Hoàn thiện công tác lập kế hoạch kinh doanh tại Công ty TM XNK Viễn Đông

Tài liệu Hoàn thiện công tác lập kế hoạch kinh doanh tại Công ty TM XNK Viễn Đông: ... Ebook Hoàn thiện công tác lập kế hoạch kinh doanh tại Công ty TM XNK Viễn Đông

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1450 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác lập kế hoạch kinh doanh tại Công ty TM XNK Viễn Đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập-Tự do-Hạnh phúc ****** LỜI CAM ĐOAN Tên tôi là : sisomphu singdala Sinh viên lớp : Kinh tế đầu tư 46 A Khoa : Kinh tế đầu tư Khoá : 46 Tôi xin cam đoan nội dung chuyên đề này là hoàn toàn do tôi nghiên cứu và hoàn thiện đúng theo quy chế của trường Kinh Tế Quốc Dân. Tôi xin chịu trách nhiệm về những gì đã viết trong bản chuyên đề này. Hà Nội, Ngày 01 Tháng 05 Năm 2008 Người viết, Người cam đoan sisomphu singdala MỤC LỤC MỞ ĐẦU Nền kinh tế thị trường đã đưa đến cho các doanh nghiệp Việt nam khái niệm “Thương trường là chiến trường”. Quả thực, trong thời đại hiện nay các Doanh nghiệp phải cạnh tranh nhau trên một chiến trường không có tiếng súng nổ. Doanh nghiệp nào nắm bắt kịp thời và chớp lấy thời cơ thì Doanh nghiệp đó thắng thế. Công ty TM XNK Viễn đông là một doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng Pha lê nhập ngoại vì thế kế hoạch kinh doanh là khâu quan trọng bậc nhất nhằm mang lại mục tiêu lợi nhuận của công ty. Những năm vừa qua nhờ vào phương pháp lập kế hoạch đúng đắn mà doanh thu của công ty tăng lên đáng kể qua các năm, tạo ra được sức cạnh tranh giúp công ty có chỗ đứng trên thương trường. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện nó cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Xuất phát từ cơ sở đó, tôi quyết định lựa chọn đề tài cho chuyên đề thực tập là: “Hoàn thiện công tác lập kế hoạch kinh doanh tại công ty TMXNK Viễn Đông ”. Mục tiêu nghiên cứu của tôi là nhằm tìm ra những mặt được và những mặt yếu kém trong từng khâu để tiến tới hoàn thiện phương pháp lập kế hoạch đồng thời tạo được uy tín của công ty trong con mắt người tiêu dùng. Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương : Chương I : Những vấn đề lý luận cơ bản về kế hoạch trong doanh nghiệp Chương II: Thực tiễn công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh ở công ty TMXNK Viễn Đông Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch sản xuất kinh doanh ở công ty TMXNK Viễn Đông Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn Giảng viên Th.s Phạm Thanh Hưng và toàn thể các anh chị trong công ty TMXNK Viễn Đông đã nhiệt tình giúp đỡ tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt bản báo cáo này. Phần I - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN KẾ HOẠCH TRONG DOANH NGHIỆP I. TỔNG QUAN VỀ KẾ HOẠCH HOÁ TRONG DOANH NGHIỆP 1. Khái niệm về kế hoạch trong doanh nghiệp 1.1 Khái niệm về kế hoạch trong doanh nghiệp Cũng như mọi phạm trù quản lý khác, đối với công tác lập kế hoạch cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Mỗi cách tiếp cận đều xem xét kế hoạch theo một góc độ riêng và đều cố gắng biểu hiện đúng bản chất của phạm trù quản lý này. Với cách tiếp cận theo quá trình thì cho rằng: Kế hoạch sản xuất kinh doanh là một quá trình liên tục xoáy trôn ốc với chất lượng ngày càng tăng kể từ khi chuẩn bị xây dựng cho tới lúc chuẩn bị tổ chức thực hiện kế hoạch nhằm đưa hoạt động của doanh nghiệp theo các mục tiêu đã định. Theo quan niệm của STEINER thì: “Công tác lập kế hoạch là một quá trình bắt đầu từ việc thiết lập các mục tiêu và quyết định chiến lược, các chính sách, kế hoạch chi tiết để đạt được mục tiêu. Nó cho phép thiết lập các quyết định khả thi và nó bao gồm chu kỳ mới của việc thiết lập mục tiêu và quyết định chiến lược nhằm hoàn thiện hơn nữa”. Trong cách tiếp cận này, khái niệm hiện tượng tương lai, tính liên tục của quá trình, sự gắn bó của hàng loạt hành động và quyết định để đạt được mong muốn đều đã được thể hiện. Với cách tiếp cận theo nội dung và vai trò: Theo HERY FAYOL: Kế hoạch là một trong những hoạt động cơ bản của chu trình quản lý cấp công ty. Xét về mặt bản chất, hoạt động này là nhằm xét các mục tiêu của phương án kinh doanh, bước đi trình tự và cách tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo RONNEY: Hoạt động kế hoạch là một trong các hoạt động nhằm tìm ra con đường huy động và sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả để phục vụ các mục tiêu kinh doanh. Trong thời bao cấp, ở Việt nam quan niệm: Công tác lập kế hoạch là tổng thể các hoạt động nhằm xác định các mục tiêu, các nhiệm vụ của sản xuất kinh doanh, về tổ chức đời sống và tổ chức thực hiện để đạt được các mục tiêu đó, trên cơ sở vận dụng các quy luật khách quan, các chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ. Các khái niệm trên đây cho thấy khái niệm kế hoạch được đề cập chủ yếu thông qua các nội dung của nó mà chưa làm nổi bật đặc tính về thời gian, mức độ những nét hết sức đặc trưng của kế hoạch. Theo cách tiếp cận hiện nay được nhiều người sử dụng ở Việt nam thì: Kế hoạch là những chỉ tiêu, những con số dự kiến, ước tính trước trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó để đạt được hiệu quả cao nhất (Tức là phù hợp với yêu cầu về thị trường, phù hợp với pháp luật và khả năng thực tế của doanh nghiệp). Theo quan niệm này thì những chỉ tiêu, những con số phải có cơ sở khoa học, cơ sở thực tế và nó phải được thể hiện ở bảng biểu kế hoạch. Những con số chỉ tiêu này mang tính khả năng và muốn biến chúng thành hiện thực thì phải áp dụng hệ thống các biện pháp. Việc lập kế hoạch là quyết định trước xem trong tương lai phải làm gì? làm như thế nào? và làm bằng công cụ gì? khi nào làm? và ai làm?. Mặc dù ít tiên đoán được chính xác trong tương lai và những yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát có thể phá vỡ cả những kế hoạch tốt nhất đã có nhưng không có kế hoạch thì các sự kiện xảy ra một cách ngẫu nhiên và ta sẽ mất đi khả năng hành động một cách chủ động. 1.2 Vai trò của kế hoạch trong doanh nghiệp Việc lập kế hoạch có 4 mục đích quan trọng bao gồm: Tập trung sự chú ý vào các mục tiêu, ứng phó với những bất định và thay đổi, tạo khả năng tác nghiệp kinh tế, giúp cho các nhà quản lý kiểm tra. 1.2.1 Tập trung sự chú ý vào các mục tiêu Do toàn bộ công việc lập kế hoạch là phần đạt được các mục tiêu của cơ sở, cho nên chính hoạt động lập kế hoạch tập trung sự chú ý vào các mục tiêu này. Nhưng kế hoạch được xem xét đủ toàn diện sẽ thống nhất được những hoạt động tương tác giữa các bộ phận. Những người quản lý, mà họ thực sự đang gặp phải những vấn đề cấp bách, buộc phải thông qua việc lập kế hoạch để xem xét tương lai, thậm chí cần phải định kỳ sửa đổi và mở rộng kế hoạch để đạt được các mục tiêu dã định. 1.2.2 Ứng phó với những sự bất định và sự thay đổi Sự bất định và thay đổi làm cho việc lập kế hoạch trở thành tất yếu. Giống như một nhà hằng hải không chỉ lập hành trình một lần rồi quên nó, một người kinh doanh không thể lập một kế hoạch sản xuất kinh doanh và dừng lại ở đó. Tương lai rất ít khi chắc chắn, tương lai càng xa thì kết quả của quyết định mà ta cần phải xem xét sẽ càng kém chắc chắn, một uỷ viên quản trị kinh doanh có thể thấy hoàn toàn chắc chắn rằng: Trong tháng tới các đơn đặt hàng, các chi phí sản xuất, năng suất lao động, sản lượng, dự trữ tiền mặt sẵn có, và các yếu tố khác của môi trường kinh doanh sẽ ở một mức độ xác định. Song, một đám cháy, một cuộc bãi công không biết trước, hoặc việc huỷ bỏ một đơn đặt hàng của một khách hàng chủ yếu sẽ làm đảo lộn tất cả. Hơn nữa, nếu lập kế hoạch cho một thời gian càng dài thì người quản lý càng ít nắm chắc về môi trường kinh doanh bên trong và bên ngoài và về tính đúng đắn của mọi quyết định. Thậm trí ngay khi tương lai có độ chắc chắn cao, thì một số kế hoạch cần thiết: Thứ nhất là: Các nhà quản lý vẫn phải tìm cách tốt nhất để dạt được mục tiêu. Với điều kiện chắc chắn, trước hết đây là vấn đề thuộc toán học tính toán, dựa trên các sự kiện đã biết xem tiến trình nào sẽ đem lại kết quả mong muốn với chi phí thấp nhất. Thứ hai là: Sau khi tiến trình đã được xác định, cần phải đưa ra các kế hoạch để sao cho mỗi bộ phận của tổ chức sẽ biết cần phải đóng góp như thế nào vào công việc phải làm. Ngay sau khi có thể dễ dàng dự đoán được sự thay đổi thì vẫn nảy sinh những khó khăn khi lập kế hoạch. Việc sản xuất loại ô tô nhỏ sử dụng ít nhiên liệu là một ví dụ. Không thể ngay lập tức chuyển từ sản xuất ô tô cỡ lớn và cỡ trung bình sang cỡ nhỏ, nhà sản xuất phải quyết định tỷ lệ sản xuất giữa các loại ô tô và làm thế nào để trang bị máy móc cho cả dây truyền này sản xuất có hiệu quả. Tuy nhiên, nhà sản xuất có thể lựa chọn các phương hướng rất khác nhau, khi đã nắm chắc về sự thay đổi công ty có thể phải cân nhắc kỹ lưỡng để bán lỗ phần kinh doanh xe cỡ lớn và cỡ trung bình để tập trung vào việc thiết kế và sản xuất loại xe cỡ nhỏ, với hy vọng trở thành công ty hàng đầu trong ngành sản xuất ô tô cỡ nhỏ. Thực tế, đó là cách mà các công ty Nhật Bản đã làm. Khi các nhà quản lý không thể thấy được các xu thế một cách dễ dàng thì việc có được một kế hoạch tốt có thể gặp nhiều khó khăn hơn nữa. Nhiều nhà quản trị đã đánh giá thấp hoặc không đánh giá đủ sớm về tầm quan trọng của giá cả lạm phát, về sự tăng lãi suất nhanh chóng và khủng hoảng năng lượng những năm 70, kết quả là họ đã đối phó không kịp thời với những biến động về thị trường và vật liệu dẫn tới sự tăng chi phí sản xuất. Thậm chí đến cuối những năm 1960 đầu 1970 sự cố ô nhiễm nước và không khí cũng chưa được quan tâm đúng mức. 1.2.3 Tạo khả năng tác nghiệp kinh tế Việc lập kế hoạch sẽ cực tiểu hoá chi phí vì nó chú trọng vào các hoạt động hiệu quả và phù hợp. Kế hoạch thay thế cho sự hoạt động manh mún, kế hoạch không được phối hợp bằng sự nỗ lực có định hướng chung, thay thế những phán xét vội vàng bằng những quyết định có cân nhắc kỹ lưỡng. Ở phạm vi cơ sở sản, xuất tác dụng của việc lập kế hoạch càng rõ nét. Không một ai, đã từng ngắm nhìn bộ phận lắp ráp ô tô trong một nhà máy lớn mà lại không có ấn tượng về cách thức mà các bộ phận và các dây chuyền phụ ghép nối với nhau. Từ hệ thống băng tải chính hình thành ra thân xe, và các bộ phận khác nhau được hình thành từ các dây chuyền khác. Động cơ, bộ truyền lực và các phụ kiện được đặt vào chỗ một cách chính xác đúng vào thời điểm đã định. Quá trình này đòi hỏi phải có một kế hoạch sâu rộng và chi ly mà nếu thiếu chúng việc sản xuất ô tô sẽ rối loạn và tốn kém quá mức. 1.2.4 Làm dễ dàng cho việc kiểm tra Người quản lý không thể kiểm tra công việc của các cấp dưới nếu không có được mục tiêu đã định để đo lường. Như một người lãnh đạo cấp cao đã từng nói: “Sau khi tôi rời khỏi văn phòng lúc 5 giờ chiều, tôi không còn quan tâm tới những việc đã xảy ra trong ngày hôm đó, tôi chẳng thể làm gì được nữa, tôi chỉ xem xét những việc có thể xảy ra vào ngày mai hoặc ngày kia, hoặc vào năm tới, bởi vì tôi còn có thể làm được một việc gì đó về những vấn đề này”. Có lẽ đây là một quan niệm cực đoan, nhưng nó cũng nhấn mạnh tới một điều quan trọng là sự kiểm tra có hiệu quả là sự kiểm tra hướng tới tương lai. 1.3 Nội dung cơ bản của kế hoạch kinh doanh Kế hoach trong doanh nghiệp là thể hiện kĩ năng tiên đoán mục tiêu phát triển và tổ chức thực hiện mục tiêu đề ra. Công tác này bao gồm các hoạt động: - Lập kế hoạch: Đây là khâu giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong công tác kế hoạch hoá doanh nghiệp, nó là quá trình xác định mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch và đề xuất chính sách giải pháp áp dụng. Kết quả của việc soạn lập kế hoạch là một bản kế hoạch của doanh nghiệp được hình thành và nó chính là cơ sở cho việc thực hiện các công tác sau của kế hoạch. Bản kế hoạch của doanh nghiệp là hệ thống các phương hướng nhiệm vụ , mục tiêu và các chỉ tiêu nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính cần thiết cho việc thực hiện mục tiêu phát triển doanh nghiệp đặt ra trong thời kì kế hoạch nhất định. Kế hoạch doanh nghiệp chính là thể hiện ý đồ phát triển của các nhà lãnh đạo quản lí đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các giải pháp thực thi. Bản kế hoạch doanh nghiệp được hình thành để trả lời những câu hỏi mang tính bản chất của nó như sau: (1) Trạng thái của doanh nghiệp hiện tại, kết quả và những điều kiện hoạt động kinh doanh? (2) Doanh nghiệp muốn được phát triển như thế nào? (3) làm thế nào để sử dụng có hiệu quả nguồn lực của doanh nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu đề ra? - Tổ chức thực hiện kế hoạch, kiểm tra, điều chỉnh và đánh giá kế hoạch là những hoạt động tiếp sau của công tác kế hoạch hoá nhằm đưa kế hoạch vào thực tế hoạt động của doanh nghiệp. Đây là quá trình tổ chức, phối hợp hoạt động của các bộ phận, cá yếu tố nguồn lực của doanh nghiệp, triển khai các hoạt động khác nhau theo các mục tiêu kế hoạch đặt ra. Quá trình triển khai kế hoạch không chỉ đơn giản là xem xét những hoạt động cần thiết của doanh nghiệp mà nó còn thể hiện ở khả năng dự kiến, phát hiện những điều bất ngờ có thể xuất hiện trong quá trình hoạt động và khả năng ứng phó những điều bất ngờ. Quá trình kiểm tra, theo dõi, điều chỉnh kế hoạch giúp doanh nghiệp không chỉ xác định được tất cả những rủi ro trong hoạt động của mình mà còn có khả năng quản lí rủi ro với sự hỗ trợ của việc tiên đoán có hiệu quả và sử lí những rủi ro đó trong quá trình thực hiện mục tiêu đặt ra. Công tác đánh giá kết quả sẽ là cơ sở giúp cho doanh nghiệp xây dựng những phương án kế hoạch tiếp theo một cách chính xác và sát thực hơn. 2. Các loại hình kế hoạch trong doanh nghiệp Hệ thống kế hoạch của một tổ chức là tổng thể của nhiều loại kế hoạch có mối quan hệ chặt chẽ với nhau theo một định hướng chung nhằm thực hiện mục tiêu tối cao của hệ thống. Để đảm bảo hoạt động của một tổ chức cần phải xây dựng được một hệ thống kế hoạch bao gồm nhiều loại kế hoạch khác nhau và được phân định theo nhiều tiêu chí khác nhau. 2.1 Theo mức độ tổng quát Được thể hiện trong sơ đồ sau: Đường lối - sứ mệnh Chiến lược Các kế hoạch tác nghiệp Xây dựng một lần, sử dụng một lần: - chương trình. - Dự án. - Ngân sách. Xây dựng một lần, sử dụng nhiều lần: - ChÝnh s¸ch. - Thñ tôc. - Quy t¾c. 2.1.1 Sứ mệnh Là bức thông điệp thể hiện lý do tồn tại của tổ chức, nó trả lời cho câu hỏi: Tổ chức tồn tại vì mục đích nào?. Sứ mệnh bao gồm: - Sứ mệnh được công bố: Thông báo cho mọi người một cách công khai, thông qua thị trường để doanh nghiệp đạt được mục tiêu, nó được thể hiện thông qua các khẩu hiệu, các triết lý kinh doanh ngắn gọn. - Sứ mệnh không được công bố: Thể hiện lợi ích tối cao của doanh nghiệp. Xu hướng chung ngày nay là: Cố gắng làm cho hai loại sứ mệnh này xích lại gần nhau. Sứ mệnh là cơ sở đầu tiên để xác định mục tiêu chiến lược của hệ thống và nó cũng là cơ sở để xác định phương thức hành động cơ bản của tổ chức. 2.1.2. Chiến lược Chiến lược là tổng thể tư tưởng, quan điểm, mục tiêu tổng quát và những phương thức cơ bản để thực hiện mục tiêu của hệ thống. Chiến lược là sự cụ thể hoá đường lối, khẳng định lại sứ mệnh - quan điểm. Mục tiêu trong chiến lược bao giờ cũng là mục tiêu tổng quát và dài hạn, mỗi chiến lược của hệ thống phải đảm bảo cho hệ thống sự phát triển vượt bậc với sự thay đổi về chất, các chiến lược là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều loại, nhiều cấp khác nhau và hướng vào thực hiện mục tiêu tối cao của tổ chức. Chiến lược của một tổ chức là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều cấp chiến lược khác nhau và nhiều loại chiến lược khác nhau. Theo cấp chiến lược của một tổ chức thường có 3 cấp chiến lược, được thể hiện trong sơ đồ sau: Chiến lược chung của tổ chức Chiến lược của đơn vị chiến lược thứ nhất Chiến lược của đơn vị chiến lược thứ 2 … Chiến lược của đơn vị thứ n ChiÕn l­îc Marketing Chiến lược nghiên cứu & phát triển ChiÕn l­îc s¶n xuÊt ChiÕn l­îc tµi chÝnh Chiến lược nguồn nhân lực … 2.1.3 Các kế hoạch tác nghiệp Đây là loại kế hoạch nhằm cụ thể hoá chiến lược và triển khai các chiến lược. Có hai nhóm cơ bản: * Kế hoạch tác nghiệp xây dựng một lần sử dụng một lần: - Chương trình: Bao gồm một số các mục đích, chính sách, thủ tục, quy tắc, các nhiệm vụ được giao, các bước phải tiến hành, các nguồn lực có thể huy động và các yếu tố khác. Chương trình được hỗ trợ bằng ngân quỹ cần thiết. Một chương trình quan trọng thường ít khi đứng một mình, thường là một bộ phận của một hệ thống phức tạp. Chương trình thường có mục tiêu lớn quan trọng, mang tính độc lập tương đối trong quá trình phân bổ các nguồn lực để thực hiện mục tiêu. - Dự án: Có mục tiêu thường cụ thể, quan trọng, mang tính độc lập tương đối . Nguồn lực để thực hiện mục tiêu thường phải rõ ràng đối với tất cả các hình thái nguồn lực theo thời gian và không gian. - Các ngân sách (ngân quỹ): Là bản tường trình các kết quả mong muốn được biểu thị bằng các con số. Có thể coi đó là chương trình được “số hoá”. Ngân quỹ ở đây không đơn thuần là ngân quỹ bằng tiền, mà còn có ngân quỹ thời gian, ngân quỹ nhân công, ngân quỹ máy móc thiết bị, ngân quỹ nguyên vật liệu... * Kế hoạch tác nghiệp xây dựng một lần sử dụng nhiều lần: - Chính sách: là quan điểm, phương hướng và cách thức chung để ra quyết định trong tổ chức. Trong một tổ chức có thể có nhiều loại chính sách khác nhau cho những mảng hoạt động trọng yếu của tổ chức mình. Chính sách là kế hoạch theo nghĩa nó là những quy định chung để hướng dẫn hay khai thông cách suy nghĩ và hành động khi ra quyết định. Các chính sách giúp cho việc giải quyết các vấn đề trong các tình huống nhất định và giúp cho việc thống nhất các kế hoạch khác nhau của tổ chức. Các chính sách là tài liệu chỉ dẫn cho việc ra quyết định trong phạm vi co dãn nào đó. Chính sách khuyến khích tự do sáng tạo nhưng vẫn trong khuôn khổ một giới hạn nào đó, tuỳ thuộc vào các chức vụ và quyền hạn trong tổ chức. - Thủ tục: Là các kế hoạch thiết lập một phương pháp cần thiết cho việc điều hành các hoạt động trong tương lai. Đó là sự hướng dẫn hành động, là việc chỉ ra một cách chi tiết, biện pháp chính xác cho một hoạt động nào đó cần phải thực hiện. Đó là chuỗi các hoạt động cần thiết theo thứ tự, theo cấp bậc quản lý. - Quy chế (Quy tắc): Giải thích rõ ràng những hành động nào có thể làm, những hành động nào không được làm. Đây là loại kế hoạch đơn giản nhất. Không nên nhầm lẫn giữa thủ tục và quy tắc. Các quy tắc gắn với hướng dẫn hành động mà không ấn định trình tự thời gian, trong khi đó thủ tục cũng bao hàm sự hướng dẫn những quy định cả trình tự thời gian cho các hành động. Hơn nữa các chính sách hướng dẫn việc quyết định trong khi quy tắc cũng là sự hướng dẫn nhưng không cho phép có sự lựa chọn trong khi áp dụng chúng. Như vậy, so với quy tắc và thủ tục, chính sách có độ linh hoạt cao hơn. 2.2 Phân loại kế hoạch theo thời gian - Kế hoạch dài hạn: Là kế hoạch cho thời kỳ từ 5 năm trở lên. - Kế hoạch trung hạn: Cho thời kỳ từ 1 đến 5 năm. - Kế hoạch ngắn hạn: Cho thời kỳ dưới 1 năm. 2.3 Phân loại theo cấp quản lý - Kế hoạch cho toàn tổ chức. - Kế hoạch cho các phân hệ và bộ phận của tổ chức. - Kế hoạch cho các cá nhân trong tổ chức. II. PHƯƠNG PHÁP LẬP KẾ HOẠCH SẢN XUẤT KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP 1. Phương pháp luận xây dựng kế hoạch kinh doanh 1.1 Quan điểm khi xây dựng công tác kế hoạch Sau hơn 10 năm đổi mới công tác kế hoạch ở các doanh nghiệp tuy đã có nhiều chuyển biến tích cực song cũng có nhiều khó khăn và hạn chế. Vì vậy, kế hoạch trong doanh nghiệp đang tiếp tục được đổi mới và hoàn thiện trên các mặt sau: Thực hiện cơ chế tự chủ trong quá trình xây dựng, điều chỉnh, tổ chức thực hiện và đánh giá thực hiện kế hoạch của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường đều phải hướng vào mục tiêu lợi nhuận và phục vụ khách hàng. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự nghiên cứu để nắm vững thị trường, xác định phương án kinh doanh trên cơ sở nhận thức các cơ hội và rủi ro trên thị trường. Về nguyên tắc trong điều kiện mới các doanh nghiệp được chủ động xây dựng kế hoạch của mình trên cơ sở phải đảm bảo thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh và hợp đồng ký kết, tuy vậy phạm vi tự chủ và các biện pháp thực hiện của Nhà nước cần phải xác định cụ thể cho từng loại doanh nghiệp 1.2 Những yêu cầu đổi mới công tác lập kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Công tác lập kế hoạch sản xuất trong cơ chế tập trung quan liêu bao có những lợi ích nhất định. Nhưng khi chuyển sang cơ chế thị trường nó không còn phù hợp nữa. Do vậy yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với doanh nghiệp là phải đổi mới công tác kế hoạch sản xuất kinh doanh của đơn vị mình cho phù hợp với cơ chế thị trường. Quá trình đổi mới đó cần quán triệt các yêu cầu chủ yếu sau đây: - Công tác kế hoạch hoá trong doanh nghiệp, quán triệt yêu cầu hiệu quả. Các doanh nghiệp hoạt động đều hướng tới mục tiêu hiệu quả, nó là tiêu chuẩn hàng đầu cho việc xây dựng, lựa chọn và quyết định phương án kế hoạch của doanh nghiệp. - Kế hoạch hoá doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu hệ thống đồng bộ. Nền kinh tế quốc dân là một hệ thống thống nhất, bao gồm các phân hệ là các doanh nghiệp. Thực hiện yêu cầu này, trong các khâu công tác kế hoạch hoá phải đảm bảo cho mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp đồng hướng và góp phần thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu bao trùm của cả hệ thống. - Công tác kế hoạch hoá doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu "vừa tham vọng vừa khả thi". Mục tiêu lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp công nghiệp phải xây dựng để thực hiện các phương án đó. Tuy nhiên các kế hoạch này phải có khả năng thực thi. - Công tác kế hoạch hoá doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu "kết hợp mục tiêu chiến lược với mục tiêu tình thế". Hay hệ thống mục tiêu kế hoạch phải được xây dựng và điều chỉnh linh hoạt theo yêu cầu thay đổi của môi trường và điều kiện kinh doanh. - Công tác kế hoạch hoá doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu kết hợp đúng đắn các loại lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp kể cả lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp kể cả lợi ích xã hội. Đây là động lực cho sự phát triển, là cơ sở cho việc thực thi có hiệu quả các phương án kinh doanh. 1.3 Căn cứ xây dựng kế hoạch Việc xác định các căn cứ vững chắc để xây dựng kế hoạch là việc làm rất quan trọng và cần thiết nhằm đảm bảo cho kế hoạch của doanh nghiệp được hoạch định khả thi và đạt hiệu quả cao. Các căn cứ chủ yếu khi xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh gồm: 1. Căn cứ vào chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước Trong công tác hoạch định về nguyên tắc doanh nghiệp được quyền tự chủ, song giới hạn và phạm vi của việc phát huy quyền tự chủ là pháp luật và chính sách phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, nếu những hoạt động của nó đi ngược lại xu thế phát triển, phạm vi những lợi ích chung của nền kinh tế (hệ thống) nó sẽ bị đào thải, ngược lại nếu nhận thức và hoà mình vào xu thế phát triển, phạm vi những lợi ích chung của nền kinh tế (hệ thống) nó sẽ bị đào thải, ngược lại nếu nhận thức và hoà mình vào xu thế phát triển thì nó mới có thể phát triển bền vững và ổn định. Căn cứ này góp phần làm cho phương án phát triển của doanh nghiệp hợp lý, đúng hướng. 2. Căn cứ vào kết quả điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Kết quả nghiên cứu nhu cầu thị trường phải phản ánh được quy mô, cơ cấu đối với từng sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, có tính đến tác động của các nhân tố làm tăng hoặc giảm cầu để đáp ứng yêu cầu của công tác hoạch định. Những kết quả nghiên cứu này có thể tập hợp theo mức giá để xác định mục tiêu kinh doanh phù hợp với phân đoạn thị trường hoặc theo khách hàng để đảm bảo sự gắn bó giữa sản xuất với các yếu tố hỗ trợ. Căn cứ vào số lượng các đối thủ cạnh tranh, sự biến động giá cả trên thị trường sẽ làm tăng hiệu quả thực hiện của phương án kế hoạch. Đối với doanh nghiệp trong ngành xây dựng thì thị trường cũng lại rất đặc biệt cũng như đặc trưng về sản phẩm của nó. Do đó việc nghiên cứu nhu cầu thị trường là rất quan trọng trong công tác lập kế hoạch của công ty. 3. Căn cứ vào kết quả phân tích và dự báo về tình hình sản xuất kinh doanh, về khả năng và nguồn lực có thể khai thác Doanh nghiệp căn cứ vào kết quả phân tích hoạt động kinh tế thời kỳ trước và dự báo khả năng tương lai ứng với các nguồn lực có thể cóD, đặc biệt là dựa vào những lợi thế vượt trội của doanh nghiệp về các mặt chất lượng sản phẩm, kênh tiêu thụ hợp tác liên doanh, khoa học công nghệ, cạnh tranh sẽ góp phần làm tăng tính khả thi của các phương án kế hoạch. Trọng tâm phân tích cần tập trung vào các chỉ tiêu chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh. 4. Căn cứ vào hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật Đây là căn cứ quan trọng làm cơ sở cho công tác hoạch định. Môi trường kinh doanh biến đổi rấy nhanh đòi hỏi hệ thống này cần đượchoàn thiện và sửa đổi sau mỗi chu kinh doanh. Hệ thống định mức kỹ thuật của doanh nghiệp phải gắn bó phù hợp với hệ thống định mức tiêu chuẩn của ngành và nền kinh tế quốc dân. 1.4 Quy trình xây dựng kế hoạch Quá trình xây dựng kế hoạch trong các doanh nghiệp bao gồm nhiều khâu. Từ khâu chuẩn bị đến khâu kết thúc là tạo được một kế hoạch tối ưu được thông qua và áp dụng. Có thể mô tả quy trình xây dựng kế hoạch theo các bước qua sơ đồ sau: Kh¼ng định kế hoạch bậc cao hơn Nghiên cứu và dự báo Xác định các mục tiêu của hoạt động sản xuất kinh doanh Xác định và lựa chọn các cơ hội kinh doanh Xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh Lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh tối ưu Thông qua và quyết định kế hoạch sản xuất kinh doanh Bước 1: Khẳng định kế hoạch bậc cao hơn Kế hoạch bậc cao bao gồm các đường lối và các mục tiêu của cấp trên, trước khi hoạch định một kế hoạch nào đó các nhà hoạch định phải xem xét đường lối, các mục tiêu tổng thể của cấp trên. Vì kế hoạch đặt ra cũng như các mục tiêu không thể mâu thuẫn với các đường lối và các mục tiêu của cấp trên. Bước 2: Xác định và lựa chọn các cơ hội kinh doanh Đây là bước khởi đầu của quá trình lập kế hoạch sản xuất kinh doanh. Ở bước này người lập kế hoạch phải nhận thức rõ được trên thị trường có những cơ hội nào thuận lợi hoặc khó khăn cho doanh nghiệp mình. Từ đó lựa chọn các cơ hội để hoạch định kế hoạch một cách tối ưu. Cơ hội đó có thể là một nhu cầu mới xuất hiện của người tiêu dùng hoặc những thông tin về thị trường, về cạnh tranh, về quy mô, về cơ cấu nhu cầu, điểm mạnh điểm yếu cùng với khả năng và nguồn lực của doanh nghiệp. Hai bước khẳng định kế hoạch bậc cao và nghiên cứu dự báo là 2 khâu không nằm trong quá trình hoạch định kế hoạch mà là khâu tiền hoạch định. Bước 3: Xác định các mục tiêu của hoạt động sản xuất kinh doanh Ở bước này các nhà hoạch định cần phải biết rõ các cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp mình và nắm được khả năng nguồn lực của doanh nghiệp mình, từ đó đi tới các mục tiêu của chính sách. Các mục tiêu này có thể là mục tiêu dài hạn (chiến lược) hoặc là các mục tiêu ngắn hạn như mục tiêu về tốc độ tăng trưởng kinh doanh, mục tiêu về lợi nhuận. Bước 4: Xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh Có nhiều cách thức để đạt được mục tiêu, đó chính là các phương án, mỗi phương án sản xuất kinh doanh đều đưa đến các mục tiêu cần đạt được. Các phương án sản xuất kinh doanh này đều được lập ra dựa trên nhiều con đường. Các con đường đó đều đi tới mục tiêu đã định. Bước 5: Lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh tối ưu Khi đã xác định được các phương án sản xuất kinh doanh ở bước 4. Các nhà hoạch định chính sách cần phải lựa chọn, xem xét xem các phương án nào là tối ưu nhất tức là các phương án nào đạt mục tiêu một cách hiệu quả nhất và nhanh nhất, ít tốn chi phí nhất. Đồng thời các phương án được lựa chọn tối ưu phải giải quyết được những vấn đề kinh tế xã hội đang được đặt ra. Bước 6: Thông qua và quyết định sản xuất kinh doanh Khi các nhà hoạch định đã xác định được các phương án tối ưu, phương án tối ưu này phải được đưa ra hội đồng quản trị, hoặc các phòng ban có liên quan, sau đó các phòng ban này thông qua đồng ý với các phương án được lựa chọn và thực hiện phương án, quyết định và thể chế thành một kế hoạch sản xuất kinh doanh cụ thể. 2. Các chỉ tiêu kế hoạch trong doanh nghiệp Các chỉ tiêu kế hoạch là các đích, các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp, có thể tính toán, so sánh, phân tích được. Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch của doanh nghiệp có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau: 2.1 Căn cứ vào tính chất của các chỉ tiêu - Các chỉ tiêu chất lượng: Bao gồm các chỉ tiêu phản ánh các mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, chỉ tiêu năng suất lao động, tỷ lệ lợi nhuận bình quân, tỷ lệ doanh thu... - Các chỉ tiêu sản lượng: Bao gồm các chỉ tiêu về hướng phấn đấu của doanh nghiệp về mặt sản lượng, quy mô... của các hoạt động. Ví dụ chỉ tiêu giá trị sản lượng hàng hoá, giá trị tổng sản lượng, số lượng lao động các loại... - Các chỉ tiêu giá trị: Là các chỉ tiêu được đo lường bằng đơn vị tiền tệ. - Các chỉ tiêu hiện vật: Là các chỉ tiêu được đo bằng các đơn vị hiện vật như: Tấn, lít, cái, chiếc, bộ... 2.3 Căn cứ vào phân cấp quản lý - Các chỉ tiêu pháp lệnh: Là các chỉ tiêu của Nhà nước giao cho các doanh nghiệp nhà nước. Đó là các chỉ tiêu được quy định thống nhất về nội dung phương pháp tính toán có tính chất bắt buộc trong thực hiện. - Các chỉ tiêu hướng dẫn: Là chỉ tiêu không có ý nghĩa bắt buộc trong thực hiện, song lại bắt buộc về nội dung và phương pháp tính toán. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường các chỉ tiêu này được áp dụng rộng rãi nhằm phục vụ hoạt động thông tin kinh tế và phân tích các chỉ tiêu kinh tế quốc dân. - Các chỉ tiêu tính toán: Là các chỉ tiêu từng doanh nghiệp quy định và tính toán phục vụ cho công tác quản lý và kế hoạch trong phạm vi doanh nghiệp. 3. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác xây dựng kế hoạch của doanh nghiệp Nếu như vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước là tất yếu trong thời đại ngày nay thì vai trò to lớn của kế hoạch là không thể phủ nhận được, không có kế hoạch thì một công ty hay bất kỳ một tổ chức nào khác sẽ như con thuyền không người lái và chỉ chạy vòng quanh. Không có kế hoạch sẽ chẳng còn đất để doanh nghiệp hoạt động vì lý do đơn giản chẳng ai biết nó định đi đến đâu. Có thể thấy công tác kế hoạch chịu nhiều ảnh hưởng của các nhân tố sau: 3.1 Tính không chắc chắn của môi trường kinh doanh Xây dựng kế hoạch là quá trình chuẩn bị để đối phó với sự thay đổi và tình huống không chắc chắn của môi trường kinh doanh mà chủ yếu là các nhân tố trong môi trường nền kinh tế và môi trường ngành. Tuy nhiên vấn đề quan trọng là phải tính toán, phán đoán được sự tác động của môi trường kinh doanh. Sự không chắc chắn của môi trường kinh doanh được thể hiện dưới 3 hình thức: Tình trạng không chắc chắn: Xảy ra khi toàn bộ hay một phần môi trường được coi là không thể tiên đoán được. Hậu quả không chắc chắn: Là trường hợp mặc dù đã cố gắng nhưng nhà quản lý không thể tiên đoán được những hậu quả của sự kiện hay sự thay đổi của môi trường đối với các doanh nghiệp, do đó dẫn đến sự không chắc chắn. Sự phản ứng không chắc chắn: Là tình trạng không thể tiên đoán được những hệ quả của một ._.quyết định cụ thể hay sự phản ứng của tổ chức đối với những biến động của môi trường. Nhìn chung công việc của người xây dựng kế hoạch phải đánh giá tính chất và mức độ không chắc chắn của môi trường để xác định cách thức phản ứng của tổ chức và triển khai các kế hoạch thích hợp ở những lĩnh vực có mức độ không chắc chắn thì việc xây dựng kế hoạch là không mấy phức tạp, nhưng những lĩnh vực có mức độ không chắc chắn cao đòi hỏi kế hoạch phải được xác định rất linh hoạt. 3.2 Sự hạn chế của các nguồn lực Khi lập kế hoạch doanh nghiệp đã gặp một trở ngại lớn là sự hạn chế của các nguồn lực. Thực tiễn cho thấy sự khan hiếm của các nguôn flực là bài toán làm đau đầu các nhà quản trị khi lập kế hoạch. Chính điều này nhiều khi làm giảm mức tối ưu của phương án kế hoạch được lựa chọn. Trước hết cần nói đến nguồn nhân lực, đây vốn được coi là một trong những thế mạnh của Việt nam nhưng thực tế ở các doanh nghiệp còn rất nan giải. Lực lượng lao động thừa về số lượng nhưng lại yếu về chất lượng. Số lượng lao động có trình độ quản lý, tay nghề cao vẫn thiếu, lực lượng lao động trẻ vẫn còn phải đào tạo nhiều. Tiếp đến cần phải kể đến sự hạn hẹp về tài chính. Tiềm lực tài chính yếu sẽ cản trở sự triển khai các kế hoạch, hơn nữa nó cũng giới hạn việc lựa chọn những phương án tối ưu. Cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung của doanh nghiệp cũng là nguồn lực hạn chế. Đó là khả năng hạn chế về máy móc thiết bị, công nghệ, nhà xưởng kho tàng... Thực tiễn ở các doanh nghiệp ở nước ta hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất yếu và thiếu. Điều đó đã cản trở việc xây dựng và lựa chọn những kế hoạch sản xuất tối ưu nhất... 3.3 Hệ thống mục tiêu của doanh nghiệp Mục tiêu được hiểu theo một cam kết cụ thể đối với thực hiện một kết quả có thể đo lường trong khoảng thời gian đã định. Các mục tiêu được xác định càng cụ thể càng tốt trên phương diện: Số lượng, các điều kiện cụ thể hay những dữ liệu có thể đo lường được và được thể hiện trong những khoảng thời gian nhất định. Dưới đây là 3 câu hỏi để kiểm tra và điều chính một mục tiêu: - Mục tiêu đã đề cập đến kết quả hoàn thành như thế nào? - Mục tiêu này xác định khi nào thì kết quả chờ đợi được hoàn thành? - Có thể đo lường được kết quả chờ đợi hay không? Mục tiêu hữu ích của doanh nghiệp phải thoả mãn cả 3 câu hỏi này, nếu mục tiêu không thoả mãn bất kỳ câu hỏi nào cũng gây khó khăn cho quá trình lập kế hoạch. 3.4 Quá trình tổ chức thông tin, thống kê, kế toán Nhà kinh tế học người Anh Roney cho rằng: “Muốn chiến thắng trong cạnh tranh một mặt công ty hoạt động trong nền kinh tế thị trường trước hết phải nắm được thông tin, tiếp đó phải xây dựng cho mình các chiến lược và kế hoạch đầy tham vọng”. Trong quá trình xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh thông tin sẽ giúp ta đánh giá so sánh và lựa chọn phương án... Thông tin giúp bộ phận lãnh đạo của doanh nghiệp có được các quyết định đúng đắn, kịp thời. Thống kê và kế toán là hai công cụ đặc biệt có ý nghĩa đối với công tác quản lý và công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh nói riêng. Tổ chức thông kê, kế toán đầy đủ, chính xác, kịp thời, sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp thực sự đi vào cơ chế hạch toán, xây dựng có hiệu quả giúp cho bộ phận kế hoạch lựa chọn, xây dựng những phương án sản xuất tối ưu nhất.Tuy nhiên ở nước ta các doanh nghiệp chưa thực sự chú ý đúng mức công tác thống kê. 3.5 Cơ chế quản lý kinh tế và kế hoạch hoá của Nhà nước Đây là nhóm nhân tố có ảnh hưởng sâu sắc đến công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh. Một cơ chế quản lý phù hợp sẽ thúc đẩy hoạt động kế hoạch sản xuất phát triển, ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp.Thực tế trong những năm chuyển đổi cơ chế quản lý cho thấy càng đi sâu vào cơ chế thị trường càng phát sinh nhiều vấn đề mới cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết để hoàn thiện cơ chế quản lý và kế hoạch của Nhà nước. Nhà nước cần tiếp tục giải quyết các tồn đọng, vướng mắc trong những năm chuyển đổi để thực sự tạo quyền tự chủ cho doanh nghiệp song vẫn đảm bảo yêu cầu quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước . 4. Phương pháp lập kế hoạch Trong thực tế các doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều phương pháp hoạch định. Tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu mà các doanh nghiệp áp dụng các phương pháp khác nhau. Ở Việt nam hiện nay các doanh nghiệp chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp cân đối trong việc xây dựng kế hoạch. 4.1 Phương pháp cân đối Phương pháp này gồm các bước sau: Bước 1: Xác định khả năng (bao gồm khả năng sẵn có và khả năng chắc chắn có) của doanh nghiệp và yếu tố sản xuất. Bước 2: Cân đối giữa nhu cầu và khả năng về các yếu tố sản xuất. Trong cơ chế thị trường, phương pháp cân đối được xác định với những yêu cầu sau: - Cân đối được thực hiện là cân đối động. Cân đối để lựa chọn phương án chứ không phải cân đối theo phương án đã được chỉ định. Các yếu tố của cân đối là những yếu tố biến đổi theo môi trường kinh doanh, đó là nhu cầu thị trường và khả năng có thể khai thác của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch. - Thực hiện cân đối liên hoàn, tức là tiến hành nhiều cân đối kế tiếp nhau để bổ sung và điều chỉnh phương án cho phù hợp với thay đổi của môi trường. - Thực hiện cân đối trong những yếu tố truớc khi tiến hành cân đối tổng thể các yếu tố. Kết quả cân đối tổng hợp phải là căn cứ xác định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và là cơ sở để xác định hoặc điều chỉnh phương án kinh doanh của doanh nghiệp. 4.2 Phương pháp tỷ lệ cố định Nội dung của phương pháp này là tính toán một số chỉ tiêu của năm kế hoạch theo tỷ lệ đã được xác định trong năm báo cáo trước đó. Có nghĩa là coi tình hình của năm kinh doanh giống như tình hình của năm báo cáo đối với một số chỉ tiêu nào đó. Phương pháp này cho thấy kết quả nhanh nhưng thiếu chính xác nên chỉ sử dụng trong trường hợp không đòi hỏi độ chính xác cao và thời gian không cho phép dài. 4.3 Phương pháp phân tích chu kỳ sống của sản phẩm Chu kỳ sống của sản phẩm (vòng đời của sản phẩm) là khoảng thời gian từ khi nó được đưa ra thị trường cho đến khi nó không còn tồn tại trên thị trường. Trừ một số sản phẩm hàng hoá thiết yếu phục vụ đời sống hàng ngày, hành hoá có tính chất thời trang, mau hỏng hoặc sản phẩm có tính thời vụ... còn lại, nói chung chu kỳ sống của sản phẩm được đặc trưng bởi 4 giai đoạn chủ yếu (4 pha): Triển khai (thâm nhập), tăng trưởng, bão hoà và suy thoái. Tưong ứng với mỗi giai đoạn là các vấn đề và cơ hội kinh doanh. Doanh nghiệp cần nhận biết đặc điểm của từng giai đoạn để quyết định khối lượng sản xuất, vì mỗi giai đoạn của chu kỳ sống có mức độ tiêu thụ trên thị trường khác nhau. 4.4 Phương pháp đường cong kinh nghiệm Thực chất của phương pháp này là phân tích đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành nghề trên cơ sở mối quan hệ giữa việc giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm và việc tăng số lượng sản phẩm, từ đó tiến hành lập kế hoạch. 4.5 Phương pháp mô hình PIMS (chiến lược thị trường ảnh hưởng đến lợi nhuận) Theo phương pháp này, khi hoạch định kế hoạch doanh nghiệp phải phân tích 6 vấn đề lớn: - Sức hấp dẫn của thị trường như: Mức tăng trưởng thị trường, tỷ lệ xuất khẩu... - Tình hình cạnh tranh: Phân tích thị trường tương đối của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. - Hiệu quả của hoạt động đầu tư: Cường độ đầu tư, doanh thu trên mỗi hoạt động đầu tư. - Sử dụng ngân sách doanh nghiệp: Chi cho marketing trong doanh thu, hệ số tăng sản xuất. - Các đặc điểm của doanh nghiệp như: Qui mô doanh nghiệp, mức độ phân tán của doanh nghiệp. - Phân tích sự thay đổi của các yếu tố: Phần thị trường liên kết, giá cả, chất lượng sản phẩm và sự thay đổi sản lượng. Phương pháp này là phát hiện ra sự trao đổi các kết quả có tính chất chiến lược để từ đó xác định kế hoạch. Phần II - THỰC TIỄN CÔNG TÁC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH SẢN XUẤT KINH DOANH Ở CÔNG TY TNHH TM & XNK VIỄN ĐÔNG I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY TNHH TM & XNK VIỄN ĐÔNG 1. Quá trình thành lập và phát triển. Công ty TNHH TM & XNK Viễn Đông được thành lập theo Quyết định số 998/BTM- TCLĐ ngày 20/11/2003 của Bộ trưởng Bộ thương mại. Công ty được xác định là đơn vị hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, có tài khoản Việt Nam và ngoại tệ và có con dấu riêng để giao dịch. Trực thuộc công ty có 2 văn phòng đại diện (một tại Thượng Hải-Trung Quốc, một tại Praha- Cộng hoà Séc), 1 xưởng gia công sản xuất và 3 cửa hàng bày bán pha lê, thuỷ tinh cao cấp tại Hà Nội. Tên giao dịch : Công ty TNHH TM & XNK Viễn Đông Trụ sở : 934 Đê La Thành- Đống Đa- Hà Nội Điện thoại : 04. 7710838 - 04.7716948. Fax : 04.7710838 E - mail : phalequatang@gmail.com Website : Toàn bộ Công ty có khoảng 40 cán bộ công nhân viên trong đó có 10 người có trình độ đại học và trên đại học. Ngay từ khi mới thành lập số vốn đăng ký kinh doanh của Công ty đã có đến 3.624.000.000 VNĐ. Ngay từ khi ra đời Công ty hoạt động kinh doanh áp dụng hình thức kinh doanh mới theo cơ chế thị trường, các hoạt động của Công ty đặc biệt là hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đã từng bước phát triển, ngành hàng và thị trường ổn định, tạo được lòng tin với khách hàng. Công ty trực tiếp tìm kiếm thị trường, giao dịch đàm phán với bạn hàng để tiến hành xuất nhập các lô hàng phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng. Trong quá trình hoạt động Công ty luôn thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch. Theo đăng ký kinh doanh thì ngoài kinh doanh trong nước Công ty còn kinh doanh hàng hóa xuất nhập khẩu và nhận uỷ thác xuất nhập khẩu hàng hóa.Hiện tại mặt hàng kinh doanh nhập khẩu chủ yếu của công ty là pha lê từ các nước Tiệp Khắc, Trung Quốc, Italia, Nhật Bản... 2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Công ty 2.1. Chức năng, nhiêm vụ 2.1.1 Chức năng của công ty Công ty là một đơn vị kinh tế tư nhân thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập với mục đích là kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa để góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo ra thu nhập cho bản thân Công ty cũng như làm lợi cho xã hội thông qua các hoạt động của mình. Nói cách khác, chức năng chính của công ty TNHH TM & XNK Viễn Đông là kinh doanh trong nước và tham gia các hoạt động xuất nhập khẩu các loại hàng hóa phục vụ cho quá trình CNH - HĐH đất nước trên cơ sở kết hợp lợi ích của cả các bên là Công ty - Nhà nước và tập thể cán bộ công nhân viên của Công ty. 2.1.2. Nhiệm vụ của công ty Tuân thủ các chính sách chế độ quản lý kinh tế, quản lý nhập khẩu và giao dịch đối ngoại, tuân thủ pháp luật Việt Nam . Tổ chức nghiên cứu tốt thị trường trong và ngoài nước, nắm vững nhu cầu thị hiếu trên thị trờng để từ đó hoạch định các chiến lược Maketing đúng đắn, bảo đảm cho kinh doanh của Công ty được chủ động để tránh được các rủi ro và mang lại lợi nhuận và hiệu quả cao. Quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đã có, tạo thêm nguồn vốn mới cho sản xuất kinh doanh. Tiến hành đầu tư, mở rộng sản xuất đổi mới trang thiết bị, bù đắp chi phí, cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu, làm tròn nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước, phấn đấu thực hiện chỉ tiêu kế hoạch xuất nhập khẩu ngày càng cao. Thực hiện tốt các chính sách cán bộ, quản lý tài sản, tài chính, lao động, tiền lương, tiền thưởng... do Công ty quản lý, làm tốt công tác phân phối lao động, đào tạo bồi dưỡng để nâng cao trình độ văn hóa, tay nghề, nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên trong Công ty. Tuân thủ và thực hiện tốt các cam kết trong hợp đồng mua bán ngoại thương và các hợp đồng có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty. Nghiên cứu nắm vững môi trường pháp luật, kinh tế, văn hóa để giúp cho việc kinh doanh tốt hơn. Tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế, tham gia đàm phán, ký kết trực tiếp hoặc thông qua đơn hàng. Nghiên cứu thực hiện các biện pháp để nâng cao chất lượng, gia tăng khối lượng, hàng hóa xuất nhập khẩu, mở rộng thị trường ngoài nước, phát triển xuất nhập khẩu. Tổ chức gia công, chế tác phục vụ cho nhu cầu kinh doanh. Tiến hành xuất nhập khẩu uỷ thác hoặc trực tiếp xuất nhập khẩu. Thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, đặc biệt là đóng thuế, bảo toàn và phát triển đồng vốn được giao, quản lý và sử dụng đúng ngoại tệ. Tiến hành làm tốt công tác bảo hộ lao động, trật tự xã hội, bảo vệ môi trường, bảo vệ tài sản XHCN. 2.2. Quyền hạn. Cũng như các Công ty khác công ty TNHH TM & XNK Viễn Đông có các quyền hạn sau đây: Được ký hợp đồng với các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế. Được phép tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp ký kết và thực hiện các hợp đồng ngoại thương. Được tiến hành liên doanh, liên kết hợp tác, đầu tư trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh trên cơ sở bình đẳng tự nguyện, hai bên cùng có lợi. Được vay vốn tiền Việt Nam và ngoại tệ tại các ngân hàng Việt Nam và nước ngoài, được huy động vốn nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh của Công ty, được tự trang trải nợ vay và tự thực hiện quy định về quản lý ngoại tệ của Nhà nước . Được mở rộng cửa hàng, ngành hàng kinh doanh theo quy định của Nhà nước, được dự các hội chợ triển lãm, giới thiệu sản phẩm của mình trong và ngoài nước, được mời bên nước ngoài hay cử cán bộ ra nước ngoài đàm phán ký kết hợp đồng, tìm hiểu thị trường và trao đổi kinh nghiệm. Được lập các văn phòng đại diện, chi nhánh ở trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Được phép tiến hành thu thập và cung cấp các thông tin về kinh tế và thị trường thế giới. 3 Các lĩnh vực hoạt động 3.1 Kinh doanh xuất nhập khẩu Hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động chính của Công ty, trong vòng 4 năm từ 2004 - 2007 hoạt động xuất nhập khẩu có được một số kết quả. Bảng 1. Tình hình kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty. Đơn vị: 1000 USD. Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Kim ngạch XK 530 1.710 2.410 3.167 Kim ngạch NK 4.883 6.397 6.799 7.089 Tổng kim ngạch 5.413 8.107 9.209 12.256 (Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty) Nhìn vào bảng ta thấy trong các năm thì kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty đều tăng. Năm 2003 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty là 5.413 nghìn USD nhưng sang đến năm 2007 con số này đã là 12.256 nghìn USD. Như vậy trong vòng 4 năm thì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng lên đến 2,3 lần. Kim ngạch nhập khẩu cũng tăng mạnh là do Công ty tiến hành nhập khẩu mặt hàng có giá trị lớn, hơn thế Công ty còn nhập một số dây chuyển sản xuất và chế tác Pha lê nhằm phục vụ cho thị trường trong và ngoài nước. Kim ngạch xuất khẩu cũng tăng đáng kể vì vào thời gian này Công ty đã dần tìm được và ổn định bạn hàng, thị trường xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu đã tăng mạnh từ 530 nghìn USD lên đến 3.167 nghìn USD vào năm 2007. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty còn được phản ánh ở một chỉ tiêu nữa đó là chỉ tiêu về đóng góp vào ngân sách Nhà nước. Công ty luôn luôn thực hiện đầy đủ, đảm bảo không bị nợ đọng với các khoản nộp thuế. 3.2 Công tác bán lẻ Pha lê sau khi được nhập về thì công ty sẽ tiến hành phân phối cho 3 cửa hàng trực thuộc. Các sản phẩm pha lê sau khi bốc dỡ tại kho sẽ được gắn mã số tương ứng với giá tiền cho từng sản phẩm. Các sản phẩm này sau đó sẽ được vận chuyển tới các cửa hàng và tại đây những chiếc bình hoa, ly cốc, các biểu trưng ..long lanh đủ màu sắc rực rỡ được bày trong các tủ kính một cách bắt mắt. Ngoài ra địa điểm các cửa hang trực thuộc công ty công ty TMXNK Viễn Đông có vị trí khá đẹp sẽ thật sự là không gian lý tưởng cho khách hàng vào tham quan và mua hàng. Ngoài việc nhập và phân phối thành phẩm, hiện nay công ty TMXNK Viễn Đông còn tiến hành mở rộng danh mục sản phẩm bằng cách nhập thêm những chiếc phôi pha lê trong suốt với nhiều hình dáng trẻ trung phục vụ nhu cầu in, khắc và tạo ảnh trên pha lê theo yêu cầu của khách hàng. 3.3 Công tác bán buôn, tìm kiếm hợp đồng - Hình thức kinh doanh thông qua các hợp đồng giao dịch : Ngoài hình thức bán hàng trực tiếp công ty còn tiến hành bán và giao hàng với số lượng lớn cho các khách hàng là các cá nhân, các đơn vị kinh doanh khác thông qua hình thức ký kết hợp đồng. Công ty sau khi thông qua các đơn đặt hàng thì sẽ tiến hành đàm phán và đi đến ký kết hơp đồng với khách hàng.. Việc đàm phán và đi đến ký kết hợp đồng là rất quan trọng. Công ty đàm phán với đối tác thông qua thư tín, điện thoại, fax với các nước ở xa. Hình thức này giúp cho công ty tiết kiệm được chi phí đi lại nhưng lại phải chờ đợi, gần đây công ty đã dần giao dịch thông qua điện thoại, mạng Internet. Với các nước ở gần như Trung Quốc, công ty thường đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp tìm hiểu về hàng hóa cũng như thoả thuận các điều khoản trong dự thảo hợp đồng. Việc ký kết hợp đồng của Công ty được tiến hành dưới hình thức văn bản vì nó là hình thức được pháp luật công nhận. Nội dung và hình thức hợp đồng luôn tuân thủ theo pháp luật và được sự đồng ý thống nhất của cả hai bên. Ưu điểm của bán hàng qua hợp đồng là hàng bán với số lượng nhiều, đem lại lợi nhuận cao. Mặt khác, công ty tiến hành ký kết hợp đồng rồi mới tiến hành nhận sản phẩm về nên rủi ro không cao mà lại tiết kiệm được chi phí như chi phí vận chuyển, chi phí lưu kho…Ngoài ra còn tạo điều kiện làm ăn lâu dài với các đối tác lớn. - Hình thức kinh doanh qua mạng Internet: Thương mại điện tử ngày nay đã trở nên một phần thiết thực không thể thiếu của cuộc sống hiện đại. Thông qua website của công ty ( ta có thể : đặt hàng trực tuyến, kiểm tra lịch sử đặt hàng, cung cấp thông tin trực tuyến & trong tương lai khách hàng có thể lựa chọn các phương thức thanh toán trực tuyến dễ dàng, an toàn và đáng tin cậy. là kênh phân phối trực tuyến cho các đại lý, công ty, gia đình và các cá nhân có nhu cầu về các sản phẩm thuỷ tinh, pha lê, gốm sứ thông qua mạng Internet. Với hàng ngàn sản phẩm phong phú, đủ chủng loại, giá cả hợp lý, sử dụng cho nhiều nhu cầu như gia dụng, quà tặng, trang trí nội thất. Đó là một không gian trưng bày sản phẩm, các mặt hàng được mô tả, phân loại cùng đầy đủ thông tin, hình ảnh rõ dàng, sinh động giúp khách hàng có thể dễ dàng lựa chọn các món hàng ưng ý nhất. Và với phương thức giao hàng tận nơi theo yên cầu của khách hàng, cùng nhiều hình thức thanh toán tiện lợi. Với dịch vụ đặt hàng trực tuyến, công ty sẽ mang đến cho khách hàng những lựa chọn phù hợp với nhiều nhu cầu khác nhau, giúp khách hàng tiết kiệm thời gian, chi phí. Khác hàng chỉ cần một vài click chuột trên màn hình máy tính ở bất kỳ nơi nào là có thể có đầy đủ thông tin về các mặt hàng quan tâm, cũng như hoàn thành một đơn hàng với đầy đủ thông tin chi tiết & nhanh chóng, sau đó công ty sẽ chuyển đơn hàng tới khách hàng trong thời gian ngắn nhất. Hình thức thanh toán qua mạng internet giờ đây cũng không còn lạ lẫm với nhiều người trong thời đại số vì vậy công ty đưa ra nhiều hình thức thanh toán trực tuyến đa dạng hứa hẹn sẽ làm cho khách hàng cảm thấy hài lòng khi truy cập vào địa chỉ osum.com.vn II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ KỸ THUẬT ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH CỦA CÔNG TY TNHH TMXNK VIỄN ĐÔNG 1.Cơ cấu tổ chức của công ty Công ty TNHH TM & XNK Viễn Đông có bộ máy được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến, chức năng linh hoạt, phù hợp với hoạt động của Công ty cũng như đòi hỏi của cơ chế thị trường. Văn phòng đại diện tại Thượng Hải Văn phòng đại diện tại Praha- CH CZECH Cửa hàng bán lẻ Xưởng xản xuất Giám đốc công ty Phòng Kế toán Tài chính Phòng Kế hoạch Tổng hợp Phòng hành chính nhân sự Phòng Kinh doanh tiếp thị Nguồn: Phòng Hành chính nhân sự của công ty TMXNK Viễn Đông üGiám đốc Công ty: Là người đứng đầu công ty TNHH TM & XNK Viễn Đông nắm quyền điều hành Công ty và chịu trách nhiệm, cũng như đại diện cho Công ty trong các giao dịch thương mại của Công ty. Trong Công ty thì Giám đốc là người nắm quyền điều hành Công ty, chịu trách nhiệm trước tập thể cán bộ công nhân viên của Công ty cũng như các trách nhiệm của một doanh nghiệp đoàn thể trong hoạt động của nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nuước. üPhòng kế toán tài chính: Có nhiệm vụ theo dõi và quản lý vốn, cũng như các tài sản khác của Công ty. Phòng kế toán tài chính có nhiệm vụ lập các kế hoạch tài chính bảo đảm cho quá trình kinh doanh. Thực hiện hạch toán kinh doanh, thống kê, quyết toán, phân tích lãi lỗ, làm các báo cáo theo quy định hiện hành. Nói tóm lại phòng này có chức năng, nhiệm vụ là giúp cho giám đốc theo dõi và quản lý vốn của Công ty cũng như thực hiện các quy định về tài chính mà Nhà nước yêu cầu. üPhòng kế hoạch tổng hợp: Phòng kế hoạch tổng hợp có nhiệm vụ lập kế hoạch kinh doanh và chịu trách nhiệm triển khai các hoạt động kinh doanh của Công ty, đó là: Xây dựng các phương án ngắn, trung và dài hạn, đề ra các quyết định kinh doanh, trình giám đốc phê duyệt. Thực hiện đàm phán giao dịch ký kết hợp đồng với khách hàng. Theo dõi đôn đốc thực hiện hợp đồng cũng như tiến hành làm các thủ tục giao nhận hàng hóa theo đúng hợp đồng đã ký. Tìm kiếm bạn hàng mới, củng cố uy tín của Công ty đối với khách hàng, duy trì tạo lập mối quan hệ làm ăn lâu dài. Hướng dẫn các đơn vị trực thuộc về các vấn đề có liên quan đến các hoạt động xuất nhập khẩu trong Công ty. üPhòng kinh doanh tiếp thị : Phòng có nhiệm vụ xây dựng chiến lược Marketing, tổ chức nghiên cứu thị trường, tìm kiếm nguồn hàng, khách hàng. Thực hiện các hoạt động xúc tiến bán hàng, tiến hành quảng cáo v.v... Nói tóm lại phòng kinh doanh tiếp thị có nhiệm vụ tiến hành các hoạt động nhằm giới thiệu sản phẩm với khách hàng, tăng cường, thúc đẩy và nâng cao doanh số bán của Công ty. üPhòng hành chính nhân sự : Phòng hành chính với các nhiệm vụ đánh máy, soạn thảo hợp đồng kinh tế, chuẩn bị các tài liệu cho Giám đốc, thực hiện việc mua sắm trang thiết bị phục vụ cho việc nâng cấp trụ sở làm việc. Đồng thời làm công tác tổ chức cán bộ công nhân viên trong Công ty nh nghiên cứu đề xuất về mạng lới, bố trí sắp xếp cán bộ, nâng lương, nâng bậc cho cán bộ công nhân viên, tiến hành tuyển mộ cán bộ công nhân viên cho Công ty. üVăn phòng đại diện tại Thượng Hải và tại Praha: Văn phòng này có nhiệm vụ nghiên cứu tổ chức thu mua tạo nguồn hàng nhập khẩu cho công ty.Tiến hành giao dịch giới thiệu sản phẩm xuất khẩu của Công ty với khách hàng. üXưởng gia công chế tác : Hiện tại Công ty có 1 xưởng gia công chế tác đặt tại 411 Kim Mã. Nhiệm vụ chính của xưởng là tiến hành các hoạt động lắp ráp các khối pha lê rời rạc thành những biểu trưng, hình khối đẹp mắt mang tính thẩm mỹ cao. Ngoài ra xưởng còn có nhiệm vụ in khắc chữ, lôgô, tạo ảnh trên và trong pha lê theo yêu cầu của khách hàng. üCửa hàng trưng bày giới thiệu và bán sản phẩm: Hiện tại công ty có 3 cửa hàng trực thuộc, tiến hành các hoạt động buôn bán các sản phẩm pha lê thuỷ tinh cao cấp. Địa chỉ các cửa hàng tại Hà Nội : Cửa hàng 1 : 934 LaThành - Hà Nội ĐT : 04.7716948 Cửa hàng 2 : 936 La Thành - Hà Nội ĐT : 04.2751716 Cửa hàng 3 : 413 Kim Mã - Hà Nội ĐT : 04.7719273 2.Đặc điểm thiết bị và dây chuyền công nghệ Trong công cuộc đổi mới của đất nước, nhìn thấy nhu cầu ngày càng tăng về tiêu dùng hàng hoá cao cấp nói chung và mặt hàng thuỷ tinh pha lê nói riêng, công ty đã liên tục tăng cường đầu tư về thiết bị, dây chuyền công nghệ nhằm phục vụ tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng. Vì vẫn là một lĩnh vực rất mới ở Việt Nam nên hầu hết mọi thiết bị, dây chuyền công nghệ phục vụ cho việc chế tác, in khắc chữ, tạo ảnh trên pha lê đều phải nhập khẩu. Mặt khác công ty phải cử các cán bộ sang các nước như Trung Quốc, Tiệp Khắc từ 3 đến 6 tháng để học cách làm chủ công nghệ. Song song với việc liên tục đổi mới máy móc thiết bị, công ty cũng luôn tập trung giải quyết những vướng mắc, áp dụng các biện pháp khoa học quản lý và công nghệ mới nhằm khai thác phát huy tốt nhất năng lực của những thiết bị hiện có, quan tâm đúng mức đến việc tận dụng triệt để các thiết bị cũ ít dùng đến. Đồng thời chấn chỉnh công tác quản lý kỹ thuật đi vào nề nếp, nhằm tăng tuổi thọ đối với thiết bị. Nhìn chung, máy móc thiết bị của công ty được trang bị khá hoàn thiện, kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại là khả quan. Nguồn gốc trang thiết bị chủ yếu nhập từ nước ngoài thông qua việc mua hoặc chuyển giao công nghệ từ nhiều nước phát triển. Nhưng với nhu cầu ngày càng đa dạng, khách hành đòi hỏi sản phẩm phải có chất lượng cao, do đó công ty cần khai thác tốt hơn nữa công suất của máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng của công tác kiểm tra, bảo dưỡng, sửa chữa để đảm bảo cho máy móc thiết bị hoạt động liên tục với năng lực sản xuất ngày càng tăng. 3.Đặc diểm về nhân sự của công ty Xác định con người là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực khởi đầu của mọi nguồn lực khác. Công ty đã rất chú trọng đến đội ngũ lao động, hầu hết nhân viên công ty đều được đào tạo nghề nghiêm túc và chặt chẽ. Về mặt cơ cấu nhân sự của công ty, có thể chia thành 3 loại sau: + Nhân viên văn phòng bao gồm: nhân viên kinh doanh tiếp thị, nhân viên kế toán, nhân viên kế hoạch tổng hợp….Tổng cộng là 20 người. + Nhân viên kĩ thuật bao gồm nhân viên kĩ thuật ảnh, nhân viên in, khắc…. Tổng cộng là 10 người. + Nhân viên bán hàng (12 người) Với yêu cầu về công việc nên nhân viên ở phòng kinh doanh, nhân viên bán hàng phần lớn là nữ. Chế độ của người lao động được thực hiện khá đầy đủ. Lương bình quân của công ty là 2.000.000đ/tháng. Kế hoạch sản xuất của công ty phải tận dụng được tối đa nguồn lao động cũng như trình độ của đội ngũ lao động để phục vụ tốt cho công tác sản xuất của mình. Đây là một nhân tố không nhỏ ảnh hưởng đến công tác lập kế hoạch sản xuất của Công Ty . 4.Đặc diểm về tài chính của công ty Hình thức hoạt động của công ty là TNHH do vậy Công ty có nhu cầu về vốn là khá lớn, tuy nhiên việc huy động vốn trong điều kiện hiện nay còn gặp nhiều khó khăn. Vốn chủ yếu là vốn tự có và do sự góp vốn của thành viên. Cho nên vốn của công ty còn ít nhiều không đáp ứng được tính thời cơ trong kinh doanh. Cho đến tháng 6/2007 thì mức vốn điều lệ của công ty được bổ sung là 6 tỷ đồng. Với một mô hình Công ty TNHH thì đây cũng không phải là số vốn nhỏ tuy nhiên với thực trạng của nền kinh tế và so với một số doanh nghiệp khác thì quả thật nó cũng không lớn. Điều này thực sự là có ảnh hưởng khá lớn đến các kế hoạch sản xuất kinh doanh nói chung và các kế hoạch Marketing nói riêng. mà như chúng ta thấy chí phí cho hoạt động marketing lúc này không hề nhỏ mặc dù đã có rất nhiều hình thức để quảng cáo sản phẩm. Dưới đây là một vài con số thể hiện tình hình tài chính của công ty công ty TMXNK Viễn Đông Bảng 2: Tổng vốn kinh doanh và cơ cấu vốn. Đơn vị: 1000 VND. Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Vốn CĐ 1.380.524 1.419.979 2.140.451 2.887.933 Vốn LĐ 4.241.019 5.341.287 6.421.355 7.312.637 Cộng 5.621.543 6.761.806 8.561.806 10.200.570 (Nguồn: Báo cáo Tài chính của công ty TNHH TM & XNK Viễn Đông) Bảng 3: Vòng quay vốn lưu động của công ty TNHH TM & XNK Viễn Đông Năm 2004 2005 2006 2007 Số vòng quay/năm 28,86 26,35 25,29 27,30 (Nguồn: Báo cáo Tài chính của công ty TNHH TM & XNK Viễn Đông) Bảng 4: Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty. Đơn vị: 1000 VND Năm 2004 2005 2006 2007 Tổng DT 122.403.000 140.763.667 162.340.333 194.079.846 Tổng CP 120.517.994 138.258.074 159.402.351 190.633.956 GVHB 113.277.181 130.528.154 150.731.771 180.562.294 Thuế 2.697.483 2.291.400 3.234.500 3.734367 CPBH-PQL 3.053.330 3.095.520 3.305.080 3.856.920 Lãi vay 1.490.000 1.713.000 2.131.000 2.480.375 Lợi nhuận 1.885.006 2.505.593 2.987.982 3.445.890 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty TNHH TM & XNK Viễn Đông) 5.Năng lực sản xuất Với năng lực hiện có công ty có thể in 50 ảnh trên sản phẩm hoặc khắc chữ và lôgô cho khoảng 100 sản phẩm. Với năng lực như hiện tại công ty có thể đáp ứng được nhu cầu thường ngày của khách hàng. Nhưng khi có những hợp đồng lớn thì khó có thể giao hàng trong thời gian ngắn. Do vậy trong thời gian tới công ty phải nhập khẩu thêm máy móc thiết bị và đào tạo thêm công nhân. III. THỰC TIỄN LẬP KẾ HOẠCH KINH DOANH Ở CÔNG TY TNHH TM & XNK VIỄN ĐÔNG 1.Các loại kế hoạch kinh doanh hiện nay của công ty Ở công ty TMXNK Viễn Đông hiện nay có các loại kế hoạch sau: * Theo thời gian: + Kế hoạch hàng năm: công ty xác định các chỉ tiêu lớn cần đạt được trong năm và các giải pháp để thực hoàn thành cỉ tiêu kế hoạch. + Kế hoạch quý: là kế hoạch cụ thể hoá kế hoạch năm của công ty. Công ty xác định các chỉ tiêu cần đạt được của từng quý nhằm thực hiện kế hoạch năm + Kế hoạch tháng: Là kế hoạch cụ thể kế hoạch quý của công ty. * Theo chức năng + Kế hoạch marketing: Bao gồm kế hoạch bán hàng, kế hoach phân phối, kế hoạch mở rộng thị trường và các hành động marketing phụ trợ. + Kế hoạch nhập khẩu, sản xuất và dự trữ: Dựa vào dự báo về lượng hàng tiêu thụ trong năm, công ty lên kế hoạch nhập khẩu cho từng loại mặt hàng và kế hoạch dự trữ các mặt hàng đó. Ngoài ra công ty còn phải lên kế hoach sản xuất để tận dụng tối đa công xuất của nguồn nhân lực và máy móc thiết bị. + Kế hoạch nhân sự: Với việc phát triển thị trường liên tục nên công ty rất cần kế hoạch nhân sự. Công ty cần tính xem cần bổ xung nhân sự ở những mảng nào, thuyên chuyển nhân sự từ đâu tới đâu… + Kế hoạch tài chính: Từ việc lên kế hoachj cho công việc trong năm, công ty đồng thời phải lên kế hoạch tài chính. Nguồn tài chính phải luôn sẵn cho mọi hoạt động, không để bất cứ hoạt động nào bị ngừng trệ vì thiếu vốn. 2.Các căn cứ xây dựng kế hoạch của công ty 2.1.Kết quả nghiên cứu thị trường Trong nền kinh tế thị trường, thị trường là nơi quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, với số lượng bao nhiêu. Chính vì vậy trong sản xuất kinh doanh phải bắt đầu từ việc nghiên cứu thị trường, đây là khâu quan trọng đầu tiên làm cơ sở cho việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh. Công ty TMXNK Viễn Đông khi xây dựng kế hoạch cũng không thể vượt ra khỏi qui luật trên. Khi nghiên cứu nhu cầu thị trường đối với các sản phẩm, Công ty cũng xem xét sự tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan. Nhưng sự nghiên cứu và dự đoán về nhu cầu thị trường chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của những người tham gia nghiên cứu. Thị trường tiêu thụ của Công ty khá rộng rãi, sản phẩm của Công ty không những chiếm lĩnh thị trưòng miền bắc (c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33300.doc