Nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã đem lại những biến chuyển tích cực cho tất cả các thành phần kinh tế, nền kinh tế này không những khuyến khích các thành phần kinh tế tăng trưởng và phát triển, thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước, tạo công ăn việc làm, ... mà còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực. Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp đã thực hiện hạch toán
98 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác Kế toán tập hợp chi phí sửa chữa & tính giá thành dịch vụ sửa chữa ở Công ty Cổ phần vận tải ô tô Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế độc lập, do đó mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp là bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh đồng thời có lợi nhuận. Với đặc điểm của nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp muốn tìm được cho mình chỗ đứng vững chắc trên thị trường thì phải luôn cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp khác. Lúc này, sản phẩm với chất lượng tốt là chìa khoá cho các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, tăng nhanh vòng quay vốn, đem lại nhiều lợi nhuận từ đó tích luỹ cho doanh nghiệp và nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên. Do đó, để có thể điều hành và chỉ đạo sản xuất kinh doanh trong điều kiện cơ chế thị trường, các doanh nghiệp bên cạnh việc tăng cường đổi mới công nghệ sản xuất, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm thì công tác quản lý sản xuất, quản lý kinh tế đảm bảo thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh là một yêu cầu cấp bách không kém phần quan trọng. Điều này buộc các doanh nghiệp phải tự nghiên cứu và tìm cho mình con đường đi để tồn tại và phát triển. Đứng trước yêu cầu cấp bách đó, mỗi doanh nghiệp khi lựa chọn bất kỳ một phương án kinh doanh nào cũng phải đặt vấn đề hiệu quả lên hàng đầu, tức là đạt được lợi nhuận cao nhất. Đó là một yêu cầu bức xúc đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào và để thực hiện được yêu cầu đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có các biện pháp quản lý chặt chẽ việc sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn tức là phải quản lý chặt chẽ các chi phí sản xuất từ đó tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm.
Như vậy, công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm luôn giữ vai trò quan trọng trong công tác quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp. Công tác này cung cấp các thông tin về chi phí sản xuất, giúp các nhà lãnh đạo có thể phân tích được và ra các quyết định quản trị kịp thời.
Nhận thức được tầm quan trọng này và với mong muốn tìm ra những biện pháp cụ thể, góp phần nhỏ bé vào vấn đề chi phí sản xuất công nghiệp sửa chữa và giá thành dịch vụ sửa chữa - vấn đề đang được quan tâm hiện nay ở khối công nghiệp của công ty, trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Nguyễn Quốc Trung - Khoa kế toán trường Đại học Kinh tế Quốc dân, cùng các cô, các bác cán bộ của phòng tài vụ công ty cũng như cán bộ Xí nghiệp bảo dưỡng ô tô, em đã chọn đề tài " Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa ở công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định " để viết luận văn tốt nghiệp của mình. Tuy nhiên, nội dung đề tài rộng lớn, trình độ còn hạn chế, thời gian tìm hiểu thực tế có hạn nên luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót. Do đó, em rất mong nhận được sự góp ý chỉ bảo thêm của thầy giáo Nguyễn Quốc Trung cũng như các cán bộ kế toán của công ty để bài làm của em được hoàn thiện hơn nữa.
Bố cục của luận văn gồm ba phần:
Phần I: Lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất.
Phần II: Thực trạng công tác kế toán tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa ở Xí nghiệp bảo dưỡng ô tô của công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định.
Phần III: Phương hướng hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa tại Xí nghiệp bảo dưỡng ô tô của Công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định.
phần I
Lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất
I) Những vấn đề chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
1) Chi phí sản xuất
1.1) Khái niệm:
Một trong những thông tin quan trọng đối với các nhà quản lý doanh nghiệp là các thông tin về chi phí, vì mỗi khi chi phí tăng thêm sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận. Để quản lý được chi phí cần thiết phải làm rõ các cách phân loại chi phí khác nhau trong kế toán quản trị, vì mỗi cách phân loại chi phí đều cung cấp những thông tin ở những góc độ khác nhau cho các nhà quản trị ra các quyết định thích hợp.
Trong kế toán tài chính, chi phí được định nghĩa như là một khoản hao phí bỏ ra để thu được một số sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó. Bản chất của chi phí phải mất đi để đổi lấy một khoản thu về.
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác, quá trình sản xuất là quá trình kết hợp giữa sức lao động với tư liệu lao động và đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm.
Như vậy, chi phí sản xuất là toàn bộ chi phí có liên quan đến việc chế tạo sản phẩm trong một kỳ nhất định. Còn chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. Nói cách khác, chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một thời kỳ để thực hiện quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Thực chất chi phí là sự dịch chuyển vốn - chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá.
Chi phí sản xuất gồm 3 khoản mục chi phí sau:
ỉChi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là chi phí của những loại nguyên vật liệu cấu thành thực thể của sản phẩm, có giá trị lớn và có thê xác định được một cách tách biệt, rõ ràng và cụ thể cho từng sản phẩm.
ỉChi phí lao động trực tiếp: Là chi phí tiền lương của những lao động trực tiếp chế tạo sản phẩm.
ỉChi phí sản xuất chung: Là những chi phí cần thiết khác để sản xuất sản phẩm, ngoài chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí lao động trực tiếp. Chi phí sản xuất chung chủ yếu bao gồm 3 loại chi phí:
- Chi phí nguyên vật liệu gián tiếp: Là những yếu tố vật chất không tạo nên thành phần chính của sản phẩm.
- Chi phí lao động gián tiếp: Là các chi phí tiền lương của tất cả các lao động gián tiếp.
- Chi phí phân xưởng khác: Nhóm này gồm các chi phí cần thiết khác để vận hành phân xưởng.
Một doanh nghiệp sản xuất ngoài những hoạt động có liên quan đến hoạt động sản xuất ra sản phẩm, lao vụ, dịch vụ, còn có các hoạt động kinh doanh và hoạt động khác không có tính sản xuất như hoạt động bán hàng, hoạt động quản lý doanh nghiệp, hoạt động tài chính, hoạt động bất thường, hoạt động mang tính chất sự nghiệp,... và chỉ những chi phí có liên quan đến các hoạt động sản xuất mới được coi là chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, nhưng để phục vụ cho việc quản lý và hạch toán kinh doanh, chi phí sản xuất phải được tính toán, tập hợp theo từng thời kỳ (tháng, quý, năm) phù hợp với kỳ báo cáo. Chỉ những chi phí sản xuất mà doanh nghiệp bỏ ra trong kỳ mới được tính vào chi phí sản xuất trong kỳ.
Khi tính toán và tập hợp chi phí sản xuất, cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Chi phí của kỳ hạch toán là những hao phí về tài sản và lao động được biểu hiện bằng tiền có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ sản xuất trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tổng chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp (chi mua vật tư, hàng hoá, tài sản cố định,...), chi tiêu cho quá trình sản xuất (chi cho sản xuất chế tạo sản phẩm, thực hiện lao vụ, dịch vụ,...), chi cho quá trình tiêu thụ và quản lý (chi cho bán hàng, quản lý doanh nghiệp,...).
Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Tổng chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng cho quá trình sản xuất trong kỳ đó. Ngoài sự khác nhau về lượng, chi phí và chi tiêu còn khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng chưa được tính vào chi phí (chi mua nguyên vật liệu về nhâp kho chưa đưa vào sử dụng,...) hay có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu (chi phí trích trước). Sở dĩ có sự khác nhau này là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức dịch chuyển giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán chúng.
1.2) Phân loại chi phí sản xuất:
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại có nội dụng kinh tế khác nhau, mục đích và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất cũng khác nhau. Vì vậy, để thuận lợi cho công tác quản lý chi phí sản xuất và kế toán tập hợp chi phí sản xuất cần phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất. Tuỳ vào mục đích và yêu cầu quản lý mà chi phí sản xuất được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, về mặt hạch toán, chi phí sản xuất thường được phân theo các tiêu thức sau:
a) Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung và tính chất kinh tế:
Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu đồng nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh, chi phí được phân theo nội dung và tính chất kinh tế. Theo cách phân loại này, những chi phí sản xuất nào giống nhau về tính chất và nội dung kinh tế thì được xếp vào một yếu tố chi phí, không phân biệt chi phí đó phát sinh ở lĩnh vực hoạt động sản xuất nào, ở đâu và mục đích hoặc tác dụng của chi phí đó là gì. Vì vậy, cách phân loại này còn gọi là phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố. Toàn bộ chi phí sản xuất trong kỳ của doanh nghiệp được chia thành các yếu tố chi phí sau:
- Yếu tố nguyên liệu, vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên, vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ,... sử dụng vào sản xuất - kinh doanh (loại trừ giá trị dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi cùng với nhiên liệu, động lực).
- Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất - kinh doanh trong kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
- Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương: Phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên chức.
- Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải tra công nhân viên chức.
- Yếu tố khấu hao TSCĐ: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất - kinh doanh.
- Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất - kinh doanh.
- Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất - kinh doanh trong kỳ.
Cách phân loại này có tác dụng đối với việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động và cho biết kết cấu tỷ trọng của từng yếu tố chi phí sản xuất để đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí và lập báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố trên Bảng thuyết minh báo cáo tài chính. Ngoài ra, cách phân loại này còn cung cấp thông tin làm cơ sở cho việc lập dự toán chi phí sản xuất cho kỳ sau.
b) Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng của chi phí:
Mỗi chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều có mục đích và công dụng nhất định đối với hoạt động sản xuất. Theo cách phân loại này. những chi phí có cùng mục đích và công dụng, không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào, sẽ tạo thành một khoản mục chi phí. Vì lẽ đó, cách phân loại này còn được gọi là phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục. Toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ tại đơn vị được chia thành các khoản mục sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hoặc thực hiện lao vụ, dịch vụ (không tính vào khoản mục này chi phí nguyên vật liệu sử dụng vào mục đích sản xuất chung và những hoạt động ngoài sản xuất).
- Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm chi phí về tiền lương, phụ cấp lương và tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân trực tiếp sản xuất (không tính vào khoản mục này số tiền lương, phụ cấp lương và tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ của nhân viên quản lý phân xưởng, nhân viên bán hàng và nhân viên quản lý doanh nghiệp).
- Chi phí sản xuất chung: Là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng (trừ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp), chi phí sản xuất chung gồm có:
+Chi phí nhân viên phân xưởng
+Chi phí vật liệu, công cụ, dụng cụ dùng chung cho hoạt động sản xuất của phân xưởng.
+Chi phí khấu hao TSCĐ sử dụng tại phân xưởng.
+Chi phí dịch vụ mua ngoài dùng chung cho phân xưởng.
+Chi phí bằng tiền khác phục vụ cho yêu cầu sản xuất chung ở phân xưởng.
Ngoài ra, để thuận tiện cho việc tính giá thành toàn bộ thì theo quy định hiện hành, giá thành sản phẩm bao gồm năm khoản mục :
- Ba khoản mục nêu trên: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
-Chi phí bán hàng: Là những chi phí mà doạnh nghiệp bỏ ra có liên quan đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ trong kỳ như chi phí nhân viên bán hàng, chi phí dụng cụ bán hàng, chi phí quảng cáo,...
-Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là những khoản chi phí phát sinh có liên quan chung đến toàn bộ hoạt động của cả doanh nghiệp mà không tách riêng ra được cho bất kỳ hoạt động nào, bao gồm chi phí quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và chi phí chung khác.
Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng có tác dụng phục vụ cho yêu cầu quản lý chi phí sản xuất theo định mức, cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành sản phẩm, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm cho kỳ sau.
c) Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm hoàn thành:
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm căn cứ để đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh lại được phân theo quan hệ với khối lượng sản phẩm hoàn thành. Theo cách phân loại này chi phí sản xuất được chia làm hai loại:
- Chi phí khả biến (biến phí): Là những chi phí có sự thay đổi về lượng trong quan hệ tỷ lệ thuận với sự thay đổi của khối lượng sản phẩm (lao vụ, dịch vụ) sản xuất (thực hiện) trong kỳ. Thuộc loại chi phí này có chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp.
- Chi phí cố định (định phí): Là những chi phí không thay đổi kể cả khi có sự thay đổi trong mức độ hoạt động của sản xuất hay khối lượng sản phẩm (lao vụ, dịch vụ) sản xuất (thực hiện) trong kỳ.
Như vậy, chi phí khả biến tính cho một đơn vị sản phẩm, lao vụ, dịch vụ là không đổi nhưng tổng chi phí khả biến thì thay đổi tỷ lệ thuận, còn tổng chi phí cố định thì không đổi nhưng chi phí cố định tính cho một đơn vị sản phẩm, lao vụ, dịch vụ thì biến đổi ngược chiều với khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ.
Cách phân loại này có ý nghĩa rất lớn trong quản trị kinh doanh, giúp xác định được điểm hoà vốn và đưa ra các quyết định có tính chiến lược để hạ thấp giá thành sản phẩm, tăng khối lượng tiêu thụ và tăng hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
d) Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và mối quan hệ với đối tượng chịu chi phí:
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất của doanh nghiệp được chia thành hai loại:
- Chi phí trực tiếp: Là những chi phí sản xuất có liên quan trực tiếp đến việc sản xuất ra một loại sản phẩm hoặc thực hiện một lao vụ, dịch vụ nào đó và có thể tính trực tiếp cho từng đối tượng chịu phí.
- Chi phí gián tiếp: Là nhưng chi phí sản xuất có liên quan đến việc sản xuất nhiều loại sản phẩm, thực hiện nhiều lao vụ, dịch vụ và không thể ghi trực tiếp mà phải phân bổ cho các đối tượng chịu phí theo tiêu thức phù hợp.
2) Giá thành sản phẩm:
2.1) Khái niệm:
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là quá trình tiêu tốn các chi phí sản xuất. Kết thúc quá trình sản xuất, doanh nghiệp thu được các sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành. Các sản phẩm, lao vụ, dịch vụ này được sản xuất ra là để tiêu thụ với mục đích thu được một khoản tiền mà sau khi bù đắp các chi phí sản xuất hình thành nên sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đó doanh nghiệp vẫn có lãi.
Như vậy, giá thành sản phẩm là chi phí sản xuất tính cho một khối lượng sản phẩm hoặc đơn vị sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp đã sản xuất hoàn thành. Hay giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành.
Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, giá thành là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất. Nó còn là căn cứ để xác định mức bù đắp những gì mà doanh nghiệp đã bỏ ra để tạo nên sản phẩm, lao vụ, dịch vụ và là căn cứ để xây dựng, để đánh giá hiệu quả của các biện pháp kinh tế kỹ thuật doanh nghiệp áp dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng được phản ánh qua chỉ tiêu giá thành sản phẩm.
2.2) Phân loại giá thành sản phẩm :
Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế toán hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Nhưng có hai cách phân loại giá thành chủ yếu sau:
a) Phân theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành:
Theo cách phân loại này, giá thành được chia làm ba loại:
- Giá thành kế hoạch:
Giá thành kế hoạch là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính toán giá thành kế hoạch được tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm và do bộ phận kế hoạch thực hiện. Giá thành kế hoạch của sản phẩm là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là căn cứ để so sánh, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và kế hoạch hạ thấp giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
- Giá thành định mức:
Giá thành định mức là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho một đơn vị sản phẩm. Giống như giá thành kế hoạch, giá thành định mức cũng được tính toán trước khi tiến hành quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành định mức là công cụ quản lý định mức của doanh nghiệp, là thước đo chính xác để xác định kết quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn trong sản xuất.
- Giá thành thực tế:
Giá thành thực tế là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kỳ và sản phẩm thực tế đã sản xuất ra trong kỳ. Khác với hai loại giá thành trên, giá thành thực tế chỉ có thể tính toán được sau khi kết thúc quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành thực tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc áp dụng các giải pháp kinh tế - tổ chức- kỹ thuật vào quá trình sản xuất sản phẩm, là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác định nguyên nhân vượt (hụt) định mức chi phí trong kỳ hạch toán. Từ đó, điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức chi phí cho phù hợp.
b) Phân loại giá thành theo phạm vi phát sinh chi phí:
Theo phạm vi phát sinh chi phí, chỉ tiêu giá thành sản phẩm được chia thành:
- Giá thành sản xuất (Giá thành công xưởng):
Giá thành sản xuất của sản phẩm bao gồm các chi phí sản xuất như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung tính cho những sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành. Giá thành sản xuất của sản phẩm được dùng để ghi sổ cho sản phẩm đã hoàn thành nhập kho hoặc giao cho khách hàng. Giá thành sản xuất của sản phẩm cũng là căn cứ để tính giá vốn hàng bán và lãi gộp của doanh nghiệp sản xuất.
- Giá thành toàn bộ (Giá thành tiêu thụ):
Giá thành toàn bộ của sản phẩm bao gồm giá thành sản xuất của sản phẩm cộng thêm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản phẩm hoàn thành và đã được tiêu thụ. Chỉ khi nào sản phẩm, lao vụ, dịch vụ được tiêu thụ thì mới xác định được giá thành toàn bộ. Giá thành toàn bộ của sản phẩm là căn cứ để tính toán, xác định lãi trước thuế lợi tức của doanh nghiệp.
Cách phân loại này giúp cho nhà quản lý biết được kết quả kinh doanh (lãi, lỗ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh.
3) Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm :
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm không phải là hai khái niệm đồng nhất nhau, nhưng chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng là hai mặt của quá trình sản xuất, chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất, còn giá thành sản phẩm phản ánh mặt kết quả sản xuất.
Về chất, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm giống nhau, tức là đều tiêu hao yếu tố lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp bỏ ra cho hoạt động sản xuất, chế tạo sản phẩm. Chi phí sản xuất trong kỳ là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành, sự tiết kiệm hay lãng phí về chi phí sản xuất có ảnh hưởng tực tiếp đến giá thành sản phẩm hạ hay tăng.
Tuy nhiên, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có những mặt khác nhau:
- Về mặt phạm vi: Chi phí sản xuất gắn với một thời kỳ nhất đinh, còn giá thành sản phẩm lại gắn với khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành trong kỳ.
- Về mặt lượng: Chi phí sản xuất bao gồm toàn bộ chi phí sản xuất sản phẩm hoàn thành, sản phẩm dở dang và sản phẩm hỏng mà không có chi phí sản xuất đã phát sinh ở kỳ trước và chi phí chưa phát sinh ở kỳ này, còn giá thành sản phẩm chỉ bao gồm các chi phí liên quan đến sản phẩm hoàn thành, nó chứa cả một phần chi phí sản xuất kỳ trước chuyển sang (chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ) mà không có chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ. Ngoài ra giá thành sản phẩm còn có thể bao gồm một phần chi phí thực tế đã phát sinh được phân bổ vào kỳ này (chi phí trả trước) hoặc một phần chi phí sẽ phát sinh ở các kỳ sau nhưng đã được ghi nhận là chi phí của kỳ này (chi phí phải trả).
II) Hạch toán chi phí sản xuất :
1) Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất:
Để thực hiện được mục tiêu tiết kiệm chi phí sản xuất, doanh nghiệp phải thực hiện nhiều biện pháp khác nhau. Một trong những biện pháp đó là phải tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất vào giá thành sản phẩm. Trong khi đó, chi phí sản xuất của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại, có thể phát sinh ở nhiều địa điểm khác nhau, dùng để sản xuất nhiều sản phẩm khác nhau theo quy trình công nghệ khác nhau.
Do đó, để tổ chức tốt công tác hạch tóan chi phí sản xuất thì công việc đầu tiên là xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất cho phù hợp với điều kiện hiện tại của doanh nghiệp và thoả mãn yêu cầu quản lý đặt ra. Khi xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất cần dựa vào các cơ sở sau:
- Tính chất sản xuất và quy trình công nghệ đang áp dụng tại doanh nghiệp.
- Loại hình sản xuất của doanh nghiệp.
- Đặc điểm tổ chức sản xuất của doanh nghiệp.
- Nơi phát sinh chi phí.
- Trình độ nhân viên kế toán và yêu cầu quản lý của đơn vị.
Từ những căn cứ trên, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là:
- Sản phẩm hay bộ phận chi tiết sản phẩm
- Phân xưởng, bộ phận, tổ, đội sản xuất hoặc toàn doanh nghiệp
- Đơn đặt hàng
- Giai đoạn, bước công nghệ hay toàn bộ quy trình công nghệ
Trên cơ sở đối tượng hạch toán chi phí sản xuất, kế toán lựa chọn phương pháp hạch toán chi phí sản xuất thích hợp. Các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất thường được sử dụng là:
- Hạch toán chi phí sản xuất theo sản phẩm.
- Hạch toán chi phí sản xuất theo bộ phận, chi tiết sản phẩm.
- Hạch toán chi phí sản xuất theo địa điểm phát sinh chi phí hay theo phân xưởng.
- Hạch toán chi phí sản xuất theo đơn đặt hàng - mỗi đơn đặt hàng là một đối tượng hạch toán chi phí sản xuất.
- Hạch toán chi phí sản xuất theo giai đoạn công nghệ.
Mỗi phương pháp hạch toán chi phí sản xuất chỉ thích ứng với một loại đối tượng hạch toán chi phí sản xuất nên tên gọi của các phương pháp này là biểu hiện đối tượng mà nó cần tập hợp và phân loại chi phí.
2) Hạch toán chi phí sản xuất :
2.1) Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
a) Theo phương pháp kê khai thường xuyên:
ỉ Khái niệm:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là những chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, ... được sử dụng trực tiếp để sản xuất ra sản phẩm. Đối với chi phí nguyên vật liệu có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất hoặc sản phẩm, loại sản phẩm, ...) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trong trường hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể hạch toán riêng được thì phải tiến hành phân bổ chi phí cho các đối tượng liên quan. Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng lượng, theo số lượng sản phẩm,... và phân bổ theo công thức sau:
Chi phí nguyên vật liệu phân bổ cho từng đối tượng
=
Tổng chi phí vật liệu cần phân bổ
x
Tỷ lệ (hay hệ số) phân bổ
Trong đó:
Tỷ lệ (hay hệ số) phân bổ
=
Tổng tiêu thức phân bổ của từng đối tượng
Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng
ỉTài khoản sử dụng:
Để theo dõi các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng TK 621- "Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp". Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng hạch toán chi phí. Nội dung của TK 621 như sau:
- Bên Nợ: Giá trị nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
- Bên Có: + Giá trị nguyên vật liệu xuất dùng không hết
+ Kết chuyển chi phí vật liệu trực tiếp.
TK621 cuối kỳ không có số dư.
TK151,152,331, 111,112,411,311,...
TK621
TK154
ỉPhương pháp hạch toán:
TK152
Vật liệu dùng trực tiếp chế tạo sản phẩm, tiến hành lao vụ, dịch vụ
Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Vật liệu dùng không hết nhập kho hay chuyển kỳ sau
TK1331
VAT được khấu trừ (nếu có)
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp theo phương pháp kê khai thường xuyên
b) Hạch toán tổng hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp theo phương pháp kiểm kê định kỳ:
Đặc điểm của phương pháp kiểm kê định kỳ là không theo dõi sự biến động của nguyên vật liệu một cách thường xuyên liên tục mà cuối kỳ mới thực hiện kiểm kê và xác định giá trị của hàng tồn kho. Từ đó xác định giá trị của nguyên vật liệu xuất dùng trong kỳ theo công thức:
Giá trị nguyên vật liệu xuất dùng trong kỳ
=
Giá trị nguyên vật liệu tồn đầu kỳ
+
Giá trị nguyên vật liệu nhập trong kỳ
-
Giá trị nguyên vật liệu tồn cuối kỳ
Để phản ánh chi phí vật liệu đã xuất dùng cho sản xuất sản phẩm, thực hiện lao vụ, dịch vụ, kế toán cũng sử dụng TK621 - "Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp", nhưng các chi phí phản ánh trên tài khoản này không ghi theo từng chứng từ xuất dùng nguyên vật liệu mà được ghi một lần vào cuối kỳ hạch toán sau khi tiến hành kiểm kê và xác định được giá trị nguyên vật liệu tồn kho và đang đi đường. Do đó, kết cấu của TK621 trong trường hợp này là:
- Bên Nợ: Giá trị nguyên vật liệu đã xuất dùng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
- Bên Có: Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu vào giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ
TK621 cuối kỳ không có số dư và được mở theo từng đối tượng hạch toán chi phí.
ỉPhương pháp hạch toán :
TK111,112, 331,311,411,...
TK611
TK621
TK631
TK151,152
Giá trị vật liệu tăng trong kỳ
Giá trị vật liệu dùng chế tạo sản phẩm hay thực hiện dịchvụ
Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Giá trị vật liệu chưa dùng
VAT được khấu trừ (nếu có)
TK1331
Kết chuyển giá trị vật liệu chưa dùng đầu kỳ
Sơ đồ1. 2: Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp theo phương pháp kiểm kê định kỳ
2.2) Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp:
a) Khái niệm:
Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản tiền phải trả, phải thanh toán cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ, bao gồm: tiền lương chính, tiền lương phụ, các khoản phụ cấp có tính chất lương và các khoản trích theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ) của công nhân trực tiếp sản xuất.
Chi phí nhân công trực tiếp thường được tính trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí có liên quan. Tuy nhiên cũng có trường hợp chi phí này không thể hạch toán được. Trong trường hợp đó cần tiến hành phân bổ chi phí nhân công trực tiếp cho các đối tượng chịu chi phí liên quan theo một trong những tiêu thức sau: Chi phí tiền công định mức (hoặc kế hoạch), giờ công định mức (hoặc thực tế), khối lượng sản phẩm sản xuất.
b) Tài khoản sử dụng:
Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng TK622 - " Chi phí nhân công trực tiếp ". Tài khoản này cuối kỳ không có số dư và được mở chi tiết theo từng đối tượng hạch toán chi phí.
TK622 có kết cấu như sau:
- Bên Nợ: Chi phí nhân công trực tiếp thực tế phát sinh.
- Bên Có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp.
TK334
TK335
TK338
TK622
TK154
TK631
Tiền lương và phụ cấp lương phải trả cho công nhân trực tiêp sản xuất
Trích trước tiền lương phép vào chi phí và các khoản tiền lương trích trước khác
Các khoản đóng góp theo tỷ lệ với tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất thực tế phát sinh
Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp (Theo phương pháp kê khai thường xuyên)
Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp (Theo phương pháp kiểm kê định kỳ)
c) Phương pháp hạch toán:
Sơ đồ1. 3: Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nhân công trực tiếp
2.3) Hạch toán chi phí sản xuất chung:
a) Khái niệm:
Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng (tiền lương và các khoản trích theo lương của nhân viên quản lý phân xưởng như quản đốc, phó quản đốc, ...), chi phí nguyên vật liệu dùng cho phân x._.ưởng, chi phí công cụ dụng cụ dùng cho sản xuất, chi phí khấu hao TSCĐ dùng cho sản xuất, chi phí dịch vụ mua ngoài dùng cho sản xuất, chi phí sản xuất chung khác bằng tiền.
Chi phí sản xuất chung được tập hợp theo từng địa điểm, từng phân xưởng phát sinh chi phí. Nếu phân xưởng sản xuất nhiều loại sản phẩm hay thực hiện nhiều lao vụ, dịch vụ thì để tính được giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đó cần thiết phải phân bổ chi phí sản xuất chung này cho từng đối tượng theo tiêu thức phù hợp (theo định mức, theo tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất thực tế, theo số giờ làm việc thực tế của công nhân sản xuất ).
Cách thức phân bổ như sau:
ỉĐối với chi phí sản xuất chung biến đổi, kế toán sẽ phân bổ hết cho lượng sản phẩm, dịch vụ hoàn thành
ỉ Đối với định phí sản xuất chung, trong trường hợp mức sản phẩm thực tế sản xuất cao hơn mức công suất bình thường (mức công suất bình thường là mức sản phẩm đạt được ở trung bình trong điều kiện bình thường) thì định phí sản xuất chung được phân bổ hết cho số sản phẩm sản xuất.
l Trường hợp mức sản phẩm thực tế sản xuất ra nhỏ hơn mức công suất bình thường thì phần định phí sản xuất chung phải phân bổ theo công suất bình thường, trong đó, số định phí sản xuất chung tính cho lượng sản phẩm chênh lệch giữa thực tế so với mức bình thường được tính vào giá vốn hàng tiêu thụ (còn gọi là định phí sản xuất chung không phân bổ).
b) Tài khoản sử dụng:
Để theo dõi các khoản chi phí sản xuất chung kế toán sử dụng TK627 - "Chi phí sản xuất chung ", mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất, dịch vụ. Bên cạnh đó, chi phí sản xuất chung còn được chi tiết theo định phí (gồm những chi phí sản xuất gián tiếp, không thay đổi theo số lượng sản phẩm hoàn thành).
TK 627 có kết cấu:
- Bên Nợ: Tập hợp chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kỳ
- Bên Có: + Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung
+ Kết chuyển (hay phân bổ) chi phí sản xuất chung .
TK627 cuối kỳ không có số dư và được chi tiết thành 6 tiểu khoản.
Ngoài ra, tuỳ vào yêu cầu quản lý của từng doanh nghiệp, từng ngành, TK627 có thể mở thêm một số tiểu khoản khác để phản ánh một số nội dung hoặc yếu tố chi phí.
c) Phương pháp hạch toán:
TK111,112,152,...
TK331,111,112
TK334,338
TK154
TK632
TK331
TK214
TK242,335
TK152,153
Chi phí theo dự toán
Chi phí nhân viên phân xưởng
Chi phí vật liệu, dụng cụ
Chi phí khấu hao TSCĐ
Các chi phí sản xuất khác nhau mua ngoài phải trả hay đã trả
Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ (nếu có)
Kết chuyển chi phí sản xuất chung cố định (không phân bổ) vào giá vốn
Phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng tính giá (theo phương pháp KKĐK)
Phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng tính giá (theo phương pháp KKTX)
Các khoản thu hồi ghi giảm chi phí sản xuất chung
TK631
TK627
Sơ đồ1. 4: Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất chung
III) hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang:
1) Tổng hợp chi phí sản xuất:
Các khoản mục chi phí sản xuất như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung sau khi được hạch toán riêng sẽ được kết chuyển để tổng hợp chi phí sản xuất toàn doanh nghiệp và chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất.
Tuỳ thuộc vào phương pháp kế toán hàng tồn kho áp dụng tại đơn vị là phương pháp kê khai thường xuyên hay kiểm kê định kỳ mà kế toán sử dụng tài khoản khác nhau để tổng hợp chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
1.1) Đối với doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên:
Các chi phí sản xuất kể trên cuối cùng được tổng hợp vào bên Nợ TK154 - "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang". Tài khoản này được mở chi tiết cho từng hợp đối tượng tập hợp chi phí.
Kết cấu của TK154:
- Bên Nợ: Tổng hợp các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
- Bên Có: + Các khoản ghi giảm chi phí sản phẩm.
+ Tổng giá thành sản xuất thực tế hay chi phí thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành.
- Dư Nợ: Chi phí thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ dở dang, chưa hoàn thành.
Quá trình tổng hợp chi phí sản xuất được tiến hành như sau:
TK621
TK154
TK622
TK627
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí sản xuất chung
Tiêu thụ thẳng
Gửi bán
TK632
TK157
TK155,152
Nhập kho vật tư, sản phẩm
Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất
TK152,111,...
DĐK:xxx
Tổng giá thành thực tế sản phẩm, lao vụ hoàn thành
DCK:xxx
Sơ đồ 1.5: Sơ đồ hạch toán chi phí sản phẩm (kê khai thường xuyên)
Đối với trường hợp sản xuất - kinh doanh phụ phục vụ cho các đối tượng, kế toán ghi theo giá thành sản phẩm, dịch vụ phục vụ.
1.2) Đối với doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ:
Kế toán sử dụng TK631 - "Giá thành sản xuất" để tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Tài khoản này cũng được chi tiết theo đối tượng tập hợp chi phí tương tự như TK154. Tại các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ, TK154 - "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" chỉ dùng để phản ánh chi phí sản xuất của những sản phẩm, lao vụ, dịch vụ còn đang sản xuất dở dang cuối kỳ.
Kết cấu của TK631:
- Bên Nợ: Phản ánh giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ liên quan tới chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
- Bên Có: + Kết chuyển giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ.
+ Tổng giá thánhản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành.
+Giá trị thu hồi bằng tiền hoặc phải thu ghi giảm chi phí từ sản xuất.
TK631 cuối kỳ không có số dư.
Quá trình tổng hợp chi phí sản xuất được tiến hành như sau:
Giá trị sản phẩm, dịch vụ dở dang cuốikỳ
Các khoản thu hồi ghi giảm chi phí (nếu có)
Tổng giá thành sản xuất của sản phẩm, dịch vụ hoàn thành nhập kho, gửi bán hay tiêu thụ trực tiếp
TK632
TK111,112,138,...
TK154
Kết chuyển giá trị sản phẩm, dịch vụ dở dang đầu kỳ
Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp
Kết chuyển chi phí sản xuất chung
Phần giá vốn sản phẩm tiêu thụ bị trả lại nhập kho hoặc gửi tại kho người mua
TK632
TK627
TK631
TK622
TK621
Sơ đồ 1.6: Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kỳ
2) Xác định giá trị sản phẩm dở dang:
Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn đang nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm, doanh nghiệp cần thiết phải loại trừ giá trị sản phẩm dở dang. Và để xác định giá trị sản phẩm dở dang thì cuối kỳ kế toán phải tiến hành kiểm kê và đánh giá mức độ hoàn thành của chúng rồi vận dụng phương tính giá sản phẩm dở dang phù hợp để tính giá sản phẩm dở dang cuối kỳ.
Tuỳ theo đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ và tính chất của sản phẩm mà doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang sau:
ỉXác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu chính:
Theo phương pháp này, toàn bộ chi phí chế biến được tính hết cho thành phẩm. Do vậy, trong giá trị sản phẩm dở dang chỉ bao gồm giá trị vật liệu chính mà thôi.
Giá trị vật liệu chính nằm trong sản phẩm dở dang
=
Số lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ
x
Toàn bộ giá trị vật liệu chính xuất dùng
Số lượng thành phẩm
+
Số lượng sản phẩm dở dang
Phương pháp này chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp mà chi phí nguyên vật liệu chính chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá thành sản phẩm.
ỉ Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo sản lượng ước tính tương đương:
Theo phương pháp này, các sản phẩm dở dang được quy đổi về sản phẩm hoàn thành tương đương dựa vào mức độ hoàn thành và số lượng sản phẩm dở dang.Tiêu chuẩn quy đổi thường dựa vào giờ công hoặc tiền lương định mức. Phương pháp này chỉ nên áp dụng để tính chi phí chế biến, còn các chi phí nguyên vật liệu chính phải xác định theo số thực tế đã dùng để đảm bảo tính chính xác.
Giá trị vật liệu chính nằm trong sản phẩm dở dang
=
Số lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ (không quy đổi)
x
Toàn bộ giá trị vật liệu chính xuất dùng
Số lượng thành phẩm
+
Số lượng sản phẩm dở dang không quy đổi
Chi phí chế biến nằm trong sản phẩm dở dang (theo từng loại)
=
Số lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ quy đổi ra thành phẩm
x
Tổng chi phí chế biến từng loại
Số lượng thành phẩm
+
Số lượng sản phẩm dở dang quy đổi ra thành phẩm
Phương pháp này thường được áp ụng trong những doanh nghiệp mà sản phẩm có tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong tổng chi phí sản xuất không lớn lắm, khối lượng sản phẩm dở dang nhiều và biến động so với đầu kỳ.
ỉXác đinh giá trị sản phẩm dở dang theo 50% chi phí chế biến:
Chi hí chế biến bao gồm chi phí nguyên vật liệu phụ, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. về cơ bản, phương pháp này giống phương pháp ước tính theo sản lượng tương đương, chỉ khác ở chỗ mức độ hoàn thành của sản phẩm tínhh theo quy ước là 50% so với thành phẩm.
Giá trị sản phẩm dở dang chưa hoàn thành
=
Giá trị nguyên vật liệu chính nằm trong sản phẩm dở dang
+
50% chi phí chế biến
Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp mà sản phẩm có chi phí chế biến chiếm tỷ trọng thấp trong tổng chi phí.
ỉXác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc theo chi phí trực tiếp:
Theo phương pháp này, trong tổng giá trị sản phẩm dở dang chỉ bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc chi phí trực tiếp (nguyên vật liệu và nhân công trực tiếp) mà không tính đến các chi phí khác.
ỉ Xác định giá trị sản phẩm dở dang thep chi phí định mức hoặc kế hoạch:
Căn cứ vào định mức tiêu hao (hoặc chi phí kê hoạch) cho các khâu, các bước, các công việc trong quá trình chế tạo sản phẩm để xác định giá trị sản phẩm dở dang.
Phương pháp này chỉ áp dụng thích hợp với những doanh nghiệp mà sản phẩm được xây dựng định mức chi phí sản xuất.
Ngoài những phương pháp trên, trong thực tế người ta còn áp dụng các phương pháp khác để xác định giá trị sản phẩm dở dang như phương pháp thống kê kinh nghiệm, phương pháp tính theo chi phí vật liệu chínhh và vật liệu phụ nằm trong sản phẩm dở dang v.v...
IV) Tính giá thành sản phẩm
1) Đối tượng tính giá thành và kỳ tính giá thành
Xác định đối tượng tính giá là công việc cần thiết đầu tiên trong toàn bộ công việc tính giá thành sản phẩm của kế toán. Bộ phận kế toán giá thành phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp mình, tính chất sản phẩm, lao vụ, dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất, đặc điểm quy trình công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm, trình độ hạch toán kế toán và quản lý của doanh nghiệp để xác định đối tượng tính giá thành cho phù hợp.
Nếu doanh nghiệp tổ chức sản xuất theo hình thức sản xuất đơn chiếc thì đối tượng tính giá thành là từng sản phẩm. Đối với những doanh nghiệp tổ chức sản xuất hàng loạt thì từng loại sản phẩm là đối tượng tính giá thành.
Ngoài ra, việc xác định đối tượng tính giá thành còn tuỳ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất mà doanh nghiệp đang áp dụng. Nếu quy trình công nghệ sản xuất giản đơn thì đối tượng tính giá thành chỉ có thể là sản phẩm hoàn thành. Nếu quy trình sản xuất phức tạp theo kiểu liên tục thì đối tượng tính giá thành có thể là thành phẩm ở giai đoạn sản xuất cuối cùng, cũng có thể là bán thành phẩm hoàn thành ở từng giai đoạn sản xuất. Nếu quy trình sản xuất phức tạp theo kiểu song song thì đối tượng tính giá thành là sản phẩm được lắp ráp hoàn chỉnh hoặc là từng chi tiết, bộ phận sản phẩm hoàn thành.
Đơn vị tính giá thành phải là đơn vị tính được thừa nhận phổ biến trong nền kinh tế quốc dân và phải phù hợp với tính chất lý hoá của sản phẩm.
Trên cơ sở đối tượng tính giá thành đã được xác định, căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm và chu kỳ sản xuất của chúng để xác định kỳ tính giá thành cho thích hợp nhằm cung cấp số liệu về giá thành sản phẩm một cách kịp thời.
Thông thường, những doanh nghiệp sản xuất với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn và xen kẽ liên tục thì kỳ tính giá thành thích hợp là hàng tháng và giá thành sản phẩm sẽ được xác định vào cuối mỗi tháng. Với những doanh nghiệp tổ chức sản xuất đơn chiếc hoặc hàng loạt theo từng đơn đặt hàng , chu kỳ sản xuất sản phẩm dài thì kỳ tính giá thành có thể là hàng quý hoặc vào thời điểm mà loạt sản phẩm hay đơn đặt hàng đó hoàn thành. Kỳ tính giá thành còn có thể là hàng năm.
2) Các phương pháp tính giá thành sản phẩm
Tuỳ theo đặc điểm của mình mà mỗi doanh nghiệp tự lựa chọn một phương pháp tính giá sao cho phù hợp và có hiệu quả nhất. Trên cơ sở chi phí sản xuất đã được tập hợp theo các đối tượng tập hợp chi phí, kế toán có thể tiến hành tính giá thành sản phẩm theo một trong các phương pháp sau:
ỉPhương pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản đơn)
Theo phương pháp này, giá thành sản phẩm được tính bằng cách lấy trực tiếp chi phí sản xuất đã tập hợp theo từng đối tượng phát sinh trong kỳ cộng với giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ( chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ) của đối tượng đó trừ đi giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ ( chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ) của cùng đối tượng.
Tổng giá thành sản phẩm
=
Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
+
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
-
Chi phí dở dang cuối kỳ
Phương pháp này được áp dụng trong những doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn, trong quy trình công nghệ chỉ sản xuất ra một loại sản phẩm, số lượng sản phẩm dở dang không có hoặc không đáng kể, khối lượng sản phẩm sản xuất ra rất lớn. Chẳng hạn như các doanh nghiệp sản xuất điện, nước, ...
Đúng như tên gọi của nó, phương pháp này giúp cho công việc tính toán đơn giản, dễ làm. Tuy nhiên, khi đối tượng hạch toán chi phí sản xuất không trùng với đối tượng tính giá thành thì không thể áp dụng phương pháp này.
ỉPhương pháp tổng cộng chi phí
Phương pháp này được áp dụng trong những doanh nghiệp mà sản phẩm hoàn thành trong quy trình công nghệ bao gồm nhiều chi tiết, bộ phận cấu thành và từng chi tiết, bộ phận này được sản xuất ra ở từng phân xưởng khác nhau rồi cuối cùng chúng được lắp ráp thành sản phẩm hoàn chỉnh. Đó là các doanh nghiệp chế tạo cơ khí, doanh nghiệp đóng tàu, sản xuất ô tô, doanh nghiệp may mặc,...
Trong doanh nghiệp này, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là từng chi tiết, bộ phận cấu thành, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm hoàn thành. Như vậy, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm là không phù hợp nhau. Do đó, để tính giá thành sản phẩm thì trước hết phải tính giá thành của từng chi tiết, bộ phận; sau đó tập hợp giá thành của từng chi tiết, bộ phận để tính giá thành sản phẩm hoàn chỉnh.
Giá thành sản phẩm hoàn thành
=
Tổng giá thành chi tiết i
ỉ Phương pháp hệ số:
Phương pháp này thường áp dụng cho những doanh nghiệp mà trong quy trình sản xuất cùng sử dụng các yếu tố sản xuất đầu vào như nhau (nguyên vật liệu, lao động, máy móc thiết bị) nhưng lại sản xuất ra nhiều sản phẩm khác nhau về chất lượng, về cỡ số, về quy cách mà ngay từ đầu không thể hạch toán chi tiết chi phí cho từng sản phẩm được. Ví dụ như các doanh nghiệp sản xuất hoá chất, dược phẩm, đồ nhựa, may mặc, giầy,...
Đối với doanh nghiệp này, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là từng địa điểm phát sinh chi phí hay phân xưởng, còn đối tượng tính giá thành là từng loại sản phẩm hoàn thành trong từng phân xưởng.
Theo phương pháp này, kế toán căn cứ vào hệ số quy đổi để quy đổi các loại sản phẩm về sản phẩm gốc, rồi từ đó dựa vào tổng chi phí liên quan đến giá thành các loại sản phẩm đã tập hợp để tính ra giá thành sản phẩm gốc và giá thành từng loại sản phẩm:
Giá thành đơn vị sản phẩm gốc
=
Tổng giá thành của tất cả các loại sản phẩm
Tổng số sản phẩm gốc (kể cả quy đổi)
Giá thành đơn vị sản phẩm từng loại
=
Giá thành đơn vị sản phẩm gốc
x
Hệ số quy đổi sản phẩm từng loại
Q0
=
Trong đó: -Q0: Tổng số sản phẩm gốc đã quy đổi
-Qi:Số lượng sản phẩm i (i=1,n)
-Hi:Hệ số quy đổi sản phẩm i (i=1,n).
Tổng giá thành sản xuất của các loại sản phẩm
=
Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ
+
Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
-
Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ
ỉ Phương pháp tỷ lệ:
Phương pháp này được áp dụng cho những doanh nghiệp mà trong cùng một quy trình sản xuất cùng sử dụng các yếu tồ đầu vào như nhau (nguyên vật liệu, lao động, mát móc thiết bị) nhưng lại sản xuất ra các sản phẩm khác nhau nhưng không thể quy đổi về sản phẩm tiêu chuẩn bởi vì giá trị sử dụng của từng sản phẩm này khác nhau. Đồng thời ngay từ đầu không thể hạch toán chi tiết chi phí sản xuất cho từng loại sản phẩm.
Đối với doanh nghiệp này, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là phân xưởng hoặc điạ điểm phát sinh chi phí. Trong khi đó, đối tượng tính giá thành là sản phẩm từng loại.
Theo phương pháp này, trước khi tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp lập giá thành kế hoạch cho từng loại sản phẩm. Cuối kỳ, căn cứ vào kết quả sản xuất hoàn thành để tính tổng giá thành kế hoạch.
Tỷ lệ giá thành
=
Tổng giá thành thực tế của các loại sản phẩm
x
100
Tổng giá thành kế hoạch của các loại sản phẩm
Dựa vào tỷ lệ giá thành để tính tổng giá thành thực tế của từng loại sản phẩm.
Tổng giá thành thực tế từng loại sản phẩm
=
Tổng giá thành kế hoạch từng loại sản phẩm
x
Tỷ lệ giá thành
ỉPhương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ
Phương pháp này áp dụng đối với những doanh nghiệp mà trong cùng một quy trình công nghệ, sản xuất ra hai loại sản phẩm: sản phẩm chính là nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp và sản phẩm phụ không phải là nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp này có đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là phân xưởng hay địa điểm phát sinh chi phí hoặc toàn bộ quy trình công nghệ, còn đối tượng tính giá chỉ là sản phẩm chính.
Do đó, muốn tính được giá thành sản phẩm chính thì phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ.
Giá trị sản phẩm phụ có thể tính theo giá ước tính không điều chỉnh (đơn giản nhưng không chính xác), cũng có thể tính theo giá thực tế bán trên thị trường (chính xác nhưng phức tạp).
ỉPhương pháp liên hợp
Là phương pháp áp dụng trong những doanh nghiệp có tổ chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như các doanh nghiệp hoá chất, dệt kim, đóng giầy,... Trên thực tế, kế toán có thể kết hợp các phương pháp trực tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ lệ,...
ỉ Tính giá theo đơn đặt hàng
Phương pháp này được áp dụng cho những doanh nghiệp sản xuất sản phẩm theo các đơn đặt hàng của khách hàng.
Đối với những doanh nghiệp này, kế toán tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo từng đơn đặt hàng và đối tượng tính giá thành là sản phẩm hoàn thành theo đơn đặt hàng đó.
Khi tập hợp chi phí sản xuất, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp liên quan tới đơn đặt hàng nào thì hạch toán trực tiếp cho đơn đặt hàng đó, còn chi phí sản xuất chung do liên quan đến nhiều đơn đặt hàng mà ngay từ đầu không thể hạch toán trực tiếp cho từng đơn đặt hàng thì phải tập hợp riêng trên TK627. Cuối kỳ, kế toán phân bổ cho từng đơn đặt hàng theo tiêu thức thích hợp.
Cuối kỳ hạch toán, nếu đơn đặt hàng chưa hoàn thành thì chưa tính giá thành và do đó, toàn bộ chi phí sản xuất tập hợp được là chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cuói kỳ. Nếu đơn đặt hàng đã hoàn thành thì đơn đặt hàng đó mới được tính giá thành.
Tổng giá thành đơn đặt hàng
=
Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
+
Chi phí sản xuất phát sinh trongkỳ
ỉ Tính giá thành theo giai đoạn công nghệ (phân bước)
Phương pháp này áp dụng cho những doanh nghiệp mà sản phẩm hoàn thành phải qua nhiều giai đoạn chế biến trong quy trình công nghệ, mỗi giai đoạn chế biến còn gọi là một bước chế biến và cuối cùng tạo ra sản phẩm hoàn thành.
ở những doanh nghiệp này, đối tượng hạch toán chi phí là từng giai đoạn công nghệ hoặc từng phân xưởng trong quy trình công nghệ, còn đối tượng tính giá thành có thể là bán thành phẩm trong từng giai đoạn, cũng có thể là sản phẩm hoàn thành ở giai đoạn cuối cùng tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
Phương pháp này được chia thành hai phương án:
ă Tính giá thành phân bước theo phương án có tính giá thành bán thành phẩm
Phương pháp này áp dụng trong trường hợp các bán thànhh phẩm trong từng giai đoạn chế biến có giá trị sử dụng độc lập, có thể nhạp kho hoặc đem bán, tăng cường công tác hạch toán kinh tế nội bộ của từng bán thành phẩm.
Cách tính như sau:
Chi phí nguyên vật liệu chính
+
Chi phí chế biến bước 1
-
Giá trị sản phẩm dở dang bước 1
=
Giá thành bán thành phẩm bước 1
Giá thành bán thành phẩm bước 1
+
Chi hí chế biến bước 2
-
Giá trị sản phẩm dở dang bước 2
=
Giá thành bán thành phẩm bước 2
...
Giá thành bán thành phẩm bước (n-1)
+
Chi phí chế biến bước n
-
Giá trị sản phẩm dở dang bước n
=
Tổng giá thành thành phẩm
ăTính giá thành theo phương án phân bước không tính giá thành bán thành phẩm
Trong những doanh nghiệp mà yêu cầu hạch toán kinh tế nội bộ không cao hoặc bán thành phẩm chế biến ở từng bước không bán ra ngoài thì chi phí phát sinh trong giai đoạn công nghệ được tính nhập vào giá thành thành phẩm một cách đồng thời song song. Cách tính như sau:
Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành
=
Chi phí nguyên vật liệu tính vào thàh phẩm
+
Chi phí chế biến bước 1 tính vào thành phẩm
+
...
+
Chi phí chế biến bước n tính vào thành phẩm
Ngoài những phương pháp tính giá thành đã trình bày ở trên còn một số phương pháp tính giá thành khác như: Tính giá thành theo định mức, phương pháp đại số, phương pháp phân bổ lẫn nhau theo giá thành ban đầu, phương pháp phân bổ lẫn nhau theo giá thành kế hoạch.
V) Các hình thức sổ kế tóan áp dụng trong hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Theo chế độ kế toán hiện hành các doanh nghiệp được lựa chọn áp dụng một trong bốn hình thức sổ kế toán sau:
- Hình thức Nhật ký- Sổ cái
- Hình thức Nhật ký chung
- Hình thức Chứng từ ghi sổ
- Hình thức Nhật ký chứng từ
Việc vận dụng hình thức sổ kế toán nào là tuỳ thuộc nào đặc điểm cụ thể của từng doanh nghiệp, đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh, yêu cầu quản lý, trình độ nghiệp vụ của nhân viên kế toán cũng như điều kiện trang bị kỹ thuật tínhh toán của doanh nghiệp.
Hình thức Nhật ký chứng từ:
ỉKhái niệm: Hình thức sổ kế toán Nhật ký chứng từ là hình thức tập hợp và hệ thống hoá các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo bên Có của tài khoản, kết hợp với việc phân tích các nghiệp vụ đó theo bên Nợ của tài khoản đối ứng. Đông thời việc ghi chép kết hợp chặt chẽ giữa ghi theo thời gian với hệ thống hoá các nghiệp vụ theo nội dung kinh tế, giữa hạch toán tổng hợp với hạch toán chi tiết trên cơ sở các mẫu sổ sách in sẵn, thuận lợi cho việc lập báo cáo tài chính va rút ra các chỉ tiêu kinh tế tài chính.
ỉĐiều kiện vận dụng: Sổ Nhật ký chứng từ chỉ áp dụng trong những đơn vị có quy mô lớn, loại hình kinh doanh phức tạp, có trình độ quản lý và trình độ kế toán cao. Do tính chất phong phú về chủng loại sổ nên chỉ thích hợp với những đơn vị có khả năng chuyên môn hoá lao động kế toán và điều kiện lao động kế toán thủ công.
ỉTrình tự ghi sổ:
Chứng từ gốc và các bảng phân bổ
Bảng kê số 4
Bảng kê số 6
Bảng kê số 5
Thẻ tính giá thành sản phẩm
Nhật ký chứng từ số 7
Sổ Cái TK621,622,627,154(631)
Báo cáo kế toán
Sơ đồ 1.7: Sơ đồ trình tự ghi sổ theo hình thức Nhật ký chứng từ
Ghi chú: Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu
phần II
thực trạng công tác kế toán tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa ở xí nghiệp bảo dưỡng của công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định
I) Tổng quan về công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định :
1) Quá trình hình thành và phát triển, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định :
Công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định được thành lập theo quyết định số 1124/1999/QĐ - TTg ngày 03/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ. Công ty có văn phòng giao dịch đặt tại Km2 đường Điện Biên - xã Lộc Hoà - thành phố Nam Định - tỉnh Nam Định. Công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định là một công ty có tư cách pháp nhân độc lập theo quy định của pháp luật Nhà nước, công ty là một đơn vị hạch toán độc lập có con dấu riêng và chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định có một lịch sử vẻ vang và truyền thống hơn 40 năm xây dựng và phát triển.
Từ Xí nghiệp công tư hợp doanh vận tải ô tô Nam Định ra đời ngày 20/04/1960 theo quyết định của Uỷ ban Hành chính ( nay là Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam Định ), sau thành lập nên Xí nghiệp vận tải ô tô Nam Hà. Trong những năm chống Mĩ, trên các tuyến đường từ Bắc vào Nam, ở đâu cũng in dấu bánh xe của công ty tham gia vận chuyển hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng chi viện kịp thời cho chiến trường. Đất nước thống nhất, trong hoàn cảnh khắc phục khó khăn do chiến tranh để lại, với phương tiện cũ xong công ty đã chủ động chuyển mô hình từ sản xuất kinh doanh từ phục vụ chiến đấu sang phục vụ sản xuất nâng cao đời sống nhân dân.
Năm 1976, Nhà nước sáp nhập hai tỉnh Ninh Bình và Nam Hà thành tỉnh Hà Nam Ninh. Theo đó, ngành vận tải ô tô cũng được sáp nhập và công ty trở thành Xí nghiệp liên hiệp vận tải ô tô Hà Nam Ninh vào ngày 01/01/1977 theo quyết định của Thường vụ tỉnh uỷ và quyết định số 294/QĐ - TC ngày 22/03/1977 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh. Xí nghiệp được tổ chức lại từ ba xí nghiệp hạch toán độc lập trước đây, đó là:
- Xí nghiệp vận tải ô tô Nam Hà
- Xí nghiệp vận tải ô tô Ninh Bình
- Xí nghiệp sửa chữa ô tô 2/9
Và hoạt động theo tổ chức mới từ ngày 01/01/1978. Từ năm 1978 đến năm 1985, xí nghiệp vẫn luôn năng động sáng tạo để dần dần từng bước nâng cao chất lượng quản lý, đẩy mạnh sản xuất. Do đó, tám năm liền xí nghiệp luôn là đơn vị thực hiện suất sắc các nhiệm vụ chính trị và hoàn thành toàn diện kế hoạch Nhà nước giao.
Năm 1992, tỉnh Hà Nam Ninh được tách ra làm hai tỉnh Ninh Bình và Nam Hà, do đó xí nghiệp được thành lập theo quyết định số 592/QĐ - UB ngày 02/12/1992 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam Hà với tên gọi là Xí nghiệp liên hiệp vận tải ô tô Nam Hà .
Năm 1997, tỉnh Nam Hà được tách thành hai tỉnh: Nam Định và Hà Nam. Nhờ vậy, tên xí nghiệp được đổi thành Xí nghiệp liên hiệp vận tải ô tô Nam Định.
Năm 1999, căn cứ quyết định số 1124/1999/QĐ - TTg ngày 03/12/1999 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt phương án cổ phần hoá và quyết định chuyển xí nghiệp liên hiệp vận tải ô tô Nam Định thành công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định, công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định ra đời. Sáng lập viên của công ty là Nhà nước. Công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 056631 ngày 29/12/1999 của Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Nam Định. Sau hai năm cổ phần hoá, công ty đã đứng vững trong cơ chế thị trường, sản xuất kinh doanh ổn định và phát triển, đặc biệt các chỉ tiêu doanh thu, nộp ngân sách, thu nhập bình quân người lao động tăng gấp đôi so với trước khi cổ phần hoá, ý thức chấp hành nội quy, quy chế cuả cán bộ công nhân viên nâng lên rõ rệt.
Có thể nói, qua nhiều năm chia tách, sáp nhập, mặc dù có sự thay đổi trong quản lý điều hành cũng như trong sản xuất kinh doanh nhưng không vì thế mà công ty làm ăn không có hiệu quả, mà ngược lại công ty ngày càng phát huy có hiệu quả việc sử dụng vốn, đưa các mặt hàng sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển ổn định, đóng mới và sửa chữa thành những xe có chất lượng cao đảm bảo nhu cầu đi lại của nhân dân.
Hiện nay, ngành nghề kinh doanh chủ yếu của công ty là:
- Kinh doanh vận tải hành khách, hàng hoá.
- Kinh doanh hoạt động dịch vụ bến bãi
- Kinh doanh đóng mới, sửa chữa và bảo dưỡng các phương tiện vận tải đường bộ
- Kinh doanh vật tư, phụ tùng và xăng dầu phục vụ cho công tác bảo dưỡng sửa chữa ô tô và vận tải
- Đào tạo và nâng cấp bậc công nhân cơ khí và lái xe
Với đặc điểm ngành nghề kinh doanh chủ yếu như trên, công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định vừa là đơn vị sản xuất vừa là đơn vị kinh doanh dịch vụ vận tải, cho nên sản phẩm chính của công ty là:
-Người vận chuyển ( Người )
-Tấn hàng luân chuyển ( Tấn- Km )
-Người luân chuyển ( Người- Km )
-Số vỏ xe đóng mới ( Cái )
-Tấn hàng vận chuyển ( Tấn )
-Số xe sửa chữa ( Cái )
Vì là đơn vị kinh doanh vận tải nên công ty có phạm vi hoạt động trong và ngoài tỉnh, trên phạm vi cả nước và các nước láng giềng theo hiệp định ký kết đang áp dụng giữa hai nước.
Với chức năng và nhiệm vụ kể trên, trong những năm vừa qua công ty đã đạt được những bước tiến đáng kể trong việc tìm kiếm khách hàng. Tuy nhiên do phải cạnh tranh gay gắt với các đơn vị khác trong cùng lĩnh vực nên công ty đã gặp nhiều khó khăn. Tuy đã có cố gắng nhiều nhưng do thích nghi và hoà nhập chưa tốt với cơ chế mới của công ty cộng với những tác động khách quan cho nên hiệu quả kinh tế của công ty đạt được vẫn còn chưa đều nhau giữa khối công nghiệp và khối vận tải. Tuy vậy công ty bằng nhiều kinh nghiệm và cố gắng nên cũng đã khẳng định được chỗ đứng của mình trong nền kinh tế thị trường và ngày càng làm ăn có lãi.
2)Tổ chức kinh doanh và quản lý vận tải tại công ty cổ phần vận tải ô tô NamĐịnh:
2.1) Tổ chức hệ thống kinh doanh ở công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định:
Công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định là một doanh nghiệp Nhà nước hạch toán kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân. Công ty thực hiện chỉ đạo tập trung thống nhất từ công ty đến các đơn vị trực thuộc nhằm đảm bảo phát huy tính năng động, sáng tạo, phối hợp nhịp nhàng các hoạt động chung của công ty để đạt được hiệu quả cao.
Hiện nay, công ty có 6 đơn vị trực thuộc hạch toán kinh tế trong nội bộ công ty, có tư cách pháp nhân theo sự uỷ quyền của giám đốc công ty. Ngoài ra, còn có 4 phòng ban trực thuộc văn phòng công ty làm nhiệm vụ giải quyết các công việc phát sinh hàng ngày và còn là tham mưu giúp việc cho giám đốc.
2.2) Tổ chức quản lý ở công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định :
Tại công ty, bộ máy quản lý được tổ chức theo kiểu một cấp, có nghĩa là các phòng ban giúp việc cho Hội đồng quản trị tức ban Giám đốc theo từng chức năng, nhiệm vụ của mình để ban Giám đốc ra các quyết định có lợi cho công ty, đồng thời, ban Giám đốc trực tiếp đứng ra chỉ đạo sản xuất. Ta có thể thấy được điều này qua sơ đồ sau:
Đại hội đại biểu cổ đông
XN bảo dưỡng ô tô
Đội xe ca số 2
Phòng kế toán tài vụ
Phó chủ tịch HĐQT kiêm phó giám đốc
XN bến xe
Đội xe ca số 1
Phòng kỹ thuật vật tư
Ban kiểm soát
Chủ._.công nghệ sản xuất của xí nghiệp bảo dưỡng là sản xuất sản phẩm có kết cấu phức tạp, các bước công nghệ tiến hành vừa tuần tự, vừa song song, đồng thời các bộ phận khác tiến hành gia công song song. Với loại hình sửa chữa đơn chiếc, sản phẩm chủ yếu của xí nghiệp bảo dưỡng là trung, đại tu các loại xe ô tô. Mỗi loại xe có mức độ hư hỏng khác nhau, kỳ sản xuất ngắn hay dài là tùy thuộc vào mức độ hư hỏng của từng chiếc. Mức độ hao phí về nguyên vật liệu, hao phí về tiền lương đều khác nhau cho mỗi loại sản phẩm.
Từ đặc điểm quy trình công nghệ như vây, theo em công ty nên xác định đối tượng tập hợp chi phí sửa chữa cho từng phân xưởng của Xí nghiệp bảo dưỡng và chi tiết cho từng đơn đặt hàng. Việc làm này có thể thực hiện được vì chi phí nguyên vật liệu chính là chi phí chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng giá thành thì trên các phiếu xuất kho nên ghi rõ xuất cho phân xưởng nào theo hợp đồng sửa chữa nào. Như vậy, khi chi phí phát sinh, kế toán chỉ việc tập hợp trực tiếp cho từng phân xưởng và chi tiết cho từng đơn đặt hàng. Theo cách xác định đối tượng tập hợp chi phí đó, công ty nên mở thêm các tài khoản cấp bốn tương ứng với từng phân xưởng của từng đơn vị trực thuộc và chi tiết cho từng đơn đặt hàng. Như vậy sẽ tạo điều kiện cho việc giám sát, kiểm tra chi phí phát sinh dễ dàng hơn và có thể tính ra được giá thành thực tế dịch vụ sửa chữa ở từng phân xưởng theo từng đơn đặt hàng.
2)Hoàn thiện việc hạch toán một số khoản chi phí:
a) Cần hạch toán lại khoản trích BHYT:
Việc hạch toán khoản trích BHYT như hiện nay là chưa phù hợp với chế dộ quy định. Việc hạch toán như vậy sẽ làm cho giá thành sản phẩm nói chung và giá thành dịch vụ sửa chữa nói riêng bất ổn định giữa các tháng. Mỗi năm sẽ có hai tháng giá thành bị tăng vọt do có khoản trích BHYT được tính vào chi phí sản xuất trong tháng. Nếu có thể, công ty nên nghiên cứu xem xét để trích BHYT theo từng tháng nhằm ổn định giá thành giữa các tháng. Còn nếu vẫn trích như hiện nay thì công ty nên hạch toán bổ sung thêm các khoản chi phí theo dự toán (Chi phí trả trước và chi phí phải trả), có như vậy mới đảm bảo cho công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất nói chung, hạch toán chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa nói riêng ở công ty được chính xác hơn.
Bên cạnh đó, khoản trích BHXH, BHYT của công ty chưa được hợp lý vì trên thực tế hai khoản này, công ty trích theo tiền lương thực tế của công nhân làm như vậy là không đúng với quy định vì hai khoản này phải được trích theo tiền lương cơ bản của công nhân. Đây cũng là vấn đề công ty cần quan tâm để thực hiện trích BHXH, BHYT cho phù hợp với quy định chung.
b)Đối với các khoản chi phí tiếp khách, hội họp ở phân xưởng:
Khi phát sinh các khoản chi phí tiếp khách, hội họp ở các phân xưởng của xí nghiệp bảo dưỡng, kế toán không tập hợp vào TK627 "chi phí sản xuất chung" mà tập hợp thẳng vào TK642"chi phí quản lý doanh nghiệp", kế toán ghi:
Nợ TK642
Có TK111
Thực tế, các khoản chi phí này phát sinh ở tại các phân xưởng của xí nghiệp bảo dưỡng. Như vậy phải được trích vào chi phí sản xuất chung trong tháng, tức là trong giá thành sẽ có thêm khoản chi phí này. Mặc dù trong tháng, khoản chi phí này không nhiều lắm, song theo em, công ty nên hạch toán vào bên Nợ TK627 nhằm đảm bảo cho việc tính giá thành sản phẩm được chính xác và đảm bảo nguyên tắc hạch toán. Khi đó, kế toán ghi:
Nợ TK627
Có TK111
c) Cần tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành riêng cho bộ phận sản xuất kinh doanh phụ:
Tại xí nghiệp bảo dưỡng của công ty bộ phận sản xuất kinh doanh phụ gồm có: phân xưởng cơ khí chính xác, phân xưởng sản xuất và gia công cơ khí, trung tâm dịch vụ. Hiện nay, bộ phận này được tập hợp chi phí chung với bộ phận sản xuất kinh doanh chính của xí nghiệp bảo dưỡng. Theo em, công ty nên tập hợp chi phí và và tính giá thành riêng cho bộ phận sản xuất kinh doanh phụ này.
Như phần trên đã trình bày, trên các phiếu xuất kho nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ bao giờ cũng ghi rõ xuất cho đơn vị nào, nếu theo kiến nghị này thì trên phiếu xuất kho bây giờ phải ghi thêm dòng dùng cho phân xưởng nào. Từ đó, hàng tháng kế toán sẽ căn cứ vào các phiếu xuất kho tính ra giá thực tế của nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ xuất dùng cho các phân xưởng phụ, khi đó kế toán ghi:
Nợ TK621(XNBD - chi tiết phân xưởng phụ)
Có TK152, 153
Tiền lương, BHXH, KPCĐ phải trả cho công nhân sản xuất ở bộ phận này, kế toán ghi:
Nợ TK622(XNBD - chi tiết phân xưởng phụ)
Có TK 334, 338
Các khoản chi phí phục vụ cho quản lý chung của bộ phận này kế toán ghi:
Nợ TK627(XNBD - chi tiết phân xưởng phụ)
Có TK111, 152, 153, . . .
Cuối tháng, kế toán kết chuyển toàn bộ chi phí thực tế phát sinh vào TK154 để xác định giá thành thực tế của sản phẩm lao vụ sản xuất kinh doanh phụ:
Nợ TK154(XNBD- chi tiết phân xưởng phụ)
Có TK621, 622, 627
Đứng trên góc độ quản lý chi phí sản xuất đây là vấn đề công ty cần nghiên cứu để hoàn thiện thêm. Theo em, để đảm bảo tính chính xác trong khâu tính giá thành, về lâu dài công ty nên theo dõi và tập hợp chi phí sản xuất cho bộ phận sản xuất kinh doanh phụ ở từng đơn vị trực thuộc một cách riêng biệt.
d)Hạch toán lại khoản mua nguyên vật liệu:
Tại công ty, ngoài những loại nguyên vật liệu có trong kho, trong quá trình sửa chữa, nếu thiếu nguyên vật liệu, các phân xưởng sửa chữa của xí nghiệp bảo dưỡng phải tự đi mua, khoản chi phí này được tính vào chi phí sản xuất chung và kế toán ghi sổ theo giá mua thực tế chưa có VAT, kế toán ghi sổ như sau:
Nợ TK627
Nợ TK133
Có TK111, 112
Nhưng thực chất, đó là những vật liệu dùng trực tiếp vào sản xuất, do đó việc hạch toán như vậy là chưa hợp lý. Mặc dù những nguyên vật liệu đó mua về không qua kho mà đưa thẳng xuống phân xưởng để sửa chữa song cũng không thể hạch toán vào TK627 được. Công ty nên xem xét lại và đưa khoản chi phí này vào TK621 để đảm bảo tính chính xác của các khoản mục chi phí theo đúng quy định.
3)Về đối tượng tính giá thành sửa chữa tại công ty:
Hiện nay, đối tượng tính giá thành dịch vụ sửa chữa tại công ty là toàn bộ dịch vụ sửa chữa hoàn thành trong tháng. Việc xác định đối tượng tính giá thành dịch vụ sửa chữa như hiện nay, chưa theo dõi được cụ thể giá thành của từng dịch vụ sửa chữa (từng chiếc ô tô sửa chữa hoàn thành). Với đặc điểm quy trình công nghệ sửa chữa như hiện nay ở xí nghiệp bảo dưỡng công ty nên xác định đối tượng tính giá thành là từng đơn đặt hàng hoặc hợp đồng sửa chữa, theo đó, các chi phí trực tiếp phát sinh cho đơn đặt hàng nào thì hạch toán trực tiếp cho đơn đặt hàng đó. Còn đối với những chi phí gián tiếp có liên quan đến đơn đặt hàng thì trước hết phải tập hợp theo từng địa điểm phát sinh chi phí, cuối tháng thực hiện phân bổ cho từng đơn đặt hàng theo các tiêu thức phân bổ thích hợp. Mặc dù chi phí sản xuất được tập hợp hàng tháng nhưng công việc tính giá thành chỉ diễn ra khi sản phẩm của từng đơn đã sửa chữa hoàn thành. Vì vậy, phương pháp tính giá thành dịch vụ sửa chữa ở đây sẽ là phương pháp trực tiếp. Cuối tháng, các hợp đồng sửa chữa chưa hoàn thành sẽ được tập hợp lại để tính ra tổng số chi phí đã chi ra cho các hợp đồng đó, đó chính là chi phí sản xuất dở dang cuối tháng. Dựa vào đây ta có thể so sánh giá thành sửa chữa thực tế với giá thành kế hoạch để có biện pháp tích cực trong công tác quản lý giá thành sửa chữa và lập giá thành kế hoạch cho dịch vụ sửa chữa.
4)Về phương thức đánh giá sản phẩm làm dở:
Tại công ty, việc đánh giá dịch vụ sửa chữa làm dở được tiến hành vào cuối tháng ở từng phân xưởng, sau đó tập hợp lại để tính ra giá trị dịch vụ sửa chữa dở dang cho toàn xí nghiệp bảo dưỡng. Cuối tháng, từng phân xưởng tiến hành kiểm kê đối với những hợp đồng trong tháng chưa hoàn thành. Việc kiểm kê tính ra giá trị dịch vụ sửa chữa dở dang cuối kỳ tại công ty như hiện nay là chưa khoa học, tốn nhiều thời gian vì phải nhặt ra từng phiếu xuất nguyên vật liệu chính cho các hợp đồng chưa hoàn thành, sau đó mới tổng hợp lại. Vì vậy nếu công ty thực hiện tính giá thành theo từng đơn đặt hàng thì các chi phí phát sinh cho đơn đặt hàng nào sẽ hạch toán trực tiếp cho đơn đặt hàng đó. Cuối tháng nếu đơn đặt hàng nào chưa hoàn thành thì tổng chi phí tập hợp cho mỗi đơn đặt hàng chính là giá trị dịch vụ sửa chữa dở dang cuối kỳ của đơn đặt hàng đó.
Đồng thời, theo em công ty nên phân bổ cả chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung cho dịch vụ sửa chữa dở dang cuối kỳ. Tức là chi phí dở dang cuối kỳ sẽ bao gồm cả chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung vì trên thực tế chi phí nguyên vật liệu chính trực tiếp chỉ chiếm 50-55% giá thành dịch vụ sửa chữa, trong khi đó, chi phí sản xuất chung và chi phí nhân công trực tiếp cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể trong giá thành sản phâm sửa chữa.
5)Hoàn thiện phương pháp tính gía thành dịch vụ sửa chữa tại công ty:
Với đối tượng hạch toán chi phí sửa chữa là từng phân xưởng của xí nghiệp bảo dưỡng chi tiết cho từng đơn đặt hàng và đối tượng tính giá thành dịch vụ sửa chữa là từng đơn đặt hàng, công tác tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa cho từng đơn đặt hàng tại xí nghiệp bảo dưỡng của công ty sẽ được tổ chức như sau:
a) Đối với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Khi xuất kho nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, trên các phiếu xuất kho có ghi rõ xuất cho phân xưởng nào của đơn vị nào, theo hợp đồng nào. Do đó, mọi chi phí nguyên vật liệu phát sinh cho hợp đồng nào kế toán hạch toán trực tiếp vào hợp đồng đó không qua một tiêu thức phân bổ nào.
Ví dụ: Khi xuất kho nguyên vật liệu dùng cho hợp đồng sửa chữa số 1 và số 2 của phân xưởng sửa chữa ô tô số 1 của xí nghiệp bảo dưỡng, thì phiếu xuất kho:
Công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định
phiếu xuất kho
Ngày 02/02/2003
Số: 32
Nợ TK622(XNBD-PX sửa chữa số 1)
Có TK152
Họ tên người nhận hàng: Hoàng Trung Hiếu
Đơn vị: Phân xưởng sửa chữa ô tô số 1- XN bảo dưỡng
Lý do xuất kho: Xuất cho đại tu xe Huyndai (Hợp đồng sửa chữa số 1)
Xuất tại kho : Vật tư 1
STT
Tên, quy cách sản phẩm
Đơn vị tính
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
1
Thép
Cây
7
50.000
350.000
2
Thép Cacbon C45
m
45
21.000
945.000
3
ống ổ trục
Cái
2
150.000
300.000
4
Nhôm lá 4 x 50
m
7
19.800
138.600
5
Kính chắn gió hai lớp
Cái
1
20.099.400
20.099.400
Cộng
21.833.000
Xuất, ngày 02/02/2003
GĐ XN bảo dưỡng
(Ký, họ tên)
Trưởng phòng kỹ thuật
(Ký, họ tên)
Người nhận
(Ký, họ tên)
Thủ kho
(Ký, họ tên)
Khi đó, kế toán ghi:
Nợ TK621(XNBD-PX sửa chữa số 1): 37.623.000
TK621(Hợp đồng số 1): 21.833.000
TK621(Hợp đồng số 2): 15.790.000
Có TK152:37.623.000
Đối với hợp đồng số 2:
Công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định
phiếu xuất kho
Ngày 05/02/2003
Số: 34
Nợ TK621(XNBD-PX sửa chữa số 1)
Có TK152
Họ tên người nhận hàng: Lê Hải Anh
Đơn vị: Phân xưởng sửa chữa ô tô số 1 - XN bảo dưỡng
Lý do xuất: Trung tu xe NISSAN (Hợp đồng sửa chữa số 2)
Xuất tại kho: Vật tư 1
STT
Tên quy cách sản phẩm
Đơn vị tính
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
1
Cân vòi phun xe
Nhánh
6
20.000
120.000
2
Tổng thành xe
Cái
1
13.600.000
13.600.000
3
ống ổ trục
Cái
3
150.000
450.000
4
Thép V25 x 25
m
80
19.500
1.560.000
5
Tôn lá
m
5
12.000
60.000
Cộng
15.790.000
Xuất, ngày 05/02/2003
GĐ Xn bảo dưỡng
(Ký, họ tên)
Trưởng phòng vật tư
(Ký, họ tên)
Người nhận
(Ký, họ tên)
Thủ kho
(Ký, họ tên)
b)Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp:
Như đã trình bày ở trên, sau mỗi hợp đồng hoàn thành, xí nghiệp bảo dưỡng sẽ nhận được 80% giá trị hợp đồng. Do đó, cách chia lương theo từng hợp đồng được thực hiện như hiện nay công ty đang làm. Cuối tháng, kế toán đơn vị sẽ gửi bảng tổng hợp tiền lương từ các hợp đồng hoàn thành theo từng phân xưởng có trích luôn BHXH,BHYT,KPCĐ lên phòng kế toán để hạch toán.
Ví dụ:
Công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định
bảng tổng hợp lương và các khoản trích theo lương của công nhân sản xuất
Đơn vị: Phân xưởng sửa chữa ô tô số 1 - XN bảo dưỡng
Tháng 02/2003
Tên hợp đồng
Tiền lương
Các khoản trích theo lương (19%)
Tổng cộng
Hợp đồng số 1
6.100.000
1.159.000
7.259.000
Hợp đồng số 2
5.215.000
990.850
6.205.850
Cộng
11.315.000
2.149.850
13.464.850
Người lập biểu
(Ký, họ tên)
Kế toán trưởng
(Ký, họ tên)
Khi đó, kế toán ghi:
Nợ TK622(XNBD-PX sửa chữa số 1):13.464.850
TK622(Hợp đồng số 1): 7.259.000
TK622(Hợp đồng số 2): 6.205.850
Có TK334: 11.315.000
Có TK338: 2.149.850
c) Hạch toán chi phí sản xuất chung:
Chi phí sản xuất chung là các chi phí liên quan đến phục vụ, quản lý sản xuất trong phạm vi xí nghiệp bảo dưỡng, các phân xưởng, tổ đội sửa chữa của xí nghiệp bảo dưỡng.
ỉ Chi phí về nhân viên quản lý xí nghiệp, quản lý phân xưởng :
Tiền lương của nhân viên quản lý xí nghiệp và quản lý phân xưởng cũng được tính theo từng hợp đồng. Tức là mỗi hợp đồng sau khi hoàn thành, bộ phận quản lý cũng được chia lương theo thời gian làm việc của bộ phận cho hợp đồng đó. Vì thế việc tập hợp chi phí tiền lương của nhân viên quản lý xí nghiệp và quản lý phân xưởng theo từng hợp đồng rất dễ dàng.
Ví dụ:
Công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định
Bảng tổng hợp tiền lương và các khoản trích theo lương của nhân viên quản lý
Đơn vị: Phân xưởng sửa chữa ô tô số 1 -XN bảo dưỡng
Tháng 02/2003
STT
Tên hợp đồng
Tiền lương
Các khoản trích theo lương
Tổng cộng
Nhân viên xí nghiệp
Nhân viên phân xưởng
Tổng cộng
1
Hợp đồng số 1
452.000
400.000
852.000
161.880
1.013.880
2
Hợp đồng số 2
350.000
300.000
750.00
142.500
892.500
Cộng
802.000
700.000
1.502.000
304.380
1.906.380
Người lập biểu
(Ký, họ tên)
Kế toán trưởng
(Ký, họ tên)
Cột "Các khoản trích theo lương" trên bảng này là căn cứ để kế toán tổng hợp và lên bảng phân bổ số 1.
Khi đó, kế toán ghi:
Nợ TK627(XNBD - PX sửa chữa số 1): 1.906.380
TK627(Hợp đồng số 1): 1.013.880
TK627(Hợp đồng số 2): 892.500
Có TK334: 1.502.000
Có TK338: 304.380
ỉ Chi phí vật liệu dùng chung cho quản lý đơn vị:
Vật liệu xuất dùng chung cho quản lý đơn vị sẽ được hạch toán vào bên Nợ TK627. Cuối tháng sẽ tiến hành phân bổ cho từng đơn đặt hàng theo tiêu thức phân bổ là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Theo tiêu thức này thì công thức phân bổ sẽ là:
Vật liệu dùng chung cho phân xưởng phân bổ cho hợp đồng i trong tháng j
=
Tổng chi phí vật liệu dùng chung cho đơn vị cần phân bổ tháng j
x
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp dùng cho hợp đồng i
Tổng chi phí nguyên vật liệu xuất dùng cho các hợp đồng trong tháng j
Ví dụ:Tại xí nghiệp bảo dưỡng tổng chi phí nguyên vật liệu dùng chung cho đơn vị trong tháng 2/2003 là: 9.406.100.
Vậy:
Chi phí vật liệu dùng chung cho đơn vị phân bổ cho hợp đồng số 1
=
9.406.100
x
21.833.000
=
610.492
336.390.000
Tính tương tự ta có chi phí nguyên vật liệu phân bổ cho hợp đồng số 2 là: 441.518
Kế toán hạch toán:
Nợ TK627(XNBD- PX sửa chữa số 1): 1.052.010
TK627(Hợp đồng số 1): 610.492
TK627(Hợp đồng số 2): 441.518
Có TK152: 1.052.010
ỉĐối với chi phí công cụ, dụng cụ dùng chung cho xí nghiệp:
Chi phí công cụ dụng cụ dùng chung cho đơn vị cũng được hạch toán vào bên Nợ TK627. Khi xuất công cụ dụng cụ dùng chung cho đơn vị , kế toán ghi:
Nợ TK627(XNBD- chi tiết phân xưởng, chi tiết hợp đồng)
Có TK153
Cuối tháng sẽ tiến hành phân bổ tổng chi phí công cụ dụng cụ xuất dùng chung cho xí nghiệp cho các hợp đồng hoàn thành trong tháng theo tiêu thức phân bổ là tổng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Công thức tính tương tự như công thức phân bổ chi phí nguyên vật liệu.
Ví dụ:Tại xí nghiệp bảo dưỡng, trong tháng 2/2003 công ty xuất 3.290.600 giá trị công cụ dụng cụ dùng cho quản lý xí nghiệp
Khi đó, chi phí công cụ dụng cụ xuất dùng chung cho xí nghiệp bảo dưỡng phân bổ cho hợp đồng sửa chữa số 1 sẽ là:
3.290.600
x
21.833.000
=
213.573
336.390.000
Tính tương tự, ta có: giá trị công cụ dụng cụ xuất dùng chung cho xí nghiệp bảo dưỡng phân bổ cho hợp đồng số 2 là: 154.459
Kế toán ghi sổ :
Nợ TK627(XNBD- PX sửa chữa số 1): 368.032
TK627(Hợp đồng số 1): 213.573
TK627(Hợp đồng số 2): 154.459
Có TK153: 368.032
ỉChi phí khấu hao TSCĐ:
Hiện nay, TSCĐ của xí nghiệp bảo dưỡng được kế toán TSCĐ theo dõi và tính khấu hao cho từng phân xưởng. Cuối tháng, kế toán tổng hợp trích khấu hao cho bộ phận sửa chữa trực tiếp và bộ phận gián tiếp, sau đó phản ánh lên bảng phân bổ số 3 mở riêng cho xí nghiệp bảo dưỡng. Do đó việc phân bổ khấu hao TSCĐ cho từng hợp đồng hoàn thành trong tháng của từng phân xưởng là dễ dàng vì ta đã biết số khấu hao TSCĐ cụ thể của từng phân xưởng. Khi đó, ta sẽ chọn tiêu thức phân bổ là tổng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Công thức phân bổ tương tự như đối với phân bổ chi phí nguyên vật liệu.
Ví dụ: Tại phân xưởng sửa chữa ô tô số 1 của xí nghiệp bảo dưỡng trong tháng 2/2003, tổng chi phí khấu hao TSCĐ là: 2.950.600
Khi đó, ta có thể tính ra được chi phí khấu hao TSCĐ phân bổ cho hợp đồng số 1 là:
2.950.600
x
21.833.000
=
191.505
336.390.000
Tương tự, tính ra chi phí khấu hao TSCĐ phân bổ cho hợp đồng số 2 là: 138.500
Kế toán hạch toán:
Nợ TK627(XNBD - PX sửa chữa số 1): 330.005
TK627(Hợp đồng số 1) : 191.505
TK627(Hợp đồng số 2) :138.500
Có TK2141: 330.005
ỉ Chi phí về dịch vụ mua ngoài:
Chi phí về dịch vụ mua ngoài thuộc chi phí sản xuất chung bao gồm tiền điện, tiền nước dùng vào sản xuất ở các phân xưởng của xí nghiệp bảo dưỡng. Tại mỗi phân xưởng có lắp đồng hồ đo điện, nước; cuối tháng nhân viên quản lý điện, nước sẽ ghi tổng số điện năng và m3 nước tiêu thụ và tính ra tiền điện, nước cho từng phân xưởng, cuối tháng sẽ được phân bổ cho các đơn đặt hàng hoàn thành trong tháng theo tiêu thức phân bổ là tổng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Công thức phân bổ tương tự như đối với việc phân bổ chi phí nguyên vật liệu.
Ví dụ: Trong tháng 2/2003 tại phân xưởng sửa chữa số 1 của xí nghiệp bảo dưỡng , tổng chi phí về điện, nước là: 1.800.000
Khi đó, chi phí về điện, nước phân bổ cho hợp đồng số 1 là:
1.800.000
x
21.833.000
=
116.827
336.390.000
Tương tự, ta có chi phí về điện, nước phân bổ cho hợp đồng số 2 là: 84.491
Kế toán hạch toán:
Nợ TK627(XNBD-PX sửa chữa số 1): 201.318
TK627(Hợp đồng số 1): 116.827
TK627(Hợp đồng số 2): 84.491
Có TK331: 201.318
ỉChi phí khác bằng tiền: Là những chi phí ngoài những chi phí kể trên mà đơn vị thanh toán trực tiếp bằng tiền. Khi phát sinh những khoản chi phí này, kế toán đơn vị rất dễ theo dõi xem nó phát sinh ở phân xưởng nào và cho hợp đồng nào. Khi đó, kế toán đơn vị sẽ ghi chép lại các khoản chi phí đó và gửi lên phòng kế toán của công ty. Tại đây, kế toán sẽ tập hợp các khoản chi phí này vào bên Nợ TK627 chi tiết cho từng phân xưởng và từng hợp đồng.
Ví dụ: Tại phân xưởng sửa chữa ô tô số 1 trong tháng 2/2003 phát sinh khoản chi phí bằng tiền mặt là 6.570.000, dành cho hợp đồng số 1 là 2.700.600 và hợp đồng số 2 là 3.869.400.
Khi đó, kế toán ghi :
Nợ TK627(XNBD-PX sửa chữa số 1): 6.570.000
TK627(Hợp đồng số 1): 2.700.600
TK627(Hợp đồng số 2): 3.869.400
Có TK111: 6.570.000
Sau khi đã tập hợp hết các chi phí sản xuất chung cho từng phân xưởng, từng hợp đồng kế toán lập bảng tổng hợp chi phí sản xuất chung cho từng phân xưởng theo từng hợp đồng. Cụ thể:
Công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định
bảng tổng hợp chi phí sản xuất chung theo hợp đồng
Đơn vị: Phân xưởng sửa chữa ô tô số 1- XN bảo dưỡng
Tháng: 02/2003
STT
Khoản mục chi phí
Hợp đồng số 1
Hợp đồng số 2
1
Chi phí nhân viên quản lý
1.013.880
892.500
2
Chi phí vật liệu dùng chung phân bổ
610.492
441.518
3
Chi phí CCDC dùng chung phân bổ
213.573
154.459
4
Chi phí khấu hao TSCĐ
191.505
138.500
5
Chi phí dịch vụ mua ngoài
116.827
84.491
6
Chi phí khác bằng tiền
2.700.600
3.869.400
Cộng
4.846.877
5.580.927
d) Tập hợp chi phí sản xuất:
Toàn bộ chi phí sản xuất đã được tập hợp theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung chi tiết cho từng phân xưởng và từng hợp đồng, cuối tháng được tập hợp vào bên Nợ TK154. Tài khoản 154 cũng được chi tiết cho từng phân xưởng và từng hợp đồng sửa chữa.
Ví dụ: Từ các ví dụ trên, ta tập hợp chi phí sửa chữa cho hai hợp đồng là hợp đồng số 1 và hợp đồng số 2 như sau:
l Nợ TK154(XNBD -PX sửa chữa số 1- HĐ số 1): 33.938.877
Có TK621(HĐ số 1): 21.833.000
Có TK622(HĐ số 1): 7.259.000
Có TK627(HĐ số 1): 4.846.877
l Nợ TK154(XNBD -PX sửa chữa số 1-HĐ số 2):27.576.777
Có TK621(HĐ số 2): 15.790.000
Có TK622(HĐ số 2): 6.205.850
Có TK627(HĐ số 2): 5.580.927
e) Tính giá thành cho từng hợp đồng:
Công ty thực hiện tính giá thành theo phương pháp trực tiếp cho các hợp đồng sửa chữa hoàn thành trong tháng trên cơ sở các khoản chi phí đã được tập hợp trực tiếp và chi tiết cho từng phân xưởng và từng hợp đồng.
Ví dụ: Tại phân xưởng sửa chữa ô tô số 1 của xí nghiệp bảo dưỡng, trong tháng 2/2003 hoàn thành 2 hợp đồng sửa chữa số 1 và số 2, đầu tháng không có chi phí dở dang của hai hợp đồng này.
Vậy để tính giá thành của hai hợp đồng trên, kế toán công ty sẽ lập bảng tính giá thành như sau:
Công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định
bảng tính giá thành
Đơn vị: Phân xưởng sửa chữa ô tô số 1- XN bảo dưỡng
Tháng 02/2003
STT
Tên hợp đồng
Khoản mục chi phí
Hợp đồng số 1
Hợp đồng số 2
Cộng
1
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
21.833.000
15.790.000
37.623.000
2
Chi phí nhân công trực tiếp
7.259.000
6.205.850
13.464.850
3
Chi phí sản xuất chung
4.846.877
5.580.927
10.427.804
Cộng
33.938.877
27.576.777
61.515.654
Vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm đặc biệt đến việc tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất vào giá thành sản phẩm. Bởi lẽ, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là một trong những yếu tố hết sức quan trọng trong toàn bộ quá trình tổ chức và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế quốc dân. Hiểu được ý nghĩa của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, thấy rõ được sự cần thiết của công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong việc cung cấp thông tin để nhà lãnh đạo có biện pháp cải tiến tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và tăng cường quản trị doanh nghiệp. Đây cũng là yêu cầu quản lý kinh tế nói chung và của công tác hạch toán kế toán nói riêng. Thực hiện tốt yêu cầu này chính là cơ sở để đánh giá kết quả sản xuất và cũng là căn cứ và tiền đề để tìm ra biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm.
Công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định có ngành nghề kinh doanh là vừa sản xuất công nghiệp,vừa kinh doanh dịch vụ vận tải, trong đó khối công nghiệp mà đặc biệt là lĩnh vực sửa chữa ô tô của xí nghiệp bảo dưỡng là nơi đem lại doanh thu cũng như lợi nhuận cao có thể nói là chiếm phần lớn của công ty. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nên công ty đã coi đây là khâu trọng tâm của toàn bộ công việc hạch toán kế toán nhất là đối với khối công nghiệp với sản phẩm chủ yếu và là sản phẩm giữ vai trò quan trọng là sửa chữa ô tô. Do đó, công tác hạch toán chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa tại công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định bước đầu đáp ứng được những yêu cầu đặt ra bên trong và bên ngoài. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại nhất định trong công tác kế toán tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa ở công ty. Để hoàn thiện hơn nữa công tác này nói riêng và công tác kế toán nói chung, công ty cần tiếp tục phát huy những mặt tích cực đã đạt được, khắc phục ngay những mặt hạn chế, yếu kém. Có như vậy, công ty mới có thể ngày càng hoàn thiện mình để thích ứng với cơ chế mới, hoà nhập một cách vững chắc và củng cố uy tín trên thị trường.
Mong rằng với bề dày truyền thống và kinh nghiệm trên 40 năm, công ty sẽ sớm tự khẳng định được mình trên thị trường trong nước cũng như trong khu vực và ngày càng lớn mạnh về mọi mặt.
Qua đây, em xin được bày tỏ lòng biết ơn của mình tới thầy giáo Nguyễn Quốc Trung, ban lãnh đạo và nhân viên phòng kế toán tài vụ của công ty cũng như của xí nghiệp bảo dưỡng ô tô đã tạo điều kiện và hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu, tìm hiểu thực tế chưa nhiều, cũng như trình độ hiểu biết nghiệp vụ và kinh nghiệm bản thân còn hạn chế nên luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp. sửa chữa của các thầy cô giáo và các cán bộ kế toán của công ty để luận văn được hoàn thiện hơn, đồng thời giúp em có được những kiến thức và kinh nghiệm cho sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, ngày 29 tháng 05 năm 2003
Sinh viên thực hiện
Dương Thuý Quỳnh
Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính VAT - Chủ biên PGS.TS. Nguyễn Văn Công - Nhà xuất bản Tài chính 2003.
Kế toán doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường của trường đại học Kinh tế Quốc dân.
Lý thuyết hạch toán kế toán - Chủ biên TS. Nguyễn Thị Đông.
Kế toán trong doanh nghiệp sản xuất - Chủ biên PGS.TS Vương Đình Huệ, TS. Nguyễn Đình Độ Trường đại học Tài chính kế toán - Nhà xuất bản Tài chính 2003.
Hệ thống kế toán doanh nghiệp - Nhà xuất bản Tài chính.
Tạp chí kế toán.
Các báo chí liên quan.
Các tài liệu của công ty.
Một số luận văn của các khoá trước.
Trang
Phần i: lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất…1
I) những vấn đề chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm 1
1) Chi phí sản xuất 1
1.1) Khái niệm 1
1.2) Phân loại chi phí sản xuất 3
2) Giá thành sản phẩm 7
2.1) Khái niệm 7
2.2) Phân loại giá thành sản phẩm 7
3) Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm 9
II) hạch toán chi phí sản xuất 10
1) Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất 10
2) Hạch toán chi phí sản xuất 11
2.1) Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 11
2.2) Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp 13
2.3) Hạch toán chi phí sản xuất chung 14
III) Tổng hợp chi phí sản xuất và xác định giá trị sản phẩm dở dang 16
1) Tổng hợp chi phí sản xuất 16
1.1) Đối với các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên 16
1.2) Đối với các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ 17
2) Xác định giá trị sản phẩm dở dang 18
IV) tính giá thành sản phẩm 20
1)Đối tượng tính giá thành và kỳ tính giá thành 20
2) Các phương pháp tính giá thành sản phẩm 21
v) Các hình thức sổ kế toán áp dụng trong hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 26
Phần II: Thực trạng công tác kế toán tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa ở xí nghiệp bảo dưỡng của công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định.... 28
I) Đặc điểm chung về công ty cổ phần vận tải ô tô
Nam Định 28
1) Quá trình hình thành và phát triển, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định 28
2) Tổ chức kinh doanh và quản lý vận tải tại công ty cổ phần vận tải ô tô
Nam Định 30 2.1)Tổ chức hệ thống kinh doanh ở công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định 30
2.2)Tổ chức quản lý ở công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định 30
3) Đặc điểm quy trình công nghệ sửa chữa ô tô ở công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định 34
4) Đặc điểm công tác kế toán tại công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định 35
4.1) Tổ chức bộ máy kế toán 35
4.2) Tổ chức vận dụng chế độ kế toán tại công ty 38
II) Tình hình tổ chức kế toán chi phí sửa chữa tại xí nghiệp bảo dưỡng của công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định 41
1) Đối tượng tập hợp chi phí 41
2) Phương pháp tập hợp chi phí sửa chữa 41
III) Kế toán tập hợp giá thành dịch vụ sửa chữa 65
1) Công tác quản lý giá thành dịch vụ sửa chữa ở công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định 65
2) Đối tượng tính giá thành và kỳ tính giá thành dịch vụ sửa chữa ở công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định 66
3) Phương pháp tính giá thành dịch vụ sửa chữa ở công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định 66
phần III: Phương hướng hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa tại xí nghiệp bảo dưỡng của công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định 68
I) Một số nhận xét về công tác kế toán nói chung và công tác tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa nói riêng tại xí nghiệp bảo dưỡng của công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định 68
1) Nhận xét chung 68
2) Nhận xét cụ thể về công tác tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa tại công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định 71
2.1)Những điểm đã đạt được trong công tác kế toán tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa tại công ty cổ phần vận tải ô tô Nam Định 71
2.2) Những hạn chế cần khắc phục trong công tác tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa ở công ty 72
II) Một số ý kiến đóng góp cho công tác tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa ở công ty 74
1) Hoàn thiện việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sửa chữa 74
2)Hoàn thiện việc hạch toán một số khoản chi phí 75
3) Về đối tượng tính giá thành dịch vụ sửa chữa tại công ty 77
4) Về phương thức đánh giá sản phẩm làm dở 78
5) Hoàn thiện phương pháp tính giá thành sản phẩm sửa chữa tại công ty 78
Biểu số 02
sổ chi tiết vật tư
Tên vật liệu: Tôn kẽm 1,2 ly 1m x 2m
Kho: Vật liệu chính
Đơn vị sử dụng: XN bảo dưỡng ô tô
Tháng: 02/ 2003
Đơn vị tính: Đồng
Ngày tháng
Số hiệu chứng từ
Trích yếu
Nhập
Xuất
Tồn
Nhập
Xuất
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
Tồn đầu tháng
20
81.260
1.625.200
06/02
05
Mua vật liệu của nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo
100
84.105
8.410.500
20
100
81.260
84.105
1.625.200
8.410.500
10/02
08
Xuất cho đóng lại xe NISSAN
20
30
81.260
84.105
1.625.200
2.523.150
100
70
84.105
84.105
8.410.500
5.887.350
. . .
. . .
. . .
. . .
. . .
. . .
. . .
. . .
. . .
. . .
. . .
. . .
. . .
Cộng
350
20.162.600
150
12.820.000
Tồn cuối tháng
220
84.786
18.652.920
Người lập biểu
(Ký,họ tên)
Kế toán đơn vị
(Ký, họ tên)
Kế toán trưởng
(Ký, họ tên)
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K0711.doc