Hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện Hà Nội

Lời mở đầu ở nước ta hiện nay, chất lượng kinh doanh của các doanh nghiệp còn ở trình độ thấp, đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến những khó khăn về mặt kinh tế-tài chính trong những năm qua. Chính vì vậy, công tác hạch toán kế toán với tư cách là một công cụ quản lý sắc bén, gắn liền với nền sản xuất hàng hoá có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong cơ chế mới hiện nay, đòi hỏi các doanh nghiệp một mặt phải tự trang trải được toàn bộ chi phí mặt khác phải có lãi. Yêu cầu đó đạt được trên cơ sở qu

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản lý chặt chẽ việc sử dụng các loại tài sản, lao động và nguồn vốn của doanh nghiệp tức là quản lý chặt chẽ chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp phải căn cứ vào giá cả và chất lượng các yếu tố sản xuất kinh doanh để tạo ra những sản phẩm mà doanh nghiệp mong muốn. Mặt khác, doanh nghiệp cũng phải có thông tin về giá cả thị trường thường xuyên, chấp nhận những sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp với tình trạng chi phí như thế nào để đạt được mức lợi nhuận tối đa. Thị trường chỉ thừa nhận mức hao phí lao động xã hội cần thiết trung bình để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hàng hoá và quy luật giá trị đã đặt tất cả doanh nghiệp với mức chi phí cá biệt khác nhau lên cùng một mặt bằng trao đổi (thông qua giá cả trên thị trường). Công cụ để thực hiện tốt tất cả những điều nói trên là kế toán với trung tâm là tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Bởi vậy, tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp là một yêu cầu thiết thực, là một trong những vấn đề quan trọng hiện nay. Việc tập hợp chính xác chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý chi phí và giá thành, mặt khác tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có biện pháp phấn đấu hạ thấp giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đó là một trong những điều kiện quan trọng để thị trường chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, nền kinh tế có nhiều biến động làm cho một số các doanh nghiệp đã lung lay đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước. Nhưng bên cạnh đó vẫn có những doanh nghiệp đã tìm ra cho mình một con đường đúng đắn, sản xuất ngày càng đi lên, quy mô càng phát triển . Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện thuộc Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam, một doanh nghiệp Nhà nước với một quy mô khiêm tốn nhưng đã có phát triển tốt là một ví dụ. Sản xuất ngày càng đi lên, có nhiều chuyển biến mạnh mẽ về nhiều mặt nhằm hoà nhịp với xu thế phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện luôn nâng cao tinh thần tự lực tự cường vượt qua khó khăn để thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Công ty đã chủ động trong việc xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch hạ thấp giá thành sản phẩm bằng các biện pháp như cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm nguyên liệu tăng năng suất lao động. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý riêng của Công ty cũng như quản lý vĩ mô của Nhà nước. Vì vậy, trong thời gian thực tập ở Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện, em đã đi sâu vào tìm hiểu công tác hạc toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với đề tài: “Hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện Hà Nội”. Nội dung đề tài gồm 03 phần sau: Phần I: Những vấn đề lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong các doanh nghiệp sản xuất. Phần II: Thực trạng công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện. Phần III: Những nhận xét và một số kiến nghị về công tác quản lý và hạch toán nhằm hoàn thiện công tác chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện. phần I những vấn đề lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp sản xuất. I. Khái quát về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong các doanh nghiệp sản xuất: 1.Đặc điểm hoạt động xây lắp có ảnh hưởng đến kế toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm xây lắp Xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất độc lập có chức năng xây dựng và lắp đặt các TSCĐ cho tất các ngành kinh tế Quốc dân, góp phần quan trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Ngành xây dựng cơ bản có những đặc điểm riêng biệt, khác hẳn với những ngành sản xuất khác. Chính sự khác biệt đó đã ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý và hạch toán trong các doanh nghiệp xây lắp. Để phát huy đầy đủ vai trò là công cụ quản lý kinh tế, công tác kế toán trong các doanh nghiệp xây lắp phải được tổ chức phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm trong xây dựng cơ bản và thực hiện nghiêm túc các chế độ thể lệ của kế toán do Nhà nước ban hành. Hoạt động xây lắp có những đặc thù riêng ảnh hưởng đến quá trình tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Những đặc thù đó được thể hiện trên các góc độ sau: Thứ nhất, về tính chất của sản phẩm thì phương thức thanh toán nhận thầu đã trở thành phương thức chủ yếu trong công tác xây lắp, các tổ chức xây lắp hạch toán kinh tế như đội công trình, công trường... Thứ hai, sản phẩm xây lắp là các công trình, hạng mục công trình có quy mô lớn, kết cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, sản xuất dài, nơi sản xuất cũng là nơi tiêu thụ. Do vậy, việc tổ chức quản lý và hạch toán nhất thiết phải có dự toán, thiết kế thi công. Quá trình tạo ra sản phẩm xây lắp từ khi khởi công xây dựng đến khi công trình hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng thường dài vì phụ thuộc vào quy mô và tính chất phức tạp của từng công trình, quá trình thi công xây dựng này được chia làm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn bao gồm nhiều công việc khác nhau. Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc theo giá thoả thuận với chủ thầu từ trước. Do tính chất hàng hoá thể hiện không rõ, làm cho việc tổ chức quản lý và hạch toán trong xây dựng cơ bản với các ngành sản xuất khác, cụ thể là sản phẩm xây lắp phải lập dự toán quá trình sản xuất, phải so sánh với dự toán, phải lấy dự toán làm thước đo. Thứ ba, sản phẩm xây lắp được cố định tại nơi sản xuất, còn các điều kiện sản xuất như máy móc thiết bị, người lao động... phải di chuyển theo địa điểm của sản phẩm. Chính đặc điểm này làm cho công tác quản lý và hạch toán tài sản vật tư rất phức tạp, dễ mất mát hư hỏng. Những đặc điểm trên đây của ngành xây dựng cơ bản có ảnh hưởng rất lớn tới công tác tổ chức hạch toán kế toán, làm cho phương pháp tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm xây lắp cũng có những đặc điểm thích hợp. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh có thể là từng công trình, hạng mục công trình, vì thế các doanh nghiệp xây lắp phải lập dự toán chi phí và xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp. 2. Khái niệm về chi phí sản xuất: Chúng ta biết rằng, sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ một phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động tiêu hao các yếu tố cơ bản, tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác, quá trình sản xuất là quá trình kết hợp hài hoà cả 3 yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đồng thời, quá trình sản xuất cũng là quá trình tiêu hao của bản thân các yếu tố trên. Như vậy, để tiến hành sản xuất người sản xuất phải bỏ ra chi phí thù lao lao động, về tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đó là ba yếu tố cấu thành nên giá trị sản phẩm mới sáng tạo ra. Trong đó, chi phí về tư liệu lao động và đối tượng lao động đóng vai trò là chi phí lao động vật hoá, chi phí thù lao lao động là chi phi lao động sống. Trong điều kiện tồn tại quan hệ hàng hoá-tiền tệ, chi phí lao động sống và lao động vật hoá cho hoạt động sản xuất đều được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ được xác định là chi phí sản xuất mà doanh nghiệp phải chi ra để sản xuất ra sản phẩm. Trước kia, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, do các doanh nghiệp được bao cấp toàn bộ đầu vào và bao tiêu toàn bộ đầu ra, nên các doanh nghiệp không quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, không chú ý đến chi phí và kết quả sản xuất. Do vậy chi tiêu chi phí thường bị bóp méo để báo cáo hoặc do nguyên nhân khác mà doanh nghiệp không phản ánh đúng chi phí của đơn vị mình. Vì vậy, chi tiêu chi phí, giá thành không phải là cơ sở để xác định hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm). Một doanh nghiệp sản xuất, ngoài những hoạt động liên quan đến sản xuất ra sản phẩm hoặc lao vụ, còn có những hoạt động kinh doanh và hoạt động khác không có tính chất sản xuất như hoạt động bán hàng, quản lý, các hoạt động mang tính chất sự nghiệp... Chỉ những chi phí để tiến hành các hoạt động sản xuất mới được coi là chi phí sản xuất. ở doanh nghiệp cũng cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Vậy, chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một thời kỳ kinh doanh. Tóm lại, những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ hạch toán mới được tính là chi phí của kỳ hạch toán. - Chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp bất kể nó dùng vào mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp (chi mua sắm vật tư hàng hoá...), chi tiêu cho quá trình tiêu thụ (chi vận chuyển, bốc dỡ,quảng cáo). Chi tiêu là cơ sở phát sinh chi phí,không có chi tiêu thì không có chi phí, song giữa chúng lại có sự khác nhau về lượng và thời gian phát sinh. Biểu hiện là có những khoản chi phí là tiêu dùng đồng thời là chi phí như chi phí mua vật tư đưa ngay vào sản xuất, có những khoản chi tiêu chưa xảy ra ở kỳ hạch toán, hoặc xảy ra ở kỳ hạch toán trước được tính vào chi phí sản xuất kỳ này, có những khoản chi tiêu trong kỳ nhưng không được tính hết vào chi phí sản xuất trong kỳ đó. Việc phân biệt giữa chi phí và chi tiêu có ý nghĩa trong việc tìm hiểu bản chất cũng như nội dung, phạm vi và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất, kiểm tra, giám sát đối với quá trình sản xuất, thi công các công trình. Như vậy, thực chất chi phí là sự dịch chuyển vốn-chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá thành (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ). Hạch toán chi phí sản xuất là một hình thức quản lý kinh tế có kế hoạch của doanh nghiệp, nó đòi hỏi phải dùng tiền tệ để đo lường, định giá kết quả hoạt động kinh tế, phải bù đắp được những chi phí bỏ ra ban đầu bằng chính doanh thu của mình trên cơ sở tiết kiệm vốn và đảm bảo có lãi. 3. Khái niệm về giá thành sản phẩm xây lắp Quá trình sản xuất kinh doanh là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt; hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Nếu như chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất thì giá thành lại phản ánh kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí phát sinh (phát sinh trong kỳ hoặc kỳ trước chuyển sang) và các chi phí trước đó có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm, cùng với hạch toán chi phí sản xuất. Công tác hạch toán tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc nghiên cứu chi phí sản xuất chưa đủ cho ta biết lượng chi phí cần thiết cho việc hoàn thành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Hơn nữa, trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp xây lắp, khi quyết định phương án xây dựng công trình, kế toán cần phải tính được giá thành dự toán trước khi tiến hành sản xuất, hay doanh nghiệp cần phải tính đến lượng chi phí đã bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đó. Do vậy doanh nghiệp cần phải xác định được giá thành sản phẩm. Vậy, giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra bất kể ở kỳ nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ. Như vậy, giá thành là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế tài chính của doanh nghiệp. Mức hạ giá thành và tỷ lệ hạ giá thành có thể phản ánh trình độ sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu khả năng tận dụng công suất máy móc thiết bị sản xuất và mức độ trang bị kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kết quả của việc sử dụng hợp lý sức lao động và tăng năng suất lao động, trình độ quản lý kinh tế tài chính và hạch toán kinh tế của doanh nghiệp. Giá thành sản phẩm luôn chứa đựng hai mặt khác nhau vốn có bên trong nó là chi phí sản xuất đă chi ra và lượng giá trị sản lượng thu được cấu thành trong khối lượng sản phẩm công việc, lao vụ đã hoàn thành. Như vậy, bản chất của giá thành sản phẩm là sự dịch chuyển giá trị của các yếu tố chi phí vào sản phẩm công việc, lao vụ đã hoàn thành. Nhiệm vụ hàng đầu và thường xuyên của các doanh nghiệp là phải phấn đấu hạ giá thành, tổ chức tốt công tác quản lý giá thành, tính giá thành một cách đúng đắn, kịp thời đúng chế độ, đúng phương pháp và đúng đối tượng. 4. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau; Giá thành sản phẩm xây lắp được tính trên cơ sở chi phí sản xuất đã được tập hợp và số lượng sản phẩm kỳ báo cáo. Nội dung giá thành sản phẩm chính là chi phí sản xuất được tính cho số lượng và loại sản phẩm đó. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp là 2 bước công việc liên tiếp gắn bó hữu cơ với nhau - Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp đều giống nhau về chất bao gồm hao phí về lao động sống và lao động vật hoá. Nhưng nội dung và phạm vi của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp có những điểm khác nhau. - Chi phí sản xuất chỉ tính những chi phí phát sinh trong một kỳ nhất định (tháng, quý, năm), không tính đến chi phí đó có liên quan đến số sản phẩm đã hoàn thành hay chưa. Giá thành sản phẩm xây lắp là giới hạn số chi phí sản xuất liên quan đến khối lượng sản phẩm dịch vụ hoàn thành (thành phẩm). 5. Phân loại chi phí sản xuất và phân loại giá thành sản phẩm xây lắp 5.1. Phân loại chi phí sản xuất Để quản lý và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi phí, tính toán được kết quả tiết kiệm chi phí ở từng bộ phận sản xuất và toàn doanh nghiệp, nên doanh nghiệp cần phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh có tác dụng để kiểm tra và phân tích quá trình phát sinh và hình thành giá thành sản phẩm. Có nhiều cách phân loại chi phí sản xuất kinh doanh. a. Phân theo yếu tố chi phí Toàn bộ chi phí sản xuất của các doanh nghiệp đều được chia ra theo các yếu tố: _Yếu tố nguyên vật liệu bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ... sử dụng vào sản xuất kinh doanh (trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi). - Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi). -Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương; phản ánh tổng số tiền lương và các khoản mang tính chất lương phải trả cho toàn bộ công nhân viên chức. -Yếu tố BHXH, BHYT, KHCĐ tính theo tỷ lệ qui định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên chức. -Yếu tố chi phí khấu hao TSCĐ; phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ. -Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh -Yếu tố chi phí khác bằng tiền phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố chi phí trên dùng vào hoạt động sản xuất trong kỳ. Cách phân loại này có tác dụng lớn đối với công tác kế toán cũng như công tác quản lý chi phí sản xuất, làm cơ sở để tập hợp chi phí sản xuất theo yêu cầu của doanh nghiệp, lập báo cáo các yếu tố chi phí sản xuất và kiểm tra tình hình thực hiện dự toán chi phí. Mặt khác, cách phân loại này còn làm cơ sở cho việc lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ lương, tính toán nhu cầu vốn lưu động cho kỳ sau. b. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo mối quan hệ giữa chi phí với số lượng sản phẩm sản xuất Cách phân loại này giúp cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí được thuận lợi, đồng thời làm căn cứ để đề ra quyết định kinh doanh. Theo cách phân loại này chi phí được chia làm 2 loại là Định phí và biến phí. -Định phí là chi phí không thay đổi theo khối lượng hàng hoá dịch vụ như; khấu hao TSCĐ, chi phí quản lý dịch vụ...Các chi phí này nếu tính trên một đơn vị sản phẩm thì lại có tính biến đổi. -Biến phí là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với khối lượng công việc hoàn thành (chi phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp). Các chi phí biến đổi nếu tính trên một đơn vị sản phẩm thì lại có tính cố định. Xu hướng của các doanh nghiệp hiện nay là hướng tới các chi phí bất biến.Trên thực tế có nhiều khoản chi phí bao gồm cả hai yếu tố chi phí trên gọi là chi phí hỗn hợp như :chi phí điện, fax, sửa chữa, bảo dưỡng... c. Phân loai chi phí sản xuất theo công dụng và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng theo quy định hiện hành -Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu tham gia trực tiếp vào sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ. - Chi phí nhân công trực tiếp gồm tiền lương chính, lương phụ của công nhân trực tiếp tham gia vào xây lắp công trình. -Chi phí sản xuất chung là các chi phí sản xuất liên quan đến nhiều công trình gồm :Tiền lương nhân viên quản lý đội, các khoản trích theo lương với tỷ lệ quy định (BHXH 15%, BHYT 2%, KPCĐ 2%)khấu hao TSCĐ dùng chung cho đội, chi phí vật liệu , công cụ dụng cụ dùng chung cho quản lý đội. d.Phân loại theo mối quan hệ giữa chi phí với các khoản mục trên báo cáo: Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ. - Chi phí sản phẩm là chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua. - Chi phí thời kỳ là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào đó gồm có chi phí tiêu thụ và chi phí quản lý.Nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất ra nên được xem là các phí tổn, cần được khấu trừ ra từ lợi tức của thời kỳ mà chúng phát sinh. e.Phân loại theo mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với quá trình sản xuất, toàn bộ chi phí được chia làm hai loại như sau : -Chi phí gián tiếp là các khoản chi phí mà chúng được tập hợp với nhau dùng chung cho hai hoặc nhiều đối tượng, nhưng chúng không trực tiếp để lại dấu vết cụ thể đối với mỗi đối tượng chi phí (phải phân bổ). - Chi phí trực tiếp là những khoản chi phí mà chúng để lại hoặc tạo ra dấu vết rõ ràng cụ thể với đối tượng chi phí. Các chi phí này liên hệ trực tiếp đến số lượng và chất lượng của sản phẩm sản xuất ra (thường tỷ lệ thuận với số lượng sản xuất ra). Cách phân loại này có ý nghĩa đối với việc xác định phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và phân bổ một cách đúng đắn hợp lý. Vậy, mỗi cách phân loại trên đáp ứng ít nhiều cho mụ đích quản lý, hạch toán kiểm tra, kiểm soát chi phí phát sinh ở các góc độ khác nhau. Do đó các cách phân loại đều bổ sung cho nhau và giữ vai trò nhất định trong quản lý chi phí sản xuất. Tuỳ theo đặc điểm của từng doanh nghiệp để lựa chon cách phân loại chi phí, hiệu quả sản xuất sẽ đạt ở mức độ cao nếu như doanh nghiệp nào có cách phân loại chi phí hợp lý nhất. 5.2 Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp: Trong quá trình thực hiện công tác tính giá thành sản phẩm xây lắp kế toán cần phải phân biệt được các loại giá thành sau: -Giá thành kế hoạch là giá thành được tính trước khi bắt đầu sản xuất kinh doanh của kỳ kế hoạch, căn cứ vào các định mức và dự toán chi phí của kỳ kế hoạch. Giá thành kế hoạch là biểu hiện bằng tiền của tổng số chi phí cần thiết tính theo định mức và dự toán để sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ trong kỳ kế hoạch. -Giá thành định mức là giá thành được tính trước khi bắt đầu sản xuất kinh doanh, được xây dựng trên cơ sở các định mức hiện hành, tại thời điểm nhất định trong kỳ. Do vậy, giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi các định mức chi phí trong quá trình thực hiện kế hoạch. -Giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Theo phạm vi phát sinh chi phí giá thành được chia thành giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ. -Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất (hay còn gọi là giá thành phân xưởng). -Giá thành tiêu thụ là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (chi phí sản xuất, chi phí quản lý và bán hàng) II. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp 1.Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các chi phí sản xuất được tổ chức tập hợp theo phạm vi giới hạn đó.Thực chất, xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là xác định nơi phát sinh chi phí và đối tượng chịu chi phí. Khi xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, các doanh nghiệp phải căn cứ vào: -Tính chất sản xuất và quy trình công nghệ -Loại hình sản xuất -Yêu cầu quản lý và trình độ kế toán -Đặc điểm tổ chức sản xuất -Đơn vị tính giá thành áp dụng trong doanh nghiệp -Đặc điểm của sản phẩm và yêu cầu của công tác tính giá thành sản phẩm mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh có thể là công trình, hạng mục công trình. Việc xác đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất và quản lý của doanh nghiệp, đóng vai trò quan trọng để tổ chức công tác ghi chép ban đầu, mở sổ chi tiết, tập hợp chi phí sản xuất theo từng đối tượng, tổng hợp sổ liệu tính giá thành. Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là cơ sở tăng cường công tác quản lý chi phí và giảm bớt khối lượng công tác kế toán, đảm bảo cho việc tính giá thành được chính xác. 2. Đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp: Khi tính giá thành sản phẩm xây lắp trước hết phải xác định đối tượng tính giá thành, phải căn cứ vào đặc điểm, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, loại sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp sản xuất và thực hiện để xác định đối tượng tính giá thành. Đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp là công trình, hạng mục công trình, các giai đoạn công việc đã hoàn thành. Từ đó, xác định phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp làm căn cứ để kế toán mở các phiếu tính giá thành, tổ chức công tác tính giá thành theo từng đối tượng phục phụ cho việc kiểm tra tình hình thực hiện, khả năng tiềm tàng, để có biện pháp phấn đấu hạ giá thành sản phẩm. 3. Mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp: Đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp giống nhau ở bản chất, nội dung, chúng đều là phạm vi giới hạn để tập hợp chi phí và cũng phục vụ cho công tác quản lý, phân tích và kiểm tra chi phí giá thành. Nhưng, chúng có những điểm khác nhau: -Xác định đối tượng tập hợp chi phí là xác định phạm vi (nơi)phát sinh chi phí để tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ. -Xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp có liên quan đến kết quả của quá trình sản xuất (thành phẩm hoặc dịch vụ hoàn thành). Một đối tượng chi phí có thể có nhiều đối tượng tính giá thành. III.Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp 1.Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất 1. 1.Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất a. Phương pháp tập hợp trực tiếp Phương pháp này được áp dụng trong trường hợp chi phí sản xuất phát sinh có quan hệ với một đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt như nguyên vật liệu, nhân công trực tiếp. Theo phương pháp này các chi phí phát sinh cần phải được tổ chức ghi chép ban đầu chính xác, riêng rẽ theo từng đối tượng tập hợp chi phí như số hiệu tờ chứng từ ban đầu được ghi chép trực tiếp vào TK chi tiết hoặc sổ kế toán chi tiết được mở ra cho chính đối tượng đó. Phương pháp này đảm bảo tính chính xác cao, do đó người ta phải sử dụng tối đa phương pháp này trong điều kiện có thể. b. Phương pháp phân bổ gián tiếp Phương pháp này được áp dụng với những loại chi phí sản xuất mà khi phát sinh, nó liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí không thể tổ chức ghi chép ban đầu riêng rẽ theo từng đối tượng được. Theo phương pháp này người ta sẽ tiến hành ghi chép ban đầu theo từng địa điểm phát sinh chi phí, sau đó tập hợp chi phí theo địa điểm phát sinh (có thể là quy trình công nghệ riêng biệt, từng phân xưởng hay từng tổ đội sản xuất). Sau đó, người ta phân bổ chi phí đã tập hợp được cho các đối tượng chịu chi phí liên quan theo các tiêu thức phù hợp do doanh nghiệp lựa chọn dựa vào yêu cầu quản trị. -Tập hợp chi phí theo địa điểm phát sinh. -Tính toán và phân bổ chi Tính hệ số phân bổ : C H = T Trong đó : H - Hệ số phân bổ C - Tổng chi phí đã tập hợp phân bổ T - Tổng tiêu chuẩn phân bổ của đối tượng Tiếp theo tính phân bổ chi phí cho từng đối tượng chịu chi phí theo công thức: Ci= Ti xH (i= T,n) Ci - Chi phí phân bổ cho đối tượng i Ti - Tiêu chuẩn phân bổ của đối tượng 1.2. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất ở doanh nghiệp xây lắp a. Hạch toán khoản mục chi phí NVL trực tiếp Trong các doanh nghiệp xây lắp, kế toán căn cứ vào đối tượng hạch toán chi phí và giá trị vật liệu sử dụng cho công trình hạng mục công trình để ghi sổ. Chi phí nguyên vật liệu bao gồm chi phí vật liệu chính, vật liệu phụ sử dụng trực tiếp để sản xuất sản phẩm. Để kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, người ta sử dụng các chứng từ: - Phiếu xuất kho (phiếu xuất vật tư, phiếu xuất vật tư hạn mức hoặc phiếu xuất vật tư kiêm vận chuyển nội bộ). - Hoá đơn (Hoá đơn GTGT, hoá đơn bán hàng…). Tài khoản sử dụng: TK621 “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”, tài khoản này phản ánh các chi phí nguyên liệu, vật liệu thực tế sản xuất ra sản phẩm và được mở chi tiết theo từng công trình, hạng mục công trình... (theo đối tượng hạch toán chi phí) Kết cấu tài khoản: TK 621 - Tập hợp chi phí NVL - Kết chuyển chi phí nvl trực tiếp vào trực tiếp trong kỳ. TK “Giá thành sản phẩm” sau khi đã ghi giảm vật liệu không sử dụng hết Tài khoản 621 không có số dư cuối kỳ Trình tự hạch toán: Căn cứ vào các chứng từ vật liệu chính, vật liệu phụ, kế toán ghi sổ: - Nếu nguyên vật liệu sử dụng cho sản xuất xuất qua kho: Nợ TK 621 (Chi tiết theo từng đối tượng ) Giá thực tế xuất Có 152 theo từng loại - Nếu nguyên vật liệu mua sử dụng ngay không qua kho, căn cứ vào chứng từ, kế toán ghi: Nợ TK621 (chi tiết) - Giá thực tế của vật liệu Nợ TK133 (1331) - Thuế GTGT được khấu trừ Có TK 111 - Tiền mặt Có TK112 - Tiền gửi ngân hàng Có TK331 - Phải trả người cung cấp Tạm ứng chi phí để thực hiện giá trị khoán xây lắp nội bộ (trường hợp đơn vị không tổ chức hạch toán kế toán riêng) khi bản quyết toán tạm ứng về giá trị khoán xây lắp hoàn thành bàn giao được duyệt. Nợ TK 621 - Chi phí NVL trực tiếp Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ Có TK 141 (1413) - tạm ứng - Nếu vật liệu đưa vào quá trình sản xuất không sử dụng hết, thì người ta tiến hành kiểm kê và nhập kho vật liệu: Nợ TK 152 Giá trị thực tế vật liệu sử dụng Có TK 621 (chi tiết) không hết nhập lại kho Cuối kỳ, kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp vào bên Nợ TK154 theo từng công trình hạng mục công trình. Nợ TK 154 (chi tiết) - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang Có TK 621 (chi tiết) - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Phương pháp này có ưu điểm là bất cứ vào thời điểm nào, kế toán cũng có thể xác định được số vật liệu tồn kho. Nhưng, nhược điểm là khi xuất vật liệu, kế toán phải lập chứng từ và theo dõi sổ ghi thường xuyên cho mỗi lần xuất, làm cho khối lượng ghi chép tăng. b. Hạch toán khoản mục chi phí nhân công trực tiếp Để kế toán chi phí nhân công trực tiếp, người ta sử dụng các chứng từ: - Bảng thanh toán lương - Bảng trích bảo hiểm Tài khoản sử dụng: TK 622 “Chi phí nhân công trực tiếp”, tài khoản này phản ánh tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm. Tài khoản này được mở chi tiết cho từng công trình, hạng mục công trình. Kết cấu tài khoản: TK 622 - Tập hợp chi phí nhân - Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp phát trực tiếp vào bên nợ TK 154. sinh trong kỳ. Tài khoản 622 không có số dư cuối kỳ Trình tự hạch toán: - Khi tính tiền lương, tiền công phải trả cho nhân công trực tiếp, căn cứ vào chứng từ kế toán ghi: Nợ TK 622 (chi tiết) - Chi phí nhân công trực tiếp Có TK 334 - Tiền lương phải trả cho công nhân viên - Khi trích các khoản bảo hiểm theo tỷ lệ quy định, căn cứ vào chứng từ kế toán ghi: Nợ TK 622 (chi tiết) Các khoản bảo hiểm được Có TK 338 (19%) trích theo tỷ lệ - Cuối kỳ, kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp và các khoản trích theo lương theo đối tượng tập hợp chi phí vào TK 154 “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”, để tính giá thành sản phẩm, kế toán ghi: Nợ TK 154 Kết chuyển chi phí Có TK 622 (chi tiết ) NCTT c. Hạch toán khoản mục chi phí sử dụng máy thi công: Tài khoản sử dụng: TK623 “Chi phí sử dụng máy thi công”, tài khoản này chỉ sử dụng ở các doanh nghiệp xây lắp, thực hiện thi công có tính chất hỗn hợp, trường hợp doanh nghiệp xây lắp xây dựng công trình hoàn toàn bằng máy thì không sử dụng tài khoản này. Kết cấu tài khoản: TK 623 Chi phí có liên quan Cuối kỳ phân bổ và kết chuyển trực tiếp tới máy thi công chi phí máy thi công cho đối tượng sử dụng Tài khoản 623 không có số dư cuối kì Tài khoản 623 có 6 tài khoản cấp hai: TK 6231 - Chi phí nhân viên TK 6232 - Chi phí vật liệu TK 6233 - Chi phí công cụ, dụng cụ TK 6234 - Chi phí khấu hao máy thi công TK 6237 - Chi phí dịch vụ mua ngoài TK 6278 ._.- Chi phí khác bằng tiền Trình tự hạch toán: Việc tổ chức hạch toán chi phí sử dụng máy thi công xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt về tình hình sử dụng máy và các hình thức tổ chức sử dụng máy để hạch toán cho phù hợp. Trường hợp doanh nghiệp có tổ chức máy thi công riêng và đội máy thi công có tổ chức kế toán riêng Kế toán ở đội máy thi công: Hàng ngày, kế toán căn cứ vào chi phí thực tế phát sinh để tiến hành tập hợp chi phí theo ba khoản mục chi phí; chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung trên các tài khoản: Nợ TK 621,622,627 Có TK liên quan Cuối kỳ kết chuyển vào bên Nợ TK 154 Nợ TK 154 Có TK 621, 622, 627 Kế toán xác định giá trị đã cung cấp cho các đối tượng thi công xây lắp để xây dựng công trình. - Nếu dịch vụ máy thi công chỉ cung cấp lao vụ lẫn nhau (không hạch toán doanh thu) thì: Nợ TK 136 - Giá thành thực tế của chi phí máy thi công Có TK 154 - đã cung cấp - Nếu dịch vụ máy thi công được tính là bán cho các đơn vị nội bộ doanh nghiệp, ghi đồng thời: Nợ TK 136 - Giá bán nội bộ bao gồm cả thuế GTGT Có TK 512 - Doanh thu bán hàng nôi bộ Có TK 3331 - Thuế GTGT đầu ra đồng thời ghi: Nợ TK 632- Giá thành thực tế máy thi công Có TK 154 - đã cung cấp Kế toán chi phí máy thi công ở đội thi công xây lắp phụ thuộc vào sự phân cấp hạch toán của đơn vị. Nếu đội thi công xây lắp không hạch toán riêng thì kế toán ghi: Nợ TK 623 - Giá bán nội bộ chưa có thuế Nợ TK 133 - Thuế GTGT Có TK 336 - Tổng giá thanh toán Trường hợp doanh nghiệp không tổ chức đội máy thi công riêng hoặc tổ chức đội máy thi công riêng, nhưng không tổ chức kế toán riêng. - Khi phản ánh tiền lương và các khoản mục mang tính chất lương phải trả cho công nhân điều khiển máy thi công: Nợ TK 623 (6231) Có TK 334 - Chi phí vật liệu, công cụ dụng cụ sử dụng máy thi công: Nợ TK 623 (6233) Có TK 152, 153. - Khi tính khấu hao máy thi công, kế toán ghi: Nợ TK 623(6234) Có TK 214 Ghi đồng thời : Nợ TK 009 Phản ánh dịch vụ mua ngoài phục vụ sử dụng máy thi công,kế toán ghi: Nợ TK 623(6237) - Giá mua chưa thuế Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ Có TK 111, 112, 331 - Tổng giá thanh toán. Cuối kỳ, kế toán tổng hợp chi phí máy thi công trong kỳ và tiến hành phân bổ cho các công trình, hạng mục công trình theo số ca hoặc giờ máy hoạt động, kế toán sử dụng công thức: Chi phí phân bổ cho từng Tổng chi phí công trình phát sinh trong kỳ(HMTC) sử dụng máy = x số ca(giờ) Tổng số ca (giờ) máy hoạt động Kết chuyển vào bên nợ TK 154 (chi tiết cho từng công trình, hạng mục công trình) để tính giá thành sản phẩm: Nợ TK 154 (chi tiết cho từng khoản mục CT, HMCT) Có TK 623 Trường hợp doanh nghiệp không có máy thi công phải đi thuê ngoài, kế toán ghi: Nợ TK 623 - Giá thuê chưa có thuế Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ Có TK 111, 112, 331- Tổng giá trị đi thuê - Chi phí tạm thời khi phát sinh, kế toán ghi: Nợ TK 142 Có TK liên quan - Khi phân bổ vào chi phí từng kỳ: Nợ TK 623 Có TK 142 d. Hạch toán chi phí sản xuất chung Để kế toán chi phí sản xuất chung, người ta sử dụng các chứng từ: Bảng thanh toán lương, bảng trích bảo hiểm. Phiếu xuất kho Hoá đơn Bảng trích khấu hao TSCĐ Hoá đơn dịch vụ Phiếu chi tiền mặt, giấy báo nợ ngân hàng, bảng kê thanh toán tạm ứng và đi kèm với các chứng từ gốc liên quan. Tài khoản sử dụng: TK 627 “Chi phí sản xuất chung”, tài khoản này phản ánh những chi phí phục vụ sản xuất chung. Trong quá trình thực hiện xây dựng, lắp đặt, tài khoản này được mở chi tiết cho từng công trường, tổ đội. Chi phí sản xuất chung được tập hợp vào bên Nợ TK 627, chi tiết theo từng yếu tố chi phí. Sau đó phân bổ cho từng công trình, hạng mục công trình với tiêu thức thích hợp (thường là theo tiền lương của công nhân sản xuất) Kết cấu tài khoản: TK 627 - Tập hợp chi phí sản - Kết chuyển chi phí SXC xuất chung phát sinh vào TK 154 trong kỳ. Tài khoản 627 không có số dư cuối kỳ Tài khoản 627 có 6 tài khoản cấp hai: TK 6271 - Chi phí nhân viên phân xưởng TK 6272 - Chi phí vật liệu TK 6273 - Chi phí dụng cụ sản xuất TK 6274 - Chi phí khấu hao TSCĐ TK 6277 - Chi phí dịch vụ mua ngoài TK 6278 - Chi phí bằng tiền khác Trình tự hạch toán: Khi phát sinh các khoản chi phí về lương và các khoản tính theo lương cho nhân viên quản lý đội (BHXH: 15%, BHYT: 2%, KPCĐ: 2%), căn cứ vào chứng từ kế toán ghi: Nợ TK 627 (6271 ) - Chi phí sản xuất chung Có TK 334 - Tiền lương phải trả nhân viên quản lý đội Có TK 338 (3382, 3383, 3384 ) - BHXH, BHYT, KPCĐ Khi xuất vật liệu phụ ra sử dụng Nếu xuất kho sử dụng, căn cứ vào chứng từ kế toán ghi: Nợ TK 627 (6272) Giá trị thực tế Có TK 152 xuất kho Nếu mua đưa thẳng vào sử dụng: Nợ TK 627 (6272) - Chi phí vật liệu phụ Nợ TK 133 (1331) - Thuế GTGT được khấu trừ Có TK 111, 112,331... - Tổng giá thanh toán. - Khi xuất kho công cụ ra sử dung, căn cứ vào chứng từ kế toán ghi Nếu xuất kho sử dụng: Nợ TK 627(6273) - Chi phí sản xuất chung Có TK 153 - Công cụ, dụng cụ phân bổ 1 lần Có TK 142 - Chi phí trả trước (phân bổ hai hay nhiều lần) Nếu mua vào sử dụng: Nợ TK 627 (6273) - Chi phí công cụ Nợ TK 133(1331) - Thuế GTGT được khấu trừ Có TK 111, 112, 331, 142... - Tổng giá trị thanh toán - Trích khấu hao máy móc thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải và những TSCĐ khác, căn cứ vào chứng từ: Nợ TK 627(6274) - Chi phí sản xuất chung Có TK 214 - Chi phí khấu hao TSCĐ ghi đồng thời: Nợ TK009 - Tăng giá trị nguồn vốn khấu hao - Chi phí dịch vụ mua ngoài như điện nước, điện thoại, sửa chữa…: Nợ TK 627 (6277) - Giá mua chưa có thuế GTGT Nợ TK 133 (1331) - Thuế GTGT được khấu trừ Có TK 111, 112, 331... - Tổng giá thanh toán - Chi phí khác bằng tiền mặt, căn cứ vào chứng từ kế toán ghi: Nợ TK 627 (6278) Chi phí khác Có TK 111, 112 Cuối kỳ, tính toán phân bổ chi phí sản xuất chung và kết chuyển vào bên nợ TK 154, kế toán ghi: Nợ TK 154 (Chi tiết ) Kết chuyển chi phí Có TK 627 sản xuất. e. Hạch toán khoản mục thiệt hại trong sản xuất xây lắp: Thiệt hại trong sản xuất xây lắp do sản phẩm không thoả mãn các tiêu chuẩn chất lượng và đặc điểm kỹ thuật của sản xuất. Đặc biệt, do đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản, chủ yếu thiệt hại do ngừng sản xuất vì những nguyên nhân chủ quan (vật liệu không sử dụng máy đúng chủng loại, xây lắp không theo đung thiết kế…), hoặc do nguyên nhân khách quan (thiếu vật liệu, hỏng máy móc…), các doanh nghiệp vẫn phải bỏ ra một khoản chi phí để duy trì hoạt động như tiền công lao động, khấu hao máy móc thiết bị, chi phí bảo dưỡng… với những khoản chi phí về ngừng sản xuất theo dự kiến, kế toán theo dõi ở trên tài khoản 335 - Chi phí phải trả, và tính giá thành sản phẩm. Trong trường hợp ngừng sản xuất bất thường do không được chấp nhận nên mọi thiệt hại phải được theo dõi riêng. Mọi chi phí về thiệt hại do ngừng sản xuất cuối kỳ sau khi trừ đi phần thu hồi (nếu do được bồi thường) giá trị thiệt hại thực sự sẽ trừ vào thu nhập như khoản chi phí thời kỳ. Cách hạch toán như sau: Đối với thiệt hại về ngừng sản xuất trong kế hoạch, kế toán sẽ tiến hành tập hợp các chi phí phát sinh và được ghi: Nợ TK 335 - Chi phí thực tế phát sinh khi ngừng sản xuất Có TK 152, 214, 334... Phân bổ vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ, kế toán ghi: Nợ TK 627 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang (chi tiết) Có TK 336 - Trích trước chi phí ngừng sản xuất Cuối kỳ, kết chuyển vào bên Nợ TK 154 để tính giá thành sản phẩm trong kỳ, kế toán ghi: Nợ TK 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang (chi tiết) Có TK 335 - Chi phí thực tế phát sinh trong kỳ Đối với thiệt hại về ngừng sản xuất ngoài kế hoạch, kế toán tiến hành ghi giảm chi phí có thể xảy ra các trường hợp sau: - Nếu thiệt hại do chủ đầu tư gây ra (thay đổi thiết kế) thì thiệt hại đó do đơn vị chủ đầu tư chịu trách nhiệm bồi thường, kế toán ghi: Nợ TK 131 - Số bồi thường thiệt hại phải thu của chủ đầu tư Có TK 154 - Chi phí kinh doanh dở dang(chi tiết) - Nếu thiệt hại do cá nhân gây ra chịu trách bồi thường vật chất, kế toán ghi: Nợ TK 334 - Trừ vào lương (trừ một lần) Nợ TK 138 - Số phải thu Có TK 154 - Chi phí kinh doanh dở dang (chi tiết) - Nếu thiệt hại do chủ doanh nghiệp gây ra như sử dụng không đúng chủng loại vật liệu, không đúng theo thiết kế: Nợ TK 821 - Trích vào chi phí bất thường Có TK 154 - Chi phí kinh doanh dở dang(chi tiết) - Giá trị vật liệu thu hồi (nếu có) Nợ TK 152 - Giá trị vật liệu Có TK154 - chi tiết f. Tập hợp chi phí sản xuất: Sau khi đã tập hợp đầy đủ chi phí phát sinh trong kỳ, kế toán cứ vào đối tượng hạch toán chi phí và phương pháp hạch toán chi phí đã xác định tương ứng. Cuối kỳ, kế toán kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung cho từng công trình, hạng mục công trình. Tài khoản sử dụng: TK 154 “Chi phí kinh doanh dở dang”, tài khoản này được sử dụng để tập hợp chi phí sản xuất và xác định giá thành sản phẩm hoàn thành. Kết cấu tài khoản: TK 154 - Tổng hợp các chi - Ghi giảm chi phí sản xuất phí phát sinh trong kỳ - Giá thành sản phẩm hoàn thành - Dư nợ: Chi phí sản xuất DD cuối kỳ Trình tự hạch toán: Cuối kỳ, kế toán tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Nợ TK 154 - Chi phí sản xuất dở dang (chi tiết cho từng công trình, HMCT) Có TK 621 - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Kết chuyển nhân công trực tiếp: Nợ TK 154 - Chi phí sản xuất dở dang (chi tiết cho từng công trình, HMCT) Có TK 622 - Chi phí nhân công trực tiếp Kết chuyển chi phí sản xuất chung: Nợ TK 154 - Chi phí sản xuất dở dang (chi tiết cho từng công trình, HMCT) Có TK 627 - Chi phí sản xuất chung Sau đó, người ta tính giá thành thực tế của các sản phẩm hoàn thành căn cứ vào chứng từ: Nợ TK 155, 157, 632 Giá thành thực tế của Có TK 154 các sản phẩm hoàn thành 2. Phương pháp đánh giá sản phẩm là dở cuối kỳ Sản phẩm làm dở trong doanh nghiệp sản xuất có thể là công trình, hạng mục công trình chưa hoàn thành hay khối lượng công tác lắp máy dở dang trong kỳ chưa được bên chủ đầu tư nghiệm thu chấp nhận thanh toán. Sản phẩm dở dang trong sản xuất được xác định bằng phương pháp kiểm kê hàng tháng, việc tính giá thành sản phẩm dở dang trong sản xuất phụ thuộc vào phương thức thanh toán khối lượng sản phẩm hoàn thành trong kỳ. Tuỳ theo đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ và tính chất của sản phẩm mà doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang sau: Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Trong trường hợp chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn và chủ yếu là tổng giá thành sản phẩm, còn sản phẩm làm dở nhỏ và không chênh lệch nhiều giữa các kỳ thì doanh nghiệp áp dụng phương pháp này để đánh giá sản phẩm cuối kỳ. Theo phương pháp này thì giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ chỉ tính vào chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, còn những chi phí khác phát sinh trong kỳ đều tính vào giá thành của các sản phẩm hoàn thành. Chi phí + Chi phí phát SXDD đầu kỳ sinh trong kỳ Số lượng Chi phí = x Sản phẩm SXDD Số lượng SP + Số lượng SPDD dở dang cuối kỳ hoàn thành cuối kỳ cuối kỳ b. Phương pháp ước tính sản lượng tương đương Phương pháp này áp dụng ở những doanh nghiệp có đặc điểm là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chiếm tỷ trọng không lớn trong giá thành sản phẩm, các chi phí khác chiếm tỷ trọng tương đối đồng đều và đáng kể trong giá thành, khối lượng sản phẩm dở lớn, không đều giữa các kỳ. Theo phương pháp này, căn cứ vào khối lượng sản phẩm làm dở và mức độ hoàn thành của sản phẩm dở dang để quy đổi thành sản phẩm hoàn thành tương đương. Để đảm bảo tính chính xác của việc đánh giá phương pháp này, chỉ nên áp dụng để tính các chi phí chế biến, còn các chi phí nguyên liệu vật liệu chính phải xác định theo số thực tế đã dùng. Tiêu chuẩn quy đổi thường dựa vào giờ công hoặc tiền lương định mức. Chi phí Chi phí + Chi phí PS Số SPDD SPDDĐK trong kỳ lượng % cuối = x SPDD x hoàn kỳ Số lượng + Số lượng x % cuối thành sp hoàn thành DDCK HT kỳ c. Phương pháp tính theo chi phí định mức Phương pháp này thường được á́p dụng ở những doanh nghiệp kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành theo chi phí định mức. Để xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ, người ta căn cứ vào số lượng sản phẩm làm dở và chi phí định mức cho một đơn vị sản phẩm để tính giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ cụ thể. TH1: Nếu chi phí NVL trực tiếp chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm thì người ta đánh giá sản phẩm theo chi phí NVL trực tiếp định mức. TH2: Nếu chi phí NVL trực tiếp chiếm tỷ trọng không lớn trong giá thành sản phẩm thì người ta đánh giá theo phương pháp sản lượng tương đương (nhưng chi phí tính theo chi phí sản xuất định mức). 3. Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp 3.1 Đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp Đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp là kết quả sản xuất thu được, có thể là một sản phẩm, một công việc, một lao vụ nhất định đã hoàn thành. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh và đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp có mối quan hệ mật thiết với nhau và ở nhiều trường hợp, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể phù hợp với đối tượng tính giá thành sản phẩm dịch vụ. Số liệu về chi phí sản xuất kinh doanh đã tập hợp trong kỳ theo từng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh là cơ sở và là căn cứ tính giá thành sản phẩm. 3.2 Các phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp Phương pháp tính giá thành là một hệ thống các phương pháp được sử dụng để tính giá thành sản phẩm và đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý về mặt kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Trong các công ty xây lắp thường áp dụng các phương pháp tính giá thành sau: Phương pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản đơn) Phương pháp này là phương pháp tính giá thành được sử dụng phổ biến trong các công ty lắp máy hiện nay vì sản xuất thi công mang tính chất đơn chiếc, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với đối tượng tính giá thành. Hơn nữa, việc áp dụng phương pháp này cho phép cung cấp kịp thời số liệu về giá thành trong mỗi kỳ báo cáo và cách tính giản đơn, thực hiện dễ dàng. Theo phương pháp này, tập hợp tất cả các chi phí sản xuất phát sinh trực tiếp cho một công trình hoặc một hạng mục công trình từ khởi công đến khi hoàn thành chính là giá thành thực tế của công trình hạng mục công trình đó. Trường hợp công trình, hạng mục công trình chưa hoàn thành toàn bộ mà có khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao thì: Giá thành thực tế Chi phí thực Chi phí thực Chi phí thực tế của khối lượng xây lắp = tế dở dang + tế phát sinh - dở dang hoàn thành bàn giao đầu kỳ trong kỳ cuối kỳ Trong trường hợp chi phí sản xuất tập hợp tập hợp theo công trình, nhưng giá thành thực tế phải tính riêng cho từng hạng mục công trình. Kế toán có thể căn cứ vào chi phí sản xuất của cả nhóm và hệ số kinh tế kỹ thuật đã quy định cho từng hạng mục công trình để tính giá thành thực tế cho hạng mục công trình đó. Nếu các hạng mục công trình đó có thiết kế khác nhau, dự toán khác nhau nhưng cùng thi công trên một địa điểm do một đội công trình sản xuất đảm nhiệm và không có điều kiện quản lý, theo dõi riêng việc sử dụng các loại chi phí khác nhau cho từng hạng mục công trình thì từng loại chi phí đã tập hợp trên toàn công trình đều phải tiến hành cho từng khoản mục công trình. Khi đó: C H = x 100 G H: Tỷ lệ phân bổ giá thành thực tế C: Tổng chi phí thực tế của cả công trình Gdt: Tổng dự toán của tất cả các hạn mục công trình b. Phương pháp tổng cộng chi phí Phương pháp này thông thường áp dụng đối với các công trình, hạng mục công trình phải qua nhiều giai đoạn thi công như: Giai đoạn thi công kiến trúc, giai đoạn lắp đặt máy móc thiết bị... Giá thành thực tế của toàn bộ công trình được tính như sau: Z = C1 + C2 + ... + Cn + DĐK – DCK Trong đó: Z: Giá thành thực té toàn bộ công trình C1, C2,....., Cn: Chi phí xây lắp các giai đoạn DĐK, DCK: Chi phí thực tế sản phẩm dở dang đầu kỳ, cuối kỳ c. Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng: Phương pháp này áp dụng trong trường hợp Công ty nhận thầu xây lắp theo đơn đặt hàng. Khi đó, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là đối tượng tính giá thành của từng đơn đặt hàng. Theo phương pháp này, hàng tháng chi phí sản xuất thực tế phát sinh được tập hợp theo từng đơn đặt hàng và khi nào hoàn thành công trình thì chi phí sản xuất tập hợp được cũng chính là giá thành thực tế của đơn đặt hàng đó. 4.Các hình thức sổ kế toán dùng cho hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm Mỗi doanh nghiệp xây lắp sẽ áp dụng hình thức tổ chức sổ kế toán riêng phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo chế độ kế toán hiện nay, có 4 hình thức sổ kế toán mà các doanh nghiệp đang áp dụng. Hình thức sổ nhật ký chung Đặc trưng cơ bản của hình thức kế toán nhật ký chung là được ghi chép theo trình tự thời gian phát sinh và định khoản kế toán của các nghiệp vụ đó. Sau đó, lấy số liệu từ nhật ký chung để ghi vào các sổ Cái theo từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm thường sử dụng các loại sổ kế toán sau: Số chi tiết chi phí sản xuất kinh doanh Sổ chi tiết chi phí sản xuất chung Sổ cái các tài khoản chi phí sản xuất Hình thức Nhật ký Sổ Cái Theo hình thức Nhật ký Sổ cái, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được kết hợp ghi chép theo trình tự thời gian và theo nội dung kinh tế trên cơ sở Nhật ký Sổ cái. Căn cứ để ghi vào Nhật ký Sổ cái là các chứng từ gốc hoặc là các bảng kê, bảng tổng hợp chứng từ gốc. Kế toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm lắp máy thường sử dụng các loại sổ kế toán sau: Sổ chi tiết chi phí sản xuất kinh doanh Sổ chi tiết chi phí sản xuất chung Sổ giá thành công trình,hạng mục công trình. c. Hình thức Chứng từ ghi sổ Chứng từ ghi sổ là hình thức kế toán tổng hợp giữa ghi sổ theo thời gian trên sổ đăng ký chứng từ và ghi sổ theo nội dung kinh tế trên sổ cái Chứng từ ghi sổ - do kế toán lập trên cơ sở từng chứng từ gốc hoặc bảng tổng hợp các chứng từ gốc cùng loại có cùng nội dung kinh tế. Chứng từ gốc được đánh số hiệu liên tục trong từng tháng hoặc cả năm, có số thứ tự trong sổ đăng ký chứng từ ghi sổ và có chứng từ gốc đính kèm, phải được kế toán trưởng duyệt trước khi ghi sổ kế toán. Kế toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm thường sử dụng các loại sổ kế toán sau: Sổ chi phí sản xuất kinh doanh Sổ cái các tài khoản chi phí Sổ giá thành công trình, hạng mục công trình d. Hình thức Nhật ký chứng từ Nhật ký chứng từ là hình thức tổ chức sổ kế toán dùng để tập hợp và hệ thống hoá các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo bên Có của các tài khoản đối ứng. Đồng thời, việc ghi chép kết hợp chặt chẽ giữa ghi theo thời gian với hệ thống, giữa hạch toán tổng hợp với chi tiết trên cơ sở các mẫu sổ in sẵn tạo thuận lợi cho việc báo cáo tài chính và rút ra các chi tiêu quản lý kinh tế. Kế toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm xây lắp thường sử dụng các loại sổ sau: Sổ chi tiết chi phí sản xuất kinh doanh Sổ chi tiết chi phí sản xuất chung Sổ cái các tài khoản chi phí sản xuất Để theo dõi chi phí sản xuất kinh doanh, kế toán sử dụng bảng kê số 4, số 5, số 6, và nhật ký chứng từ số 7. sSơ đồ hạch toán chi phí sản xuất trong DN theo phương pháp kê khai thường xuyên TK152, 153 TK621 TK154 TK152,111... Tập hợp NVLTT K/C CPNVLTT Các khoản ghi giảm CP Sản phẩm TK 152 TK334 TK622 Tập hợp CPNCTT Nhập kho vật K/C CP NCTT tư sản phẩm TK338 TK157 Các khoản BH Gửi bán phải trích TK334, 338, 214 TK623 TK632 Tập hợp CPSXC K/C CP MTC Tiêu thụ thẳng TK334, 338, 111 TK 627 Tập hợp CPSXC KC chi phí SXC Phần II: Thực trạng công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện Hà Nội. Việc tổ chức công tác kế toán nói chung và công tác tính giá thành nói riêng phải căn cứ vào đặc điểm công tác tổ chức quản lí sản xuất. Do đó, trước khi đi sâu vào nghiên cứu thực tế công tác hoạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Công ty Lắp máy và thí nghiệm Cơ điện Hà Nội, em đã tìm hiểu về quá trình phát triển của Công ty gắn với đặc điểm tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý và quy trình công nghệ sản xuất ra sản phẩm của công ty. I. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của công ty 1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Lắp máy và thí nghiệm điện Công ty Lắp máy và thí nghiệm Cơ điện là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng công ty Lắp máy Việt Nam, ngành chủ quản là Bộ Xây dựng. Tiền thân của công ty là Trung tâm nghiên cứu kinh tế kĩ thuật lắp máy, được thành lập theo quyết định số 133-BXD/TCLĐ của Bộ Xây dựng ngày 19/1/1980. Đặc điểm, chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của Công ty ban đầu mới thành lập: Là đơn vị có tư cách pháp nhân hoạt động theo nguyên tắc kinh tế độc lập. Có nhiệm vụ lập và tổ chức thực hiện kế hoạch nghiên cứu kĩ thuật, nghiên cứu xây dựng, bổ xung hệ thống các tiêu chuẩn định mức quy trình, quy phạm kĩ thuật về công tác lắp máy. Tổ chức chỉ đạo đồng bộ, chặt chẽ về nghiên cứu kinh tế với kĩ thuật, tổ chức quản lí, giữa thực tế sản xuất với kĩ thuật, nhằm đảm bảo tính thực hiện và hiệu quả. Được kí kết các hợp đồng kinh tế nghiên cứu kĩ thuật thí nghiệm và hiệu chỉnh các thiết bị lắp đặt trong các công trình công nghiệp, dân dụng với các công trình sản xuất kinh doanh và các tổ chức kinh tế khác. Thời kì đầu của công ty, lực lượng lao động chỉ có hơn 40 người, với cơ sở vật chất kĩ thuật còn nghèo nàn, máy móc thiết bị còn thiếu, vốn được giao nhỏ nên giá trị sản lượng hàng năm còn rất thấp. Cho đến năm 1992, theo xu hướng đổi mới phát triển nền kinh tế đất nước, trung tâm nghiên cứu kĩ thuật lắp máy được đổi tên thành Xí nghiệp Lắp máy và Thí nghiệm Cơ điện theo quyết định số 189 ngày 30/4/1992. Chức năng, nhiệm vụ thời kì này của công ty được bổ sung, mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh và hoạt động nhận thầu thi công, lắp đặt các công trình công nghiệp và dân dụng. Xí nghiệp được hành nghề lắp đặt thiết bị công nghệ, hệ thống điện, nước, hệ thống trạm và đường dây cao thế, lắp đặt và sửa chữa hệ thống cơ điện lạnh, hệ thống thông gió điều hoà... Đầu năm 1993, theo Nghị định số 388/HĐBT - nay là Chính phủ - về việc tổ chức và sắp xếp lại các doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu quản lí, đơn vị được chính thức đổi tên thành Công ty Lắp máy và thí nghiệm Cơ điện theo quyết định số 0144 BXD/TCLĐ của Bộ trưởng Bộ xây dựng ngày 27/3/1993. Quy mô lao động của Công ty hiện nay khá lớn, với tổng số cán bộ công nhân viên là 150, trong đó lực lượng lao động dài hạn là 100, lực lượng lao động thuê ngoài ngắn hạn là 30. Mỗi năm, công ty đã tạo được giá trị sản lượng từ 10 đến 12 tỷ đồng, với chỉ số tốc độ tăng trưởng bình quân năm là 18%, đóng góp nghĩa vụ cho ngân sách nhà nước ngày một tăng lên, thu nhập và đời sống của cán bộ công nhân viên ổn định, không ngừng được cải thiện. Điều đó khẳng định sự lớn mạnh của công ty trong giai đoạn hiện nay và sự phát triển trong tương lai. Bảng số liệu tài chính 3 năm gần đây ĐVT: 1.000.000 đồng TT Chỉ tiêu 2000 2001 2002 1 Tổng giá trị TSCĐ 2.916 2.776 4.237 2 Tổng vốn kinh doanh 2.047 2.890 3.986 3 Giá trị tổng sản lượng 13.230 12.303 6.349 4 Tổng doanh thu 13.262 12.011 8.248 5 Tổng chi phí 4.659 5.334 6.785 6 Tổng nộp Ngân sách 891 607 493 7 Lãi thực hiện 2.603 677 1.945 Trong giai đoạn hiện nay cũng như sắp tới, chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của công ty là: Lắp đặt các công trình công nghiệp, đường dây tải điện, trạm biến thế. Lắp đặt các thiết bị và hệ thống điện, nước, điều hoà cho các công trình dân dụng. - Kiểm tra, hiệu chỉnh thí nghiệm các thiết bị cơ điện. - Kiểm tra các mối hàn kim loại bằng siêu âm và chụp X-quang. - Sản xuất phụ tùng cấu kiện kim loại cho xây dựng. - Kinh doanh vật liệu xây dựng. - Nhận thầu, tổng thầu các công trình, hạng mục công trình. v.v. Với chức năng nhiệm vụ tổng quát trên, mục tiêu của công ty là không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm công trình, mở rộng sản xuất để chiếm lĩnh thị trường nhằm tăng giá trị sản lượng, phấn đấu trở thành doanh nghiệp có quy mô sản xuất tương đối lớn trong ngành sản xuất kinh doanh xây dựng cơ bản. Song song với mục tiêu trên, công ty không ngừng tiếp tục mở rộng mối quan hệ hợp tác trao đổi với đơn vị cùng ngành trong các lĩnh vực: chuyển giao công nghệ, phương pháp tổ chức hạch toán, nhằm khai thác triệt để tiềm năng sẵn có. Đồng thời, công ty tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức sản xuất, đa dạng hoá phương thức kinh doanh và củng cố bước tiến vững chắc của công ty. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty Lắp máy và Thí nghiệm a/ Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện là một doanh nghiệp Nhà nước có đầy đủ tư cách pháp nhân thực hiện hạch toán kinh tế độc lập. Công ty Lắp máy và Thí nghiệm điện là một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong ngành xây dựng cơ bản theo cơ chế quản lí kinh doanh của Nhà nước hiện hành. Công ty thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh theo giấy phép hành nghề kinh doanh xây dựng số 16 BXD/CSXD do Bộ xây dựng cấp ngày 6/5/1993 và giấy phép đăng kí kinh doanh số 108833 do Trọng tài kính tế cấp ngày 17/6/1993. Công ty có tài khoản tiền gửi ngân hàng bằng tiền Việt Nam tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thành phố Hà Nội, và tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Vốn kinh doanh theo giấy phép hành nghề của công ty là 1.057.000.000. Ngành nghề kinh doanh của công ty là lắp đặt các thiết bị công nghiệp, xây dựng các công trình dân dụng, thí nghiệm các thiết bị cơ nhiệt điện (Nội dung toàn bộ trong giấy phép hành nghề kinh doanh xây dựng đã nêu ở trên). Doanh nghiệp có quy mô không lớn nhưng phạm vi hoạt động kinh doanh trải rộng khắp mọi miền đất nước như Đồng Nai, Bà Rịa, Quảng Trị, Nghệ An, Lào Cai, Cao Bằng, Phú Thọ, Hà Nội... Những năm gần đây, nền kinh tế của đất nước cạnh tranh khốc liệt, doanh nghiệp không những đi lên mà sẽ còn phát triển hơn nữa trong tương lai. 3.Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lí và cơ cấu tổ chức sản xuất của Công ty a/ Tổ chức bộ máy quản lí Nhìn chung, bộ máy quản lí của công ty tương đối gọn nhẹ, tổ chức ít phòng ban nhưng đảm bảo quản lí đồng bộ thống nhất trong toàn công ty. Đứng đầu công ty là giám đốc, có trách nhiệm điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính và công tác tổ chức. Bên cạnh giám đốc có 3 phó giám đốc trợ giúp: một phó giám đốc phụ trách công tác quản lí vật tư thiết bị và theo dõi sản xuất, thi công hiện trường; một phó giám đốc Marketing và một phó giám đốc kĩ thuật kinh tế. Hệ thống tổ chức quản lí của công ty gồm 4 phòng nghiệp vụ sau: Phòng tổ chức hành chính có chức năng, nhiệm vụ tổ chức: Sắp xếp đội ngũ cán bộ công nhân viên toàn công ty theo sự chỉ đạo trực tiếp của Ban giám đốc. Quản lí theo dõi đối tượng lao động, ngày công lao động. Quản lí, sử dụng tiền lương trong công ty, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng bậc và theo dõi nâng bậc lương hàng năm cho cán bộ công nhân viên. Bên cạnh đó phòng tổ chức hành chính còn có nhiệm vụ về công tác quản trị hành chính. Phòng thiết bị vật tư: bộ phận này do phó giám đốc thi công trực tiếp chỉ đạo. Phòng này có chức năng, nhiệm vụ lập kế hoạch cung ứng vật tư, mua sắm và sửa chữa thiết bị phục vụ công tác thi công, quản lí tình hình sử dụng máy móc thiết bị, kịp thời điều động máy móc thiết bị thi công cho công trình sản xuất theo sự chỉ đạo trực tiếp của Ban giám đốc. Phòng kinh tế kĩ thuật, bộ phận này do phó giám đốc kĩ thuật trực tiếp chỉ đạo, phòng kinh tế kĩ thuật có chức năng và nhiệm vụ: Lập và chỉ đạo kế hoạch sản xuất xây dựng, định mức kinh tế kĩ thuật. Lập giá trị dự toán công trình, tham gia đấu thầu và ký kết các hợp đồng kinh tế sản xuất, có nhiệm vụ theo dõi tình hình chất lượng các công trình kĩ thuật, thi công kĩ thuật, kĩ thuật công nghệ thi công của toàn công ty. Nghiên cứu, cải tiến máy móc thiết bị, lập các biện pháp thi công sản xuất, thẩm định và tính toán phân chia cấp bậc công việc, làm căn cứ giao khoán nội bộ để tính trả lương cho công nhân trực tiếp sản xuất. Tổng quát chức năng của phòng kinh tế kĩ thuật là tổ chức quản lí sản xuất kinh doanh, đảm nhận toàn bộ khâu đầu ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Phòng kế toán tài chính - Bộ phận này do kế toán trưởng giúp việc giám đốc trực tiếp quản lí. Với chức năng là công cụ quan trọng trong điều hành và quản lí các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phòng kế toán có nhiệm vụ sau: Tổ chức ghi chép phản ánh tổng hợp một cách chính xác, đầy đủ mọi hao phí về vật tư, tiền vốn, nhân công, sử dụng máy móc và các chi phí khác trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch thu chi tài chính, thu nộp, thanh toán và kiểm tra việc sử dụng các loại tài sản vật tư, tiền vốn, phát hiện và ngăn ngừa những hành động tham ô, lãng phí và vi phạm chế độ, kĩ thuật kinh tế tài chính của nhà nước. Cung cấp các số liệu cho việc điều hành sản xuất kinh doanh của Ban giám đốc công ty, kiểm tra và phân tích hoạt động kinh doanh, tài chính kinh tế, phục vụ công tác lập và theo dõi thực hiện kế hoạch, phục vụ cho công tác thống kê và thông tin kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp với cơ quan quản lí chức năng của Nhà nước. Tổng quát chức năng, nhiệm vụ của phòng Kế toán tài chính là đảm nhận toàn bộ khâu đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty Lắp máy và thí nghiệm cơ điện Hà Nội b/ Mối quan hệ giữa phòng kế toán tài chính với các phòng khác trong công ty Quan hệ của phòng kế toán với phòng kinh tế kĩ thuật Phòng Kế toán tài chính phải cung cấp những thông tin tài chính cho Phòng kinh tế kĩ thuật như số liệu về chi phí sản xuất và giá thành thực tế sản phẩm, các chi phí khác trong quá trình sản xuất sản phẩm, các chi p._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34298.doc
Tài liệu liên quan