Hoàn thiện công tác phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Chi Nhánh Hà Nội

Tài liệu Hoàn thiện công tác phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Chi Nhánh Hà Nội: ... Ebook Hoàn thiện công tác phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Chi Nhánh Hà Nội

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1308 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Chi Nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính quan trọng trong hệ thống tài chính của mỗi quốc gia. Nhờ có ngân hàng thương mại mà một lượng vốn nhàn rỗi lớn đã được chuyển dịch từ những người có vốn sang những người cần vốn. Trong hoạt động của mình, các ngân hàng thương mại luôn tìm cách để thu được lợi nhuận cao nhất có thế. Vì thế đôi khi có nhiều rủi ro xảy ra trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng đặc biệt là rủi ro trong hoạt động cho vay – một hoạt động mang lại nguồn lợi nhuận lớn cho các ngân hàng. Để hạn chế được rủi ro đó, trong quá trình thẩm định để đi đến quyết định cho vay, các ngân hàng thường rất chú trọng đến công tác phân tích tài chính khách hàng. Một khách hàng có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết là một trong những điều kiện tiên quyết để xem xét có cho vay hay không. Điều kiện này vừa mang lại thuận lợi cho ngân hàng lẫn khách hàng. Đối với khách hàng, có được khả năng tài chính tốt sẽ giúp cho khách hàng an tâm hơn về khả năng trả nợ khi đến hạn, do đó giữ được uy tín, cam kết đối với ngân hàng. Riêng đối với ngân hàng, việc xem xét khả năng tài chính của khách hàng giúp ngân hàng có thể giảm thiểu được rủi ro, tránh đưa ra những quyết định sai lầm: cho vay những khách hàng xấu và không cho vay những khách hàng tốt. Trong thời gian thực tập tại ngân hàng, cùng với sự giúp đỡ của các anh chị cán bộ nhân viên ngân hàng và sự giúp đỡ của Th.S Hoàng Lan Hương em đã có được những hiểu biết sâu hơn về công tác phân tích tài chính khách hàng và tầm quan trọng của công tác này trong hoạt động cho vay của ngân hàng vì thế em chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi Nhánh Hà Nội”. Kết cấu Khoá luận tốt nghiệp của em gồm có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng công tác phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay của ngân hàng TMCP Sài Gòn. Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay tại ngân hàng TMCP Sài Gòn. Phạm vi nghiên cứu của khoá luận tập trung vào công tác phân tích tài chính khách hàng ở đây chính là phân tích tài chính của doanh nghiệp vay vốn. Phương pháp sử dụng nghiên cứu là thu thập thông tin, phân tích và phỏng vấn trực tiếp cán bộ tín dụng. CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1.1. Khái quát về hoạt động cho vay của các NHTM 1.1.1. Khái niệm và phân loại cho vay Khái niệm cho vay Cho vay là một hình thức cấp tín dụng trong đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Thời hạn nhất định ở đây chính là thời hạn cho vay. Từ khái niệm trên có thể thấy bản chất của hoạt động cho vay là một giao dịch bằng tiền trên cơ sở hoàn trả và có đặc trưng sau: Người đi vay chỉ được sử dụng tiền vay trong khoảng thời gian nhất định theo thoả thuận và phải hoàn trả vô điều kiện khi đến hạn Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác người cho vay ngoài khoản vốn gốc ban đầu sẽ được nhận một khoản lãi do người đi vay trả. Phân loại cho vay: Các ngân hàng cung cấp nhiều loại hình cho vay khác nhau tương ứng với sự đa dạng trong mục đích vay vốn của khách hang - từ việc mua ô tô và sửa sắm các phương tiện sinh hoạt, tài trợ cho quá trình học tập đến việc xây dựng nhà ở, văn phòng… Chúng ta có thể sắp xếp danh mục các khoản vay rất đa dạng của ngân hàng thành từng nhóm dựa vào một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay không những tạo tiền đề thiết lập một quy trình cho vay thích hợp mà còn góp phần nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Phân loại cho vay có thể căn cứ vào một số tiêu thức sau: Theo mục đích sử dụng vốn vay, có thể chia thành: cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp, cho vay tiêu dùng cá nhân, cho vay bất động sản, cho vay nông nghiệp, cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu. Theo thời hạn, có thể chia thành: cho vay ngắn hạn (loại cho vay có thời hạn dưới 1 năm), cho vay trung hạn (loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm), cho vay dài hạn (loại cho vay có thời hạn trên 5 năm). Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, cho vay được chia thành 2 loại: cho vay không có bảo đảm, cho vay có bảo đảm Dựa vào phương thức cho vay, theo tiêu chí này sẽ chia thành: cho vay theo món và cho vay theo hạn mức. Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay, cho vay được chia thành: cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi đáo hạn, cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp, cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tuỳ vào khả năng tài chính của mình người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào. 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động cho vay Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu nhập chủ yếu của các ngân hàng. Vì thế có thể thấy cho vay là một trong những nghiệp vụ quan trọng của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại luôn tìm cách tăng quy mô cho vay của mình bằng nhiều cách thức khác nhau như: tăng quy mô của ngân hang đặc biệt là tăng vốn chủ sở hữu, mở rộng mạng lưới chi nhánh, đa dạng hoá các loại hình cho vay khác nhau, giảm lãi suất cho vay cũng như cung cấp các điều kiện ưu đãi cho khách hàng… Tuy nhiên có thể thấy cho vay là nghiệp vụ phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro. Rủi ro trong hoạt động của ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay. Tình trạng khó khăn về tài chính của một ngân hàng thường phát sinh từ các khoản cho vay. Rủi ro tiềm ẩn trong toàn bộ dư nợ cho vay của ngân hàng và gắn liền với khả năng khách hàng không trả nợ theo hợp đồng. Cụ thể là luồng thu nhập dự tính mang lại từ các tài sản có sinh lời của các ngân hàng có thể không hoàn trả đầy đủ xét cả về mặt số lượng và thời hạn. Khi các ngân hàng càng cố gắng mở rộng cho vay với mọi thành phần kinh tế thì khả năng xảy ra rủi ro càng nhiều mặc dù các ngân hàng thường cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Tuy nhiên không một nhà kinh doanh ngân hàng nào có thể đoán chắc được điều gì sẽ xảy ra với khả năng hoàn trả của khách hàng vì khả năng hoàn trả tiền của khách hàng có thể bị thay đổi bởi nhiều nguyên nhân: Thứ nhất, là những nguyên nhân bất khả kháng. Môi trường kinh tế có ảnh hưởng đến sức mạnh tài chính của người đi vay và thiệt hại hay thành công của người cho vay. Sự hưng thịnh hay suy thoái của chu kỳ kinh doanh, lạm phát, thiểu phát ảnh hưởng đến lợi nhuận của người vay, dẫn tới việc khách hàng không thanh toán gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng. Cơ chế chính sách của nhà nước và các ngành chưa đầy đủ, môi trường pháp lý chưa đồng bộ cũng sẽ tác động tới người vay làm khả năng trả nợ của họ bị giảm sút. Thứ hai, là những nguyên nhân từ phía khách hàng. Nhiều khách hàng sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận lớn. Họ không tính toán kỹ các bất trắc có thể xảy ra hoặc hoạch định không chính xác, không dự tính hết được rủi ro trong kinh doanh, những khoản chi phí phát sinh mới làm ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của mình dẫn đến không có đủ nguồn để trả nợ cho ngân hàng. Cũng có trường hợp khách hàng cố tình lừa dối để chiếm đoạt vốn của ngân hàng. Số lượng khách hàng như vậy không nhiều nhưng có thể gây tổn thất lớn cho ngân hàng vì để đạt được mục đích họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để đối phó với ngân hàng như cung cấp sai thông tin, hay mua chuộc cán bộ tín dụng. Thứ ba, là nguyên nhân thuộc về phía ngân hàng như: Chính sách tín dụng không hợp lý, quá nhấn mạnh vào lợi nhuận nên khi cho vay đã quá chú trọng về lợi tức, đặt mong ước về lợi tức cao hơn các khoản cho vay lành mạnh. Ngoài ra, trong thể lệ cho vay có những sơ hở để khách hàng lợi dụng chiếm đoạt vốn của ngân hàng. Cán bộ ngân hàng không tuân thủ chính sách, không chấp hành đúng quy định cho vay, như không thẩm định đầy đủ chính xác về khách hàng trước khi cho vay, cho vay không có dự án khả thi, cho vay khống, thiếu tài sản đảm bảo, cho vay vượt tỷ lệ an toàn…Cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức kinh doanh như thông đồng với khách hàng lập hồ sơ giả dối để vay vốn rồi vay ké. Có thể nói, chất lượng cán bộ nhân viên là một trong những nguyên nhân dẫn tới rủi ro trong hoạt động cho vay hiện nay tại các ngân hàng. Những rủi ro trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại phải đối mặt ngày càng phức tạp, đa dạng. Nhưng các ngân hàng không phải vì thế mà hạn chế hoạt động cho vay vì cho vay là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng đồng thời nâng cao được uy tín của ngân hàng trên thị trường. Vì những nguyên nhân đó, vấn đề quan trọng các ngân hàng phải đặt ra là làm thế nào để hạn chế các rủi ro trong hoạt động cho vay. Một trong những giải pháp quan trọng là phải tiến hành phân tích chi tiết khách hàng vay vốn bao gồm cả phân tích tài chính và phân tích phi tài chính. Tuy nhiên việc xác định được khả năng trả nợ của khách hàng thông qua phân tích phi tài chính là việc rất khó và chỉ mang tính định tính. Để đảm bảo an toàn và hiệu quả cho những khoản vay, cần phải tiến hành phân tích tài chính của khách hàng. Do đó, việc phân tích tài chính khách hàng không những là việc làm cần thiết mà phải là đòi hỏi bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại khi đứng trước nhu cầu vay vốn của khách hàng. 1.2. Phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay của NHTM. 1.2.1. Khái niệm và mục đích phân tích tài chính khách hàng Khái niệm: Phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại là việc sử dụng các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép xử lý thông tin kế toán và thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá hiện trạng tài chính, dự báo về tài chính tương lai của khách hàng, lường trước những khả năng có thể xảy ra làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng. Mục đích : Đối với các ngân hàng thương mại, việc tiến hành phân tích tài chính khách hàng nhằm mục đích sau: - Nhằm giúp các ngân hàng thương mại có quyết định đầu tư đúng đắn. Góp phần xác định khả năng thanh toán của khách hàng, làm cơ sở cho khả năng thu hồi lãi và vốn vay của các ngân hàng. Nhằm xác định rõ triển vọng quan hệ của ngân hàng với khách hàng trong tương lai. Làm cơ sở cho việc đánh giá xếp loại tín dụng và có biện pháp trích, phòng ngừa hợp lý. 1.2.2. Thông tin được sử dụng trong phân tích tài chính khách hàng. Bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính chủ yếu phản ánh tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp theo giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản tại một thời điểm nhất định (cuối quý, cuối năm). Việc so sánh giữa số liệu của hai thời điểm khác nhau trên bảng cân đối kế toán cũng có thể cho thấy sự biến động khái quát của tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp trong kỳ. Căn cứ vào số liệu về tổng tài sản và kết cấu tài sản hiện có của doanh nghiệp, ngân hàng đánh giá được một cách tổng quát quy mô tài sản, năng lực và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp. Tỷ lệ, kết cấu của từng nguồn vốn trong tổng nguồn vốn hiện có phản ánh tính chất hoạt động, thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán được kết cấu dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán và sắp xếp trật tự các chỉ tiêu theo yêu cầu quản lý. Bảng cân đối kế toán được chia làm hai phần là phần tài sản và phần nguồn vốn. Phần tài sản phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp đến cuối kỳ kế toán đang tồn tại dưới các hình thái và trong tất cả các giai đoạn, các khâu của quá trình kinh doanh. Các khoản mục của bên tài sản được sắp xếp theo khả năng chuyển hoá thành tiền giảm dần từ trên xuống. Phần nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp đến cuối kỳ hạch toán. Các chỉ tiêu ở phần nguồn vốn được sắp xếp theo từng nguồn hình thành tài sản của đơn vị (nguồn vốn của bản thân doanh nghiệp - vốn chủ sở hữu, vốn đi vay, vốn chiếm dụng..). Báo cáo kết quả kinh doanh Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một thời kỳ kế toán của doanh nghiệp, chi tiết theo hoạt động kinh doanh chính và các hoạt động kinh doanh khác, tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác. Kết quả hoạt động kinh doanh gồm ba phần: Phần I “Lãi, Lỗ” phản ánh tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Phần này có nhiều chỉ tiêu liên quan đến doanh thu, chi phí của hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính và các hoạt động bất thường khác. Tất cả các chỉ tiêu trong phần này đều trình bày: tổng số phát sinh trong kỳ báo cáo, số liệu của kỳ trước để so sánh, số luỹ kế từ đầu năm đến cuối kỳ báo cáo. Phần II “Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước” phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước về: thuế, phí, lệ phí và các khoản phải nộp khác. Phần III “Thuế GTGT được khấu trừ, thuế GTGT được hoàn lại, thuế GTGT được giảm, thuế GTGT hàng bán nội địa” Báo cáo kết quả kinh doanh cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả kinh doanh cho phép ngân hàng có thể dự tính được xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Nhìn chung, các ngân hàng chỉ dựa chủ yếu vào phần I “Lãi, lỗ” của báo cáo kết quả kinh doanh để tiến hành phân tích tài chính khách hàng. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ cho thấy tiền tệ của doanh nghiệp sinh ra từ đâu và sử dụng vào những mục đích gì. Từ đó, dự đoán được lượng tiền trong tương lai của doanh nghiệp, nắm được năng lực thanh toán hiện tại. Đồng thời thấy được quan hệ giữa lỗ, lãi ròng với luồng tiền tệ cũng như hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính ảnh hưởng tới mức độ nào, làm tăng hay giảm tiền tệ. Nội dung của báo cáo lưu chuyển tiền tệ gồm 3 phần sau: Phần I. Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh: Phản ánh toàn bộ dòng tiền vào và chi ra chủ yếu của doanh nghiệp, có liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các khoản thu bằng tiền như: tiền thu bán hàng, thu từ các khoản thu thương mại; chi phí bằng tiền như: tiền trả cho nhà cung cấp, tiền thanh toán cho công nhân viên, chi phí khác bằng tiền. Phần II. Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư: Phản ánh toàn bộ dòng tiền vào và chi ra chủ yếu của doanh nghiệp, có liên quan trực tiếp đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp gồm 2 phần: đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho bản thân doanh nghiệp, đầu tư vào các đơn vị khác. Phần III. Lưu chuyển từ hoạt động tài chính: Phản ánh toàn bộ dòng tiền vào và chi ra chủ yếu của doanh nghiệp, có liên quan trực tiếp đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính bao gồm các nghiệp vụ làm thay đổi quy mô và kết cấu nguồn vốn của doanh nghiệp như chủ doanh nghiệp góp vốn, vay vốn, phát hành cổ phiếu trái phiếu… Thuyết minh báo cáo tài chính Thuyết minh báo cáo tài chính là một báo cáo kế toán tài chính tổng quát nhằm mục đích giải trình và bổ sung, thuyết minh những thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo, mà chưa được trình bày chi tiết, đầy đủ trong báo cáo tài chính khác. Trên thực tế, phân tích báo cáo tài chính là nội dung chủ yếu để tiến hành phân tích tài chính khách hàng. Tuy nhiên, ngoài các báo cáo tài chính cán bộ tín dụng của ngân hàng có thể phân tích tài chính khách hàng thông qua các nguồn thông tin như: thông tin từ kết quả xếp hạng tín dụng của ngân hàng cho vay, thông tin lưu giữ tại CIC, thông tin từ các cuộc điều tra, phỏng vấn trực tiếp khách hàng (tham quan trực tiếp nhà xưởng, văn phòng, gặp trực tiếp các lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp…), thông tin từ các ngân hàng đã có quan hệ tín dụng với khách hàng, thông tin từ các đối thủ cạnh tranh. Nói chung thông tin phục vụ cho quá trình phân tích tài chính khách hàng có được từ nhiều nguồn khác nhau, không phải chỉ từ các báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp. Có những thông tin chính xác có những thông tin không chính xác, vì thế cán bộ tín dụng cần sáng suốt, có trình độ chuyên môn để nắm bắt, lựa chọn những thông tin tốt nhất phục vụ cho quá trình phân tích. Việc có được những nguồn thông tin sạch là hết sức quan trọng đối với cán bộ tín dụng nhằm tránh những rủi ro có thể cho ngân hàng. 1.2.3. Các phương pháp sử dụng để phân tích tài chính khách hàng Có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong việc phân tích tình hình tài chính khách hàng. Trong đó, có thể kể đến hai cách tiếp cận đó là dựa vào mục đích và theo loại phân tích. Phân tích nhu cầu nguồn vốn của doanh nghiệp. Phân tích tình hình tài chính và khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Phân tích rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp Quyết định nhu cầu nguồn vốn của doanh nghiệp Thương lượng với nhà cung cấp Hình 1.1 : Khuôn khổ phân tích tài chính dựa vào mục đích Phân tích tỷ số: Tỷ số thanh khoản Tỷ số nợ Tỷ số chi phí tài chính Tỷ số hoạt động Tỷ số khả năng sinh lợi Tỷ số tăng trưởng Phân tích so sánh: So sánh xu hướng So sánh trong ngành Phân tích cơ cấu Phân tích chỉ số Đo lường và đánh giá: Tình hình tài chính. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp Hình 1.2 : Khuôn khổ phân tích tài chính dựa vào loại phân tích. Trong khuôn khổ phân tích tài chính dựa vào loại phân tích, các cán bộ tín dụng thường sử dụng phương pháp tỷ số, phương pháp so sánh… Phương pháp tỷ số Phương pháp tỷ số là phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Nó có tính hiện thực cao, giúp nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách có hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo giai đoạn. Các tỷ số tài chính chủ yếu được phân thành các nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán – phản ánh khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp, nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn – phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp, nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động – phản ánh việc sử dụng tài nguyên, lao động.., nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lãi – phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp nhất của doanh nghiệp. Mỗi nhóm chỉ tiêu lại bao gồm những tỷ số riêng lẻ phản ánh từng bộ phận của hoạt động tài chính. Trong mỗi trường hợp, tùy thuộc vào mục tiêu phân tích tài chính mà ngân hàng sẽ chú trọng các chỉ tiêu khác nhau. Chẳng hạn đối với những khoản vay ngắn hạn, ngân hàng đặc biệt chú ý đến khả năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, với những khoản vay dài hạn thì ngân hàng thường quan tâm nhiều đến khả năng hoạt động, hiệu quả sản xuất – kinh doanh. Phương pháp so sánh So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích để đánh giá kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến động của các chỉ tiêu phân tích. Trong phân tích báo cáo tài chính, phương pháp so sánh thường được sử dụng bằng cách so sánh ngang, so sánh dọc. So sánh nganh báo cáo tài chính là việc so sánh, đối chiếu tình hình biến động cả về số tuyệt đối và số tương đối trên từng chỉ tiêu của từng báo cáo tài chính; còn so sánh dọc là việc sử dụng các tỷ suất, các hệ số thể hiện mối tương quan giữa các chỉ tiêu trong từng báo cáo tài chính và giữa các báo cáo để rút ra kết luận. Để áp dụng phương pháp so sánh cần chú ý những điều kiện sau: Điều kiện so sánh được của chỉ tiêu: phải thống nhất về nội dung phản ánh, về phương pháp tính toán, về thời gian và đơn vị đo lường. Gốc so sánh: việc xác định gốc so sánh tùy thuộc vào mục đích phân tích. Gốc so sánh thường được xác định về mặt thời gian, không gian. Về mặt thời gian có thể lựa chọn kỳ kế hoạch, kỳ trước, cùng kỳ này năm trước hay lựa chọn các điểm thời gian (năm, tháng, ngày cụ thể)…Về mặt không gian có thể lựa chọn các bộ phận của tổng thể, lựa chọn các đơn vị khác có cùng điều kiện tương đương. Phương pháp Dupont Ngoài hai phương pháp trên, để phân tích tài chính khách hàng, cán bộ tín dụng có thể sử dụng phương pháp Dupont. Đây là phương pháp phân tích các chỉ số tài chính dựa trên tỷ lệ so với doanh thu. Phương pháp này được sử dụng hiệu quả tại công ty Dopont do đó được gọi là phương pháp Dupont. Thực chất phương pháp này là tách một tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đối số tổng hợp, từ đó có thể nhận biết được nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt xấu trong hoạt động của doanh nghiệp.Ví dụ: Phân tích Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) Tû suÊt lîi nhuËn doanh thu Lîi nhuËn Doanh thu thuÇn Gi¸ vèn ThuÕ thu nhập Doanh thu thuÇn Tæng chi phÝ Chi phÝ b¸n hµng Chi phÝ QLDN Chi phÝ ho¹t ®éng tµi chÝnh Chi phÝ bÊt th­êng Doanh thu thuÇn Tµi s¶n ng¾n h¹n TiÒn §Çu t­ tµi chÝnh ng¾n h¹n Ph¶i thu Tån kho Tæng tµi s¶n bq Tµi s¶n dµi h¹n C¸c kho¶n ph¶i thu dµi h¹n Tµi s¶n cè ®Þnh C¸ckho¶n §TTCDH kh¸c Tµi s¶n dµi h¹n kh¸c Vßng quay toµn bé vèn Tµi s¶n ng¾n h¹n kh¸c Chia (:) (: ) + Trõ (-) ROA Hình 1.3: Phân tích phương trình Dupont Mô hình điểm số: Ở một số ngân hàng, người ta còn sử dụng phương pháp điểm số hay còn gọi là xếp hạng doanh nghiệp để phân tích tài chính doanh nghiệp. Mô hình này được thiết lập dựa vào các chỉ tiêu tài chính qua trọng phản ánh từ số liệu thống kê trong lịch sử. Tầm quan trọng của các chỉ tiêu sẽ xác định trọng số của chúng trong mô hình ứng dụng của từng doanh nghiệp, mô hình điểm số sẽ cho một kết quả nhất định. Nếu điểm số này của doanh nghiệp lớn hơn điểm chuẩn thì tình hình tài chính của doanh nghiệp có thể chấp nhận được, còn nếu nhỏ hơn điểm số chuẩn thì tình hình tài chính của doanh nghiệp không thể chấp nhận được. Mô hình điểm số được áp dụng nhiều nhất là mô hình Zeta, cụ thể như sau: Dựa theo số liệu thống kê của doanh nghiệp sản xuất mô hình điểm số có phương trình như sau: Z = 0.012X + 0.014Y + 0,033E + 0.006F + 0.999G Với = Tài sản lưu động thuần/ Tổng tài sản = Lãi chưa phân phối/ Tổng tài sản = Lợi nhuận trước thuế và lãi/ Tổng tài sản = Giá trị thị trường của tổng vốn CSH/ Giá trị sổ sách của tổng số nợ = Doanh thu/ Tổng tài sản Nếu doanh nghiệp có điểm số Z 2.29 thì thuộc loại doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt. Nếu Z trong khoảng từ 1.81 – 2.99, doanh nghiệp thuộc loại tình hình tài chính chưa xác định được là tốt hay không tốt. Có thể thấy, tùy vào từng tình hình khách hàng, các cán bộ tín dụng có thể sử dụng một phương pháp phân tích hoặc sử dụng tổng hợp các phương pháp khác nhau để đạt được hiệu quả cao nhất trong phân tích tài chính khách hàng. 1.2.4. Quy trình phân tích tài chính khách hàng. Phân tích tài chính khách hàng là công việc hết sức phức tạp và đòi hỏi phải được chuẩn hóa một cách khoa học và chặt chẽ để từ đó có thể thẩm định và đánh giá chính xác về năng lực tài chính của khách hàng vay vốn. Vì thế các ngân hàng thường đặt ra quy trình phân tích tài chính khách hàng như sau: Thứ nhất, thu thập và xử lý thông tin về khách hàng vay vốn. Ngân hàng phải thu thập và xử lý thông tin liên quan bao gồm: năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu tài sản và các điều kiện kinh tế khác liên quan đến người vay. Thứ hai, Phân tích tình hình tài chính khách hàng. Phân tích trước khi vay: Khái quát tình hình tài chính của khách hàng vay vốn. Chủ yếu tập trung phân tích dựa vào báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp (phân tích các khoản mục trên bảng cân đối, phân tích luồng tiền); phân tích tình hình thực hiện các chỉ tiêu tài chính của khách hàng. Kết quả phân tích trước khi cho vay cho thấy được một phần tình hình tài chính của khách hàng trong quá khứ và hiện tại. Đây là giai đoạn quan trọng để ngân hàng ra quyết định có cho vay hay không và cho vay ở mức như thế nào. Tuy nhiên, việc tiến hành phân tích trước khi vay không thể là một bảo đảm cho khả năng có thể trả nợ của khách hàng vì trong quá trình kinh doanh trong tương lai có rất nhiều những dự đoán có thể không chính xác. Do đó, nếu chỉ dừng lại ở việc phân tích trước khi vay là không đủ, đòi hỏi các ngân hàng phải tiến hành phân tích ở các giai đoạn tiếp theo để có những biện pháp giảm thiểu rủi ro, đảm bảo khoản vay được sử dụng đúng mục đích và mang lại hiệu quả. Phân tích trong khi cho vay: Sau khi quyết định cho khách hàng vay và tiến hành giải ngân cho khách hàng, ngân hàng vẫn tiến hành phân tích tài chính khách hàng theo định kỳ. Việc phân tích này giúp ngân hàng thấy được vốn vay được sử dụng có đúng mục đích hay không, hiệu quả của việc đầu tư thế nào, có những dấu hiệu gì ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng không. Có thể nói đây là giai đoạn thu thập thêm thông tin về khách hàng vay vốn. Nếu thông tin theo chiều hướng tốt thì chất lượng tín dụng sẽ được đảm bảo nhưng nếu thông tin theo chiều hướng xấu thì tùy tình hình, ngân hàng sẽ có những biện pháp thích hợp như: có thể thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân, yêu cầu cung cấp thêm tài sản đảm bảo… Phân tích sau khi vay: Nhiều cán bộ tín dụng cho rằng: khi khoản vay đã được giải ngân rồi thì không cần phải phân tích tài chính của khách hàng vay nữa. Điều này là không đúng vì sau khi đã tiến hành giải ngân cho khách hàng và khách hàng vẫn chưa trả hết nợ cho ngân hàng thì rủi ro đối với khoản vay vẫn còn lớn. Vì thế việc phân tích sau khi vay giúp ngân hàng xác định được nguyên nhân đối với những khoản vay không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ và đúng hạn, từ đó kịp thời đưa ra những quyết định mới liên quan đến sự an toàn của khoản vay. 1.2.5. Nội dung phân tích tài chính khách hàng Tình hình tài chính khách hàng lành mạnh là một trong những điều kiện để xem xét cho doanh nghiệp vay vốn. Về phía doanh nghiệp, do biết được điều này nên khi lập hồ sơ vay vốn, doanh nghiệp luôn thể hiện tình hình tài chính của mình lành mạnh và có khả năng tài chính đảm bảo tốt cho việc trả nợ. Thế nhưng tình hình tài chính của doanh nghiệp có tốt thực sự hay không cần phải phân tích và thẩm định mới đánh giá được. Để phân tích tài chính khách hàng cần tập trung vào các nội dung sau: thẩm định mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính, phân tích báo cáo tài chính, các tỷ số tài chính, đánh giá chung tình hình tài chính doanh nghiệp. 1.2.5.1. Thẩm định mức độ tin cậy của báo cáo tài chính Báo cáo tài chính bao gồm có Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy, không phải tất cả các doanh nghiệp đều có đủ năng lực để lập được tất cả các báo cáo trên. Vì thế khi doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng, các ngân hàng thường chỉ yêu cầu có bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh và thuyết minh báo cáo tài chính của hai kỳ gần thời điểm vay nhất. Các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp gửi cho ngân hàng là những thông tin cung cấp ra bên ngoài, với mục đích vay vốn, vì thế nên mục tiêu soạn thảo báo cáo tài chính có thể khác biệt so với mục tiêu soạn thảo báo cáo tài chính cho nội bộ doanh nghiệp. Vì vậy mức độ tin cậy về số liệu của các báo cáo tài chính của khách hàng cung cấp chưa đảm bảo. Do đó, việc thẩm định mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính là cần thiết đối với một cán bộ tín dụng. Tuy nhiên vấn đề là thẩm định như thế nào để có thể đánh giá chính xác độ tin cậy của báo cáo tài chính lại là một vấn đề không dễ dàng đối với các ngân hàng. Đối với những khoản vay có giá trị lớn của những khách hàng lớn, vì tính chất quan trọng của các khoản vay, ngân hàng có thể yêu cầu doanh nghiệp cung cấp báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Khi đó, công ty kiểm toán sẽ giúp ngân hàng đánh giá và chịu trách nhiệm về mức độ tin cậy của số liệu trong các báo cáo tài chính. Tuy nhiên, thực tế thấy rằng, việc yêu cầu khách hàng cung cấp báo cáo đã được kiểm toán là khó khăn vì hiện nay ở nước ta chưa có một quy định bắt buộc các doanh nghiệp phải tiến hành kiểm toán. Do đó, thẩm định độ tin cậy của các báo cáo tài chính của doanh nghiệp là việc làm cần thiết và thường xuyên của các cán bộ tín dụng trước khi tiến hành công tác phân tích báo cáo tài chính của khách hàng. Thực hiện việc đánh giá mức độ tin cậy của báo cáo tài chính, nhân viên tín dụng có thể thực hiện các bước sau: Nghiên cứu số liệu của báo cáo tài chính. Sử dụng kiến thức kế toán tài chính và kỹ năng phân tích để phát hiện những điểm đáng nghi ngờ hay những bất hợp lý trong các báo cáo tài chính. Xem xét bảng thuyết minh để hiểu rõ hơn về những điểm đáng nghi ngờ trong báo cáo tài chính. Có thể gặp trực tiếp khách hàng để trao đổi, thảo luận về những điểm đáng nghi ngờ mà cán bộ tín dụng phát hiện được. Đến thăm doanh nghiệp để quan sát và nếu cần tận mắt xem lại tài liệu kế toán và chứng từ gốc làm căn cứ lập báo cáo tài chính. Kết luận sau cùng về mức độ tin cậy của báo cáo tài chính do danh nghiệp cung cấp. Một lưu ý khi thẩm định mức độ tin cậy của báo cáo tài chính là nhân viên tín dụng thường đứng trước khó khăn phải làm việc và đối phó với kế toán trưởng hoặc nhân viên kế toán giỏi. Vì thế, trang bị cho cán bộ tín dụng kiến thức về kế toán tài chính là hết sức cần thiết. Thêm vào đó, các cán bộ tín dụng phải không ngừng nâng cao đúc rút kinh nghiệm thực tiễn để có được những đánh giá chính xác. 1.2.5.2. Phân tích báo cáo tài chính. Khi tiến hành phân tích báo cáo tài chính của khách hàng, cán bộ tín dụng sẽ tiến hành phân tích từng báo cáo một với việc chú ý đến những khoản mục có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của khách hàng. a, Bảng cân đối kế toán: Cán bộ tín dụng xem xét số liệu trong bảng cân đối kế toán để so sánh sự tăng giảm về số tuyệt đối, tương đối giữa các năm, chủ yếu phân tích tập trung vào những nội dung sau: Thứ nhất, với danh mục tài sản: cán bộ tín dụng cần chú ý đến: - Loại tài sản mà doanh nghiệp sở hữu và giá trị của chúng. - Sự luân chuyển tài sản của doanh nghiệp, chú ý đến sự thay đổi của các khoản mục: + Dự trữ tiền mặt và các khoản có thể chuyển đổi thành tiền. + Trên cơ sở bảng kê chi tiết các khoản phải thu do khách hàng cung cấp, phân tích tình trạng các khoản phải thu, đánh giá các khoản phải thu có giá trị lớn, khoản phải thu khó đòi, dự phòng khoản phải thu khó đòi, v._.òng quay các khoản phải thu. Đây là chỉ tiêu quan trọng cần được phân tích cẩn thận vì chúng có thể là nguồn trả nợ chủ yếu chi trả các khoản vay ngắn hạn của khách hàng. + Trên cơ sở bảng kê chi tiết các hàng tồn kho: phân tích tình trạng hàng tồn kho, hàng tồn kho kém phẩm chất, dự phòng giảm giá hàng tồn kho, vòng quay hàng tồn kho. Giá trị của hàng tồn kho phụ thuộc lớn vào phương pháp định giá. Có nhiều phương pháp định giá hàng tồn kho. Nhưng loại tài sản này nên được định giá ở mức thấp nhất giữa giá trị nguyên giá và giá trị thị trường. + Đối với tài sản cố định, thông thường ngân hàng không quan tâm đến việc bán tài sản cố định để tài trợ cho các khoản vay nhưng nếu tài sản cố định được dùng làm tài sản đảm bảo cho những khoản vay thì giá trị của tài sản cố định lại là một chỉ tiêu đáng quan tâm. Giá trị này thường phụ thuộc vào phương pháp khấu hao và cán bộ tín dụng cần đi kiểm tra trực tiếp để có sự tham khảo giá trị thị trường. Thứ hai, với danh mục nguồn vốn, cán bộ tín dụng chú ý đến các vấn đề sau: - Về tình trạng nguồn vốn của doanh nghiệp: Khi xem xét nợ phải trả của khách hàng, vấn đề ngân hàng đặt ra là kiểm tra số tiền và kỳ hạn trả nợ. Nợ phải trả được chia làm hai loại: nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. Nợ ngắn hạn là các khoản nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán trong thời gian ngắn sắp tới thường là 1 năm hay một chu kỳ kinh doanh. Nợ ngắn hạn bao gồm các khoản vay và nợ ngắn hạn, khoản phải trả,chi phí chưa thanh toán, thuế và các khoản phải nộp nhà nước, nợ dài hạn đến hạn trả. Các khoản vay ngắn hạn phản ánh tổng số tiền mà doanh nghiệp vay ngắn hạn của ngân hàng, của các tổ chức tín dụng khác. Cán bộ tín dụng cần có một danh sách về các giấy nợ ghi rõ số tiền vay và tài sản đảm bảo cho khoản vay đó để tránh tình trạng doanh nghiệp sử dụng một tài sản đảm bảo cho nhiều khoản vay ở nhiều ngân hàng khác nhau. Đối với nợ dài hạn, chú ý đến số tiền vay và thời hạn các khoản nợ dài hạn. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng thường không quan tâm nhiều như nợ ngắn hạn nhất là đối với mục đích cho doanh nghiệp vay ngắn hạn. Các khoản nợ dài hạn sẽ không gây khó khăn khi có nguồn tiền đầy đủ sẵn sàng để trả nợ dài hạn. Ngoài ra, ngân hàng còn quan tâm đến vị trí của mình trong danh sách các chủ nợ của khách hàng. Nếu ngân hàng giữ vị trí quan trọng nhất thì khả năng thu hồi nợ khi doanh nghiệp bị phá sản sẽ được ưu tiên hơn. Đối với vốn chủ sở hữu, đây là một khoản mục được chủ các ngân hàng quan tâm. Việc tăng vốn chủ sở hữu là một biểu hiện của sự tiến bộ về tài chính của doanh nghiệp. Số vốn chủ cần thiết để cho vay an toàn sẽ biến đổi phụ thuộc vào đặc điểm và quy mô kinh doanh của doanh nghiệp, sự đầy đủ của các luồng tiền, tài sản đảm bảo và các nhân tố khác. Một số ngân hàng cho rằng doanh nghiệp cần có vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn lớn hơn nợ vay. Tuy nhiên trong một số ngành đặc biệt mang tính thời vụ, quy tắc này có thể không phù hợp. Thứ ba, nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn. Cán bộ tín dụng nhận xét xem cơ cấu nguồn vốn và tài sản có hợp lý, phù hợp với loại hình doanh nghiệp hay không? Để tiến hành phân tích nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn, cán bộ tín dụng có thể sử dụng bảng kê nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn. Để lập được bảng kê nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn, cán bộ tín dụng cần tổng hợp sự thay đổi của các khoản mục trong bảng cân đối kế toán giữa hai thời điểm là đầu kỳ và cuối kỳ. Mỗi một sự thay đổi của từng khoản mục trong bảng cân đối kế toán đều được xếp vào một cột diễn biến nguồn vốn hoặc sử dụng vốn theo cách thức sau: Tăng các khoản nợ phải trả, tăng vốn chủ sở hữu, cũng như sự giảm tài sản của doanh nghiệp chỉ ra sự diễn biến của nguồn vốn và được xếp vào cột diễn biến nguồn. Tăng tài sản của doanh nghiệp, giảm các khoản nợ và vốn chủ sở hữu được xếp vào cột sử dụng vốn. Bảng 1.4: Bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn Đơn vị tính:………. STT CHỈ TIÊU ĐẦU NĂM CUỐI KỲ SỬ DỤNG VỐN NGUỒN VỐN I Tài sản 1 Tiền và tương đương tiền 2 Các khoản phải thu 3 Dự trữ 4 Tài sản lưu động khác 5 Tài sản cố định 6 Các khoản đầu tư tài chính dài hạn 7 Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 8 Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn II Nguồn vốn 1 Nợ ngắn hạn 2 Nợ dài hạn 3 Nợ khác 4 Nguồn vốn và quỹ 5 Nguồn kinh phí khác và quỹ khác Bảng kê nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn là một cơ sở và công cụ để các nhà quản trị tài chính hoạch định tài chính cho kỳ tới bởi lẽ mục đích chính của nó là trả lời cho câu hỏi: vốn được hình thành từ đâu và được sử dụng vào việc gì? Thông qua việc thiết lập bảng kê trên, cán bộ tín dụng có thể thấy được những trọng điểm đầu tư vốn của doanh nghiệp và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để đầu tư. Từ đó xác định được hướng sử dụng vốn và mức độ hợp lý của các khoản tài trợ của doanh nghiệp. Thứ tư, cán bộ tín dụng có thể tiến hành phân tích vốn lưu động ròng (VLĐR). Vốn lưu động ròng được xác định bằng hiệu giữa tài sản lưu động và nguồn vốn ngắn hạn. VLĐR= TSLĐ – NVNH = NVDH - TSCĐ Nếu VLĐR > 0, doanh nghiệp đang áp dụng chính sách tài trợ bảo thủ, nghĩa là dùng toàn bộ nguồn ngắn hạn và một phần nguồn dài hạn để đầu tư vào tài sản lưu động. Như vậy doanh nghiệp sẽ tài trợ cho các khoản vay ngắn hạn bằng cách bán tài sản lưu động, khi đó khả năng thanh toán của doanh nghiệp được đảm bảo nhưng khả năng sinh lời của doanh nghiệp giảm sút vì lãi tiền vay dài hạn thường cao hơn lãi tiền vay ngắn hạn cho nên sẽ làm tăng chi phí của doanh nghiệp. Nếu VLĐR < 0, doanh nghiệp sử dụng chính sách tài trợ mạnh dạn, nghĩa là dùng một phần nguồn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản lưu động và một phần nguồn dài hạn tài trợ cho tài sản cố định. Trong trường hợp này sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí sử dụng vốn, khả năng sinh lời cao nhưng khả năng thanh toán sẽ giảm. Nếu VLĐR = 0, doanh nghiệp đang áp dụng chính sách tài trợ trung hòa, nghĩa là dùng toàn bộ nguồn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản lưu động và toàn bộ nguồn dài hạn để tài trợ cho tài sản cố định. Với chính sách này thì doanh nghiệp vừa đảm bảo được khả năng thanh toán nợ ngắn hạn vừa đảm bảo khả năng sinh lời. Tuy nhiên rất ít doanh nghiệp áp dụng chính sách này. Nhìn chung thì các ngân hàng thường đồng ý cho vay đối với các doanh nghiệp có vốn lưu động ròng (VLĐR) bằng 0 hoặc lớn hơn 0 để đảm bảo an toàn cho các khoản vay. b, Báo cáo kết quả kinh doanh: Để kiểm soát các hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, cán bộ tín dụng cần xem xét tình hình biến động trong các khoản mục của báo cáo kết quả kinh doanh. Khi phân tích cần tính ra và so sánh mức và tỷ lệ biến động giữa các kỳ phân tích so với kỳ gốc trên từng chỉ tiêu. Bên cạnh đó cần phải so sánh tình hình biến động của từng chỉ tiêu với doanh thu thuần. Cụ thể là: So sánh các khoản chi phí với doanh thu thuần để biết được để có 1 đơn vị doanh thu thuần thì phải hao phí bao nhiêu đơn vị chi phí tương ứng. Mức hao phí tính ra càng lớn so với kỳ gốc thì hiệu quả kinh doanh càng giảm và ngược lại. So sánh các khoản lợi nhuận với doanh thu thuần. Cách so sánh này cho biết một đơn vị doanh thu thuần thì đem lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đơn vị lợi nhuận. Giá trị lợi nhuận đem lại càng lớn so với kỳ gốc, chứng tỏ hiểu quả kinh doanh càng cao và ngược lại. c, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ cung cấp cho cán bộ tín dụng biết được tiền tệ của doanh nghiệp sinh ra từ đâu và sử dụng vào những mục đích gì. Từ đó, dự đoán được lượng tiền trong tương lai của doanh nghiệp, nắm được năng lực thanh toán hiện tại cũng như biết được sự biến động của từng chỉ tiêu, từng khoản mục trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Đồng thời, cán bộ tín dụng sẽ thấy được quan hệ lỗ (lãi) ròng với luồng tiền tệ cũng như các hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính ảnh hưởng tới tiền tệ ở mức độ nào, làm tăng hay giảm tiền tệ. Khi phân tích cán bộ tín dụng phải xem xét sự vận động của dòng tiền. Sự vận động đó được thể hiện ở ba bộ phận: dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh, dòng tiền từ hoạt động đầu tư, dòng tiền từ hoạt động tài chính. Cán bộ tín dụng có thể tính ra tỷ trọng tiền tạo ra từ hoạt động kinh doanh so với tổng lượng tiền lưu chuyển trong kỳ. Chỉ tiêu này cho biết khả năng tạo tiền từ hoạt động kinh doanh so với các hoạt động trong kỳ là cao hay thấp. Giá trị của chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ khả năng tạo tiền từ hoạt động kinh doanh, cho thấy lượng tiền tạo ra chủ yếu từ hoạt động kinh doanh chứ không phải hoạt động tài chính hay hoạt động đầu tư và ngược lại. Tiếp theo tiến hành so sánh cả về số tuyệt đối và số tương đối giữa kỳ phân tích với kỳ gốc trên các chỉ tiêu: lưu chuyển tiền tệ thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính. Việc so sánh này sẽ cho biết mức độ ảnh hưởng của lượng tiền lưu chuyển thuần trong từng hoạt động đến chỉ tiêu lưu chuyển tiền tệ thuần trong kỳ. Cuối cùng cán bộ tín dụng đi sâu vào so sánh tình hình biến động của từng khoản mục trong từng hoạt động đến lượng tiền lưu chuyển giữa kỳ này với kỳ trước. Thêm nữa, trên cơ sở báo cáo lưu chuyển tiền tệ cán bộ tín dụng có thể thấy được mức ngân quỹ doanh nghiệp đang duy trì đã hợp lý chưa. Nếu số ngân quỹ quá lớn tức là đã có một số vốn lớn không được đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh, làm giảm khả năng sinh lời. Nếu mức ngân quỹ quá nhỏ thì sẽ khó đảm bảo khả năng thanh toán ngắn hạn cho doanh nghiệp. d, Thuyết minh báo cáo tài chính. Thuyết minh báo cáo tài chính là nguồn cung cấp bổ sung thêm thông tin của các báo cáo đã đề cập ở trên. Vì thế đối với thuyết minh báo cáo tài chính, cán bộ tín dụng có thể có thêm các thông tin về chế độ kế toán đang áp dụng tại doanh nghiệp vay vốn, phương pháp hạch toán, phương pháp tính khấu hao, tính giá thành sản phẩm…, có thêm thông tin để tiến hành phân tích, đánh giá tình hình tăng giảm tài sản cố định theo từng loại, từng nhóm; tình hình tăng giảm vốn chủ sở hữu theo từng loại nguồn vốn và phân tích tình hình hợp lý trong việc phân bổ vốn cơ cấu, khả năng thanh toán của doanh nghiệp…Đồng thời, có thông tin để tiến hành phân tích đánh giá một cách cụ thể, chi tiết hơn về tình hình chi phí, thu nhập và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Tóm lại, việc phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp đã cho cán bộ tín dụng thấy được cái nhìn khái quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp xin vay vốn. Tuy nhiên để có thể đánh giá một cách chính xác hơn về tình hình tài chính của doanh nghiệp, cần đi vào phân tích các nhóm chỉ tiêu tài chính cơ bản: nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán, nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, phản ánh cơ cấu vốn. 1.2.5.3. Phân tích các tỷ số tài chính Để tiến hành phân tích tài chính khách hàng bằng việc phân tích các tỷ số tài chính, có thể tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Xác định đúng công thức đo lường chỉ tiêu cần phân tích. Bước 2: Xác định đúng số liệu từ báo cáo tài chính để lắp vào công thức. Bước 3: Giải thích ý nghĩa của chỉ số vừa tính toán. Bước 4: Đánh giá tỷ số vừa tính toán (cao, thấp, hay phù hợp). Bước 5: Rút ra kết luận về tình hình tài chính của khách hàng. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán Các chỉ tiêu phản ánh là tỷ số đo lường khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của công ty. Các tỷ số này xác định từ dữ liệu của bảng cân đối kế toán là đủ. Đứng trên góc độ ngân hàng, các tỷ số này rất quan trọng vì nó giúp ngân hàng đánh giá được khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp. (1) Thước đo tiền mặt = Tồn quỹ tiền mặt + Những tài sản có thể bán bình quân chuyển thành tiền dễ dàng Cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ thường xuyên, nếu bằng hoặc lớn hơn số nợ phải thanh toán thường xuyên hàng tháng là tốt. TSLĐ và đầu tư ngắn hạn (2) Hệ số khả năng thanh toán hiện hành = ------------------------------- Nợ ngắn hạn Hệ số này cho biết khách hàng có đủ tài sản lưu động để đảm bảo trả nợ ngắn hạn. Một doanh nghiệp không thể đáp ứng được nhu cầu thanh toán ngắn hạn thì doanh nghiệp đó dù có các số liệu tài chính bên ngoài lành mạnh và có lãi cũng có thể bị buộc phải dừng mọi hoạt động kinh doanh vì mất khả năng thanh toán. Các ngân hàng thường yêu cầu chỉ tiêu này của doanh nghiệp phải lớn hơn 1 nhưng lớn hơn bao nhiêu thì tốt còn phụ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp ở từng ngành nghề khác nhau. Sử dụng hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn để đánh giá khả năng thanh toán hiện hành có nhược điểm là có thể bị méo mó bởi thủ thuật của nhà quản lý bởi giá trị và mức luân chuyển của hàng tồn kho và nợ phải thu không đòi được (khó chuyển hóa thành tiền). Do đó, cần loại bỏ hai yếu tố đó khi tính khả năng thanh toán, chỉ tiêu sử dụng sẽ là: hệ số khả năng thanh toán nhanh. Đầu tư ngắn hạn + tiền (3) Hệ số khả năng thanh toán nhanh = -------------------------------- Nợ ngắn hạn Hệ số này cho biết khả năng huy động các nguồn tiền có thể huy động nhanh và các chứng khoán có thể dễ dàng chuyển được thành tiền để trả nợ. Tỷ lệ này > 0,5 là tốt. Tóm lại, nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp nhằm xác định khả năng sẵn sàng trả nợ của doanh nghiệp, điều này rất quan trọng đối với ngân hàng khi ra quyết định cho vay khách hàng và đảm bảo chất lượng tín dụng của khoản vay. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động Tỷ số hoạt động là những tỷ số tài chính được xác định dựa vào thông rút ra từ cả bảng cân đối tài sản và báo cáo kết quả kinh doanh. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm: Doanh thu thuần (4) Vòng quay của vốn lưu động = -------------------------------------- Tài sản lưu động bình quân Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ kinh doanh số vốn lưu động quay được mấy vòng. Nếu số vòng quay chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại. Do đó, chỉ số này càng lớn càng tốt. Các khoản phải thu (5) Chu kỳ thu hồi vốn trung bình = ------------------------------------ Tiền bán hàng trung bình 1 ngày Cho biết chất lượng các khoản nợ phải thu, thời gian đọng vốn có hợp lý hay không, tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt. Doanh thu thuần (6) Hệ số quay vòng các khoản phải thu: = ------------------------------- Các khoản phải thu bình quân Tỷ số này cho thấy một cái nhìn sâu vào chất lượng các khoản phải thu và tốc độ thu hồi các khoản nợ. Hệ số quay vòng nhanh thì tốc độ thu hồi các khoản nợ nhanh. Nhưng cần lưu ý rằng chỉ tiêu này có thể không phản ánh được thời hạn tín dụng bình thường trong năm của doanh nghiệp nếu bảng cân đối được lập ra ở một thời điểm đặc biệt. Chẳng hạn như vào đầu năm doanh nghiệp bán chịu cho khách hàng, ứng tiền trước cho nhà cung cấp nên các khoản phải thu sẽ lớn. Cuối năm các khoản phải thu sẽ nhỏ hơn vì các doanh nghiệp đang thu hồi. Cán bộ tín dụng khi phân tích phải nắm rõ chu kỳ sản xuất kinh doanh của các đơn vị để xác định vòng quay các khoản phải thu cho chính xác. Giá vốn hàng bán (7) Hệ số vòng quay hàng tồn kho = ----------------------------------- Hàng tồn kho bình quân Chỉ tiêu này cho cán bộ tín dụng biết doanh nghiệp có quản lý hàng tồn kho hiệu quả hay không. Nó đo lường số lần vốn đầu tư vào hàng tồn kho quay vòng trong năm, cho biết chu kỳ luân chuyển vật tư hàng hoá bình quân. Nếu vòng quay hàng tồn kho quá cao thì rất có thể là do mức tồn kho của doanh nghiệp dưới mức tối ưu và điều này có thể dẫn đến tình trạng hàng tồn kho không đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và bỏ lỡ cơ hội bán hàng. Nhưng nếu như chỉ tiêu này quá thấp có thể doanh nghiệp đã mua sắm hàng hóa, sản xuất hoặc kiểm soát hàng tồn kho không tốt. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời. Khả năng sinh lời của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng trả nợ và lãi. Do vậy, khi cho vay cán bộ tín dụng cũng cần quan tâm đến phân tích khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Tùy theo mục tiêu phân tích khả năng sinh lời, có thể sử dụng các tỷ số sau đây: Lợi tức trước thuế (8) Khả năng sinh lời tổng tài sản = -------------------------------------- Tổng tài sản Cho biết khả năng sinh lời của tổng tài sản, mỗi đồng giá trị tài sản tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận sử dụng trong công thức trên có thể là lợi nhuận sau thuế hoặc lợi nhuận trước thuế tùy mục tiêu phân tích. Tỷ lệ này càng cao càng tốt. Lợi nhuận sau thuế (9) Khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu = --------------------------- Vốn chủ sở hữu Cho biết mức lợi nhuận đạt được trên vốn chủ sở hữu. Một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận sau thuế (10) Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = ------------------------------- Doanh thu bán hàng Cho biết năng lực kinh doanh, cạnh tranh của doanh nghiệp trong việc tạo ra lợi nhuận, tỷ suất càng cao càng tốt. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu vốn Trong khi tiến hành hoạt động đầu tư và kinh doanh dù ban đầu doanh nghiệp đã có kết cấu các loại vốn tối ưu nhưng tỷ trọng này luôn bị phá vỡ. Nghiên cứu cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu tài sản, tỷ suất tự tài trợ sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quát về sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Tổng số nợ phải trả (11) Hệ số nợ = ----------------------------------------------- Tổng nguồn vốn của doanh nghiệp Hệ số nợ cho biết sự góp vốn của chủ sở hữu so với số nợ vay. Nó là chỉ tiêu phản ánh cơ cấu, không trực tiếp phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng sự thay đổi của nó lại có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này phụ thuộc vào chính sách nợ của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp chỉ chạy theo mục đích sinh lời mà không quan tâm đến sự cân bằng tài trợ của mình có thể sẽ buộc phải ngưng hoạt động hoặc bị phá sản. Vì vậy, để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cần thiết phải nghiên cứu và sử dụng chỉ tiêu này. Hệ số thể hiện mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp đối với các chủ nợ. Đối với doanh nghiệp họ thường mong muốn hệ số nợ cao vì họ được sử dụng một lượng tài sản lớn mà chỉ đầu tư vào một lượng vốn nhỏ, nhưng dưới giác độ ngân hàng, các ngân hàng mong muốn hệ số nợ thấp, càng nhỏ so với trung bình ngành càng tốt. Hệ số này có thể được chấp nhận ở mức nhỏ hơn hoặc bằng 0,5. Vốn chủ sở hữu (12) Chỉ tiêu tỷ suất tự tài trợ = -------------------------------- Tổng tài sản Nó cho biết một đồng tài sản hình thành từ nguồn vốn của doanh nghiệp có bao nhiêu đồng là do các chủ nợ tài trợ. Trị số của chỉ tiêu này càng nhỏ mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Thông thường các ngân hàng thích tỷ lệ nợ trên tổng tài sản vừa phải, thường yêu cầu chỉ tiêu này nhỏ hơn hoặc bằng 0,5 tức là có ít nhất một nửa tài sản của doanh nghiệp được hình thành từ vốn chủ sở hữu. Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (13) Hệ số khả năng thanh toán lãi vay = ----------------------------- Lãi vay phải trả Chỉ số này thể hiện mức độ sẵn sang trả tiền lãi vay của doanh nghiệp cho ngân hàng. Hệ số này càng, hiệu quả sử dụng vốn vay càng tốt. Trong trường hợp hệ số này thấp phải tìm hiểu nguyên nhân là do hoạt động kinh doanh kém hiệu quả (lợi nhuận thấp) hay do doanh nghiệp đã đi vay quá nhiều để từ đó ngân hàng sẽ tìm biện pháp giúp doanh nghiệp điều chỉnh cơ cấu vốn cho hợp lý. (14 Các chỉ tiêu cho biết cơ cấu vốn của doanh nghiệp: Tài sản lưu động = --------------------------------------- Tổng tài sản Tài sản cố định = --------------------------------------- Tổng tài sản Chỉ tiêu này cho biết cơ cấu vốn có hợp lý hay không. (13) Vốn lưu động thường xuyên = Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn Cho biết phần nguồn vốn ổn định dùng vào việc tài trợ cho nhu cầu kinh doanh. Chỉ tiêu này càng lớn càng an toàn. Trên đây là nhóm các chỉ tiêu cơ bản mà các ngân hàng thương mại thường sử dụng khi phân tích tài chính khách hàng vay vốn. Nhưng trong quá trình tiến hành phân tích các tỷ số tài chính, cán bộ tín dụng cần chú ý một số điểm sau: Tính xác thực, hợp lý của tỷ số phụ thuộc vào độ chính xác của số liệu báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Phân tích tỷ số tài chính chỉ là bắt đầu việc xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp chứ không phải là kết thúc việc phân tích. Điều quan trọng là phải rút ra nhận định về xu thế phát triển của doanh nghiệp. Các tỷ số tài chính đều có những hạn chế nhất định ví dụ như chỉ phản ánh sự kiện, hoàn cảnh trong quá khứ. Sự khác nhau giữa giá trị sổ sách và giá trị thị trường của tài sản, nguồn vốn nhất là trong điều kiện lạm phát cao làm cho nhận định tài chính kém chính xác. Do đó, cần phân tích các tỷ số trong mối quan hệ tổng thể giữa các hệ số với nhau trong một quá trình và trong bối cảnh của nền kinh tế. Qua đó mới đánh giá đầy đủ về tình hình tài chính của doanh nghiệp để đưa ra những dự đoán và quyết định hợp lý, khả thi. 1.2.6 . Nhân tố ảnh hưởng đến công tác phân tích tài chính. Công tác phân tích tài chính là một công tác quan trọng trong quy trình thẩm định tín dụng. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến công tác này, chúng ta xem xét các yếu tố này dưới các góc độ: nhân tố từ phía ngân hàng, nhân tố từ phía khách hàng và nhân tố khách quan khác. 1.2.6.1. Nhân tố từ phía ngân hàng. Quan điểm của lãnh đạo ngân hàng đây là nhân tố có vai trò chủ đạo. Nếu việc ra quyết định cho vay của lãnh đạo ngân hàng phụ thuộc nhiều vào kết quả phân tích tài chính của cán bộ tín dụng thì công tác phân tích tài chính khách hàng vay vốn sẽ luôn được quan tâm đúng mức, lãnh đạo sẽ luôn động viên, khích lệ đối với cán bộ tín dụng. Nếu việc cho vay không phụ thuộc vào kết quả phân tích thì công tác phân tích sẽ bị xem nhẹ. Trình độ của cán bộ tín dụng. Công tác phân tích tài chính đòi hỏi cán bộ tín dụng không những nắm chắc những kiến thức chuyên môn - việc đọc hiểu các báo cáo tài chính mà còn phải am hiểu nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề kinh doanh khác nhau. Ngoài ra, phải có sự nhạy bén, linh hoạt trong công việc thì mới có thể tiếp cận được sự đa dạng trong ngành nghề kinh doanh của khách hàng. Công nghệ, trang thiết bị của ngân hàng. Khi mà khoa học, công nghệ ngày càng phát triển vượt bậc, đã đem lại rất nhiều sản phẩm hỗ trợ lớn cho người sử dụng thì với cán bộ tín dụng công nghệ và các trang thiết bị cũng là nguồn bổ trợ rất lớn trong công tác phân tích tài chính. Trang thiết bị hiện đại, phù hợp với trình độ của nhân viên sẽ thúc đẩy tiến độ làm việc cũng như góp phần nâng cao chất lượng công việc cho nhân viên. Phương pháp phân tích. Việc sử dụng phương pháp phân tích được thực hiện khác nhau đối với các khách hàng khác nhau. Có nhiều phương pháp để phân tích tài chính khách hàng. Mỗi phương pháp khác nhau sẽ cho biết những thông tin khác nhau về tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có quy mô lớn, nhu cầu tín dụng lớn thì đòi hỏi công tác phân tích phải kỹ càng hơn, sử dụng kết hợp nhiều phương pháp hơn so với một doanh nghiệp nhỏ, nhu cầu tín dụng nhỏ. Đối với những doanh nghiệp mới thành lập không thể sử dụng phương pháp phân tích theo thời gian vì số liệu để sử dụng không đủ, thay vào đó có thể sử dụng phương pháp phân tích theo không gian để đánh giá năng lực của doanh nghiệp. Sự phối hợp của cán bộ, các bộ phận trong ngân hàng. Đây là nhân tố mang tính kết hợp trong bộ máy hoạt động của ngân hàng. Nhân tố này góp phần bổ sung, hỗ trợ cho công việc của các cán bộ, bộ phận trong ngân hàng. Đối với một ngân hàng mà hoạt động trên cơ sở chuyên môn hóa cao thì nhân tố này có vai trò quan trọng. 1.2.6.2. Nhân tố từ phía khách hàng. Tính trung thực của bộ hồ sơ vay vốn. Để có một kết quả phân tích chính xác về tình hình tài chính của doanh nghiệp thì điều đầu tiên là nguồn thông tin từ khách hàng phải đảm bảo trung thực. Khi nguồn thông tin dùng làm cơ sở dữ liệu không chính xác sẽ ảnh hưởng đến công tác phân tích, từ đó ảnh hưởng đến quyết định của cán bộ tín dụng. Việc cung cấp một bộ hồ sơ vay vốn có độ tin cậy cao sẽ giúp cho quá trình phân tích dễ dàng, nhanh chóng, không những giảm thiểu thời gian, chi phí phân tích mà còn góp phần củng cố mối quan hệ cũng như niềm tin giữa ngân hàng và khách hàng. Chính sách bảo mật của doanh nghiệp. Đối với quá trình phân tích tài chính khách hàng thì nguồn thông tin được thu thập từ khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, nguồn thông tin đầu tiên mà cán bộ tín dụng tiếp cận đó là nguồn thông tin từ nội bộ doanh nghiệp. Do đó, việc có được nguồn thông tin đầy đủ, nhanh chóng và dễ dàng hay không phụ thuộc nhiều vào chính sách bảo mật của doanh nghiệp, tức là phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có sẵn sàng cung cấp thông tin, số liệu tài chính hay không? 1.2.6.3. Nhân tố khách quan khác. Ngoài các nhân tố trên, còn nhiều nhân tố ảnh hưởng đến công tác phân tích tài chính khách hàng vay vốn. Đó là các nhân tố về môi trường pháp lý như: quy định của Ngân hàng Nhà Nước, hệ thống các chuẩn mực kế toán Việt Nam hay môi trường kinh tế, xã hội như sự cạnh tranh của các ngân hàng, việc phát triển ngành nghề đơn giản hay phức tạp, tình hình sản xuất kinh doanh thuận lợi hay khó khăn, nền kinh tế tăng trưởng hay tụt hậu, xã hội ổn định hay bất ổn… Tất cả đều tác động trực tiếp hay gián tiếp đến việc khai thác thông tin, đến quan điểm, nhận thức của mọi người về công tác phân tích tài chính. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN – CHI NHÁNH HÀ NỘI. 2.1. Giới thiệu chung về ngân hàng 2.1.1. Lịch sử hình thành. Ngày 8/10/2005, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) đã chính thức khai trương và đưa vào hoạt động Chi nhánh Hà Nội đặt tại số 4 Hồ Xuân Hương, Quận Hai Bà Trưng. Đây là bước tiến quan trọng làm cơ sở đưa thương hiệu SCB với các công cụ và sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống, có thế mạnh đến với các tầng lớp dân cư và doanh nghiệp ở Hà Nội cũng như thị trường phía Bắc. Chi nhánh SCB Hà Nội sẽ thực hiện các nghiệp vụ cho vay, tiền gửi, huy động vốn, các dịch vụ thanh toán quốc tế... với đối tượng được nhắm đến là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nhà đầu tư tài chính có tiềm năng, bạn hàng đầu tư truyền thống của SCB tham gia đầu tư tại Hà Nội và phía Bắc. Chi nhánh Hà Nội là chi nhánh đầu tiên và duy nhất có mặt ở miền Bắc. Đến 30/9/2006, tại trụ sở của chi nhánh có 4 phòng: phòng Kế toán, phòng Tín dụng, phòng Ngân quỹ, phòng Hành chính tổ chức, và có 3 phòng giao dịch trực thuộc là phòng giao dịch Đống Đa, phòng giao dịch Hoàn Kiếm, phòng giao dịch Ba Đình. Chi nhánh có tổng số 59 cán bộ công nhân viên, trong đó có 41 người có trình độ cử nhân và trên đại học, chiếm 69,5% tổng số cán bộ công nhân viên Sau hai năm thành lập, chi nhánh Hà Nội vừa hoạt động vừa mở rộng mạng lưới. Đến thời điểm hiện tại chi nhánh có 6 phòng giao dịch trực thuộc là phòng giao dịch Đống Đa, phòng giao dịch Hoàn Kiếm, phòng giao dịch Ba Đình, phòng giao dịch Thanh Xuân, phòng giao dịch Thanh Nhàn, phòng giao dịch Cầu Giấy. Tổng số cán bộ nhân viên là 96 người, trong đó có 75 người có trình độ cử nhân và trên đại học, chiếm 75% tống số nhân viên. Đội ngũ nhân viên có tuổi đời rất trẻ, bình quân là 25 tuổi, có kiến thức chuyên môn và say mê công việc. Tại trụ sở chi nhánh đã mở thêm một số phòng ban mới nhằm tạo điều kiện quản lý dễ dàng và chuyên môn hoá công việc, đó là các phòng mới như: tổ định giá tài sản, tổ kiểm soát nội bộ. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội Tổ định giá Tổ định giá hội sở Phòng giao dịch Phòng kiểm soát hội sở Hội Sở Phòng ngân quỹ Tổ kiểm soát nội bộ Phòng kế toán Phòng tín dụng Phòng hành chính nhân sự Ban Giám đốc 2.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội. Công tác huy động vốn. Về mức huy động vốn, SCB Hà Nội là đơn vị dẫn đầu các đơn vị trong hệ thống SCB. Phát huy lợi thế thị trường, bình quân SCB Hà Nội cung cấp từ 25% đến 30% nguồn vốn huy động cho toàn hệ thống. Năm 2007 tổng nguồn vốn huy động của chi nhánh đạt 5,962,039 triệu đồng tăng gấp 10 lần so với năm 2006. Điều này cho thấy tốc độ tăng trưởng rất mạnh của việc huy động vốn tại SCB trong thời gian qua. Bảng 2.1 Tình hình huy động vốn của Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội. Đơn vị: Triệu đồng STT Chỉ tiêu Năm 2006 % Năm 2007 % Tổng nguồn vốn 591.383 100 5,962,039 100 I Cơ cấu nguồn vốn theo đối tượng khách hàng. 1 Tiền gửi của KBNN 0 0 0 0 2 Tiền gửi của TCKT 450,839 76 1,584,780 26.58 3 Tiền gửi của cá nhân 140,544 24 4,377,174 73.42 4 Tiền gửi của các đối tượng khác 0 0 85 0.0014 II Cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền gửi 1 Tiền, vàng gửi không kỳ hạn 151,898 25.69 270,787 4.55 2 Tiền, vàng gửi có kỳ hạn 438,197 74.1 5,686,731 95.38 3 Tiền gửi vốn chuyên dùng 18 3 85 0.0014 4 Tiền gửi ký quỹ 1,270 0.21 4,436 0.07 (Nguồn số liệu: Báo cáo tài chính năm 2007) Để đạt được kết quả như trên, ngay từ đầu ban lãnh đạo ngân hàng đã xác định công tác huy động vốn là công tác trọng tâm của ngân hàng trên địa bàn Hà Nội. Ngân hàng đã áp dụng các chương trình khuyến mại, tặng quà… để thu hút nguồn tiền gửi từ dân cư. Ngoài ra, ngân hàng cũng tận dụng mối quan hệ để thu hút nguồn vốn lớn từ các tổ chức kinh tế. Tuy nhiên, nguồn tiền gửi dân cư sẽ là nguồn huy động chủ yếu của ngân hàng vì đây là nguồn vốn có tính ổn định và lâu dài. Công tác sử dụng vốn Mục tiêu lớn nhất của các ngân hàng thương mại nói chung cũng như ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội là tối đa hóa vốn chủ sở hữu. Hiện nay, hoạt động mang nhiều lợi nhuận nhất cho các ngân hàng là hoạt động cho vay. Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội đang từng bước mở rộng quy mô cho vay một cách an toàn và hiệu quả. Tình hình dư nợ cho vay của ngân hàng trong 2 năm hoạt động được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2.2 Tổng dư nợ qua các năm tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội. Đơn vị: Triệu đồng STT Chỉ tiêu Năm 2006 % Năm 2007 % Tổng dư nợ 391,242 100 1,051,437 100 I Dư nợ theo thời gian 1 Nợ ngắn hạn 150,871 38.57 614,995 58.49 2 Nợ trung hạn 197,513 50.48 266,664 25.36 3 Nợ dài hạn 42,858 10.95 169,778 16.15 II Dư nợ theo đối tượng khách hàng và loại hình doanh nghiệp 1 Cho vay các TCKT 354,052 90.49 615,176 58.50 Công ty cổ phần khác Công ty TNHH tư nhân 270,65._.ghiệp đến vay vốn phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ không có báo cáo đã được kiểm toán và nhiều doanh nghiệp cán bộ kế toán còn yếu nên việc lập báo cáo gửi cho ngân hàng thường không chính xác. Đây cũng là tình trạng chung hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng cần phải phân tích kỹ hơn và đôi khi cán bộ tín dụng phải hướng dẫn, cùng khách hàng lập lại các báo cáo tài chính. Do đó khiến cho công tác phân tích tài chính của ngân hàng khó khăn hơn, mất thời gian và nhiều chi phí hơn. Nguồn thông tin thu thập ngoài nguồn thông tin của khách hàng còn thiếu. Thông tin là yếu tố quan trọng nhưng hiện nay ngân hàng đang rất thiếu thông tin. Sự chia sẻ thông tin về các doanh nghiệp giữa các ngân hàng còn hạn chế do sự cạnh tranh, đố kỵ, thông tin thu thập từ CIC chưa có thông tin về tất cả các doanh nghiệp. Thông tin từ các doanh nghiệp cùng ngành thì chủ yếu được thu thập từ báo chí, phương tiện thông tin đại chúng mà chưa có một tổ chức tổng hợp thu thập làm nguồn dữ liệu chung. Việc tìm hiểu thông tin từ các cơ quan Nhà nước như: thuế, kiểm toán… rất khó khăn, chủ yếu dựa vào quan hệ. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN – CHI NHÁNH HÀ NỘI. 3.1. Mục tiêu phát triển. Tiếp tục thực hiện phương châm của “ SCB luôn hướng đến sự hoàn thiện vì khách hang”, năm 2008 chi nhánh SCB Hà Nội sẽ tiếp tục đẩy mạnh hoạt động kinh doanh theo hướng: Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động huy động vốn và chủ động giữ vững tỷ lệ huy động vốn giữa thị trường 1 và thị trường 2, tăng cường việc huy động nguồn vốn giá rẻ nhưng ổn định. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, marketing, triển khai các sản phẩm huy động mới nhằm duy trì khách hàng hiện hữu đồng thời thu hút khách hàng mới. Tăng trưởng tín dụng ổn định gắn liền với chất lượng tín dụng luôn được kiểm soát một cách chặt chẽ. Thực hiện phục vụ khách hàng trọn gói, tăng cường bán chéo sản phẩm. Thực hiện tốt phương châm “Một dịch vụ dành cho nhiều khách hàng, một khách hàng được hưởng nhiều dịch vụ”. Đầu tư cho hoạt động quản trị rủi ro nhằm kiểm soát và hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra cho hoạt động cho vay để SCB có sự phát triển bền vững và ổn định. Mở rộng địa bàn hoạt động, phát triển thêm các phòng giao dịch trên địa bàn Hà Nội. Chi nhánh sẽ tập trung nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ và đảm bảo từng bước hoàn thiện thành một chi nhánh đa năng. Đẩy mạnh các hoạt động đầu tư, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối… Tiếp tục các chính sách thu hút nhân tài để có nguồn nhân lực chất lượng cao. Thành lập trung tâm đào tạo ở miền Bắc để triển khai tôt nhất các khoá đào tạo nghiệp vụ. Tỷ lệ chi phí trên thu nhập tối đa là 80%. Bên cạnh việc tăng nguồn thu, SCB Hà Nội cũng sẽ chú trọng đến việc khai thác tối đa lợi ích của các tài sản không để tình trạng lãng phí. Tiết kiệm chi phí nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và tối đa hoá lợi nhuận. Năm 2008 triển khai corebanking nhằm hỗ trợ tốt nhất cho hoạt động kinh doanh. Năm 2008 chi nhánh SCB Hà Nội phấn đấu thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu sau: Bảng 3.1: Các chỉ tiêu kế hoạch năm 2008 Đơn vị: tỷ đồng, % Chỉ tiêu Kế hoạch năm 2008 Năm 2007 Tổng tài sản 10235 6627,885 Lợi nhuận trước thuế 170 71,772 Cho vay khách hàng - Cho vay ngắn hạn - Cho vay TDH - Chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá 2500 1462,5 1025 12,5 1051,437 614,995 436,442 Huy động - Tiền gửi của TCTD - Tiền gửi của khách hàng 9995 1034 8961 6414,072 452,033 5962,039 Tổng chi phí trước thuế/TTN 80% 80,77% Tổng thu dịch vụ/TTN 7,06% 2,32% (Nguồn: Phòng tín dụng Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội) 3.2 Một số giải pháp Phân tích tài chính khách hàng là một khâu quan trọng trong quá trình thẩm định tín dụng để đưa ra quyết định cho khách hàng vay vốn. Hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại phần lớn thu nhập cho các ngân hàng. Công tác phân tích tài chính khách hàng cần phải được các ngân hàng chú trọng và quan tâm. Trên cơ sở học tập và thu thập thông tin qua thời gian thực tập tại SCB Hà Nội, em xin đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để góp phần hoàn thiện công tác phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay tại SCB. 3.2.1 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng, tính phức tạp và rủi ro rất cao nên nhân tố con người đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Công tác phân tích tài chính khách hàng là một nghiệp vụ quan trọng của hoạt động, quyết định đến sự thành công hay thất bại của các món cho vay. Yêu cầu của công tác này đòi hỏi cán bộ lãnh đạo cũng như cán bộ tín dụng trực tiếp làm công tác tín dụng không chỉ có trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ tốt mà còn có phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm cao và có kinh nghiệm trong công tác. Họ cần phải có kỹ năng phân tích, phải am hiểu nhiều lĩnh vực kinh tế, nắm được luật pháp và hoạt động của các doanh nghiệp tại từng khu vực để có khả năng đưa ra những nhận định chính xác về khách hàng. Do đó, chiến lược con người là chiến lược lâu dài, việc xây dựng đội ngũ cán bộ tín dụng có trình độ cao là những nhiệm vụ hàng đầu của ngân hàng để nâng cao chất lượng tín dụng. Để xây dựng một đội ngũ cán bộ vững chắc, chi nhánh cần tập trung vào một số giải pháp sau: - Việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ tín dụng phải được coi là thường xuyên, liên tục. Bên cạnh đó là công tác tuyển dụng mới phải đảm bảo đúng quy trình, yêu cầu công việc. Ngân hàng cần đặt ra những điều kiện và yêu cầu tối thiểu về trình độ và kinh nghiệm trong việc tuyển dụng. Nếu làm tốt công tác này thì ngân hàng sẽ có được một đội ngũ cán bộ tín dụng có chất lượng tốt góp phần giúp ngân hàng có thể thực hiện được các mục tiêu phát triển và tạo được lợi thế cạnh tranh với các ngân hàng khác trong quá trình hoạt động. - Có chính sách sàng lọc, sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ tín dụng. Hàng năm cần thực hiện việc rà soát, đánh giá phân loại cán bộ tín dụng để có hướng đào tạo, bổ sung kịp thời tránh sự hững hụt về đội ngũ cán bộ tín dụng. Đồng thời qua phân loại để thực hiện việc tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng trên cả 2 mặt định tính và định lượng, tạo ra đội ngũ cán bộ tín dụng mạnh toàn diện, có sức cống hiến cao. - Đổi mới chính sách đãi ngộ cán bộ tín dụng. Trong điều kiện cơ chế thị trường chính sách đãi ngộ hợp lý về tiền lương, tiền thưởng, hệ số tiền lương... càng có ý nghĩa quan trọng bởi vì có thể đội ngũ này có sự cống hiến nhiều nhất, chịu áp lực nhiều nhất do công việc mang tính rủi ro cao. Có như vậy, đội ngũ cán bộ tín dụng mới phát huy được khả năng và nhiệt tình lâu dài của mình. Đồng thời thực hiện cơ chế thưởng, phạt nghiêm minh, tạo ra bầu không khí thi đua, khuyến khích, sáng tạo, phát huy trách nhiệm và quyền hạn cá nhân trong việc đầu tư vốn sao cho an toàn hiệu quả nhất. Những cán bộ tín dụng vi phạm quy chế, quy trình nghiệp vụ tín dụng, làm thất thoát vốn Nhà nước phải xử lý nghiêm khắc, đặc biệt đối với cán bộ thái hoá biến chất. Những cán bộ tín dụng có đạo đức tốt, yêu ngành, yêu nghề, có khả năng tiếp thị, kinh doanh tốt, mang lại hiệu quả cao cho Ngân hàng thì có chế độ khen thưởng xứng đáng như nâng lương trước hạn... - Đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng cũng không thể xem nhẹ. Nếu chỉ nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn mà đạo đức nghề nghiệp kém thì rủi ro cho ngân hàng mới là vấn đề khó quản lý và rất nguy hiểm. Do vậy, bên cạnh các chế độ đãi ngộ hợp lý để khuyến khích cán bộ tín dụng phát triển thì ngân hàng cũng phải thực hiện nghiêm ngặt những nguyên tắc quản lý, kiểm soát chặt chẽ, có chế độ thưởng phạt nghiêm minh và công bằng. - Ngân hàng cần quy định nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng đối với từng cán bộ nhân viên ngân hàng, thường xuyên kiểm tra giám sát hoạt động của họ, tránh tình trạng sai phạm nhưng không xác định được trách nhiệm thuộc về ai. Những cán bộ cố tình vi phạm hoặc có hành vi gian trá phải cương quyết xử lý. - Phân công cán bộ giỏi, có nhiều kinh nghiệm kèm cặp, hướng dẫn những cán bộ trẻ, kinh nghiệm còn non yếu. Đây là cách thiết thực nhất để nâng cao trình độ của các cán bộ tín dụng trẻ vì nó cho phép kết hợp giữa thực tiễn với cơ sở lý luận. - Bên cạnh công việc, tổ chức công đoàn và đoàn thanh niên cũng cần thực hiện tốt chức năng của mình trong việc bảo vệ quyền lợi của cán bộ nhân viên, phát động các phong trào thi đua cả về nghiệp vụ và các hoạt động xã hội, thể dục thể thao khác… đời sống tình thần tốt thì hiệu quả công việc sẽ được nâng cao. Tóm lại, để hướng tới một chi nhánh có sức cạnh tranh, phục vụ tốt cho khách hàng trên địa bàn, ngay từ bây giờ chi nhánh phải có kế hoạch tăng cường, bồi dưỡng cán bộ nhân viên cả về số lượng lẫn chất lượng. Lớp cán bộ khung kế cận phải có kiến thức trình độ, nghiệp vụ cơ bản, có đạo đức tốt, sống lành mạnh, trách nhiệm nghề nghiệp cao, có bản lĩnh kiên cường để đảm bảo kinh doanh hiệu quả, an toàn trong tình hình cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng. 3.2.2 Nâng cao chất lượng thông tin phục vụ cho công tác phân tích tài chính khách hàng. Để tiến hành phân tích tài chính khách hàng thì nguồn thông tin là điểm mấu chốt, quan trọng nhất đối với cán bộ tín dụng. Một nguồn thông tin tốt, chính xác, trung thực sẽ là một đảm bảo lớn cho chất lượng của kết quả phân tích. Tuy nhiên, thực tế thông tin khách hàng cung cấp cho ngân hàng có khi không hoàn toàn0. chính xác. Do đó, ngân hàng cần kiểm tra độ chính xác của các thông tin mà khách hàng cung cấp. Có một số biện pháp để kiểm tra và thu thập thêm thông tin về khách hàng, trong đó biện pháp đang được áp dụng tại các ngân hàng là cán bộ tín dụng trực tiếp gặp gỡ khách hàng, thăm quan nhà xưởng, nơi làm việc của khách hàng để xem xét tình hình hoạt động thực tế. Từ đó có những nhận xét về tình trung thực của tài liệu mà khách hàng cung cấp. Nếu thấy có sai sót gì hoặc nghi ngờ gì, có thể yêu cầu khách hàng giải trình và sửa lại cho đúng. Biện pháp này tuy tốn kém về thời gian và công sức nhưng mang lại hiệu quả lớn, giúp cho cán bộ tín dụng có được những đánh giá chính xác về tiềm lực tài chính của khách hàng. Ngoài ra, có thể sử dụng một số phương pháp khác như: Thứ nhất, ngân hàng có thể yêu cầu các doanh nghiệp trước khi gửi các báo cáo tài chính để xin vay vốn, hãy thuê các công ty kiểm toán tiến hành kiểm toán các báo cáo tài chính. Biện pháp này sẽ giúp ích rất nhiều cho cán bộ tín dụng giảm thời gian, công sức nhưng kết quả phân tích vẫn chính xác. Tuy nhiên, biện pháp này khó áp dụng đối với mọi doanh nghiệp ở nước ta hiện nay do hệ thống kiểm toán ở nước ta chưa phát triển, chi phí kiểm toán lại lớn và thêm nữa là nhà nước chưa có một chính sách cụ thể đối với việc yêu cầu các doanh nghiệp phải tiến hành kiểm toán. Thứ hai, theo dõi thông tin từ hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng nhà nước (CIC). Nguồn thông tin này đáng tin cậy do đó việc tiến hành tra cứu thường xuyên là rất cần thiết. Ngân hàng cần hợp tác chặt chẽ với trung tâm CIC, trung tâm phòng ngừa rủi ro để sẵn sàng cung cấp thông tin cho họ để phục vụ các đơn vị khác. Từ mối quan hệ này ngân hàng mới có thể dễ dàng khai thác thông tin tại đây và tại các ngân hàng khác. Thứ ba, tại trụ sở chính và tại các chi nhánh trực thuộc nên có phòng thông tin riêng biệt, thiết kế phần mềm cung cấp thông tin cho các chi nhánh có thể khai thác, bổ sung thông tin mọi lúc mọi nơi, tránh tình trạng thông tin về cùng một khách hàng mà có sự khác nhau hoặc mất công tìm kiếm trong khi ngay tại hệ thống ngân hàng đã có thông tin về khách hàng khá đầy đủ. Điều này sẽ giúp việc thu thập thông tin về khách hàng đầy đủ và xét trên quy mô cả hệ thống sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí, thông tin được cung cấp sẽ nhất quán, có tính tổng hợp và có giá trị cao hơn. Để có được thông tin phục vụ cho việc tổng hợp, chi nhánh nên quy định các cán bộ tín dụng sau mỗi một khoản cho vay cũng phải tổng kết đánh giá về khách hàng để tiến hành lưu trữ một cách có hệ thống. 3.2.3.Hoàn thiện phương pháp và nội dung phân tích. Công tác phân tích tài chính khách hàng vay vốn là vấn đề mà tất cả các ngân hàng thương mại luôn tìm mọi biện pháp để hoàn thiện. Các phương pháp kỹ thuật, chỉ tiêu, chỉ số định mức của công tác phân tích tài chính khách hàng doanh nghiệp thường xuyên thay đổi theo xu hướng phát triển của sản xuất kinh doanh, sự thay đổi của hệ thống quản lý tài chính. Do đó, trong quá trình hoạt động, chi nhánh cần không ngừng hoàn thiện hệ thống phương pháp và nội dung phân tích cho phù hợp với điều kiện thực tế. Trong quá trình tiến hành phân tích tài chính khách hàng, ngân hàng mới chỉ sử dụng phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp so sánh. Vì thế trong tương lai, ngân hàng có thể xem xét sử dụng thêm phương pháp Dupont trong phân tích. Phương pháp này sẽ giúp cho cán bộ tín dụng của ngân hàng phân tích ảnh hưởng của các tỷ số thành phần đối với tỷ số tổng hợp, từ đó có thể xác định được nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tốt xấu trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, tư vấn giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Đây là một phương pháp mới mẻ, những thông tin quan trọng về điều kiện tài chính của một doanh nghiệp thể hiện ở một số hệ số tài chính chứ không phải chỉ riêng một hệ số. Sự kết hợp của hai hay một hệ thống những hệ số tài chính sẽ cho phép hiểu rõ về các nguồn lợi nhuận của doanh nghiệp. Không một hệ số riêng lẻ nào có thể giải thích rõ hơn mọi khía cạnh trong hoạt động của doanh nghiệp. Về hệ thống các chỉ tiêu, hiện nay tại chi nhánh chưa có các chỉ tiêu định mức, các số liệu trung bình ngành để so sánh phân tích. Để khắc phục điều này, chi nhánh có thể tổng hợp số liệu ngành của riêng mình làm cơ sở cho cán bộ tín dụng so sánh đối chiếu khi phân tích. Chi nhánh nên chủ động xây dựng và đề xuất một hệ thống chỉ tiêu tài chính chuẩn mực hoặc ít nhất là xây dựng những chỉ tiêu phân tích cho bản thân ngân hàng, rồi từng bước hoàn thiện sau. Để có được số liệu này, chi nhánh có thể giao cho một bộ phận riêng chuyên thống kê số liệu các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp đã và đang có quan hệ tín dụng với ngân hàng trong các ngành nghề theo định kỳ để thấy được xu hướng chấp nhận chung của từng thời kỳ, từ đó đặt ra tiêu chuẩn cho riêng mình. Có thể nói đây là giải pháp rất khó thực hiện, thường phải dựa vào kinh nghiệm của một số cán bộ tín dụng giỏi, tuy nhiên nếu làm được sẽ đem lại lợi ích rất lớn. Có một vấn đề, cán bộ tín dụng cần quan tâm đó là: trong báo cáo thẩm định có rất nhiều phần thẩm định khác nhau như: thẩm định tư cách pháp nhân, thẩm định phương án vay vốn, thẩm định tài sản đảm bảo… nếu khâu phân tích tài chính khách hàng đi quá sâu hoặc quá dài dòng có thể gây thừa, lặp và chồng chéo lên nhau. Vì vậy cán bộ tín dụng nên vận dụng linh hoạt sáng tạo vào từng điều kiện cụ thể, từng trường hợp khác nhau để sử dụng các chỉ tiêu phân tích sao cho phù hợp. Chi nhánh cần tập trung phân tích sâu hơn vào các báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính, lập bảng kê nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn để có cái nhìn sâu sắc và sát thực hơn về khách hàng của mình. Về phương pháp xếp loại khách hàng: chi nhánh sử dụng các tỷ số tài chính cùng phương pháp cho điểm phân loại tín dụng để làm căn cứ đánh giá khách hàng trong cả cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn. Việc cho điểm như nhau đối với các chỉ tiêu tài chính trong ngắn hạn, trung và dài hạn là chưa thực sự hợp lý. Vì đối với mỗi loại hình cho vay này thì cán bộ tín dụng cần xem xét thận trọng hơn các nhóm chỉ tiêu khác nhau. Ví dụ như đối với hình thức cho vay ngắn hạn cần quan tâm hơn đến chỉ tiêu khả năng thanh toán nhưng trong vay trung và dài hạn, nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời và hiệu quả sử dụng vốn cần được ưu tiên hơn. Do đó, ngân hàng nên có những bảng điểm với trọng số khác nhau đối với từng loại tín dụng khác nhau. Và các chỉ tiêu đánh giá khách hàng về mặt năng lực quản lý, môi trường kinh doanh, uy tín giao dịch với ngân hàng… là những chỉ tiêu đóng, bắt buộc cán bộ tín dụng phải lựa chọn theo những yêu cầu cho sẵn mà đôi khi những yêu cầu đó không thể bao quát được hết tình hình của doanh nghiệp, đã gây khó khăn cho cán bộ tín dụng trong việc tiến hành xếp loại doanh nghiệp và khiến cho kết quả chấm điểm chưa cao. Vì thế việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống xếp loại khách hàng phù hợp là cần thiết, giúp cán bộ tín dụng rất nhiều trong phân tích chứ không phải chỉ dựa vào cảm tính và kinh nghiệm của bản thân. Hiện nay bảng xếp hạng khách hàng của ngân hàng chưa tính đến hệ số thanh toán nợ dài hạn và hệ số thanh toán lãi vay mặc dù đây là những hệ số thanh toán quan trọng để đánh giá khả năng trả nợ gốc và lãi của doanh nghiệp bởi doanh nghiệp không chỉ sử dụng các loại vốn ngắn hạn, nên bổ sung thêm các chỉ tiêu này vào xếp loại tín dụng. 3.2.4. Nâng cao trình độ công nghệ phục vụ công tác phân tích tài chính khách hàng. Công nghệ, trang thiết bị đối với bất cứ hoạt động của ngân hàng nào cũng là vấn đề quan trọng. Nó vừa tạo nên lợi thế cạnh tranh và điều kiện cần thiết cho sự phát triển của mỗi ngân hàng. Hầu hết các ngân hàng hiện nay đều tăng cường đầu tư, cải tiến trang thiết bị và công nghệ nhằm gia tăng chất lượng phục vụ để thu hút khách hàng về phía ngân hàng mình. Đối với công tác phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động tín dụng thì công nghệ trang thiết bị có ý nghĩa rất lớn trong quá trình thu thập, xử lý và lưu trữ thông tin một cách nhanh chóng, chính xác và đầy đủ hơn. Vì thế trong thời gian tới, chi nhánh cần thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng về công nghệ, trang thiết bị phục vụ tốt hơn cho công tác phân tích tài chính khách hàng. Các giải pháp bao gồm: Đầu tư chiều sâu vào các trang thiết bị thuộc hệ thống thu thập thông tin của ngân hàng: máy tính kết nối mạng Internet, kết nối mạng nội bộ với các phòng và các ngân hàng khác trong cùng một hệ thống, nối mạng cục bộ với các phòng giao dịch, trung tâm thông tin thương mại, trung tâm phòng ngừa rủi ro và các ngân hàng khác ngoài hệ thống. Nâng cấp phần mềm của ngân hàng tốt hơn giúp cán bộ tín dụng trong việc tiến hành kiểm tra doanh nghiệp trong quá trình giải ngân tránh những tổn thất không đáng có. Có thể tìm hiểu, khai thác những phần mềm mới, công nghệ mới: phần mềm quản lý thông tin, phần mềm hỗ trợ thẩm định, hỗ trợ công tác phân tích tài chính… nhằm giúp giảm bớt các công đoạn trong quá trình thực hiện công việc. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện giải pháp đầu tư vào công nghệ, trang thiết bị và phương tiện, cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng, đảm bảo không gây nên lãng phí và phù hợp với từng giai đoạn phát triển của chi nhánh. 3.2.5. Giải pháp khác. Xây dựng công tác tổ chức chuyên môn hóa quản lý khách hàng theo ngành nghề kinh doanh hoặc loại hình doanh nghiệp. Các khách hàng của ngân hàng rất đa dạng về ngành nghề kinh doanh, quy mô hoạt động cũng như hình thức sở hữu. Mức độ phức tạp trong các Báo cáo tài chính của từng loại doanh nghiệp, ngành nghề lĩnh vực kinh doanh là rất khác nhau. Trong khi đó, hoạt động tín dụng tại chi nhánh chưa có sự phân công rõ ràng, chuyên môn hóa đối với từng cán bộ tín dụng. Một cán bộ tín dụng dù có năng lực làm việc tốt đến đâu cũng không phải lúc nào cũng nắm vững và sâu sắc về mọi lĩnh vực. Vì vậy để đạt hiệu quả cao trong công tác phân tích, cần thiết phải phân công cán bộ chuyên môn hóa phụ trách theo nhóm ngành kinh doanh, theo loại hình doanh nghiệp hoặc theo giai đoạn của quá trình thẩm định. Tuy nhiên việc phân công một cách chi tiết cán bộ tín dụng theo loại hình doanh nghiệp trong điều kiện số lượng cán bộ có hạn là không thực tế. Do đó, có thể áp dụng hình thức hỗ trợ bổ sung lẫn nhau nhưng vẫn đảm bảo có cán bộ chuyên trách. Việc phân công chuyên môn hóa có thể tiến hành dần khi chi nhánh có điều kiện phù hợp về số lượng nguồn nhân lực. Tiến hành phân loại doanh nghiệp, sàng lọc khách hàng, lựa chọn khách hàng, ưu tiên cho các khách hàng có nguồn tiền gửi, có sử dụng các dịch vụ, khách hàng cung cấp ngoại tệ và các dự án có hiệu quả cao. Chi nhánh cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với quy trình thẩm định tín dụng nói chung và công tác tiến hành phân tích tài chính khách hàng nói riêng. Khi đó, sẽ kịp thời phát hiện những sai sót, sai phạm của cán bộ tín dụng, từ đó hạn chế hoặc khắc phục những rủi ro không đáng có cho ngân hàng. Công tác này phải được tiến hành cùng với các bước kiểm tra tương ứng với các giai đoạn phát sinh cho đến khi kết thúc khoản tín dụng gồm: kiểm tra trước khi cho vay, trong khi cho vay và sau khi cho vay. Tổ chức theo dõi chặt chẽ các khoản nợ vay, quản lý được tài sản thế chấp, kiên quyết xử lý các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi. Trên đây là một số giải pháp nhỏ xin được đóng góp, thực ra nếu bàn sâu thì có rất nhiều giải pháp khác tối ưu giúp cho việc hoàn thiện công tác phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay tại ngân hàng TMCP Sài Gòn - Chi nhánh Hà Nội. Trong quá trình thực hiện các giải pháp, bản thân chi nhánh cần phải thực hiện một cách linh hoạt, sáng tạo. Vấn đề nào giải quyết trước, vấn đề nào giải quyết sau phải được thực hiện đúng cách, đúng thời điểm. Ngoài ra, phải có sự phối hợp chặt chẽ với các chi nhánh khác trong cùng hệ thống, các ngân hàng ngoài hệ thống và các cơ quan chức năng, các bộ ngành có liên quan. 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị với Ngân hàng TMCP Sài Gòn. Một là: cần hỗ trợ chi nhánh về công nghệ thông tin và kỹ thuật, cần đẩy mạnh việc liên kết với các chi nhánh để chi nhánh nâng cao hiệu quả trong quá trình thu thập và xử lý thông tin liên quan đến khách hàng. Hai là: hỗ trợ hơn cho chi nhánh trong việc mở rộng công tác đào tạo.Vì ở chi nhánh số lượng cán bộ trẻ rất nhiều, trình độ và kinh nghiệm của cán bộ là không đồng đều cho nên cần tạo điều kiện cho các cán bộ tín dụng nâng cao năng lực và trình độ thông qua việc tổ chức những khóa đào tạo nghiệp vụ, buổi hội thảo chuyên đề. Ngoài ra kiến thức ngoại ngữ và tin học không phải là yếu tố quyết định nhưng trong xu thế hiện đại hóa, toàn cầu hóa hiện nay thì nó lại rất cần thiết cho công việc, nó nâng cao hiệu quả làm việc và là một trong những phương pháp cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên để việc đi học không ảnh hưởng đến công việc nói chung, đề nghị lãnh đạo xem xét thời gian đi học và số lượng cán bộ đi từng đợt cho hợp lý. Mặt khác, ngân hàng TMCP Sài Gòn cũng cần tăng cường thu hút và phát triển nguồn nhân lực mới phục vụ cho tương lai. Vì thế trong quá trình tuyển dụng cần áp dụng những biện pháp tiên tiến đã thực hiện ở một số ngân hàng lớn trên thế giới là đánh giá nhân viên trên cơ sở năng lực trí tuệ của bản thân nhân viên đó. Nghĩa là coi trọng khả năng làm việc của họ trong tương lai (khi họ đã có kinh nghiệm) chứ không phải nhân viên đó biết được gì trong hiện tại. Ba là: Trong quá trình ban hành những văn bản quy định có liên quan đến công tác thẩm định tín dụng, hội sở cần quan tâm đến thực tế đang diễn ra để có những quy định đúng đắn. Bốn là: tăng cường hợp tác mở rộng quan hệ với các cơ quan chức năng khác để tạo mối quan hệ tốt giúp chi nhánh thuận lợi trong việc thu thập thông tin liên quan. 3.3.2. Kiến nghị với NHNN. Một là cần chính thức hóa các tài liệu liên quan đến nghiệp vụ thẩm định tín dụng trong đó đặc biệt chú ý đến công tác phân tích tài chính khách hàng. Sau đó phải có hướng dẫn cụ thể đối với các ngân hàng thương mại. Hai là hoàn thiện và phát triển hoạt động của trung tâm tín dụng CIC để tạo điều kiện cho các ngân hàng trong quá trình thu thập xử lý thông tin. Bước đầu CIC cũng đã tạo được một số kết quả nhất định nhưng để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của CIC, có thể xem xét thực hiện một số biện pháp sau: Từng bước hoàn thiện mô hình tổ chức, hoạt động. Tuyển chọn và nâng cao trình độ của cán bộ và thực hiện công tác đào tạo của cán bộ CIC. Xây dựng các văn bản đủ hiệu lực, quy định cụ thể về tác nghiệp như nguồn cung cấp thông tin, nguồn sử dụng thông tin, người sử dụng thông tin, các chỉ tiêu thu thập, quy trình thu thập, các tiêu thức phân tích đánh giá… Mở rộng phạm vi thu thập thông tin, áp dụng công nghệ hiện đại trong thu thập, xử lý và cung cấp thông tin. Đa dạng hóa thông tin đầu vào. Yêu cầu các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng ngoài việc khai thác thông tin từ CIC thì phải cung cấp thông tin cho CIC, coi đó là quyền lợi và nghĩa vụ của tổ chức mình. Ba là cần hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại về kinh phí và nguồn nhân lực, tăng cường tư vấn và hướng dẫn cho các ngân hàng thương mại trong công tác phân tích tài chính khách hàng; Có thể tổ chức những cuộc hội thảo bàn bạc đúc rút kinh nghiệm tại các ngân hàng thương mại; tổ chức các khóa học thường kỳ cho cán bộ của ngân hàng do chuyên gia về tài chính từ WB, IMF hoặc từ các nước có hệ thống tài chính phát triển để họ nắm bắt được những kiến thức và kinh nghiệm của các nước tiên tiến, giúp họ ứng dụng thành công vào công tác đánh giá khách hàng để cho vay. 3.3.3. Kiến nghị với Bộ Tài Chính. Bộ tài chính cần chỉ đạo các doanh nghiệp sử dụng thống nhất một hệ thống chuẩn mực kiểm toán chung, thực hiện kiểm toán bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp. Hiện nay công tác quản lý Nhà nước về pháp lệnh kế toán thống kê đối với các doanh nghiệp chưa được chú ý đúng mức, nhất là đối với các doanh nghiệp phi nhà nước. Trong khi công ty kiểm toán nhà nước còn rất non trẻ, đội ngũ cán bộ còn thiếu kinh nghiệm. Vì vậy, Bộ tài chính cần ban hành những quy định bắt buộc mọi doanh nghiệp phải áp dụng thống nhất và đồng bộ một chế độ kế toán thống nhất và bắt buộc các doanh nghiệp phải tiến hành kiểm toán và công khai quyết toán của doanh nghiệp mình. Đồng thời cũng phải có những quy định rõ những biện pháp xử lý nghiêm minh trong trường hợp doanh nghiệp cung cấp thông tin giả. Có như vậy các cán bộ tín dụng mới có được thông tin trung thực, cần thiết cho việc đánh giá, phòng ngừa rủi ro do thiếu thông tin trong quá trình giải ngân vốn cho doanh nghiệp. Qua đó, nâng cao hiệu quả của công tác phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Bộ tài chính cùng phối hợp với các bộ ngành khác để xây dựng một chỉ tiêu trung bình ngành thật hiệu quả để các ngân hàng thương mại sử dụng làm căn cứ trong việc đánh giá năng lực tài chính của khách hàng vay vốn. Nếu mỗi chi nhánh, mỗi ngân hàng xây dựng một hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành thì sẽ không đầy đủ, thiếu sự chính xác do đó việc xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành cho toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam áp dụng là cần thiết. KẾT LUẬN Ngày nay, các ngân hàng thương mại đi kèm với việc phát triển và mở rộng mạng lưới hoạt động là việc mở rộng nhu cầu cho vay nhằm mục đích có được lợi nhuận nhiều hơn và hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất có thể. Vì thế trước khi đưa ra quyết định cho vay, các ngân hàng thường thận trọng trong công tác phân tích tài chính khách hàng vay vốn. Dựa trên cơ sở tìm hiểu thực tế tại ngân hàng TMCP Sài Gòn - Chi nhánh Hà Nội cùng với việc kế thừa những nghiên cứu có trước, nội dung khóa luận đã tập trung giải quyết được những vấn đề sau: Thứ nhất: Khóa luận đã nêu được cơ sở lý luận về công tác phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại nói chung: về phương pháp, nội dung, các nhân tố ảnh hưởng đến công tác này. Thứ hai: Khóa luận đã phân tích thực trạng công tác phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay tại ngân hàng TMCP Sài Gòn - Chi nhánh Hà Nội, từ đó chỉ ra những thành công, những tồn tại để làm cơ sở cho việc đưa ra những giải pháp thực tiễn. Thứ ba: Khóa luận nêu rõ quan điểm về mục tiêu phát triển hoạt động tín dụng của ngân hàng TMCP Sài Gòn - Chi nhánh Hà Nội, đồng thời cũng đã đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay và các kiến nghị đối với ngân hàng TMCP Sài Gòn, với Ngân hàng Nhà Nước và Bộ Tài Chính. Do tài liệu thu thập và sự hiểu biết còn hạn chế, nên khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo của thầy cô và các bạn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Peter S. Rose, Quản trị ngân hàng thương mại (Commercial bank management), NXB. Tài Chính, 2004. PGS. TS Nguyễn Văn Công, Chuyên khảo về báo cáo tài chính và lập, đọc, kiểm tra, phân tích Báo cáo tài chính, NXB Tài Chính, 2005. Quy trình chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng doanh nghiệp, quyết định số 27/ QĐ – SCB – TGĐ.08 Ngày 23/01/2008 của Tổng giám đốc NH TMCP Sài Gòn. Quy trình tín dụng ngắn hạn, quyết định số 49/QĐ – SCB – TGĐ.06 Ngày 17/06/06 của Tổng giám đốc NH TMCP Sài Gòn. ThS. Đinh Thế Hiển, Quản trị tài chính công ty lý thuyết và ứng dụng, NXB. Thống Kê, 2007 TS Phan Thị Thu Hà, Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB. Thống Kê, 2004. TS. Nguyễn Đăng Nam, PGS – TS. Nguyễn Đình Kiệm, Quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB. Tài chính, 2001. TS. Nguyễn Minh Kiều, Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng, NXB. Tài chính, 2007. NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU Trang Hình 1.1: Khuôn khổ phân tích tài chính dựa vào mục đích……………11 Hình 1.2: Khuôn khổ phân tích tài chính dựa vào loại phân tích……….12 Hình 1.3: Phân tích mô hình Dupont……………………………………14 Bảng 1.4: Bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn………………………….23 Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội……………………………………………………..38 Bảng 2.2: Tổng dư nợ qua các năm tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội…………………………….…..…………………..39 Bảng 2.3: Kết quả tài chính tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội……………………………………..……………....42 Bảng 2.4: Bảng cân đối kế toán công ty Yên Hùng……………………..48 Bảng 2.5: Bảng kết quả hoạt động kinh doanh công ty Yên Hùng……...51 Bảng 2.6: Các hạng xếp loại khách hàng doanh nghiệp………………...56 Bảng 2.7: Chất lượng nợ cho vay tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội……………………..……………………………...60 Bảng 3.1: Các chỉ tiêu kế hoạch năm 2008…………………………......66 MỤC LỤC Trang DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33360.doc
Tài liệu liên quan