PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ngày nay chúng ta đang chứng kiến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước nhà từ một nền kinh tế dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang một nền kinh tế có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ cao, dựa trên nền tảng của kinh tế tri thức và xu hướng gắn với nền kinh tế toàn cầu. Chính sự chuyển dịch này đã tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho nhiều ngành kinh tế phát triển. Song cũng làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đặt ra cho các doanh nghiệp những yêu cầu và thách t
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2330 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Everpia Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hức mới, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự vận động, vươn lên để vượt qua những thử thách, tránh nguy cơ bị đào thải bởi quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của cơ chế thị trường.
Trong bối cảnh kinh tế như thế, các doanh nghiệp muốn đứng vững trên thương trường cần phải nhanh chóng đổi mới, trong đó đổi mới về quản lý tài chính là một trong các vấn đề được quan tâm hàng đầu và có ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn đối với nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Bởi lẽ, để hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả thì nhà quản lý cần phải nhanh chóng nắm bắt những tín hiệu của thị trường, xác định đúng nhu cầu về vốn, tìm kiếm và huy động nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu kịp thời, sử dụng vốn hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần nắm được những nhân tố ảnh hưởng, mức độ và xu hướng tác động của từng nhân tố đến tình hình tài chính doanh nghiệp. Điều này chỉ thực hiện được trên cơ sở phân tích tài chính.
Việc thường xuyên phân tích tình hình tài chính sẽ giúp nhà quản lý doanh nghiệp thấy rõ thực trạng hoạt động tài chính, từ đó có thể nhận ra những mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp nhằm làm căn cứ để hoạch định phương án hành động phù hợp cho tương lai và đồng thời đề xuất những giải pháp hữu hiệu để ổn định và tăng cường tình hình tài chính giúp nâng cao chất lượng doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên trong thời gian thực tập tại Công ty CP Everpia, em quyết định đi sâu nghiên cứu đề tài sau:
“Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty CP Everpia Việt Nam”
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Nội dung đề tài tập trung nghiên cứu tình hình tài chính tại doanh nghiệp để thấy rõ xu hướng, tốc độ tăng trưởng và thực trạng tài chính của doanh nghiệp, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp và kiến nghị giúp cải thiện tình hình tài chính và giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu được vận dụng trong đề tài chủ yếu là phương pháp so sánh và tổng hợp số liệu thực tế thu thập được trong quá trình thực tập tại doanh nghiệp, các số liệu trên báo cáo tài chính và các thông tin có được từ việc phỏng vấn trực tiếp các nhân viên ở phòng kế toán để xác định xu hướng phát triển, mức độ biến động của các số liệu cũng như các chỉ tiêu và từ đó đưa ra các nhận xét. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp thay thế liên hoàn, phân tích các tỷ số, phương pháp liên hệ, cân đối.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Công ty EVERPIA Việt Nam là một doanh nghiệp kinh doanh thương mại tuy nhiên đề tài của em chỉ tập trung nghiên cứu chung về tình hình tài chính của toàn công ty chứ không đi sâu phân tích tình hình tài chính trong từng lĩnh vực hoạt động.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
1. Bản chất và vai trò của tài chính doanh nghiệp:
1.1. Bản chất của tài chính doanh nghiệp:
Để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất như:
- Tư liệu lao động
- Đối tượng lao động
- Sức lao động
Trong nền kinh tế thị trường mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá vì vậy các yếu tố trên đều được biểu hiện bằng tiền. Số tiền ứng trước để mua sắm các yếu tố trên gọi là vốn kinh doanh.
Trong doanh nghiệp vốn luôn vận động rất đa dạng có thể là sự chuyển dịch của giá trị chuyển quyền sở hữu từ chủ thể này sang chủ thể khác hoặc sự chuyển dịch trong cùng một chủ thể. Sự thay đổi hình thái biểu hiện của giá trị trong quá trình sản xuất kinh doanh được thực hiện theo sơ đồ:
TLLĐ
T - H ĐTLĐ - SX - H' - T'...
SLĐ
Như vậy sự vận động của vốn tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục, xen kẽ kế tiếp nhau không ngừng phát triển. Mặt khác sự vận động của vốn tiền tệ không chỉ bó hẹp trong một chu kỳ sản xuất, mà sự vận động đó hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội (sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng). Nhờ sự vận động của tiền tệ đã làm hàng loạt các quan hệ kinh tế dưới hình thái giá trị phát sinh ở các khâu của quá trình tái sản xuất trong nền kinh tế thị trường. Những quan hệ kinh tế đó tuy chứa đựng nội dung kinh tế khác nhau, song chúng đều có những đặc trưng giống nhau mang bản chất của tài chính doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thức giá trị (quan hệ tiền tệ) phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm phục vụ quá trình tái sản xuất trong mỗi doanh nghiệp và góp phần tích luỹ vốn.
Nội dung của những quan hệ kinh tế thuộc phạm vi tài chính doanh nghiệp bao gồm:
* Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với ngân sách nhà nước:
Mối quan hệ kinh tế này được thể hiện: trong quá trình hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp phải có nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước theo luật định và ngược lại nhà nước cũng có sự tài trợ về mặt tài chính cho các doanh nghiệp để thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô của mình.
* Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp và thị trường:
Kinh tế thị trường có đặc trưng cơ bản là các mối quan hệ kinh tế đều được thực thi thông qua hệ thống thị trường: Thị trường hàng hoá tiêu dùng, thị trường hàng hoá tư liệu sản xuất, thị trường tài chính…và do đó, với tư cách là người kinh doanh, hoạt động của doanh nghiệp không thể tách rời hoạt động của thị trường, các doanh nghiệp vừa là người mua các yếu tố của hoạt động kinh doanh, người bán các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ; đồng thời vừa là người tham gia huy động và mua, bán các nguồn tài chính nhàn rỗi của xã hội.
* Quan hệ kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp gồm:
- Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các phòng ban, phân xưởng, tổ, đội sản xuất trong việc tạm ứng, thanh toán.
- Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên trong quá trình phân phối thu nhập cho người lao động dưới hình thức tiền lương, tiền thưởng, tiền phạt, lãi cổ phần,…
- Quan hệ thanh toán, cấp phát và điều hoà vốn giữa các đơn vị trực thuộc trong nội bộ doanh nghiệp, với Tổng công ty.
1.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp:
* Vai trò huy động, khai thác nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu kinh doanh của doanh nghiệp và tổ chức sử dụng vốn có hiệu quả cao nhất:
Để có đủ vốn cho hoạtđộng sản xuất kinh doanh, tài chính doanh nghiệp phải thanh toán nhu cầu vốn, lựa chọn nguồn vốn, bên cạnh đó phải tổ chức huy động và sử dụng đúng đắn nhằm duy trì và thúc đẩy sự phát triển có hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp – đây là vấn đề có tính quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh “khắc nghiệt” theo cơ chế thị trường.
* Vai trò đòn bẩy kích thích và điều tiết hoạt động kinh doanh: Thu nhập bằng tiền của doanh nghiệp được tài chính doanh nghiệp phân phối. Thu nhập bằng tiền mà doanh nghiệp đạt được do thu nhập bán hàng trước tiên phải bù đắp các chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất như: bù đắp hao mòn máy móc thiết bị, trả lương cho người lao động và để mua nguyên nhiên liệu để tiếp tục chu kỳ sản xuất mới, thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước. Phần còn lại doanh nghiệp dùng hình thành các quỹ của doanh nghiệp, thực hiện bảo toàn vốn, hoặc trả lợi tức cổ phần (nếu có). Chức năng phân phối của tài chính doanh nghiệp là quá trình phân phối thu nhập bằng tiền của doanh nghiệp và quá trình phân phối đó luôn gắn liền với những đặc điểm vốn có của hoạt động sản xuất kinh doanh và hình thức sở hữu doanh nghiệp.
Ngoài ra, nếu người quản lý biết vận dụng sáng tạo các chức năng phân phối của tài chính doanh nghiệp phù hợp với qui luật sẽ làm cho tài chính doanh nghiệp trở thành đòn bẩy kinh tế có tác dụng trong việc tạo ra những động lực kinh tế tác động tới tăng năng suất, kích thích tăng cường tích tụ và thu hút vốn, thúc đẩy tăng vòng quay vốn, kích thích tiêu dùng xã hội.
*Vai trò là công cụ kiểm tra các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp:
Tài chính doanh nghiệp thực hiện việc kiểm tra bằng đồng tiền và tiến hành thường xuyên, liên tục thông qua phân tích các chỉ tiêu tài chính. Cụ thể các chỉ tiêu đó là: chỉ tiêu về kết cấu tài chính, chỉ tiêu về khả năng thanh toán, chỉ tiêu đặc trưng về hoạt động, sử dụng các nguồn lực tài chính; chỉ tiêu đặc trưng về khả năng sinh lời…Bằng việc phân tích các chỉ tiêu tài chính cho phép doanh nghiệp có căn cứ quan trọng để đề ra kịp thời các giải pháp tối ưu làm lành mạnh hoá tình hình tài chính – kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.Chức năng của tài chính doanh nghiệp:
a. Tổ chức huy động chu chuyển vốn, đảm bảo cho sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục.
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ sở có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh nên có nhu cầu về vốn, tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp mà vốn được huy động từ những nguồn sau:
- Ngân sách Nhà nước cấp.
- Vốn cổ phần.
- Vốn liên doanh.
- Vốn tự bổ sung.
- Vốn vay.
Nội dung của chức năng này:
- Căn cứ vào nhiệm vụ sản xuất, định mức tiêu chuẩn để xác định nhu cầu vốn cần thiết cho sản xuất kinh doanh .
- Cân đối giữa nhu cầu và khả năng về vốn.
Nếu nhu cầu lớn hơn khả năng về vốn thì doanh nghiệp phải huy động thêm vốn (tìm nguồn tài trợ với chi phí sử dụng vốn thấp nhưng đảm bảo có hiệu quả). Nếu nhu cầu nhỏ hơn khả năng về vốn thì doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất hoặc tìm kiếm thị trường để đầu tư mang lại hiệu quả.
- Lựa chọn nguồn vốn và phân phối sử dụng vốn hợp lý để sao cho với số vốn ít nhất nhưng mang lại hiệu quả cao nhất.
b. Chức năng phân phối thu nhập của tài chính doanh nghiệp
Thu nhập bằng tiền từ bán sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ, lợi tức cổ phiếu, lãi cho vay, thu nhập khác của doanh nghiệp được tiến hành phân phối như sau:
Bù đắp hao phí vật chất, lao động đã tiêu hao trong quá trình sản xuất kinh doanh bao gồm:
- Chi phí vật tư như nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực, công cụ lao động nhỏ...
- Chi phí khấu hao tài sản cố định.
- Chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền (kể cả các khoản thuế gián thu).
Phần còn lại là lợi nhuận trước thuế được phân phối tiếp như sau:
-Nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật định (hiện nay tính bằng 28% trên thu nhập chịu thuế)
- Bù lỗ năm trước không được trừ vào lợi nhuận trước thuế (nếu có).
- Nộp thuế vốn (nếu có).
- Trừ các khoản chi phí không hợp lý, hợp lệ.
- Chia lãi cho đối tác góp vốn.
- Trích vào các quỹ doanh nghiệp.
c. Chức năng giám đốc (kiểm soát) đối với hoạt động sản xuất kinh doanh
Giám đốc tài chính là việc thực hiện kiểm soát quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp.
Cơ sở của giám đốc tài chính
- Xuất phát từ tính quy luật trong phân phối sản phẩm quyết định (ở đâu có phân phối tài chính thì ở đó có giám đốc tài chính).
- Xuất phát từ tính mục đích của việc sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh. Muốn cho đồng vốn có hiệu quả cao, sinh lời nhiều thì tất yếu phải giám đốc tình hình tạo lập sử dụng quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp.
- Thông qua chỉ tiêu vay trả, tình hình nộp thuế cho Nhà nước mà Nhà nước, Ngân hàng biết được tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp tốt hay chưa tốt.
- Thông qua chỉ tiêu giá thành, chi phí mà biết được doanh nghiệp sử dụng vật tư, tài sản, tiền vốn tiết kiệm hay lãng phí.
- Thông qua chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận (tỷ suất lợi nhuận doanh thu, giá thành, vốn) mà biết được doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không ?
2. Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp:
2.1. Khái niệm:
Phân tích tài chính là quá trình tìm hiểu các kết quả của sự quản lý và điều hành tài chính ở doanh nghiệp được phản ánh trên các báo cáo tài chính đồng thời đánh giá những gì đã làm được, dự kiến những gì sẽ xảy ra trên cơ sở đó kiến nghị những biện pháp để tận dụng triệt để những điểm mạnh, khắc phục các điểm yếu.
Hay nói cách khác, phân tích tài chính doanh nghiệp là làm sao cho các con số trên báo cáo tài chính “biết nói” để người sử dụng chúng có thể hiểu rõ tình hình tài chính củadoanh nghiệp và các mục tiêu, các phương pháp hành động của những người quản lý doanh nghiệp đó.
2.2. Ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp:
Hoạt động tài chính có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, và có ý nghĩa quyết định trong việc hình thành, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do đó tất cả hoạt động sản xuất kinh doanh đều có ảnh hưởng đến tình hình tài chính doanh nghiệp. Ngược lại, tình hình tài chính tốt hay xấu đều có tác động thúc đẩy hoặc kiềm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Vì thế cần phải thường xuyên, kịp thời đánh giá, kiểm tra tình hình tài chính của doanh nghiệp, trong đó công tác phân tích hoạt động kinh tế giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa sau:
- Qua phân tích tình hình tài chính mới đánh giá đầy đủ, chính xác tình hình phân phối, sử dụng và quản lý các loại vốn, nguồn vốn, vạch rõ khả năng tiềm tàng về vốn của xí nghiệp. Trên cơ sở đó đề ra biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giúp doanh nghiệp cũng cố tốt hơn hoạt động tài chính của mình.
- Phân tích tình hình tài chính là công cụ không thể thiếu phục vụ cho công tác quản lý của cơ quan cấp trên, cơ quan tài chính, ngân hàng như: đánh giá tình hình thực hiện các chế độ, chính sách về tài chính của nhà nước, xem xét việc cho vay vốn…
2.3. Nhiệm vụ của phân tích tài chính doanh nghiệp:
Với những ý nghĩa trên nhiệm vụ phân tích tình hình tài chính gồm:
- Đánh giá tình hình sử dụng vốn, nguồn vốn như: xem xét việc phân bổ vốn, nguồn vốn có hợp lý hay không? Xem xét mức độ đảm bảo vốn cho nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, phát hiện những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thừa, thiếu vốn.
- Đánh giá tình hình thanh toán, khả năng thanh toán của xí nghiệp, tình hình chấp hành các chế độ, chính sách tài chính, tín dụng của nhà nước.
- Đánh giá hiệu quả việc sử dụng vốn.
- Phát hiện khả năng tiềm tàng, đề ra các biện pháp động viên, khai thác khả năng tiềm tàng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
2.4. Mục tiêu của hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp:
Phân tích tài chính có thể được hiểu như quá trình kiểm tra, xem xét các số liệu tài chính hiện hành và quá khứ, nhằm mục đích đánh giá, dự tính các rủi ro tiềm ẩn trong tương lai phục vụ cho các quyết định tài chính của doanh nghiệp. Mặt khác phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là để đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin của nhiều đối tượng quan tâm đến những khía cạnh khác nhau về tài chính của doanh nghiệp để phục vụ cho những mục đích của mình.
Đối với nhà quản trị doanh nghiệp: Phân tích tình hình tài chính nhằm mục tiêu:
- Tạo thành các chu kỳ đánh giá đều đặn về các hoạt động kinh doanh quá khứ, tiến hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trả nợ, rủi ro tài chính của doanh nghiệp.
- Định hướng các quyết định của ban giám đốc như: quyết định đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức, cổ phần,…
- Là cơ sở cho các dự báo tài chính: kế hoạch đầu tư, phần ngân sách tiền mặt,…
- Là công cụ để kiểm soát các hoạt động quản lý.
Đối với đơn vị chủ sở hữu: Họ cũng quan tâm đến lợi nhuận và khả năng trả nợ, sự an toàn của tiền vốn bỏ ra, thông qua phân tích tình hình tài chính giúp họ đánh giá hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, khả năng điều hành hoạt động của nhà quản trị để quyết định sử dụng hoặc bãi miễn nhà quản trị, cũng như quyết định việc phân phối kết quả kinh doanh.
Đối với nhà chủ nợ: (Ngân hàng, các nhà cho vay, nhà cung cấp) mối quan tâm của họ hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Do đó họ cần chú ý đến tình hình và khả năng thanh toán của đơn vị cũng như quan tâm đến lượng vốn của chủ sở hữu, khả năng sinh lời để đánh giá đơn vị có khả năng trả nợ được hay không khi quyết định cho vay, bán chịu sản phẩm cho đơn vị.
Đối với nhà đầu tư trong tương lai: Điều mà họ quan tâm đầu tiên, đó là sự an toàn của lượng vốn đầu tư, kế đó là mức độ sinh lãi, thời gian hoàn vốn. Vì vậy họ cần những thông tin về tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh, tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Do đó họ thường phân tích báo cáo tài chính của đơn vị qua các thời kỳ, để quyết định đầu tư vào đơn vị hay không, đầu tư dưới hình thức nào và đầu tư vào lĩnh vực nào.
Đối với cơ quan chức năng: Như cơ quan thuế, thông qua thông tin trên báo cáo tài chính xác định các khoản nghĩa vụ đơn vị phải thực hiện đối với nhà nước, cơ quan thống kê tổng hợp phân tích hình thành số liệu thống kê, chỉ số thống kê,…
2.5. Các dữ liệu trong hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp:
Để tiến hành phân tích tài chính người ta sử dụng nhiều tài liệu khác nhau, trong đó chủ yếu là các báo cáo tài chính. Những bộ phận cốt lõi của bảng báo cáo tài chính là bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và bảng ngân quỹ.
Bảng cân đối kế toán mô tả sức mạnh tài chính của một doanh nghiệp bằng cách trình bày những thứ mà nó có và những thứ mà nó nợ tại một thời điểm nhất định nào đó. Người ta có thể xem bảng cân đối kế toán như một bức ảnh chụp nhanh, bởi vì nó báo cáo tình hình tài chính vào cuối năm. Ngược lại bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh lại giống như bức tranh phản ánh sự vận động bởi vì nó báo cáo về phương thức kinh doanh của doanh nghiệp trong một năm và chỉ ra rằng các hoạt động kinh doanh đó đem lại lợi nhuận hoặc gây ra tình trạng lỗ vốn.
2.5.1. Bảng cân đối kế toán:
Bảng cân đối kế toán là một phương pháp kế toán và là một báo cáo kế toán chủ yếu phản ánh tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp theo hai cách phân loại là kết cấu vốn và nguồn hình thành vốn hiện có của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định.
Bảng cân đối kế toán là bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Vì vậy, bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp được nhiều đối tượng quan tâm. Mỗi đối tượng quan tâm với một mục đích khác nhau. Vì thế, việc nhìn nhận, phân tích bảng cân đối kế toán đối với mỗi đối tượng cũng có những nét riêng. Tuy nhiên, để đưa ra quyết định hợp lý, phù hợp với mục đích của mình, các đối tượng cần xem xét tất cả những gì có thể thông qua bảng cân đối kế toán để định hướng cho việc nghiên cứu, phân tích tiếp theo.
Bảng cân đối kế toán được kết cấu dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán và được sắp xếp theo trật tự phù hợp với yêu cầu quản lý.
Bảng cân đối kế toán có thể được trình bày theo một trong 2 hình thức: hình thức cân đối hai bên: một bên là tài sản, một bên là nguồn vốn. Hình thức cân đối theo hai phần liên tiếp: phần trên là tài sản, phần dưới là nguồn vốn.
- Phần tài sản: Phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có tại doanh nghiệp đến cuối kỳ hạch hoán đang tồn tại dưới các hình thức và trong tất cả các giai đoạn, các khâu của quá trình kinh doanh. Các chỉ tiêu phản ánh trong phần này được sắp xếp theo nội dung kinh tế của các loại tài sản trong quá trình tái sản xuất. Do đó phần này gồm 2 loại:
+ Loại A: Tài sản lưu động và đầu tư tài chính ngắn hạn.
+ Loại B: Tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn.
Xét về mặt kinh tế: Số liệu các chỉ tiêu phản ánh ở phần tài sản thể hiện số vốn của doanh nghiệp hiện có tại thời điểm lập báo cáo đang tồn tại dưới dạng hình thái vật chất, tiền tệ, các khoản đầu tư tài chính hoặc dưới hình thức nợ phải thu ở tất cả các khoản, các giai đoạn trong quá trình kinh doanh.
Xét về mặt pháp lý: Đây là số vốn thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp.
- Phần nguồn vốn: phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản, các loại vốn kinh doanh của doanh nghiệp đến cuối kỳ hạch toán, các chỉ tiêu được sắp xếp, phân chia theo từng nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp.
Nguồn hình thành nên tài sản của doanh nghiệp bao gồm 2 nguồn cơ bản: là nguồn tài trợ từ bên ngoài (các khoản nợ phải trả) và nguồn tài trợ bên trong (nguồn vốn của chủ sở hữu). Do đó phần này gồm 2 loại:
+ Loại A: Nợ phải trả
+ Loại B: Nguồn vốn của chủ sở hữu.
Xét về mặt kinh tế: Số liệu của các chỉ tiêu ở phần nguồn vốn trong bảng cân đối kế toán thể hiện quy mô, nội dung của các nguồn vốn hình thành nên tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng.
Xét về mặt pháp lý: Đây là các chỉ tiêu phản ánh trách nhiệm pháp lý và vật chất của doanh nghiệp đối với các đối tượng cấp vốn cho doanh nghiệp (cổ đông, ngân hàng, người cung cấp…)Căn cứ vào số liệu của các chỉ tiêu trong phần nguồn vốn của bảng cân đối kế toán, các đối tượng quan tâm có thể biết được tỷ lệ từng nguồn vốn trong tổng số nguồn vốn hiện có, mức độ độc lập hay phụ thuộc về mặt tài chính của doanh nghiệp.Như vậy, bảng cân đối kế toán là tài liệu quan trọng đối với việc nghiên cứu, đánh giá khái quát tình hình tài chính, quy mô cũng như trình độ quản lý và sử dụng vốn. Đồng thời cũng thấy được triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp trong việc định hướng cho việc nghiên cứu các vấn đề tiếp theo.
Để làm được việc đó, khi phân tích bảng cân đối kế toán cần xem xét, xác định và nghiên cứu các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất: Xem xét sự biến động của tổng tài sản cũng như từng loại tài sản thông qua việc so sánh giữa cuối kỳ với đầu năm cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối của tổng số tài sản cũng như chi tiết đối với từng loại tài sản. Qua đó thấy được sự biến động về quy mô kinh doanh, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp. Khi xem xét vấn đề này cần quan tâm, để ý đến tác động của từng loại tài sản đối với quá trình kinh doanh. Cụ thể:
· Sự chuyển biến của tiền và đầu tư tài chính ngắn hạn ảnh hưởng đến khả năng ứng phó đối với các khoản nợ đến hạn.
· Sự biến động của hàng tồn kho chịu ảnh hưởng lớn bởi quá trình sản xuất kinh doanh từ khoản dự trữ sản xuất đến khâu bán hàng.
· Sự biến động của các khoản thu chi chịu ảnh hưởng của công việc thanh toán và chính sách tín dụng của doanh nghiệp đối với khách hàng. Điều đó ảnh hưởng lớn đến việc quản lý và sử dụng vốn.
· Sự biến động của tài sản cố định cho thấy qui mô và năng lực sản xuất hiện có của doanh nghiệp…
Thứ hai: Xem xét cơ cấu vốn (vốn được phân bổ cho từng loại) có hợp lý hay không? Cơ cấu vốn tác động nhanh như thế nào đến quá trình kinh doanh? Thông qua việc xác định tỷ trọng của từng loại tài sản trong tổng tài sản đồng thời so sánh tỷ trọng từng loại giữa cuối kỳ với đầu năm để thấy sự biến động của cơ cấu vốn. Điều này chỉ thực sự phát huy tác dụng khi để ý đến tính chất và ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Kết hợp với việc xem xét tác động của từng loại tài sản đến quá trình kinh doanh và hiệu quả kinh doanh đạt được trong kỳ. Có như vậy mới đưa ra được quyết định hợp lý về việc phân bổ vốn cho từng giai đoạn, từng loại tài sản của doanh nghiệp.
Thứ ba: Khái quát xác định mức độ đối lập (hoặc phụ thuộc) về mặt tài chính của doanh nghiệp qua việc so sánh từng loại nguồn vốn giữa cuối kỳ với đầu năm cả về số tuyệt đối lẫn tương đối, xác định và so sánh giữa cuối kỳ với đầu năm về tỷ trọng từng loại nguồn vốn trong tổng nguồn vốn. Nếu nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng cao và có xu hướng tăng thì điều đó cho thấy khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính của doanh nghiệp là cao, mức độ phụ thuộc về mặt tài chính đối với các chủ nợ thấp và ngược lại.
Thứ tư: Xem xét mối quan hệ cân đối giữa các chỉ tiêu, các khoản mục trên bảng cân đối kế toán. Cụ thể:
Nguồn vốn chủ sở hữu (nguồn vốn) = Tiền đầu tư tài chính ngắn hạn, hàng tồn kho, chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển, chi phí sự nghiệp + Tài sản cố định, đầu tư tài chính dài hạn, chi phí xây dựng cơ bản dở dang
Điều đó có nghĩa là nguồn vốn chủ sở hữu vừa đủ trang trải các loại tài sản cho các hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp mà không phải đi vay hoặc chiếm dụng. Song đây chỉ là cân đối mang tính lý thuyết. Trong thực tế, thường xảy ra một trong hai trường hợp sau:
Trường hợp 1: Vế trái lớn hơn vế phải: doanh nghiệp thừa nguồn vốn, không sử dụng hết nên đã bị chiếm dụng.
Trường hợp 2: Vế trái nhỏ hơn vế phải: doanh nghiệp thiếu nguồn vốn để trang trải cho các tài sản đang sử dụng nên phải vay mượn.
Việc sử dụng vốn vay trong kinh doanh nếu chưa quá hạn thanh toán là điều bình thường.Trong thực tế thường xảy ra một trong hai trường hợp:
Trường hợp 1: Vế trái lớn hơn vế phải: doanh nghiệp đã để chiếm dụng vốn
Trường hợp 2: Vế trái nhỏ hơn vế phải: do thiếu nguồn bù đắp cho tài sản đang sử dụng nên doanh nghiệp đã đi chiếm dụng vốn.
Do luôn tồn tại mối quan hệ kinh tế với các đối tượng khác nên luôn xảy ra hiện tượng chiếm dụng và bị chiếm dụng. Vấn đề quan tâm là tính chất hợp lý và hợp pháp của các khoản chiếm dụng và bị chiếm dụng.
TSCĐ và đầu tư dài hạn = Nguồn vốn chủ sở hữu + Vay dài hạn
Điều này cho thấy cách tài trợ các loại tài sản ở doanh nghiệp mang lại sự ổn định và an tâm về mặt tài chính. Bởi lẽ doanh nghiệp đã dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho sử dụng dài hạn vừa đủ. Tuy nhiên trong thực tế có thể xảy ra một trong hai trường hợp.
Trường hợp 1: Vế phải>Vế trái. Điều đó cho thấy việc tài trợ ở doanh nghiệp từ các nguồn vốn là rất tốt, nguồn vốn dài hạn thừa để tài trợ cho tài sản cố định và đầu tư dài hạn. Phần thừa này doanh nghiệp giành cho sử dụng ngắn hạn. Đồng thời tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn lớn hơn nợ ngắn hạn thể hiện khả năng thanh toán nợ ngắn hạn hoặc là xấu hoặc tốt ( vấn đề này sẽ được xem xét kỹ ở phần sau).
Trường hợp 2: Vế trái>Vế phải: nguồn vốn sử dụng dài hạn nhỏ hơn tài sản cố định và đầu tư dài hạn. Doanh nghiệp đã dùng nợ ngắn hạn tài trợ cho sử dụng dài hạn, điều này cho thấy tình hình tài chính của doanh nghiệp là không sáng sủa. Trường hợp này thể hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp là yếu vì chỉ có tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn mới có thể chuyển đổi thành tiền trong thời gian ngắn để đảm bảo cho việc trả nợ.
Thứ năm: Xem xét trong năm doanh nghiệp đã có những khoản đầu tư nào, làm cách nào doanh nghiệp mua sắm được tài sản? doanh nghiệp đang gặp khó khăn hay phát triển? thông qua việc phân tích tình hình khai thác và sử dụng nguồn tài trợ vốn trong năm. Để phân tích, trước hết cần liệt kê sự thay đổi các chỉ tiêu trên bảng cân đối giữa năm nay với năm kế trước. Sau đó cô lập bảng phân tích tình hình sử dụng nguồn tài trợ trong năm theo tiêu thức:· Nếu tăng phần tài sản, giảm phần nguồn vốn ghi vào phần sử dụng vốn. · Nếu tăng phần nguồn vốn, giảm phần tài sản thì ghi vào phần nguồn tài trợ vốn. Bảng này được kết cấu thành 2 phần: phần “nguồn vốn” và phần “sử dụng vốn”. Mỗi phần được chia thành 2 cột: “Số tiền” và “Tỷ trọng”
Như vậy, bảng cân đối kế toán có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý doanh nghiệp. Số liệu trên bảng cân đối kế toán cho biết toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp theo cơ cấu tài sản; nguồn vốn và cơ cấu nguồn hình thành của các tài sản đó. Thông qua bảng cân đối kế toán có thể nhận xét, nghiên cứu và đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, có thể phân tích tình hình sử dụng vốn, khả năng huy động nguồn vốn vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2.5.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh cũng như tình hình thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước trong một kỳ kế toán.Thông qua các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể kiểm tra, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, dự toán chi phí sản xuất, giá vốn, doanh thu sản phẩm vật tư hàng hóa đã tiêu thụ, tình hình chi phí, thu nhập của hoạt động khác và kết quả kinh doanh sau một kỳ kế toán.Thông qua số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh để kiểm tra tình hình thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước và các khoản thuế và các khoản phải nộp khác.Thông qua báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh để đánh giá xu hướng phát triển của doanh nghiệp qua các kỳ khác nhau.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh gồm 3 phần
Phần 1: Lãi - lỗ :Phần này phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau một kỳ hoạt động (lãi hoặc lỗ). Các chỉ tiêu phần này liên quan đến doanh thu, chi phí của hoạt động tài chính và các nghiệp vụ bất thường để xác định kết quả của từng loại hoạt động cũng như toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tất cả các chỉ tiêu đều được trình bày theo 3 cột : quý trước, quý này và lũy kế từ đầu năm.
Phần 2: Tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước: Phần này phản ánh trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước và các khoản thuế, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn và các khoản phải nộp khác. Tất cả các chỉ tiêu trong phần này được theo dõi chi tiết riêng thành số còn phải nộp kỳ trước, số còn phải nộp vào cuối kỳ này.
Phần 3: Thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm.
Khi phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cần xem xét, xác định các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất: Xem xét sự biến động của từng chỉ tiêu trên phần lãi, lỗ giữa kỳ này với kỳ trước (năm nay với năm trước). So sánh cả về số tuyệt đối và tương đối trên từng chỉ tiêu giữa kỳ này với kỳ trước (năm nay với năm trước). Điều này sẽ có tác dụng rất lớn nếu đi sâu xem xét những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự biến động của từng chỉ tiêu.
Thứ hai: Tính toán và phân tích các chỉ tiêu phản ánh mức độ sử dụng các khoản chi phí, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh mức độ sử dụng chi phí gồm:
Tỷ lệ giá vốn hàng bán trên doanh thu thuần = (Giá vốn hàng bán)/(Doanh thu thuần) x 100%.
Chỉ tiêu này cho biết trong tổng số doanh thu được, giá vốn hàng bán chiếm bao nhiêu % hay cứ 100 đồng doanh thu thuần thu được doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng giá vốn hàng bán. Chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ việc quản lý các khoản chi phí trong giá vốn hàng bán càng tốt và ngược lại.
Tỷ lệ chi phí bán hàng trên doanh thu thuần = (Chi phí bán hàng) x 100% Chỉ tiêu này phản ánh để thu được 100 đồng doanh thu thuần doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí bán hàng.Chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ công tác bán hàng càng có hiệu quả và ngược lại.
Tỷ lệ chi phí quản lý doanh nghiệp trên doanh thu thuần = (Chi phí quản lý doanh nghiệp)/(Doanh thu thuần) x 100%.
Chỉ tiêu này cho biết đã thu được 100 đồng doanh thu._. thuần doanh nghiệp phải chi bao nhiêu chi phí quản lý.Tỉ lệ chi phí quản lý doanh nghiệp trên doanh thu thuần càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả quản lý càng cao và ngược lại.
Nhóm các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh:Ngoài các chỉ tiêu thể hiện ngay trong báo cáo kết quả kinh doanh như: tổng doanh thu, doanh thu thuần, lợi nhuận gộp, lợi nhuận thuần, lợi nhuận sau thuế cần tính toán và phân tích các chỉ tiêu sau:
[1]. Tỷ suất lợi nhuận gộp trên doanh thu thuần = (Lợi nhuận gộp)/(Doanh thu thuần) x 100%.
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, nó cho biết cứ 100 đồng doanh thu thuần sinh ra bao nhiêu đồng lợi nhuận gộp.
[2]. Tỷ suất lợi nhuận thuần trên doanh thu thuần = (Lợi nhuận thuần)/(Doanh thu thuần) x 100%.
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó biểu hiện cứ 100 đồng doanh thu thuần sinh ra bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần.
[3]. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu thuần = (Lợi nhuận sau thuế)/(Doanh thu thuần) x 100%
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh nó biểu hiện: cứ 100 đồng doanh thu thuần có bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.Thực chất của việc tính toán nhóm các chỉ tiêu trên là việc xác định tỷ lệ từng chỉ tiêu trên báo cáo kết quả kinh doanh so với tổng thể là doanh thu thuần. Có nghĩa là tổng doanh thu thuần làm tổng thể quy mô chung, còn những chỉ tiêu khác trên báo cáo kết quả kinh doanh là tỷ trọng từng phần trong quy mô chung đó.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm của doanh nghiệp. Số liệu trên báo cáo này cung cấp những thông tin tổng hợp nhất về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý của doanh nghiệp.
2.5.3.Ngân quỹ (Báo cáo lưu chuyển tiền tệ)
Để đánh giá một doanh nghiệp có đảm bảo chi trả hay không cần tìm hiểu tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp. Ngân quỹ thường được xác định cho thời hạn ngắn (thường là từng tháng).
Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất quỹ (chi ngân quỹ), bao gồm: Dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh; dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động đầu tư; tài chính; dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất thường.
Trên cơ sở dòng tiền nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ, nhà phân tích thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó có thể thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo chi trả.
Tóm lại, để phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp các nhà phân tích cần phải đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, qua đó, họ nhận biết được và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp tới mục tiêu phân tích của họ. Tất nhiên, muốn được như vậy, các nhà phân tích cần phải tìm hiểu thêm nội dung chi tiết các khoản mục của các báo cáo tài chính.
2.6. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp:
2.6.1. Phân tích theo chiều ngang:
Phân tích theo chiều ngang các báo cáo tài chính sẽ làm nổi bật biến động của một khoản mục nào đó qua thời gian và việc phân tích này sẽ làm nổi rõ tình hình đặc điểm về lượng và tỷ lệ các khoản mục theo thời gian.
Phân tích theo thời gian giúp đánh giá khái quát tình hình biến động của các chỉ tiêu tài chính, từ đó đánh giá tình hình tài chính. Đánh giá đi từ tổng quát đến chi tiết, sau khi đánh giá ta liên kết các thông tin để đánh giá khả năng tiềm tàng và rủi ro, nhận ra những khoản mục nào có biến động cần tập trung phân tích xác định nguyên nhân.
Sử dụng phương pháp so sánh bằng số tuyệt đối hoặc bằng số tương đối:
Số tuyệt đối: Y = Y1 – Y0
Y1: Trị số của chỉ tiêu phân tích
Y0: Trị số của chỉ tiêu gốc
Số tương đối: T = Y1 / Y0 * 100%
2.6.2. Phân tích xu hướng:
Xem xét xu hướng biến động qua thời gian là một biện pháp quan trọng để đánh giá các tỷ số trở nên xấu đi hay đang phát triển theo chiều hướng tốt đẹp. Phương pháp này được dùng để so sánh một sự kiện kéo dài trong nhiều năm. Đây là thông tin rất cần thiết cho người quản trị doanh nghiệp và nhà đầu tư.
2.6.3. Phân tích theo chiều dọc (phân tích theo qui mô chung):
Với báo cáo qui mô chung, từng khoản mục trên báo cáo được thể hiện bằng một tỷ lệ kết cấu so với một khoản mục được chọn làm gốc có tỷ lệ là 1Sử dụng phương pháp so sánh số tương đối kết cấu (chỉ tiêu bộ phận trên chỉ tiêu tổng thể) phân tích theo chiều dọc giúp chúng ta đưa về một điều kiện so sánh, dễ dàng thấy được kết cấu của từng chỉ tiêu bộ phận so với chỉ tiêu tổng thể tăng giảm như thế nào. Từ đó đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp.
2.6.4. Phân tích các chỉ số chủ yếu:
Phân tích các chỉ số cho biết mối quan hệ của các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất và khuynh hướng tài chính của doanh nghiệp. Sau đây là các nhóm chỉ số tài chính chủ yếu được sử dụng phân tích tài chính:
- Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính.
- Nhóm chỉ tiêu về tình hình thanh toán và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng luân chuyển vốn của doanh nghiệp.
- Nhóm chỉ tiêu về tỷ số sinh lời.
2.6.5. Phương pháp liên hệ - cân đối:
Khi tiến hành phân tích chúng ta cần chú ý đến những mối quan hệ, tính cân đối cần thiết và hữu dụng trong quản lý tài chính ở từng thời kỳ, từng doanh nghiệp, từng hoàn cảnh kinh tế không nên quá chú trọng vào lý thuyết sẽ làm cho việc phân tích tản mạn và không hữu ích.
2.7.Nội dung của phân tích tài chính doanh nghiệp:
2.7.1.Phân tích các hệ số tài chính
Việc phân tích hệ số giúp ta thấy được điều kiện tài chính chung của một công ty. Nó giúp các nhà phân tích và các nhà đầu tư xác định liệu một công ty có đang trong tình trạng rủi ro mất khả năng thanh toán hay không và công ty này có làm ăn tốt không khi so với các công ty cùng ngành hoặc đối thủ cạnh tranh. Các nhà đầu tư nhìn vào các hệ số để đánh giá hoạt động và sự tăng trưởng của một công ty. Như vậy, các hệ số tài chính tồi thường dẫn đến mức chi phí tài trợ cao hơn, trong khi các hệ số tốt luôn có nghĩa là các nhà đầu tư mong muốn cấp vốn cho công ty với chi phí rẻ hơn.
Các ngân hàng cũng sử dụng các hệ số để xác đình xem có thể cho một công ty hưởng mức tín dụng là bao nhiêu.
Các chủ nợ thường lo ngại khi một công ty không có đủ thu nhập để thanh toán các khoản trả lãi định kỳ tính trên nợ hiện hành. Các chủ nợ cũng lo ngại về các công ty mắc nợ trầm trọng, vì xu hướng đi xuống trong hoạt động kinh doanh có thể dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán.
Các nhà phân tích chứng khoán thường giám sát các hệ số tài chính khác nhau của nhiều công ty mà họ quan tâm bằng cách sử dụng một bảng hệ số. Bằng việc phân tích này, họ có thể tìm ra các điểm mạnh và yếu trong các công ty khác nhau.
Những nhà quản lý sử dụng các hệ số tài chính để giám sát hoạt động kinh doanh, nhằm bảo đảm rằng các công ty của họ sử dụng hiệu quả các nguồn vốn sẵn có, và tránh lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Mục đích là xem tình trạng tài chính và hoạt động của một công ty có được củng cố không và liệu các hệ số nói chung của nó tốt hơn hay tồi tệ hơn so với các hệ số của các đối thủ cạnh tranh. Khi các hệ số này thụt xuống dưới các chuẩn mực nhất định, nhà quản lý có trách nhiệm phải khôi phục lại sự kiểm soát trước khi các vấn đề nghiêm trọng phát sinh.
Việc phân tích các hệ số cho phép chúng ta hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa các bảng cân đối tài sản và báo cáo tài chính. Thí dụ, để tính toán thu nhập trên đầu tư của một công ty, chúng ta cần số liệu tổng tài sản từ bảng cân đối kế toán của công ty và lợi nhuận ròng từ báo cáo thu nhập. Ngoài ra, các hệ số này có thể chỉ ra tài sản của công ty đang được sử dụng đạt hiệu quả mức nào và liệu cơ cấu nợ của công ty đã hợp lý chưa.
Mỗi hệ số là một biểu thức toán học đơn giản thể hiện mối quan hệ của một mục này so với mục khác. Các hệ số có thể được trình bày bằng nhiều cách khác nhau.Để tính được một hệ số có giá trị, giữa các mục phải có một mối quan hệ đáng kể. Mỗi hệ số liên quan đến một mối quan hệ, song muốn giải thích đầy đủ hệ số đó cần phải xem xét thêm các thông tin khác. Sử dụng các hệ số là công cụ giúp cho việc phân tích và diễn giải, song chúng không thể thay thế cho việc suy luận hợp logic.
2.7.1.1. Các hệ số về khả năng thanh toán
Tính thanh khoản của tài sản phụ thuộc vào mức độ dễ dàng chuyển đổi tài sản thành tiền mặt mà không phát sinh thua lỗ lớn. Việc quản lý khả năng thanh toán bao gồm việc khớp các yêu cầu trả nợ với thời hạn của tài sản và các nguồn tiền mặt khác nhằm tránh mất khả năng thanh toán mang tính chất kỹ thuật. Việc xác định khả năng thanh toán là quan trọng. Do đó, vấn đề chính là liệu một công ty có khả năng tạo ra đủ tiền mặt để thanh toán cho những nhà cung cấp nguyên vật liệu và các chủ nợ hay không.
Về cơ bản, các hệ số về khả năng thanh toán thử nghiệm mức độ thanh toán của một công ty. Hai hệ số thông dụng được sử dụng để xác định khả năng thanh toán của một công ty bao gồm hệ số khả năng thanh toán hiện tại tỷ lệ tài sản trên nợ và hệ số khả năng thanh toán nhanh.
a. Hệ số khả năng thanh toán hiện tại:(Ht)
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại là mối tương quan giữa tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn.
Ht = Tài sản lưu động / Nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại cho thấy mức độ an toàn của một công ty trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số này có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào ngành công nghiệp và loại công ty. Hệ số bằng 2,0 hoặc lớn hơn có thể tốt cho một công ty sản xuất, trong khi hệ số bằng 1,5 có thể chấp nhận được với một công ty dịch vụ công cộng vì nguồn tiền mặt dự tính thu vào cao và nợ hiện tại hay nợ ngắn hạn nhỏ. Tuy nhiên Ht quá cao cũng không phải là tốt vì như vậy đã có một số tiền (hoặc TSLĐ) được dự trữ quá lớn với tốc độ quay vốn lưu động chậm. TSLĐ dự trữ quá lớn phản ánh việc sử dụng vốn không hiệu quả.Để đánh giá khả năng thanh toán cũng cần xem xét các yếu tố như:
· Bản chất kinh doanh của doanh nghiệp
· Cơ cấu tài sản lưu động
· Hệ số quay vòng của hàng tồn kho và các khoản phải thu
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại không phản ánh được tính linh hoạt của một công ty. Hiển nhiên là một công ty có dự trữ tiền mặt lớn và các chứng khoán khả mại sẽ có khả năng thanh toán lớn hơn một công ty có mức hàng tồn kho lớn. Một hệ số được thiết lập chi tiết hơn khi xem xét vấn đề cơ cấu tài sản có thể loại bỏ được những thành tố kém tính thanh khoản nhất trong tài sản lưu động chính là hệ số khả năng thanh toán nhanh.
b. Hệ số khả năng thanh toán nhanh (Hn)
Hệ số khả năng thanh toán hiện hành chưa bộc lộ hết khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư, các nhà cho vay luôn đặt ra câu hỏi: Nếu tất cả các món nợ ngắn hạn được yêu cầu thanh toán ngay thì khả năngtài chính của doanh nghiệp có đáp ứng được không?Nghiên cứu khả năng thanh toán nhanh sẽ trả lời được câu hỏi này:
Hn = (Tài sản lưu động - dự trữ)/Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này thể hiện khả năng về tiền mặt và các loại tài sản có thể chuyển ngay thành tiền để thanh toán nợ ngắn hạn. Nói chung hệ số này biến động từ 0,5-1 là bình thường. Tuy nhiên cần lưu ý đến:
· Báo cáo kinh doanh của doanh nghiệp
· Cơ cấu tài sản lưu động và phương thức thanh toán mà khách hàng được hưởng Kinh nghiệm cho thấy nếu Hn < 0,5 thì doanh nghiệp nhất định sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ.
c.Tỷ số dự trữ trên vốn lưu động ròng:
Tỷ số này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm vốn lưu động ròng.
Nó được tính bằng cách lấy dự trữ chia cho vốn lưu động ròng.Tỷ số này thấp gần đến mức trung bình ngành là tốt nhất
2.7.1.2. Các hệ số về khả năng cân đối vốn
Cơ cấu tài chính được xem như chính sách tài chính của doanh nghiệp, nó có vị trí quan trọng trong việc điều hành các khoản nợ vay đề khuyếch đại lợi nhuận cho chủ sở hữu.Phân tích cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư cho phép đánh giá rủi ro của việc đầu tư dài hạn của doanh nghiệp. Việc phân tích cần xem xét các chỉ tiêu:
a. Hệ số nợ và tỷ suất tự tài trợ
Những người phân tích báo cáo tài chính luôn quan tâm đến phần tài sản của doanh nghiệp có được do nguồn vốn chủ sở hữu và phần tài sản có được do đi vay.Tỷ số nợ đo lường sự góp vốn của chủ doanh nghiệp so với số nợ vay. Chủ nợ ưa thích tỷ số nợ vừa phải, vì tỷ số nợ thấp, hệ số an toàn của chủ nợ cao, món nợ của họ càng được bảo đảm. Ngược lại thì rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp được chuyển sang chủ nợ gánh chịu một phần.
Hệ số nợ = (Nợ phải trả / Tổng nguồn vốn ) x 100(%)
Ngược lại với tỷ số nợ là tỷ suất tự tài trợ
Tỷ suất tự tài trợ = (Nguồn vốn chủ sở hữu) / (Tổng nguồn vốn)
= 100(%) - Tỷ số nợ
Hai chỉ tiêu này phản ánh mức độ độc lập hay phụ thuộc của doanh nghiệp trong kinh doanh. Tuy nhiên cần phải xem xét mối quan hệ giữa lợi nhuận kinh doanh đạt được với lãi suất vay mượn.Trong nhiều trường hợp: tỷ số nợ cao của doanh nghiệp càng có lợi rõ rệt vì khi đó họ chỉ bỏ ra một lượng nhỏ vốn nhưng lại sử dụng được lượng tài sản lớn, lợi nhuận được khuyếch đại. Đó là trường hợp lãi suất kinh doanh lớn hơn lãi suất vay mượn.
b.Hê số khả năng thanh toán lãi vay:
Chỉ tiêu này là cơ sở để đánh giá khả năng đảm bảo của doanh nghiệp đối với nợ vay dài hạn. Nó cho biết khả năng thanh toán lãi của doanh nghiệp và mức độ an toàn có thể đối với người cấp tín dụng
Hệ số khả năng thanh toán lãi vay = (LNTT+Lãi) / Lãi vay
2.7.1.3. Nhóm tỷ số phản ánh khả năng hoạt động:
a. Vòng quay hàng tồn kho:
Hàng tồn kho là tài sản dự trữ với mục đích đảm bảo cho quá trình kinh doanh được tiến hành thường xuyên, liên tục và đáp ứng nhu cầu của thị trường. Mức độ tồn kho cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: loại hình kinh doanh, thị trường đầu vào, đầu ra,.. Hàng tồn kho là loại tài sản thuộc tài sản lưu động, nó luôn vận động. Để tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động thì từng giai đoạn mà vốn lưu động lưu lại phải được rút ngắn, hàng tồn kho phải được dự trữ hợp lý. Để giải quyết vấn đề nêu ra, phải nghiên cứu vòng quay hàng tồn kho.
Vòng quay hàng tồn kho = Doanh thu / Dự trữ bình quân
Dự trữ bình quân = [Hàng tồn kho (đầu kỳ + cuối kỳ)] / 2
Chỉ tiêu này cho biết bình quân trong kỳ hàng tồn kho quay được mấy vòng (lần). Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ tốc độ luân chuyển hàng tồn kho càng nhanh, số ngày hàng lưu trong kho càng giảm và hiệu quả sử dụng vốn được nâng cao và ngược lại.
Số ngày hàng lưu kho = Số ngày trong kỳ / Số vòng quay hàng tồn kho
Để phân tích cần so sánh với năm trước hoặc các doanh nghiệp cùng ngành mới có thể đưa ra được đánh giá thỏa đáng.
b. Kỳ thu tiền bình quân
Kỳ thu tiền bình quân = các khoản phải thu x 360 / Doanh thu
Chỉ tiêu này được dùng để đánh giá khă năng thu tiền trong kỳ thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp và các khoản trả trước.
c.Vòng quay vốn lưu động
Vốn lưu động của doanh nghiệp luôn vận động qua các hình thái khác nhau. Đầu tiên là vốn bằng tiền -> vốn dự trữ sản xuất -> vốn sản xuất -> vốn trong thanh toán và quay trở lại vốn bằng tiền. Khi thu được tiền kết thúc một vòng luân chuyển. Vốn lưu động luân chuyển càng nhanh chứng tỏ việc sử dụng vốn ở doanh nghiệp càng có hiệu quả và ngược lại.Số vòng luân chuyển vốn lưu động thể hiện trong kỳ vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng
Số vòng luân chuyển vốn lưu động = DTT / vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này cho biết bình quân trong kỳ VLĐ quay được mấy vòng. Số vòng luân chuyên VLĐ càng cao thì tốc độ luân chuyển VLĐ càng nhanh, số ngày luân chuyển 1 vòng càng ngắn và ngược lại.
Số ngày luân chuyển VLĐ = Số ngày trong kỳ/Số vòng luân chuyển VLĐ
Thông qua số ngày luân chuyển VLĐ có thể tính được số tiền tiết kiệm hay lãng phí do tốc độ luân chuyển VLĐ thay đổi.
Số tiền tiết kiệm (-) hay lãng phí (+) do tốc độ luân chuyển vốn thay đổi = DTT bình quân ngày kỳ nghiên cứu x (N1-N0)
N1: Số ngày luân chuyển vốn lưu động kỳ nghiên cứu
N0: Số ngày luân chuyển vốn lưu động kỳ gốc
Cần so sánh với kỳ trước để tính ra số tiền tiết kiệm hay lãng phí do tốc độ luân chuyển VLĐ thay đổi thì mới có được nhận xét thích hợp.
d. Hiệu suất sử dụng tài sản:
Quá trình kinh doanh suy cho cùng là quá trình tìm kiếm lợI nhuận. Để đạt được lợi nhuận tối đa trong phạm vi và điều kiện có thể, doanh nghiệp phải sử dụng triệt để các loại tài sản trong quá trình kinh doanh để tiết kiệm vốn. Hiệu suất sử dụng tài sản sẽ cho thấy hiệu quả sử dụng tài sản ở doanh nghiệp như thế nào.
Hiệu suất sử dụng tài sản = Doanh thu / tài sản bình quân
Trong đó:
Tài sản bình quân = [Tài sản (đầu kỳ+cuối kỳ)] / 2
Chỉ tiêu này cho biết: bình quân 1 đồng tài sản tham gia vào quá trình kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.Hiệu suất sử dụng tài sản càng lớn thì hiệu quả sử dụng tài sản càng cao và ngược lại..Để đánh giá thỏa đáng cần xem xét bản chất kinh doanh của doanh nghiệp và so sánh với kỳ trước hoặc doanh nghiệp khác.
2.7.1.4. Các chỉ số phản ánh khả năng sinh lời:
Lợi nhuận là mục đích cuối cùng của quá trình kinh doanh. LợI nhuận càng cao, doanh nghiệp càng khẳng định vị trí và sự tồn tạI của mình. Song nếu chỉ đánh giá qua chỉ tiêu lợi nhuận thì nhiều khi kết luận về chất lượng kinh doanh có thể bị sai lầm bởi có thể số lợi nhuận này chưa tương xứng với lượng vốn và chi phí bỏ ra, lượng tài sản đã sử dụng. Vì vậy các nhà phân tích sử dụng tỷ số để đặt lợi nhuận trong mối quan hệ với doanh thu, vốn liếng mà doanh nghiệp đã huy động vào kinh doanh.
Khi các hệ số nợ lớn quá mức, công ty có thể nhận thấy chi phí vốn của mình tăng lên. Giá trị các cổ phiếu của công ty cũng có thể giảm xuống tương ứng với mức độ rủi ro của công ty tăng lên. Do đó, các nhà quản lý tài chính phải thận trọng để tránh tình trạng nợ trầm trọng trong cơ cấu vốn của mình. Các nhà đầu tư, các cổ đông và các nhà quản lý tài chính đặc biệt chú ý tới khả năng sinh lãi của các công ty. Việc phân tích lợi nhuận có thể bắt đầu bằng việc nghiên cứu cách thức một công ty sử dụng cơ cấu vốn. Các nhà quản lý giỏi sử dụng có hiệu quả tài sản của mình. Thông qua việc tăng hiệu quả sản xuất, các công ty có thể giảm hoặc kiểm soát được các chi phí. Tỷ lệ lợi nhuận do bất kỳ một công ty nào đạt được là quan trọng nếu các nhà quản lý của công ty đó mong muốn thu hút vốn và thực hiện việc tài trợ thành công cho sự phát triển của công ty.Nếu tỷ lệ lợi nhuận của một công ty tụt xuống dưới mức có thể chấp nhận được, thì P/E giá trên thu nhập và giá trị các cổ phiếu của công ty sẽ giảm xuống - điều đó giải thích tại sao việc đánh giá khả năng sinh lãi lại đặc biệt quan trọng đối với một công ty.
a. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm :
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = (TNST) / (Doanh thu thuần)
Chỉ tiêu này cho biết trong 100 đồng doanh thu thuần có bao nhiêu đồng lợi nhuận.
b. Doanh lợi tài sản (ROA):
ROA = TNST / TS
Chỉ tiêu này cho biết bình quân 100 đồng vốn tham gia vào quá trình kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần (hoặc lợi nhuận sau thuế).
c. Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE)
ROE=TNST / VCSH
Chỉ tiêu này cho biết bình quân 1 đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra vào kinh doanh thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. ROE là thước đo tỷ suất lợi nhuận của các cổ đông. Nhà phân tích chứng khoán, cũng như các cổ đông, đặc biệt quan tâm đến hệ số này.
Nói chung, hệ số thu nhập trên cổ phần càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn. Hệ số này là một cách đánh giá khả năng sinh lời và các tỷ suất lợi nhuận của công ty khi so sánh với hệ số thu nhập trên cổ phần của các cổ phiếu khác
Các chỉ tiêu trên càng lớn chứng tỏ khả năng sinh lời càng cao và ngược lại. Tuy vậy cũng cần phải xem xét tính chất và ngành nghề kinh doanh, sự biến động của điều kiện kinh doanh và cần phải so sánh với các kỳ trước hoặc doanh nghiệp cùng loại mới có thể đánh giá được chất lượng kinh doanh của công ty là tốt hay chưa. Từ đó mà xác định những nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả sinh lời mà có biện pháp tăng hiệu quả kinh doanh phù hợp với mục tiêu mong muốn và đưa ra các quyết định phù hợp.
d .Hệ số thu nhập trên đầu tư ROI
Hệ số thu nhập trên đầu tư ROI được công ty DuPont phát triển cho mục đích sử dụng riêng, nhưng ngày nay nó được rất nhiều công ty lớn sử dụng như là một cách thức tiện lợi để xác định tổng thể các ảnh hưởng của các biên lợi nhuận doanh thu tổng tài sản.
ROI = (Thu nhập ròng/ Doanh số bán) x (Doanh số bán/ Tổng tài sản)
= Thu nhập ròng/ Tổng tài sản
Mục đích của công thức này là so sánh cách thức tạo lợi nhuận của một công ty, và cách thức công ty sử dụng tài sản để tạo doanh thu. Nếu tài sản được sử dụng có hiệu quả, thì thu nhập và ROI sẽ cao, và nếu ngược lại, thu nhập và ROI sẽ thấp.
2.7.2. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn (Bảng tài trợ)
Trong phân tích nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn, người ta thường xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế toán.
Một trong những công cụ hữu hiệu của nhà quản lý tài chính là bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn (bảng tài trợ). Nó giúp nhà quản lý xác định rõ nguồn cung ứng vốn và việc sử dụng các nguồn vốn đó.
Để lập được bảng này, trước hết phải liệt kê sự thay đối các khoản mục trên bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột: Sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc:
- Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc các khoản mục bên nguồn vốn giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng vốn.
- Nếu các khoản mục bên tài sản giảm hoặc các khoản mục bên nguồn vốn tăng thì điều đó thể hiện việc tạo nguồn.
Việc thiết lập bảng tài trợ là cơ sở để chỉ ra những trọng điểm đầu tư vốn và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để đàu tư.
Ngoài việc phân tích việc sử dụng vốn và nguồn vốn, người ta còn phân tích tình hình tài chính theo luồng tiền để xác định sự tăng hany giảm tiền và nguyên nhân tăng (giảm) tiền. Trên cơ sở đó doanh nghiệp có biện pháp quản lý ngân quỹ tốt hơn.
2.7.3.Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian:
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp:
3.1.Các nhân tố chủ quan :
3.1.1.Lịch sử của doanh nghiệp:
Đôi khi việc nghiên cứu quá khứ của một doanh nghiệp là điều rất có ích để có thể hiểu rõ được chiến lược phát triển của nó hiện nay và trong tương lai. Ngoài ngày thành lập, điều có thể tạo thuận lợi cho việc theo dõi khả năng thích ứng của doanh nghiệp, phương thức thành lập doanh nghiệp cũng là một lợi ích không nhỏ.
3.1.2.Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực cũng quan trọng tương đương với khả năng tài chính của doanh nghiệp. Khả năng tài chính của doanh nghiệp có thể sẽ mất dần theo thời gian nhiều vụ đầu tư vào các hợp đồng tương lai đã làm biến mất hoàn toàn khả năng tài chính của nhiều công ty đa quốc gia, nhưng rất hiếm khi một doanh nghiệp bị mất hoàn toàn năng lực của nhân viên của nó. Mặt khác, tuy đào tạo được một nguồn nhân lực có khả năng vừa mất nhiều thời gian vừa tốn kém hơn là thay đổi kỹ thuật sản xuất nhưng không phải khi nào máy móc cũng có thể thay thế con người. Một doanh nghiệp có hai dạng nhân lực:
3.1.3.Người lãnh đạo
Khả năng của người lãnh đạo có thể là nguyên nhân của sự thành công của các doanh nghiệp mà họ điều hành. Người ta cũng có thể phân biệt giữa người lãnh đạo những công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân. Người lãnh đạo công ty cổ phần thường có tầm nhìn xa hơn nhiều so với chủ các doanh nghiệp tư nhân. Các nhà lãnh đạo sắp đến tuổi nghỉ hưu cũng có xu hướng hạn chế việc theo đuổi những dự án cỡ lớn. Điều này có nguy cơ làm giảm khả năng tăng trưởng của doanh nghiệp trong nhiều năm sau. Chính vì thế, tuổi tác cũng có tầm quan trọng như là khả năng quản lý của người lãnh đạo.
3.1.4.Người lao động
Bao gồm cả cán bộ và công nhân viên. Đây chính là hạt nhân của năng lực phát triển của doanh nghiệp. Người lao động có năng lực cao có thể không ngừng cải thiện các điều kiện làm việc và qua đó, cải thiện cả những sản phẩm cuối cùng. Những chi phí đào tạo và quá trình tuyển dụng các nguồn nhân lực phải được nghiên cứu một cách tỷ mỷ.
3.1.5.Nguồn lực tài chính
Người ta sẽ suy nghĩ như thế nào về một DN khẳng định mong muốn phát triển nhờ vào những nguồn lực bên ngoài, vay nợ nhiều nhưng lại không có tài sản gì đáng kể? Một DN phải có đủ phương tiện để thực hiện tham vọng của nó, nhưng không cần dư. Thực tế, thật vô ích nếu DN có lượng tiền mặt rất dồi dào nhưng lại không được đem ra đầu tư mà chỉ đem gửi vào các tài khoản vãng lai tại ngân hàng. Một DN có tiền rảnh rỗi đem đầu tư vào những dự án ngắn hạn còn lãng phí hơn nhiều so với việc vay tiền để đầu tư.
3.1.6.Công cụ sản xuất
Nhằm mục đích nghiên cứu và phát triển, những chi phí cho việc đầu tư vào các tài sản hữu hình là hoàn toàn cần thiết. Ví dụ như khi bạn đầu tư vào máy móc thiết bị, nguyên tắc đánh thuế không cho phép bạn khấu trừ toàn bộ chi phí đầu tư ngay trong năm đầu. Nó phải được khấu hao từng phần trong nhiều năm. Vậy, khi bạn nhận thấy có sự giảm sút về các khoản khấu hao, cũng có nghĩa là tăng về kết quả kinh doanh, cần phải đặt ra một vài câu hỏi. Tại sao khấu hao giảm sút? Có phải nó xuất phát từ việc máy móc thiết bị đã lỗi thời? Hoặc DN không có dự án đầu tư khả thi? Trong những trường hợp này, DN có nguy cơ thụt lùi về sản xuất trong những năm tới, hoặc sẽ suy giảm khả năng cạnh tranh
3.1.7.Sản phẩm
Để giảm bớt những rủi ro gắn liền với hoạt động sản xuất của nó, DN cần phải đa dạng hóa sản phẩm. Trong quá khứ đã có nhiều DN cố bám vào việc sản xuất sợi amian để rồi khi thức dậy vào một buổi sáng nào đó, đã thấy hoạt động của mình bị cấm. Một số DN khác chuyên sản xuất bàn tính cũng sẽ lâm vào tình trạng thê thảm khi không nhận thấy được sự phát triển mạnh mẽ của thời đại vi tính. Tất cả những ví dụ này chỉ ra rằng một DN chuyên doanh có thể sẽ không tồn tại nếu sản phẩm duy nhất của nó rơi vào khủng hoảng. Ngược lại, một DN biết cách đa dạng hóa sản phẩm sẽ không đến nỗi phải hy sinh quá nhiều khi có những quy định mới của luật pháp có thể sẽ hạn chế một trong những hoạt động của nó.
Nhưng số lượng không phải là tất cả. Thực tế, một sản phẩm có thể được sinh ra, lớn lên và chết đi. Nó có cuộc sống của chính nó. Như vậy, danh mục sản phẩm của một DN cần phải được sắp đặt một cách cân đối giữa những sản phẩm có chu kỳ phát triển khác nhau.
3.1.8.Chiến lược kinh doanh
Chiến lược kinh doanh cần nghiên cứu không phải là phương thức phân phối sản phẩm của doanh nghiệp mà là cách phân chia những giới khách hàng khác nhau trong tổng doanh thu của nó. Trên thực tế, một doanh nghiệp luôn phải phụ thuộc vào khách hàng và nhà cung cấp. Hãy thử tưởng tượng rằng một khách hàng chiếm tới hơn 50% doanh số của bạn. Điều gì sẽ xảy ra cho sự ổn định của bạn nếu khách hàng đó chuyển sang mua hàng của một nhà cung cấp khác? Tình trạng tương đối đơn giản, DN có tới 95% khả năng phải tuyên bố ngừng thanh toán các khoản nợ ít nhất trong vài tháng. Như vậy, DN phải chịu dưới cơ khách hàng này và sẽ phải chấp nhận những điều kiện ưu đãi hơn. Điều này về lâu dài sẽ đưa DN tới những khó khăn về tài chính. Vì lý do đó, điều quan trọng đối với một doanh nghiệp là không nên quá tập trung vào một nhóm khách hàng. Có nhiều khách hàng nhỏ còn hơn là có một số khách hàng lớn.
3.1.9.Nghiên cứu và phát triển
Việc nghiên cứu và phát triển là những chi phí cho hôm nay nhưng lại là thành quả cho ngày mai. Một DN có trình độ khoa học kỹ thuật cao sẽ có nhiều điều kiện hơn để phát triển mạnh mẽ. Do vậy, việc tìm hiểu về vấn đề nghiên cứu và phát triển đóng vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt là sự biến động của nó theo thời gian. Một sự giảm sút về hoạt động nghiên cứu và phát triển luôn luôn cần phải được giải thích. Ngược lại, một việc gia tăng đột ngột hoạt động này cũng có thể ẩn dấu những chi phí không được kiểm soát.
3.2.Các nhân tố khách quan :
Doanh nghiệp không hoạt động đơn lẻ trong một môi trường riêng biệt nên nó chịu ảnh hưởng và tác động của nhiều nhân tố khách quan thể hiện trong các quan hệ tài chính của doanh nghiệp. Do vậy, hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố khách quan đó.
Các chính sách thuế, các quy định về lãi suất...ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn của doanh nghiệp. Điều này bắt buộc nhà phân tích tài chính phải tìm ra được cách sử dụng tối ưu các nguồn vốn tự có và cách huy động các nguồn tài trợ cũng như sử dụng chúng một cách có hiệu quả.
Sự thay đổi trong công nghệ làm thay đổi phương thức sản xuất gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến tài chính doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là đối tượng quản lý của nhà nước. Sự thắt chặt hay nới nỏng hoạt động của doanh nghiệp được điều chỉnh bằng luật và các văn bản quy phạm pháp luật, bằng cơ chế quản lý tài chính.
Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phải dự tính được khả năng sảy ra rủi ro, đặc biệt là rủi ro tài chính để có cách ứng phó kịp thời và đúng đắn. Doanh nghiệp, với sức ép của thị trường cạnh tranh, phải chuyển dần từ chiến lược trong cung cổ điển sang chiến lược trọng cầu hiện đại. Những đòi hỏi về chất lượng, mẫu mã, giá cả hàng hóa, về chất lượng dịch vụ ngày càng cao hơn, tinh tế hơn của khách hàng buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi chính sách sản phẩm, đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả và chất lượng cao.
Doanh nghiệp thường phải đáp ứng được đòi hỏi của các đối tác về mức vốn chủ sở hữu trong cơ cấu vốn. Sự tăng, giảm vốn chủ sở hữu có tác động đáng kể tới hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt trong các điều kiện kinh tế khác nhau.
Muốn phát triển bền vững, các doanh nghiệp phải làm chủ và dự đoán trước được sự thay đổi của môi trường để sẵn sàng thích nghi với nó. Trong môi trường đó, quan hệ tài chính của doanh nghiệp được thể hiện rất phong phú và đa dạng.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY EVERPIA VIỆTNAM
I. Tổng quan về công ty CP Everpia Việt Nam
Tên Công ty : Công ty Cổ Phần Everpia Việt Nam
Tổng giám đốc điều hành : Ông Lee Jae Eun
Thành lập : Tháng 12 năm 1993(Chi nhánh tại Hà Nội trở thành t._.hứng tỏ doanh nghiệp hoạt động ngày càng kém hiệu quả. Do đó trong những năm tới để giúp nâng dần chỉ tiêu này lên doanh nghiệp cần phải có các biện pháp để giảm bớt chi phí nhằm góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng của lợi nhuận.
4.2. Doanh lợi tài sản (ROA):
Bảng phân tích ROA
Đơn vị tính: Triệu đồng
CHỈ TIÊU
NĂM 2004
NĂM 2005
NĂM 2006
NĂM 2007
Chênh lệch
04-05
05-06
06-07
Hệ số quay vòng vốn (Vòng)
3,33
3,84
2,58
2,55
0,51
(1,25)
(0,03)
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm
-0,85%
0,94%
0,92%
0,70%
1,79%
-0,02%
-0,21%
ROA
-2,82%
3,62%
2,37%
1,80%
6,44%
-1,25%
-0,58%
Từ bảng phân tích trên ta thấy, trong năm 2005 cứ 100 đồng đầu tư vào tài sản thì đem lại 3,62 đồng lợi nhuận, so với năm 2004 thì đã tăng 6,44 đồng, chứng tỏ năm 2004 doanh nghiệp sử dụng tài sản có hiệu quả hơn so với năm 2004. Từ sau năm 2005 trở đi hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp giảm dần, bằng chứng là tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản có chiều hướng ngày càng giảm. Năm 2006 cứ 100 đồng đầu tư vào tài sản đem lại cho doanh nghiệp 2,37 đồng lợi nhuận (giảm 1,25 đồng so với năm 2005). Năm 2007 cứ 100 đồng đầu tư vào tài sản đem lại cho doanh nghiệp 1,80 đồng (giảm 0,58 đồng so với năm 2006). Nhìn chung từ sau năm 2004 doanh nghiệp sử dụng tài sản có hiệu quả hơn, tuy nhiên nếu xét riêng giai đoạn từ 2005 – 2007 thì hiệu quả sử dụng tài sản ngày càng giảm, do đó trong những năm tới doanh nghiệp cần phải nâng dần doanh lợi tiêu thụ sản phẩm lên bằng cách đề ra những biện pháp hữu hiệu nhằm tăng cường tốc độ luân chuyển vốn.
4.3. Phân tích khả năng sinh lời qua chỉ số DUPONT:
Phân tích khả năng sinh lời qua chỉ số Dupont thực chất chính là phân tích khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, đây là tiêu chuẩn phổ biến nhất người ta dùng để đánh giá tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Việc phân tích dựa vào chỉ số Dupont sẽ giúp ta kết hợp đánh giá tổng hợp khả năng sinh lời của doanh nghiệp, đồng thời giúp ta đề xuất những biện pháp để gia tăng suất sinh lời của vốn chủ sở hữu.
Bảng tính đòn cân nợ
Đơn vị tính: Triệu đồng
CHỈ TIÊU
NĂM 2004
NĂM 2005
NĂM 2006
NĂM 2007
Tổng tài sản sử dụng bình quân
78.963
77.330
104.828
151.707
VCSH bình quân
16.044
22.591
29.933
38.239
Đòn cân nợ (lần)
4,92
3,42
3,50
3,97
Bảng phân tích tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
Đơn vị tính: Triệu đồng
CHỈ TIÊU
NĂM 2004
NĂM 2005
NĂM 2006
NĂM 2007
Chênh lệch
04-05
05-06
06-07
Tỷ suất lợi nhuận/Doanh thu
-0,85%
0,94%
0,92%
0,70%
1,79%
-0,02%
-0,21%
Hệ số quay vòng vốn (vòng)
3,33
3,84
2,58
2,55
50,86%
-125,41%
-3,22%
Đòn cân nợ (lần)
4,92
3,42
3,50
3,97
-149,84%
7,90%
46,53%
Tỷ suất lợi nhuận/VCSH
-13,87%
12,39%
8,31%
7,13%
26,26%
-4,08%
-1,18%
Trong năm 2005 cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu có thể tạo ra 12,39 đồng lợi nhuận, so với năm 2004 thì đã tăng 26,26 đồng. Nguyên nhân tăng là do tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu tăng, doanh nghiệp sử dụng vốn hiệu quả hơn và giảm sử dụng nợ.
Giai đoạn từ 2005 – 2007 tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu có chiều hướng giảm, cụ thể là năm 2006 cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu thì đem lại 8,31 đồng lợi nhuận (giảm 4,08 đồng so với năm 2005), năm 2007 cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu đem lại 7,13 đồng lợi nhuận (giảm 1,18 đồng so với năm 2006). Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu giảm, đồng thời hệ số quay vòng vốn cũng giảm.
⇒ Như vậy qua quá trình phân tích ta thấy các năm 2005, 2006, 2007 hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tốt hơn nhiều so với năm 2004 và tốt nhất là vào năm 2005. Tuy nhiên từ sau năm 2005 hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu có chiều hướng giảm, do đó trong những năm tới doanh nghiệp cần phải nâng dần hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu lên bằng cách nâng số vòng quay vốn và tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu.
5. Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh:
5.1. Phân tích tình hình biến động của giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lý
Bảng phân tích tình hình biến động của giá vốn, CPBH, CPQL
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
Chênh lệch
04-05
05-06
06-07
Giá vốn hàng bán
239.361
261.464
221.387
350.034
9,23%
-15,33%
58,11%
Chi phí bán hàng
20.019
25.969
40.231
26.295
29,72%
54,92%
-34,64%
Chi phí quản lý
4.269
5.531
7.046
7.149
29,57%
27,40%
1,45%
Doanh thu thuần
262.847
296.745
270.804
387.021
12,90%
-8,74%
42,92%
Giá vốn/Doanh thu thuần
91,06%
88,11%
81,75%
90,44%
-2,95%
-6,36%
8,69%
CPBH/Doanh thu thuần
7,62%
8,75%
14,86%
6,79%
1,14%
6,10%
-8,06%
CPQL/Doanh thu thuần
1,62%
1,86%
2,60%
1,85%
0,24%
0,74%
-0,75%
Xét giai đoạn từ 2004 – 2005 : Trong giai đoạn này tỷ trọng giá vốn hàng bán trên doanh thu giảm. Năm 2004 giá vốn hàng bán chiếm 91,06% trong doanh thu thuần. Năm 2005 giá vốn hàng bán chỉ còn chiếm 88,11% trong doanh thu thuần, tức là đã giảm 2,95% so với năm 2004. Tổng giá vốn trong năm 2005 tăng 9,23% so với năm 2004, tuy nhiên tốc độ tăng của giá vốn lại chậm hơn so với tốc độ tăng của doanh thu (tốc độ tăng của doanh thu là 12,90% so với năm 2004). Doanh thu năm 2005 tăng nhanh là do trong năm công ty sử dụng máy móc thiết bị hiện đại tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng và giá thành hạ đem lại doanh thu cao.
Giai đoạn 2005 – 2006 : Trong năm 2006 tỷ trọng giá vốn trong tổng doanh thu lại tiếp tục giảm 6,36% so với năm 2005. Nguyên nhân là do tốc độ giảm của giá vốn nhanh hơn tốc độ giảm của doanh thu (tốc độ giảm của giá vốn là 15,33%, trong khi đó tốc độ giảm của doanh thu là 8,74%). Giá vốn trong giai đoạn này giảm vì công ty không còn kinh doanh mặt hàng bông tơi, ngoài ra công ty đã xác định được thời điểm thu mua nguyên liệu thích hợp giảm bớt thiệt hại do biến động về giá cả, đồng thời với việc trang bị thêm các máy móc hiện đại đã góp phần giảm bớt chi phí sản xuất. Về doanh thu, mặc dù trong năm 2006 doanh nghiệp mở rộng thêm thị trường, ký thêm nhiều hợp đồng tuy nhiên chủ yếu chỉ là các hợp đồng nhỏ, sản lượng bán ra ít hơn so với năm 2005; Các đại lí mới đi vào hoạt động còn nhiều khó khăn, nên doanh thu mang lại chưa cao.
Giai đoạn 2006 – 2007 : Năm 2007 tỷ trọng giá vốn trong tổng doanh thu là 90,44%, so với năm 2006 thì đã tăng 8,69%. Nguyên nhân tăng là do tốc độ tăng của giá vốn nhanh hơn tốc độ tăng của doanh thu. Giá vốn trong giai đoạn này tăng do giá mua nguyên liệu tăng liên tục và do chi phí khấu hao tài sản cố định lớn làm cho tổng giá vốn của doanh nghiệp tăng 58,11% so với năm 2006. Doanh thu trong năm 2007 tăng chủ yếu là do sản lượng đệm xuất khẩu tăng, các đại lí mới đã đi vào hoạt động ổn định và góp phần làm tăng doanh thu của doanh nghiệp.
⇒ Tóm lại đánh giá chung qua 4 năm ta nhận thấy tỷ trọng giá vốn trong tổng doanh thu của doanh nghiệp có chiều hướng giảm dần. Đây là dấu hiệu tốt, chứng tỏ công ty đã có cố gắng trong việc giảm chi phí. Tuy nhiên tỷ trọng giá vốn trong tổng doanh thu của doanh nghiệp cũng còn cao, do đó trong những năm tới doanh nghiệp cần tiếp tục phấn đấu giảm giá vốn nhằm góp phần gia tăng lợi nhuận.
Giai đoạn 2004 – 2006 : Trong giai đoạn này tỷ trọng chi phí bán hàng trong tổng doanh thu tăng liên tục. Năm 2005 chiếm 8,75% doanh thu (tăng 1,14% so với năm 2004), năm 2006 chiếm 14,86% doanh thu (tăng 6,10% so với năm 2005). Nguyên nhân tăng là do trong các năm 2005 và 2006 chi phí bán hàng liên tục tăng vối tốc độ tương đối cao, trong khi đó doanh thu tăng với tốc độ chậm hơn, năm 2006 doanh thu lại giảm. Chi phí bán hàng trong năm 2005 tăng phần lớn là dùng chi trả tiền điện, nước cửa hàng, kho do thiết bị cũ kỹ dẫn đến tiêu hao nhiều năng lượng, hệ thống điện tải quá cũ nên thất thoát trên đường dây, chi phí sữa chữa trang thiết bị cao, chi phí tiền lương cho số lượng nhân viên thừa chưa bố trí được công việc, ngoài ra còn do tăng chi phí bốc xếp, vận chuyển. Sang năm 2006 doanh nghiệp đã tiến hành sữa chữa hệ thống điện cho các cửa hàng, kho, bố trí lại nhân sự, tuy nhiên chi phí bán hàng vẫn tăng do tăng đầu tư quảng cáo .
Giai đoạn 2006 – 2007 : Năm 2007 tỷ trọng chi phí bán hàng trong tổng doanh thu là 6,79%, tức là giảm 8,06% so với năm 2006 và thấp nhất trong 4 năm. Nguyên nhân giảm là do doanh nghiệp cố gắng giảm bớt các khoản chi phí hao hụt hàng hoá, bao bì dự phòng, chi phí hội nghị, chi phí sữa chữa tài sản cố định, chi phí làm hàng làm cho chi phí bán hàng trong kỳ giảm 34,64%, trong khi đó doanh thu năm 2007 lại tăng 42,92% so với năm 2006 .
⇒ Nhìn chung chi phí bán hàng qua các năm có xu hướng tăng, cao nhất là vào năm 2006 chủ yếu do công ty đầu tư cho quảng cáo, đây là sự gia tăng hợp lý góp phần quảng bá cho doanh nghiệp. Đến năm 2007 công ty đã rất cố gắng trong việc giảm bớt chi phí, chứng tỏ công ty đã quản lý chi phí tốt hơn góp phần làm tăng lợi nhuận, trong các năm tiếp theo doanh nghiệp cần tiếp tục duy trì tình hình này.
Giai đoạn 2004 – 2006 : Tỷ trọng chi phí quản lý doanh nghiệp trong tổng doanh thu ở giai đoạn này có chiều hướng tăng, năm 2005 chiếm 1,86% (tăng 0,24% so với năm 2004), năm 2006 chiếm 2,60% (tăng 0,74% so với năm 2005). Nguyên nhân tăng là do chi phí quản lý liên tục tăng với tốc độ cao, trong khi đó tốc độ tăng của doanh thu thuần chậm hơn, ngoài ra năm 2006 doanh thu thuần lại bị giảm. Chi phí quản lý tăng chủ yếu là do doanh nghiệp tăng chi phí cho công tác đào tạo nghiệp vụ để đáp ứng nhu cầu tiêu chuẩn hoá du lịch, tăng quỹ đầu tư phát triển du lịch, chi phí cho việc thiết kế trang web, tăng chi phí đăng ký nhãn hiệu và logo công ty, tăng chi phí khảo sát tour và chào tour và công tác phí.
Giai đoạn 2006 – 2007: Tỷ trọng chi phí quản lý doanh nghiệp trong tổng doanh thu giảm 0,75% so với năm 2006 , tức là chiếm 1,85% trong tổng doanh thu. Nguyên nhân là do trong năm 2007 chi phí quản lý có tăng, nhưng tăng với tốc độ chậm hơn so với tốc độ tăng của doanh thu. Tốc độ tăng của chi phí quản lý là 1,45% so với năm 2006 do trong năm doanh nghiệp tăng chi phí đào tạo, chi phí quảng cáo .
⇒ Qua 4 năm ta thấy chi phí quản lý có chiều hướng tăng dần, tuy nhiên các khoản gia tăng này chủ yếu giúp công ty hoạt động tốt hơn và nhằm nâng cao uy tín của công ty, do đó đây là các khoản chi hợp lý và không nên hạn chế.
5.2. Phân tích hiệu quả sử dụng chi phí:
Hiệu suất sử dụng chi phí là chỉ tiêu tương đối thể hiện mối quan hệ giữa doanh thu và chi phí, phản ánh hiệu quả sử dụng chi phí để mang lại doanh thu.Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng chi phí mang lại bao nhiêu đồng doanh thu.
Bảng phân tích hiệu quả sử dụng chi phí (Triệu đồng)
CHỈ TIÊU
NĂM 2004
NĂM 2005
NĂM 2006
NĂM 2007
Chênh lệch
04-05
05-06
06-07
Tống chi phí SXKD trong kỳ
263.650
292.965
268.665
383.477
11,12%
-8,29%
42,73%
Doanh thu thuần
262.847
296.745
270.804
387.021
12,90%
-8,74%
42,92%
Hiệu suất sử dụng chi phí
0,997
1,013
1,008
1,009
0,016
(0,005)
0,001
Năm 2005 cứ 1đồng chi phí mang lại 1,013 đồng doanh thu, so với năm 2004 thì đã tăng 0,016 đồng. Năm 2006 cứ 1 đồng chi phí thì đem lại 1,008 đồng doanh thu, tức là giảm 0,005 đồng so với năm 2005. Đến năm 2007 hiệu suất sử dụng chi phí tăng 0,001 đồng, nghĩa là 1 đồng chi phí trong năm 2007 có thể đem lại 1,009 đồng doanh thu. Từ kết quả phân tích ta thấy qua 4 năm từ 2004 – 2007 hiệu suất sử dụng chi phí ngày càng tăng, chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng chi phí hiệu quả hơn góp phần làm tăng lợi nhuận hoạt động kinh doanh.
5.3. Phân tích ảnh hưởng của hoạt động tài chính đến tổng lợi nhuận của công ty:
Ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh chính theo chức năng, công ty còn có những hoạt động tài chính với những chi phí và thu nhập có liên quan. Việc phân tích hoạt động này sẽ giúp ta đánh giá được sử ảnh hưởng của chúng vào tổng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Bảng phân tích ảnh hưởng của hoạt động tài chính đến lợi nhuận
Đơn vị tính: Triệu đồng
CHỈ TIÊU
NĂM 2004
NĂM 2005
NĂM 2006
NĂM 2007
Chênh lệch
04-05
05-06
06-07
Thu nhập hoạt động tài chính
1.997
2.318
1.261
4.708
16,07%
-45,61%
273,33%
Chi phí hoạt động tài chính
6.213
6.384
5.253
6.322
2,75%
-17,72%
20,35%
Lợi nhuận HĐTC
(4.215)
(4.065)
(3.992)
(1.614)
-3,56%
-1,81%
-59,57%
Lợi nhuận thuần từ HĐKD
(802)
3.780
2.139
3.543
-571,07%
-43,42%
65,67%
Lợi nhuận HĐKD & HĐTC
(5.018)
(286)
(1.853)
1.930
-94,31%
548,93%
-204,13%
Dựa vào bảng phân tích ta thấy hoạt động tài chính luôn bị lỗ đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến tổng lợi nhuận của doanh nghiệp. Nguyên nhân làm cho hoạt động tài chính lỗ là do thu nhập hoạt động tài chính của doanh nghiệp ít nên không bù đắp nổi chi phí tài chính. Từ năm 2004 – 2006 thu nhập hoạt động tài chính chủ yếu của công ty là thu lãi do chênh lệch tỷ giá, làm thu nhập hoạt động tài chính đạt 4.708 triệu đồng, tức là tăng 273,33% so với năm 2006, trong khi đó chi phí hoạt động tài chính của doanh nghiệp mà chủ yếu là chi phí lãi vay thì lại cao. Tuy nhiên, khoản lỗ từ hoạt động tài chính qua 4 năm có xu hướng giảm dần, đây là dấu hiệu tốt chứng tỏ thu nhập hoạt động tài chính đã dần bù đắp chi phí tài chính và ít gây ảnh hưởng đến tổng lợi nhuận của doanh nghiệp hơn.
5.4. Phân tích ảnh hưởng của hoạt động khác đến lợi nhuận của doanh nghiệp:
Bảng phân tích ảnh hưởng của hoạt động khác đến lợi nhuận
Đơn vị tính: Triệu đồng
CHỈ TIÊU
NĂM 2004
NĂM 2005
NĂM 2006
NĂM 2007
Chênh lệch
04-05
05-06
06-07
Thu nhập khác
4.354
4.014
4.340
1.363
-7,82%
8,14%
-68,61%
Chi phí khác
1.562
929
-
566
-40,52%
-100,00%
∞
Lợi nhuận khác
2.792
3.085
4.340
796
10,48%
40,71%
-81,65%
Lợi nhuận thuần từ HĐKD
(802
3.780
2.139
3.54
-571,07%
-43,42%
65,67%
Lợi nhuận HĐKD & HĐ khác
1.990
6.864
6.479
4.340
245,02%
-5,61%
-33,02%
Thu nhập khác của doanh nghiệp chủ yếu là thu từ việc bán phế phẩm, phế liệu, thu nhập do thanh lý tài sản, năm 2006 doanh nghiệp còn thu được các khoản nợ khó đòi.
Qua bảng phân tích ta thấy thu nhập từ hoạt động khác của doanh nghiệp luôn lớn hơn chi phí khác, nghĩa là hoạt động khác của doanh nghiệp luôn có lời. Như vậy hoạt động khác có ảnh hưởng rất tốt đến kết quả hoạt động kinh doanh, bằng chứng là tổng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh và hoạt động khác luôn dương và có chiều hướng ngày càng tăng dần góp phần làm tăng tổng lợi nhuận của doanh nghiệp.
III. Đánh giá hoạt động phân tích tài chính công ty CP Everpia Việt Nam
1. Về công tác quản lý và tổ chức hành chính của công ty:
Việc tổ chức, phân bố nhân sự giữa các phòng ban rõ ràng và có sự tham mưu ý kiến lẫn nhau, đặc biệt là phòng kế toán và phòng kinh doanh đã làm cho hoạt động kinh doanh của công ty ngày càng tốt hơn.
Bộ máy quản lý gián tiếp, lực lượng lao động sản xuất trực tiếp được phân công, bố trí ngày càng hợp lý hơn đáp ứng kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Đội ngũ cán bộ công nhân viên chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn luôn hoạt động tích cực và hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Tuy nhiên bộ máy tổ chức và quản lý của công ty chưa có sự phân chia rõ ràng theo từng lĩnh vực hoạt động để giúp công ty quản lý dễ dàng và hiệu quả hơn, ngoài ra công ty chưa có đội ngũ cán bộ nghiên cứu thị trường và trình độ lao động ở các xí nghiệp trực thuộc chưa cao do chỉ đào tạo qua sơ cấp chứ chưa có trình độ chuyên môn.
2. Về công tác kế toán:
Công ty luôn tuân thủ một cách triệt để các qui định và các chuẩn mực kế toán được ban hành, luôn có sự tham mưu lẫn nhau giữa kế toán trưởng, phó phòng kế toán và các nhân viên kế toán về hạch toán kinh tế một cách chặt chẽ và đúng chế độ.
Công ty thường xuyên đưa nhân viên phòng kế toán tham gia các lớp tập huấn khi có chuẩn mực kế toán mới hoặc qui định kế toán mới ban hành.
Hướng dẫn và thường xuyên tổ chức kiểm tra kế toán tại công ty và các đơn vị trực thuộc về việc ghi chép, mở sổ sách kế toán theo đúng qui định và về việc lưu trữ, bảo quản các tài liệu, sổ sách kế toán.
Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các định suất, định mức tiêu hao nguyên vật liệu; lập kế hoạch tài chính, kế hoạch sản xuất kinh doanh giúp công ty hoạt động hiệu quả hơn.
Các nhân viên kế toán ở các đơn vị trực thuộc cũng luôn tuân thủ các chế độ kế toán căn cứ vào sự hướng dẫn và tham mưu của kế toán trưởng và phó phòng kế toán.
3. Về tình hình tài chính của công ty:
Qua toàn bộ quá trình phân tích trên đã giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát về tình hình tài chính của công ty :
Thứ nhất: Về cơ cấu tài chính
Nhìn chung qua 4 năm từ năm 2004 – 2007 qui mô của doanh nghiệp ngày càng được mở rộng, trong đó:
Về cơ cấu tài sản: Tỷ trọng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn có xu hướng giảm xuống, tuy nhiên các khoản phải thu giảm chậm và luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng tài sản lưu động, chứng tỏ mặc dù doanh nghiệp có cố gắng trong việc thu hồi nợ nhưng lượng vốn bị tồn đọng trong khâu thanh toán vẫn còn nhiều, công ty cần đưa lượng vốn bị chiếm dụng này vào đầu tư kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Tỷ suất đầu tư của doanh nghiệp có xu hướng tăng dần, điều này thể hiện sự chú trọng của công ty vào đầu tư đổi mới tài sản giúp cho cơ sở vật chất của doanh nghiệp ngày càng tăng cường và qui mô về năng lực sản xuất ngày càng mở rộng. Do doanh nghiệp đang trong thời kỳ đổi mới nên đây là sự thay đổi hợp lý.
Về cơ cấu nguồn vốn: Nguồn tài trợ qua các năm đều có xu hướng tăng cả về vốn chủ sở hữu lẫn vốn vay. Tuy nhiên nếu xét về mặt kết cấu thì tỷ suất nợ của doanh nghiệp có xu hướng tăng nhanh, như vậy để đẩy nhanh tốc độ tăng của lợi nhuận doanh nghiệp đã sử dụng đòn cân nợ, tức là vay và chiếm dụng vốn nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, điều này cũng có nghĩa là mức độ rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng cao. Ngược với sự gia tăng của tỷ suất nợ thì tỷ suất tự tài trợ lại có chiều hướng giảm, chứng tỏ tính tự chủ trong kinh doanh của doanh nghiệp giảm. Nhìn chung cơ cấu nguồn vốn của công ty hiện nay chưa hợp lý lắm, bằng chứng là trong năm 2007 có một phần nguồn vốn ngắn hạn được công ty chuyển sang tài trợ cho tài sản dài hạn dẫn tới sự mất cân đối giữa tài sản và nguồn vốn, đồng thời làm tăng áp lực thanh toán nợ ngắn hạn.
Thứ hai: Về tình hình thanh toán và khả năng thanh toán
Tình hình thanh toán của doanh nghiệp không khả quan lắm. Các khoản phải thu chiếm tỷ trọng ít hơn các khoản phải trả. Doanh nghiệp có cố gắng trong việc thu hồi nợ, tuy nhiên tỷ trọng khoản phải thu trong tổng tài sản lưu động lại có chiều hướng tăng, do đó doanh nghiệp cần tiếp tục đề ra các giải pháp hữu hiệu hơn nữa để đẩy nhanh tốc độ thu hồi nợ. Các khoản phải trả tăng rất nhanh, cho thấy yêu cầu thanh toán của doanh nghiệp ngày càng tăng. Khả năng thanh toán của công ty cũng có chiều hướng giảm, trong đó cần đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán bằng tiền vì chỉ số này rất thấp, mức độ đảm bảo nợ vay bằng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp cũng giảm. Mặc dù khả năng thanh toán trong năm 2007 không tốt bằng so với năm 2005 và 2006 nhưng doanh nghiệp vẫn có thể đảm bảo đủ khả năng thanh toán lãi vay và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước.
Thứ ba: Về hiệu quả sử dụng vốn
Dựa vào việc phân tích tốc độ luân chuyển vốn kết hợp với tỷ suất sinh lời các loại vốn ta thấy hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp có xu hướng giảm, thời hạn thu tiền của doanh nghiệp ngày càng dài hơn, chứng tỏ khả năng thu hồi vốn chậm, vốn của doanh nghiệp bị các đơn vị khác chiếm dụng và doanh nghiệp khó có điều kiện tích luỹ. Tuy nhiên công tác quản lý hàng tồn kho của doanh nghiệp rất tốt giúp công ty tiết kiệm được tương đối vốn dự trữ hàng tồn kho, giải phóng vốn dự trữ để đưa vốn vào sản xuất kinh doanh góp phần tăng lợi nhuận của công ty khi đang hoạt động có lãi.
Cuối cùng là về hiệu quả hoạt động kinh doanh:
Doanh thu của công ty có sự tăng trưởng tương đối nhanh, trong đó tăng cao nhất là vào năm 2007 đạt 387.311 triệu đồng, tương ứng là tăng 42,89% so với năm 2006 chứng tỏ công ty đã không ngừng đàm phán, tích cực tìm kiếm mở rộng các mối quan hệ kinh tế, đồng thời cũng thể hiện chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp ngày càng được nâng cao, tạo được uy tín trên thương trường.
Hiệu quả sử dụng chi phí của doanh nghiệp ngày càng tốt hơn góp phần nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tuy nhiên tỷ trọng giá vốn trong tổng doanh thu vẫn còn cao mà chủ yếu là do trong giai đoạn này doanh nghiệp đầu tư xây dựng mới và nâng cấp hệ thống nhà hàng, khách sạn nhằm thu hút khách hàng và nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch nên khoản chi phí khấu hao tài sản cố định tính vào giá vốn rất cao, đây là khoản chi phí không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu các cơ sở mới đi vào hoạt động, nhưng trong những năm tiếp theo những cơ sở này sẽ mang lại lợi ích cho công ty; ngoài ra giá vốn tăng còn. Do đó trong những năm tiếp theo để giảm giá vốn doanh nghiệp cần có những biện pháp giảm giá vốn của mặt hàng bông giúp tăng lợi nhuận của công ty.
Lợi nhuận của công ty cũng có chiều hướng tăng mặc dù chịu sự tác động tương đối lớn của hoạt động tài chính. Điều này chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ngày càng hiệu quả hơn, tuy nhiên tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu vẫn còn thấp, do đó trong những năm tới doanh nghiệp cần có những biện pháp giúp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành nhằm góp phần nâng cao lợi nhuận.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CÔNG TY CP EVERPIA VIỆT NAM
Trong quá trình thực tập và nghiên cứu về tình hình tài chính tại Công ty Everpia, em xin đề xuất một số kiến nghị và giải pháp như sau:
1. Về tình hình huy động vốn:
Dựa vào kết quả phân tích ta nhận thấy hiện nay Công ty đang sử dụng một cơ cấu vốn với nguồn tài trợ chủ yếu từ vốn vay do nguồn vốn tự có của công ty còn hạn chế. Như vậy để nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận công ty đã sử dụng đòn cân nợ. Việc sử dụng đòn cân nợ sẽ giúp doanh nghiệp gia tăng tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu khi doanh nghiệp đang hoạt động hiệu quả, nhưng đồng thời cũng làm gia tăng rủi ro cho nguồn vốn của doanh nghiệp và có thể dẫn đến tình trạng doanh nghiệp mất khả năng chi trả. Do đó trong những năm tới để giảm bớt rủi ro công ty nên giảm bớt nguồn vốn vay và thay vào đó là nhanh chóng thu hồi các khoản nợ để đưa vốn vào sản xuất.
2. Về tình hình thanh toán và khả năng thanh toán:
Công ty cần cải thiện hơn nữa tình hình thanh toán và khả năng thanh toán, đặc biệt là khả năng thanh toán bằng tiền. Để thực hiện được điều đó công ty cần phải quản trị tốt tiền mặt và các khoản phải thu. Việc quản trị tốt các khoản mục này một mặt giúp công ty giảm lượng vốn bị ứ đọng, vốn bị chiếm dụng, mặt khác có thể tận dụng các khoản vốn này một cách hiệu quả hơn vào sản xuất hoặc dùng để đáp ứng một cách kịp thời việc thanh toán tránh tình trạng thanh toán chậm trễ làm mất lòng tin đối với các nhà cho vay.
* Quản trị khoản phải thu:
Để quản trị tốt các khoản phải thu công ty phải có chính sách tín dụng tốt, chính sách tín dụng liên quan đến mức độ, chất lượng và rủi ro của doanh thu. Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố: Tiêu chuẩn bán chịu, thời hạn bán chịu, thời hạn chiết khấu, tỷ lệ chiết khấu. Việc hạ thấp tiêu chuẩn bán chịu hoặc mở rộng thời hạn bán chịu, hay tăng tỷ lệ chiết khấu đều có thể làm cho doanh thu và lợi nhuận tăng, đồng thời kéo theo các khoản phải thu, cùng với những chi phí đi kèm các khoản phải thu này cũng tăng và có nguy cơ phát sinh nợ khó đòi. Do đó công ty khi quyết định thay đổi một yếu tố nào cũng cần cân nhắc, so sánh giữa lợi nhuận mà doanh nghiệp có thể có được với mức rủi ro do gia tăng nợ không thể thu hồi mà doanh nghiệp phải đối mặt để có thể đưa ra chính sách tín dụng phù hợp.
Ngoài ra, công ty cần chú ý đến việc phân tích uy tín của khách hàng trước khi quyết định có nên bán chịu cho khách hàng đó hay không. Theo dõi các khoản phải thu thường xuyên để xác định đúng thực trạng của chúng và đánh giá tính hữu hiệu của các chính sách thu tiền. Nhận diện những khoản tín dụng có vấn đề và thu thập những tín hiệu để quản lý những khoản hao hụt.
Có sự ràng buộc chặt chẽ trong hợp đồng bán hàng.
*Quản trị tiền mặt:
Tăng tốc độ thu hồi tiền mặt bằng cách tăng tốc độ thu hồi cheque và giảm tốc độ thanh toán, tức là gia tăng khoảng thời gian giữa thời điểm phát hành cheque và thời điểm cheque được xuất trình. Đem lại cho khách hàng những khoản lợi để khuyến khích họ sớm trả nợ. Áp dụng những chính sách chiết khấu đối với những khoản thanh toán trước hay đúng hạn vì nợ được thanh toán tốt thì tiền đưa vào càng nhanh.
Lập lịch trình luân chuyển tiền mặt để luân chuyển tiền mặt hiệu quả giữa doanh nghiệp và ngân hàng. Lựa chọn phương thức chuyển tiền phù hợp, đúng thời hạn yêu cầu, chi phí không cao. Hoạch định ngân sách tiền mặt, thiết lập mức tồn quỹ tiền mặt.
Đầu tư các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi bằng cách mua chứng khoán ngắn hạn cho tới khi tiền được huy động vào kinh doanh.
3. Giảm bớt tỷ trọng các loại tài sản cố định không cần dùng, không đảm bảo kỹ thuật và năng lực sản xuất:
Đối với tài sản cố định chưa dùng công ty nên nhanh chóng đưa vào lắp đặt và vận hành nhằm phục vụ sản xuất.
Đối với tài sản cố định không cần dùng công ty có thể điều chuyển nội bộ giữa các đơn vị trực thuộc của công ty nếu có nhu cầu về tài sản đó, hoặc công ty có thể cho thuê, nhượng bán nhằm nhanh chóng thu hồi vốn.
Đối với các tài sản cố định chờ thanh lý công ty cần nhanh chóng tăng cường công tác thanh lý các tài sản này nhằm thu hồi vốn để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
4. Các biện pháp nâng cao khả năng sinh lời của công ty:
Nâng cao khả năng sinh lời của công ty cụ thể là nâng cao doanh thu, lợi nhuận và nâng cao khả năng sinh lời trên vốn sản xuất kinh doanh.
Để nâng cao khả năng sinh lời thì biện pháp hữu hiệu hơn cả là phải gia tăng lợi nhuận. Việc gia tăng lợi nhuận chịu ảnh hưởng của 2 nhân tố chủ yếu là doanh thu và chi phí. Như vậy để gia tăng lợi nhuận công ty phải tăng doanh thu và giảm chi phí.
*Một số biện pháp giúp tăng lợi nhuận:
Các phòng ban của công ty cần có các bộ phận quản lý riêng biệt theo từng lĩnh vực hoạt động để thuận tiện trong việc quản lý, dễ dàng phát hiện những sai sót và có nhữnggiải pháp thích hợp cũng như hoạch định những chiến lược cụ thể hơn, giúp doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả hơn.
Doanh nghiệp cần có đội ngũ nghiên cứu thị trường để có thể nắm bắt kịp thời, chính xác những thông tin về nguyên liệu, về thị trường tiêu thụ nhằm tránh những thiệt hại do sự biến động giá cả trên thị trường gây ra và giúp doanh nghiệp mở rộng thêm các mối quan hệ kinh tế.
Chủ động hơn nữa trong việc tìm kiếm đối tác để gia tăng sản lượng xuất khẩu nhằm gia tăng doanh thu, tăng khả năng cạnh tranh và nâng cao uy tín của công ty.
Hiện nay doanh thu của công ty có tăng nhưng giá vốn cao nên lợi nhuận tăng rất ít, vì vậy để đẩy nhanh tốc độ tăng của lợi nhuận công ty không chỉ tăng doanh thu mà còn cần phải quản lý tốt chi phí và giá thành hơn bằng cách nâng cao trình độ quản lý của lãnh đạo các phòng ban, ngoài ra công ty cũng cần sắp xếp lại nhân sự, giảm bớt lượng nhân viên thừa để từ đó giảm bớt chi phí tiền lương.
5. Sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực:
Theo số liệu thống kê hiện nay tỷ lệ nhân viên của công ty có trình độ đại học là 14,66%, cao đẳng là 1,44%, trung cấp là 12,26%, sơ cấp là 8,65% và lao động khác là 62,98%. Như vậy trình độ lao động hiện nay của công ty vẫn chưa cao, do đó việc đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ quản lý, nhân viên và bồi dưỡng tay nghề cho công nhân là việc mà doanh nghiệp cần quan tâm nhiều hơn, bởi vì đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào thì con người luôn là nguồn lực có giá trị nhất và là yếu tố quan trọng có tác động trực tiếp đến sự thành bại của doanh nghiệp.
Ngoài ra Ban Giám Đốc công ty nên đưa ra các chính sách cụ thể để khích lệ sự nhiệt tình, khả năng sáng tạo trong công việc, công ty cũng cần quan tâm đến công tác tuyển chọn nhân sự nhằm tuyển chọn được những người có năng lực, phát triển họ để người lao động có thể đáp ứng những đòi hỏi về trình độ vào công việc.
Kết luận
Cùng với sự chuyển đổi của nền kinh tế và xu thế hội nhập, hiệu quả hoạt động kinh doanh ngày càng trở thành mục tiêu lâu dài cần đạt tới của các doanh nghiệp. Đối với mỗi doanh nghiệp hiệu quả hoạt động kinh doanh thể hiện ở nhiều mặt và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó vấn đề tài chính là một trong những yếu tố hết sức quan trọng. Việc phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho nhà quản lý có cái nhìn toàn diện về tình hình tài chính, chẩn đoán một cách đúng đắn những “căn bệnh” của doanh nghiệp, từ đó cho “toa thuốc” hữu dụng và dự đoán được hệ quả tài chính từ các hoạt động của mình. Mặt khác đối với các nhà đầu tư và chủ nợ của doanh nghiệp thì đây là những nguồn thông tin có giá trị, ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định đầu tư của họ. Qua toàn bộ quá trình phân tích về tình hình tài chính của Công ty EVERPIA, nhìn chung công ty hoạt động kinh doanh hiệu quả, tuy nhiên tình hình tài chính chưa tốt lắm. Do đó trong các năm kế tiếp công ty nên chú trọng để khắc phục những yếu kém để nâng cao chất lượng, uy tín của công ty, giúp công ty đứng vững và phát triển trong tương lai.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Minh Huệ đã hướng dẫn em trong quá trình thực tập, cảm ơn các cô chú, anh chị tại phòng Kế toán_Tài chính Công ty EVERPIA đã cung cấp tư liệu và thông tin để giúp em hoàn thành Chuyên đề thực tập này!
Mục lục
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) TS.BÙI HỮU PHƯỚC, Sách Tài chính doanh nghiệp, NXB Lao động 2007
2) GS.TS TRẦN NGỌC THƠ, Sách Tài chính doanh nghiệp hiện đại , NXB Thống kê – 2006
3) PGS.TS. LƯU THỊ HƯƠNG, Giáo trình tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê – 2005
4) NGUYỄN LĂNG PHÚC, Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, NXB Thống kê – 2008
5) NGUYỄN THỊ MY, Phân tích hoạt động kinh doanh, NXB Thông Kê – 2006
6) PGS.TS. VŨ DUY HÀO, Quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB Tài chính – 2006.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7903.doc