Lời mở đầu
Bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường đều đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Đặc biệt, khi nền kinh tế thị trường ở nước ta ngày càng phát triển thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt. Do đó, một doanh nghiệp muốn tồn tại và đạt được mục tiêu lợi nhuận thì phải tìm cách mở rộng thị trường tiêu thụ đồng thời hạ thấp chi phí sản xuất từ đó hạ giá thành sản phẩm cũng như giá bán trên thị trường. Có như vậy, doanh nghiệp mới nâng cao được tính cạn
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1095 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác Kế toán tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh & tính giá thành sản phẩm tại Nhà máy Chế Tạo Biến Thế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tranh của sản phẩm. Vì vậy, đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thì chi phí là chỉ tiêu quan trọng hàng đầu quyết định tới lợi nhuận mà doanh nghiệp đó đạt được.
Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp phải làm thế nào để quản lý chặt chẽ và hạch toán chính xác chi phí đảm bảo tính đúng giá thành sản phẩm hoàn thành. Thông qua công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm sẽ cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cần thiết về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao công tác quản lý của doanh nghiệp. Qua việc hạch toán đó, các nhà quản lý sẽ nắm được những điểm chưa hợp lý trong sản xuất làm tăng chi phí từ đó tìm ra được những biện pháp tối ưu nhất nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của chi phí sản xuất và qua thực tế thực tập tại Nhà máy Chế Tạo Biến Thế, em đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm tại Nhà máy Chế Tạo Biến Thế”
Chuyên đề thực tập gồm hai phần:
Phần I. Thực trạng công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại nhà máy Chế Tạo Biến Thế.
Phần II. Một số ý kiến góp phần hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại nhà máy Chế Tạo Biến Thế.
Do thời gian thực tập ngắn, kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi sai sót. Em rất mong được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để chuyên đề của em hoàn chỉnh hơn.
Phần I
Lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp
I. Sự cần thiết phải hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, một doanh nghiệp muốn đứng vững phải phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm để nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm. Để đảm bảo yêu cầu hạch toán kinh doanh, lấy thu bù chi và có lãi, các doanh nghiệp cần hạch toán chi phí sản xuất đầy đủ, tính đúng giá thành sản phẩm trên cơ sở đó xác định đúng đắn hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1. ý nghĩa của công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Quản lý kinh tế có những công cụ quản lý khác nhau được sử dụng. Trong đó hạch toán kế toán với chức năng thu nhận, xử lý thông tin, cung cấp thông tin về hoạt động kinh tế tài chính của doanh nghiệp một cách đầy đủ, thường xuyên, liên tục, có hệ thống nhằm mục đích kiểm tra giám sát toàn bộ hoạt động kinh tế tài chính của doanh nghiệp được đánh giá là công cụ quản lý kinh tế quan trọng nhất. Thực hiện công tác kế toán sẽ cung cấp kịp thời những thông tin cần thiết về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu về quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một vấn đề quan trọng trong hạch toán kế toán. Kế toán tổ chức sổ ghi chép, tính toán thường xuyên liên tục những chi phí đã chi ra cho quá trình sản xuất qua đó cung cấp cho nhà quản trị những thông tin quan trọng. Qua đó các nhà quản trị nắm được tình hình sử dụng máy móc thiết bị, thực hiện định mức về chi phí nguyên vật liệu, lao động, tiền vốn ở từng khâu, từng sản phẩm so với kế hoạch từ đó đề ra biện pháp giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Đồng thời, doanh nghiệp sẽ xác định được trong kỳ có tiết kiệm được chi phí hay không , tiết kiệm được bao nhiêu, mức hạ là bao nhiêu, nguyên nhân do đâu? Đó là những thông quan trọng đối với công tác quản trị doanh nghiệp. Trên cơ sở đó khai thác tiềm năng của doanh nghiệp, không ngừng nâng cao năng suất và hạ giá thành sản phẩm.
Như vậy, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là điều quan trọng không thể thiếu được, đóng vai trò là khâu trung tâm trong toàn bộ công tác kế toán toàn doanh nghiệp, có ý nghĩa quyết định trong việc quản lý chi phí sản xuất và quản lý giá thành. Chính vì lẽ đó, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải được coi trọng đúng mức, đảm bảo được những nhiệm vụ đề ra.
2. Yêu cầu và nhiệm vụ của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
2.1. Yêu cầu của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Quản lý chi phí sản xuất gắn liền với việc sử dụng lao động, vật tư một cách hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả. Như vậy, vấn đề đặt ra hàng đầu là phải tiết kiệm chi phí sản xuất nhưng vẫn duy trì được chất lượng sản phẩm. Muốn thực hiện được điều này thì mỗi doanh nghiệp phải là tốt vấn đề sau:
- Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất ở từng bộ phận sản xuất trong doanh nghiệp.
- Ghi chép, phản ánh đầy đủ, kịp thời, chính xác chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
- Kiểm tra thực hiện định mức tiêu hao vật tư, kỹ thuật dự toán phục vụ quản lý sản xuất nhằm thúc đẩy tiết kiệm, sử dụng hợp lý mọi chi phí cho quá trình sản xuất.
- Tính toán chính xác, đầy đủ, kịp thời giá thành đơn vị.
- Kiểm tra tình hình thực hiện nhiệm vụ hạ giá thành. Vạch ra được nguyên nhân làm cho hoàn thành hoặc không hoàn thành, những khả năng tiềm tàng có thể khai thác và phương hướng phấn đấu hạ giá thành sản phẩm.
- Xác định kết quả hạch toán ở từng bộ phận sản xuất và toàn doanh nghiệp.
2.2. Nhiệm vụ của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Để phát huy cao nhất vai trò và tác dụng của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, thực hiện tốt các yêu cầu đề ra, kế toán phải thực hiện hai nhiệm vụ sau:
- Xác định đúng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất cũng như đối tượng tính giá thành sản phẩm phù hợp với đối tượng tính giá thành, phù hợp với điều kiện thực tế của doanh nghiệp và thoả mãn các yêu cầu quản lý đặt ra.
- Lựa chọn phương pháp hạch toán và phân bổ chi phí sản xuất phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và thỏa mãn các yêu cầu quản lý.
- Vân dụng phương pháp tính giá thành thích hợp, tính toán chính xác, đầy đủ giá thành sản phẩm.
- Xây dựng qui tắc hạch toán chi phi sản xuất và tính giá thành của doanh nghiệp. Quy định trình độ công việc, phân bổ các chi phí sản xuất cho từng đối tượng, từng sản phẩm chi tiết.
II. Bản chất- nội dung của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
1. Chi phí sản xuất
1.1. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí
Cùng với sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người là quá trình sản xuất ra các sản phẩm dịch vụ đáp ứng nhu cầu của con người. Để tiến hành các hoạt động sản xuất, bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải tiêu hao ba yếu tố quan trọng: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Như vậy, để tiến hành sản xuất hàng hoá, người sản xuất phải bỏ ra chi phí về thù lao lao động, về tư liệu lao động và về đối tượng lao động. Chính sự tham gia của các yếu tố vào quá trình sản xuất hình thành nên các khoản chi phí tương ứng. Như vậy, chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp phải bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm).
- Chi phí về lao động sống: Là các chi phí về tiền lương và các khoản trích theo lương được tính vào chi phí. Khoản chi phí này bao gồm yếu tố sức lao động- một trong ba yếu tố của bất kỳ một nền sản xuất xã hội nào.
- Chi phí về lao động vật hoá: Bao gồm chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, khấu hao TSCĐ... Như vậy, trong hao phí về lao động vật hoá bao gồm hai yếu tố cơ bản còn lại là tư liệu lao động và đối tượng lao động của nền sản xuất xã hội.
Đối với một doanh nghiệp sản xuất, ngoài quá trình sản xuất ra sản phẩm còn có những hoạt động kinh doanh khác và các hoạt động không có tính chất sản xuất như hoạt động bán hàng và hoạt động quản lý, các hoạt động này mang tính chất sự nghiệp. Và để tiến hành những hoạt động này, doanh nghiệp cũng phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định. Song, những khoản chi phí này không được tính vào chi phí sản xuất.
Bên cạnh đó, cũng cần phải phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Chi phí và chi tiêu khác nhau về bản chất, song chúng có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải tất cả những gì doanh nghiệp đã bỏ ra trong kỳ. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Chi phí và chi tiêu không chỉ khác nhau về lượng mà còn khác nhau về thời gian. Có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng chưa được tính vào chi phí (chi phí mua nguyên vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng) và có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng chưa phát sinh. Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi tiêu và chi phí trong các doanh nghiệp là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán chung.
Như vậy, chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một kỳ để thực hiện quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Thực chất, chi phí là sự dịch chuyển vốn, dịch chuyển giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá.
1.2. Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh có rất nhiều loại, nhiều khoản khác nhau cả về nội dung, tính chất, công dụng, vai trò, vị trí... trong quá trình kinh doanh. Để thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán cần thiết phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất. Xuất phát từ các mục đích và yêu cầu khác nhau của quản lý, chi phí sản xuất cũng được phân loại theo những tiêu thức khác nhau.
Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi phí sản xuất vào từng loại, từng nhóm khác nhau theo những đặc trưng nhất định. Xét về mặt lý luận cũng như thực tế, có nhiều cách phân loại, mỗi cách đều ít nhiều đáp ứng cho mục đích quản lý, hạch toán, kiểm tra chi phí phát sinh ở các góc độ khác nhau.
Trên góc độ tài chính kế toán, chi phí sản xuất thường được phân loại theo các cách sau:
a. Phân loại theo yếu tố chi phí
Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu, đồng nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh của chi phí, chi phí được phân theo yếu tố. Cách phân loại này giúp cho việc cung cấp thông tin cụ thể hơn nhằm phục vụ cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán chi phí. Tuỳ theo yêu cầu và trình độ quản lý của mỗi nước, mỗi thời kỳ mà mức độ chi tiết của các yếu tố trên có thể khác nhau. Theo quy định ở thời điểm hiện nay toàn bộ chi phí được chia thành bảy yếu tố sau:
- Yếu tố nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ sử dụng vào mục đích kinh doanh (trừ số sử dụng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
- Yếu tố nhiên liệu động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi)
- Yếu tố lương và các khoản phụ cấp lương: Phản ánh tổng số tiền lương, phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho toàn bộ công nhân viên chức.
- Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ: phản ánh số trích theo tỉ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả cho công nhân viên tính vào chi phí.
- Yếu tố khấu hao tài sản cố định: Là tổng số khấu hao tài sản cố định phải trích trong kỳ của tất cả tài sản cố định sử dụng trong kỳ sản xuất kinh doanh.
- Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: bao gồm toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa tính vào các chi phí trên dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
b. Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm.
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân chia theo khoản mục. Cách phân loại này căn cứ vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí theo từng đối tượng.
Theo quy định hiện hành, giá thành sản phẩm ở Việt Nam bao gồm 5 khoản mục:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm toàn bộ chi phí nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu.... tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ...
- Chi phí nhân công trực tiếp: là tổng cộng các khoản lương, phụ cấp mang tính chất lương và các khoản trích cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ với tiền lương phát sinh.
- Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phát sinh liên quan đến nhu cầu sản xuất trong phân xưởng (trừ chi phí vật liệu và nhân công trực tiếp).
- Chi phí bán hàng: phản ánh toàn bộ các chi phí phát sinh liên quan đến tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: bao gồm chi phí phát sinh liên quan đến quản trị kinh doanh và quản lý hành chính trong doanh nghiệp.
c. Phân loại theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh.
Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động kinh doanh, toàn bộ chi phí được chia làm ba loại:
- Chi phí sản xuất: bao gồm những chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất, tiêu thụ và quản lý hành chính, quản trị kinh doanh.
- Chi phí hoạt động tài chính: gồm những chi phí liên quan đến hoạt động về vốn và đầu tư tài chính.
- Chi phí khác: gồm những chi phí ngoài dự kiến có thể do chủ quan hoặc khách quan mang lại.
Cách phân loại này giúp việc phân tích chi phí chính xác hơn, phục vụ cho việc tính giá thành, xác định chi phí và kết quả của từng hoạt động kinh doanh đúng đắn cũng như lập báo cáo tài chính kịp thời.
2. Giá thành sản phẩm
2.1. Bản chất và nội dung kinh tế
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống, lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản phẩm và các chỉ tiêu khác có liên quan đến việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan, không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hoá- tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
2.2. Phân loại giá thành
Để đáp ứng các yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Về lý luận cũng như trên thực tế, ngoài các khái niệm giá thành xã hội, giá thành cá biệt còn có các khái niệm khác.
a. Xét theo thời điểm và nguồn số liệu để tính giá thành
Theo cách phân loại này, giá thành được chia thành 3 loại.
- Giá thành kế hoạch: được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch.
- Giá thành định mức: giá thành định mức được xây dựng trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày bắt đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi, phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình sản xuất sản phẩm.
- Giá thành thực tế: Giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm.
b. Phân loại giá thành theo phạm vi phát sinh chi phí
Theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được chia thành giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ.
- Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả các chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất.
- Giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ): là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ
Giá thành sản xuất của sản phẩm
Chi phí bán hàng
Chi phí quản lý doanh nghiệp
=
+
+
3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm 2 mặt: hao phí sản xuất và kết quả sản xuất. Hao phí sản xuất được phản ánh bởi chi phí sản xuất còn giá thành sản phẩm phản ánh kết quả sản xuất. Chúng có quan hệ rất mật thiết. Chi phí sản xuất cũng như giá thành sản phẩm đều bao gồm các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình chế tạo sản phẩm. Tất cả những khoản chi phí (phát sinh trong kỳ, kỳ trước chuyển sang) và các chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Song, chi phí sản xuất là toàn bộ chi phí bỏ ra trong thời kỳ sản xuất kinh doanh mà không tính đến chi phí đó đã tạo ra sản phẩm hoàn thành hay chưa còn giá thành sản phẩm thì chỉ liên quan đến những chi phí dùng để sản xuất ra khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ bất kể chi phí đó phát sinh ở kỳ nào.
Có thể phản ánh mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm qua sơ đồ dưới đây.
B - Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
C - Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
A - Tổng giá thành sản phẩm dịch vụ hoàn thành
D-Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
Qua sơ đồ ta thấy:
Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành
=
+
Chi phí SX phát sinh trong kỳ
Chi phí SX dở dang cuối kỳ
-
Chi phí SX dở dang đầu kỳ
Khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất dở dang) đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm hoàn thành bằng tổng chi phí phát sinh.
III. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
1. Đối tượng hạch toán
Để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được chính xác, kịp thời đòi hỏi các nhà quản lý phải xác định được một cách rõ ràng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất cũng như đối tượng tính giá thành sản phẩm. Vấn đề này có ý nghĩa quan trọng cả trong lý luận cũng như thực tiễn hạch toán và là nội dung cơ bản nhất của tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
1.1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất
Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chính là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Trong đó, nơi phát sinh chi phí có thể là phân xưởng, tổ đội, nhóm sản xuất hoặc toàn doanh nghiệp hay giai đoạn công nghệ, toàn bộ dây chuyền công nghệ. Còn nơi chịu chi phí có thể là từng sản phẩm, đơn đặt hàng, hạng mục công trình, công trình..., nhóm sản phẩm, chi tiết bộ phận sản phẩm.
Để xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất phải dựa vào cơ sở sau:
- Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: Tuỳ thuộc vào quy trình công nghệ của doanh nghiệp là giản đơn hay phức tạp mà kế toán sẽ xác định đối tượng hạch toán riêng.
Với sản xuất phức tạp, quy trình sản xuất trải qua nhiều công đoạn thì bộ phận, chi tiết sản phẩm, giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết bộ phận sản phẩm sẽ là đối tượng hạch toán chi phí.
- Loại hình sản xuất: Căn cứ vào loại hình sản xuất là đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản xuất hàng loạt lớn mà kế toán sẽ lựa chọn đối tượng hạch toán chi phí sản xuất cho phù hợp.
Nếu doanh nghiệp sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn thì tuỳ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất là giản đơn hay phức tạp mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, nhóm chi tiết hay giai đoạn công nghệ.
- Yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh: Dựa trên cơ sở trình độ, yêu cầu và tổ chức quản lý để xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là:
Trên cơ sở đối tượng hạch toán chi phí, kế toán sẽ lựa chọn phương pháp tập hợp chi phí tương ứng.
1.2. Đối tượng tính giá thành sản phẩm
Về thực chất, xác định đối tượng tính giá thành là việc xác định sản phẩm, bán thành phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối tượng có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang trên dây chuyền sản xuất tuỳ theo yêu cầu của hạch toán kinh tế nội bộ và tiêu thụ sản phẩm. Các cơ sở này giúp ta phân biệt đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng tính giá thành sản phẩm ngay cả khi chúng đồng nhất.
- Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: Với sản xuất phức tạp, đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở bước cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo.
- Loại hình sản xuất: Với sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn, đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm.
- Yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh
Xác định đối tượng tính giá thành đúng đắn phù hợp với điều kiện doanh nghiệp giúp kế toán mở sổ kế toán, các bảng tính giá thành theo đối tượng cần quản lý, kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm có hiệu quả và đáp ứng yêu cầu quản lý nội bộ của doanh nghiệp.
1.3. Mối quan hệ giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm.
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm khác nhau về nội dung song chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau xuất phát từ mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Về bản chất, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm đều là phạm vi giới hạn để hạch toán chi phí và cùng phục vụ cho việc quản lý, phân tích chi phí và giá thành.
Hạch toán chi phí là giai đoạn trước của tính giá thành. Số liệu chi phí sản xuất được tập hợp để xác định giá trị chuyển dịch của các yếu tố chi phí sản xuất vào đối tượng tính giá thành. Tuy nhiên, không thể nói rằng mục đích hạch toán chi phí chỉ là để tính giá thành. Như ta đã biết, một đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể bao gồm nhiều đối tượng tính giá thành và ngược lại song đôi khi chúng trùng nhau. Do vậy, xác định đúng đối tượng tính chi phí có tác dụng phân tích, kiểm tra các chi phí phát sinh và tăng cường tác dụng của công tác kế toán trong việc củng cố và tăng cường hạch toán kinh doanh nội bộ cũng như quản trị doanh nghiệp. Nhưng hạch toán chi phí sản xuất chỉ phản ánh mặt chi ra của quá trình sản xuất mà chưa đáp ứng được đòi hỏi của khâu tính giá thành. Có tính giá thành mới đáp ứng được yêu cầu quản lý, xây dựng giá cả hàng hoá và hạ giá thành sản phẩm.
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có nội dung khác nhau.
- Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là căn cứ để kế toán tổ chức ghi sổ chi tiết, sổ tổng hợp, phân bổ chi phí sản xuất hợp lý cho doanh nghiệp, tăng cường công tác kiểm tra việc tiết kiệm chi phí, thực hiện tốt hạch toán kinh doanh.
- Xác định đối tượng tính giá thành lại là căn cứ để kế toán giá thành tổ chức các bảng tính giá thành sản phẩm, lựa chọn phương pháp tính giá thành thích hợp, phục vụ cho việc kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và tính toán hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí.
Về cơ bản, phương pháp hạch toán chi phí bao gồm các phương pháp hạch toán chi phí theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn công nghệ, theo phân xưởng, theo nhóm sản phẩm ... Mỗi phương pháp hạch toán chi phí ứng với một loại đối tượng hạch toán chi phí nên tên gọi của phương pháp này biểu hiện đối tượng mà nó cần tập hợp và phân loại chi phí.
Nội dung chủ yếu của phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là kế toán mở thẻ, sổ kế toán chi tiết hạch toán chi phí sản xuất theo đối tượng đã xác định, phản ánh các chi phí phát sinh có liên quan đến đối tượng, hàng tháng tổng hợp chi phí theo từng đối tượng.
3. Phương pháp tính giá thành.
Phương pháp tính giá thành là phương pháp hoặc hệ thống phương pháp được sử dụng để tính giá thành của đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành.
Do có sự khác nhau cơ bản giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành mà có sự phân biệt giữa phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành sản phẩm. Về cơ bản, phương pháp tính giá thành bao gồm các phương pháp sau:
Phương pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản đơn).
Phương pháp tỷ lệ chi phí
Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ
Phương pháp liên hợp: Phương pháp này áp dụng cho những doanh nghiệp có tổ chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như các doanh nghiệp sản xuất hoá chất, dệt kim, đóng giày, may mặc... Trên thực tế, kế toán có thể kết hợp các phương pháp trực tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỉ lệ, hệ số với loại trừ sản phẩm phụ...
IV. Vận dụng phương pháp tính giá thành sản phẩm trong một số loạI hình doanh nghiệp sản xuất chủ yếu
Trên cơ sở các phương pháp chung để tính giá thành sản phẩm, kế toán cần lựa chọn và áp dụng vào từng loại hình doanh nghiệp cho phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất, đặc điểm quy trình công nghệ cũng như vào đối tượng hạch toán chi phí.
Doanh nghiệp sản xuất phức tạp theo kiểu chế biến liên tục.
Các doanh nghiệp này có quy trình công nghệ phức tạp, bao gồm nhiều bước nối tiếp nhau theo trình tự nhất định, sản phẩm của mỗi bước là nguyên liệu của bước tiếp theo. Trong các doanh nghiệp này, phương pháp hạch toán chi phí thích hợp nhất là hạch toán theo bước chế biến hay theo giai đoạn công nghệ. Theo phương pháp này, chi phí sản xuất phát sinh ở công đoạn nào thì tập hợp riêng theo công đoạn đó. Còn chi phí sản xuất chung sau khi tập hợp cho toàn phân xưởng sẽ được phân bổ cho các giai đoạn sản xuất theo tiêu thức phù hợp.
Tuỳ theo tính chất hàng hoá của bán thành phẩm và yêu cầu của công tác quản lý, chi phí sản xuất có thể tập hợp theo phương án có bán thành phẩm và phương án không có bán thành phẩm. Phương pháp tính giá thành thường là phương pháp trực tiếp kết hợp với phương pháp cộng chi phí hoặc hệ số.
a. Tính giá thành phân bước theo phương án hạch toán có bán thành phẩm.
Phương án này thích hợp với những doanh nghiệp có yêu cầu hạch toán kinh tế nội bộ cao hoặc bán thành phẩm có thể là thành phẩm bán ra ngoài. Đặc điểm của phương án này là khi tập hợp chi phí sản xuất của các giai đoạn công nghệ, giá trị bán thành phẩm của các bước trước chuyển sang bước sau được tính theo giá thành thực tế và được phản ánh theo từng khoản mục chi phí gọi là kết chuyển tuần tự. Trình tự tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm theo phương án này có thể khái quát qua sơ đồ sau
Chi phí nguyên vật liệu chính
Chi phí chế biến bước 1
Giá trị sản phẩm dở dang bước 1
Giá thành bán thành phẩm bước 1
+
-
=
Giá thành bán thành phẩm bước 1
Chi phí chế biến bước 2
Giá trị sản phẩm dở dang bước 2
Giá thành bán thành phẩm bước 2
+
-
=
.......
Giá thành bán thành phẩm bước (n-1)
Chi phí chế biến bước n
Giá trị sản phẩm dở dang bước n
Giá thành bán thành phẩm bước n
+
-
=
b. Tính giá thành phân bước theo phương án không có bán thành phẩm
Trong những doanh nghiệp mà yêu cầu hạch toán kinh tế nội bộ không cao hoặc bán thành phẩm chế biến ở từng bước không bán ra ngoài thì chi phí chế biến phát sinh trong các giai đoạn công nghệ được tính nhập vào giá thành thành phẩm một cách đồng thời song song nên còn được gọi là kết chuyển song song. Theo phương án này, kế toán không cần tính giá thành bán thành phẩm hoàn thành trong từng giai đoạn mà chỉ tính giá thành thành phẩm hoàn thành bằng cách tổng hợp chi phí nguyên vật liệu chính và các chi phí chế biến khác trong các giai đoạn công nghệ. Có thể khái quát theo sơ đồ sau:
Chi phí vật liệu chính tính cho thành phẩm
Chi phí bước 1 tính cho thành phẩm
Chi phí bước 2 tính cho thành phẩm
Chi phí bước...tính cho thành phẩm
Chi phí bước n tính cho thành phẩm
Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành
V. Tổ chức hạch toán chi phí sản xuất
1. Trình tự hạch toán chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại với tính chất và nội dung khác nhau, phương pháp hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm cũng khác nhau. Vì vậy, việc tập hợp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp thời được. Với mỗi loại hình doanh nghiệp, với đặc điểm sản xuất cũng như trình độ quản lý và hạch toán mà doanh nghiệp đó lựa chọn cho mình một trình tự riêng. Tuy nhiên, có thể khái quát chung việc tập hợp chi phí sản xuất qua các bước sau:
- Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho đối tượng sử dụng.
- Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của các ngành SXKD phụ cho từng đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và giá thành đơn vị lao vụ.
- Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các loại sản phẩm có liên quan.
- Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ, tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm.
2. Hạch toán CPSX theo phương pháp kê khai thường xuyên
2.1. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí vật liệu phân bổ cho từng đối tượng
Tổng tiêu thức phân bổ của từng đối tượng
Tỷ lệ phân bổ
=
x
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu... dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Đối ._.với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất hoặc sản phẩm, loại sản phẩm, lao vụ, dịch vụ...) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không kể tổ chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ chi phí cho các đối tượng có liên quan. Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng lượng, số lượng sản phẩm. Công thức phân bổ như sau:
Tỷ lệ phân bổ
Tổng chi phí vật liệu cần phân bổ
=
Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng
Trong đó:
2.1.1. Tài khoản sử dụng
Để theo dõi các khoản CPNVLTT, kế toán sử dụng TK 621- chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất). Kết cấu TK 621 như sau:
Bên Nợ: Giá trị nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm
Bên Có: - Giá trị nguyên vật liệu xuất dùng không hết
- Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
TK này cuối kỳ không có số dư
2.1.2. Phương pháp hạch toán
TK151, 152, 331, 111, 112, 411, 311
Vật liệu dùng trực tiếp
chế tạo sản phẩm,
tiến hành lao vụ, dịch vụ
TK 621
TK 154
TK 152
Kết chuyển chi phí
nguyên, vật liệu trực tiếp
Vật liệu dùng không hết
nhập kho hay kết chuyển
kỳ sau
Sơ đồ 1: Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
2.2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp là khoản thù lao lao động phải trả cho lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ dịch vụ. Chi phí này bao gồm các khoản lương chính, phụ cấp có tính chất lương (phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ, độc hại, phụ cấp làm ca đêm...) và các khoản trích theo lương như BHXH, BHYT, KPCĐ do người sử dụng lao động chịu và được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh theo một tỉ lệ nhất định.
2.2.1. Tài khoản sử dụng
TK 622- Chi phí nhân công trực tiếp được mở để theo dõi chi phí này theo từng đối tượng tập hợp chi phí như TK 621. TK này có kết cấu như sau:
Bên Nợ: Chi phí nhân công trực tiếp thực tế phát sinh
Bên Có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp
TK 622 cuối kỳ không có số dư.
nhân công trực tiếp
Kết chuyển chi phí
cho công nhân trực tiếp sản xuất
Tiền lương và phụ cấp lương phải trả
TK 154
TK 622
TK 338
TK 334
2.2.2. Phương pháp hạch toán
Các khoản đóng góp theo tỷ lệ với
Tiền lương của CNTTSX thực tế phát sinh
Sơ đồ 2: Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nhân công trực tiếp
2.3. Hạch toán chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng, các bộ phận sản xuất.
2.3.1. TK sử dụng
Để theo dõi các khoản chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng TK 627- Chi phí sản xuất chung. TK này được mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất, dịch vụ. TK này có kết cấu như sau:
Bên Nợ: Chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kỳ
Bên Có: Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung
Kết chuyển chi phí sản xuất chung vào chi phí sản phẩm, lao vụ, dịch vụ.
TK 627 cuối kỳ không có số dư
2.3.2. Phương pháp hạch toán
TK334, 338
TK 152, 153
TK627
TK 242, 335
TK 154
TK 111, 112, 152...
TK 632
TK214
TK1331
TK 331, 111, 112...
Chi phí nhân viên phân xưởng
Chi phí vật liệu, dụng cụ
Chi phí theo dự toán
Chi phí khấu hao TSCĐ
Các chi phí khác mua ng
Các khoản thu hồi ghi giảm
Phân bổ (hoặc kết chuyển )
Kết chuyển CPSXC cố định
Thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ (nếu có)
chi phí sản xuất chung cho các đối tượng tính giá
(không phân bổ) vào giá vốn
ngoài phải trả hay đã trả
chi phí sản xuất chung
Sơ đồ3:Hạch toán chi phí sản xuất chung
2.3.3. Phương pháp phân bổ chi phí sản xuất chung
Do chi phí sản xuất chung có liên quan đến nhiều loại sản phẩm , lao vụ, dịch vụ trong phân xưởng nên cần thiết phải phân bổ chi phí này cho từng đối tượng (sản phẩm , dịch vụ) theo tiêu thức phù hợp: Theo định mức, theo tiền lương công nhân sản xuất thực tế, theo giờ công lao động thực tế...
Mức và chi phí sản xuất chung phân bổ cho từng đối tượng
Tổng chi phí sản xuất chung cần phân bổ
Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng
x
Tổng tiêu thức phân bổ của từng đối tượng
=
2.4. Tập hợp chi phí sản xuất, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang
2.4.1. Tập hợp chi phí sản xuất
Cuối kỳ, kế toán có nhiệm vụ tổng hợp chi phí sản xuất. Các chi phí sản xuất kể trên cuối cùng đều phải được tổng hợp vào bên nợ TK 154. TK này được mở chi tiết theo từng ngành sản xuất, từng nơi phát sinh chi phí hay từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết sản phẩm, từng loại lao vụ, dịch vụ... của tất cả các bộ phận sản xuất kinh doanh chính, sản xuất kinh doanh phụ (kể cả vật tư, sản phẩm, hàng hoá thuê ngoài gia công chế biến). Nội dung phản ánh TK 154 như sau:
Bên Nợ: Tập hợp chi phí sản xuất trong kỳ (CPNVLTT, CPNCTT, CPSXC)
Bên Có: - Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất
- Tổng giá thành sản xuất thực tế hay chi phí thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ dở dang chưa hoàn thành.
Dư Nợ: Chi phí thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ dở dang chưa hoàn thành.
Chi phí NVL trực tiếp
Chi phí sản xuất chung
Chi phí nhân công trực tiếp
giảm chi phí sản phẩm
Nhập kho vật tư, sản phẩm
Các khoản ghi
Gửi bán
Tiêu thụ thẳng
TK621
TK622
TK 627
TK 154
TK 152, 111
TK 155, 152
TK 157
TK 632
Quá trình tổng hợp chi phí sản xuất được tiến hành như sau:
Sơ đồ 4:Sơ đồ hạch toán tập hợp chi phí sản xuất
2.4.2. Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang
Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm, kế toán phải tiến hành kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang. Tuỳ theo đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ và tính chất của sản phẩm mà doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang sau:
- Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu chính.
- Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo sản lượng ước tính tương đương.
Trước hết, kế toán dựa vào mức độ hoàn thành và số lượng sản phẩm dở dang để quy đổi sản phẩm dở dang thành sản phẩm hoàn thành. Tiêu chuẩn quy đổi thường dựa vào giờ công hoặc tiền lương định mức.
Số lượng sản phẩm tương đương
Số lượng sản phẩm dở dang
Mức độ hoàn thành
=
x
Sau đó, kế toán phân bổ chi phí sản xuất cho sản phẩm dở dang
CPNVL chính tính cho SPDD
x
Số lượng SP không quy đổi
CPNVL chính đầu kỳ
CPNVL chính phát sinh trong kỳ
Số lượng SPDD không quy đổi
Số lượng SP hoàn thành
=
+
+
CPNVL phụ tính cho SPDD
x
Số lượng SP tương đương
CPNVL phụ đầu kỳ
CPNVL phụ phát sinh trong kỳ
Số lượng SPDD tương đương
Số lượng SP hoàn thành
=
+
+
CPNCTT tính cho SPDD
x
Số lượng SP tương đương
Tổng chi phí nhân công trực tiếp
Số lượng SPDD tương đương
Số lượng SP hoàn thành
=
+
CPSX chung tính cho SPDD
x
Số lượng SP tương đương
Chi phí sản xuất chung
Số lượng SPDD tương đương
Số lượng SP hoàn thành
=
+
Cuối cùng tổng hợp chi phí phân bổ cho sản phẩm dở dang.
- Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo 50% chi phí chế biến.
- Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc theo chi phí trực tiếp.
- Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí định mức hoặc kế hoạch.
Ngoài ra, trên thực tế, người ta còn áp dụng các phương pháp khác để xác định giá trị sản phẩm dở dang như phương pháp thống kê kinh nghiệm, phương pháp tính theo chi phí vật liệu và vật liệu phụ nằm trong sản phẩm dở dang.
VI. Tổ chức hệ thống sổ sách hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Sổ kế toán là một phương tiện vật chất cơ bản, cần thiết để người làm kế toán ghi chép, phản ánh một cách có hệ thống các thông tin kế toán theo thời gian cũng như theo đối tượng. Việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là công việc phức tạp. Vì vậy, đơn vị hạch toán cần thiết phải sử dụng nhiều loại sổ khác nhau cả về kết cấu nội dung và phương pháp ghi chép... thành một hệ thống sổ kế toán.
1. Hệ thống sổ chi tiết
Để giúp cho việc tính giá thành sản phẩm được chính xác, nhanh chóng cần tiến hành tập hợp chi tiết chi phí theo từng đối tượng tính giá. Tuỳ theo từng đối tượng tập hợp chi phí, công việc hạch toán chi tiết có thể khái quát theo các bước sau.
- Mở sổ (thẻ) hạch toán chi tiết chi phí sản xuất theo từng đối tượng tập hợp chi phí. Sổ được mở chi tiết theo từng TK 621, 622, 627, 154, 631, 142, 335, 641, 642. Căn cứ để ghi sổ là các tài khoản tháng trước, các chứng từ gốc, các bảng phân bổ (tiền lương và BHXH, vật liệu và công cụ dụng cụ, khấu hao...) bảng kê chi phí theo dự toán. Sổ có thể mở riêng cho từng đối tượng hoặc mở chung cho nhiều đối tượng.
Biểu số 1: Sổ chi phí sản xuất kinh doanh
Tài khoản.....
Phân xưởng.....
Sản phẩm, dịch vụ....
Chứng từ
Diễn giải
TK
đối ứng
Ghi Nợ TK
Số hiệu
Ngày tháng
Tổng số tiền
Trong đó
-Số dư đầu kỳ
-Phát sinh trong kỳ
....
-Cộng phát sinh
-Ghi có TK
Dư cuối kỳ
- Tổng hợp toàn bộ chi phí phát sinh theo từng nội dung thuộc từng đối tượng hạch toán vào cuối kỳ làm cơ sở cho việc tính giá thành. Đồng thời lập thẻ tính giá thành sản phẩm, dịch vụ theo từng loại. Căn cứ để lập thẻ tính giá thành từng loại sản phẩm dịch vụ là các thẻ tính giá thành kỳ trước, sổ hạch toán chi tiết chi phí sản xuất kinh doanh kỳ này và biên bản kiểm kê, đánh giá SPDD cuối kỳ cùng với bảng kê khối lượng sản phẩm, dịch vụ hoàn thành trong kỳ. Có thể mở sổ theo mẫu sau:
Biểu số 2: Thẻ tính giá thành sản phẩm, dịch vụ
Tháng....năm....
Tên sản phẩm, dịch vụ...
Khoản mục chi phí
Giá trị SPDD đầu kỳ
CPSX phát sinh trong kỳ
Giá trị SPDD cuối kỳ
Tổng giá thành sản phẩm
Giá thành đơn vị sản phẩm
1. CPNVL TT
2. CPNCTT
3. CPSXC
Cộng
2. Hệ thống sổ tổng hợp
Đối với hệ thống sổ tổng hợp, tuỳ thuộc vào hình thức sổ kế toán mà doanh nghiệp áp dụng, việc hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm được hạch toán trên hệ thống sổ sách khác nhau.
Đối với doanh nghiệp áp dụng hình thức Nhật ký - chứng từ
Nhật ký chứng từ là hình thức sổ kế toán dùng để tổng hợp và hệ thống hoá các nghiệp vụ kế toán phát sinh bên Có của TK kết hợp với việc phân tích các nghiệp vụ đó theo bên Nợ của các TK đối ứng. Đồng thời, việc ghi chép kết hợp chặt chẽ thời gian với hệ thống, giữa hạch toán tổng hợp với hạch toán chi tiết trên cơ sở các mẫu sổ sách in sẵn thuận lợi cho việc lập báo cáo tài chính và rút ra các chỉ tiêu quản lý kế toán quan trọng.
Để theo dõi chi phí sản xuất kinh doanh, kế toán sử dụng bảng kê số 4, bảng kê số 5, bảng kê số 6 và Nhật ký chứng từ số 7. Bảng kê số 4 dùng để tập hợp chi phí sản xuất theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất và chi tiết cho từng sản phẩm dịch vụ. Bảng kê số 5 dùng để tập hợp chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí xây dựng cơ bản theo yếu tố chi phí. Các chi phí theo dự toán (chi phí trả trước, chi phí phải trả) được theo dõi trên Bảng kê số 6.
Nhật ký chứng từ số 7 được dùng để tổng hợp toàn bộ chi phí kinh doanh toàn doanh nghiệp.
Có thể khái quát trình tự ghi sổ kế toán hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo hình thức Nhật ký chứng từ như sau:
Báo cáo chi phí
Báo cáo khác
Sổ cái TK 621, 622, 627, 154 (631)
Nhật ký- chứng từ số 7
Bảng tính giá thành sản phẩm
Bảng kê số 6
Bảng kê số 5
Bảng kê số 4
Chứng từ gốc về chi phí hoặc bảng phân bổ
Ghi hàng ngày
Ghi định kỳ
Ghi chú:
Sơ đồ 5: Qui trình ghi sổ tổng hợp theo hình thức nhật ký chứng từ
Phần II Thực trạng công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại nhà máy Chế Tạo Biến Thế
I. Khái quát chung về nhà máy Chế Tạo Biến Thế
Nhà máy Chế Tạo Biến Thế
Tên giao dịch quốc tế: Transformer Manufacturing Company
Địa chỉ: Km9- Quốc lộ 1A- Thanh Trì- Hà Nội
Điện thoại: 8.617.229
1. Quá trình hình thành và phát triển
Nhà máy Chế Tạo Biến Thế thuộc Tổng công ty thiết bị kỹ thuật điện được thành lập ngày 26/3/1963. Tính đến nay, Nhà máy đã hoạt động được tròn 40 năm. Trong 40 năm đó, Nhà máy đã trải qua nhiều bước thăng trầm cùng với sự phát triển của đất nước. Sản phẩm chính của nhà máy là các loại máy biến thế điện lực, biến thế lò luyện, máy hàn và các thiết bị điện khác mang nhãn hiệu C.T.B.T có chất lượng và tuổi thọ cao.
Nhờ sự nỗ lực không ngừng của toàn bộ cán bộ công nhân viên, Nhà máy đã thu được những kết quả rất đáng khích lệ và đã được tặng nhiều huân chương, cờ luân lưu của Chính phủ, nhiều bằng khen của Bộ công nghiệp, Bộ nội vụ, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. Nhà máy là đơn vị duy nhất được tặng 16 huy chương vàng về máy biến thế “Sản phẩm chất lượng cao”.
Kể từ ngày thành lập đến nay, Nhà máy Chế Tạo Biến Thế đã phát triển qua ba giai đoạn quan trọng.
a. Giai đoạn từ 1963-1994
Ngày 26 tháng 3 năm 1963, tại 27 Lý Thái Tổ, số 8 và số 10 Trần Nguyên Hãn- Hà Nội, với 1.450.000 đồng vốn ban đầu với 2 chiếc xe bò và một vài máy móc thiết bị thô sơ, 4 cán bộ có trình độ kỹ thuật trung cấp đã đánh dấu sự ra đời của nhà máy sản xuất máy biến thế đầu tiên trên đất nước ta. Nhiệm vụ chính của Nhà máy lúc này là sửa chữa kịp thời các thiết bị điện gồm máy phát điện, máy biến thế, các loại cầu dao và đồng hồ đo điện để đảm bảo cho việc vận hành lưới điện an toàn.
Trong năm đầu hoạt động, Nhà máy đã sản xuất được 96 máy biến thế điện các loại, vượt kế hoạch sản xuất máy biến thế 7%. Đồng thời, nhà máy cũng đã sản xuất được 45 máy phát điện loại 28 KW, vượt 13% kế hoạch. Lợi nhuận thực hiện đã vượt kế hoạch 21%. Sau 20 năm hoạt động, Nhà máy đã phát triển vượt bậc, quy mô sản xuất lớn với hơn 800 công nhân. Đến năm 1983, để đảm bảo quản lý chặt chẽ, làm ăn có hiệu quả, Nhà máy đã tách bộ phận chế tạo thiết bị đo điện để thành lập Nhà máy "Chế Tạo Thiết Bị Đo Điện". Đồng thời, Nhà máy cũng chuyển địa điểm đến xã Hoàng Liệt, Thanh Trì, Hà Nội. Năm 1985, 100 cán bộ công nhân viên của Nhà máy tách ra thành lập nhà máy vật liệu cách điện.
Năm 1994, Nhà máy đã trở thành nhà máy hàng đầu của ngành công nghiệp Việt Nam.
b. Giai đoạn 1994- 1998
Ngày 01 tháng 9 năm 1994, Nhà máy Chế Tạo Biến Thế đã ký kết hợp đồng liên doanh với tập đoàn công nghiệp Bắc Âu ABB theo giấy phép đầu tư số 901 cấp ngày 1 tháng 7 năm 1994. Toàn bộ 475 cán bộ công nhân viên nhà máy trở thành thành viên của Công ty liên doanh chế tạo biến thế ABB. Tổng số vốn góp vào liên doanh là 27 990 380 000 đồng, chiếm 35% vốn pháp định đầu tư của công ty liên doanh. Trong thời gian này, Nhà máy Chế tạo biến thế không hoạt động độc lập. Tuy nhiên, Công ty liên doanh chế tạo biến thế ABB hoạt động không hiệu quả, bốn năm liền đều lỗ. Trước tình hình đó, một số cán bộ công nhân viên của nhà máy chế tạo biến thế cũ đã quyết định tách ra khỏi công ty liên doanh, thành lập lại nhà máy chế tạo biến thế.
c. Giai đoạn 1999 đến nay
- Ngày 1 tháng 1 năm 1999, được sự cho phép của bộ công nghiệp và Tổng công ty thiết bị kỹ thuật điện, Nhà máy Chế tạo biến thế đã trở lại hoạt động độc lập. Trong năm đầu trở lại hoạt động, Nhà máy chế tạo biến thế đã gặp phải rất nhiều khó khăn. Do lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy là sản xuất các loại máy biến áp nên Nhà máy cần số vốn đầu tư rất lớn, đặc biệt là tài sản cố định. Nhưng giá trị tài sản cố định của Nhà máy chỉ là 2.608.600.800 đồng, giá trị tài sản lưu động là 3.096.284.138 đồng. Bên cạnh đó, những khách hàng truyền thống của Nhà máy Chế tạo biến thế cũ nay đã là khách hàng của Công ty ABB. Tuy nhiên, hết năm 1999, tổng doanh thu mà Nhà máy đạt được là 7.454.514.232 đồng, lợi nhuận sau thuế là 185.300.113 đồng.
2. Đặc điểm tổ chức hoạt động sản xuất của nhà máy chế tạo biến thế
Nhà máy chế tạo biến thế tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh với mục tiêu phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và hướng tới xuất khẩu. Hơn nữa, sản phẩm của nhà máy phục vụ cho các công trình lớn, đòi hỏi một tiêu chuẩn kỹ thuật rất khắt khe. Để đáp ứng mục tiêu trên, Nhà máy tiến hành sản xuất theo các tổ, mỗi tổ có chức năng nhiệm vụ riêng. Mặc dù Nhà máy sản xuất rất nhiều loại máy biến áp với công suất và điện áp khác nhau nhưng quy trình sản xuất các loại máy biến áp đều chia làm 5 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Tạo vỏ
Trong giai đoạn này, từ các loại tôn tấm, tôn đen, Nhà máy sẽ tiến hành làm vỏ, hàn cánh tản nhiệt và sơn chống rỉ cho vỏ máy.
- Giai đoạn 2: Lõi thép
Từ kho, tôn silic được xuất cho tổ cắt tôn, tổ này có nhiệm vụ pha tôn thành những lá tôn nhỏ theo thiết kế để ghép thành lõi thép. Sau khi ghép tôn thành trụ, công nhân phải bọc giấy cách điện quanh trụ tôn.
- Giai đoạn 3: Quấn dây
Giai đoạn này tiến hành theo 2 bước: Quấn bối dây hạ thế và bối dây cao thế. Nguyên liệu chính để quấn cuộn hạ thế là dây đồng dẹt. Sau khi quấn xong hạ thế, công nhân phải bọc giấy cách điện và quấn cuộn cao thế ra ngoài. Những đầu dây đưa ra ngoài đều phải dùng ống cách điện bọc lại.
- Giai đoạn 4: Lắp ráp bước 1
Sau khi quấn dây và lõi thép đã hoàn thành, tổ lắp ráp sẽ lắp các bối dây vào lõi tôn, lắp bộ phận điều chỉnh, kiểm tra các đầu dây rồi cho vào lò sấy chân không để sấy khô.
- Giai đoạn 5: Lắp ráp bước 2
Phần ruột máy sau khi sấy khô sẽ được kiểm tra độ cách điện trước khi lắp vào vỏ máy. Trong giai đoạn này, công nhân phải đổ dầu trong điều kiện chân không và hàn kín vỏ. Cuối cùng sản phẩm phải qua khâu kiểm nghiệm trước khi xuất xưởng.
Qui trình sản xuất máy biến áp của Nhà máy có thể khái quát qua sơ đồ sau
Kiểm tra kích thước, điện trở
Lắp bộ phận điều chỉnh
Máy quấn dây
Ruột máy
Lắp ráp điện
Cuộn hạ thế, cao thế
Dây đồng
Kiểm tra số đầu dây
Vật liệu cách điện
Đổ dầu trong điều kiện chân không
Kiểm tra kích thước
Cắt, ghép
Lõi tôn
Thép silic cuộn
Kiểm tra lần cuối
Máy biến áp xuất xưởng
Máy biến áp
Thử áp suất
Sơ đồ 6- Quy trình sản xuất máy biến áp
Vỏ máy
3. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của Nhà máy chế tạo biến thế
Phòng tổ chức hành chính
Phân xưởng sản xuất
Phòng kỹ thuật chất lượng
Phó giám đốc
Giám đốc
Tại Nhà máy chế tạo biến thế, bộ máy tổ chức được sắp xếp theo kiểu trực tuyến chức năng.
Phòng kế toán tài chính
Phòng sản xuất kinh doanh và vật tư
Sơ đồ 7: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý
Trong đó bao gồm:
* Ban giám đốc
- Giám đốc: là người chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Nhà máy từ kỹ thuật, kinh doanh đến tổ chức lao động.
- Phó giám đốc kỹ thuật: có nhiệm vụ thiết kế sản phẩm, kiểm tra chất lượng sản phẩm, quản lý cung ứng vật tư, phụ trách hoạt động sản xuất.
* Phòng tổ chức hành chính: gồm 6 người, chịu sự quản lý trực tiếp của giám đốc. Phòng có chức năng tổ chức nhân sự, thực hiện công tác bảo hiểm, đào tạo và tuyển dụng lao động cho nhà máy. Đồng thời, có nhiệm vụ lập kế hoạch tiền lương, theo dõi định mức từng bước công nghệ, tổng hợp và phân tích tình hình lao động. Quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần, chế độ bảo vệ an toàn cho cán bộ công nhân viên Nhà máy.
*Phòng kế toán tài chính: Là bộ phận giúp việc cho giám đốc, quản lý tình hình tài chính của nhà máy. Phòng có 5 người. Nhiệm vụ chính là lập các Báo cáo quyết toán tài chính, lập kế hoạch thu chi quỹ cho năm tiếp theo, phản ánh tình hình hoạt động và kết quả sản xuất kinh doanh diễn ra trong năm tài chính. Tổ chức quản lý và sử dụng một cách hữu hiệu, quản lý TSCĐ, giúp Nhà máy bảo toàn và phát triển vốn.
Bên cạnh đó, phòng kế toán tài chính còn có nhiệm vụ tổ chức thực hiện đầy đủ việc thanh toán, trích nộp ngân sách và các chế độ tài chính khác. Thường xuyên tổ chức kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính kế toán đảm bảo việc ghi chép sổ sách, sử dụng chứng từ đúng với chế độ, báo cáo kịp thời, chính xác tình hình thanh toán công nợ trình ban giám đốc.
*Phòng kỹ thuật chất lượng: tham mưu cho giám đốc về việc quản lý khoa học, kỹ thuật, công nghệ sản xuất, chất lượng sản phẩm, nghiên cứu chế thử, huấn luyện nghiệp vụ.
Công việc này do 9 người đảm trách, trong đó:
- Trưởng phòng do Phó giám đốc đảm nhận phụ trách chung
- Ba kỹ sư điện thiết kế sản phẩm
- Hai kỹ sư cơ khí có nhiệm vụ nghiên cứu, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ trong và ngoài nước vào việc sản xuất ra các mặt hàng có tính năng kỹ thuật, chất lượng cao và giá thành hạ.
- Ba kỹ sư điện thực hiện kiểm tra chất lượng sản phẩm, hướng dẫn kiểm tra các xưởng sản xuất thực hiện đúng quy trình công nghệ.
*Phòng sản xuất kinh doanh và vật tư: Phòng có 6 người do giám đốc trực tiếp phụ trách. Nhiệm vụ chủ yếu của phòng kinh doanh vật tư là lập kế hoạch về vật tư cho sản xuất và dự trữ. Cung cấp vật tư kịp thời đảm bảo yêu cầu về số và chất lượng. Ký kết hợp đồng mua bán vật tư cả trong và ngoài nước, quản lý, thống kê tình hình sử dụng, thanh quyết toán vật tư.
Đồng thời, phòng sản xuất kinh doanh và vật tư còn có nhiệm vụ thăm dò, nghiên cứu tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ra, thực hiện hợp đồng với các cơ sở gia công đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng, giá cả hợp lý. Đây là phòng trung gian, là cầu nối giữa khách hàng với Nhà máy, do vậy, hoạt động kinh doanh có tác động không nhỏ tới khả năng tiêu thụ của Nhà máy. Ngoài ra, phòng còn lập kế hoạch cho sản xuất để đảm bảo hoạt động sản xuất đồng bộ, nhịp nhàng, lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, kế hoạch bán hàng và giá cả.
*Phân xưởng sản xuất
- Tổ văn phòng: có nhiệm vụ điều hành hoạt động sản xuất của các phân xưởng sản xuất.
Nhà máy tổ chức sản xuất ở hai phân xưởng sản xuất: Phân xưởng cơ khí và phân xưởng điện.
+ Phân xưởng cơ khí chia làm 4 tổ: tổ cơ điện, tổ hàn cánh, tổ hàn thân, tổ làm sắt kẹp.
+ Phân xưởng điện gồm 4 tổ: tổ cắt tôn, tổ quấn dây, tổ lắp ráp, tổ hoàn chỉnh.
Trong đó, mỗi tổ sản xuất có chức năng và nhiệm vụ theo đúng tên gọi của nó. Các tổ sản xuất được bố trí hợp lý, có quan hệ qua lại với nhau trong cùng một xưởng sản xuất tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất sản phẩm.
4. Tổ chức công tác kế toán ở Nhà máy chế tạo biến thế
a. Tổ chức bộ máy kế toán
Căn cứ vào quy mô, đặc điểm sản xuất kinh doanh và yêu cầu quản lý, Nhà máy tổ chức bộ máy kế toán theo mô hình tập trung.
Phòng kế toán là nơi thực hiện toàn bộ công tác kế toán tại Nhà máy: từ việc ghi chép, phản ánh, tập hợp số liệu đến việc lập báo cáo tài chính. Có thể khái quát sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán của Nhà máy như sau:
Kế toán trưởng
Kế toán thanh toán
Kế toán vật tư
Kế toán lương
Thủ quỹ
Sơ đồ 8: Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán
- Kế toán trưởng: là người đứng đầu bộ máy kế toán của Nhà máy, có chức năng giám sát chung mọi hoạt động của phòng kế toán. Kế toán trưởng còn có nhiệm vụ tập hợp chi phí, tính giá thành sản phẩm, ghi nhận doanh thu, quản lý TSCĐ và nguồn vốn của Nhà máy. Cuối quý, kế toán trưởng lập Báo cáo kế toán để nộp lên Ban giám đốc, cục thuế và cục thống kê. Kế toán trưởng phải chịu trách nhiệm về tính trung thực và hợp lý của các Báo cáo kế toán đó.
- Kế toán thanh toán: theo dõi các nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến thu, chi tiền các khoản phải thu, phải trả khác, các khoản tạm ứng, các khoản nợ ngắn hạn, dài hạn theo thời điểm phát sinh các nghiệp vụ kinh tế.
- Kế toán vật tư: theo dõi chi tiết cả về mặt giá trị và hiện vật của vật tư, theo dõi chi tiết cho từng thứ, từng chủng loại quy cách vật tư, hàng hoá theo địa điểm quản lý và sử dụng.
- Kế toán lương: Căn cứ vào bảng chấm công tính ra tiền lương phải trả cho cán bộ công nhân viên, tính các khoản trích theo lương. Ngoài ra, kế toán lương còn theo dõi số tiền huy động vốn của cán bộ công nhân viên Nhà máy.
- Thủ quỹ: có trách nhiệm quản lý và nhập quỹ tiền mặt. Hàng ngày, thủ quỹ phải kiểm kê số tồn quỹ tiền mặt thực tế, đối chiếu số trên sổ quỹ tiền mặt và sổ kế toán tiền mặt. Nếu có chênh lệch, kế toán và thủ quỹ phải kiểm tra lại để xác định nguyên nhân và kiến nghị biện pháp xử lý chênh lệch.
b. Hệ thống chứng từ
Nhà máy áp dụng hệ thống chứng từ ban hành theo quyết định số 1141/TC/CĐKT của Bộ tài chính bao gồm 25 trong số 46 loại chứng từ về lao động tiền lương, hàng tồn kho, bán hàng, tiền tệ và TSCĐ.
c. Hệ thống TK
Nhà máy hiện đang sử dụng 33 TK cấp I trong hệ thống TK ban hành theo quyết định 1141/TC/CĐKT ngày 1/11/1995 của Bộ Tài chính.
d. Hình thức sổ
Hiện nay, Nhà máy chế tạo biến thế đang áp dụng hình thức Nhật ký chứng từ với các loại sổ sau:
- Bảng phân bổ
- Sổ chi tiết tài khoản
- Sổ tổng hợp tài khoản
- Sổ cái
- Bảng kê
Nhật ký- chứng từ
Chứng từ gốc và bảng phân bổ
Sổ cái
Bảng kê
Nhật ký chứng từ
Thẻ và sổ kế toán chi tiết
Bảng tổng hợp chi tiết
Báo cáo kế toán
Sơ đồ 9: Trình tự ghi sổ kế toán
Ghi chú: Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu, kiểm tra
Hàng ngày, căn cứ vào các chứng từ gốc kế toán ghi trực tiếp vào các Nhật ký chứng từ, các bảng kê và các sổ chi tiết có liên quan. Cuối tháng cộng sổ và chuyển số liệu tổng cộng từ bảng kê và sổ kế toán chi tiết sang các Nhật ký chứng từ liên quan rồi cộng số liệu trên các Nhật ký chứng từ, kiểm tra, đối chiếu số liệu với các sổ kế toán chi tiết, Bảng tổng hợp chi thiết có liên quan và lấy số liệu tổng cộng của các Nhật ký chứng từ ghi trực tiếp vào Sổ Cái.
Số liệu tổng cộng ở Sổ Cái và một số chỉ tiêu chi tiết trong Nhật ký chứng từ , Bảng kê và các bảng tổng hợp chi tiết được dùng để lập các báo cáo kế toán
e. Hệ thống báo cáo
Theo chế độ kế toán hiện hành, cuối mỗi quý, kế toán lập 3 báo cáo
- Bảng cân đối kế toán
- Báo cáo kết quả kinh doanh
- Thuyết minh báo cáo tài chính
Các báo cáo này do kế toán trưởng lập, giám đốc ký duyệt và nộp cho các cơ quan chủ quản.
II. Thực tế hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở nhà máy chế tạo biến thế
1. Đặc điểm chi phí sản xuất và hạch toán chi phí sản xuất tại Nhà máy chế tạo biến thế
1.1. Đặc điểm chi phí sản xuất
Nhà máy chế tạo biến thế hoạt động kinh doanh ở ngành cơ khí chế tạo nên giống như những đơn vị hoạt động sản xuất khác, chi phí sản xuất của Nhà máy là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình kinh doanh mà Nhà máy trải qua trong một kỳ kinh doanh. Tuy nhiên, Nhà máy chế tạo biến thế khác với các doanh nghiệp sản xuất khác là số lượng sản phẩm giữa các tháng không đều. Sản phẩm của Nhà máy tiêu thụ nhiều vào các tháng cuối năm và tháng trước Tết. Do đó, vào những tháng này, chi phí sản xuất của Nhà máy cũng có chênh lệch lớn so với các tháng ra Tết.
1.2. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất
Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là khâu đầu tiên quan trọng nhất trong toàn bộ công tác kế toán hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở mỗi doanh nghiệp. Có xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất cụ thể thì kế toán mới có thể tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm một cách chính xác và kịp thời.
Do quy trình sản xuất của Nhà máy là quy trình sản xuất phức tạp, kiểu chế biến liên tục, một số tổ sản xuất có trách nhiệm sản xuất một công đoạn của máy biến áp nên Nhà máy xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là năm công đoạn sản xuất.
1.3. Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh bao gồm nhiều loại, nhiều khoản khác nhau về cả nội dung, tính chất, công dụng, vai trò, vị trí trong quá trình kinh doanh. Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán, chi phí sản xuất của Nhà máy được phân loại theo khoản mục trong giá thành sản phẩm. Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất của Nhà máy bao gồm:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
+Chi phí nguyên vật liệu chính: tôn đen, tôn tấm, tôn silic, dây đồng, dầu biến thế...
+Chi phí nguyên vật liệu phụ: giấy cách điện, ống cách điện, sơn...
- Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm chi phí về tiền lương chính, tiền lương phụ và các khoản phụ cấp, các khoản trích theo lương của công nhân trực tiếp sản xuất (BHXH, BHYT, KPCĐ)
- Chi phí sản xuất chung:
+ Chi phí vật liệu, dụng cụ ở xưởng sản xuất.
+ Chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương của nhân viên quản lý phân xưởng.
+ Chi phí khấu hao TSCĐ
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài
+ Chi phí khác bằng tiền liên quan đến hoạt động chế tạo sản phẩm ở phân xưởng.
2. Hạch toán chi tiết chi phí sản xuất.
Để hạch toán chi tiết chi phí sản xuất phát sinh trong một kỳ kế toán, Nhà máy không mở sổ chi tiết chi phí sản xuất kinh doanh cho các tài khoản 621, 622, 627 mà Nhà máy chỉ dựa vào các phiếu xuất kho, các bảng tính lương và các chứng từ khác có liên quan để vào các bảng phân bổ trong đó ghi chi tiết theo từng công đoạn của quá trình sản xuất.
2.1 - Tổ chức hạch toán nguyên vật liệu trực tiếp.
a - Chứng từ sử dụng.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phát sinh được thể hiện trên các phiếu xuất kho vật tư. Căn cứ vào các hợp đồng kinh tế, các đơn đặt hàng, bộ phận kế hoạch sản xuất sẽ lập kế hoạch sản xuất. Dựa trên các kế hoạch sản xuất, quản đốc sẽ yêu cầu thủ kho xuất vật tư cho bộ phận sản xuất. Phiếu xuất kho do bộ phận kế hoạch vật tư của Nhà máy lập. Sau khi lập phiếu xong, quản đốc phân xưởng và nhân viên kế hoạch vật tư cùng ký phiếu xuất kho. Phiếu xuất kho được lập thành ba liên:
Liên 1 : Lưu ở bộ phận kế hoạch vật tư của Nhà máy
Liên 2 : Thủ kho sau khi ghi số lượng vật tư thực tế xuất kho chuyển cho nhân viên kế toán vật tư ghi đơn giá và tính thành tiền và ghi sổ kế toán
Liên 3 : Giao cho nhân viên kinh tế ở văn phòng phân xưởng. Phiếu xuất kho được lập để theo dõi chặt chẽ số lượng vật tư xuất kho cho các bộ phận sử dụng trong phân xưởng sản xuất, làm căn cứ để tập hợp chi phí sản xuất, tính giá thành máy biến áp, kiểm tra việc sử dụng vật tư ở từng công đoạn sản xuất, đánh giá tình hình thực hiện định mức tiêu hao nguyện vật liệu.
Phiếu xuất kho được lập cho nhiều thứ vật tư, cho nhiều đối tượng tập hợp chi phí. Vật tư xuất kho ghi trên phiếu xuất kho được ghi chi tiết theo từng loại máy biến áp và ghi cụ thể theo từng công đoạn sản xuất.
Mẫu phiếu xuất kho của Nhà máy chế tạo biến thế như sau:
Phiếu xuất kho
Mẫu số: 02 -VT
Đơn vị: Nhà máy CTBT
Ngày 13 tháng 4 năm 2002
Địa chỉ: Km 9 – quốc lộ 1A
Thanh trì - HN
Nợ: 621 Số 132
._.,559
Tỉ lệ hoàn thành
45%
100%
50%
49%
CP vật liệu
7130,4
19.067,908
10.513,571
13.160,7
CP nhân công
1.650,415
1.854,92
672,738
820,034
CP sản xuất chung
825,207
2.326,736
651,14
788,825
Lắp ráp bước 1
-
3.276,587
-
-
Tỉ lệ hoàn thành
-
20%
-
-
CP vật liệu
-
2457
-
-
CP nhân công
-
312,428
-
-
CP sản xuất chung
-
507,159
-
-
Lắp ráp bước 2
-
-
-
-
Tỉ lệ hoàn thành
-
-
-
-
CP vật liệu
-
-
-
-
CP nhân công
-
-
-
-
CP sản xuất chung
-
-
-
-
Cộng
23.236,007
69.583,578
25830,096
36.711,226
Bảng số10: Biên bản kiểm kê
sản phẩm dở dang tháng 4 năm 2002
Đơn vị tính:1000 đ
Sản phẩm
Công đoạn
50-35/0,4
180-35-22/0,4
320-35-22/0,4
500-35/0,4
Tạo vỏ
-
-
4.411,141
3.888,182
Tỉ lệ hoàn thành
-
-
70%
40%
CP vật liệu
-
-
3580,5
3580,5
CP nhân công
-
-
432,376
174,285
CP sản xuất chung
-
-
398,265
133,397
Lõi thép
4.940,894
-
13511,154
29.564,003
Tỉ lệ hoàn thành
40%
-
100%
36%
CP vật liệu chính
4600
-
13.092
29.061,2
CP nhân công
173,274
-
218,785
268,893
CP sản xuất chung
167,62
-
200,369
233,91
Quấn dây
4191,627
13.691,117
11.424,306
-
Tỉ lệ hoàn thành
50%
30%
100%
-
CP vật liệu chính
3565,2
12712
10.503,57
-
CP nhân công
319,972
497,746
462,832
-
CP sản xuất chung
306,455
481,371
447,904
-
Lắp ráp bước 1
-
-
3.766,667
-
Tỉ lệ hoàn thành
-
-
48%
-
CP vật liệu
-
-
3101
-
CP nhân công
-
-
268,323
-
CP sản xuất chung
-
-
397,344
-
Cộng
9.132,521
13.691,117
33.113,268
33.452,185
Để tính ra chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung nằm trong dở dang cuối kỳ, trước tiên kế toán phải quy đổi số lượng sản phẩm dở dang theo tỉ lệ hoàn thành.
Số lượng sản phẩm quy đổi
Khối lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ
Tỷ lệ hoàn thành
=
x
Tuy nhiên, trong khi quy đổi theo sản phẩm tương đương thì bán thành phẩm ở mỗi công đoạn được xem như thành phẩm.
Sau đó, kế toán tính ra chi phí nhân công trực tiếp bằng cách:
Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí nhân công dở dang đầu tháng
Chi phí phát sinh trong tháng
Số lượng sản phẩm hoàn thành
Số lượng sản phẩm đã quy đổi
Số lượng sản phẩm đã quy đổi
=
+
+
x
Chi phí sản xuất chung dở dang cuối kỳ cũng tính theo công thức trên. Tuy nhiên, Nhà máy sản xuất rất nhiều loại máy biến áp khác nhau nên chi phí dở dang cuối kỳ cũng tính riêng cho từng loại máy biến áp và từng công đoạn sản xuất. Do đó trong công thức trên, chi phí nhân công dở dang đầu tháng và chi phí nhân công phát sinh trong tháng đều đã được phân bổ theo tổng số giờ công lao động thực tế để sản xuất ra loại máy biến áp đó.
Số lượng sản phẩm hoàn thành dựa trên sổ chi tiết bán hàng. Vì thực tế Nhà máy không có kho thành phẩm, sản phẩm sản xuất ra đến đâu xuất trực tiếp cho khách hàng đến đó.
4. Phương pháp tính giá thành sản phẩm hoàn thành.
Tại Nhà máy chế tạo biến thế, phương pháp tính giá thành sản phẩm hoàn thành đang được áp dụng là phương pháp cộng chi phí. Theo đó, giá thành sản phẩm được xác định bằng cách cộng tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn tạo nên sản phẩm.
Giá thành sản phẩm
Z1+Z2+....Z5
=
Giá thành của từng loại sản phẩm được tổng hợp ở bảng tổng hợp chi phí. Bảng này mở riêng cho từng loại sản phẩm trong đó ghi chi tiết cho từng khoản mục ở từng công đoạn sản xuất.
Dựa vào biên bản kiểm kê sản phẩm dở dang cuối tháng 3, kế toán sẽ ghi vào các cột dở dang đầu kỳ của từng công đoạn sản xuất.
Đối với giá trị nguyên vật liệu phát sinh trong kỳ, kế toán sẽ dựa vào các phiếu xuất kho đã ghi cụ thể cho từng loại sản phẩm và từng công đoạn sản xuất để ghi vào cột "Phát sinh trong kỳ" ở các công đoạn sản xuất ở dòng "nguyên vật liệu trực tiếp ".
Để tính được chi phí "nhân công trực tiếp" tính cho một loại máy biến áp, kế toán sẽ dựa vào số giờ công lao động thực tế để sản xuất ra máy biến áp đó trong kỳ để phân bổ tiền lương nhân viên trực tiếp sản xuất ở từng công đoạn cho từng máy.
Chi phí sản xuất chung cũng được phân bổ cho từng loại máy theo thời gian lao động trực tiếp.
Sau khi đã tiến hành phân bổ xong chi phí, kế toán sẽ tính ra số tổng cộng để lập "thẻ tính giá thành sản phẩm hoàn thành". Thẻ này cũng được lập riêng cho từng loại sản phẩm. Tính giá thành sản phẩm gồm 6 cột.
- Cột 1: "Số thứ tự"
- Cột 2: "Khoản mục chi phí"
- Cột 3: "Tổng cộng chi phí". Số liệu này lấy từ bảng tổng hợp chi phí
- Cột 4: "Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ" dựa trên "biên bản kiểm kê sản phẩm dở dang cuối tháng 4.
- Cột 5: Tổng giá thành sản phẩm. Cột này được tính bằng cách lấy "cột 3" trừ đi "cột 4".
- Cột 6: "Giá thành đơn vị sản phẩm". Do sản phẩm của nhà máy sản xuất ra đến đâu tiêu thụ hết đến đó nên nhà máy không có sản phẩm tồn kho cuối kỳ. Vì vậy để tính ra giá thành đơn vị sản phẩm, kế toán dựa vào số chi tiết bán hàng.
Tóm lại, cách tính ra giá thành sản phẩm của Nhà máy khá phức tạp, kế toán phải thực hiện khá nhiều lần phân bổ chi phí để tính ra giá thành cho từng loại sản phẩm. Tuy nhiên do đặc điểm sản xuất của Nhà máy khá phức tạp nên việc lựa chọn phương pháp cộng chi phí để tính ra giá thành sản phẩm là hoàn toàn phù hợp.
Cách tính ra giá thành các loại sản phẩm và lập thẻ tính giá thành của các loại máy biến áp khác cũng tương tự như loại máy biến áp 50-35/0,4.
Đơn vị: Nhà máy chế tạo biến thế
Bảng số 11: Bảng tổng hợp chi phí
Loại máy 50-35/0,4KV
Đơn vị tính: 1000đ
Người lập biểu Ngày 5 tháng 5 năm 2002
Kế toán trưởng
Nguyễn Văn Sự
Đơn vị: Nhà máy Chế tạo biến thế
Bảng số 12: Thẻ tính giá thành sản phẩm, dịch vụ
Tháng 4 năm 2002
Tên sản phẩm, dịch vụ: MBA 50-35/0,4KV
Đơn vị: 1000đ
STT
Khoản mục chi phí
Tổng cộng chi phí
Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cuối kỳ
Tổng giá thành
Giá thành đơn vị
1.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
146.924,7
8.165,2
138.759,5
13.875,95
2.
Chi phí nhân công trực tiếp
24.923,584
493,246
24.430,338
2.443,0338
3.
Chi phí sản xuất chung
38.347,72
474,075
37.873,645
3.787,3645
Cộng
210.196,004
9.132,521
201.063,483
20.106,3483
Người ghi sổ Ngày 5 tháng 5 năm 2002
Kế toán trưởng
Nguyễn Văn Sự
Phần III
Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại nhà máy chế tạo biến thế
I. Những nhận xét chung về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở nhà máy chế tạo biến thế.
Cũng như các doanh nghiệp sản xuất khác, để cạnh tranh được trên thị trường thì việc phấn đấu hạ giá thành sản phẩm mà vẫn duy trì được chất lượng sản phẩm là một vấn đề luôn được Nhà máy chế tạo biến thế quan tâm và đặt lên hàng đầu. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, sự ra đời và phát triển của hàng loạt các Nhà máy chế tạo máy biến áp từ trong Nam ra ngoài Bắc, từ các công ty trách nhiệm hữu hạn đến các công ty lớn có vốn đầu tư nước ngoài đã làm cho môi trường cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Tuy nhiên, với kinh nghiệm, khả năng và sự nỗ lực phấn đấu của mình, Nhà máy đã tìm được chỗ đứng của mình trên thị trường. Sản phẩm của Nhà máy đã có mặt trên khắp mọi miền đất nước.
Điều này có được là do Nhà máy đã chú trọng đến công tác quản lý, trong đó có công tác kế toán. Nhà máy đã nhận thức được vai trò quan trọng của kế toán trong sản xuất kinh doanh. Chỉ có công tác kế toán mới đưa ra những thông tin chính xác kịp thời về tình hình tài chính của Nhà máy, giúp cho các nhà quản lý đưa ra được những quyết định sáng suốt.
Sau thời gian thực tập ở Nhà máy, đi sâu nghiên cứu công tác kế toán, đặc biệt là công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, em đã phần nào hiểu được tình hình thực tế của công tác kế toán ở đây, thấy dược sự khác nhau giữa lý luận và thực tiễn của công tác kế toán. Đây là lần đầu tiên làm quen với môi trường kế toán thực tế, em xin đưa ra một số nhận xét chung về những ưu nhược điểm trong công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Nhà máy.
1. Những ưu điểm.
a. Về tổ chức bộ máy kế toán của Nhà máy.
Với hình thức kế toán tập trung, bộ máy kế toán tổ chức gọn nhẹ đã phát huy được hiệu quả của mình trong việc tăng cường quản lý công tác hạch toán kế toán. Nhân viên kế toán được phân công công việc cụ thể rõ ràng và phù hợp với khả năng của mỗi người. Nhưng bất cứ thành viên nào gặp khó khăn trong công việc đều được sự chỉ bảo của những người có kinh nghiệm hơn trong phòng. Do đó việc hạch toán được tiến hành một cách thường xuyên và có nề nếp, đảm bảo cung cấp số liệu một cách đầy đủ, rõ ràng, phục vụ tốt cho công tác quản lý kiểm tra.
b. Cách thức phân loại và tập hợp chi phí.
Ngoài việc chí phí sản xuất được phân thành ba khoản mục (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trục tiếp, chi phí sản xuất chung), trong mỗi khoản mục lại được chia thành các loại chi phí cụ thể hơn đã tạo điều kiện cho công tác quản lý tốt chi phí sản xuất. Khi xuất kho nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, trên phiếu xuất kho đều ghi rõ lý do xuất kho dùng vào việc gì, dùng cho sản phẩm nào giúp cho kế toán dễ dàng hơn trong việc tập hợp và phân bổ chi phí nguyên vật liệu một cách chính xác tới từng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất.
Khoản mục chi phí sản xuất chung được tập hợp trên cơ sở các khoản mục nhỏ là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí khác bằng tiền giúp cho công tác quản lý chi phí sản xuất chung được chặt chẽ và chính xác hơn.
c. Phương pháp tính giá thành sản phẩm
Phương pháp tính giá thành sản phẩm được xây dựng trên đặc điểm qui trình sản xuất của Nhà máy cũng như đối tượng tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh. Do đó, việc lựa chọn phương pháp cộng chi phí để tính giá thành sản phẩm là hoàn toàn hợp lý. Phương pháp này giúp cho kế toán thực hiện việc tính giá thành đơn giản hơn và thuận lợi hơn .
2. Những tồn tại.
Bên cạnh những ưu điểm nói trên, cũng còn không ít những hạn chế mà Nhà máy cần phải giải quyết để từng bước hoàn thiện hơn nữa công tác hạch chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
a. Khấu hao tài sản cố định.
Việc Nhà máy áp dụng phương pháp khấu hao theo đường thẳng là giữa các năm là phù hợp. Tuy nhiên, sản lượng sản xuất của Nhà máy trong các tháng chênh lệch nhau khá lớn trong khi đó chi phí khấu hao tài sản cố định giữa các tháng lại bằng nhau. Điều đó làm cho giá thành sản phẩm hoàn thành những tháng có sản lượng thấp cao hơn những tháng khác. Vì vậy, Nhà máy nên thay đổi cách tính khấu hao giữa các tháng.
b. Chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định.
Hiện nay, Nhà máy không tiến hành trích trước hoặc phân bổ dần chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định. Nếu phát sinh những khoản này trong tháng thì kế toán sẽ tính hết vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Thực tế cho thấy, hiện nay hầu hêt tài sản của Nhà máy đều đã sử dụng từ 5 đến 9 năm, số tài sản cố định mới chiếm tỷ lệ không nhiều trong tổng giá trị tài sản cố định. Ngoài ra, Nhà máy còn tận dụng những tài sản cố định đã khấu hao hết mà không thanh lý. Điều đó cho thấy chi phí sửa chữa thường xuyên và sửa chữa lớn tài sản cố định là không thể tránh khỏi và rất lớn. Vì vậy, Nhà máy nên có biện pháp xử lý khoản chi phí sản xuất này để tránh tình trạng biến động lớn trong chi phí.
Lựa chọn tiêu thức phân bổ.
Để phân bổ chi phí nguyên vật liệu dùng chung cho toàn phân xưởng, chi phí tiền lương nhân viên quản lý phân xưởng cũng như chi phí khấu hao tài sản cố định và các chi phí sản xuất chung khác, Nhà máy chỉ sử dụng một tiêu thức duy nhất là thời gian lao động trực tiếp để sản xuất ra sản phẩm. Điều này hoàn toàn không hợp lý vì chi phí sản xuất chung hầu hết không phụ thuộc và thời gian lao động của công nhân trực tiếp sản xuất. Do đó dẫn đến sự sai lệch trong giá thành từng loại sản phẩm.
c. Hệ thống sổ sách.
Nhà máy sử dụng tương đối đầy đủ các sổ sách của hình thức Nhật ký chứng từ. Hình thức sổ này có ưu điểm giảm bớt công việc kế toán hàng ngày, thuận tiện cho việc lập báo cáo tài chính do nhiều chỉ tiêu được kết hợp ghi sẵn trên sổ kế toán Nhật ký chứng từ. Tuy nhiên, để tính giá thành sản phẩm, Nhà máy lập rất nhiều bảng tổng hợp chi phí và thẻ tính giá thành sản phẩm.
d. Cách tính lương.
Nhà máy hiện nay vẫn sử dụng hình thức lương thời gian để trả lương cho công nhân viên. Cách tính lương này không khuyến khích được cán bộ công nhân viên Nhà máy làm việc tích cực vì nó đã đánh đồng giữa người làm việc hiệu quả và người lười lao động. Vì vậy, Nhà máy nên nhanh chóng thay đổi hình thức tính lương theo định mức cho phù hợp với xu thế hiện nay.
II. Một số ý kiến đề xuất.
Sau một thời gian ngắn tìm hiểu thực tế công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất ở Nhà máy chế tạo biến thế, trên cơ sở những kiến thức đã tiếp thu trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trường, dưới góc độ là sinh viên thực tập, em xin mạnh dạn đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Nhà máy.
1. Thay đổi tiêu thức phân bổ chi phí sản xuất chung.
Hiện tại, để tiến hành phân bổ chi phí sản xuất chung cho từng sản phẩm ở từng công đoạn sản xuất, Nhà máy chỉ sử dụng tiêu thức duy nhất là giờ công lao động trực tiếp. Việc lựa chọn tiêu thức nào để tiến hành phân bổ không làm ảnh hưởng đến tổng chi phí sản xuất trong tháng đó nhưng lại gây ra sự sai lệch trong giá thành thực tế của từng loại sản phẩm. Theo em, để giá thành sản phẩm phản ánh đúng chi phí cấu thành nên sản phẩm đó thì với từng yếu tố chi phí, Nhà máy nên sử dụng một tiêu thức phân bổ thích hợp.
Đối với các loại vật tư dùng chung cho toàn phân xưởng, Nhà máy nên phân bổ theo định mức tiêu hao vật liệu chính. Vì với mỗi loại máy có một định mức tiêu hao vật liệu riêng. Máy có công suất càng lớn thì số lượng nguyên vật liệu tiêu hao càng nhiều. Do đó, các vật liệu dùng chung như giấy cách điện, băng vải cũng tăng theo. Nhà máy nên phân bổ chi phí nguyên vật liệu dùng chung theo định mức tiêu hao nguyên vật liệu chính.
Số nguyên vật liệu chính của Nhà máy sử dụng cho mỗi công đoạn là khác nhau. Vì vậy, khi sử dụng tiêu thức này để phân bổ, kế toán phải tính tổng khối lượng vật liệu chính theo định mức và cho từng công đoạn và phân bổ theo công thức sau.
Chi phí NVL dùng chung phân bổ cho từng công đoạn
Tổng chi phí NVL dùng chung
Tổng khối lượng vật liệu chính theo định mức
=
x
Khối lượng vật liệu chính dùng cho một công đoạn
Tương tự như vậy, loại máy có công suất càng lớn thì giá trị công cụ dụng cụ, chi phí tiền điện chạy máy và các dịch vụ khác cũng tăng theo. Nên để đơn giản, Nhà máy vẫn có thể sử dụng định mức tiêu hao nguyên vật liệu làm tiêu thức phân bổ.
Theo các này, chi phí nguyên vật liệu dùng chung của Nhà máy phân bổ cho từng công đoạn sẽ là.
Bảng số13: Phân bổ chi phí sản xuất chung
Đơn vị tính:1000đ
Các TK ghi có
Các TK ghi Nợ
142
152
334
338
NKCT số 1
NKCT số 2
Cộng
TK627
42015
97263.3
16273,558
979,336
9667,35
36116,068
239750,2
Công đoạn tạo vỏ
3302,903
7646,11
1279,304
76,988
759,974
2534,492
18847,36
Công đoạn lõi thép
14967,476
34649,2
5797,313
348,879
3443,908
12866,033
85408,913
Công đoạn quấn dây
12637,569
29255,54
4894,876
294,572
2907,814
10863,246
72113,762
Lắp ráp bước1
4820,162
11158,511
1866,98
112,354
1109,085
4143,408
27505,29
Lắp ráp bước 2
6286,888
14553,934
2435,084
146,542
1446,568
5405,205
35874,87
Còn đối với chi phí khấu hao tài sản cố định, Nhà máy nên thay đổi cách phân bổ khấu hao. Vì số lượng sản phẩm sản xuất ra trong các tháng chênh lệch nhau khá lớn, nhất là những tháng cuối năm và những tháng ra Tết. Do đó, nếu Nhà máy vẫn tiến hành phân bổ bằng nhau giữa các tháng thì sẽ làm cho giá thành sản phẩm các tháng sản xuất sản xuất ít cao hơn các tháng có số lượng sản xuất nhiều. Vì vậy, Nhà máy nên tiến hành trích trước khấu hao tài sản cố định từ tháng 10,11,12 .
Ngoài ra, chi phí khấu hao tài sản cố định Nhà máy vẫn phân bổ theo tiêu thức giờ công lao động trực tiếp. Theo em, Nhà máy nên phân bổ thao số giờ máy chạy. Vì theo như cách phân bổ khấu hao hiện nay thì những công đoạn có số giờ lao động nhiều thì lại có chi phí khấu hao lớn. Trong khi đó, do công đoạn đó công nhân làm bằng tay nhiều hơn nên thời gian lao động nhiều hơn chứ không phải là do thời gian máy chạy nhiều. Nếu Nhà máy tiến hành phân bổ theo số giờ máy chạy thì một máy hoạt động càng nhiều sẽ có chi phí lớn là hợp lý hơn. Để làm được điều này, Nhà máy cần cử nhân viên kinh tế theo dõi sát sao số giờ máy chạy trong tháng, từ đó lập định mức số giờ máy chạy để sản xuất ra một máy biến áp. Cách làm này tuy phức tạp hơn cách trước đây của Nhà máy nhưng lại giúp kế toán tính toán giá thành từng loại sản phẩm chính xác hơn .
2. Thay đổi hình thức trả lương
Theo cách tính lương hiện tại của Nhà máy, mỗi công nhân làm việc trực tiếp cũng như làm việc gián tiếp đều được trả lương theo số ngày công lao động và doanh thu đạt được trong tháng. Nhưng cách tính lương này không khuyến khích được người lao động. Theo em, Nhà máy nên thay đổi hình thức trả lương bằng tiền lương theo định mức sản xuất. Theo cách tính lương này, Nhà máy cần phải cử người xuống xưởng sản xuất, trực tiếp theo dõi công nhân làm việc và tiến hành bấm giờ. Như vậy, Nhà máy sẽ xác định được một người làm bao nhiêu giờ thì pha xong tôn của Nhà máy, một người mất bao nhiêu thời gian để ghép một lõi tôn... Tiếp theo, Nhà máy sẽ xác định số thời gian trung bình để một người làm xong một chi tiết hoặc một phần công việc và Nhà máy sẽ lấy đó làm định mức.
Tiền lương ngày 1công
Số sản phẩm trong định mức
Đơn giá tiền lương 1 sản phẩm
Hệ số cấp bậc công việc
=
x
x
Sau khi đã hoàn thành được định mức, kế toán sẽ căn cứ vào đó để tính xem, một ngày theo định mức, một công nhân phải làm ra được bao nhiêu chi tiết. Rồi căn cứ vào số sản phẩm hoàn thành của một công nhân trong ngày kế toán sẽ tính lương theo công thức sau:
Trong đó đơn giá tiền lương một sản phẩm do giám đốc quyết định. Hệ số cấp bậc công việc tuỳ thuộc vào mức độ phức tạp của công việc.
Đối với số sản phẩm vượt định mức đơn giá tiền lương một sản phẩm sẽ tính cao hơn số sản phẩm trong định mức.
Đối với sản phẩm làm ra trong thời gian làm thêm giờ thì đơn giá tiền lương công nhân được hưởng sẽ cao gấp rưỡi đơn giá tiền lương sản phẩm làm việc trong giờ.
Riêng ngày lễ, chủ nhật, thì đơn giá tiền lương công nhân được hưởng sẽ tính gấp đôi đơn giá tiền lương sản phẩm làm trong ngày bình thường.
Để thuận tiện cho kế toán tính lương, hàng ngày, tổ trưởng cần theo dõi số sản phẩm hoàn thành của từng công nhân và ghi vào phiếu báo sản phẩm hoàn thành. Cuối tháng các tổ trưởng gửi phiếu báo lên cho kế toán lương để kế toán lương tính ra số sản phẩm làm trong định mức, vượt định mức, sản phẩm là thêm giờ trong tháng và tính lương cho công nhân viên.
Ngoài ra, muốn sử dụng hình thức lương sản phẩm, Nhà máy phải trang bị dây chuyền sản xuất đồng bộ, máy móc đảm bảo hoạt động liên tục, không để xảy ra tình trạng bộ phận này phải chờ đợi bộ phận khác. Đồng thời, Nhà máy phải theo dõi thường xuyên tình hình sản xuất để kịp thời điều chỉnh định mức cho phù hợp.
Nếu Nhà máy áp dụng cách tính lương theo sản phẩm thì nhất định sẽ nâng cao được năng suất lao động, chi phí tiền lương trả cho một chi tiết sẽ giảm đi từ đó sẽ giúp hạ giá thành sản phẩm.
3. Thực hiện hạch toán chi phí phải trả
Chi phí phải trả (hay còn gọi là chi phí trích trước) là những khoản chi phí thực tế chưa phát sinh nhưng được ghi nhận là chi phí của kỳ hạch toán. Đây là những khoản chi phí trong kế hoạch của Nhà máy mà do tính chất bắt buộc hoặc yêu cầu quản lý nên được tính trước vào chi phí kinh doanh của các đối tượng chịu chi phí.
Mục đích của việc thực hiện trích trước loại chi phí này là nhằm đảm bảo cho giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp không bị tăng đột biến khi những khoản chi phí này phát sinh.
Do tài sản cố định tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy chiếm tỷ trọng lớn trong trong tài sản. Hơn nữa, tài sản cố định của Nhà máy lại sử dụng trong thời gian dài, nhiều tài sản cố định đã khấu hao hết nhưng vẫn tiếp tục sử dụng. Do đó, yêu cầu phải sửa chữa thường xuyên, định kỳ và thậm chí là sửa chữa lớn là điều tất yếu. Bởi vậy cần thiết phải trích trước chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định để ổn định chi phí sản xuất giữa các tháng.
Kế toán sử dụng TK335 – Chi phí phải trả và các sổ chi tiết để theo dõi thực tế phát sinh các khoản mục này. Kết cấu TK335 như sau:
Bên Nợ: Chi phí phải trả thực tế phát sinh
Bên Có: Các khoản chi phí phải trả khác ghi nhận (đã tính trước) vào chi phí trong kỳ theo kế hoạch.
Dư Có: Các khoản chi phí phải trả đã tính vào chi phí kinh doanh nhưng chưa thực tế phát sinh.
Trình tự hạch toán tiến hành như sau:
- Khi thực hiện trích trước chi phí theo dự toán.
+Trích trước chi phí sửa chữa tài sản cố định trong kế hoạch:
Nợ TK627, 641, 642, 241
Có TK335
- Khi các khoản chi phí theo dự toán thực tế phát sinh, kế toán ghi:
Nợ TK 335: Chi phí phải trả thực tế phát sinh
Nợ TK133 (1331): Thuế GTGT được khấu trừ (nếu có)
Có TK 331: Các khoản phải trả với bên ngoài
Có TK 2413: Chi phí sửa chữa tài sản cố định theo kế hoạch
Có TK 214: Khấu hao tài sản cố định
Có TK 111, 112, 152 ...: Các khoản chi phí khác .
Trường hợp chi phí thực tế phát sinh lớn hơn tổng chi phí thực tế phải trả đã ghi nhận thì khoản chênh lệch được ghi bổ sung tăng chi phí sản xuất kinh doanh.
Nợ TK 622, 627, 641, 642:
Có TK 335
Trường hợp chi phí phải trả ghi nhận trước lớn hơn chi phí thực tế phát sinh, khoản chênh lệch giảm ghi tăng thu nhập khác:
Nợ TK 335
TK 2413, 152, 111, 112, 214...
TK335
TK 622
TK711
(2)
(1)
(3)
(4)
Có TK711
Sơ đồ 11: SƠ Đồ HạCH TOáN TổNG HợP CHI PHí PHải TRả
(1) Trích trước (tính trước) chi phí phải trả vào chi phí sản xuất kinh doanh
(2) Chi phí phải trả thực tế phát sinh
(3) Điều chỉnh tăng chi phí số chênh lệch nếu chi phí thực tế phát sinh lớn hơn chi phí trích trước
(4) Ghi tăng thu nhập khác số chênh lệch khi chi phí thực tế phát sinh nhỏ hơn chi phí trích trước.
4. Thay đổi phương pháp tính khấu hao.
Hiện tại, Nhà máy chế tạo biến thế vẫn sử dụng phương pháp tính khấu hao theo đường thẳng đối với các tài sản cố định. Phương pháp này khá đơn giản, dễ dàng cho kế toán nhưng cũng có một số hạn chế nhất định. Vì theo phương pháp này thì chi phí khấu hao tài sản cố định giữa các tháng là bằng nhau bất kể tháng đó máy móc hoạt động nhiều hay ít, bất kể số lượng sản phẩm sản xuất ra là bao nhiêu. Như vậy, chi phí khấu hao tài sản cố định tính cho các tháng có số lượng sản phẩm ít sẽ cao hơn những tháng có số lượng sản phẩm cao. Vì vậy, để giá thành sản phẩm phản ánh đúng những hao phí mà tài sản cố định đã chi ra cho một sản phẩm, Nhà máy nên tính khấu hao tài sản cố định theo số lượng sản phẩm hoàn thành.
Mức khấu hao phải trích một tháng
Tổng số sản phẩm hoàn thành
Mức khấu hao/1 sản phẩm
=
x
Trong đó mức khấu hao tính cho một đơn vị sản phẩm được tính theo công thức sau:
Mức khấu hao trên một sản phẩm
=
Tổng số khấu hao phải trích của tài sản đó
Tổng số lượng sản phẩm ước tính có thể sản xuất
Tổng số khấu hao phải trích của tài sản cố định được xác định bằng cách lấy nguyên giá tài sản trừ đi giá trị ước tính có thể thu được khi thanh lý tài sản đó
Khi áp dụng phương pháp này thì chi phí khấu hao tài sản cố định trong tháng của nhà máy sẽ phụ thuộc vào số lượng sản phẩm sản xuất ra trong tháng và chi phí khấu hao tính cho một sản phẩm sẽ ổn định hơn so với phương pháp hiện tại
5. Hạch toán thiệt hại trong sản xuất.
Thiệt hại trong sản xuất là điều không thể tránh khỏi trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Những thiệt hại này có thể do nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan nhưng đều gây ra tổn thất cho Nhà máy, làm tăng chi phí sản xuất, ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm.
Do có nhiều loại thiệt hại với nguyên nhân khác nhau nên cũng cần có biện pháp thích hợp để khắc phục
5.1. Với thiệt hại về sản phảm hỏng
Sản phẩm hỏng là những sản phẩm không thảo mãn những tiêu chuẩn về chất lượng và đặc điểm kỹ thuật của sản xuất về mầu sắc, kích cỡ, trọng lượng, cách thức lắp ráp. Tuỳ theo mức độ hư hỏng của sản phẩm mà sản phẩm hỏng được chia thành hai loại : sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được và sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được .
Hiện tại, Nhà máy không thực hiện hạch toán khoản thiệt hại này do sản phẩm hỏng của Nhà máy không nhiều. Thiệt hại về sản phẩm hỏng tính vào giá thành sản phẩm. Theo em, Nhà máy nên hạch toán khoản thiệt hại này bằng cách tìm đúng nguyên nhân làm sản phẩm hỏng để có biện pháp xử lý đúng đắn. Nếu sản phẩm hỏng là do người lao động thì phải yêu cầu bồi thường để nâng cao ý thức trách nhiệm của người lao đông trong quá trình sản xuất. Nếu sản phẩm hỏng do lỗi kỹ thuật thì cần có biện pháp xử lý kịp thời để hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại.
5.2. Đối với sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được
Khi phát sinh chi phí sửa chữa, kế toán sử dụng TK 142- Chi phí trả trước để tập hợp và xử lý thiệt hại thực tế theo nguyên nhân. Quá trình hạch toán có thể khái quát theo sơ đồ sau:
TK152,153,334,338,214
TK142
TK811
TK 627
TK138,152
(1)
(2)
(3)
(4)
Sơ đồ số 12: Sơ đồ hạch toán sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được
(1) Chi phí sửa chữa sản phẩm hỏng phát sinh trong kỳ
(2) Số thiệt hại tính vào chi phí khác
(3) Số thiệt hại tính vào giá thành chính phẩm
(4) Giá trị thu hồi, bồi thường
6. Về hình thức và hệ thống sổ kế toán.
Hiện tại, Nhà máy chế tạo biến thế sử dụng hình thức sổ Nhật ký chứng từ để tổ chức hạch toán kế toán. Hình thức sổ này có nhiều ưu điểm như: giúp giảm bớt đáng kể công tác kế toán hàng ngày, góp phần nâng cao năng suất lao động cho kế toán viên, thuận tiên cho việc lập Báo cáo tài chính do nhiều chỉ tiêu được kết hợp ghi sẵn trên sổ kế toán Nhật ký – chứng từ, dễ dàng trong chuyên môn hoá công việc, tạo điều kiện nâng cao trình độ cho kế toán viên. Nếu Nhà máy tiếp tục áp dụng hình thức sổ này thì cần thiết phải duy trì việc lập các mẫu sổ chính.
Riêng đối với thẻ tính giá thành sản phẩm, hiện nay, mỗi sản phẩm Nhà máy lập một thẻ tính giá thành. Công việc này khá phiền hà nhất là khi số lượng sản phẩm Nhà máy sản xuất ra khá nhiều. Do đó theo em, để giảm bớt công việc của kế toán trong khâu tính giá thành sản phẩm, Nhà máy nên lập bảng tổng hợp chi phí theo mẫu sau.
Đơn vị :Nhà máy chế tạo biến thế
Biểu số 3: Bảng tổng hợp chi phí
Tháng ... năm
Công đoạn:
Đơn vị tính
STT
Tên sản phẩm
Chi phí nguyên vât liệu trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí sản xuất chung
Cộng
DDĐK
PSTK
DDCK
Tổng chi phí
DDĐK
PSTK
DDCK
Tổng chi phí
DDĐK
PSTK
DDCK
Tổng chi phí
Cộng
Người lập bảng Ngày ... tháng .... năm ...
Kế toán trưởng
Mỗi công đoạn sản xuất được lập riêng một bảng. Trong đó, ghi chi tiết chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Tất cả các sản phẩm sản xuất trong tháng được tập hợp chi phí ở bảng này, mỗi sản phẩm ghi một dòng. Sau khi tập hợp toàn bộ chi phí, kế toán sẽ tính ra số tổng cộng để ghi vào “ Báo cáo giá thành thực tế” trong tháng. Báo cáo này gồm 9 cột
Cột 1: Số thứ tự
Cột 2: Tên sản phẩm
Cột 3: Chi phí sản xuất công đoạn tạo vỏ
Cột 4: Chi phí sản xuất công đoạn lõi thép
Cột 5: Chi phí sản xuất công đoạn quấn dây
Cột 6: Chi phí sản xuất công đoạn lắp ráp bước 1
Cột 7: Chi phí sản xuất công đoạn lắp ráp bước 2
Đơn vị: Nhà máy chế tạo biến thế
Biểu số 4: Báo cáo giá thành thực tế
Tháng .... năm .....
Đơn vị tính:
STT
Tên sản phẩm
Công đoạn tạo vỏ
Công đoạn lõi thép
Công đoạn quấn dây
Công đoạn lắp ráp bước 1
Công đoạn lắp ráp bước 2
Tổng giá thành
Giá thành đơn vị sản phẩm
Cộng
Ngày .... tháng ....năm....
Người lập bảng
Kết luận
Kế toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm là một bộ phận không thể thiếu được trong công tác kế toán đối với một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó cung cấp các thông tin tổng hợp và chi tiết cho công tác phân tích, đánh giá, định hướng toàn bộ quá trình kinh doanh trong doanh nghiệp. Công tác kế toán nói chung và công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng luôn luôn cần được cải tiến nhằm đáp ứng nhu cầu của công tác quản lý trong Nhà máy. Có như vậy, công tác kế toán mới phát huy được hết chứng năng thông tin một cách liên tục, toàn diện, chính xác mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy. Trên cơ sở đó, công tác kế toán phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy ngày càng hiệu quả hơn.
Cùng với vai trò quan trọng như vậy, phần hành kế toán này cũng chính là phần hành kế toán phức tạp nhất trong công tác kế toán của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp cần căn cứ vào các đặc điểm cụ thể của mình về quy trình công nghệ sản xuất, loại hình sản xuất, yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh, trình độ của đội ngũ nhân viên phòng kế toán...mà tổ chức công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm một cách hợp lý, khoa học, đạt hiệu quả cao nhất.
Những kiến nghị mà em nêu ra trên đây không ngoài mục đích góp phần nâng cao hiệu quả công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nhằm tăng cường công tác hạch toán kế toán.
Em xin chân thành cảm ơn các cô chú làm việc trong phòng kế toán đã tận tình chỉ bảo cho em trong thời gian em thực tập tại đây. Em cũng xin cảm ơn cô giáo Đặng Thuý Hằng đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập này.
mục lục
Tài liệu tham khảo
1. Chủ biên: TS Nguyễn Thị Đông - Giáo trình Lý Thuyết hạch toán kế toán - NXB Tài chính - 1997.
2. Chủ biên: TS. Đặng Thị Loan - Giáo trình Kế toán tài chính trong các doanh nghiệp - NXB Tài chính - 2002.
3. TS. Nguyễn Văn Công - Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính - NXB Tài chính - 2002.
4. Nguyễn Văn Nhiệm - Hướng dẫn thực hành ghi chép chứng từ và sổ kế toán trong các loại hình doanh nghiệp - NXB Thống kê -1999.
5. Mười chuẩn mực kế toán Việt Nam.
6. Tạp chí Kế toán.
7. Tạp chí Kiểm toán.
8. Tạp chí Tài chính.
9. Tạp chí Thuế.
10. Một số luận văn.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K0282.doc