiêu trung bình ngành, cán bộ phân tích của công ty nên chủ động thu thập trước khi tiến hành phân tích theo một số cách đã đề cập ở phần giải pháp. Công ty cần thực hiện tốt công việc này để đảm bảo bước một của quy trình được thực hiện tốt.
1.4. Kiến nghị về đầu tư trang thiết bị vi tính, thiết bị in và phần mềm phân tích
Để việc phân tích thực hiện nhanh chóng, kịp thời phục vụ tốt cho công tác quản trị thì yếu tố thông tin, quy trình, con người thôi chưa đủ mà cần có yếu tố về công nghệ. Yêu tố công nghệ giúp cho việc lưu trữ thông tin, tính toán nhanh chóng và xử lý các trường hợp phức tạp. Chính vì thế lãnh đạo công ty cần xem xét cấp kinh phí đầu tư phần mềm phân tích, các máy tính có tốc độ xử lý cao, lưu trữ nhiều, hiện đại.
1.5. Kiến nghị khác
- Để đảm bảo việc vận dụng thành thạo và linh hoạt các phương pháp phân tích thì cán bộ phân tích phải thực hiện phân tích thường xuyên.
- Để kiểm tra chất lượng phân tích , vào cuối mỗi năm tài chính , các cán bộ phân tích dưới sự chỉ đạo của Trưởng phòng Kế toán tài chính phải tiến hành xem xét, đánh giá xem dự báo tài chính được xây dựng từ kết quả phân tích năm trước cho năm nay được thực hiện như thế nào, có chính xác hay sai lệch nhiều. ở đây, tinh thần phê bình và tự phê bình cần được phát huy một cách đúng đắn, có như vậy mới đánh giá được chất lượng của công tác phân tích tài chính nói riêng và công tác quản lý tài chính của công ty nói chung là cao hay thấp. Từ đó rút kinh nghiệm và đưa ra các biện pháp cải thiện phù hợp.
2. Kiến nghị với cơ quan quản lý cấp trên (Tổng công ty Xi măng Việt Nam, Bộ Xây dựng)
- Sự phụ thuộc vào Tổng công ty xi măng và các cấp trên khác tuy có đem lại nhiều thuận lợi trong việc tìm kiếm cơ hội kinh doanh, được hỗ trợ về vốn, về nhân lực… nhưng cũng gây ra một số trở ngại cho quá trình kinh doanh của công ty. Sự ưu đãi hỗ trợ trong hầu hết các lĩnh vực cũng đồng nghĩa tính độc lập, tự chủ về hoạt động, về tài chính không cao. Chẳng hạn các quyết định đầu tư phải tuân theo kế hoạch của Tổng công ty, đợi Tổng công ty phê duyệt, cấp vốn, thời gian quá lâu sẽ làm lỡ cơ hội đầu tư, đến khả năng sinh lợi của đầu tư. Công ty không được tự quyết định giá mà tình trạng giá treo do Tổng công ty đề nghị Ban Vật giá Chính phủ và Bộ Xây dựng quy định kéo dài gây khó khăn cho hoạt động của công ty, giá bán trên thị trường thấp hơn rất nhiều so với mức giá quy định do vậy công ty phải tăng các chi phí vận chuyển, bốc xếp mới bù đắp được phần doanh thu thấp hơn quy định. Điều này ảnh hưởng đến việc các báo cáo tài chính của công ty không phản ánh đúng mức doanh thu và chi phí, số liệu không chính xác nên việc phân tích ít có tính thực tiễn. Tổng công ty nên xem xét giải quyết tình trạng giá treo như hiện nay để công ty tự chủ hơn về tài chính, để các thông tin trong các báo cáo tài chính phản ánh đúng thực trạng của công ty. Và xa hơn Tổng công ty nên nghiên cứu hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các công ty thành viên của mình để đảm bảo tính tự chủ sáng tạo của các công ty con, tránh can thiệp sâu vào mọi hoạt động.
- Vì quy định của cấp trên nên công ty phải bán xi măng ở những địa bàn miền núi, đi lại khó khăn, phí vận chuyển lớn, sức tiêu thụ ít, giá rẻ dẫn đến thua lỗ, do vậy Tổng công ty cần có những chính sách hỗ trợ về giá khi chỉ đạo bán xi măng ở vùng sâu, vùng xa.
- Sự biến động về tổ chức liên tục cũng làm thay đổi các chỉ tiêu trong các báo cáo tài chính gây ra sự không ổn định về thông tin, nhân sự, đánh giá không chính xác về tình hình tài chính. Tổng công ty cần xem xét phương án tổ chức tốt nhất cho công ty để thay đổi một lần, từ đó các CBCNV sẽ chuyên tâm làm việc hơn, thông tin sử dụng trong phân tích cũng thay đổi nhưng là vì hoạt động kinh doanh chứ không vì tổ chức, vì thế sẽ dễ dàng đánh giá hơn.
- Tổng công ty theo hướng dẫn của Cục Tài chính doanh nghiệp nên có quy định về đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ phân tích của Tổng công ty và các doanh nghiệp trực thuộc, quy định về mức kinh phí hoạt động, hướng dẫn quy trình phân tích, chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ làm công tác phân tích.
3. Kiến nghị đối với nhà nước
3.1. Kiến nghị về hoàn thiện chế độ kế toán
Nền kinh tế nước ta trong hơn một thập kỷ qua đã có nhiều biến chuyển với sự phát triển của nhiều thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Chế độ kế toán Việt Nam đã liên tục được đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp. Trong những năm tới, xu hướng hoà nhập sẽ mạnh mẽ hơn, do đó nhà nước cần hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn kế toán Việt Nam và sớm ban hành Luật kế toán tạo cơ sở pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động kế toán và kiểm toán.
3.2, Kiến nghị về công tác kiểm toán, tư vấn thuế, kế toán
ở Việt Nam, kiểm toán mới ra đời nhưng phát triển nhanh chóng. Công tác kiểm toán tiến hành kiểm tra tính thích hợp của việc thực hiện các chủ trương, chính sách và quy định về kế toán và tài chính ở các doanh nghiệp, góp phần lành mạnh hoá tình hình tài chính của các doanh nghiệp , giúp các doanh nghiệp chuẩn hoá công tác kế toán và tài chính theo đúng chế độ quy định. Các công ty kiểm toán khi thực hiện nhiệm vụ của mình nên thực hiện đúng thời gian quy định, thực hiện đầy đủ nội dung nghiệp vụ, tư vấn thúc đẩy tính chuyên nghiệp, quy củ trong công tác quản lý tài chính nói chung và công tác phân tích tài chính nói riêng của các công ty trong đó có Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng. Bộ Tài chính cần nhanh chóng tổng hợp các bất hợp lý do các cơ quan kiểm toán, tư vấn báo cáo để hoàn thiện hơn chế độ quản lý tài chính của doanh nghiệp nhà nước.
3.3. Kiến nghị về xây dựng hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành
Không phải bất cứ doanh nghiệp nào đạt được các chỉ tiêu theo hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành là doanh nghiệp làm ăn hiệu quả bởi còn nhiều yếu tố cần được xem xét mới mang lại kết luận chính xác, nhưng hệ thống này rõ ràng là một căn cứ quan trọng giúp cho các nhà quản lý tài chính tự giác đánh giá hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mình. Trong điều kiện Tổng công ty xi măng chưa xây dựng được hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành, đề nghị nhà nước sớm có những văn bản cụ thể hơn về việc xây dựng và cung cấp hệ thống chỉ tiêu trung bình các ngành góp phần mang lại hiệu quả ở cả tầm vi mô và vĩ mô, các cơ quan đã có kinh nghiệm trong công tác này như Tổng cục Thống kê, Bộ Tài chính cần được giao xây dựng và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tìm hiểu các thông tin khác.
3.4. Kiến nghị về đào tạo cán bộ phân tích tài chính, công khai báo cáo tài chính và kiểm tra, xử lý các vi phạm
Cục Tài chính doanh nghiệp – Bộ Tài chính cần có các chính sách về đào tạo, nâng cao trình độ cho các giảng viên tài chính doanh nghiệp ở các trường đại học, cao đẳng, nâng cao trình độ cho các chuyên gia phân tích tài chính, chỉ đạo mở các lớp bồi dưỡng, giảng dạy thường xuyên ở Cục, các trường đại học, cao đẳng về công tác phân tích tài chính doanh nghiệp cho các cán bộ làm công tác phân tích tài chính và những ai quan tâm đến công tác này.
Cục cũng nên có chỉ đạo hệ thống tới các Sở Tài chính, các Tổng công ty và các doanh nghiệp khác về ý nghĩa, tầm quan trọng của phân tích tài chính, quy trình phân tích tài chính, đào tạo cán bộ cho công tác phân tích, kinh phí hoạt động, chế độ khen thưởng, kỷ luật. Tất nhiên, các quy định của Cục khái quát hơn các Tổng công ty, các doanh nghiệp cụ thể.
Ơ nước ta, tâm lý giữ bí mật thông tin làm cho việc phân tích gặp nhiều khó khăn. Nhưng ở nước ngoài thì công khai báo cáo là việc làm hiển nhiên. Để tháo gỡ khó khăn cho công tác phân tích, Cục tài chính doanh nghiệp – Bộ Tài chính cũng nên nghiên cứu đưa quy định về công khai báo cáo tài chính vào văn bản pháp luật để các doanh nghiệp bắt buộc thực hiện, xây dựng hệ thống kiểm tra tình hình tài chính doanh nghiệp, nghiêm khắc xử lý hiện tượng thay đổi số liệu tài chính, tham ô, tham nhũng hoặc chiếm dụng tài sản của nhà nước
3.5 Kiến nghị về hoàn thiện các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng và thị trường chứng khoán
Khi thị trường tiền tệ và thị trường vốn phát triển thì nguồn vốn của các công ty mới được sử dụng linh động, công ty có thể lựa chọn huy động vốn từ nhiều nguồn, khi đó khái niệm chi phí vốn mới được coi trọng và có tính thực tiễn, công tác phân tích tài chính được chú ý và phát huy hiệu quả, tình hình tài chính các công ty sẽ sáng sủa hơn. Vì thế nhà nước cần quan tâm đến công cuộc cải cách hệ thống ngân hàng và xây dựng hoàn thiện thị trường chứng khoán.
kết luận
Nền kinh tế theo cơ chế thị trường của Việt Nam hiện nay với sự cạnh tranh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế tạo cơ hội cho nhiều doanh nghiệp vươn lên để khẳng định mình. Tuy nhiên nó cũng đặt ra nhiều thách thức phải giải quyết. Để doanh nghiệp tồn tại và phát triển được đòi hỏi nhà quản lý doanh nghiệp phải có những quyết định đúng đắn trên cơ sở lấy hiệu quả sản xuất, kinh doanh làm mục tiêu hàng đầu. Vì thế phân tích tài chính doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp.
Sau thời gian thực tập ở Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng, công ty thành viên hạch toán độc lập trực thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam, tôi nhận thấy công tác phân tích tài chính ở đây lại ngày càng cần thiết, nhất là trong thời gian tới công ty có hướng đa dạng hoá hoạt động của mình. Phân tích tài chính có ý nghĩa to lớn trong việc huy động và sử dụng vốn, đầu tư và bán hàng, đặc biệt là chính sách tín dụng thương mại vì công ty là một doanh nghiệp thương mại – công ty không chỉ cần hiểu mình mà cần phải hiểu cả khách hàng. Công ty cũng cần phải hiểu đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, do những hạn chế về thông tin hiện nay và do chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của phân tích tài chính nên việc phân tích tài chính tại công ty chỉ tiến hành phân tích tài chính của công ty vậy mà cũng chỉ mới phân tích tài chính rất sơ sài, không được tiến hành thường xuyên. Vì thế, theo tôi, ban đầu công ty nên hoàn thành tốt phân tích tài chính của công ty và cố gắng thu nhận nhiều nhất nếu có thể các thông tin về khách hàng, đối thủ để ra các quyết định đúng đắn và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty.
Do nhiều hạn chế khác nhau, các giải pháp và kiến nghị đưa ra mới chỉ là khái quát và định tính. Tuy nhiên, nếu ban lãnh đạo và công ty quan tâm nghiên cứu hoàn thiện hơn và áp dụng sớm vào thực tiễn thì sẽ nhanh chóng thấy được tác dụng to lớn có được từ việc thực hiện phân tích tài chính một cách quy củ, hiện đại và thường xuyên.
Cuối cùng, em xin gửi lời cám ơn chân thành nhất tới cô giáo – Tiến sỹ Phan Thu Hà đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình làm luận văn. Cháu cũng cám ơn Giám đốc, các cô chú Phòng Kế toán tài chính, Phòng Tổ chức lao động Công ty VTKTXM giúp đỡ cháu nhiệt tình trong quá trình thực tập tại công ty.
Tài liệu tham khảo
1.
Tài chính doanh nghiệp. PTS Lưu Thị Hương – NXB Thống Kê - 1996.
2.
Quản trị tài chính doanh nghiệp. TS Vũ Duy Hào – Phạm Văn Huệ – Phạm Long – NXB Thống kê - 2000.
3.
Quản trị Tài chính doanh nghiệp. Nguyễn Hải Sản – NXB Thống kê - 1997.
4.
Phân tích báo cáo tài chính. PTS Nguyễn Văn Công – NXB Giáo dục – 1996.
5.
Phân tích tài chính doanh nghiệp. Josette Peyrard – NXB Thống kê - 1998.
6.
Kế toán – Kiểm toán – Phân tích tài chính doanh nghiệp. PTS Nguyễn Thị Gái – NXB Giáo dục – 1996.
7.
Tạp chí: Tài chính, Kế toán, Kiểm toán, Nghiên cứu kế toán, Xây dựng.
8.
Tài liệu thực tiễn tại công ty:
- Các quyết định về tổ chức hoạt động, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
- Thoả ước lao động tập thể
- Các báo cáo quyết toán.
- Các báo cáo phân tích kết quả hoạt động kinh doanh
- Các tài liệu kế toán khác
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0080.doc