Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần Dược phẩm Hà Nội

MỤC LỤC Trang DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BHXH Bảo hiểm xã hội BHYT Bảo hiểm y tế CPDP Cổ phần Dược phẩm CPNCTT Chi phí nhân công trực tiếp CPNVLTT Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp CPSX Chi phí sản xuất CPSXC Chi phí sản xuất chung DDCK Dở dang cuối kỳ DDĐK Dở dang đầu kỳ KKĐK Kiểm kê định kỳ KKTX Kê khai thường xuyên KH Khấu hao KPCĐ Kinh phí công đoàn NVL Nguyên vật liệu PB Phân bổ PX Phân xưởng SP Sản phẩm SXC Sản xuất chung SXKD Sản xuất kinh doanh TK Tài khoản TSCĐ Tài

doc121 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần Dược phẩm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản cố định DANH MỤC SƠ ĐỒ SỬ DỤNG STT Tên Sơ đồ 1 Trình tự hạch toán chi phí NVLTT 2 Trình tự hạch toán chi phí NCTT 3 Trình tự hạch toán chi phí trả trước dài hạn 4 Hạch toán thiệt hại sản phẩm hỏng ngoài định mức 5 Hạch toán tổng hợp thiệt hại ngừng sản xuất ngoài kế hoạch 6 Trình tự hạch toán tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung 7 Trình tự hạch toán tập hợp CPSX theo phương pháp KKTX 8 Hạch toán chi phí NVLTT theo phương pháp KKĐK 9 Hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp KKĐK 10 Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức Nhật ký chung 11 Mô hình tổ chức công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Nội 12 Quy trình sản xuất thuốc Viên 13 Mô hình bộ máy kế toán công ty CPDP Hà Nội 14 Trình tự ghi sổ theo hình thức sổ Nhật ký chung tại công ty CPDP Hà Nội 15 Quy trình tổ chức công tác tập hợp CPSX và tính giá thành sản phẩm DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU SỬ DỤNG STT Tên Biểu số 1 Một số chỉ tiêu về KQ hoạt động của công ty CPDP Hà Nội những năm gần đây 2 Lệnh xuất kho 3 Phiếu xuất kho 4 Phiếu sản xuất 5 Phiếu xuất kho số 696 kho 021 6 Phiếu xuất kho số 696 kho 04 7 Phiếu xuất kho số 696 kho 03 8 Phiếu sản xuất kiểm soát 11 9 Phiếu sản xuất kiểm soát 10 10 Bảng kê phiếu xuất 11 Sổ chi tiết TK 621 12 Nhật ký chung 13 Sổ tổng hợp TK 621 14 Đơn giá lương khoán sản phẩm 15 Phụ cấp thu hút 16 Tiền bồi dưỡng ca 3 17 Phụ cấp thu hút nghề nghiệp 18 Tiền bồi dưỡng độc hại 19 Tiền lương nghiên cứu 20 Phân bổ lương và các khoản trích, nộp theo lương 21 Sổ chi tiết TK 622 22 Sổ tổng hợp TK 622 23 Bảng phân bổ khấu hao TSCĐ 24 Bảng theo dõi và tính khấu hao TSCĐ 25 Sổ chi tiết TK 627 26 Sổ tổng hợp TK 627 27 Báo cáo sản phẩm dở dang đầu kỳ 28 Báo cáo sản phẩm dở dang cuối kỳ 29 Sổ chi tiết TK 1541 30 Sổ chi tiết TK 1549 31 Sổ tổng hợp TK 1541 32 Sổ tổng hợp TK 1549 33 Bảng tính giá thành 34 Thẻ giá thành LỜI MỞ ĐẦU Mục tiêu tồn tại và phát triển, lợi nhuận cao là vấn đề mà hầu hết tất cả các doanh nghiệp đều quan tâm và các nhà quản trị doanh nghiệp luôn hướng tới những biện pháp tổ chức và quản lý để đạt được mục tiêu đó. Một trong các kênh cung cấp thông tin cho quá trình giám sát và ra quyết định của nhà quản lý là kênh thông tin kế toán, do đó công tác hạch toán kế toán giữ vai trò quan trọng trong phản ánh quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu kinh tế như chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, tốc độ lưu chuyển vốn lưu động… Đối với hầu hết các doanh nghiệp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những yếu tố quan trọng tác động đến chính sách giá cả, kết quả hoạt động kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Hơn nữa, các thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những thông tin quan trọng và chủ yếu của các doanh nghiệp sản xuất nói riêng. Thông qua các thông tin đó các nhà quản lý doanh nghiệp phân tích và đánh giá được tình hình sử dụng, tập hợp, quản lý chi phí sản xuất của công ty để từ đó có những biện pháp phù hợp nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất cũng như kinh doanh và từ đó có hướng điều chỉnh phù hợp với tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhằm tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp. Tùy vào đặc điểm, tình hình cụ thể của mỗi doanh nghiệp mà có những phương pháp khác nhau nhưng về cơ bản để tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm hoặc doanh nghiệp sử dụng những giải pháp nhằm cải tiến kỹ thuật, áp dụng các quy trình công nghệ hiện đại hoặc áp dụng các phương pháp tập hợp chi phí sản xuất đúng và đầy đủ, tính toán chính xác giá thành sản phẩm. Việc áp dụng các phương pháp tập hợp và tính chi phí sản xuất đúng đắn góp phần cải thiện tình hình chi phí của doanh nghiệp. Qua nghiên cứu lý luận và những thực tế tìm hiểu được qua thời gian thực tập tại công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Nội, em đã nhận thấy tầm quan trọng đặc biệt của công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm trong toàn bộ công tác hạch toán cũng như đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Với mục đích hoàn thiện hơn nữa kiến thức của mình và hiểu rõ thực tế trên cơ sở lý thuyết đã nghiên cứu em đã lựa chọn đề tài : “Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Nội” cho luận văn tốt nghiệp của mình. Để thể hiện rõ về mặt lý luận và minh họa thực tế trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp mà cụ thể cho công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Nội, ngoài mục lục, lời mở đầu và kết luận luận văn có kết cấu gồm ba phần như sau: Phần I: Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp Phần II: Thực tế công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Nội Phần III: Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Nội Em xin chân thành cảm ơn TS. Trần Thị Nam Thanh cùng các cán bộ nhân viên phòng kế toán công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Nội đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Do kiến thức còn hạn chế và thời gian tìm hiểu thực tế chưa nhiều nên không tránh khỏi sự sai sót, em rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô và các bạn để luận văn tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP I. Lý luận chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp 1. Chi phí sản xuất 1.1 Khái niệm chi phí sản xuất Quá trình sản xuất hàng hóa là quá trình kết hợp giữa các yếu tố tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động và đồng thời là quá trình tiêu hao các yếu tố đó. Để tiến hành sản xuất, người sản xuất phải bỏ chi phí thù lao về lao động, chi phí về tư liệu lao động và đối tượng lao động. Như vậy, chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. Đó là sự dịch chuyển vốn - chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá. Cần có sự phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hóa cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Còn chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng cho mục đích gì. Do đó, chi tiêu là cơ sở phát sinh, không có chi tiêu thì không có chi phí. Về mặt giá trị tổng chi tiêu trong kỳ đã bao gồm chi phí sản xuất trong đó, tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp (chi mua sắm vật tư, hàng hóa…), chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh (chi cho sản xuất, chế tạo sản phẩm, công tác quản lý…) và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ (chi vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo…) còn tổng số chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kỳ này. Về mặt thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng chưa được tính vào chi phí (chi phí mua nguyên vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng) và có những khoản tính vào chi phí này nhưng thực tế chưa chi tiêu (chi phí trích trước). Sự khác nhau của đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu hạch toán đã dẫn đến sự khác biệt giữa chi phí và chi tiêu. 1.2 Phân loại chi phí sản xuất Chi phí sản xuất có nhiều loại, nhiều khoản, khác nhau về nội dung, tính chất, công dụng, vai trò, vị trí… Để thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán, xuất phát từ mục đích và yêu cầu khác nhau của quản lý, chi phí sản xuất được phân loại theo những tiêu thức khác nhau, sắp xếp chi phí sản xuất theo từng loại, từng nhóm khác nhau. Phân loại chi phí theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí Nếu căn cứ vào yếu tố chi phí theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia làm 7 yếu tố chi phí sau: - Yếu tố chi phí nguyên liệu, vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị của nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ,… sử dụng vào sản xuất kinh doanh - Yếu tố chi phí nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ - Yếu tố chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương: phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho toàn bộ công nhân, viên chức. - Yếu tố chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn: phản ánh phần bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên. - Yếu tố chi phí khấu hao tài sản cố định: phản ánh tổng số khấu hao tài sản cố định phải trích trong kỳ của tất cả tài sản cố định sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ. - Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh. - Yếu tố chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh ở các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ. Cách phân loại trên nhằm phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu đồng nhất mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh của chi phí. Thực chất các loại chi phí trên đều thuộc ba yếu tố chi phí là chi phí về lao động sống, chi phí về đối tượng lao động và chi phí về tư liệu lao động. Tuy nhiên để cung cấp thông tin về chi phí một cách cụ thể hơn các yếu tố chi phí còn được chi tiết hóa theo nội dung kinh tế cụ thể của chúng và tùy theo yêu cầu và trình độ quản lý của mỗi nước, mỗi thời kỳ mà mức độ chi tiết của các yếu tố có thể khác nhau. Thông qua việc phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố, ta biết được những chi phí nào sử dụng vào quá trình sản xuất sản phẩm, biết được cơ cấu từng yếu tố chi phí trong tổng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, làm cơ sở để xây dựng dự toán chi phí sản xuất, xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Việc phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố còn là tài liệu quan trọng để xác định mức tiêu hao vận chuyển, tính thu nhập quốc dân và lập thuyết minh báo cáo tài chính. Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm Xuất phát từ vai trò của chi phí sản xuất trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân chia theo khoản mục. Cách phân loại này dựa trên công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Hiện nay, giá thành sản phẩm ở Việt Nam bao gồm các khoản mục chi phí: - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu… tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ, - Chi phí chi phí nhân công trực tiếp: gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích cho các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo tỷ lệ tiền lương phát sinh. - Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất (trừ chi phí vật liệu và nhân công trực tiếp). - Chi phí bán hàng: bao gồm toàn bộ những chi phí phát sịnh liên quan đến tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, lao vụ. - Chi phí quản lý doanh nghiệp: bao gồm những chi phí phát sinh liên quan đến quản trị kinh doanh và quản lý hành chính trong doanh nghiệp. Ngoài cách phân loại trên, chi phí sản xuất kinh doanh còn được phân loại theo nhiều cách khác nhau như: Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm Khi đó chi phí sản xuất được chia thành: chi phí cố định (hay định phí), chi phí biến đổi (hay biến phí) và chi phí hỗn hợp. Trong đó: Biến phí là những chi phí có mối quan hệ tỉ lệ thuận với sự thay đổi của khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ ví dụ như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp. Tuy nhiên biến phí tính trên một đơn vị sản phẩm thì không đổi. Định phí là những chi phí không thay đổi về tổng số khi tổng khối lượng sản phẩm thay đổi. Nhưng định phí chỉ giữ nguyên trong mức độ phạm vi phù hợp, định phí một đơn vị sản phẩm thay đổi khi sản lượng thay đổi. Các chi phí được xem là định phí như chi phí khấu hao tài sản cố định, máy móc thiết bị, tiền lương của bộ phận nhân viên quản lý phân xưởng… Chi phí hỗn hợp là loại chi phí vừa mang tính chất biến đổi vừa mang tính chất cố định so với tổng khối lượng sản phẩm. Cách phân loại trên nhằm cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập kế hoạch, kiểm tra và chủ động điều tiết chi phí. Cách phân loại này thường sử dụng trong kế toán quản trị. Phân loại chi phí theo quá trình tập hợp chi phí Căn cứ vào quá trình tập hợp chi phí, chi phí sản xuất được chia thành chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí trực tiếp là những chi phí sản xuất có quan hệ trực tiếp đến việc sản xuất ra một loại sản phẩm. Căn cứ vào chứng từ kế toán, kế toán có thể ghi trực tiếp chi phí này cho từng đối tượng chịu chi phí. Ví dụ như chi phí nguyên vật liệu chính, tiền lương, các khoản trích theo lương… Chi phí gián tiếp là những chi phí liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí. Khi đó các chi phí phát sinh được tập hợp chung và cuối kỳ phân bổ cho các đối tượng chịu chi phí theo những tiêu thức phân bổ hợp lý. Ví dụ như chi phí nhân viên quản lý phân xưởng sản xuất, chi phí mua ngoài… Việc phân loại đó tạo điều kiện tập hợp chi phí đầy đủ, hợp lý, quản lý tốt chi phí từ đó phân bổ chi phí đúng đắn. Nhưng nó cũng đặt ra yêu cầu cao hơn trong quá trình hạch toán, đòi hỏi quy trình hạch toán phải chuẩn, thích hợp do đó phức tạp hơn. Phân loại chi phí sản xuất theo cách kết chuyển chi phí Theo cách phân loại này chi phí sản xuất được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ. Chi phí sản phẩm là những khoản mục chi phí gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm hay quá trình mua hàng hóa để bán và bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Chi phí này được thu hồi khi sản phẩm được tiêu thụ, hàng hóa được bán ra. Nếu sản phẩm, hàng hóa chưa tiêu thụ thì chi phí sản phẩm sẽ nằm trong mục hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán, nếu sản phẩm được tiêu thụ chi phí sản phẩm trên bảng cân đối kế toán sẽ trở thành trị giá vốn hàng xuất bán trên phần I của báo cáo kết quả kinh doanh. Chi phí thời kỳ là các chi phí để hoạt động kinh doanh trong kỳ, không bao gồm chi phí hàng tồn kho, loại chi phí này phát sinh làm giảm lợi nhuận của kỳ đó. Chi phí thời kỳ gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Như vậy, chi phí sản phẩm chỉ phải tính để xác định kết quả ở kỳ mà sản phẩm được tiêu thụ, không tính ở kỳ mà chúng phát sinh và nó có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp ở nhiều kỳ khác nhau. Còn chi phí thời kỳ phát sinh ở kỳ nào được tính ngay vào kỳ đó và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của kỳ mà nó phát sinh. Có nhiều cách phân loại chi phí sản xuất, mỗi cách có đặc điểm riêng nhưng các cách phân loại lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tùy thuộc vào đặc điểm, nhu cầu quản lý và hạch toán mà doanh nghiệp sử dụng cách phân loại chi phí cho thích hợp 2. Giá thành sản phẩm 2.1 Khái niệm giá thành sản phẩm Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hóa có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành. Kỳ tính giá thành là thời kỳ mà kế toán cần phải tiến hành tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành. Để xác định đúng kỳ tính giá thành cần phải căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất và chu kỳ sản phẩm của doanh nghiệp. Việc xác định kỳ tính giá thành hợp lý giúp cho việc tổ chức công tác tính giá thành kế hoạch, cung cấp kịp thời số liệu giá thành thực tế của sản phẩm nhằm phát huy hơn nữa chức năng phản ánh và giám đốc của kế toán đối với công tác kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm và kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.2 Phân loại giá thành sản phẩm Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hóa giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hóa, giá thành được xét dưới nhiều góc độ, phạm vi tính toán khác nhau. Nếu căn cứ vào thời gian và cơ sở số liệu tính giá thành thì giá thành bao gồm: - Giá thành kế hoạch: là giá thành được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, dự toán chi phí của kỳ kế hoạch. Giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu, là căn cứ để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, thực hiện nhiệm vụ hạ giá thành, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. - Giá thành định mức: được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Trong khi giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch thì giá thành định mức được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với các thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình sản xuất. - Giá thành thực tế: là chi tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Giá thành thực tế là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn trong việc vận dụng các giải pháp về kinh tế, tổ chức, kỹ thuật,… để tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là căn cứ để nhà quản lý xem xét, định giá bán sản phẩm và xác định nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước đồng thời phân chia kết quả kinh doanh. Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác định được nguyên nhân vượt hay hụt định mức chi phí trong kỳ hạch toán từ đó để có biện pháp điều chỉnh chi phí cho phù hợp. Nếu theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành bao gồm: - Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất, bao gồm chi phí vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. - Giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (chi phí sản xuất, quản lý và bán hàng). Giá thành tiêu thụ còn được gọi là giá thành đầy đủ hay giá thành toàn bộ và được tính theo công thức: Giá thành toàn bộ = Giá thành sản xuất sản phẩm + Chi phí quản lý doanh nghiệp + Chi phí tiêu thụ sản phẩm 3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau vì quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: hao phí sản xuất và kết quả sản xuất. Cả chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là biểu hiện bằng tiền của những chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra cho hoạt động sản xuất. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu kinh tế trong đó chi phí sản xuất phản ánh hao phí sản xuất còn giá thành sản phẩm phản ánh mặt kết quả sản xuất. Hơn nữa trong công tác hạch toán kế toán, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là hai công việc liên tiếp và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chi phí sản xuất là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, sự tiết kiệm hay lãng phí chi phí sản xuất có thể ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Đồng thời công tác tập hợp chi phí sản xuất chính xác, đầy đủ, một cách khoa học và hợp lý sẽ làm tăng tính chính xác của thông tin giá thành sản phẩm. Tuy nhiên giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có những điểm khác nhau. Về mặt thời gian, chi phí sản xuất gắn liền với một thời kỳ nhất định còn giá thành sản phẩm liên quan đến nhiều kỳ. Về mặt giá trị, chi phí sản xuất bao gồm toàn bộ chi phí bỏ ra trong kỳ sản xuất kinh doanh không tính đến việc chi phí đó có liên quan đến khối lượng sản phẩm đã hoàn thành hay chưa trong khi đó giá thành sản phẩm là chỉ tiêu luôn gắn với sản phẩm hoàn thành, bao gồm những chi phí tính cho khối lượng sản phẩm hoàn thành trong kỳ mà không tính đến chi phí đó phát sinh ở kỳ nào. Ta có công thức thể hiện mối liên hệ giữa giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất như sau: Tổng giá thành sp hoàn thành = Chi phí sản xuất DDĐK + Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ (đã trừ các khoản thu hồi ghi giảm chi phí) - Chi phí sản xuất DDCK Như vậy, nếu giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hay không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. Nói một cách khác, chi phí sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm. II. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 1. Vai trò, ý nghĩa, nhiệm vụ và trình tự của kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Quá trình sản xuất là quá trình doanh nghiệp bỏ ra các chi phí đầu vào để tạo ra các dịch vụ đầu ra cung cấp cho thị trường trong đó chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp phải chi ra trong sản xuất – kinh doanh trong một kỳ nhất định. Quá trình đó được kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đảm nhiệm, với vai trò phản ánh và giám đốc một cách toàn diện và hệ thống quá trình phát sinh chi phí, khối lượng chi phí kết tinh trong sản phẩm, trên cơ sở đó tính được lợi nhuận của mình. Như vậy, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một bộ phận cấu thành của công tác kế toán trong doanh nghiệp, giữ vai trò quan trọng trong công tác hạch toán, phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất. Vì giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế đồng thời phản ánh chi phí doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất sản phẩm và kết quả sản xuất cũng như khả năng đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp nên chỉ tiêu giá thành có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý. Nó không chỉ có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa với các cơ quan chức năng của Nhà nước, Bộ tài chính, cơ quan thuế… Từ đó đặt ra yêu cầu phải có sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ công tác quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm nhằm phản ánh đúng đắn nhất thực tế tình hình sản xuất tại doanh nghiệp. Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong mối tương quan tổng thể với hạch toán kế toán nói chung trong doanh nghiệp là cơ sở để các nhà quản lý kiểm soát được các chi phí phát sinh, thực hiện tính đúng, tính đủ các khoản chi phí nằm trong cơ cấu giá thành sản phẩm từ đó có các biện pháp tối ưu hóa chi phí đầu vào, lập kế hoạch sản xuất cũng như tiêu thụ. Chỉ tiêu chi phí và giá thành trong từng doanh nghiệp còn góp phần phản ánh khách quan, thực chất tình hình kinh tế nói chung cũng như giúp các nhà hoạch định chính sách có cái nhìn thực tế, hoạch định đường lối phát triển phù hợp và đúng đắn. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường vận hành theo những quy luật khách quan, các chủ thể kinh tế đều hoạt động vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận thì vấn đề chi phí và kết quả sản xuất ngày càng trở nên quan trọng. Nó không chỉ trực tiếp ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp mà là chỉ tiêu để thông qua đó các nhà đầu tư có những quyết định có nên đầu tư vào doanh nghiệp hay không. Từ các chỉ tiêu của từng doanh nghiệp ta có kết quả sản xuất của các ngành và rộng hơn là khả năng sản xuất của cả nền kinh tế. Như vậy, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong công tác hạch toán nói riêng và cho quản lý nói chung của doanh nghiệp cũng như của các cơ quan, ban ngành liên quan. Xuất phát từ vai trò quan trọng của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong công tác kế toán nói riêng và quản lý doanh nghiệp nói chung, để phản ánh một cách chính xác, khách quan nhất tình hình sản xuất của doanh nghiệp kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: Tính toán và phản ánh một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời tình hình phát sinh chi phí sản xuất ở các bộ phận sản xuất cũng như trong phạm vi toàn doanh nghiệp gắn liền với các loại chi phí sản xuất khác cũng như theo từng loại sản phẩm được sản xuất. Tính toán kịp thời, chính xác giá thành của từng loại sản phẩm được sản xuất. Kiểm tra chặt chẽ tình hình thực hiện các định mức tiêu hao và các dự toán chi phí nhằm phát hiện kịp thời các hiện tượng lãng phí, sử dụng chi phí không đúng kế hoạch hoặc sai mục đích. Lập báo cáo về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, tham gia phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, đề xuất biện pháp để tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm. Quy trình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm như sau: Bước 1: Tập hợp chi phí sản xuất phát sinh theo ba khoản mục, nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Bước 2: Tổng hợp các khoản chi phí sản xuất đã phát sinh, phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng có liên quan và tiến hành kết chuyển các khoản chi phí này về tài khoản tính giá thành. Bước 3: Tổng hợp toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ và đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ. Bước 4: Tính giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ. 2. Đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 2.1 Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chính xác, kịp thời thì nhiệm vụ đầu tiên của các nhà quản lý là phải xác định đúng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Căn cứ vào yêu cầu quản lý, kiểm tra và phân tích chi phí, yêu cầu hạch toán kinh doanh nội bộ, theo đặc điểm quy trình công nghệ của từng doanh nghiệp và yêu cầu tính giá thành sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định mà tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau và có quan hệ mật thiết với nhau là giai đoạn hạch toán chi tiết chi phí sản xuất và giai đoạn tính giá thành sản phẩm. Việc phân chia quá trình hạch toán thành hai giai đoạn đó là do sự khác nhau cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí sản xuất trong hạch toán chi phí sản xuất và sản phẩm hoàn thành. Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chính là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Còn xác định đối tượng tính giá thành chính là việc xác định sản phẩm, bán thành phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối tượng đó có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang trên dây chuyền sản xuất tùy theo yêu cầu của chế độ hạch toán kinh tế mà doanh nghiệp đang áp dụng. Các doanh nghiệp căn cứ trên các cơ sở khác nhau để phân biệt đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành ngay cả khi chúng đồng nhất là một - Nếu căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: sản xuất giản đơn hay phức tạp Với sản xuất giản đơn: đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất (nếu sản xuất một thứ sản phẩm) hoặc có thể là nhóm sản phẩm (nếu sản xuất nhiều thứ sản phẩm cùng tiến hành trong một quá trình lao động). Đối tượng tính giá thành ở đây là sản phẩm cuối cùng. Với sản xuất phức tạp: đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm,… còn đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo. - Nếu căn cứ vào loại hình sản xuất: đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn. Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất nhỏ hàng loạt: đối tượng hạch toán chi phí là các đơn đặt hàng riêng biệt, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn. Với sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn: phụ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất (đơn giản hay phức tạp) mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ… còn đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm. - Nếu căn cứ vào yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh: dựa trên cơ sở trình độ, yêu cầu và tổ chức quản lý để xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành. Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành ở các góc độ khác nhau, ngược lại nếu trình độ thấp thì đối tượng đó có thể bị hạn chế và thu hẹp lại. Việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là vấn đề có ý nghĩa lớn, mang tính định hướng cho tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Đồng thời thể hiện được mục đích và phạm vi tiến hành hai giai đoạn của công tác kế toán nêu trên. 2.2 Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạng của đối tượng hạch toán chi phí. Về cơ bản, phương pháp hạch toán chi phí bao gồm các phương pháp hạch toán chi phí theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn công nghệ, theo phân xưởng, theo nhóm sản phẩm,… Thông thường các doanh nghiệp sử dụng phương pháp tập hợp chi phí sản xuất trực tiếp và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất gián tiếp. Phương pháp tập hợp trực tiếp áp dụng cho những chi phí có thể xác định được đối tượng chịu chi phí ngay từ khi phát sinh. Căn cứ vào chứng từ ban đầu, kế toán hạch toán vào tài khoản phù hợp theo từng loại và chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí. Sử dụng phương pháp này đòi hỏi công tác hạch toán phải được tổ chức chặt chẽ, tỉ mỉ theo đúng đối tượng chịu chi phí. Trong khi đó, phương pháp tập hợp chi phí sản xuất gián tiếp được sử dụng trong trường hợp không xác định mức chi phí cho từng đối tượng riê._.ng biệt. Các chi phí phát sinh được tập hợp vào một tài khoản chung, sau đó phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí theo các tiêu thức phân bổ thích hợp. Tiêu thức phân bổ chi phí có thể là tổng giờ công lao động trực tiếp, tổng tiền lương sản phẩm… Các tiêu thức phân bổ được lựa chọn trên cơ sở mối liên hệ trực tiếp và mối tương quan tỉ lệ thuận với chi phí cần phân bổ đồng thời việc phân bổ phải đơn giản, dễ tính toán. Việc phân bổ chi phí được thực hiện theo các bước: Bước 1: Xác định hệ số phân bổ Bước 2: Xác định mức chi phí phân bổ cho từng đối tượng Phương pháp tính giá thành sản phẩm là phương pháp hoặc hệ thống phương pháp được sử dụng để tính giá thành của đơn vị sản phẩm, mang tính thuần túy kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Tùy thuộc vào đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng tính giá thành sản phẩm trong từng điều kiện cụ thể mà doanh nghiệp lựa chọn phương pháp tính giá thành cho phù hợp. Trong các doanh nghiệp hiện nay thường sử dụng các phương pháp tính giá thành sau: Phương pháp trực tiếp (phương pháp giản đơn): phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với khối lượng lớn và chu kỳ sản xuất ngắn như các nhà máy điện, nước, các doanh nghiệp khai thác. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp này là từng loại sản phẩm hay dịch vụ. Khi đó giá thành được tính trực tiếp Giá thành sản phẩm = Tổng chi phí sản xuất + Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ - Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ Số lượng sản phẩm hoàn thành Phương pháp tổng cộng chi phí: áp dụng với các doanh nghiệp có quá trình sản xuất sản phẩm được thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất nhiều giai đoạn công nghệ như trong các doanh nghiệp dệt, khai thác, nhuộm, cơ khí, may mặc… đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là các bộ phận, chi tiết sản phẩm hoặc giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản xuất. Giá thành sản phẩm được xác định bằng cách cộng chi phí sản xuất của các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận sản xuất tạo nên thành phẩm. Giá thành sản phẩm = Z1 + Z2 + … + Zn Phương pháp hệ số: phương pháp này được áp dụng trong những doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không hạch toán riêng cho từng loại sản phẩm được mà phải hạch toán chung cho cả quá trình sản xuất. Theo phương pháp này, trước hết, kế toán căn cứ vào hệ số quy đổi để quy các loại sản phẩm về sản phẩm gốc Q0 = (Qi là số lượng sản phẩm i chưa quy đổi) Từ đó, dựa vào tổng chi phí liên quan đến giá thành các loại sản phẩm đã tập hợp để tính ra giá thành sản phẩm gốc Tổng giá thành sản xuất của các loại sp = Giá trị sp dở dang đầu kỳ + Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ - Giá trị sp dở dang cuối kỳ Giá thành đơn vị sản phẩm gốc (Z0) = Tổng giá thành sản xuất của các loại sản phẩm Tổng số sản phẩm gốc quy đổi (Q0) Và xác định giá thành sản phẩm đơn vị từng loại sản phẩm Giá thành đơn vị sản phẩm i (Zi) = Giá thành đơn vị sản phẩm gốc (Z0) x Hệ số quy đổi sản phẩm i (Hi) Phương pháp tỉ lệ: được áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách, phẩm chất khác nhau như may mặc, dệt kim, đóng giầy, cơ khí chế tạo (dụng cụ, phụ tùng) nhằm giảm bớt khối lượng hạch toán. Căn cứ vào tỉ lệ chi phí giữa chi phí sản xuất thực tế với chi phí sản xuất kế hoạch hoặc định mức, kế toán sẽ tính ra giá thành đơn vị và tổng giá thành sản phẩm từng loại. Trình tự tính toán được thực hiện như sau: Trước hết kế toán xác định tổng giá thành thực tế chung của các sản phẩm Tổng giá thành thực tế của các loại sp = Giá trị sp dở dang đầu kỳ + Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ - Giá trị sp dở dang cuối kỳ Sau đó, xác định tổng giá thành kế hoạch hoặc định mức chung: Tổng giá thành kế hoạch = ∑ Giá thành đơn vị kế hoạch của từng loại sp x Số lượng sản phẩm hoàn thành của từng sản phẩm Khi đó, tỉ lệ chi phí được xác định Tỉ lệ chi phí = Tổng giá thành thực tế x 100% Tổng giá thành kế hoạch Cuối cùng ta tính được giá thành thực tế đơn vị từng sản phẩm Giá thành thực tế đơn vị sp từng loại = Giá thành kế hoạch hoặc định mức đơn vị từng sp x Tỉ lệ chi phí Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ: đối với các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên cạnh các sản phẩm chính thu được còn có thể thu được những sản phẩm phụ (doanh nghiệp chế biến đường, rượu, bia, mỳ ăn liền…), để tính giá trị sản phẩm chính, kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể được xác định theo nhiều phương pháp như giá có thể sử dụng được, giá trị ước tính, giá kế hoạch, giá nguyên liệu ban đầu… Tổng giá thành sp chính = Giá trị sp chính dở dang cuối kỳ + Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ - Giá trị sp phụ thu hồi - Giá trị sp chính dở dang cuối kỳ Phương pháp liên hợp: áp dụng trong những doanh nghiệp có tổ chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như các doanh nghiệp sản xuất hóa chất, dệt kim, đóng giầy, may mặc… Trên thực tế, kế toán có thể kết hợp phương pháp trực tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ lệ, hệ số với loại trừ giá trị sản phẩm phụ v.v… 3. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên 3.1 Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp a. Tài khoản sử dụng Để theo dõi các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng tài khoản 621 – Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí. Kết cấu và nội dung phản ánh của TK 621: Bên Nợ: Trị giá thực tế nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp cho hoạt động sản xuất sản phẩm, hoặc thực hiện dịch vụ trong kỳ hạch toán. Bên Có: Giá trị vật liệu xuất dùng không hết được nhập lại. Kết chuyển trị giá nguyên vật liệu thực tế sử dụng cho sản xuất, kinh doanh trong kỳ vào TK 154 và chi tiết cho các đối tượng để tính giá thành sản phẩm, dịch vụ. Kết chuyển chi phí NVL trực tiếp vượt trên mức bình thường vào TK 632. Tài khoản 621 cuối kỳ không có số dư. b. Sơ đồ hạch toán TK 151, 152, 111, TK 621 TK 154 112, 331… Chi phí NVL trực tiếp Cuối kỳ, kết chuyển chi phí Xuất kho NVL dùng cho sản NVL trực tiếp sang TK 154 xuất sản phẩm, thực hiện dịch vụ TK 152 TK 111, 112, 331… Vật liệu dùng không hết nhập kho Mua NVL dùng ngay vào vào sản xuất sản phẩm, thực TK 632 hiện dịch vụ Phần chi phí NVL trực tiếp TK 133 vượt trên mức bình thường Thuế GTGT được khấu trừ Sơ đồ 01: Kế toán chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp 3.2 Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp a. Tài khoản sử dụng Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm các khoản phải trả cho người lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm, thực hiện dịch vụ thuộc danh sách quản lý của doanh nghiệp và cho lao động thuê ngoài theo từng loại công việc, như tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp, các khoản trích theo lương (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn) Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng tài khoản 622 – Chi phí nhân công trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí như tài khoản 621. Kết cấu tài khoản: Bên Nợ: Chi phí nhân công trực tiếp tham gia quá trình sản xuất sản phẩm, thực hiện dịch vụ bao gồm: tiền lương, tiền công lao động và các khoản trích trên tiền lương, tiền công theo quy định phát sinh trong kỳ. Bên Có: Kết chuyển chi phí NCTT vào vào bên Nợ TK 154. Kết chuyển chi phí NCTT vượt trên mức bình thương vào TK 632. Tài khoản 622 cuối kỳ không có số dư. b. Sơ đồ hạch toán TK 334 TK 622 TK 154 Chi phí nhân công trực tiếp Tiền lương và phụ cấp lương phải phải trả cho công nhân trực tiếp cuối kỳ, kết chuyển chi phí NCTT sang TK 154 TK 335 Tiền lương nghỉ Trích trước tiền phép phải trả cho lương nghỉ phép TK 632 công nhân của công nhân sản xuất Phần chi phí NCTT vượt TK 338 trên mức bình thường Tính BHXH, BHYT, KPCĐ cho cho công nhân sản xuất, thực hiện dịch vụ Sơ đồ 02: Kế toán chi phí nhân công trực tiếp 3.3 Hạch toán chi phí trả trước Chi phí trả trước là các khoản chi phí thực tế đã phát sinh nhưng chưa tính hết vào chi phí sản xuất kinh doanh của kỳ này mà được tính cho hai hay nhiều kỳ hạch toán sau đó. Chi phí trả trước được phân chia thành chi phí trả trước ngắn hạn và chi phí trả trước dài hạn. Chi phí trả trước ngắn hạn là những khoản chi phí thực tế đã phát sinh nhưng có liên quan tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều kỳ hạch toán trong một năm tài chính hoặc một chu kỳ kinh doanh, nên chưa thể tính hết vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ phát sinh mà được tính vào hai hay nhiều kỳ kế toán tiếp theo. Chi phí trả trước ngắn hạn bao gồm: - Chi phí trả trước về thuê cửa hàng, nhà xưởng, nhà kho, văn phòng, thuê dịch vụ cung cấp cho hoạt động kinh doanh của một năm tài chính hoặc một chu kỳ kinh doanh. - Công cụ, dụng cụ thuộc tài sản lưu động xuất dùng một lần với giá trị lớn và công cụ, dụng cụ có thời gian sử dụng dưới một năm. - Chi phí sửa chữa tài sản cố định phát sinh một lần quá lớn cần phải phân bổ cho nhiều kỳ kế toán trong một năm tài chính hoặc một chu kỳ kinh doanh. - Chi phí trả trước ngắn hạn khác như lãi tiền vay trả trước, lãi mua hàng trả chậm, trả góp… …. Để theo dõi các khoản chi phí trả trước ngắn hạn, kế toán sử dụng TK 142 – Chi phí trả trước ngắn hạn. Kết cấu và nội dung phản ánh của TK 142 như sau: Bên Nợ: Các khoản chi phí trả trước ngắn hạn thực tế phát sinh. Bên Có: Các khoản chi phí trả trước ngắn hạn đã tính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Số dư bên Nợ: Các khoản chi phí trả trước ngắn hạn chưa tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh. Ta có phương pháp hạch toán kế toán một số nghiệp vụ kinh tế chủ yếu được thể hiện qua sơ đồ sau. TK 111, 112, 152, 153 TK 142 TK 241, 627, 241, 331, 334, 338… Chi phí trả trước ngắn hạn 641, 642 Khi phát sinh chi phí trả trước ngắn hạn có liên quan đến nhiều Định kỳ phân bổ chi phí trả kỳ kế toán trong năm ngắn hạn vào chi phí SXKD TK 133 TK 152, 138 Thuế GTGT Giá trị phế liệu thu hồi (nếu được khấu trừ có), khoản bồi thường vật TK 153 (nếu có) chất của người làm hỏng,mất công cụ, dụng cụ… Khi xuất công cụ, dụng cụ một lần có TK 627, 641, 642 có giá trị sử dụng lớn dưới một năm phải phân bổ nhiều kỳ trong một năm Phân bổ giá trị công cụ, dụng TK 241, 111, 112… cụ vào chi phí SXKD Chi phí sửa chữa TSCĐ thực tế phát sinh lớn phải phân bổ dần, chi phí trực TK 212, 635… tiếp ban đầu liên quan đến tài sản thuê tài chính, lãi tiền vay trả trước… Ghi nhận chi phí trực tiếp ban đầu liên quan đến hoạt động thuê tài chính, phân bổ lãi tiền vay Chi phí trả trước dài hạn là các chi phí thực tế đã phát sinh nhưng có liên quan đến kết quả hoạt động SXKD của nhiều niên độ kế toán. Chi phí trả trước bao gồm các chi phí sau: - Chi phí trả trước về thuê hoạt động TSCĐ phục vụ cho sản xuất kinh doanh nhiều năm tài chính. - Chi phí nghiên cứu có giá trị lớn được phép phân bổ tối đa không quá 03 năm. - Chi phí đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật. - Công cụ, dụng cụ xuất dùng một lần với giá trị lớn và bản thân công cụ, dụng cụ tham gia vào hoạt động kinh doanh trên một năm tài chính phải phân bổ dần vào các đối tượng chịu chi phí trong nhiều năm. - Chi phí đi vay trả trước dài hạn như lãi tiền vay trả trước… - Chi phí sửa chữa lớn TSCĐ phát sinh một lần có giá trị lớn doanh nghiệp không thực hiện trích trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ, phải phân bổ nhiều năm. - … Kế toán sử dụng TK 242 – Chi phí trả trước dài hạn để theo dõi chi tiết các khoản chi phí trả trước dài hạn. TK 242 có kết cấu và nội dung như sau: Bên Nợ: Các khoản chi phí trả trước dài hạn phát sinh trong kỳ Phản ánh kết chuyển chênh lệch tỉ giá hối đoái phát sinh và chênh lệch tỉ giá hối đoái do đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản khi hoàn thành đầu tư để phân bổ dần vào chi phí tài chính. Bên Có: Các khoản chi phí dài hạn trả trước đã tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ Phản ánh số phân bổ chênh lệch tỉ giá hối đoái phát sinh và đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản vào chi phí tài chính trong kỳ Số dư bên Nợ: Các khoản chi phí trả trước dài hạn chưa tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ Chênh lệch tỉ giá hối đoái phát sinh và đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản khi hoàn thành đầu tư chưa xử lý tại thời điểm cuối năm tài chính. Các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu liên quan đến chi phí trả trước dài hạn được minh họa qua sơ đồ sau: TK 111, 112, 152, TK 242 TK 627, 635, 331, 334, 338… Chi phí trả trước dài hạn 641, 642… Khi phát sinh các khoản chi phí trả trước dài hạn Định kỳ phân bổ chi phí trả TK 133 trước dài hạn vào chi phí SXKD Thuế GTGT TK 627, 641, 642 (nếu có) Phân bổ giá trị công cụ, dụng TK 153 cụ, sửa chữa lớn TSCĐ vào chi phí SXKD Khi xuất công cụ, dụng cụ có giá trị TK 635 lớn, sử dụng nhiều năm lãi trả chậm, trả góp mua TSCĐ TK 331, 241, 413 BĐS đầu tư, chênh lệch lỗ tỉ giá Lãi trả chậm khi mua TSCĐ theo và đánh giá lại ngoại tệ phương thức trả chậm, chi phí sửa chữa lớn TSCĐ, kết chuyển lỗ chênh lệch tỉ TK 635, 241, 627 giá TK 341, 311, 3431 Lãi tiền vay phải trả từng kỳ, lãi Trái phiếu trả trước vào chi phí Vay tiền, lãi tiền vay trả trước, lãi trái SXKD hoặc vốn hóa phiếu trả trước TK 111, 112, 152, 153, 334… TK 632 Chi phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu Chi phí phát sinh sau ghi nhận của bất động sản đầu tư có giá trị lớn đầu của BĐS đầu tư vào chi phí và không đủ điều kiện vốn hóa SXKD trong kỳ Sơ đồ 03: Kế toán chi phí trả trước dài hạn 3.4 Hạch toán chi phí phải trả Chi phí phải trả là những khoản chi phí thực tế chưa phát sinh nhưng được tính trước vào chi phí sản xuất kinh doanh kỳ này cho các đối tượng chịu chi phí để đảm bảo khi các khoản chi trả phát sinh thực tế không gây đột biến cho sản phẩm sản xuất, kinh doanh. Việc hạch toán các khoản chi phí phải trả phải thực hiện theo nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí phát sinh trong kỳ. Các loại chi phí phải trả gồm: - Trích trước chi phí tiền lương phải trả cho công nhân sản xuất trong thời gian nghỉ phép - Chi phí sửa chữa lớn TSCĐ đặc thù do việc sửa chữa có tính chu kỳ, doanh nghiệp được phép trích trước chi phí sửa chữa cho năm kế hoạch hoặc một số năm tiếp theo. - Chi phí trong thời gian doanh nghiệp ngừng sản xuất theo mùa vụ. - Trích trước chi phí lãi tiền vay phải trả trong trường hợp vay trả lãi sau, lãi trái phiếu trả sau. TK 335 – Chi phí phải trả có kết cấu như sau: Bên Nợ: - Các khoản chi trả thực tế phát sinh được tính vào chi phí phải trả - Số chênh lệch về chi phí phải trả lớn hơn số chi phí thực tế được ghi giảm chi phí Bên Có: Chi phí phải trả dự tính trước và ghi nhận vào chi phí sản xuất, kinh doanh. Số dư bên Có: Chi phí phải trả đã tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh nhưng thực tế chưa phát sinh. Các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu liên quan đến chi phí phải trả được biểu diễn qua sơ đồ sau: TK 334 TK 335 – Chi phí phải trả TK 622 Tiền lương nghỉ phép thực tế phải Trích trước vào chi phí về tiền cho công nhân sản xuất (2) lương nghỉ phép của CNSX (1) TK 111, 112, 152, TK 623, 627 241 641, 642, 635, 241 Chi phí thực tế trong thời gian Chi phí dự tính phải chi trong Ngừng sản xuất, SCL hoàn thành, thời gian ngừng sản xuất, trích Thanh toán lãi trái phiếu, tiền vay SCL TSCĐ, lãi tiền vay, lãi trái phiếu phải trả TK 623, 627, 641, 642 Chênh lệch giữa chi phí thực tế lớn hơn số đã trích trước Chênh lệch giữa chi phí trích trước lớn hơn Chi phí thực tế kết chuyển giảm chi phí trong kỳ Sơ đồ 04: Kế toán chi phí phải trả 3.5 Hạch toán các khoản thiệt hại về sản phẩm hỏng 3.5.1 Hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng Sản phẩm hỏng là sản phẩm không thỏa mãn các tiêu chuẩn chất lượng và đặc điểm kỹ thuật của sản xuất về màu sắc, kích cỡ, trọng lượng, cách thức lắp ráp… Tùy theo mức độ hư hỏng mà sản phẩm hỏng được chia làm 2 loại là sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được (là những sản phẩm mà về mặt kỹ thuật có thể sửa chữa được và việc sửa chữa đó có lợi về mặt kinh tế) và sản phẩm hỏng không sửa chữa được (là những sản phẩm về mặt kỹ thuật không thể sửa chữa được hoặc có thể sửa chữa được nhưng không có lợi về mặt kinh tế). Trong quan hệ với công tác kế hoạch, cả hai loại sản phẩm hỏng nói trên lại được chi tiết thành sản phẩm hỏng trong định mức và sản phẩm hỏng ngoài định mức. Những sản phẩm mà doanh nghiệp dự kiến sẽ xảy ra trong quá trình sản xuất được coi là hỏng trong định mức. Khác với sản phẩm hỏng trong định mức, sản phẩm hỏng ngoài định mức là những sản phẩm hỏng nằm ngoài dự kiến của nhà sản xuất do các nguyên nhân chủ quan. Thiệt hại của những sản phẩm này không được chấp nhận nên chi phí của chúng không được cộng vào chi phí sản xuất chính phẩm mà thường được xem là khoản phí tổn thời kỳ, phải trừ vào thu nhập (sau khi trừ các khoản thu hồi, bồi thường của người phạm lỗi – nếu có). Vì thế, cần thiết phải hạch toán riêng giá trị thiệt hại của những sản phẩm ngoài định mức và xem xét từng nguyên nhân gây ra sản phẩm hỏng để có biện pháp xử lý. Toàn bộ giá trị thiệt hại có thể theo dõi riêng trên tài khoản 1381 (chi tiết cho sản phẩm hỏng ngoài định mức), sau khi trừ đi số phế liệu thu hồi và bồi thường (nếu có), thiệt hại thực về sản phẩm hỏng sẽ được tính vào giá vốn hàng bán hay chi phí khác hoặc trừ vào quỹ dự phòng tài chính… Ta có cách hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng ngoài định mức thể hiện qua sơ đồ sau: TK 152, 153, 334 TK 1381(SPHNĐM) TK 632, 415… Chi phí sửa chữa sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được Giá trị sản phẩm hỏng không sửa chữa được Giá trị thiệt hại thực về sản phẩm hỏng ngoài định mức Giá trị phế liệu thu hồi và các khoản bồi thường 338,241,... TK 154, 155, 157, 632 TK 1388, 152.. Sơ đồ 05: Hạch toán thiệt hại sản phẩm hỏng ngoài định mức 3.5.2 Hạch toán thiệt hại về ngừng sản xuất Trong thời gian ngừng sản xuất vì những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan, các doanh nghiệp vẫn phải bỏ ra một số khoản chi phí để duy trì hoạt động như tiền công lao động, khấu hao TSCĐ, chi phí bảo dưỡng… Những khoản chi phí chi ra trong thời gian này được coi là thiệt hại về ngừng sản xuất. Với những khoản chi phí về ngừng sản xuất theo kế hoạch dự kiến, kế toán đã theo dõi ở tài khoản 335 – Chi phí phải trả. Trường hợp ngừng sản xuất bất thường, các chi phí bỏ ra trong thời gian này do không được chấp nhận nên phải theo dõi riêng trên tài khoản 1381 (chi tiết thiệt hại về ngừng sản xuất) tương tự như hạch toán sản phẩm ngoài định mức. Cuối kỳ, sau khi trừ phần thu hồi (nếu có), giá trị thiệt hại thực tế sẽ được tính vào giá vốn hàng bán, vào chi phí khác hay trừ vào quỹ dự phòng tài chính… Sơ đồ hạch toán được thể hiện như sau: TK 334, 338, 152, 214… TK 1381 (THNSX) TK 632, 415… Thiệt hại thực tế về ngừng sản xuất Tập hợp chi phí chi ra trong thời gian ngừng sản xuất ngoài kế hoạch TK 1388, 111… Giá trị bồi thường của tập thể, cá nhân gây ra ngừng sản xuất Sơ đồ 06: Kế toán tổng hợp thiệt hại ngừng sản xuất ngoài kế hoạch 3.6 Hạch toán chi phí sản xuất chung Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. Để theo dõi các khoản chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng tài khoản 627 – Chi phí sản xuất chung mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất. Khi hạch toán, chi phí sản xuất chung được chi tiết theo định phí (gồm những chi phí sản xuất gián tiếp, không thay đổi theo số lượng sản phẩm hoàn thành như chi phí khấu hao, chi phí bảo dưỡng máy móc thiết bị…) và biến phí (gồm những chi phí còn lại, thay đổi theo số lượng sản phẩm hoàn thành) Kết cấu tài khoản như sau: Bên Nợ: Các chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh Bên Có: - Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung Chi phí sản xuất chung cố định không phân bổ được ghi nhận vào giá vốn hàng bản trong kỳ do mức sản phẩm thực tế sản xuất ra thấp hơn công suất bình thường Kết chuyển chi phí sản xuất chung vào bên Nợ TK 154 Tài khoản 627 cuối kỳ không có số dư và được chi tiết thành các tiểu khoản TK 6271 – Chi phí nhân viên phân xưởng TK 6272 – Chi phí nguyên vật liệu TK 6273 – Chi phí dụng cụ sản xuất TK 6274 – Chi phí khấu hao tài sản cố định TK 6277 – Chi phí dịch vụ mua ngoài TK 6278 – Chi phí bằng tiền khác Ngoài ra, tùy yêu cầu quản lý của từng doanh nghiệp, từng ngành, tài khoản 627 có thể mở thêm một số tiểu khoản khác để phản ánh một số nội dung hoặc yếu tố chi phí. Do chi phí sản xuất chung có liên quan đến nhiều loại sản phẩm trong phân xưởng nên cần thiết phải phân bổ khoản chi phí này cho từng đối tượng theo tiêu thức phù hợp. Đối với chi phí sản xuất chung biến đổi, kế toán sẽ phân bổ hết cho lượng sản phẩm hoàn thành theo công thức sau: Mức biến phí SXC phân bổ cho từng đối tượng Tổng biến phí sản xuất chung cần phân bổ Tổng tiêu thức phân bổ của từng đối tượng = x Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng Đối với định phí sản xuất chung, trong trường hợp mức sản phẩm thực tế sản xuất cao hơn mức công suất bình thường (mức công suất bình thường là mức sản phẩm đạt được ở mức trung bình trong điều kiện sản xuất bình thường) thì định phí sản xuất chung được phân bổ hết cho số sản phẩm sản xuất theo công thức: Mức định phí SXC phân bổ cho từng đối tượng Tổng định phí sản xuất chung cần phân bổ Tổng tiêu thức phân bổ của từng đối tượng = x Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng Trường hợp mức sản phẩm thực tế sản xuất ra nhỏ hơn mức công suất bình thường thì phần định phí sản xuất chung phải phân bổ theo mức công suất bình thường, trong đó số định phí sản xuất chung tính cho lượng sản phẩm chênh lệch giữa thực tế so với mức bình thường được tính vào giá vốn hàng tiêu thụ (còn gọi là định phí sản xuất chung không phân bổ). Công thức phân bổ: Mức định phí SXC phân bổ cho sp thực tế Tổng tiêu thức phân bổ của mức sp sản xuất thực tế Tổng định phí SXC cần phân bổ = x Tổng tiêu thức phân bổ của sp theo công suất bình thường Mức chi phí sản xuất chung tính cho phần chênh lệch sản phẩm thực tế với công suất bình thường tính như sau: Mức định phí SXC (không phân bổ) tính cho lượng sp chênh lệch = Tổng định phí SXC cần phân bổ - Mức định phí SXC phân bổ cho mức sp thực tế Trên cơ sở phân bổ, biến phí sản xuất chung và định phí sản xuất chung cho các đối tượng, kế toán ghi: Nợ TK 154 (chi tiết theo từng đối tượng): phần tính vào giá thành sản phẩm Nợ TK 632: phần tính vào giá vốn hàng bán Có TK 627(chi tiết từng loại và theo phân xưởng) Quy trình hạch toán chi phí sản xuất chung được thể hiện qua sơ đồ sau: TK 334, 338 TK 627 – Chi phí sản xuất chung TK 111, 112, 152… Chi phí nhân viên phân xưởng Các khoản thu hồi ghi giảm chi phí sản xuất chung TK 152, 153, 142, 242 TK 154 Chi phí vật liệu, dụng cụ Phân bổ(kết chuyển) chi phí sản xuất chung cho các đối tượng tính giá TK 111, 112, 142, 242, 335… TK 632 Chi phí đi vay phải trả (nếu được vốn hóa) Kết chuyển CPSXC cố định (không phân bổ) vào giá vốn TK 214 Chi phí khấu hao TSCĐ TK 331, 111, 112… Các chi phí sản xuất khác mua ngoài phải trả hay đã trả, chi TK 133 phí bằng tiền khác Thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ (nếu có) Sơ đồ 07: Kế toán chi phí sản xuất chung 3.7 Kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang và tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 3.7.1 Tổng hợp chi phí sản xuất Các chi phí sản xuất kể trên cuối cùng đều phải được tổng hợp vào bên Nợ TK 154 – Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Tài khoản 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang được mở chi tiết theo từng ngành sản xuất, từng nơi phát sinh chi phí hay từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết sản phẩm của các bộ phận sản xuất – kinh doanh chính, sản xuất – kinh doanh phụ. TK 154 có kết cấu: Bên Nợ: Tổng hợp các chi phí sản xuất trong kỳ Bên Có: Các khoản ghi giảm chi phí sản phẩm Tổng giá thành sản xuất thực tế hay chi phí thực tế của sản phẩm Dư Nợ: Chi phí thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ dở dang, chưa hoàn thành. Quá trình hạch toán được thể hiện qua sơ đồ sau: TK 621 TK 154 TK 152, 111.. Chi phí NVL trực tiếp Các khoản ghi giảm chi phí TK 622 TK 155, 152 Chi phí nhân công trực tiếp Nhập kho TK 627 TK 157 Chi phí sản xuất chung Gửi bán TK 632 Tiêu thụ Khoản chi phí sản xuất chung cố định không phân bổ vào giá sản phẩm, được ghi nhận vào giá vốn hàng bán Sơ đồ 08: Kế toán chi phí sản xuất kinh doanh dở dang theo phương pháp kê khai thường xuyên 3.7.2 Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn đang nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm, doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang. Tùy theo đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm mà doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang sau: + Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu chính Theo phương pháp này, toàn bộ chi phí chế biến được tính hết cho thành phẩm. Do vậy, trong sản phẩm dở dang chỉ bao gồm giá trị vật liệu chính. Giá trị vật liệu chính nằm trong sp dở dang Số lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ Toàn bộ giá trị vật liệu chính xuất dùng = x Số lượng thành phẩm + Số lượng sp dở dang + Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo sản lượng ước tính tương đương Dựa vào mức độ hoàn thành và số lượng sản phẩm dở dang để quy sản phẩm dở dang thành sản phẩm hoàn thành. Tiêu chuẩn quy đổi thường dựa vào giờ công hoặc tiền lương định mức. Để đảm bảo tính chính xác của việc đánh giá, phương pháp này chỉ nên áp dụng để tính các chi phí chế biến, còn các chi phí nguyên vật liệu chính phải xác định theo số thực tế đã dùng. Giá trị vật liệu chính nằm trong SPDD Số lượng sp DDCK (không quy đổi) Toàn bộ giá trị vật liệu chính xuất dùng = x Số lượng thành phẩm + Số lượng SPDD không quy đổi Chi phí chế biến nằm trong SPDD (theo từng loại) Số lượng sp DDCK quy đổi ra thành phẩm Tổng chi phí chế biến từng loại = x Số lượng thành phẩm + Số lượng SPDD quy đổi ra t.phẩm + Xác định giá trị dở dang theo 50% chi phí chế biến Để đơn giản cho việc tính toán, đối với những loại sản phẩm mà chi phí chế biến chiếm tỷ trọng thấp trong tổng chi phí, kế toán thường sử dụng phương pháp này. Thực chất đây là một dạng của phương pháp ước tính theo sản lượng tương đương, trong đó giả định sản phẩm dở dang đã hoàn thành ở mức độ 50% so với thành phẩm. Giá trị sản phẩm dở dang, chưa hoàn thành = Giá trị NVL chính nằm trong sản phẩm dở dang + 50% chi phí chế biến + Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc theo chi phí trực tiếp Theo phương pháp này, trong giá trị sản phẩm dở dang chỉ bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc chi phí trực tiếp (nguyên vật liệu và nhân công trực tiếp) mà không tính đến các chi phí khác. + Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí định mức hoặc kế hoạch Căn cứ vào định mức tiêu hao (hoặc chi phí kế hoạch) cho các khâu, các bước, các công việc trong quá trình chế tạo sản phẩm để xác định giá trị sản phẩm dở dang. Ngoài ra, trên thực tế, người ta còn áp dụng các phương pháp khác để xác định giá trị sản phẩm dở dang như phương pháp thống kê kinh nghiệm, phương pháp tính theo chi phí nguyên vật liệu chính và vật liệu phụ nằm trong sản phẩm dở dang… 3.7.3 Tính giá thành sản phẩm Sau khi kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang, tập hợp chi phí sản xuất cuối kỳ, ta tính được giá thành sản phẩm theo công thức sau: Tổng giá thành sp = CPSX DDĐK + CPSX phát sinh trong kỳ - CPSX DDCK - Các khoản giảm chi phí 4. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp hạch toán căn cứ vào kết quả kiểm kê thực tế để phản ánh giá trị hàng tồn kho cuối kỳ trên sổ tổng hợp và từ đó tính ra giá trị vật tư hàng hóa (VTHH) đã xuất trong kỳ. Giá trị VTHH xuất trong kỳ = Giá trị VTHH tồn đầu kỳ + Giá trị VTHH nhập trong kỳ - Giá trị VTHH tồn kho cuối kỳ Các doanh nghiệp có nhiều chủng loại vật tư, hàng hóa có quy cách mẫu mã khác nhau, giá trị không cao và nhập xuất thường xuyên thường áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ nghĩa là các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến hàng tồn kho không được ghi liên tục mà đến cuối kỳ doanh nghiệp mới tiến hành kiểm kê tất cả các loại nguyên vật liệu, thành phẩm trong kho và tại các phân xưởng cùng với bộ phận sản xuất dở dang để xác định chi phí của sản phẩm hòan thành, của hàng đã bán. 4.1 Tài khoản sử dụng Khác với phương pháp kê khai thường xuyên, kế toán theo phương pháp KKĐK sử dụng TK 631 – Giá thành sản xuất để tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm hoàn thành. Tài khoản này có thể chi tiết theo từng đối tượng tính giá thành. Bên Nợ: - Kết chuyển chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ - Kết chuyển chi phí sản xuất thực tế phát sinh trong kỳ Bên Có: - Kết chuyển chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ vào TK 154 – Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang - Giá thành thực tế sản xuất trong kỳ Tài khoản 631 cuối kỳ không có số dư Tài khoản 154 chỉ được sử dụng để kết chuyển sản phẩm dở dang cuối kỳ và đầu kỳ. 4.2 Trình tự hạch toán + Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Do đặc điểm phương pháp KKĐK nên chi phí nguyên vật liệu trực tiếp xuất dùng rất khó xác đ._.h mức vật tư, các công đoạn sản xuất khác nhau. Do đó việc xác định đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cho từng mặt hàng cụ thể là phù hợp với quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức sản xuất và sản phẩm. Đồng thời tập hợp chi phí và tính giá thành cho từng sản phẩm giúp cho việc theo dõi tình hình sản xuất, chi phí của sản phẩm chi tiết, dễ kiểm tra, tổng hợp theo các chỉ tiêu tài chính phục vụ cho quá trình quản lý và ra quyết định sản xuất và kinh doanh các mặt hàng nào phù hợp cũng như điều chỉnh các chi phí sản xuất một cách hợp lý. - Công ty tổ chức hạch toán chi phí sản xuất về cơ bản theo ba khoản mục: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung theo đúng chế độ quy định của Nhà nước. Việc sử dụng tài khoản và mở sổ chi tiết cho sản phẩm là hợp lý. Đặc biệt trong bảng tính giá thành, chi phí nhân công trực tiếp được chia thành hai khoản mục là chi phí lương và chi phí khác với cách tính khá phù hợp đã phản ánh được cụ thể chi phí lương thực tế phát sinh để sản xuất sản phẩm và các khoản phụ cấp ngoài lương sản phẩm ra. Trong đó, để tính ra chi phí lương sản phẩm công ty đã sử dụng đơn giá lương khoán do phòng Tổ chức hành chính, phòng Kỹ thuật…nghiên cứu và quy định. Cách tính lương như trên đơn giản, dễ hiểu và dễ tự động hóa thực hiện đồng thời với cách phân chia chi phí nhân công trực tiếp như thế qua bảng tính giá thành ta có thể đánh giá được tỉ trọng tiền lương sản phẩm so với các khoản mục khác. Hơn nữa áp dụng mức lương khoán sản phẩm khuyến khích tạo động lực làm việc cho công nhân hoàn thành và vượt mức kế hoạch, nâng cao năng suất lao động vì hình thức lương này ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người lao động. - Các khoản mục chi phí được phân chia khá phù hợp. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp được chi tiết cho từng sản phẩm, với công thức tính dễ hiểu, dễ thao tác trên máy, tăng tốc độ hạch toán. Chi phí sản xuất chung được tập hợp chung cho toàn công ty sau đó được phân bổ cho từng sản phẩm theo phân xưởng và tiền lương sản phẩm. Do chi phí sản xuất chung liên quan đến nhiều nơi sử dụng và khó xác định cụ thể cho từng phân xưởng nên việc tập hợp chung tạo điều kiện dễ dàng cho việc theo dõi, kiểm tra để xác định nguyên nhân cũng như mức độ tác động của chi phí sản xuất chung đến giá thành sản phẩm để đề ra các chủ trương thích hợp. - Việc phân bổ chi phí chung cho phân xưởng Viên và phân xưởng Mắt, Đông dược theo tỉ lệ 3:1, chi phí khác theo tỉ lệ 2:1 dựa trên kinh nghiệm và đặc điểm của các phân xưởng làm cho công tác tính toán trở nên đơn giản, dễ hiểu, dễ làm. - Phương pháp tính giá thành theo phương pháp trực tiếp là khá đơn giản, dễ làm, phù hợp với điều kiện cụ thể của công ty. Kỳ tính giá thành theo tháng là hợp lý vì chu kỳ sản xuất ngắn, hoạt động sản xuất liên tục, cần có sự theo dõi thường xuyên do đó đã cung cấp thông tin nhanh chóng, kịp thời. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng bên cạnh những ưu điểm trên thì công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty CPDP Hà Nội vẫn tồn tại những hạn chế cần khắc phục và hoàn thiện. + Về hệ thống tài khoản: - Việc phân chia các tài khoản chi tiết của TK 627 – Chi phí sản xuất chung còn chưa phù hợp. Ngoài các tài khoản cơ bản theo quy định, công ty còn có thêm nhóm tài khoản chi tiết TK 62701 - Chi phí nhân viên phân xưởng, TK 62702 - Trích hơi đốt…tạo nên sự phức tạp trong hạch toán và không cần thiết. - Công ty chỉ sử dụng TK 142 để hạch toán chi phí trả trước cho tất cả các loại chi phí trả trước không phân biệt là phân bổ trong 1 năm hay nhiều hơn, như vậy chưa phản ánh được đúng nội dung kinh tế của nghiệp vụ phát sinh và dẫn đến khó khăn trong việc xác định chi phí đó được phân bổ cho mấy kỳ kinh doanh. + Về hệ thống sổ sách: Công ty sử dụng các sổ chi tiết và sổ tổng hợp các tài khoản chi phí để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Các sổ chi tiết phản ánh các nghiệp vụ phát sinh của toàn bộ 03 phân xưởng chứ không mở riêng cho phân xưởng cụ thể nào. Điều này làm giảm hiệu quả của thông tin, không theo dõi được tình hình sản xuất tại từng phân xưởng. + Về tổ chức hạch toán các nghiệp vụ liên quan đến tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm: - Trong phương pháp tính giá nguyên vật liệu xuất kho, công ty sử dụng phương pháp bình quân để tính giá xuất. Công việc này được thực hiện vào cuối kỳ, trong kỳ khi có nghiệp vụ xuất kho nguyên vật liệu cho sản xuất thì chỉ theo dõi về mặt số lượng, cuối tháng mới tính được ra số tiền. Sử dụng giá bình quân đơn giản, dễ tính nhưng trong tháng chưa xác định được giá trị thực tế của nguyên vật liệu xuất kho làm giảm tính cập nhật của thông tin. Điều đó cũng có nghĩa trong tháng chưa xác định được giá thành những sản phẩm nhập kho trong khi đó công ty sử dụng phương pháp kê khai thường xuyên để hạch toán hàng tồn kho tức đòi hỏi phải phản ánh thường xuyên, liên tục tình hình nhập, xuất, tồn kho vật tư, thành phẩm. Việc này ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm cũng như kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và khả năng cập nhật thông tin. - Về việc tập hợp chi phí sản xuất: các khoản mục chi phí sản xuất được tập hợp chung, cuối kỳ phân bổ. Như đã đề cập ở trên, chi phí sản xuất chung và chi phí khác trong chi phí nhân công trực tiếp được phân bổ theo tỉ lệ 3:1 và 2:1 là đơn giản, dễ làm nhưng không phản ánh được chính xác tình hình phát sinh chi phí ở từng phân xưởng cụ thể, đó chỉ là sự phân bổ dựa trên kinh nghiệm thực tế. Chi phí sản xuất tập hợp cho từng sản phẩm cụ thể một mặt dễ theo dõi chi tiết từng mặt hàng nhưng mặt khác không theo dõi được chung cho toàn phân xưởng do đó không phản ánh được tình hình sản xuất của từng phân xưởng như thế nào, hiệu quả hay không. Hơn nữa có những chi phí có thể xác định cụ thể cho từng phân xưởng nhưng vẫn được theo dõi chung. - Công tác tính lương và phân bổ, hạch toán tiền lương do hai bộ phận khác nhau đảm nhiệm. Tiền lương do phòng Tổ chức hành chính lập, phòng kế toán dựa vào đó để phân bổ. Cách thực hiện như trên gây khó khăn cho kế toán trong việc bóc tách các chi phí để đưa vào các khoản mục chi phí thích hợp và gây mất thời gian. - Về việc hạch toán chi phí thiệt hại sản phẩm hỏng: tại công ty, sản phẩm hỏng có hai loại là sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được thường là do không đủ trọng lượng và sản phẩm hỏng không sửa chữa được do vi phạm các tiêu chuẩn về kỹ thuật. Các sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được thường ở dạng cốm đã pha chế hoặc đã dập viên, được đưa trở lại khâu pha chế, cân trộn để bổ sung thêm nguyên liệu cho đúng với tiêu chuẩn kỹ thuật về trọng lượng. Như vậy chi phí thiệt hại sản phẩm hỏng của công ty sẽ bao gồm toàn bộ chi phí sửa chữa sản phẩm hỏng cộng với thiệt hại của sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được. Khi có sản phẩm hỏng thì các bộ phận lập biên bản xác định nguyên nhân và hủy bỏ nếu không sửa chữa được. Tất cả các khoản này đều được chuyển vào giá thành sản phẩm dẫn đến việc tính giá thành không chính xác và không quản lý được chi phí cũng như xác định nguyên nhân và trách nhiệm vật chất, tác động xấu đến ý thức tiết kiệm chi phí sản xuất, ảnh hưởng đến mục tiêu hạ giá thành sản phẩm của công ty. - Trong chuẩn mực số 02 – Hàng tồn kho ban hành và công bố theo quyết định 149/2001/QĐ-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2001 quy định: trong chi phí chế biến hàng tồn kho, chi phí sản xuất chung được phân chia thành hai loại là chi phí sản xuất chung biến đổi và chi phí sản xuất chung cố định. Chi phí sản xuất chung cố định là những chi phí sản xuất gián tiếp, thường không thay đổi theo số lượng sản phẩm sản xuất. Chi phí này được phân bổ cho sản phẩm sản xuất dựa trên công suất bình thường của máy móc. Nếu mức sản phẩm thực tế sản xuất ra cao hơn công suất bình thường thì chi phí sản xuất chung cố định được phân bổ cho mỗi đơn vị sản phẩm theo chi phí thực tế phát sinh. Nếu mức sản xuất thực tế thấp hơn công suất bình thường thì chi phí sản xuất chung cố định chỉ được phân bổ vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị sản phẩm theo mức công suất bình thường. Khoản chi phí sản xuất chung không phân bổ được ghi nhận là chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ. Các chi phí nguyên liệu vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp và các chi phí sản xuất kinh doanh khác phát sinh trên mức bình thường cũng không được đưa vào giá gốc hàng tồn kho có nghĩa là không được tính vào giá thành sản phẩm hoàn thành. Tuy nhiên trong quá trình tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, công ty vẫn chưa xác định mức công suất bình thường, chưa phân chia chi phí sản xuất chung thành chi phí sản xuất chung cố định và chi phí sản xuất chung biến đổi. Khi đó toàn bộ chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ được tính hết vào giá thành sản phẩm hoàn thành, làm giảm tính chính xác của chỉ tiêu giá thành và chưa phù hợp với chế độ. Các hạn chế nêu trên cần có sự xem xét, nghiên cứu của công ty để tìm ra cách khắc phục và các giải pháp thích hợp để giúp cho công tác kế toán nói chung và kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng thực hiện tốt vai trò thông tin của mình, đảm bảo cung cấp kịp thời, chính xác thông tin cho quá trình ra quyết định của nhà quản lý. II. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty CPDP Hà Nội 1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện 1.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện Cùng với sự phát triển của xã hội, hạch toán kế toán đã ra đời và không ngừng phát triển, hoàn thiện nhằm phục vụ nhu cầu quản lý các hoạt động kinh tế. Do đó, kế toán được ví như một loại ngôn ngữ kinh tế ảnh hưởng đến tổ chức, quản lý của các doanh nghiệp. Hiện nay, kế toán đóng vai trò quan trọng trong mỗi doanh nghiệp, là công cụ quản lý, phản ánh và giám sát một cách liên tục và toàn diện, có hệ thống tất cả các loại vật tư, tiền vốn và hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Trong đó kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một bộ phận cấu thành công tác hạch toán kế toán, giữ vai trò quan trọng trong các doanh nghiệp sản xuất. Thông qua kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, các nhà quản lý doanh nghiệp nắm được tình hình sản xuất của doanh nghiệp, tình hình tiêu hao vật tư trong các giai đoạn sản xuất, từng phân xưởng… tình hình thực hiện các định mức vật tư, lao động… và biết được chỉ tiêu giá thành đã phản ánh đúng thực chất quá trình sản xuất của doanh nghiệp hay chưa, đã đạt được các chỉ tiêu đặt ra hay không để từ đó có những biện pháp hữu hiệu để quản lý tốt chi phí sản xuất nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm và nâng tính cạnh tranh của sản phẩm. Chính từ vai trò quan trọng trong công tác hạch toán kế toán nên các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất luôn phải nghiên cứu, tổ chức thực hiện hạch toán kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tốt, phù hợp với đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm phản ánh một cách khách quan và chính xác nhất tình hình sản xuất của doanh nghiệp. Mặt khác, hoàn thiện công tác hạch toán kế toán nói chung là xu thế tất yếu của sự phát triển, hướng tới sự phản ánh khách quan và phù hợp với tình hình thực tế của các hoạt động kinh tế. Như ta đã biết, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu liên quan đến quá trình sản xuất hàng hóa, phản ánh lượng giá trị những hao phí lao động sống và lao động vật hóa phát sinh trong sản xuất và kết tinh trong sản phẩm. Sự hình thành và phát triển của các khái niệm trên là tất yếu khách quan nhằm phục vụ nhu cầu hạch toán của toàn xã hội. Mặt khác, quá trình phản ánh chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thông qua các cách tính toán, phân loại phải đảm bảo được tính khách quan, phản ánh đúng các yếu tố trong chi phí và giá thành do đó đòi hỏi các doanh nghiệp cần có sự vận dụng các quy định một cách hợp lý vào tình hình cụ thể của mình để đạt được hiệu quả cao nhất. Công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty CPDP Hà Nội về cơ bản đã thực hiện được nhiệm vụ cung cấp thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của công ty đáp ứng nhu cầu hạch toán cũng như quản lý của mình. Mặc dù vậy vẫn còn tồn tại những hạn chế cần được khắc phục để công tác hạch toán kế toán nói chung và kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng ngày càng hoàn thiện hơn, phục vụ nhu cầu thông tin ngày càng cao của công ty. 1.2 Nguyên tắc hoàn thiện Hoàn thiện công tác kế toán là tổ chức lại mọi mặt của công tác kế toán bao gồm bộ máy kế toán, mô hình kế toán đang áp dụng, tổ chức công tác hạch toán các nghiệp vụ liên quan, nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực xử lý nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ nhân viên kế toán kết hợp với việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật đặc biệt là công nghệ thông tin vào công tác kế toán, trang bị đầy đủ các phương tiện hiện đại hỗ trợ cho công tác kế toán… nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy kế toán, giúp cho kế toán thực hiện chức năng quản lý, cung cấp thông tin chính xác đáng tin cậy cho các quyết định quản lý. Việc hoàn thiện công tác kế toán trong các doanh nghiệp phải đảm bảo các nguyên tắc sau: Phải nắm vững chức năng, nhiệm vụ của hạch toán kế toán nói chung và kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng trên cơ sở luật, chế độ, các chuẩn mực kế toán đã được ban hành. Phải xuất phát từ đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị trên cơ sở vận dụng linh hoạt, sáng tạo chế độ, quy định của Nhà nước vì việc hoàn thiện là nhằm để khắc phục những điểm chưa hợp lý của doanh nghiệp trong công tác kế toán. Phải đảm bảo phục vụ yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó công tác hoàn thiện phải dựa trên nhu cầu quản lý, mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp để cung cấp thông tin nhanh chóng, kịp thời. Phải đảm bảo tính khả thi và mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp nói riêng và phù hợp với các chuẩn mực, thông lệ kế toán quốc tế góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế thể giới của nền kinh tế nói chung. Việc hoàn thiện công tác kế toán trong các doanh nghiệp là một điều tất yếu khách quan và phải đảm bảo được các nguyên tắc phù hợp với đặc điểm, chức năng nhiệm vụ của hạch toán kế toán trên cơ sở luật, chế độ, chuẩn mực kế toán đã được ban hành đồng thời công tác hoàn thiện phải xuất phát từ đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc điểm về chi phí và giá thành của đơn vị để có những phương án hợp lý và hiệu quả. Đồng thời để việc hoàn thiện công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất hiệu quả thì doanh nghiệp đóng một vai trò hết sức quan trọng. 2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty CPDP Hà Nội Công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của công ty về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu thông tin quản trị, tuy vẫn còn những hạn chế cần được hoàn thiện. Qua thời gian thực tập tại công ty CPDP Hà Nội trên cơ sở các nhược điểm đã phân tích ở trên, em xin nêu ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty như sau: Về tổ chức bộ máy kế toán: Hiện nay, trong số các nhân viên kế toán tại công ty chưa có ai được phân công đảm nhiệm toàn bộ phần hành kế toán tiền lương. Tiền lương do phòng Tổ chức hành chính tính, cuối tháng gửi xuống phòng kế toán để hạch toán nên không được thuận lợi cho kế toán chi phí giá thành tập hợp và phân bổ chi phí, gây sự phụ thuộc và ảnh hưởng đến thời gian hạch toán. Để tạo điều kiện cho hạch toán chi phí nhân công trực tiếp một cách nhanh chóng công ty nên có một kế toán viên đảm nhiệm phần kế toán tiền lương. Nhân viên kế toán này có trách nhiệm tính tiền lương và phân bổ vào các khoản mục chi phí một cách thích hợp. Về hệ thống tài khoản: Như đã phân tích ở trên tài khoản 627 – Chi phí sản xuất chung được chi tiết chưa phù hợp, ảnh hưởng đến việc phản ánh một cách chính xác nội dụng các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Mặc dù công ty đã quản lý các chi phí phát sinh theo các nhóm chi phí nhưng nếu có sự phân chia lại các tài khoản chi tiết của TK 627 thì các thông tin sẽ được phản ánh một cách chi tiết, và ít tài khoản chi tiết hơn. Trên cơ sở các TK chi tiết của TK 627 theo quy định của Bộ tài chính, công ty có thể sử dụng các tiểu khoản sau: Số hiệu tài khoản Tên tài khoản Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 627 Chi phí sản xuất chung 6271 (chi tiết cho px, bộ phận) Chi phí nhân viên phân xưởng 62711 Chi phí nhân viên px Viên 62712 Chi phí nhân viên px Đông dược … … 6272 (chi tiết cho px, bộ phận) Chi phí vật liệu 62721 Chi phí vật liệu px Viên … … 6273 (chi tiết cho px, bộ phận) Chi phí công cụ, dụng cụ 62731 Chi phí công cụ, dụng cụ px Viên … … 6274 (chi tiết cho px, bộ phận) Chi phí khấu hao TSCĐ 62741 Chi phí khấu hao TSCĐ px Viên … … 6275 Chi phí trích trước, sửa chữa nhỏ 62751 Chi phí trích trước 62752 (chi tiết cho px, bộ phận) Chi phí sửa chửa nhỏ 6277 (chi tiết cho px, bộ phận) Chi phí dịch vụ mua ngoài 62771 Chi phí dịch vụ mua ngoài px Viên … … 6278 (chi tiết cho px, bộ phận) Chi phí bằng tiền khác 62781 Chi phí bằng tiền khác px Viên … … Về hệ thống sổ sách: Công ty tập hợp chi phí sản xuất cho từng mặt hàng, sản phẩm cụ thể điều này là phù hợp với điều kiện cụ thể của công ty nhưng nếu đồng thời theo dõi chi phí sản xuất của các phân xưởng riêng biệt, cuối kỳ phân bổ chi tiết cho các sản phẩm cụ thể thì sẽ mang tính bao quát lớn hơn. Như vậy, công ty sẽ theo dõi được tình hình sản xuất chung cũng như đối với mỗi sản phẩm. Điều đó có nghĩa là công ty mở sổ chi tiết các TK 621, TK 622… chi tiết cho từng phân xưởng. CÔNG TY CỔ PHẦN DƯỢC PHẨM HÀ NỘI 170 Đê La Thành – Q.Đống Đa – TP Hà Nội SỔ CHI TIẾT TÀI KHOẢN (dùng cho các TK 621, 622, 627,154…) Tài khoản: Tên phân xưởng: Từ ngày: ………….đến ngày ……………. Số dư đầu kỳ: Chứng từ Khách hàng Diễn giải TK đ/ư Số phát sinh Ngày Số Nợ Có 1 2 3 4 5 6 7 Tổng phát sinh Nợ: Tổng phát sinh Có: Số dư cuối kỳ: Ngày … tháng… năm… KẾ TOÁN TRƯỞNG (Ký, họ tên) NGƯỜI GHI SỔ (Ký, họ tên) Việc mở sổ theo dõi chi tiết tới từng phân xưởng sẽ phức tạp hơn, cần có sự đầu tư nhiều hơn về thời gian, nhân lực, khối lượng công việc hạch toán tăng lên và do đó chi phí quản lý có thể sẽ tăng lên. Nhưng đó là những điều tất yếu khi hướng đến mục đích phản ánh chính xác hơn thông tin về tình hình tài chính của mỗi doanh nghiệp. Với sự trợ giúp của phần mềm kế toán việc hạch toán chi tiết cho từng phân xưởng sẽ phần nào đơn giản, chính xác hơn vì công việc của kế toán viên chỉ nhiều hơn ở giai đoạn phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh từ các chứng từ kế toán. Mặt khác để quá trình hạch toán diễn ra thuận lợi thì công ty cần tổ chức quy trình hạch toán kế toán hợp lý. Tuy nhiên xét tình hình hiện nay của công ty, thì việc theo dõi chi tiết theo từng sản phẩm là có thể thực hiện được. Về hạch toán một số nghiệp vụ liên quan đến công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm - Về phương pháp tính giá nguyên vật liệu xuất kho: như đã trình bày ở trên, hiện nay công ty sử dụng phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ để tính giá nguyên liệu xuất kho do đó đã dẫn đến những ảnh hưởng nhất định trong công tác hạch toán. Để khắc phục được nhược điểm của phương pháp giá bình quân cả kỳ dự trữ kế toán trưởng nên quy định và kiểm soát chặt chẽ kế toán phần hành trong việc áp dụng nhất quán phương pháp tính giá. Đồng thời để tăng tính hiệu quả công ty nên thay đổi phương pháp tính giá nguyên vật liệu xuất dùng. Theo em công ty nên sử dụng phương pháp nhập trước, xuất trước như vậy sẽ đảm bảo được tính kịp thời của thông tin kế toán vừa cập nhật được sự biến động giá cả cũng như phù hợp với đặc điểm nguyên vật liệu là các hóa chất, tá dược… là nhiều khi đòi hỏi đến hạn sử dụng. Với phương pháp này công ty phải giả thiết được số hàng nào nhập trước sẽ được xuất trước và sử dụng giá thực tế của từng lô hàng, hết lô hàng này mới xuất lô hàng khác. Mặc dù để thực hiện được phương pháp trên đòi hỏi công ty phải có sự theo dõi sát sao về tình hình nguyên vật liệu xuất nhập cũng như đặt ra yêu cầu cao cho cán bộ quản lý vật tư để phản ánh một cách chính xác nhất tình hình xuất nhập nguyên vật liệu. Hơn nữa do đặc thù của ngành sản xuất thuốc là số lượng, chủng loại các nguyên vật liệu là khá lớn nên việc áp dụng phương pháp nhập trước xuất trước là khá phức tạp nhưng không phải là không làm được. Các thủ kho và kế toán nguyên vật liệu chịu trách nhiệm theo dõi, phản ánh và đối chiếu lẫn nhau tình hình nhập xuất tồn vật tư và giá cả cụ thể từng loại vật tư. Hiện tại, sổ chi tiết vật tư của công ty có hình thức như sau: CÔNG TY CỔ PHẦN DƯỢC PHẨM HÀ NỘI 170 Đê La Thành – Q.Đống Đa – TP Hà Nội SỔ CHI TIẾT VẬT TƯ Từ ngày… đến… ngày… Kho: Vật tư: Đvt: Tài khoản: Tồn đầu: Chứng từ Khách hàng Diễn giải Mã nx Đơn giá Nhập Xuất Ngày Số Số lượng Giá trị Số lượng Giá trị 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Tổng cộng: Tồn cuối: … … Ngày… tháng… năm… KẾ TOÁN TRƯỞNG NGƯỜI LẬP BIỂU (Ký, họ tên) (Ký, họ tên) Nếu sử dụng phương pháp tính giá nhập trước xuất trước thì kế toán căn cứ vào chứng từ như phiếu nhập, phiếu xuất… để vào sổ chi tiết vật tư hay còn được xem là bảng kê tính giá. Mẫu sổ lúc này sẽ có dạng: CÔNG TY CỔ PHẦN DƯỢC PHẨM HÀ NỘI 170 Đê La Thành – Q.Đống Đa – TP Hà Nội SỔ CHI TIẾT VẬT TƯ Từ ngày… đến… ngày… Kho: Vật tư: Đvt: Tài khoản: Đơn vị tính:……… Chứng từ Diễn giải TK đ/ư Đơn giá Nhập Xuất Tồn Ghi chú Ngày Số Số lượng Giá trị Số lượng Giá trị Số lượng Giá trị 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Số dư đầu kỳ Cộng Ngày… tháng… năm… KẾ TOÁN TRƯỞNG NGƯỜI LẬP BIỂU (Ký, họ tên) (Ký, họ tên) - Về việc tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung: như đã phân tích ở trên công ty tập hợp chi phí sản xuất chung cho toàn bộ các phân xưởng sau đó phân bổ cho các sản phẩm theo từng phân xưởng và tiền lương sản phẩm. Việc sử dụng phương pháp phân bổ đó đơn giản nhưng mang tính chủ quan không phản ánh cụ thể được tình hình chi phí của từng phân xưởng. Vì vậy, đối với những khoản mục chi phí có thể tách biệt được giữa các phân xưởng, các bộ phận với nhau thì công ty nên tách chi phí ra theo dõi riêng, cụ thể. Còn đối với những chi phí không thể bóc tách riêng được thì theo dõi chung, cuối kỳ phân bổ theo tiêu thức xác định. Làm như vậy sẽ tạo điều kiện theo dõi tình hình chi phí phát sinh ở các bộ phận để từ đó xem xét, tìm ra nguyên nhân và các biện pháp để giảm thiểu chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. - Về hạch toán sản phẩm hỏng: hiện nay công ty chưa xác định sản phẩm hỏng trong định mức và ngoài định mức mà hạch toán toàn bộ chi phí sản phẩm hỏng vào giá thành sản phẩm dẫn đến việc phản ánh không chính xác giá thành sản phẩm. Để khắc phục được hạn chế này, theo em công ty cần quy định định mức cho sản phẩm hỏng, tiến hành đánh giá thiệt hại để phân biệt sản phẩm hỏng trong định mức và sản phẩm hỏng ngoài định mức. Đối với sản phẩm hỏng trong định mức các khoản thiệt hại gây ra được hạch toán vào chi phí sản xuất sản phẩm. Đối với sản phẩm hỏng ngoài định mức cần xác định cụ thể nguyên nhân để có hình thức xử lý thích hợp. Khi các nghiệp vụ như trên phát sinh, kế toán xác định mức độ thiệt hại và hạch toán theo sơ đồ sau: Sơ đồ cách hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng ngoài định mức: TK 152, 153, 334 TK 1381(SPHNĐM) TK 632, 415… Chi phí sửa chữa sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được Giá trị sản phẩm hỏng không sửa chữa được Giá trị thiệt hại thực về sản phẩm hỏng ngoài định mức Giá trị phế liệu thu hồi và các khoản bồi thường 338,241,... TK 154, 155, 157, 632 TK 1388, 152.. - Về hạch toán chi phí trả trước: công ty nên sử dụng đồng thời cả tài khoản 242 với tài khoản 142 để phản ánh một cách chính xác hơn chi phí trả trước, giúp cho công việc theo dõi tình hình sử dụng, phân bổ công cụ, dụng cụ một cách chính xác, và đúng theo chế độ. Đối với những tài sản sử dụng hơn một kỳ kinh doanh thì được hạch toán vào tài khoản 242 và phân bổ dần. Khi phát sinh chi phí liên quan đến nhiều kỳ kinh doanh, kế toán ghi: Nợ TK 242 – Tập hợp chi phí trả trước dài hạn phát sinh Nợ TK 133 – Thuế GTGT được khấu trừ (nếu có) Có TK liên qua (1531, 2413, 341, 111, 112…) – Các khoản chi phí trả trước dài hạn thực tế phát sinh. Sau đó căn cứ vào kế hoạch phân bổ chi phí trả trước dài hạn để phân bổ chi phí trả trước dài hạn vào chi phí sản xuất kinh doanh cho các đối tượng chịu chi phí trong năm tài chính: Nợ TK 241, 627, 641, 642… - Chi phí trả trước dài hạn được phân bổ Có TK 242 – Phân bổ dần chi phí trả trước dài hạn Hạch toán chi phí trả trước dài hạn có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau: (xem Sơ đồ số 03 – Kế toán chi phí trả trước dài hạn) - Đối với chi phí sản xuất chung, để nâng cao tính chính xác của giá thành và tính hiệu quả của kế toán quản trị công ty cần phân biệt được chi phí sản xuất chung cố định và chi phí sản xuất chung biến đổi, xác định mức công suất bình thường để từ đó phân bổ chi phí sản xuất chung cố định vào sản xuất. Nếu mức sản phẩm thực tế sản xuất lớn hơn hoặc bằng công suất bình thường, chi phí sản xuất chung cố định được phân bổ và kết chuyển hết vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị thành phẩm, kế toán ghi: Nợ TK 154 – Chi phí SXKD dở dang Có TK 627 – Chi phí sản xuất chung (chi tiết chi phí SXC cố định) Nếu mức sản phẩm thực tế sản xuất thấp hơn công suất bình thường kế toán phải tính và xác định chi phí sản xuất chung cố định phân bổ vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị sản phẩm theo mức công suất bình thường. Khoản chi phí sản xuất chung cố định không phân bổ được ghi nhận vào giá vốn hàng bán trong kỳ, kế toán ghi: Nợ TK 632 – Giá vốn hàng bán (chi tiết chi phí SXC cố định không phân bổ) Có TK 627 – Chi phí sản xuất chung Như vậy, công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty CPDP Hà Nội về cơ bản đã thực hiện được nhiệm vụ cung cấp thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của công ty đáp ứng nhu cầu hạch toán cũng như quản lý của mình. Mặc dù vậy vẫn còn tồn tại những hạn chế cần được khắc phục để công tác hạch toán kế toán nói chung và kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng ngày càng hoàn thiện hơn, phục vụ yêu cầu ngày càng cao của công ty. 3. Điều kiện thực hiện Việc hoàn thiện công tác kế toán trong các doanh nghiệp là một điều tất yếu khách quan và phải đảm bảo được các nguyên tắc phù hợp với đặc điểm, chức năng nhiệm vụ của hạch toán kế toán trên cơ sở luật, chế độ, chuẩn mực kế toán đã được ban hành đồng thời công tác hoàn thiện phải xuất phát từ đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc điểm về chi phí và giá thành của đơn vị để có những phương án hợp lý và hiệu quả. Qua các phân tích ở trên, ta thấy để có được sự hoàn thiện công tác kế toán nói chung và kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng cần có sự nỗ lực từ hai phía: Nhà nước, các ban ngành chức năng và bản thân doanh nghiệp. Về phía Nhà nước và các ban ngành chức năng: Nhà nước và các bộ ngành có liên quan phối hợp ban hành các chính sách, chủ trương, chế độ, chuẩn mực, hướng dẫn chi tiết, đồng bộ các quy định tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong công tác hạch toán kế toán nói chung và công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Về phía doanh nghiệp: Công ty cần thường xuyên nghiên cứu, tìm hiểu cập nhật thông tin, các chế độ, chuẩn mực mới để áp dụng vào tình hình cụ thể của công ty đồng thời có những biện pháp, chính sách phù hợp để khắc phục những nhược điểm của mình. KẾT LUẬN Như vậy, công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có vị trí quan trọng trong quá trình hạch toán kế toán tại các doanh nghiệp đặc biệt đối với các doanh nghiệp sản xuất, cung cấp thông tin về tình hình chi phí cũng như phản ánh kết quả của sản phẩm sản xuất ra. Việc tổ chức hạch toán thế nào cho hiệu quả, thuận lợi, phản ánh đúng nhất tình hình chi phí sản xuất của doanh nghiệp là tùy vào từng đơn vị cụ thể. Mỗi doanh nghiệp có điều kiện cũng như đặc điểm, nhu cầu quản lý cụ thể khác nhau, do đó trên cơ sở chung về kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đơn vị lựa chọn các hình thức, phương pháp hạch toán phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của mình. Trên cơ sở những kiến thức đã học được cùng với thời gian tìm hiểu thực tế công tác kế toán chi phí, giá thành tại công ty CPDP Hà Nội em đi sâu vào nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty CPDP Hà Nội”. Bài viết bao gồm những kiến thức lý luận chung về vấn đề chi phí sản xuất và giá thành được minh họa qua thực tế công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty CPDP Hà Nội, thông qua đó em đã mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty. Do kiến thức còn hạn chế và thời gian tiếp cận thực tế chưa thật nhiều nên bài viết không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong có sự góp ý của các thầy cô giáo cùng các ban. Một lần nữa em xin trân trọng cảm ơn TS. Trần Nam Thanh và tập thể cán bộ nhân viên phòng kế toán công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Nội đã hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp của mình. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Chủ biên: PGS. TS. Nguyễn Thị Đông – Giáo trình lý thuyết hạch toán kế toán - 2003 Chủ biên: PGS. TS. Đặng Thị Loan – Giáo trình kế toán tài chính trong các doanh nghiệp – Nhà xuất bản Thống kê – 2005. Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 về việc ban hành và công bố bốn chuẩn mực kế toán Việt Nam của Bộ Tài Chính. Thông tư 89/2002/TT-BTC ngày 09/10/2002 về việc hướng dẫn kế toán thực hiện bốn chuẩn mực kế toán ban hành theo quyết định số 149/2001/QĐ-BTC của Bộ Tài Chính. Bộ Tài chính – Chế độ kế toán doanh nghiệp – Nhà xuất bản Tài chính – 2006. Tài liệu nội bộ Công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Nội. Chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Phương – Giáo trình Kế toán quản trị - Nhà xuất bản Tài chính – 2004. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36430.doc
Tài liệu liên quan