Hoàn thiện công tác lập dự án tại quỹ đầu tư phát triển thành phố Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU So với thời điểm tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động của Quỹ ĐTPT lần thứ nhất (năm 2001), đến hết năm 2004, số lượng Quỹ ĐTPT đã tăng gấp đôi. Thực tiễn triển khai hoạt động của các Quỹ ĐTPT địa phương 8 năm qua cho thấy đây là một chủ trương đúng; cho phép giải quyết đồng thời nhiều mục tiêu khác nhau trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Sự ra đời của các Quỹ ĐTPT đã tạo tiền đề cho việc chuyển hoá một phần hoạt động đầu tư của Nhà nước sang cho toàn xã

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1244 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác lập dự án tại quỹ đầu tư phát triển thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội nhằm thực hiện chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Nhà nước chỉ tập trung đầu tư vào các dự án, chương trình quan trọng, những dự án không có khả năng thu hồi vốn, hoặc những dự án phục vụ lợi ích cộng đồng. Đối với các dự án, chương trình gắn liền với kinh tế xã hội theo địa bàn và có khả năng thu hồi vốn trực tiếp thì việc đầu tư sẽ được xã hội hoá thông qua các kênh khác nhau, trong đó có kênh Quỹ ĐTPT. Chính quyền các địa phương có thêm công cụ tài chính để huy động các nguồn lực tài chính phục vụ cho mục tiêu phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã được Hội đồng Nhân dân phê chuẩn. Vốn của Quỹ ĐTPT đã phát huy tác dụng là nguồn vốn mồi để huy động các nguồn vốn khác từ mọi thành phần kinh tế trong xã hội, tạo nên động lực mới để thu hút các nguồn lực tài chính trên địa bàn cùng tham gia đầu tư. Bên cạnh đó, việc kết hợp nhiều nguồn vốn khác nhau cho phép đảm bảo khả năng tài chính, thúc đẩy tiến độ thực hiện các công trình, dự án. Hoạt động của Quỹ đã bổ trợ cho các kênh đầu tư khác hiện có và tạo nên một mạng lưới đầu tư hoàn chỉnh trên địa bàn các tỉnh, thành phố. Cũng như các Quỹ đầu tư phát triển địa phương khác, Quỹ đầu tư phát triển Thành phố Hà Nội đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của Thủ đô. Trong đó, hoạt động đầu tư trực tiếp đối với Quỹ là một hoạt động còn mới mẻ và có rất nhiều tiềm năng phát triển. Chính vì vậy, trong quá trình thực tập tại Quỹ,với mong muốn tìm hiểu những khó khăn trong hoạt động đầu tư trực tiếp nói chung và trong công tác lập dự án nói riêng, em đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác lập dự án tại Quỹ đầu tư phát triển Thành phố Hà Nội” để làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình. Chuyên đề thực tập của em gồm những nội dung chủ yếu sau: Chương I Thực trạng công tác lập dự án tại Quỹ đầu tư phát triển TP Hà Nội Chương II Giải pháp hoàn thiện công tác lập dự án tại Quỹ đầu tư phát triển TP Hà Nội Do thời gian có hạn và kiến thức còn hạn chế nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót, mong được sự đóng góp của thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn PGS-TS Nguyễn Bạch Nguyệt đã tận tình hướng dẫn em trong thời gian qua, em cảm ơn các anh chị cán bộ nhân viên tại Quỹ đầu tư phát triển TP Hà Nội đã tạo điều kiện và cung cấp tài liệu, em cảm ơn các bạn đã hợp tác góp ý cho nội dung bài viết. Chương I THỰC TRẠNG CÔNG TÁC LẬP DỰ ÁN TẠI QUỸ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TP HÀ NỘI TỔNG QUAN VỀ QUỸ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TP HÀ NỘI Quá trình hình thành và phát triển Tiền thân là Quỹ đầu tư phát triển Nhà ở thành phố Hà Nội thành lập theo quyết định số 20/1999/QĐ-UB ngày 02/04/1999 của UBND TP Hà Nội, trực thuộc Sở tài chính-Vật giá nhằm thực hiện công tác phát triển nhà ở của thủ đô. Sau thời gian hoạt động hơn 5 năm, ngày 11/8/2004, Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 126/2004/QĐ-UB thành lập Quỹ đầu tư phát triển TP. Hà Nội trên cơ sở tổ chức lại quỹ phát triển nhà ở TP. Hà Nội. Theo quyết định này, Quỹ Đầu tư Phát triển Thành phố Hà Nội là tổ chức tài chính trực thuộc UBND Thành phố Hà Nội, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về mặt tài chính, đảm bảo an toàn phát triển nguồn vốn, tự bù đắp thu chi và tự chịu rủi ro, có phạm vi hoạt động trên tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế; có vốn điều lệ 1000 tỷ đồng và biên chế cán bộ lên tới 45 người. Giới thiệu chung Tên gọi của Quỹ: Quỹ Đầu tư phát triển Thành phố Hà Nội (HANIF). Sự cần thiết và mục tiêu thành lập Sự ra đời của Quỹ đầu tư giải quyết được nhu cầu vốn của Thành phố cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội nói chung, trước mắt là cho xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị. Quỹ là một công cụ tài chính của UBND TP Hà Nội để giải quyết các cân đối đặc thù của Thủ đô, đảm bảo quyền kiểm soát vốn trong tay Chính quyền Thành phố để chủ động thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, hỗ trợ cho việc sử dụng ngân sách thành phố một cách mềm dẻo, chủ động, hiệu quả. Hoạt động của Quỹ vừa sinh lời để phát triển nguồn vốn, vừa có hiệu quả kinh tế - xã hội. Quỹ ra đời góp phần tách chức năng đầu tư ra khỏi chức năng quản lý nhà nước để xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể: chủ đầu tư, ban quản lý dự án, đơn vị thực hiện dự án. Phạm vi hoạt động của Quỹ ĐTPT Hoạt động của Quỹ ĐTPT là huy động vốn và đầu tư nhằm phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho đô thị, phát triển nhà ở, hạ tầng các khu công nghiệp và các công trình trọng điểm theo kế hoạch của Thành phố hàng năm và nhiều năm có thu hồi vốn. Tình hình hoạt động chung của Quỹ Đầu tư Sơ đồ 1. Cơ cấu tổ chức Cơ cấu tổ chức HỘI ĐỒNG QUẢN LÝ BAN KIỂM SOÁT TỔNG GIÁM ĐỐC 02 PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC 07 PHÒNG BAN NGHIỆP VỤ Vốn hoạt động của Quỹ ĐTPT Vốn điều lệ :Vốn điều lệ 1000 tỷ. Vốn bổ sung: Trích từ Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của Quỹ ĐTPT, trích từ nguồn thu bán nhà; thu đấu giá quyền sử dụng đất ... Vốn huy động: từ các nguồn vốn trung và dài hạn của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Tổng quan về các hoạt động chung của Quỹ từ khi thành lập đến nay: Bảng 1: Kết quả hoạt động của Quỹ Đầu tư giai đoạn 2004-2006 Đơn vị tính: Triệu đồng STT Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 1 Thu hoạt động 8,990 15,200 28,835 2 Chi hoạt động 1,687 3,954 12,320 3 Chênh lệch thu chi trước thuế 7,303 11,245 16,515 (nguồn: Báo cáo tài chính tổng hợp 3 năm 2004 – 2006 của Quỹ) Công tác xây dựng và hoàn thiện văn bản pháp lý phục vụ cho các hoạt động của Quỹ Trong năm 2006, Quỹ đã phối hợp với Sở Tài chính trình UBND Thành phố ra quyết định thành lập Tổ công tác liên ngành xây dựng một số cơ chế hoạt động của Quỹ Đầu tư Về công tác huy động vốn Bảng 2: Tình hình huy động vốn năm 2006 Ngân hàng Mục đích vay Giá trị hợp đồng vay Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội (MB) Đầu tư các dự án xây dựng nhà ở tái định cư 15,6 tỷ đồng Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB) Dự án đầu tư xây dựng Trung tâm sát hạch lái xe cơ giới đường bộ thành phố Hà Nội 21,7 tỷ đồng Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam Tài trợ các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội Hà Nội 200 tỷ đồng (nguồn Chuyên đề về Tình hình hoạt động của Quỹ năm 2006) Hoạt động tín dụng Trong năm 2006, Quỹ đã tiến hành ký kết 12 hợp đồng tín dụng cho vay các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật và nhà ở tái định cư từ nguồn vốn điều lệ của Quỹ (đạt 87,5% số lượng các dự án) với tổng số vốn cho vay theo hợp đồng tín dụng là 175 tỷ đồng và tiến hành giải ngân trong năm 2006 gần 120 tỷ đồng. Quỹ đã thu hồi vốn gốc và tiền lãi cho vay là 109,115 tỷ đồng. Trong đó thu hồi Nợ gốc 97,473 tỷ đồng, thu hồi lãi vay số tiền 11,642 tỷ đồng. Hoạt động quản lý vốn uỷ thác từ Ngân sách thành phố Bảng 3: Tình hình thực hiện kế hoạch giải ngân của vốn ngân sách ủy thác (Đơn vị: tỷ VNĐ) Năm Kế hoạch Ngân sách TP đã giao Thực hiện % so với kế hoạch % so với được giao 2005 700 700 764 100% 100% 2006 719,635 400 400 55,58% 100% (nguồn: Chuyên đề về Tình hình hoạt động của Quỹ) Hoạt động bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa Ngày 14/04/2006, UBND Thành phố Hà Nội đã ký Quyết định số 1845/QĐ-UB về việc bổ sung chức năng, nhiệm vụ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa cho Quỹ Đầu tư phát triển Thành phố Hà Nội. Hoạt động đầu tư trực tiếp Quỹ đã kết hợp với Sở Y tế và Bệnh viện Thanh Nhàn nghiên cứu, xây dựng dự án Trung tâm xạ phẫu thuật CyberKnife Thanh Nhàn với tổng vốn đầu tư 110 tỷ đồng, trong đó Quỹ Đầu tư tham gia "vốn mồi" là 22 tỷ đồng. Quỹ đã tiến hành nghiên cứu cơ hội đầu tư trực tiếp vào một số dự án: Dự án nhà máy xử lý nước mặt Sông Hồng do Công ty Kinh doanh nước sạch Hà Nội làm chủ đầu tư, Dự án xây dựng hầm đỗ xe Vạn Xuân do Công ty TNHH Đông Dương làm chủ đầu tư và một số dự án khác. Đầu tư gián tiếp trên thị trường vốn Quỹ đã trình UBND Thành phố Hà Nội cho phép Quỹ thí điểm mua cổ phần với tư cách là nhà đầu tư chiến lược của Công ty cổ phần Sách và thiết bị trường học Hà Nội. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC LẬP DỰ ÁN TẠI QUỸ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TP HÀ NỘI Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác lập dự án tại Quỹ đầu tư Xuất phát từ đặc điểm hình thành và phát triển của Quỹ, hoạt động đầu tư trực tiếp nói chung và công tác lập dự án nói riêng còn chưa hoàn thiện và bộc lộ nhiều yếu kém: Tiền thân của Quỹ là Quỹ Phát triển nhà ở TP Hà Nội, chức năng nhiệm vụ chủ yếu là tập trung, huy động vốn và cho vay các dự án cơ sở hạ tầng, nhà ở tái định cư trên địa bàn TP Hà Nội. Kể từ năm 2004 Quỹ đầu tư phát triển TP Hà Nội được thành lập, ngoài cho vay tín dụng, Quỹ mở rộng hoạt động thêm nhiều chức năng mới, trong đó có hoạt động đầu tư trực tiếp. Chính vì là hoạt động hoàn toàn mới nên kinh nghiệm hầu như không có, cán bộ có trình độ chuyên môn cao rất ít, các quy trình, quy định chưa cụ thể. Nếu như trước đây hoạt động chủ yếu của Quỹ Phát triển nhà ở TP Hà Nội là hoạt động tín dụng và các dự án cho vay chủ yếu là các dự án theo chỉ đạo của ngân sách thành phố nên ít rủi ro thì hiện nay hoạt động đầu tư trực tiếp lại có nhiều rủi ro, điều này chịu ảnh hưởng trực tiếp của chất lượng dự án. Chính vì vậy nếu công tác lập dự án tốt cũng đồng nghĩa với rủi ro của hoạt động đầu tư trực tiếp cũng giảm. Bên cạnh đó, nếu công tác lập dự án được thực hiện tốt thì việc xác định dự án nào khả thi và dự án nào không khả thi sẽ chính xác hơn và hiệu quả của các dự án khả thi sẽ cao hơn. Hơn nữa, việc thực hiện tốt công tác lập dự án sẽ cho sản phẩm là một dự án tốt. Điều này đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình huy động vốn. Chất lượng của dự án sẽ thu hút các nhà đầu tư, những dự án tốt đã thành công sẽ nâng cao uy tín Quỹ và tạo lòng tin cho các nhà đầu tư. Thực trạng công tác lập dự án tại Quỹ đầu tư phát triển TP Hà Nội Công tác tổ chức lập dự án đầu tư Công tác tổ chức nhân sự lập dự án Tùy từng dự án và trong từng thời điểm mà các dự án có thể được giao cho các phòng khác nhau thực hiện, nhưng chủ yếu do phòng Kế hoạch – nghiên cứu phát triển và phòng Đầu tư thực hiện. Khi đó trưởng phòng sẽ là trưởng nhóm lập dự án, chịu trách nhiệm trước Ban Giám đốc về chất lượng cũng như tiến độ lập dự án. Các thành viên nhóm lập dự án là các nhân viên trong phòng, chịu trách nhiệm thực hiện và báo cáo kết quả công việc do trưởng phòng giao. Ngoài ra, có thể tham khảo ý kiến tư vấn của các chuyên viên phòng khác nếu cần. Ví dụ, nếu dự án đợc giao cho Phòng Đầu tư, phòng sẽ phối hợp cùng phòng Tổ chức – Hành chính và phòng Tài chính - Kế toán tổ chức lập dự án. Trong đó phòng Đầu tư đóng vai trò chính phụ trách chuyên môn, phòng Tổ chức – Hành chính chuẩn bị nhân sự, phòng Tài chính - Kế toán chuẩn bị tài chính. Quy trình các bước lập dự án: Nội dung công việc lập dự án của phòng Đầu tư có thể được tóm tắt qua các bước trên sơ đồ sau: Sơ đồ 3: Nội dung công việc lập dự án Nhận dạng dự án Lập đề cương sơ bộ và dự trù kinh phí soạn thảo Lập đề cương chi tiết Phân công công việc cho các thành viên soạn thảo Mô tả dự án và trình bày với chủ đầu tư hoặc cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư Hoàn tất văn bản dự án Đó là các bước cơ bản áp dụng chung với tất cả các dự án. Tuy nhiên đối với những dự án cụ thể, ngoài các bước trên, còn phải cụ thể hóa thành những bước chi tiết hơn tùy thuộc dự án đó thuộc nhóm dự án nào theo sự phân loại của Quỹ. Quỹ phân thành hai nhóm dự án, ứng với đó là hai quy trình lập dự án khác nhau. Nhóm dự án do Quỹ nghiên cứu, đề xuất và lập dự án đầu tư. Với những dự án này, phòng Kế hoạch- nghiên cứu phát triển phối hợp chặt chẽ với phòng Đầu tư đóng vai trò chủ yếu, bên cạnh đó có sự hỗ trợ của các phòng ban khác. Quy trình lập báo cáo nghiên cứu khả thi những dự án do Quỹ nghiên cứu và đề xuất gồm các bước cơ bản sau: Bước 1: Nghiên cứu cơ hội đầu tư Phòng Kế hoạch - nghiên cứu phát triển là đầu mối, tiếp xúc với các cơ quan chức năng, các đơn vị trên địa bàn, tìm hiểu các cơ hội đầu tư phù hợp với định hướng của Quỹ đầu tư. Dựa trên những cơ hội đầu tư đã tìm được tiến hành lập và đề xuất danh mục các dự án đầu tư trong từng giai đoạn trình Ban Giám đốc Quỹ Đầu tư xem xét, chấp thuận về mặt chủ trương danh mục các dự án đầu tư trong từng thời kỳ để tiến hành các bước tiếp theo triển khai đầu tư đối với từng dự án. Bước 2: Khảo sát dự án đầu tư Trên cơ sở danh mục các dự án đã được duyệt, phòng Đầu tư tiến hành khảo sát từng dự án, lập báo cáo đầu tư. Các dự án sẽ được trưởng phòng Đầu tư phân cho các chuyên viên của từng lĩnh vực. Để khảo sát dự án lập báo cáo đầu tư, trước tiên phòng Đầu tư sẽ tiến hành thu thập cơ sở pháp lý, những văn bản quy định của Nhà nước liên quan đến dự án đầu tư; các rào cản về thủ tục pháp lý, về chính sách của Nhà nước ảnh hưởng đến dự án. Sau đó, nghiên cứu sơ bộ sự cần thiết đầu tư, các ảnh hưởng của môi trường dự án, nghiên cứu thăm dò thị trường, khảo sát nghiên cứu địa điểm thực hiện dự án; dự kiến quy mô, tổng mức đầu tư, hình thức đầu tư; xem xét khả năng nguồn vốn, khả năng trả nợ và thu lãi; phân tích, đánh giá lựa chọn phương án đầu tư tối ưu đảm bảo về mặt kinh tế, kỹ thuật, công nghệ và các điều kiện cung cấp vật tư, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, dịch vụ, hạ tầng phù hợp mục đích đầu tư của Quỹ. Xây dựng tiến độ thực hiện và dự kiến quá trình giải ngân của dự án. Sau khi báo cáo đầu tư hoàn thành sẽ trình lên Tổng Giám đốc Quỹ duyệt chủ trương đầu tư dự án: về hình thức đầu tư, quy mô, nguồn vốn và tổng mức đầu tư. Thời gian xét duyệt về chủ trương đầu tư trong 5 ngày làm việc. Nếu thẩm quyền quyết định về chủ trương theo phân cấp thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng quản lý (vốn đầu tư trong khoảng 2% đến 10% vốn điều lệ hiện có của Quỹ), Tổng giám đốc lập tờ trình Hội đồng quản lý xem xét và ra quyết định về chủ trương đầu tư. Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ khi nhận tờ trình của Tổng giám đốc, Hội đồng quản lý phải có văn bản trả lời. Nếu thẩm quyền quyết định về chủ trương theo phân cấp thuộc thẩm quyền quyết định của Ủy ban nhân dân (vốn đầu tư trên 10% vốn điều lệ hiện có của Quỹ), Tổng giám đốc lập tờ trình Ủy ban nhân dân TP xem xét và ra quyết định về chủ trương đầu tư. Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ khi nhận tờ trình của Tổng giám đốc, Ủy ban nhân dân phải có công văn trả lời. Bước 3: Lập báo cáo nghiên cứu khả thi Sau khi có chấp thuận về chủ trương đầu tư của các cấp có thẩm quyền, phòng Đầu tư tiến hành lập báo cáo nghiên cứu khả thi: Phân tích cụ thể các căn cứ thực tế kinh tế-kỹ thuật về tính khả thi của dự án, giải trình chi tiết các nội dung đã nêu trong báo cáo cơ hội đầu tư; tính toán hiệu quả tài chính và kinh tế-xã hội của dự án… Trong quá trình thực hiện bước 3 kết hợp thực hiện cả bước 4 và bước 5. Bước 4: Tìm nguồn vốn đầu tư của dự án. Phòng Đầu tư kết hợp cùng phòng Kế hoạch - nghiên cứu phát triển tiếp xúc với các ngân hàng, các tổ chức tài chính trong và ngoài nước để huy động vốn cho dự án. Đối với các dự án thuộc chính sách ưu đãi của TP, chuẩn bị các văn bản, các tài liệu liên quan để làm thủ tục vay vốn từ Quỹ hỗ trợ phát triển. Tiếp xúc với các nhà đầu tư tiềm năng, thỏa thuận phương thức tham gia dự án. Bước 5: Tìm nguồn nhân lực cho dự án. Chuẩn bị nguồn nhân lực cho dự án, lên danh sách hệ thống quản lý và điều hành khi dự án hoạt động (trường hợp BOT) danh sách dự kiến, lý lịch và kinh nghiệm của các vị trí chủ chốt. Lên sơ đồ bộ máy quản lý và điều hành dự án, xây dựng cơ chế quản lý hoạt động của dự án khi đưa dự án vào sử dụng. Bước 6: Tổ chức thẩm định dự án. Sau khi hoàn thành hồ sơ dự án đầu tư, phòng Đầu tư sẽ làm các thủ tục để xin ý kiến thẩm định và soạn thảo các văn bản thỏa thuận bắt buộc đối với dự án. Trong thời hạn 15 ngày làm việc, các cơ quan chức năng có văn bản trả lời về dự án. Sau khi đã được duyệt, hồ sơ dự án sẽ được chuyển sang phòng Thẩm định của Quỹ để thẩm định dự án đối với những dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Tổng Giám đốc (có mức đầu tư nhỏ hơn 2% vốn điều lệ của Quỹ). Còn những dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng quản lý hoặc Ủy ban nhân dân (có mức đầu tư lớn hơn 2% vốn điều lệ hiện có của Quỹ) thì do Hội đồng thẩm định thực hiện thẩm định. Đối với một số dự án phức tạp, phòng Thẩm định có thể đề xuất đưa ra Hội đồng thẩm định để thẩm định dự án. Bước 7: Trình, phê duyệt dự án đầu tư. Sau thời gian 5-15 ngày đối với các dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Quỹ và sau 25 ngày đối với các dự án ngoài thẩm quyền quyết định của Quỹ, phòng Thẩm định báo cáo kết quả thẩm định lên Ban Giám đốc. Đối với các dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng quản lý, Tổng Giám đốc lập tờ trình, kèm theo báo cáo thẩm định trình Hội đồng quản lý xem xét ra quyết định đầu tư. Trong thời gian 10 ngày làm việc, Hội đồng quản lý có văn bản trả lời. Đối với các dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Ủy ban nhân dân thành phố, Tổng Giám đốc lập tờ trình, kèm theo báo cáo thẩm định trình Ủy ban nhân dân xem xét ra quyết định đầu tư. Trong thời gian 25 ngày làm việc, Hội đồng quản lý có văn bản trả lời. Bước 8: thực hiện dự án đầu tư. Tiến hành các thủ tục tạo nguồn vốn đầu tư cho dự án. Hoàn thành các thủ tục pháp lý của dự án. Tổ chức đấu thầu: Phòng Đầu tư phối hợp cùng phòng Thẩm định, phòng Kế hoạch - nghiên cứu phát triển tiến hành lập hồ sơ mời thầu, giúp Ban Giám đốc xét duyệt và lựa chọn nhà thầu phù hợp đối với dự án. Đối với các hạng mục có mức đầu tư lớn thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng quản lý, Tổng Giám đốc lập báo cáo trình Hội đồng quản lý xem xét, cho ý kiến về nhà thầu được chọn. Trong thời gian 5 ngày, Hội đồng quản lý ra văn bản trả lời về nhà thầu thực hiện các hạng mục của dự án. Đối với các hạng mục có mức đầu tư lớn thuộc thẩm quyền quyết định của Ủy ban nhân dân Thành phố, Tổng Giám đốc lập báo cáo trình Ủy ban nhân dân Thành phố xem xét, cho ý kiến về nhà thầu được chọn. Trong thời gian 10 ngày, Ủy ban nhân dân Thành phố có văn bản trả lời về nhà thầu được lựa chọn. Phê duyệt thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, dự toán, tổng dự toán đối với những hạng mục công trình của dự án. Trong trường hợp do tính chất kinh tế-kỹ thuật đặc biệt của dự án, nếu Quỹ đầu tư không đủ điều kiện năng lực thẩm định thì thuê các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện năng lực để thẩm tra thiết kế, dự toán công trình làm cơ sở cho việc phê duyệt các hạng mục công trình. Thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng (nếu có). Triển khai thực hiện các hợp đồng đã ký đối với các nhà thầu. Giám định giá trị và chất lượng của máy móc thiết bị, quản lý chất lượng, khối lượng, tiến độ chi phí xây dựng đối với hạng mục công trình thi công. Bước 9: Nghiệm thu, thanh toán, quyết toán Thực hiện tạm ứng và thanh toán vốn đầu tư theo giá trị khối lượng nghiệm thu. Nghiệm thu và nhận bàn giao các hạng mục công trình. Vận hành, chạy thử, bàn giao công trình đưa vào khai thác sử dụng. Hoàn thành thủ tục về bảo hành công trình. Quyết toán vốn đầu tư dự án khi hết hạn bảo hành. Mua bảo hiểm tài sản và các loại bảo hiểm khác. Sơ đồ 4: Quy trình lập dự án của Quỹ đầu tư phát triển thành phố Hà Nội (những dự án do Quỹ nghiên cứu, đề xuất và lập dự án) BGĐ duyệt về chủ trương dự án Phòng Kế hoạch - nghiên cứu phát triển tìm kiếm cơ hội đầu tư Phòng Đầu tư lập báo cáo đầu tư Ủy ban nhân dân Thành phố đồng ý về chủ trương Hội đồng quản lý Quỹ đồng ý về chủ trương Lập dự án đầu tư Thẩm định dự án Ban Giám đốc đồng ý duyệt dự án Ký hợp đồng với ngân hàng, nhà đầu tư, thành lập cty cổ phần Chọn nhà thầu Lập báo cáo quyết toán Ban Giám đốc duyệt quyết toán Hội đồng quản lý Quỹ duyệt quyết toán Hội đồng quản lý Quỹ duyệt nhà thầu Hội đồng quản lý Quỹ duyệt nhà thầu Hội đồng quản lý Quỹ duyệt quyết toán Triển khai thực hiện dự án, quản lý chất lượng, tiến độ, chi phí xây dựng. Nhóm dự án Quỹ tham gia với các nhà đầu tư khác. Đối với những dự án này, đơn vị đầu tư khác lập dự án và Quỹ đóng vai trò đồng chủ đầu tư, phân tích và đánh giá lại phương án tài chính của dự án. Bước 1: Nghiên cứu cơ hội đầu tư Phòng Kế hoạch - nghiên cứu phát triển và phòng Đầu tư tiếp xúc với các cơ quan chức năng, các đơn vị trên địa bàn, tìm hiểu các cơ hội đầu tư phù hợp với định hướng của Quỹ đầu tư. Dựa trên những cơ hội đầu tư đã tìm được tiến hành lập và đề xuất danh mục các dự án đầu tư trong từng giai đoạn trình Ban Giám đốc Quỹ Đầu tư xem xét, chấp thuận về mặt chủ trương danh mục các dự án đầu tư trong từng thời kỳ để tiến hành các bước tiếp theo triển khai đầu tư đối với từng dự án. Sau khi danh m ục dự án được thông qua, phòng Đầu tư kết hợp cùng phòng Kế hoạch - nghiên cứu phát triển tiến hành đàm phán thỏa thuận với các đồng chủ đầu tư khác về hình thức, tỷ lệ vốn đầu tư tham gia của mỗi bên. Bước 2: Tóm tắt lại các dự án, xin xét duyệt chủ trương đầu tư. Trưởng phòng Đầu tư dựa trên danh mục dự án đã được phê duyệt phân cho các chuyên viên của từng lĩnh vực tóm tắt lại nội dung hồ sơ các dự án trong danh mục. Sau đó trình lên xin xét duyệt chủ trương đầu tư đối với từng dự án. Những dự án nằm trong quyền quyết định của Tổng Giám đốc sẽ được trình lên Tổng Giám đốc. Những dự án khác do Hội đồng quản lý hoặc Ủy ban nhân dân Thành phố quyết định chủ trương đầu tư thì phải trình lên Hội đồng quản lý hoặc Ủy ban nhân dân Thành phố xét duyệt. Bước 3: Thẩm định dự án đầu tư Sau khi chủ trương đầu tư của dự án được chấp thuận, hồ sơ dự án sẽ được chuyển sang phòng Thẩm định. Phòng Thẩm định sẽ kết hợp cùng với phòng Đầu tư tiến hành thẩm định đánh giá lại phương án tài chính của dự án, kiểm tra lại các cơ sở pháp lý và cơ sở tính toán của dự án. Những dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng quản lý hoặc Ủy ban nhân dân (có mức đầu tư lớn hơn 2% vốn điều lệ hiện có của Quỹ) thì do Hội đồng thẩm định thực hiện thẩm định. Đối với một số dự án phức tạp, phòng Thẩm định có thể đề xuất đưa ra Hội đồng thẩm định để thẩm định dự án. Bước 4: Trình, phê duyệt dự án đầu tư. Sau thời gian 5-15 ngày đối với các dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Quỹ và sau 25 ngày đối với các dự án ngoài thẩm quyền quyết định của Quỹ, phòng Thẩm định báo cáo kết quả thẩm định lên Ban Giám đốc. Đối với các dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng quản lý, Tổng Giám đốc lập tờ trình, kèm theo báo cáo thẩm định trình Hội đồng quản lý xem xét ra quyết định đầu tư. Trong thời gian 10 ngày làm việc, Hội đồng quản lý có văn bản trả lời. Đối với các dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Ủy ban nhân dân thành phố, Tổng Giám đốc lập tờ trình, kèm theo báo cáo thẩm định trình Ủy ban nhân dân xem xét ra quyết định đầu tư. Trong thời gian 25 ngày làm việc, Hội đồng quản lý có văn bản trả lời. Bước 5: thực hiện dự án đầu tư. Tổ chức đấu thầu các hạng mục công trình. Phê duyệt thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, dự toán, tổng dự toán đối với những hạng mục công trình của dự án. Trong trường hợp do tính chất kinh tế-kỹ thuật đặc biệt của dự án, nếu Quỹ đầu tư không đủ điều kiện năng lực thẩm định thì thuê các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện năng lực để thẩm tra thiết kế, dự toán công trình làm cơ sở cho việc phê duyệt các hạng mục công trình. Thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng (nếu có). Triển khai thực hiện các hợp đồng đã ký đối với các nhà thầu. Giám định giá trị và chất lượng của máy móc thiết bị, quản lý chất lượng, khối lượng, tiến độ chi phí xây dựng đối với hạng mục công trình thi công. Bước 9: Nghiệm thu, thanh toán, quyết toán Thực hiện tạm ứng và thanh toán vốn đầu tư theo giá trị khối lượng nghiệm thu. Nghiệm thu và nhận bàn giao các hạng mục công trình. Vận hành, chạy thử, bàn giao công trình đưa vào khai thác sử dụng. Hoàn thành thủ tục về bảo hành công trình. Quyết toán vốn đầu tư dự án khi hết hạn bảo hành. Mua bảo hiểm tài sản và các loại bảo hiểm khác. Sơ đồ 5: Quy trình lập dự án của Quỹ đầu tư phát triển thành phố Hà Nội (những dự án do Quỹ đồng chủ đầu tư, phân tích lại phương án tài chính của dự án do đơn vị thành viên khác lập) BGĐ đồng ý về chủ trương dự án Phòng Đầu tư tìm kiếm cơ hội đầu tư, thỏa thuận với đối tác phạm vi và hình thức tham gia của Quỹ vào dự án Phòng Đầu tư tóm tắt lại hồ sơ dự án Ủy ban nhân dân Thành phố đồng ý về chủ trương Hội đồng quản lý Quỹ đồng ý về chủ trương Phân tích lại phương án tài chính Thẩm định dự án Ban Giám đốc đồng ý duyệt dự án Ký hợp đồng với ngân hàng và các đồng chủ đầu tư khác Chọn nhà thầu Lập báo cáo quyết toán Ban Giám đốc duyệt quyết toán Hội đồng quản lý Quỹ duyệt quyết toán Hội đồng quản lý Quỹ duyệt nhà thầu Hội đồng quản lý Quỹ duyệt nhà thầu Hội đồng quản lý Quỹ duyệt quyết toán Triển khai thực hiện dự án, quản lý chất lượng, tiến độ, chi phí xây dựng. Phương pháp lập dự án đầu tư: Phương pháp thống kê và dự báo bằng toán xác suất thống kê Phương pháp này được sử dụng để phân tích nhu cầu thị trường của dự án. Các thông tin thường là các số liệu thống kê định lượng cũng như các thông tin định tính liên quan đến thị trường sản phẩm của dự án hoặc các thông số kỹ thuật về đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế-xã hội cũng như môi trường đầu tư nói chung của dự án. Các thông tin và số liệu đã thu thập sẽ được tổng hợp thành hệ thống các bảng biểu, đồ thị. Dựa trên hệ thống số liệu đó, các chuyên viên lập dự án sẽ tiến hành phân tích và giải trình tính khả thi của dự án thông qua các chỉ số, chỉ tiêu và các phương pháp thống kê cụ thể. Trên thực tế, việc sử dụng phương pháp toán xác suất thống kê mới chỉ được các chuyên viên của Quỹ đưa ra thống nhất dùng trong phân tích và dự báo nhu cầu thị trường của dự án trong thời gian gần đây. Nhưng do số lượng dự án Quỹ đầu tư trực tiếp còn rất ít nên phương pháp này còn mang tính lý thuyết, chưa được áp dụng vào dự án thực tế nhiều, nên nó chưa có cơ hội để được hoàn chỉnh hơn. Vai trò của công tác dự báo vô cùng quan trọng, nó quyết định rất lớn tính khả thi của dự án, cụ thể hơn nó quyết định tới doanh số cũng như liên quan chặt chẽ đến lợi nhuận của dự án. Chính vì vậy, công tác dự báo trên thực tế không phải là việc áp dụng một trong các phương pháp trên mà là sự tổng hợp của nhiều phương pháp và phải được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau để đảm bảo tính chính xác, khách quan và khoa học của các con số trong bảng dòng của dự án. Có như vậy, ta mới có thể biết được dự án đó có thực sự hiệu quả hay không. Phương pháp cộng chi phí: Phương pháp này thường được sử dụng để xác định tổng mức đầu tư. Tổng mức đầu tư bao gồm toàn bộ số vốn cần thiết cho dự án để thiết lập và đưa dự án vào hoạt động. Nội dung của phương pháp cộng chi phí là căn cứ vào các khoản chi phí dự tính theo từng bộ phận cấu thành tổng mức đầu tư rồi tổng hợp lại thành tổng mức đầu tư. Khi đó tổng mức đầu tư được xác định dựa trên các đầu mục chi phí theo thiết kế cơ sở của dự án trong phần phân tích kỹ thuật bao gồm: Chi phí xây dựng Chi phí thiết bị Chi phí quản lý dự án và chi phí khác (các khoản chi phí trước vận hành) Vốn lưu động ban đầu Vốn dự phòng Phương pháp sử dụng chỉ tiêu động để đánh giá hiệu quả tài chính Đây là phương pháp mà bắt buộc tất cả các dự án đều phải sử dụng, là phương pháp mà tất cả những người lập dự án phải nắm vững vì: “Tiền có giá trị về mặt thời gian” do ảnh hưởng của rât nhiều yếu tố như: Do ảnh hưởng của yếu tố lạm phát. Do ảnh hưởng của yếu tố lạm phát nên cùng một số tiến nhất định nhưng lượng hàng hóa mua được ở giai đoạn sau luôn nhỏ hơn giai đoạn trước. Đó chính là sự thay đổi giá trị của tiền theo thời gian (giá trị của tiền giảm). Do ảnh hưởng của các yếu tố ngẫu nhiên. Giá trị thời gian của tiền biểu hiện ở những giá trị gia tăng hoặc giảm đi theo thời gian do ảnh hưởng của các yếu tố ngẫu nhiên (may mắn hoặc tủi ro) Do thuộc tính vận động và khả năng sinh lời của tiền. Trong nền kinh tế thị trường đồng vốn luôn được sử dụng dưới mọi hình thức để đem lại lợi ích cho người sở hữu nó và không để vốn nằm chết. Ngay cả khi tạm thời nhàn rỗi thì tiền của nhà đầu tư cũng được gửi vào ngân hàng và vẫn sinh lời. Sau một thời gian đầu tư kinh doanh hoặc gửi ngân hàng thì số tiền thu được sẽ lớn hơn lượng vốn ban đầu. Sự thay đổi số lượng tiền sau một khoảng thời gian nhất định cho ta thấy nó chính là biểu hiện của giá trị thời gian của tiền. Chính vì vậy, khi tính các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án phải sử dụng các chỉ tiêu động có tính đến giá trị của tiên theo thời gian. Và do tiền có giá trị về mặt thời gian, cho nên khi so sánh, tổng hợp hoặc tính toán các chỉ tiêu bình quân của các khoản tiền phát sinh trong những khoảng thời gian khác nhau cần phải tính chuyển chúng về cùng một mặt bằng thời gian. Mặt bằng này có thể là đầu thời kỳ phân tích, cuối thời kỳ phân tích hoặc một năm (một quý, một tháng) nào đó của thời kỳ phân tích. Việc lựa chọn năm (quý, tháng) nào đó làm mặt bằng thời gian để tính chuyển tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể làm sao vừa đơn giản được việc tính toán, vừa đảm bảo tính so sánh theo cùng một mặt bằng thời gian của các khoản tiền đưa ra so sánh, tổng hợp. Phương pháp phân tích hiệu quả tổng hợp Đây là một phương pháp được sử dụng trong phân tích tài chính của dự án đầu tư. Nó còn là một phương pháp so sánh lựa chọn phương án đầu tư tối ưu sử dụng kết hợp nhiều chỉ tiêu nhằm đáp ứng mục tiêu của nhiều đối tượng khác nhau liên quan đến dự án. Chúng ta biết rằng, các tác động của hoạt động đầu tư đối với các mục tiêu phát triển có thể được phản ánh ở những khía cạnh khác nhau. Những khía cạnh tác động này có thể bổ sung thêm cho những khía cạnh tác động khác và cũng có thể làm giảm tác động của các khía cạnh khác đối với toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, để phản ánh một cách tổng hợp tất cả các tác động của hoạt động đầu tư đối với việc thực hiện các mục tiêu tổng quát của nền kinh tế, từ đó lựa chọn dự án tối ưu, các nhà kinh tế đưa ra một số phương pháp tính chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả của từng công cuộc đầu tư (như phương pháp tính số bình quân nhiều chiều, phương pháp cho điểm, phương pháp lấy ý kiến chuyên gia…). Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp phản ánh hiệu quả tương đối của mỗi dự án và là cơ sở để đánh giá cũng như so sánh và lựa chọn các dự án đầu tư. è Ngoài ra, để đánh giá hiệu quả của các công cuộc đầu ._.tư phúc lợi công cộng không nhằm các lợi ích kinh tế trực tiếp ở các cấp cơ sở hoặc các cấp quản lý vĩ mô, các nhà kinh tế còn sử dụng các chỉ tiêu sau đây: + Suất đầu tư tính cho một đơn vị năng lực phục vụ mới hoặc năng lực phục vụ tăng thêm () như sau: = Trong đó: là tổng năng lực phục vụ mới được tạo ra hoặc tăng thêm sau khi đầu tư. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt. + Hệ số huy động các kết quả của đầu tư so với vốn đầu tư thực hiện trong kỳ. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, có nghĩa tình trạng ứ đọng vốn càng ít. Chỉ tiêu này có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn 1. + Hệ số huy động các kết quả của đầu tư trong kỳ so với toàn bộ vốn đầu tư thực hiện các kỳ trước chưa được huy động và vốn đầu tư thực hiện kỳ nghiên cứu. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt nhưng luôn nhỏ hơn 1. + Tốc độ thực hiện đầu tư phản ánh số lượng năng lực phục vụ được huy động hoặc mức vốn đầu tư được thực hiện trong 1 đơn vị thời gian. Chỉ tiêu này càng lớn, tốc độ thực hiện đầu tư càng nhanh. Phương pháp so sánh để lựa chọn các phương án khác nhau theo khía cạnh tài chính Phương pháp này là một trong số các phương pháp được sử dụng để lựa chọn những phương án đầu tư tối ưu. Việc so sánh lựa chọn có thể dựa trên một số chỉ tiêu nhất định hay một phương pháp lựa chọn nhất định. Và việc lựa chọn các chỉ tiêu này phụ thuộc chặt chẽ vào mục tiêu đầu tư của từng dự án cụ thể. Có thể xét trên phương diện tài chính để lựa chọn phương án hoặc xét theo khía cạnh kinh tế-xã hội để lựa chọn. Xét trên phương diện tài chính để lựa chọn, Quỹ đã sử dụng các độ đo hiệu quả tài chính như: thu nhập thuần lớn nhất, chi phí nhỏ nhất, thời hạn thu hồi vốn ngắn nhất… Trình tự các bước so sánh lựa chọn phương án như sau: Đưa ra đầy đủ các phương án có thể Xác định thời kỳ phân tích Vẽ biểu đồ dòng tiền cho từng phương án theo thời kỳ phân tích Lựa chọn chỉ tiêu đo lường hiệu quả và tính chỉ tiêu đo lường hiệu quả của từng phương án. So sánh lựa chọn phương án đầu tư theo chỉ tiêu hiệu quả đã chọn Phân tích độ nhạy, độ an toàn của phương án đã chọn. Phương pháp phân tích độ nhạy Do hoạt động đầu tư phát triển của Quỹ mang tính chất lâu dài, các kết quả, hiệu quả đầu tư tính toán được đều phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau. Mỗi yếu tố đó ít nhiều đều mang tính chất dự báo, dự tính và có thể thay đổi do những điều kiện khách quan bên ngoài. Khi đó các kết quả tính toán cũng sẽ thay đổi, các chỉ tiêu hiệu quả đã tính trong dự án không còn chính xác. Nếu thay đổi của những yếu tố dự báo, dự tính đó không ảnh hưởng nhiều đến các chỉ tiêu hiệu quả thì có thể dự án vẫn khả thi. Tuy nhiên trên thực tế có những yếu tố khi thay đổi có thể khiến một dự án từ có lãi thành lỗ. Chính vì vậy với vai trò vô cùng quan trọng, phân tích độ nhạy của dự án giúp chủ đầu tư xem xét sự thay đổi của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án (lợi nhuận, thu nhập thuần, hệ số hoàn vốn nội bộ…) khi các yếu tố liên quan đến chỉ tiêu đó thay đổi. Bên cạnh đó, phân tích độ nhạy của dự án còn cho phép lựa chọn được những dự án có độ an toàn hơn cho những kết quả dự tính. Dự án có độ an toàn cao là những dự án vẫn đạt hiệu quả khi những yếu tố tác động đến nó thay đổi theo những chiều hướng không có lợi. Phân tích độ nhạy cảm của dự án có thể được thực hiện theo các phương pháp sau: Phương pháp 1: Phân tích ảnh hưởng của từng yếu tố liên quan đến chỉ tiêu hiệu quả tài chính nhằm tìm ra yếu tố gây nên sự nhạy cảm lớn của chỉ tiêu hiệu quả xem xét. Theo phương pháp này, ta sẽ tăng giảm mỗi yếu tố ảnh hưởng theo cùng một tỷ lệ % nào đó, tính lại chỉ tiêu hiệu quả xem xét, đo lường tỷ lệ % thay đổi của chỉ tiêu hiệu quả tài chính. Khi đó, yếu tố nào làm chỉ tiêu hiệu quả tài chính thay đổi lớn thì dự án nhạy cảm với yếu tố đó. Phương pháp 2: Phân tích ảnh hưởng đồng thời của nhiều yếu tố (trong các tình huống tốt xấu khác nhau) đến chỉ tiêu hiệu quả tài chính xem xét để đánh giá độ an toàn của dự án. Phương pháp 3: Cho các yếu tố có liên quan đến chỉ tiêu hiệu quả tài chính thay đổi trong giới hạn thị trường, người đầu tư và quản lý dự án chấp nhận được. Mỗi một sự thay đổi ta có một phương án. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của thị trường, của người đầu tư hoặc quản lý để lựa chọn phương án có lợi nhất. Phương pháp 4: Sử dụng độ lệch chuẩn, hệ số biến thiên để phân tích độ nhạy. Các dự án của Quỹ đầu tư chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy thứ nhất, trong đó hai yếu tố thường được sử dụng để phân tích đó là sự thay đổi cùng một tỷ lệ nhất định của doanh thu và chi phí sẽ ảnh hưởng như thế nào đến các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án. Những nội dung phân tích trong quá trình lập dự án đầu tư Các căn cứ hình thành dự án đầu tư: Căn cứ pháp lý (cơ sở pháp lý) Với mỗi dự án dù khác nhau về lĩnh vực đầu tư, về quy mô vốn đầu tư, về phương pháp nghiên cứu… nhưng chúng đều phải tuân thủ những quy định chung về đầu tư và những quy định riêng thuộc lĩnh vực đầu tư. Nhiệm vụ của những người làm công tác lập dự án là phải thường xuyên cập nhập, nghiên cứu các văn bản pháp lý về thể chế, luật pháp, quy định của nhà nước, các chính sách của chính phủ liên quan đến hoạt động đầu tư để đảm bảo mọi cơ sở tính toán đều phù hợp với các quy định đó. Bên cạnh đó, phần nội dung này rất quan trọng đối với công tác thẩm định và công tác quản lý của cơ quan Nhà nước đối với dự án. Do đó, mọi con số đều phải giải trình cơ sở tính toán cả về mặt kỹ thuật và về mặt pháp lý. Căn cứ thực tiễn: Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến dự án: Tùy vào địa điểm thực hiện của dự án mà mỗi dự án chịu ảnh hưởng của môi trường tự nhiên là khác nhau. Tùy lĩnh vực hoạt động của dự án mà những ảnh hưởng từ môi trường tự nhiên xung quanh là nhiều hay ít, tốt hay xấu. Chính vì vậy việc đánh giá các ảnh hưởng cũng như những thuận lợi mà môi trường tự nhiên nơi dự án được thực hiện mang lại là không thể thiếu đối với tất cả các dự án đầu tư phát triển. Bối cảnh và định hướng chung về kinh tế-xã hội của ngành, địa phương Môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng đến ý tưởng đầu tư và chi phối hoạt động của các dự án: tạo thuận lợi hoặc gây cản trở quá trình thực hiện dự án. Điều kiện kinh tế vĩ mô thuận lợi không những tạo điều kiện cho dự án hoạt động hiệu quả mà còn có thể làm xuất hiện những ý tưởng đầu tư tiếp theo. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá các điều kiện kinh tế vĩ mô có ý nghĩa quan trọng trong quá trình lập dự án đầu tư. Nghiên cứu về quy hoạch và kế hoạch không những là một trong những căn cứ phát hiện cơ hội đầu tư mà còn có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến chất lượng cũng như tính khả thi của dự án. Dự án đầu tư nếu nằm ngoài quy hoạch chung sẽ không thể và không được phép thực hiện. Đặc biệt đối với Quỹ đầu tư, quy hoạch chung của thành phố là vô cùng quan trọng và trong điều lệ hoạt động của Quỹ cũng được quy định rõ về một trong những nhiệm vụ cụ thể như sau: “Đầu tư cho các dự án phát triển nhà ở, chú trọng nhà tái định cư phục vụ giải phóng mặt bằng, các công trình trọng điểm và các dự án phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội khác theo quy hoạch, kế hoạch của Thành phố”. Để đảm bảo hiệu quả hoạt động đầu tư, góp phần giảm bớt thất thoát lãng phí trong hoạt động đầu tư thì ngay trong quá trình lập dự án phải quan tâm đến công tác quy hoạch bao gồm cả quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch phát triển lĩnh vực kết cấu hạ tầng, quy hoạch phát triển đô thị và quy hoạch xây dựng. Nghiên cứu thị trường của dự án Nghiên cứu thị trường của dự án nhằm xác định được thị phần mà dự án dự kiến sẽ chiếm lĩnh trong tương lai và cách thức chiếm lĩnh đoạn thị trường đó. Nghiên cứu thị trường đóng vai trò rất quan trọng vì nó quyết định trực tiếp tới doanh thu của dự án sau khi dự án được đưa vào khai thác. Chính vì vậy công việc này đòi hỏi phải được nghiên cứu chính xác, cẩn thận, thông tin đầy đủ, đánh tin cậy và phải đảm bảo tính tổng hợp chứ không được cục bộ, chủ quan. Phân tích kỹ thuật dự án đầu tư Nghiên cứu kỹ thuật là bước phân tích sau nghiên cứu thị trường và là tiến đề cho việc tiến hành nghiên cứu mặt kinh tế tài chính các dự án đầu tư. Không có số liệu của nghiên cứu kỹ thuật thì không thể tiến hành nghiên cứu mặt kinh tế, tài chính, tuy rằng các thông số kinh tế có ảnh hưởng đến các quyết định về mặt kỹ thuật. Các dự án không khả thi về mặt kỹ thuật sẽ được bác bỏ để tránh những tổn thất trong quá trình thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư sau này. Nghiên cứu kỹ thuật là công việc rất phức tạp đòi hỏi trình độ chuyên môn sâu về từng khía cạnh kỹ thuật của dự án. Chi phí nghiên cứu kỹ thuật của dự án chiếm tới 80% chi phí dành cho lập báo cáo nghiên cứu khả thi, 1-5% tổng chi phí đầu tư của dự án. Nghiên cứu kỹ thuật có thể bao gồm các công việc sau Mô tả sản phẩm dự án Xác định công suất dự án Lựa chọn công nghệ kỹ thuật cho dự án Nguyên vật liệu đầu vào Nghiên cứu giải pháp xây dựng và thiết kế hệ thống hạ tầng Địa điểm thực hiện dự án và phương án đền bù giải phóng mặt bằng Đánh giá tác động môi trường Phân tích tài chính của dự án Xác định tổng mức đầu tư Quỹ xác định tổng mức đầu tư bằng cách sử dụng phương pháp cộng chi phí và các số liệu theo thiết kế cơ sở của dự án trong phần phân tích kỹ thuật bao gồm: Chi phí xây dựng được tính theo khối lượng chủ yếu từ thiết kế cơ sở, các khối lượng khác dự tính và đơn giá xây dựng phù hợp. Chi phí thiết bị bao gồm giá trị thiết bị theo giá thị trường ở thời điểm lập dự án và dự tính chi phí vận chuyển, bảo quản lắp đặt và đào tạo chuyển giao công nghệ. Chi phí quản lý dự án và chi phí khác: tùy theo chi đó là chi phí gì mà theo quy định của Nhà nước Quỹ xác định theo tỷ lệ phần trăm hoặc lập dự toán. Vốn lưu động ban đầu (nếu có) Vốn dự phòng (không vượt quá 15% tổng mức vốn đầu tư) Xác định cơ cấu vốn đầu tư: Tùy thuộc các dự án khác nhau, hình thức đầu tư, hình thức quản lý dự án khác nhau mà cơ cấu vốn đầu tư khác nhau. Các nguồn tài trợ cho dự án chủ yếu từ nguồn vốn điều lệ của Quỹ, vốn góp của các dồng chủ đầu tư khác, vốn vay từ các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác… Dựa trên tổng mức đầu tư và các nguồn tài trợ vốn, Quỹ xác định tỷ trọng của từng nguồn huy động vốn để từ đó lập bảng cơ cấu vốn đầu tư. Dựa trên bảng cơ cấu vốn đầu tư, Quỹ dự tính khả năng trả nợ và tiến độ huy động vốn của dự án sao cho hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả. Lập báo cáo tài chính dự kiến của từng năm: Báo cáo tài chính của dự án cho biết tình hình hoạt động của dự án theo từng năm, hỗ trợ cho chủ đầu tư dễ dàng quản lý các hoạt động tài chính của dự án, và nó là cơ sở để phân tích hiệu quả tài chính của dự án. Để lập được bảng báo cáo tài chính của dự án Quỹ xác định tổng doanh thu, tổng chi phí của từng năm (bao gồm cả khấu hao và chi phí trả lãi), lợi nhuận trước thuế và lợi nhuận ròng hàng năm cũng như khả năng trả nợ của dự án. Lập bảng dòng tiền của dự án: Dòng tiền của dự án là dòng chi phí và lợi ích của dự án trong suốt quá trình hoạt động. Dòng chi phí được xác định bắt đầu từ khi bỏ vốn đến khi kết thúc dự án bao gồm: Dòng chi phí vốn của dự án: vốn lưu động và vốn cố định. Thay đổi vốn lưu động ròng của dự án Dòng chi phí vận hành hàng năm Dòng lợi ích của dự án là doanh thu của dự án từ công việc kinh doanh sản phẩm hoặc dịch vụ. Tính các chỉ tiêu phân tích tài chính của dự án: Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án Quỹ sử dụng gồm có: Chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án Đây là các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tuyệt đối của dự án đầu tư. Chỉ tiêu lợi nhuận thuần tính cho từng năm của đời dự án, phản ánh hiệu quả hoạt động trong từng năm của đời dự án. Chỉ tiêu thu nhập thuần phản ánh hiệu quả hoạt động của toàn bộ công cuộc đầu tư (quy mô lãi của cả đời dự án). Các chỉ tiêu này có thể tính chuyển về mặt bằng thời gian hiện tại hoặc tương lai. Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư còn gọi là hệ số thu hồi vốn đầu tư Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thu được từng năm (RRi=) trên một đơn vị vốn đầu tư (1.000đ, 1.000.000đ...) và mức thu nhập thuần thu được tính cho 1 đơn vị vốn đầu tư (npv=) Trong đó: Ivo - Vốn đầu tư tại thời điểm hiện tại (dự án bắt đầu hoạt động) Wipv - Lợi nhuận thuần năm i tính chuyển về thời điểm hiện tại NPV - Thu nhập thuần tính chuyển về thời điểm hiện tại Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời vốn tự có () Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thuần từng năm tính trên một đơn vị vốn tự có bình quân của năm đó. Nếu tính cho cả đời dự án () chỉ tiêu này phản ánh mức thu nhập thuần của cả đời dự án cho một đơn vị vốn tự có bình quân năm của cả đời dự án. Chỉ tiêu số lần quay vòng của vốn lưu động Vốn lưu động là một bộ phận của vốn đầu tư. Vốn lưu động quay vòng càng nhanh, càng cần ít vốn và trong điều kiện khác không đổi thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Chỉ tiêu tỷ số lợi ích – chi phí ký hiệu (B/C) Chỉ tiêu này phản ánh tỷ số giữa lợi ích thu được với chi phí phải bỏ ra, dự án có hiệu quả khi B/C ³ 1. Dự án không có hiệu quả khi B/C < 1. Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư ký hiệu T Chỉ tiêu này cho biết thời gian mà dự án cần hoạt động để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra từ lợi nhuận và khấu hao thu được hàng năm. Dự án có hiệu quả khi T £ tuổi thọ của dự án hoặc T £ T định mức. Thời gian thu hồi vốn càng ngắn thì hiệu quả của dự án càng cao. Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ ký hiệu IRR Hệ số hoàn vốn nội bộ là mức lãi suất mà nếu dùng nó làm tỷ suất chiết khấu để tính chuyển các khoản thu chi của dự án về mặt bằng thời gian hiện tại thì tổng thu cân bằng với tổng chi. Dự án có hiệu quả khi IRR ³ r giới hạn. Dự án không có hiệu quả khi IRR < r giới hạn. Tỷ suất giới hạn được xác định căn cứ vào các nguồn vốn huy động của dự án. Chẳng hạn dự án vay vốn đầu tư, tỷ suất giới hạn là mức lãi suất vay; nếu sử dụng vốn tự có để đầu tư, tỷ suất giới hạn là mức chi phí cơ hội của vốn; nếu huy động vốn từ nhiều nguồn, tỷ suất giới hạn là mức lãi suất bình quân từ các nguồn huy động .vv... Chỉ tiêu điểm hoà vốn Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu vừa đủ để trang trải các khoản chi phí phải bỏ ra. Điểm hoà vốn được biểu diễn bằng chỉ tiêu hiện vật (sản lượng tại điểm hoà vốn) và chỉ tiêu giá trị (doanh thu tại điểm hoà vốn). Nếu sản lượng hoặc doanh thu của cả đời dự án lớn hơn sản lượng hoặc doanh thu hoà vốn thì dự án có lãi (có hiệu quả) và ngược lại, nếu nhỏ hơn, dự án bị lỗ (không có hiệu quả). Điểm hoà vốn càng nhỏ càng tốt, mức độ an toàn của dự án càng cao, thời gian thu hồi vốn càng nhanh. Hiệu quả kinh tế-xã hội: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có hoạt động đầu tư phải được xem xét từ hai góc độ, người đầu tư và nền kinh tế. Trên góc độ người đầu tư là các doanh nghiệp, mục đích cụ thể có nhiều, nhưng quy tụ lại là lợi nhuận. Khả năng sinh lợi của dự án là thước đo chủ yếu quyết định sự chấp nhận một việc làm mạo hiểm của nhà đầu tư. Khả năng sinh lợi càng cao thì càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Tuy nhiên không phải mọi hoạt động đầu tư có khả năng sinh lời đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đẹp đối với nền kinh tế và xã hội. Do đó, trên góc độ quản lý vĩ mô, phải xem xét mặt kinh tế - xã hội của đầu tư, xem xét những lợi ích kinh tế - xã hội do thực hiện đầu tư đem lại. Điều này giữ vai trò quyết định để được các cấp có thẩm quyền quyết định cho phép đầu tư, các định chế tài chính quốc tế, các cơ quan viện trợ song phương và đa phương tài trợ cho hoạt động đầu tư. Để xác định hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án thường căn cứ vào: Nâng cao mức sống của dân cư: được thể hiện gián tiếp thông qua các số liệu cụ thể về mức gia tăng sản phẩm quốc gia, mức gia tăng thu nhập, tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Phân phối thu nhập và công bằng xã hội: Thể hiện qua sự đóng góp của công cuộc đầu tư vào việc phát triển các vùng kinh tế kém phát triển và đẩy mạnh công bằng xã hội. Gia tăng số lao động có việc làm: Đây là một trong những mục tiêu chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các nước thừa lao động, thiếu việc làm. Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ: Những nước đang phát triển không chỉ nghèo mà còn là nước nhập siêu. Do đó đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu là những mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế tại các quốc gia này. Các mục tiêu kế hoạch kinh tế quốc dân khác là: Tận dụng hay khai thác tài nguyên chưa được quan tâm hay mới được phát hiện. Nâng cao năng suất lao động, đào tạo lao động có trình độ tay nghề cao, tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật để hoàn thiện cơ cấu sản xuất của nền kinh tế. Phát triển các ngành công nghiệp chủ đạo có tác dụng gây phản ứng dây chuyền thúc đẩy phát triển các ngành nghề khác. Phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương nghèo, các vùng xa xôi, dân cư thưa thớt nhưng có nhiều triển vọng về tài nguyên để phát triển kinh tế. Phân tích quá trình lập một dự án cụ thể: “Dự án đầu tư mua quyền thu phí đường 5 kéo dài”: Các bước chuẩn bị ban đầu: Nhận dạng dự án.: Quỹ đã xđ được các nội dung cơ bản sau: + Tên dự án: “Dự án đầu tư mua quyền thu phí đường 5 kéo dài” + Mục tiêu đầu tư : Khi dự án đi vào hoạt động sẽ đạt được những hiệu quả kinh tế -xã hội như sau: + Quy mô và nguồn vốn đầu tư Dự án có quy mô vốn đầu tư : 1,895 tỷ VNĐ Nguồn vốn đầu tư : Vốn chủ sở hữu: 300 tỷ đồng; vốn huy động: 1,595 tỷ đồng thông qua hình thức phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Lập đề cương sơ bộ, xác định được các nội dung chính của công tác lập dự án Công tác lập đề cương sơ bộ hoàn thành trong thời gian 5 ngày. Đề cương sơ bộ bao gồm tất cả các nội dung cơ bản nhất về dự án, nghiên cứu ban đầu về các căn cứ hình thành dự án và tính khả thi của dự án cũng như về tổ chức quản lý dự án. Cụ thể trong dự án ví dụ này, giai đoạn này có thể xác định được các nội dung sau: + Phương án tài chính của dự án là hoàn trả vốn một lần cho ngân sách thành phố. Điều này giúp cho thành phố có một khoản ngân sách lớn nhằm tái đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khác, đáp ứng kịp thời nhu cầu đô thị hoá trên địa bàn thành phố. Dự án tham gia đóng góp vào ngân sách thành phố dưới giác độ các khoản thuế mà Công ty cổ phần thực hiện. Hiệu quả hoạt động của dự án sẽ góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả sự dụng đồng vốn chung của Quỹ. Tác động này sẽ được phân tích rõ ràng qua các chỉ tiêu tài chính. Dự án góp phần xã hội hoá trong lĩnh vực giao thông, hơn nữa phù hợp với chủ trương xã hội hoá của cả Chính phủ và UBND thành phố. + Hình thức đầu tư: Công ty cổ phần hạ tầng kỹ thuật Hà nội sẽ mua quyền thu phí dự kiến trong 10 năm, sau đó bàn giao lại cho nhà nước để tiếp tục đấu thầu khai thác hoặc sử dụng vào mục đích khác. + Giai đoạn đầu tư: dự án được thực hiện qua 2 giai đoạn: Giai đoạn 1: mua quyền thu phí Giai đoạn 2: vận hành dự án + Tổ chức quản lý dự án: Công ty cổ phần kỹ thuật hạ tầng Hà nội là pháp nhân được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Dự kiến tổng số nhân sự của Công ty là 50 người. Công ty sẽ trực tiếp tổ chức và điều hành các trạm thu phí. + Tiến độ thực hiện Tháng 4/2008: hoàn chỉnh hồ sơ tham gia dự thầu hoặc nhận quyết định giao thầu của chủ đầu tư. Bắt đầu đưa vào vận hành thử từ tháng 8 đến tháng 12 năm 2008. Đưa vào vận hành và khai thác chính thức từ tháng 01 năm 2009 đến hết đời dự án. + Các nội dung chính của dự án ở dạng sơ bộ. . Xác định quy trình lập dự án, tổ chức nhóm lập dự án Dự án này thuộc loại dự án Quỹ nghiên cứu, đề xuất và lập dự án. Dự án được giao cho phòng Kế hoạch - nghiên cứu phát triển chịu trách nhiệm lập dự án. Quy trình lập dự án là quy trình áp dụng đối với những dự án do Quỹ đề xuất, lập dự án. Trưởng phòng Kế hoạch - nghiên cứu phát triển đóng vai trò trưởng nhóm lập dự án, chịu trách nhiệm trước Ban Giám đốc về chất lượng cũng như tiến độ của dự án. Xác định các căn cứ hình thành dự án: Căn cứ pháp lý của dự án Luật đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 12 tháng 12 năm 2005. Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22 thnág 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư. Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19 tháng 1 năm 2007 của Chính phủ quy đinh chi tiết thi hành một số điều của Luật chứng khoán. Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ về phát hành trái phiếu doanh nghiệp Thông tư số 57/1998/TT-BTC hướng dẫn chế độ thu phí cầu đường của Nhà nước quản lý. Các quy hoạch chi tiết của các huyện Gia Lâm, Đông Anh đã được UBND TP Hà nội phê duyệt tại các quyết định 74/1999/QĐ-UB và 106/2000/QĐ-UB. Nghị định 24/2007/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết về thuế thu nhập doanh nghiệp. Căn cứ thực tiễn của dự án Căn cứ thực tiễn của dự án bao gồm: Các điều kiện về môi trường vĩ mô của dự án như: hiện trạng kinh tế - xã hội của địa phương nơi thực hiện dự án; hiện trạng và định hướng của ngành, lĩnh vực của dự án; khả năng thực tế của chủ đầu tư trong việc thực hiện dự án. Cụ thể trong dự án ví dụ này như sau: Hiện trạng kinh tế-xã hội của Hà Nội: Thực trạng kinh tế xã hội của Hà Nội trong những năm qua có thể được thể hiện bằng những nét chính sau đây: Đã có bước phát triển khá và khởi sắc từ sau năm 1992, nhịp độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt ở mức cao so với cả nước (khoảng 13-14%) GDP bình quân đầu người từng bước tăng lên và đạt mức trên 10 triệu đồng vào năm 2001 (gấp hơn 3 lần so với bình quân chung của cả nước). Cơ cấu kinh tế có sự thay đổi về chất, tỷ trọng nông nghiệp giảm đi, tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng lên đáng kể. Các hoạt động văn hóa xã hội có những bước chuyển biến tiến bộ đáp ứng phần nào nhu cầu ngày càng cao của đời sống xã hội Quá trình đô thị hóa đã bước đầu tạo ra những nền tảng cho sự hình thành của các đô thị mới. Xuất phát từ thực tế trong những năm vừa qua tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá tại địa bàn Thủ đô tăng tương đối cao, điều này đòi hỏi một lượng vốn đầu tư rất lớn từ ngân sách. Riêng trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, là lĩnh vực mang tính đặc thù là có suất đầu tư cao, hàng năm cũng yêu cầu lượng vốn lớn. Như vậy nhu cầu đầu tư, đặc biệt trong trung và dài hạn đòi hỏi quy mô vốn lớn trong khi khả năng cân đối của ngân sách thành phố lại bị giới hạn. Điều này dẫn đến ngân sách thành phố thường bị rơi vào tình trạng bị thiếu vốn để đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng. Nhằm mục tiêu khắc phục tình trạng thiếu vốn đầu tư, việc phát hành các tích sản tài chính nói chung và trái phiếu nói riêng là phương thức ưu việt thường được sử dụng vì các lý do như sau: thứ nhất, công cụ tài chính này đáp ứng được yếu tố thời gian sử dụng, điều này khác so với việc huy động vốn từ hệ thống ngân hàng thương mại-chủ yếu thực hiện chức năng huy động vốn ngắn hạn cho nền kinh tế; thứ hai, quy mô vốn huy động đựơc thường lớn hơn so với việc đi vay tín dụng nhà nước; thứ ba, khai thác và phát huy được tinh thần xây dựng và niềm tự hào đối với công cuộc phát triển thủ đô; thứ tư, đối tượng huy động và thụ hưởng trái tức rộng, từ thể nhân đến pháp nhân, từ kinh tế nhà nước đến kinh tế phi nhà nước. Thực tế thành phố đã phát hành trái phiếu thủ đô để tận dụng những ưu điểm như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên trên thực tế do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc phát hành trái phiếu lại vô tình gây sức ép lên ngân sách thành phố do lượng vốn huy động không được giải ngân theo đúng tiến độ trong khi vẫn phải trả trái tức hàng năm. Thị trường chứng khoán là kênh huy động hiệu quả nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Tại Việt Nam thị trường đi vào hoạt động từ năm 2000. Tuy vậy trong báo cáo tổng kết hoạt động năm 2002, nhận định tổng quát về hoạt động của thị trường vẫn ở mức thấp, không hoàn thành nhiệm vụ đề ra. Sáu tháng cuối năm 2006, chỉ số VN-index tăng liên tục, vượt ngưỡng 1000 điểm do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Mặc dù được các chuyên gia nhận định thị trường tăng trưởng trên nhiều mặt như quy mô, tốc độ, mức độ đa dạng hoá của hàng hoá được giao dịch nhưng thị trường chứng khoán hiện nay vẫn đang rơi vào tình trạng mất cân bằng về cấu trúc giữa lượng vốn hoá thông qua công cụ cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp. Chính vì vậy, đối với dự án mua quyền thu phí đường 5 kéo dài, khi phát hành trái phiếu doanh nghiệp với quy mô lớn sẽ góp phần làm giảm sự mất cân bằng này, hơn nữa, tạo tiền lệ cho các doanh nghiệp khác thực hiện. Tại địa bàn TPHCM, công ty CII- TP HCM đã thành công trong việc tổ chức khai thác xa lộ Hà nội và đường Hùng vương kéo dài. Đây chính là tiền lệ tốt để có thể triển khai áp dụng mô hình này trên địa bàn thủ đô. Trong phương án tài chính của dự án sẽ lấy biểu phí mà công ty CII đang áp dụng trên tuyến xa lộ Hà nội làm phương án tính toán nhằm xác định tính khả thi của dự án. Đánh giá chung về mạng lưới đường của Thủ đô Hà Nội Hà Nội là đầu mối giao thông quan trọng nhất miền Bắc Việt Nam, quy tụ đầy đủ các phương thức giao thông: đường bộ, đường sông, đường sắt, đường hàng không, là nơi hội tụ các tuyến giao thông trong nước và quốc tế. Những năm gần đây, hệ thống giao thông đường bộ của thành phố đã được cải thiện đáng kể. Riêng giai đoạn 1996-2001 đã triển khai xây dựng được trên 61km đường, duy tu và cải tạo nâng cấp nhiều tuyến đường cũ, đường cũ được thảm trên 90% (đường nội thành) và khoảng 50% (đối với đường ngoại thành). Nhiều nút giao thông quan trọng được mở rộng, hệ thống đèn tín hiệu điều khiển giao thông hiện đại được lắp đặt trên 100 nút. Nội thành Hà Nội có 368 đường phố, ngõ phố với tổng chiều dài là 276km, trên một diện tích là 83km2. Nếu tính cả đường ngoại thành, ngõ xóm thì tổng chiều dài là 1.045km. Tuy nhiên, mạng lưới giao thông đường bộ trong nội thành còn kém phát triển. Mật độ đường thấp, phân bố không đều, cấu trúc hỗn hợp và thiếu sự liên thông. Quy mô và tiêu chuẩn kỹ thuật không đồng nhất. Trong giờ cao điểm, trên các đường trục, hệ số sử dụng lòng đường đã vượt quá từ 1-3 lần so với tiêu chuẩn. Do chất lượng đường xấu, lòng đường quá hẹp (7-11m), các giao cắt đồng mức và quá gần nhau (nội thành trung bình là 380m) cộng với lượng phương tiện giao thông tư nhân, chủ yếu là xe máy quá lớn dẫn đến ùn tắc, lộn xộn và mất an toàn giao thông. Tỷ lệ quỹ đất dành cho giao thông quá ít, mới ở mức trên dưới 8% (trong khi trên thế giới thường là 25%). Hệ thống giao thông tĩnh ở Hà Nội còn quá thiếu. Hà Nội là đầu mối đường sắt tập trung nhất ở Việt Nam. Mạng lưới đường sắt nằm trên địa bàn Hà Nội có hình bán nguyệt, với tổng chiều dài 90km. Hà Nội hiện có 5 ga đường sắt lớn: Hà Nội, Giáp Bát, Văn Điển, Gia Lâm, Yên Viên với tổng diện tích là 16,85ha. Vận tải hành khách công cộng của Hà Nội hiện nay đang là khâu yếu kém, tuyến xe buýt là 0,5km/km2 (trên thế giới là 2-4km/km2). Giữa các tuyến xe buýt chính bị chia cắt, thiếu sự liên thông và không thành mạng, chưa thuận tiện cho khách hàng đi lại. Thành phố phát triển nhanh, nhu cầu đi lại tăng cao, việc đi lại hàng ngày của người dân chủ yếu là phương tiện cá nhân và đang phát triển với tốc độ cao. Đến năm 2002 hệ thống giao thông công cộng được đổi mới và nâng cao nhưng mới chỉ đáp ứng được khoảng 7% nhu cầu đi lại của nhân dân. Hiện trạng ùn tắc giao thông vẫn còn xảy ra tại các nút giao thông trọng điểm vào các giờ cao điểm, ô nhiễm môi trường gia tăng. Định hướng phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông đô thị Hà Nội Phát triển giao thông đô thị Hà Nội được triển khai trên cơ sở các quan điểm sau: Hệ thống giao thông là yếu tố cơ bản nhất tạo nên kết cấu hạ tầng của thành phố, vì vậy cần được phát triển đi trước một bước. Cần có quy hoạch cụ thể các loại hình vận chuyển trên các đường trục, đường vành đai và điều tiết hợp lý các phương tiện giao thông. Hạn chế các phương tiện giao thông thô sơ và xe máy trong nội thành. Triển khai xây dựng hệ thống đường đô thị liên thông, phối hợp đồng bộ và rộng khắp. Kết hợp cải tạo, xây dựng, phát triển các công trình giao thông vận tải với hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và kiến trúc đô thị. Tập trung phát triển nhanh vận tải hành khách công cộng, trước mắt tập trung phát triển mạng lưới vận chuyển hành khách công cộng bằng xe buýt. Nghiên cứu và triển khai hệ thống đường sắt đô thị. Quan tâm đầu tư phát triển hệ thống giao thông tĩnh. Giải quyết tốt mối quan hệ vận tải ô tô liên tỉnh với vận tải ô tô công cộng của thành phố tạo nên sự chuyển tiếp liên tục giữa ngoại thành với nội thành. Những nội dung chính của phát triển giao thông Hà Nội: Phát triển hệ thống giao thông quốc lộ hướng tâm vào thành phố và nối với các tỉnh, nhất là với vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và liên kết với các đô thị vệ tinh xung quanh. Đảm bảo sự liên thông suốt giữa khu vực đô thị và nông thôn. Quan tâm đầu tư nâng cấp và xây dựng mới các tuyến đường giao thông liên huyện. Hình thành các tuyến vành đai và các trục Đông – Tây của thành phố: trục Đông – Tây từ Trần Khát Chân tới Cầu Giấy; vành đai 2 bao quanh nội thành; vành đai 3 phục vụ giao thông liên tỉnh và nghiên cứu xây dựng vành đai 4 từ năm 2010. Xác định và xây dựng các nút giao thông lập thể, nhất là các nút giao giữa đường trục hướng tâm và các đường vành đai. Hoàn chỉnh mạng lưới đường đô thị. Xây dựng mạng lưới giao thông cho các khu vực đô thị mới, các quận mới, ưu tiên phát triển ngay mạng lưới đường ở các khu vực có mật độ đường thấp. Cải tạo, xây dựng mới một số cầu qua sông Hồng và sông Đuống, bảo đảm đáp ứng nhu cầu phát triển của thủ đô ở cả hai phía Nam và Bắc sông Hồng. Tập trung phát triển hệ thống giao thông công cộng, trọng điểm là mạng lưới xe buýt. Phấn đấu đến năm 2005 đạt 20% nhu cầu đi lại của nhân dân và 30-35% vào năm 2010. Nghiên cứu và phát triển hệ thống giao thông đường sắt đô thị (bao gồm cả ngầm và trên cao) để tạo nên các trục chính của mạng lưới vận tải hành khách công cộng; phấn đấu đến năm 2005 triển khai xây dựng một tuyến đường sắt đô thị, xây dựng xe điện ngầm vào năm 2006-2007. Nghiên cứu và triển khai các giải pháp hữu hiệu nhằm giảm ùn tắc giao thông: Phối kết hợp chặt chẽ giữa việc phát triển mạng lưới đường giao thông theo quy hoạch với phát triển nhanh hệ thống giao thông công cộng bằng xe buýt; tổ chứ._.trực tiếp có hiệu quả và đa dạng hoá phương thức thu hồi vốn đầu tư trực tiếp. Trong giai đoạn 2006-2010, Quỹ Đầu tư thực hiện đầu tư theo hình thức Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) hoặc hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) là chính. Từng bước mở rộng quy mô đầu tư trực tiếp đồng thời với việc mở rộng quy mô huy động vốn theo hướng chuyển dịch hợp lý cơ cấu, tỷ trọng giữa đầu tư trực tiếp và tài trợ cho vay trên cơ sở kiểm soát hoạt động đầu tư trực tiếp một cách an toàn và hiệu quả. Tăng cường năng lực chuyên môn trong công tác quản lý triển khai dự án ở tất cả các giai đoạn từ chuẩn bị đầu tư, huy động vốn, thực hiện dự án, đến vận hành và công tác quản lý vốn của Quỹ Đầu tư tại các doanh nghiệp có vốn góp của Quỹ. Xây dựng quy trình nghiệp vụ đầu tư trực tiếp, quy trình thẩm định dự án đầu tư để phòng ngừa rủi ro đối với hoạt động đầu tư trực tiếp. Tham gia vào chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của Thành phố, gắn liền với việc mua cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hoá và góp phần thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán. Xây dựng cơ chế quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp của Quỹ Đầu tư phát triển Thành phố Hà Nội, trình UBND Thành phố duyệt y. Định hướng cho công tác lập dự án trong thời gian tới Đối với công tác lập dự án, Quỹ định hướng: Trong thời gian tới xây dựng quy trình lập dự án đầu tư phối hợp với các Sở, ngành liên quan, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tổ chức các đợt tập huấn hoặc cử cán bộ nhân viên các phòng Đầu tư, phòng Kế hoạch – Nghiên cứu phát triển tham gia các chương trình đào tạo nghiệp vụ ngắn hạn. Tổ chức các đợt thi tuyển dụng nhằm tăng cường thêm lực lượng nhân viên mới tài năng, trình độ chuyên môn cao. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC LẬP DỰ ÁN TẠI QUỸ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Giải pháp hoàn thiện phương pháp lập dự án: Áp dụng phương pháp hồi quy tương quan vào phân tích thị trường của dự án: Đây là một phương pháp toán kinh tế lượng rất quan trọng được sử dụng rộng rãi trong việc dự báo. Dựa trên những mẫu chọn ngẫu nhiên thực tế mà ta có thể xác định được xu hướng vận động trong một thời gian nhất định. Trên thực tế, các số liệu dự báo của Quỹ thường lấy từ nguồn số liệu sẵn có do các tổ chức khác nghiên cứu do Quỹ còn yếu về trình độ chuyên sâu trong công tác dự báo cơ hội đầu tư. Những số liệu đó có thể rất đáng tin cậy hoặc cũng có thể chưa chính xác. Hơn nữa, việc dựa vào các số liệu sẵn có của các tổ chức khác nghiên cứu tạo khó khăn cho Quỹ trong việc giải trình bảo vệ dự án. Chính vì vậy, việc chủ động tự nghiên cứu các cơ hội đầu tư là vô cùng cần thiết. Phương pháp hồi quy tương quan là một phương pháp phổ biến, dễ tìm kiếm tài liệu để nghiên cứu. Vấn đề quan trọng nhất đặt ra khi sử dụng phương pháp này là việc xác định mẫu thử phải khách quan, thực tế, các số liệu phải đầy đủ, chính xác và cập nhập. Việc tổng hợp các thông tin, phân tích và dự báo phải được tiến hành logic, theo trình tự, quy trình cụ thể tránh mất thời gian, lãng phí và bỏ sót. Áp dụng phương pháp phân tách công việc, sử dụng biểu đồ GANTT, sơ đồ PERT/CPM Để xây dựng lịch trình soạn thảo dự án: Phương pháp này chủ yếu áp dụng cho các dự án thời gian xây dựng dài, quy mô vốn lớn và tính chất các công việc phức tạp. Khi đó, để đảm bảo khả năng giải ngân cũng như để phục vụ cho việc tính toán khả năng trả nợ trong công tác phân tích tài chính sau này, các chuyên viên lập dự án có thể sử dụng phương pháp GANTT, sơ đồ PERT/CPM để phân tách công việc, xác định tiến độ chi phí theo từng thời kỳ, từng giai đoạn. Để nâng cao chất lượng công tác khảo sát hiện trạng dự án: Khảo sát hiện trạng dự án là một trong những nội dung quan trọng của công tác lập dự án. Nếu số liệu thu thập từ công tác khảo sát hiện trạng không tốt sẽ dẫn đến sự thiếu chính xác của thông tin, công tác dự báo không còn chính xác, các khoản mục doanh thu, chi phí về mặt tài chính cũng sẽ thay đổi, tính khả thi của dự án cũng không được đảm bảo. Nếu không nghiên cứu khảo sát cẩn thận nghiêm túc và khoa học thì trường hợp xấu có thể xảy ra đó là dự án không được duyệt, lãng phí thời gian, công sức và tiền bạc để lập báo cáo nghiên cứu khả thi; hoặc dự án nếu có được duyệt, đi vào thực hiện, sẽ càng gây lãng phí và tổn thất lớn hơn, nhất là đối với các công trình xây dựng hạ tầng đô thị có vốn đầu tư lớn. Chính vì vậy việc nâng cao chất lượng công tác khảo sát hiện trạng là vô cùng cần thiết. Chất lượng công tác khảo sát hiện trạng tốt phải đảm bảo được các yêu cầu sau: Đáp ứng đầy đủ, chính xác, rõ ràng các số liệu thông tin cung cấp cho công tác lập dự án. Các số liệu và thông tin cần thiết phải được cung cấp kịp thời, đúng tiến độ kế hoạch đề ra. Chi phí cho công tác khảo sát thiết kế là hợp lý. Để đạt được mục tiêu như vậy, công tác khảo sát thiết kế phải được thực hiện tốt kể từ khâu lập kế hoạch đến khâu tổ chức thực hiện. Phương pháp phân tách công việc và xây dựng sơ đồ mạng công việc sẽ giúp cho công tác lập kế hoạch được thực hiện hiệu quả, logic, nhanh chóng và tiết kiệm cả về thời gian lẫn chi phí. Phương pháp này sẽ giúp cho người lập dự án có thể bao quát được nội dung cần được khảo sát cũng như nhiệm vụ cụ thể của mỗi người một cách có hệ thống và đầy đủ. Các công việc được phân tách chi tiết đến nhiệm vụ của từng người, được tổng hợp lại trên khung cây đa hệ. Sau khi xây dựng được cây đa hệ về các nội dung khảo sát bằng việc lập sơ đồ mạng để xác định tiến độ thích hợp Hoàn thiện phương pháp phân tích độ nhạy của dự án: Hiện nay để phân tích độ nhạy chủ yếu Quỹ sử dụng hai chỉ tiêu: doanh thu và chi phí. Tuy nhiên trên thực tế, những yếu tố thực sự có ảnh hưởng đến dự án không phải là hai yếu tố này mà là những yếu tố cấu thành nên chúng. Chính vì vậy để việc phân tích độ nhạy đảm bảo tính logic, ngoài bảng phân tích độ nhạy của dự án do hai yếu tố doanh thu và chi phí thay đổi, cần phải phân tích thêm sự thay đổi của từng yếu tố cấu thành nên doanh thu và chi phí. Khi đó, dựa trên sự thay đổi tương ứng của các chỉ tiêu tài chính mà ta xác định được yếu tố nào có ảnh hưởng nhiều nhất đến dự án. Bên cạnh đó, ta có thể sử dụng ma trận độ nhạy để phân tích. Ma trận độ nhạy giúp chủ đầu tư có thể thấy được sự thay đổi của một chỉ tiêu tài chính khi đồng thời có nhiều yếu tố khác nhau cùng thay đổi. Giải pháp hoàn thiện nội dung công tác lập dự án: Hoàn thiện công tác nghiên cứu các căn cứ pháp lý của từng dự án Hoàn thiện công tác nghiên cứu các căn cứ pháp lý của từng dự án bằng cách: cập nhập những văn bản pháp luật mới nhất, nghiên cứu thật kỹ các quy định mới của pháp luật về đầu tư và các lĩnh vực có liên quan đến đầu tư. Bên cạnh đó cần phải tìm hiểu những ưu đãi, khuyến khích trong lĩnh vực đầu tư cũng như các quy định của các Hiệp ước, Cam kết Quốc tế để phù hợp với xu hướng hội nhập của nước ta hiện nay. Hoàn thiện công tác phân tích hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án: Đối với mọi quốc gia, mục tiêu chủ yếu của nền sản xuất xã hội là tối đa hóa phúc lợi. Mục tiêu này thường được thể hiện qua các chủ trương chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Các kế hoạch dài hạn đề ra phương hướng chỉ đạo, mục tiêu chiến lược trong thời gian dài (từ 10 năm trở lên). Các kế hoạch trung hạn nêu lên các bước đi tương đối cụ thể trong thời gian từ 5 năm đến 10 năm. Các kế hoạch hay chương trình kinh tế ngắn hạn được đưa ra nhằm điều chỉnh kịp thời các sai lệch cũng như bổ sung các khiếm khuyết phát hiện trong quá trình thực hiện kế hoạch. è Bổ sung các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án: 2.2.2.1. Giá trị gia tăng thuần túy kí hiệu là NVA (Net Value Added) * Phương pháp xác định Đây là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế - xã hội của đầu tư. NVA là mức chênh lệch giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào. Công thức tính toán như sau: NVA = O – (MI + Iv) Trong đó: NVA - Giá trị gia tăng thuần túy do đầu tư đem lại O (Output) - Giá trị đầu ra của dự án MI (Material Input) - Giá trị đầu vào vật chất thường xuyên và các dịch vụ mua ngoài theo yêu cầu để đạt được đầu ra trên đây (như năng lượng, nhiên liệu, giao thông, bảo dưỡng...) Iv - Vốn đầu tư bao gồm chi phí xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc, thiết bị... Giá trị gia tăng thuần túy (NVA) có thể được tính cho từng năm hoặc cho cả đời dự án. Để tính cho từng năm, công thức tính như sau: NVAi = Oi – (MIi + Di) Trong đó: NVAi - Giá trị gia tăng thuần túy năm i của dự án Oi - Giá trị đầu ra của dự án năm i Di - Khấu hao năm i NVA bao gồm hai yếu tố: chi phí trực tiếp trả cho người lao động kí hiệu là Wg (Wage) (tiền lương, tiền thưởng kể cả phụ cấp lương) và thặng dư xã hội ký hiệu là SS (Social Surplus). Wg phụ thuộc vào mức độ làm việc và mức lương bình quân của người lao động. SS là thặng dư xã hội thể hiện thu nhập của xã hội từ dự án (bao gồm thuế gián thu, trả lãi vay, lãi cổ phần, đóng bảo hiểm và tái bảo hiểm, thuế đất, tiền mua phát minh sáng chế và lợi nhuận không phân phối để lại cho cơ sở để lập các quỹ phát triển sản xuất, quỹ dự trữ, quỹ phúc lợi...). Đối với các dự án đầu tư có liên quan đến yếu tố nước ngoài (liên doanh, vay vốn từ bên ngoài, thuê lao động nước ngoài), NVA bao gồm hai bộ phận là: Giá trị gia tăng thuần túy được sử dụng trong nước được gọi là giá trị gia tăng thuần túy quốc gia (NNVA). Giá trị gia tăng thuần túy được chuyển ra nước ngoài RP (bao gồm tiền lương, thưởng, lãi trả vay vốn, lợi nhuận thuần, cổ tức trả cho người nước ngoài, các khoản thanh toán ngoại tệ khác không tính trong đầu vào nguyên vật liệu). NNVA là chỉ tiêu biểu thị sự đóng góp của dự án đối với nền kinh tế của đất nước. Công thức tính NNVA cho cả đời dự án như sau: Trong tổng số giá trị gia tăng sản phẩm thuần túy do dự án đem lại gồm có giá trị gia tăng trực tiếp (do chính dự án tạo ra) và giá trị gia tăng gián tiếp do các dự án có liên quan (về công nghệ và kinh tế với dự án đang xem xét) tạo ra do sự đòi hỏi trong hoạt động của dự án đang xem xét. Một vấn đề cần lưu ý ở đây là khi phải so sánh NVA của các năm, khi tính tổng NVA của cả đời dự án hoặc tính NVA bình quân năm phải tính chuyển O, MI, D của từng năm về cùng một mặt bằng thời gian (thường là đầu thời kỳ phân tích) với việc sử dụng tỷ suất chiết khấu xã hội (rs) Tỷ suất chiết khấu xã hội là tỷ suất (mức lãi suất) dùng để tính chuyển các khoản lợi ích xã hội và chi phí xã hội của dự án về cùng một mặt bằng thời gian. Về nguyên tắc, tỷ suất chiết khấu xã hội được tính dựa trên chi phí xã hội của việc sử dụng vốn đầu tư. 2.2.2.2 Chỉ tiêu số lao động có việc làm do thực hiện dự án và số lao động có việc làm trên 1 đơn vị giá trị vốn đầu tư Số lao động có việc làm Ở đây bao gồm số lao động có việc làm trực tiếp cho dự án và số lao động có việc làm ở các dự án liên đới (số lao động có việc làm gián tiếp). Các dự án liên đới là các dự án khác được thực hiện do sự đòi hỏi của dự án đang xem xét. Trình tự xác định số lao động (trực tiếp và gián tiếp) có việc làm do thực hiện dự án như sau: + Xác định số lao động cần thiết cho dự án đang xem xét tại năm hoạt động bình thường của dự án. + Xác định số lao động cần thiết cho việc tăng thêm ở các dự án liên đới cá về đầu vào và đầu ra. Đây chính là số lao động có việc làm gián tiếp nhờ thực hiện dự án đang xem xét. Tổng hợp số lao động trực tiếp và gián tiếp có việc làm trên đây chính là số lao động có việc làm nhờ thực hiện dự án. Trong khi tạo việc làm cho một số lao động thì sự hoạt động của dự án mới cũng có thể làm cho một số lao động của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ khác bị mất việc do các cơ sở này không cạnh trạnh nổi sản phẩm của các dự án mới, phải thu hẹp sản xuất. Trong số các lao động làm việc trong dự án, có thể có một số người là người nước ngoài. Do đó, số lao động của đất nước có việc làm nhờ thực hiện dự án sẽ chỉ bao gồm số lao động trực tiếp và gián tiếp phục vụ cho dự án, trừ đi số lao động bị mất việc ở các cơ sở sản xuất liên quan và số người nước ngoài làm việc cho dự án. Số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư Để tính chỉ tiêu số lao động có việc làm trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư cũng tương tự như đối với lao động, ta phải tính số vốn đầu tư trực tiếp của dự án đang xem xét và vốn đầu tư của các dự án liên đới (vốn đầu tư đầy đủ). Tiếp đó tính các chỉ tiêu sau đây: + Số lao động có việclàm tính trên 1 đơn vị giá trị vốn đầu tư trực tiếp (Id). Trong đó: - Số lao động có việc làm trực tiếp của dự án - Số vốn đầu tư trực tiếp của dự án. + Toàn bộ số lao động có việc làm tính trên 1 đơn vị giá trị vốn đầu tư đầy đủ(). Trong đó: IT - Toàn bộ số lao động có việc làm trực tiếp và gián tiếp. - Số vốn đầu tư đầy đủ của dự án đang xem xét và các dự án liên đới. - Số lao động có việc làm gián tiếp - Số vốn đầu tư gián tiếp 2.2.2.3 Chỉ tiêu mức giá trị gia tăng của mỗi nhóm dân cư (những người làm công ăn lương, những người có vốn hưởng lợi tức, nhà nước thu thuế…) hoặc vùng lãnh thổ. Chỉ tiêu này phản ánh tác động điều tiết thu nhập giữa các nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ. Để xác định chỉ tiêu này, trước hết phải xác định nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ được phân phối giá trị tăng thêm (NNVA) của dự án. Tiếp đến xác định phần giá trị tăng thêm do dự án tạo ra mà nhóm dân cư và vùng lãnh thổ thu được. Cuối cùng tính chỉ tiêu tỷ lệ giá trị gia tăng của mỗi nhóm dân cư hoặc mỗi vùng lãnh thổ thu được trong tổng giá trị gia tăng ở năm hoạt động bình thường của dự án. So sánh tỷ lệ này của các nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ với nhau sẽ thấy được tình hình phân phối giá trị gia tăng do dự án tạo ra giữa các nhóm dân cư và vùng lãnh thổ trong nước. 2.2.2.4. Chỉ tiêu ngoại hối ròng (tiết kiệm ngoại tệ) Một nhiệm vụ cơ bản khi xem xét lợi ích kinh tế - xã hội của dự án là xem xét tác động của dự án đến cán cân thanh toán quốc tế của đất nước. Xác định chỉ tiêu mức tiết kiệm ngoại tệ của dự án cho biết mức độ đóng góp của dự án vào cán cân thanh toán của nền kinh tế đất nước. 2.2.2.5 Chỉ tiêu khả năng cạnh tranh quốc tế (International Competiveness) Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm do dự án sản xuất ra trên thị trường quốc tế. 2.2.2.6 Những tác động khác của dự án - Những ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng: Sự gia tăng năng lực phục vụ của kết cấu hạ tầng sẵn có, bổ sung năng lực phục vụ mới của kết cấu hạ tầng mới. - Tác động đến môi trường: Đây là ảnh hưởng của các đầu vào, đầu ra của dự án đến môi trường. Trong các tác động có tác động tích cực, tác động tiêu cực. Nếu có tác động tiêu cực thì các giải pháp khắc phục, chi phí để thực hiện các giải pháp đó. Nếu chi phí này quá lớn, lớn hơn cái xã hội nhận được thì phải chuyển địa điểm thựuc hiện dự án (nếu có thể được) hoặc bác bỏ dự án. - Nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất, trình độ nghề nghiệp của người lao động, trình độ quản lý của những nhà quản lý, nâng cao năng suất lao động, nâng cao thu nhập của người lao động. - Những tác động về xã hội, chính trị và kinh tế khác (tận dụng và khai thác tài nguyên chưa được quan tâm hay mới phát hiện, tiếp nhận được công nghệ mới nhằm hoàn thiện cơ cấu sản xuất, những tác động đến các ngành, các lĩnh vực khác; tạo thị trường mới, tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển các địa phương yếu kém, các vùng xa xôi nhưng có tiềm năng về tài nguyên… ). Giải pháp hoàn thiện công tác tổ chức lập dự án: Lập nhóm soạn thảo dự án nhằm nâng cao tính chuyên môn hóa, tính hiệu quả trong phân công công việc và nâng cao trách nhiệm của từng thành viên. Nhóm soạn thảo dự án gồm chủ nhiệm dự án và các thành viên. Số lượng thành viên nhóm phụ thuộc vào nội dung và quy mô của dự án. Chủ nhiệm dự án là người tổ chức và điều hành công tác lập dự án, có trình độ chuyên môn và năng lực tổ chức nhất định và không thay đổi trong cả quá trình soạn thảo và thực hiện dự án. Nhiệm vụ chính của chủ nhiệm dự án là: + Lập kế hoạch, lịch trình soạn thảo dự án (bao gồm cả ước lượng và phân bố kinh phí soạn thảo). + Phân công công việc cho các thành viên trong nhóm. + Giám sát và điều phối hoạt động của các thành viên trong nhóm. + Tập hợp các chuyên viên thuộc các lĩnh vực khác nhau để giải quyết nội dung cụ thể của dự án. + Tổng hợp kết quả nghiên cứu của nhóm soạn thảo. Các thành viên của nhóm có thể là các chuyên viên của nhiều phòng khác nhau, sẽ phụ trách các công việc ở những lĩnh vực khác nhau, đảm bảo tính chuyên môn hóa cũng như đảm bảo tính chuyên sâu về nghiệp vụ của từng lĩnh vực, nội dung của dự án như: khía cạnh nghiên cứu thị trường, kỹ thuật, tổ chức quản lý và nhân sự, tài chính, kinh tế-xã hội,... đáp ứng được nội dung và yêu cầu của việc soạn thảo dự án. Hoàn thiện công tác nghiên cứu dự báo cơ hội đầu tư Giới hạn nghiên cứu cơ hội đầu tư: Xuất phát từ mục tiêu và phạm vi hoạt động theo điều lệ Quỹ đầu tư phát triển Thành phố Hà Nội, chủ yếu các dự án là đầu tư cho phát triển nhà ở, chú trọng nhà tái định cư phục vụ giải phóng mặt bằng, các công trình trọng điểm và các dự án phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội khác theo quy hoạch, kế hoạch của Thành phố Hà Nội. Đó chính là giới hạn nghiên cứu của công tác nghiên cứu cơ hội đầu tư. Mục tiêu của việc nghiên cứu cơ hội đầu tư là xác định một cách nhanh chóng và ít tốn kém nhưng lại dễ thấy về các khả năng đầu tư trên cơ sở những thông tin cơ bản đưa ra đủ để làm cho người có khả năng đầu tư phải cân nhắc, xem xét để đi đến quyết định có triển khai tiếp sang giai đoạn nghiên cứu sau hay không. Thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu cơ hội đầu tư: chủ yếu do phòng Đầu tư và phòng Kế hoạch - Nghiên cứu phát triển chịu trách nhiệm phối hợp thực hiện. Để phát hiện các cơ hội đầu tư, phòng Đầu tư và phòng Kế hoạch - Nghiên cứu phát triển cần phải dựa trên các căn cứ sau: + Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của từng vùng, của đất nước, hoặc chiến lược phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ của ngành, của cơ sở. Đây là định hướng lâu dài cho sự phát triển. + Nhu cầu của thị trường trong nước và trên thế giới về các mặt hàng hoặc hoạt động dịch vụ cụ thể nào đó. + Hiên trạng của sản xuất và cung cấp các mặt hàng và hoạt động dịch vụ đó trong nước và trên thế giới còn chỗ trống trong một thời gian tương đối dài, ít nhất cũng vượt qua thời gian thu hồi vốn đầu tư. + Tiềm năng sẵn có về tài nguyên thiên nhiên, lao động, tài chính, quan hệ quốc tế... có thể khai thác để có thể chiếm lĩnh được chỗ trống trong sản xuất và tiến hành các hoạt động dịch vụ trong nước và thế giới. Những lợi thế so sánh so với thị trường nước ngoài, so với các địa phương, các đơn vị khác trong nước. + Những kết quả về tài chính, và đặc biệt là kết quả về kinh tế-xã hội sẽ đạt được nếu thực hiện đầu tư. Xây dựng quy trình nghiên cứu thị trường của dự án: Các nội dung của công tác nghiên cứu, dự báo nhu cầu thị trường của dự án bao gồm: Phân tích và đánh giá thị trường tổng thể hiện tại Phân đoạn thị trường và xác định thị trường mục tiêu Dự báo nhu cầu thị trường trong tương lai; Dự báo nhịp độ tăng trưởng của ngành; Dự kiến tình hình biến động của thị trường, giá cả, Đối thủ cạnh tranh, sản phẩm thay thế (trong và ngoài nước) Tùy theo tính chất và lĩnh vực đầu tư của dự án mà ta có thể nghiên cứu tất cả hay một số nội dung trên. Công tác dự báo giúp ta phân tích mức cầu bằng cách đánh giá xem sản phẩm của dự án có thể đáp ứng nhu cầu thị trường hay không. Vấn đề đặt ra cho công tác nghiên cứu thị trường đó là trình tự các bước thực hiện không theo một logic nhất định dẫn đến việc nghiên cứu có thể không đầy đủ, dễ bỏ sót, tốn thời gian, chi phí. Để tiết kiệm chi phí và đảm bảo việc nghiên cứu dự báo đạt chất lượng cao trước hết xác định rõ đối tượng nghiên cứu, sau đó lựa chọn phương pháp thích hợp trên cơ sở các thông tin đã có sẵn hoặc tiến hành tổ chức thu thập thông tin nếu cần thiết, khi đó cần đề ra phương pháp điều tra thu thập và xử lý thông tin thích hợp. Tổng hợp những thông tin có sẵn hoặc nghiên cứu thông tin mới hoàn toàn Lựa chọn phương pháp Thu thập thông tin bổ sung Tổng hợp xử lý thông tin Phân tích và dự báo nhu cầu thị trường Kiến nghị Xác định rõ đối tượng cần nghiên cứu Sơ đồ 8: Quy trình nghiên cứu và dự báo nhu cầu thị trường đối với dự án Bố trí sử dụng lao động hiệu quả: Nhằm tạo điều kiện cho các cán bộ nhân viên phát huy tối đa năng lực chuyên môn, hạn chế nhược điểm của từng cá nhân trong tập thể thì Quỹ phải bố trí sắp xếp các công việc phù hợp vời trình độ chuyên môn năng lực sẵn có của từng người, bố trí hợp lý đúng người đúng việc tránh tình trạng làm việc trái ngành, chuyên môn được đào tạo, không phù hợp với năng lực sẽ gây tâm lý chán nản hoặc làm việc không hiệu quả. Một vấn đề không thể bỏ qua đó là cần phát hiện nhân tài trong Quỹ, có chế độ khen thưởng, trọng dụng hợp lý để tạo động lực làm việc, phát huy thế mạnh của từng người. Trong công tác lập dự án, trước khi lập dự án cần xác định chủ nhiệm dự án chuyên về kỹ thuật hay về tài chính, quy định trách nhiệm và quyền hạn hợp lý đối với chủ nhiệm dự án. Trong quá trình lập dự án, tất cả các chuyên viên thuộc các lĩnh vực khác nhau đều phải cùng hỗ trợ để có được kết quả mang tính chính xác toàn diện. Tất cả thành viên tham gia công tác lập dự án đều phải tham gia tích cực, phân công công việc phù hợp với trình độ chuyên môn tránh tình trạng chỉ có bộ phận kỹ thuật, dự báo làm việc sau đó mới đưa lại kết quả cho bộ phận tài chính. Bộ phận tài chính phải tham gia thực hiện từ đầu và tránh tình trạng lắp ghép từ dự án này sang dự án kia. Giải pháp phát triển con người Con người là một yếu tố quan trọng trong quá trình lao động, góp phần lớn trong việc tạo ra sản phẩm cũng như thành bại của bất kỳ doanh nghiệp. Do đó Quỹ phải có kế hoạch thường xuyên nâng cao chất lượng và phát triển nguồn nhân lực bằng việc cải thiện không ngừng môi trường, điều kiện làm việc, đảm bảo tính thường xuyên, liên tục trong công tác đào tạo và đào tạo lại. Nguyên tắc quan trọng nhất đối với mỗi nhà lãnh đạo đó là thuật dùng người. Chính vì vậy các lãnh đạo của Quỹ cần nhận thức được vai trò của việc đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực. Đó là vấn đề mang tính chất lâu dài và chiến lược. Phát triển nguồn nhân lực không chỉ dừng lại ở việc đào tạo nhân lực mà còn ở việc sử dụng nguồn nhân lực như thế nào cho hợp lý, hiệu quả để công việc của Quỹ ngày càng thuận lợi, phát triển còn cán bộ công nhân viên được làm việc đúng ngành nghề, được phát triển năng lực nhiệt tình hết mình vì Quỹ. Để có một đội ngũ cán bộ giỏi, ta có thể thực hiện một số giải pháp sau: Đội ngũ cán bộ lập dự án của Quỹ đầu tư hầu hết đều có trình độ đại học chuyên ngành đây là một thế mạnh của Quỹ. Tuy nhiên xu thế phát triển của xã hội hiện nay đòi hỏi các sản phẩm tạo ra phải có tính bền, đẹp, tiện lợi khi sử dụng và không ảnh hưởng đến môi trường… do sự vận động không ngừng đó của nhu cầu thị trường nên mọi sản phẩm dù là vô hình hay hữu hình đều là một cơ hội đầu tư cần sự nghiên cứu học hỏi không ngừng của các cán bộ chuyên viên lập dự án. Như vậy để nâng cao chất lượng các dự án được lập, Quỹ phải đưa công tác đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển trước mắt cũng như lâu dài trong toàn cơ quan, cụ thể: Có chính sách khuyến khích cán bộ công nhân viên tự học tập nâng cao trình độ của mình như hỗ trợ một phần học phí sắp xếp công việc để họ có thời gian đi học, khuyến khích kỹ sư trẻ đi học ở nước ngoài, tạo điều kiện cho họ bằng việc bố trí cho họ một vị trí công tác xứng đáng sau khi họ đi học về và tiếp tục làm việc cho công ty Với những người làm việc không đúng chuyên môn chuyên ngành đào tạo công tỷ có thể tạo điều kiện cho họ tham gia các khoá học đúng chuyên môn đang làm việc. Cần chú trọng đào tạo đội ngũ kỹ sư chủ chốt để họ có thể đảm nhận trách nhiệm là chủ nhiệm dự án. Bởi yêu cầu với một chủ nhiệm dự án là phải có kiến thức chuyên môn cao, có kiến thức tổng hợp và có khả năng tổ chức quản lý. Nên có chính sách đào tạo riêng, thường xuyên cho đội ngũ này. Hội nghị hội thảo chuyên đề cũng là một trong những hình thức có thể góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. iệp uy tín, và những người có kinh nghiệm tốt để nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên. Bên cạnh đó việc trang bị kiến thức về chuyên môn thì công ty nên khuyến khích cán bộ công nhân viên tự trang bị cho mình những kiến thức bổ trợ như kiến thức về kinh tế, thị trường ... để có cái nhìn toàn diện hơn. Công tác đào tạo cán bộ về lập dự án cần đảm bảo tính kề thừa khi có sự thay đổi về nhân sự. Giải pháp tăng cường thông tin và các phương tiện công nghệ cao phục vụ công tác lập dự án: Đối với thông tin nội bộ: cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban trong việc cung cấp thông tin thông qua các báo cáo chính thức của mỗi phòng ban theo quy định của chế độ báo cáo thống kê quy định trong điều lệ của Quỹ và quy định hoạt động của từng phòng; cập nhật đầy đủ thông tin trên cơ sở các quy định về trách nhiệm và nghĩa vụ. Đối với thông tin bên ngoài: phải nhận thức được tầm quan trọng của thông tin và tầm quan trọng của thông tin trong công tác lập dự án từ đó có trách nhiệm trong việc hỗ trợ công tác thu thập thông tin cũng như hỗ trợ về chuyên môn theo khả năng của mình. Phổ biến phần mềm Microsoft Project cho các cán bộ chuyên viên của Quỹ vì phần mềm này rất có ích cho công tác qu ản lý dự án và lập các lịch trình soạn thảo dự án. Ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý thông tin: Quỹ cần xây dựng một trung tâm cơ sở dữ liệu được tập trung nhằm mục đích giúp cho công tác quản lý số liệu đảm bảo tính khoa học, có hệ thống và tăng tính bảo mật của thông tin. Việc ứng dụng công nghệ thông tin một cách dễ dàng; cho phép lưu trữ số lượng thông tin lớn, có độ chính xác và chuyên sâu cao, giúp từng bước cải thiện và nâng cao chất lượng thông tin đầu vào, chất lượng lập dự án. Cùng với đó phải từng bước xây dựng một quy chế cho việc sử dụng thông tin chặt chẽ nhằm phát huy hiệu quả của hình thức quản lý mới này. ĐỀ XUẤT CÁC KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Bộ Tài chính và các ban ngành liên quan cần phối hợp với Quỹ đầu tư soạn thảo các quy trình nghiệp vụ như: quy trình lập dự án đầu tư, quy trình khảo sát thực tế dự án, quy trình dự báo… Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội cần tăng thêm chỉ tiêu về biên chế cán bộ nhân viên cho Quỹ đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tuyển dụng của Quỹ. Đẩy nhanh tốc độ phê duyệt các chủ trương đầu tư cũng như phê duyệt các dự án đầu tư của Quỹ trình lên Ủy ban nhân dân Thành phố xin ý kiến. Điều này sẽ giúp cho công tác lập dự án được rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí. KẾT LUẬN Quỹ Đầu tư phát triển Thành phố Hà Nội là một mô hình tổ chức mới trong hệ thống tài chính nhà nước nói chung và Thành phố Hà Nội nói riêng. Quỹ Đầu tư phát triển ra đời nhằm góp phần giải quyết được nhu cầu vốn của Thành phố cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội nói chung, trước mắt là cho xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị , là một công cụ tài chính của UBND thành phố Hà nội để giải quyết các cân đối đặc thù của Thủ đô, hỗ trợ cho việc sử dụng ngân sách thành phố một cách mềm dẻo, chủ động, hiệu quả. Kể từ khi ra đời, Quỹ Đầu tư Phát triển Thành phố Hà Nội đã có những thành công bước đầu đóng góp quan trọng vào công cuộc đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị của Thành phố. Tuy nhiên, Quỹ Đầu tư cần thực hiện những giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của mình trong hệ thống tài chính của Thành phố Hà Nội. Chính vì vậy, trong quá trình thực tập tại Quỹ,với mong muốn tìm hiểu những khó khăn trong hoạt động đầu tư trực tiếp nói chung và trong công tác lập dự án nói riêng, em đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác lập dự án tại Quỹ đầu tư phát triển Thành phố Hà Nội” để làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình. Em xin chân thành cảm ơn PGS-TS Nguyễn Bạch Nguyệt đã tận tình hướng dẫn em trong thời gian qua, em cảm ơn các anh chị cán bộ nhân viên tại Quỹ đầu tư phát triển TP Hà Nội đã tạo điều kiện và cung cấp tài liệu MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 Chương 1. Thực trạng công tác lập dự án tại Quỹ Đầu tư phát triển TP Hà Nội 3 I.Tổng quan về Quỹ đầu tư phát triển TP Hà Nội 3 1.1 Quá trình hình thành và phát triển 3 1.2 Giới thiệu chung về Quỹ đầu tư phát triển TP Hà Nội 3 1.2.1 Tên gọi của Quỹ 3 1.2.2 Sự cần thiết và mục tiêu thành lập 3 1.2.3 Phạm vi hoạt động của Quỹ 4 1.3 Tình hình hoạt động chung của Quỹ đầu tư 4 1.3.1 Cơ cấu tổ chức 4 1.3.2 Vốn hoạt động của Quỹ 4 1.3.3 Tổng quan các hoạt động của Quỹ từ khi thành lập đến nay 5 II Thực trạng công tác lập dự án tại Quỹ Đầu tư 8 2.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác lập dự án tại Quỹ 8 2.2 Thực trạng công tác lập dự án tại Quỹ 9 2.2.1 Công tác tổ chức lập dự án đầu tư 9 2.2.2 Phương pháp lập dự án đầu tư 21 2.2.3 Những nội dung phân tích trong quá trình lập dự án 27 2.2.4 Phân tích quá trình lập một dự án ví dụ: Dự án “QL 5 kéo dài” 46 2.3 Đánh giá công tác lập dự án tại Quỹ 65 2.3.1 Kết quả 65 2.3.2 Tồn tại và nguyên nhân 67 Chương II Giải pháp hoàn thiện công tác lập dự án tại Quỹ đầu tư 70 I Những định hướng trong thời gian tới 70 1.1 Định hướng hoạt động của Quỹ đầu tư nói chung 70 1.2 Định hướng cho công tác lập dự án trong thời gian tới 72 II Giải pháp hoàn thiện công tác lập dự án tại Quỹ 73 2.1 Giải pháp hoàn thiện phương pháp lập dự án 73 2.1.1 Áp dụng phương pháp hồi quy tương quan vào phân tích thị trường của dự án 73 2.1.2 Áp dụng phương pháp phân tách công việc, sử dụng biểu đồ GANTT, sơ đồ PERT/CPM 73 2.1.3 Hoàn thiện phương pháp phân tích độ nhạy của dự án 75 2.2 Giải pháp hoàn thiện nội dung công tác lập dự án 75 2.2.1 Hoàn thiện công tác nghiên cứu các căn cứ pháp lý 75 2.2.2 Hoàn thiện công tác phân tích hiệu quả kinh tế-xã hội 76 2.3 Giải pháp hoàn thiện công tác tổ chức lập dự án 81 2.3.1 Lập nhóm soạn thảo dự án 82 2.3.2 Hoàn thiện công tác nghiên cứu dự báo cơ hội đầu tư 82 2.3.3 Xây dựng quy trình nghiên cứu thị trường của dự án 84 2.3.4 Bố trí sử dụng lao động hiệu quả 85 2.4 Giải pháp phát triển con người 92 2.5 Giải pháp tăng cường thông tin và các phương tiện công nghệ cao phục vụ công tác lập dự án 88 III Đề xuất các kiến nghị đối với cơ quan quản lý Nhà nước 89 KẾT LUẬN 90 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4880.doc
Tài liệu liên quan