Lời mở đầu
Tiêu thụ hàng hóa, phân tích tình hình doanh thu và kết quả sản xuất kinh doanh là vấn đề thường xuyên được đặt ra đối với tất cả các đơn vị trong nền kinh tế quốc dân. Nếu như trước đây trong cơ chế quản lý kinh tế cũ vấn đề này được nhà nước “lo” cho các đơn vị kinh tế hầu như toàn bộ: sản xuất cái gì? Bán ở đâu với giá cả như thế nào? và lỗ thì nhà nước bù, lãi thì nhà nước thu về thì trong cơ chế quản lý kinh tế mới rất nhiều doanh nghiệp đã gặp khó khăn và không ít các đơn vị đã
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1459 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác kế toán tiêu thụ và xác định kết quả kinh doanh hàng hoá tại Xí nghiệp Dịch vụ sửa chữa bảo hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đi đến chỗ phải giải thể. Nguyên nhân chính dẫn đến điều đó là sản phẩm sản xuất ra hay hàng hoá mua về không tiêu thụ được hoặc xác định không chính xác kết quả sản xuất kinh doanh để dẫn đến tình trạng: lỗ thật, lãi giả. Do đó, điều quan trọng và là sự quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường là làm thế nào để sản phẩm hàng hoá của mình tiêu thụ được trên thị trường và được thị trường chấp nhận đảm bảo thu hồi vốn, bù đắp các chi phi phí đã bỏ ra và có lãi.
Đặc biệt đối với các đơn vị kinh doanh thương mại. Để có kết quả kinh doanh tốt thì họ phải trải qua một khâu cực kỳ quan trọng đó là khâu tiêu thụ hàng hóa. Quả là không ngoa khi chúng ta nói rằng tiêu thụ hàng hóa mang ý nghĩa sống còn đối với một doanh nghiệp. Tiêu thụ là một giai đoạn không thể thiếu trong mỗi chu kỳ kinh doanh vì nó có tính chất quyết định tới sự thành công hay thất bại của một chu kỳ kinh doanh và chỉ giải quyết tốt được khâu tiêu thụ thì doanh nghiệp mới thực sự thực hiện được chức năng của mình là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng.
Bên cạnh việc tổ chức kế hoạch tiêu thụ hàng hoá một cách hợp lý, để biết được doanh nghiệp làm ăn có lãi không thì phải nhờ đến kế toán phân tích doanh thu và xác định kết quả kinh doanh. Vì thế việc hạch toán doanh thu và xác định kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp có một vai trò rất quan trọng. Kế toán doanh thu và xác định kết quả kinh doanh là một trong những thành phần chủ yếu của kế toán doanh nghiệp về những thông tin kinh tế một cách nhanh nhất và có độ tin cậy cao nhất là khi nền kinh tế đang trong giai đoạn cạnh tranh quyết liệt mỗi doanh nghiệp đều tận dụng hết những năng lực sẵn có nhằm tăng lợi nhuận, củng cố mở rộng thị phần của mình trên thị trường.
Cũng như các doanh nghiệp khác Xí nghiệp dịch vụ sửa chữa bảo hành là một Doanh nghiệp thương mại đã sử dụng kế toán để điều hành và quản lý mọi hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp. Trong đó kế toán theo dõi tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả kinh doanh hàng hoá có nhiệm vụ theo dõi quá trình bán hàng, số lượng hàng hoá bán ra, chi phí bán hàng để cung cấp đầy đủ thông tin về doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh từng kỳ sao cho nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Trong thời gian thực tập tại Xí nghiệp, nhận thức được vấn đề tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả kinh doanh đồng thời được sự hướng dẫn của cô giáo và sự giúp đỡ của các cán bộ phòng kế toán Xí nghiệp em đã thực hiện chuyên đề tốt nghiệp của mình với đề tài: “Hoàn thiện công tác kế toán tiêu thụ & xác định kết quả kinh doanh hàng hoá tại Xí nghiệp dịch vụ sửa chữa bảo hành”. Chuyên đề được kết cấu làm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về hạch toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả kinh doanh hàng hoá trong doanh nghiệp kinh doanh thương mại.
Chương II: Thực tế công tác kế toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả kinh doanh hàng hoá tại Xí nghiệp dịch vụ sửa chữa bảo hành.
Chương III: Một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện kế toán tiêu thụ và xác định kết quả kinh doanh hàng hoá tại Xí nghiệp dịch vụ sửa chữa bảo hành.
Chương I
Cơ sở lý luận chung về hạch toán tiêu thụ hàng hóa và xác định kết quả kinh doanh hàng hoá trong doanh nghiệp kinh doanh thương mại
A. Những vấn đề chung về tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá.
I. Khái niệm tiêu thụ và ý nghĩa của việc tiêu thụ hàng hoá.
1. Khái niệm tiêu thụ hàng hoá.
Tiêu thụ hàng hoá là giai đoạn tiếp theo của quá trình sản xuất. Trong giai đoạn này, giá trị sản phẩm, hàng hoá được thực hiện qua việc Doanh nghiệp chuyển giao hàng hoá, sản phẩm hoặc cung cấp các lao vụ dịch vụ cho khách hàng và được khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán.
Tiêu thụ nói chung bao gồm:
-Tiêu thụ ra ngoài đơn vị là việc bán hàng cho các đơn vị khác hoặc cho các cá nhân trong và ngoài Doanh nghiệp.
-Tiêu thụ nội bộ: Là việc bán hàng cho các đơn vị trực thuộc trong cùng một công ty, tổng công ty ...hạch toán toàn ngành.
Về bản chất, tiêu thụ chính là quá trình quan hệ trao đổi thông qua các phương tiện thanh toán để thực hiện giá trị sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. Quá trình tiêu thụ chỉ được hoàn thành khi cả hai điều kiện dưới đây được đảm bảo:
Thứ nhất: Đơn vị xuất giao hàng hoá cho đơn vị mua. Đơn vị bán căn cứ vào các hợp đồng kinh tế đã được ký kết để giao hàng cho khách hàng. Đơn vị bán có thể giao hàng bán trực tiếp hoặc gián tiếp.
Thứ hai: Khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán tiền hàng.
Đây là hai giai đoạn có quan hệ mật thiết với nhau. Giai đoạn thứ nhất phản ánh một mặt quá trình vận động của hàng hoá nhưng chưa đảm bảo phản ánh được kết quả của việc tiêu thụ, chưa có cơ sở để đảm bảo quá trình bán hàng đã được hoàn tất. Chỉ khi kết thúc giai đoạn thứ hai quá trình tiêu thụ mới coi là hoàn thành.
Quá trình tiêu thụ hàng hoá có các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu như các nghiệp vụ về xuất hàng hoá, thanh toán với người mua, tính ra các khoản doanh thu bán hàng, tính vào doanh thu bán hàng các khoản chiết khấu hàng bán, giảm giá hàng bán chấp nhận cho người mua khoản doanh thu hàng bán bị trả lại và các loại thuế phải nộp nhà nước để xác định chính xác doanh thu thuần từ đó xác định về lỗ, lãi tiêu thụ sản phẩm hàng hoá...
2. Các phương thức tiêu thụ hàng hoá.
Muốn tiêu thụ được sản phẩm của mình trong cơ chế thị trường hiện nay doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã mặt hàng, đồng thời phải đẩy mạnh chiến lược Maketing của mình. Mặt khác, việc lựa chọn và áp dụng linh hoạt các phương thức bán hàng cũng góp phần không nhỏ vào mức độ hoàn thành kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thường sử dụng các phương thức bán hàng sau:
* Phương thức bán buôn vận chuyển thẳng:
Theo phương thức này, hàng hoá bán cho bên mua được giao thẳng từ kho của bên cung cấp hoặc giao thẳng từ nhà ga, bến cảng… mà không qua kho của doanh nghiệp bán buôn. Trong phương thức này được thực hiện bằng 2 hình thức:
- Hình thức bán buôn vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán: Doanh nghiệp bán buôn và tiến hành thanh toán với bên cung cấp về việc mua hàng đồng thời vừa tiến hành thanh toán với bên mua về bán hàng nghĩa là đồng thời phát sinh cả nghiệp vụ mua hàng và cả nghiệp vụ bán hàng ở đơn vị bán buôn. Chứng từ bán hàng là hoá đơn bán hàng do đơn vị bán buôn lập. Một liên của chứng từ gửi theo hàng cùng với vận đơn cho bên mua, hai liên gửi về phòng kế toán để làm thủ tục thanh toán tiền bán hàng tuỳ theo hợp đồng giữa các bên, nếu hàng giao thẳng do đơn vị bán buôn chuyển cho bên mua bằng phương tiện vận tải của mình hoặc thuê ngoài thì số hàng này vẫn thuộc quyền sở hữu của đơn vị bán buôn và chỉ chuyển quyền sở hữu khi bên mua đã trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền. Còn bên mua đến nhận hàng trực tiếp khi giao hàng xong thì số hàng này được coi là tiêu thụ.
- Hình thức bán buôn vận chuyển thẳng không tham gia thanh toán, đơn vị bán buôn là “người” trung gian giữa bên cung cấp với bên mua, khi đó đơn vị bán buôn uỷ nhiệm cho bên mua trực tiếp nhận hàng và làm thủ tục thanh toán tiền mua hàng với bên cung cấp. Theo hình thức này đơn vị bán buôn không phát sinh các nghiệp vụ về mua bán hàng mà chỉ được hưởng thủ tục phí do bên cung cấp hoặc bên mua trả.
* Bán buôn hàng qua kho: Là bán buôn hàng hoá mà hàng hoá được xuất phát ra từ kho bảo quản của doanh nghiệp, theo phương thức này gồm 2 hình thức sau:
- Theo hình thức giao hàng trực tiếp tại kho thì bên mua căn cứ vào hợp đồng đã ký kết uỷ nhiệm người của đơn vị mình trực tiếp đến nhận hàng tại kho của đơn vị bán buôn. Chứng từ bán hàng là” Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho”. Một liên của chứng từ giao cho người nhận hàng, hai liên gửi về phòng kế toán làm thủ tục thanh toán tiền bán hàng. Số hàng đã giao nhận xong được gọi là tiêu thụ.
- Theo hình thức chuyển hàng chuyển đi cho người mua, đơn vị bán buôn căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã ký kết với bên mua tiến hành chuyển hàng cho bên mua bằng phương tiện vận chuyển tự có hoặc thuê ngoài. Số hàng gửi đi vẫn thuộc quyền sở hữu của đơn vị bán buôn, chỉ khi nào đơn vị bán buôn nhận được tiền bán hàng hoặc bên mua xác nhận đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán mới được coi là tiêu thụ.
* Bán hàng theo phương thức gửi hàng đại lý, ký gửi: Bên bán xuất giao cho các đơn vị, cá nhân làm đại lý. Số hàng gửi giao cho đại lý vẫn thuộc quyền sở hữu của đơn vị, chỉ khi nào nhận thông báo của các đại lý thì số hàng gửi đại lý mới chính thức coi là tiêu thụ.
* Phương thức bán lẻ: Bán lẻ là hình thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng, hàng hoá sẽ không tham gia vào quá trình lưu thông, thực hiện hoàn toàn giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá. Theo phương thức này có các hình thức sau:
- Phương thức bán hàng thu tiền trực tiếp: Người bán hàng trực tiếp thu tiền của người mua hàng và giao hàng cho khách hàng. Hết ca, hết ngày bán hàng, nhân viên bán hàng phải nộp tiền cho thủ quỹ và lấy giấy nộp tiền bán hàng sau đó kiểm kê hàng tồn quầy để xác định số lượng hàng đã bán ra trong ngày và lập báo cáo bán hàng.
- Phương thức bán hàng thu tiền tập trung: là phương thức bán hàng mà nghiệp vụ giao hàng và thu tiền bán hàng là tách rời nhau. ở quầy hàng có nhân viên thực hiện viết hoá đơn bán hàng giao cho người mua hàng đồng thời thu tiền bán hàng của người mua hàng. Người mua hàng mang hoá đơn bán hàng vừa nhận đến nhận hàng ở quầy hàng và trả hoá đơn cho người bán hàng. Hết ca, hết ngày nhân viên bán hàng căn cứ vào hoá đơn hay kiểm kê hàng hoá tồn quầy để xác định số lượng hàng hoá bán trong ngày, trong ca và lập báo cáo bán hàng.
*Phương thức bán hàng trả góp: Bán hàng trả góp là việc bán hàng thu tiền nhiều lần. Sản phẩm hàng hoá khi giao cho người mua thì được coi là tiêu thụ, người mua sẽ thanh toán lần đầu ngay tại thời điểm mua một phần, số tiền thanh toán chậm phải chịu một tỷ lệ lãi nhất định .
* Phương thức hàng đổi hàng: Để thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời giải quyết lượng hàng tồn kho, các doanh nghiệp có thể đổi sản phẩm hàng hóa của mình để nhận các loại sản phẩm khác, sản phẩm khi bàn giao cho khách hàng chính thức gọi là tiêu thụ.
Tóm lại, khi mà nền kinh tế càng phát triển thì càng xuất hiện nhiều phương thức tiêu thụ khác nhau mỗi phương thức đều có ưu và nhược điểm của nó. Do đó, mỗi doanh nghiệp căn cứ vào đặc điểm hàng hoá, quy mô, vị trí của doanh nghiệp mà lựa chon cho mình những phương thức tiêu thụ hợp lý, sao cho chi phí thấp nhất mà vẫn đạt hiệu quả tối ưu.
3. ý nghĩa của việc tiêu thụ hàng hoá.
Tiêu thụ hàng hoá có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mọi doanh nghiệp nói riêng cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung.
Đối với nền kinh tế quốc dân, tiêu thụ hàng hoá đảm bảo cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, cân đối tiền - hàng trong lưu thông cũng như cân đối giữa các ngành, các khu vực. Thông qua hoạt động tiêu thụ nhu cầu của người tiêu dùng về một giá trị sử dụng nhất định được thỏa mãn và giá trị hàng hoá được thực hiện. Bên cạnh chức năng điều hoà cung cầu trên thị trường, tiêu thụ còn góp phần quan trọng việc tạo ra luồng tiền - hàng chu chuyển liên tục trong nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy các quan hệ thanh toán trong phạm vi doanh nghiệp, nghành kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế.
Đối với mỗi doanh nghiệp, tiêu thụ là một quá trình có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trên thị trường. Hàng hoá mua về không tiêu thụ được sẽ làm cho tiền vốn của doanh nghiệp không được quay vòng sinh lợi, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và thu nhập của người lao động. Và nếu tình trạng đó kéo dài liên tục thì doanh nghiệp không tránh khỏi sự phá sản. Nếu việc tiêu thụ được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả thì doanh nghiệp có thể sớm đưa vốn trở lại để tiếp tục đầu tư mua hàng hoá, phát huy được hiệu quả của đồng vốn, tăng khả năng nắm bắt những cơ hội của thị trường từ đó khả năng tối đa hoá lợi nhuận cũng được nâng cao.
II. Vai trò và nhiêm vụ của kế toán tiêu thụ hàng hoá.
1. Vai trò của kế toán tiêu thụ hàng hoá.
Kế toán là một công cụ quản lý tích cực nhất trong mỗi doanh nghiệp. Cũng như mọi khâu khác, việc tổ chức công tác kế toán bán hàng, kế toán xác định kết quả kinh doanh hàng hoá có một vai trò đặc biệt quan trọng. Thật vậy chỉ có thể dựa vào thông tin kế toán cung cấp mới đảm bảo tính chất trung thực, đáng tin cậy của các số liệu phản ánh về tình hình thực hiện kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời nó phản ánh một đầy đủ kịp thời tình hình nhập xuất tồn kho hàng hoá, số hàng hoá gửi bán, số hàng hoá tiêu thụ, số hàng hoá bị trả lại do kém phẩm chất, số hao hụt mất mát thông quá trình bảo quản vận chuyển ...Từ đó có biện pháp quản lý cụ thể, đạt hiệu quả cao.
Đưa hàng hoá vào trong lưu thông, phục vụ nhu cầu tiêu dùng của mọi khách hàng là mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Tổ chức tốt công tác kế toán tiêu thụ hàng hoá sẽ tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển, từng bước đưa công tác hoạch toán kế toán vào nề nếp hạn chế các trường hợp thất thoát hàng hoá, phát hiện kịp thời loại hàng hoá luân chuyển chậm. Từ đó có ý kiến đề xuất với lãnh đạo doanh nghiệp để thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn, tổ chức tốt công tác kế toán bán hàng, kế toán xác định kết quả kinh doanh một cách khoa học hợp lý với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc thu nhận xử lý và cung cấp thông tin cho chủ doanh nghiệp, giai đoạn điều hành, các cơ quan chủ quản, quản lý tài chính thuế ...để lựa chọn phương án kinh doanh có hiệu quả, giám sát việc chấp hành chính sách, chế độ tài chính của nhà nước.
2. Nhiệm vụ cuả kế toán tiêu thụ hàng hoá.
Với tư cách là một khâu trọng yếu trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tiêu thụ hàng hoá cần được theo dõi và giám sát chặt chẽ. Bên cạnh các biện pháp về hàng hoá và thị trường, kế toán là một công cụ tất yếu và có hiệu quả nhất mà các nhà quản trị cần phải sử dụng trong quá trình tổ chức tiêu thụ hàng hoá. Để đảm bảo là công cụ sắc bén, có hiệu lực trong công tác quản lý kinh tế và quản lý doanh nghiệp, kế toán tiêu thụ hàng hoá cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Ghi chép đầy đủ, kịp thời khối lượng thành phẩm hàng hoá dịch vụ bán ra và tiêu thụ nội bộ tính toán đúng giá trị vốn của hàng hoá đã bán, chi phí bán hàng và các chi phí khác nhằm xác định đúng đắn kết quả bán hàng.
- Kiểm tra giám sát tiến độ thực hiện kế hoạch bán hàng, kế hoạch lợi nhuận, phân phối lợi nhuận, kỷ luật thanh toán và làm nghĩa vụ đối với nhà nước.
- Cung cấp thông tin chính xác, trung thực và đầy đủ về tình hình bán hàng xác định kết quả và phân phối kết quả phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính quản lý doanh nghiệp.
B. Hạch toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá trong các Doanh nghiệp
Việc hạch toán chi tiết tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ trong Doanh nghiệp được thực hiện trên các căn cứ sau đây:
- Căn cứ vào loại hình, tính chất kinh doanh của Doanh nghiệp để xác định đối tượng chi tiết. Tuỳ theo tình hình thực tế tại mỗi Doanh nghiệp mà đối tượng hạch toán chi phí có thể là từng loại sản phẩm, hàng hoá hay kho hàng, quầy hàng.
- Căn cứ vào tính trọng yếu của mỗi loại hoạt động, mỗi loại hàng hoá đối với vấn đề kinh doanh của Doanh nghiệp.
- Căn cứ vào khả năng kế toán thực tế của Doanh nghiệp.
Để tiến hành hạch toán chi tiết quá trình tiêu thụ kế toán căn cứ vào các loại chứng từ cơ bản sau:
- Phiếu xuất kho.
- Hoá đơn bán hàng.
- Hoá đơn kiểm soát xuất nhập khẩu.
- Hoá đơn GTGT.
Công tác hạch toán chi tiết tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả kinh doanh hàng hoá có nghiệp vụ theo dõi chặt chẽ tình hình tiêu thụ đối với các đối tượng hạch toán chi tiết đã chọn. Đồng thời còn cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời về quá trình tiêu thụ của các đối tượng chi tiết (hàng hoá, kho hàng, quầy hàng ..) nhằm phục vụ cho công tác quản lý của Doanh nghiệp, tính toán chính xác kết quả tiêu thụ của từng đối tượng chi tiết, đánh giá đúng hiệu quả tiêu thụ đối với từng đối tượng cụ thể, từ đó có thể điều chỉnh sao cho hợp lý.
I. Kế toán tiêu thụ hàng hoá theo phương pháp kê khai thường xuyên.
1. Thời điểm ghi nhận doanh thu bán hàng.
Tiêu thụ hàng hoá thực chất là sự kết hợp chặt chẽ của hai mặt: xuất hàng cho người mua và thực hiện thanh toán với người mua. Trong đó giao hàng và thanh toán không nhất thiết phải được thực hiện cùng một lúc. Những sản phẩm, hàng hoá doanh nghiệp đã gửi cho người mua về phương diện pháp lý vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và khi đó kế toán cũng chưa được phép ghi nhận doanh thu tiêu thụ. Theo chế độ kế toán Việt Nam cũng như chuẩn mực kế toán Quốc tế sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp chỉ được coi là tiêu thụ khi đã được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán và lúc đó kế toán mới được phép ghi nhận doanh thu tiêu thụ của số hàng xuất bán.
* Theo Hệ thống chuẩn mực Kế toán Việt Nam - Chuẩn mực số 14 “Doanh thu và thu nhập khác” thì doanh thu bán hàng được ghi nhận khi đồng thời thoả mãn tất cả 05 điều kiện sau:
@. Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu sản phẩm hoặc hàng hoá cho người mua.
@. Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hoá như người sở hữu hàng hoá hoặc chuyển quyền kiểm soát hàng hoá.
@. Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn.
@. Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng.
@. Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.
Có thể nói, xác định thời điểm ghi nhận doanh thu tiêu thụ là căn cứ quan trọng cho việc tính toán chính xác kết quả tiêu thụ trong kỳ kế toán của doanh nghiệp và phản ánh trung thực tình hình tài chính của doanh nghiệp trong các báo cáo kế toán.
2. Tài khoản sử dụng.
Kế toán tiêu thụ sử dụng các TK sau:
*TK156 Hàng hoá : TK này phản ánh tình hình tăng, giảm hàng hóa trong các Doanh nghiệp thương mại, dịch vụ và những cơ sở sản xuất có tổ chức hoạt động kinh doanh hàng hoá.
Kết cấu TK156:
Bên nợ ghi : + Trị giá vốn thực tế của hàng hoá nhập kho.
+ Số điều chỉnh tăng do đánh giá lại.
+ Kết chuyển trị giá vốn thực tế của hàng hoá tồn kho cuối kỳ. Từ TK 611 sang (phương pháp kiểm kê định kỳ)
Bên có ghi: + Trị giá vốn thực tế của hàng hoá xuất kho.
+ Số điều chỉnh giảm khi tăng giá.
+ Kết chuyển trị giá vốn thực tế của hàng hoá tồn kho đầu kỳ sang TK 611 (phương pháp kiểm kê định kỳ)
Số dư nợ: phản ánh trị giá vốn thực tế của hàng hoá tồn kho cuối kỳ
TK 156 Hàng hoá: Gồm 2 tài khoản cấp hai
- TK 1561: Trị giá mua hàng hoá.
- TK 1562: Chi phí mua hàng hoá.
*TK 157 Hàng gửi đi bán: Tài khoản này phản ánh số hiện có và tình hình biến động của trị giá vốn hay giá thành của hàng hoá, thành phẩm gửi bán. Số hàng này chưa được xác định là bán.
Kết cấu TK 157:
Bên nợ ghi:
+ Trị giá vốn thực tế của hàng hoá, thành phẩm gửi bán ký gửi.
+ Trị giá lao vụ, dịch vụ đã thực hiện với khách hàng nhưng chưa được chấp nhận thanh toán.
+ Kết chuyển trị giá vốn thực tế của hàng hoá, thành phẩm gửi bán chưa được khách hàng chấp nhận thanh toán cuối kỳ (phương pháp kiểm kê định kỳ).
Bên có ghi:
+ Trị giá vốn thực tế của hàng hoá, thành phẩm dịch vụ gửi bán đã được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán.
+ Trị giá hàng hoá, thành phẩm dịch vụ khách hàng trả lại hoặc không chấp nhận thanh toán.
+ Kết chuyển trị giá thành phẩm hàng hoá đã gửi đi chưa được khách hàng thanh toán đầu kỳ.
Số dư nợ: phản ánh trị giá thành phẩm, hàng hoá gửi đi bán chưa được khách hàng chấp nhận thanh toán.
*TK 632: Giá vốn hàng bán.
Bên nợ ghi:
+Trị giá vốn thực tế của hàng hoá thành phẩm xuất kho đã xác định là bán.
+ Trị giá vốn của thành phẩm tồn kho đầu kỳ (phương pháp kiểm kê định kỳ ở doanh nghiệp sản xuất).
+ Trị giá vốn thực tế của thành phẩm sản xuất xong nhập kho và lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành (phương pháp kiểm kê định kỳ ở doanh nghiệp sản xuất).
+ Thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ phải tính vào giá vốn hàng bán.
Bên có ghi:
+ Kết chuyển trị giá vốn thực tế của thành phẩm hàng hoá, lao vụ dịch vụ hoàn thành vào bên Nợ TK 911: Xác định kết quả kinh doanh.
+ Kết chuyển trị giá vốn của thành phẩm tồn kho cuối kỳ vào bên Nợ TK 155: Thành phẩm (phương pháp kiểm kê định kỳ ở doanh nghiệp sản xuất).
Sau khi kết chuyển tài khoản này không có số dư.
* TK 911: Xác định kết quả.
Dùng để xác định kết quả từng hoạt động (hoạt động sản xuất kinh doanh , hoạt động tài chính , hoạt động bất thường).
Bên nợ ghi :
+ Giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ.
+ Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
+ Kết chuyển kết quả tiêu thụ (lãi)
Bên có ghi:
+ Kết chuyển doanh thu thuần về tiêu thụ
+ Kết chuyển kết quả tiêu thụ (lỗ)
3. Hạch toán tổng hợp tiêu thụ hàng hoá theo các phương thức tiêu thụ.
Phương thức bán hàng có ảnh hưởng trực tiếp đối với việc sử dụng các tài khoản kế toán, phản ánh tình hình xuất kho thành phẩm, hàng hoá. Đồng thời có tính quyết định đối với việc xác định thời điểm bán hàng, tình hình doanh thu bán hàng và tiết kiệm chi phí bán hàng để tăng lợi nhuận.
Sau đây chúng ta xem xét trình tự hạch toán một số phương thức tiêu thụ cụ thể:
3.1. Phương thức bán hàng trực tiếp:
Căn cứ vào hợp đồng mua bán đã ký kết, bên mua cử cán bộ đến nhận hàng tại kho của doanh nghiệp. Khi nhận hàng xong, người nhận hàng ký vào hoá đơn bán hàng xác nhận và hàng đó được xác định là tiêu thụ và hạch toán vào doanh thu.
Sơ đồ 1:
(3)
TK 911
TK155, 156 TK 632 TK521,531,532 TK111,112,131
(1) (7)
TK 511
TK 641 (4) (2)
(8)
TK 333
(5)
TK 642
(9)
(6)
TK 421
(10a)
(10b)
Xuất kho bán hàng trực tiếp.
Doanh thu của hàng bán trực tiếp.
Các khoản giảm giá cho khách hàng.
Kết chuyển các khoản giảm giá.
Thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp.
Kết chuyển doanh thu thuần của số hàng bán trực tiếp.
Kết chuyển giá vốn hàng bán.
Phân bổ chi phí bán hàng.
Phân bổ chi phí quản lý doanh nghiệp.
10a. Kết chuyển chênh lệch thu lớn hơn chi (lãi).
10b. Kết chuyển chênh lệch thu nhỏ hơn chi (lỗ).
3.2. Phương thức hàng gửi bán:
Theo phương thức này bên bán gửi hàng cho bên mua theo các điều kiện ghi trong hợp đồng. Số hàng chuyển đi vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, chỉ khi nào khách hàng thanh toán hoặc đã chấp nhận thanh toán cho số hàng trên thì số hàng gửi đi mới được coi là tiêu thụ và bên bán mất quyền sở hữu số hàng đó.
Sơ đồ 2:
TK 911
TK155,156 TK 157 TK 632 TK 511 TK111,112,131
(1) (2.1) (4) (3) (2.2)
TK 333(1)
Trị giá vốn hàng gửi bán.
2.1. Trị giá vốn thực tế hàng gửi đã bán.
2.2. Doanh thu của hàng gửi bán đã bán được chấp nhận thanh toán.
3. Kết chuyển giá vốn hàng bán.
4. Kết chuyển doanh thu thuần.
3.3. Phương thức bán hàng trả góp:
Giá bán theo phương thức này bao giờ cũng cao hơn giá bán thông thường, được hạch toán vào thu nhập hoạt động tài chính vì đó là tiền lãi do khoản trả chậm, trả nhiều lần.
Sơ đồ 3:
TK 911
TK 155,156 TK 632 TK 511 TK 111, 112, 131
(1) (5) (4) (2) (2a)
TK 333(1)
(3)
TK 711
(2b)
Xuất hàng bán trả góp.
Doanh thu hàng bán thông thường.
2a. Thu tiền hàng.
2b. Giá bán giá vốn thông thường.
Nộp thuế.
Kết chuyển doanh thu thuần.
Kết chuyển giá vốn hàng bán.
3.4. Phương thức bán lẻ:
Phương thức này áp dụng đối với các cửa hàng quầy bán lẻ thành phẩm. Bán lẻ sản phẩm là việc bán lẻ trực tiếp cho người tiêu dùng, giao hàng và thu tiền ngay của khách hàng. Đồng thời doanh nghiệp xác định doanh thu bán hàng.
3.5. Phương thức bán hàng nội bộ:
Bán hàng nội bộ là việc mua bán sản phẩm hàng hoá lao vụ, dịch vụ, giữa đơn vị chính với các đơn vị trực thuộc, hay giữa các đơn vị trực thuộc với nhau trong cùng một công ty, tổng công ty, tập đoàn, xí nghiệp…. Ngoài ra, còn bao gồm các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ xuất biếu tặng, xuất trả lương, thưởng xuất dùng cho sản xuất kinh doanh.
Bán hàng nội bộ giữa các đơn vị thành viên về nguyên tắc giá bán được tính theo các hàng hoá tương ứng bán trên thị trường.
Sơ đồ 4:
TK 911
TK 155, 156 TK 632 TK 512 TK 641, 642
(1) (4) (3) (2)
TK 331(1)
Trị giá vốn thực tế của hàng bán nội bộ.
Doanh thu tiêu thụ nội bộ.
Kết chuyển doanh thu bán hàng nội bộ.
Kết chuyển trị giá vốn hàng bán nội bộ.
3.6. Phương thức gửi hàng.
- Căn cứ vào phiếu xuất kho gửi thành phẩm, hàng hoá đi bán hoặc gửi các đại lý nhờ bán hộ, kế toán ghi:
Nợ TK 157: Hàng gửi đi bán.
Có TK 156: Hàng hoá.
- Trường hợp Doanh nghiệp thương mại mua hàng gửi đi bán ngay không nhập kho, kế toán ghi:
Nợ TK 157: Hàng gửi đi bán.
Có TK 331: Phải trả cho người bán.
- Căn cứ vào giấy thông báo chấp nhận thanh toán hoặc các chứng từ thanh toán tiền của khách hàng, của cơ sở đại lý bán hộ và các chứng từ thanh toán khác, kế toán kết chuyển trị giá vốn của số hàng đã bán sang bên Nợ TK 632: Giá vốn hàng bán.
Nợ TK 632: Giá vốn hàng bán.
Có TK 157: Hàng gửi đi bán.
- Hàng hoá đã gửi đi hoặc dịch vụ đã thực hiện, khách hàng không chấp nhận, kế toán phản ánh nghiệp vụ nhập lại kho.
Nợ TK 156: Hàng hoá.
Có TK 157: Hàng gửi đi bán.
Sơ đồ 5:
TK155, 156 TK 157 TK 632
XKTP, hàng hoá gửi Kết chuyển trị giá vốn
đi bán Hàng đã bán
TK 331
TK 155,156
Hàng hoá mua bán thẳng Hàng gửi đi không
được chấp nhận
3.7. Phương pháp kế toán xuất kho hàng hoá, phành phẩm để bán theo phương thức bán hàng trực tiếp.
- Căn cứ vào phiếu xuất kho, giao hàng trực tiếp cho khách hàng, kế toán ghi:
Nợ TK 632: Giá vốn hàng bán.
Có TK 155: Thành phẩm.
Có TK 156: Hàng hoá.
- Trường hợp doanh nghiệp thương mại dịch vụ mua bán hàng giao tay ba, kế toán ghi:
Nợ TK 632: Giá vốn hàng bán.
Có TK 331: Phải trả cho người bán.
- Trường hợp doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hoàn thành nhưng không nhập kho mà chuyển bán ngay, kế toán ghi:
Nợ TK 632: Giá vốn hàng bán.
Có TK 154: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang.
- Cuối kỳ kết chuyển trị giá vốn hàng xuất kho đã bán vào bên Nợ TK 911: Xác định kết quả kinh doanh, kế toán ghi:
Nợ TK 911: Xác định kết quả kinh doanh.
Có TK 632: Giá vốn hàng bán.
- Ngoài ra, các trường hợp bán lẻ hàng hoá, bán hàng trả góp cũng sử dụng TK632: Giá vốn hàng bán để phản ánh tình hình giá vốn của hàng xuất kho đã bán
II. Kế toán tiêu thụ hàng hoá theo phương pháp kiểm kê định kỳ.
Kiểm kê định kỳ là một phương pháp hạch toán hàng tồn kho mà giá vốn của hàng xuất kho được xác định vào cuối kỳ căn cứ vào kết quả kiểm kê theo công thức:
Trị giá hàng Trị giá hàng hoá Trị giá hàng hoá Trị giá hàng hoá
hoá xuất kho = nhập trong kỳ + tồn kho đầu kỳ - tồn kho cuối kỳ
Khi áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên, các tài khoản kế toán hàng tồn kho chỉ sử dụng ở đầu kỳ kế toán (để kết chuyển số dư đầu kỳ và cuối kỳ) kế toán phản ánh trị giá thực tế hàng tồn kho cuối kỳ. Công tác kiểm kê hàng hoá được tiến hành vào cuối kỳ kế toán để xác định giá trị hàng hoá tồn kho thực tế. Từ đó tính được trị giá hàng hoá xuất kho trong kỳ làm căn cứ ghi sổ kế toán của TK 611.
Phương pháp này thường được áp dụng ở các đơn vị kinh doanh có nhiều chủng loại hàng hoá với quy cách, mẫu mã khác nhau, giá trị thấp, hàng hoá xuất dùng hoặc xuất bán thường xuyên.
Quy trình hạch toán tiêu thụ hàng hoá trong các đơn vị kinh doanh thương mại theo phương pháp kiểm kê định kỳ thì kế toán doanh nghiệp giống như phương pháp kê khai thường xuyên và chỉ khác phương pháp kê khai thường xuyên kế toán hàng tồn kho.
- Kế toán kết chuyển trị giá của hàng hoá tồn đầu kỳ.
Nợ TK 611(6112): Mua hàng.
Có TK 151: Hàng mua đang đi đường.
Có TK 156: Hàng hoá.
Có TK 157: Hàng gửi đi bán.
- Đối với hàng hoá mua vào trong kỳ.
Nợ TK 611(6112): Mua hàng.
Nợ TK133: Thuế GTGT đầu vào.
Có TK 111, 112: Tiền mặt, TGNH.
Có TK 331: Phải trả cho người bán.
- Kết chuyển trị giá hàng hoá tồn kho cuối kỳ.
Nợ TK 151: Hàng mua đang đi đường.
Nợ TK 156: Hàng hoá.
Nợ TK 157: Hàng gửi đi bán.
Có TK 611(6112): Mua hàng.
- Cuối kỳ, tiến hành kiểm kê để tính ra trị giá hàng hoá xuất bán được xác định là tiêu thụ trong kỳ.
Nợ TK 632: Giá vốn hàng bán.
Có Tk 611: Mua hàng.
Kết chuyển hàng tồn kho cuối kỳ:
Sơ đồ 6:
TK151,156,157 TK 611 TK 632 TK 911 TK 511 TK 131, 111
K/c hàng tồn kho
đầu kỳ Trị giá hàng K/c giá vốn K/c DT Doanh thu
xuất bán Hàng bán thuần bán hàng
TK111,112,331
Trị giá hàng mua
trong kỳ
TK 133 TK:33311 Thuế GTGT Thuế GTGT
đầu vào đầu ra
III. Hạch toán dự phòng phải thu khó đòi.
1. Khái niệm.
Phải thu khó đòi là các khoản phải thu mà vì một lý nào đó khách nợ không có khả năng trả nợ (thanh toán) đúng kỳ hạn, đầy đủ (như khách nợ bị phá sản, thiên tai...) trong năm kế hoạch.
Lập dự phòng phải thu khó đòi là việc đơn vị tính trước vào chi phí doanh nghiệp một khoản chi để khi có các khoản nợ khó đòi, không đòi được thì tình hình tài chính của đơn vị không bị ảnh hưởng.
Việc lập dự phòng phải thu khó đòi được thực hiện vào cuối niên độ kế toán trước khi lập báo cáo tài chính như các khoản dự phòng khác. Mức lập dự phòng đối với nợ phải thu khó đòi và việc xử lý xoá nợ khó đòi phải theo quy định của chế độ tài chính doanh nghiệp.
2. Tài khoản sử dụng
Kế toán sử dụng tài khoản 139 - Dự phòng phải thu khó đòi.
Kết cấu TK 139:
Bên nợ ghi:
+Các khoản phải thu khó đòi xử lý.
+Xoá nợ: Hoàn nhập dự phòng cuối kỳ.
Bên có ghi:
+Trích lập dự phòng phải thu khó đòi tính vào chi phí.
Số dư có: Dự phòng phải thu khó đòi còn lại cuối kỳ.
Phương pháp kế toán các nghiệp vụ liên quan đến dự phòng phải thu khó đòi:
- Vào cuối niên độ kế toán, so sánh số dự phòng năm cũ còn lại với số dự phòng cần lập cho liên độ kế toán tới, nếu số dự phòng còn lại lớn hơn số dự phòng cần lập cho niên độ kế toán mới, kế toán tiến hành hoàn nhập số chênh lệch lớn hơn bằng cách ghi giảm chi phí quản lý doanh nghiệp:
Nợ TK 139: Số dự phòng hoàn nhập.
Có TK 642(6426): Ghi giảm chi phí quản lý doanh nghiệp.
- Căn cứ vào mức độ dự phòng phải thu khó đòi, kế toán ghi:
Nợ TK 642(6426): Ghi tăng chi phí quản lý doanh nghiệp.
Có TK 139: Trích lập bổ sung dự phòng phải thu khó đòi.
- Trong niên độ kế toán tiếp theo, khi thu hồi hay xoá sổ các khoản phả._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32434.doc