Lời nói đầu
Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất gay gắt, sự sống còn của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào sức mạnh cạnh tranh. Đối với mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh, muốn tồn tại được cần phải chiếm lĩnh được một phần thị trường. Các doanh nghiệp đều mong muốn có một sự kết hợp tốt giữa các yếu tố sản xuất nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng và được thị trường chấp nhận. Mặt khác, doanh nghiệp cũng cần thường xuyên theo dõi thông tin về giá cả thị trường, chấp nh
103 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1235 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty lương thực cấp 1 Lương Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ận những sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp với chi phí sản xuất hợp lý để đạt được mức lợi nhuận tối đa.
Ngày nay, khi sự cạnh tranh không chỉ đơn thuần là sự cạnh tranh về chất lượng sản phẩm mà còn là sự cạnh tranh về giá cả, vấn đề giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm luôn luôn được đặt lên mục tiêu hàng đầu đối với mỗi doanh nghiệp. Vấn đề này tuy không còn mới mẻ, nhưng nó luôn là vấn đề mà mọi doanh nghiệp đều quan tâm. Vậy các doanh nghiệp cần có biện pháp gì giải quyết để có thể đạt được mục tiêu: Giảm chi phí, hạ giá thành nhưng vẫn đảm bảo chất lượng của sản phẩm, tạo sức cạnh tranh trên thị trường.
Chính vì vậy, việc tập hợp chi phí và tính đúng giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý chi phí, giá thành. Mặt khác tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có biện pháp phấn đấu hạ thấp giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đó là một trong những điều kiện quan trọng để sản phẩm của doanh nghiệp được thị trường chấp nhận và có sức cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiếp khác. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một phần hành quan trọng của kế toán, nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý của Công ty nói riêng, cũng như quản lý vĩ mô của Nhà nước nói chung.
ở nước ta, trải qua nhiều năm chuyển đổi nền kinh tế nhiều doanh nghiệp Nhà nước đã quen trong cơ chế quan liêu, bao cấp, làm ăn theo kiểu lãi giả, lỗ thật đã không đứng vững được trong cơ chế thị trường phải giải thể. Nhưng cạnh đó vẫn có những doanh nghiệp Nhà nước đã tìm ra cho mình một con đường đi đúng đắn, sản xuất ngày càng đi lên, quy mô ngày càng phát triển. Công ty lương thực cấp I Lương Yên - thuộc Tổng công ty lương thực Miền Bắc - là một trong những doanh nghiệp Nhà nước với quy mô khiêm tốn nhưng đã có sự phát triển lớn mạnh trong những năm gần đây: Sản xuất ngày càng đi lên, có những chuyển biến mạnh mẽ về nhiều mặt nhằm hoà nhập với xu hướng phát triển chung của đất nước hiện nay.
Nhận thức rõ vị trí và vai trò của công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm, trong thời gian thực tập tại công ty lương thực cấp I Lương Yên em đã đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm và hoàn thành luận văn với đề tài “ Hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty lương thực cấp I Lương Yên “.
Đề tài trên nhằm mục tiêu: Vận dụng lý luận hạch toán kế toán vào thực tiễn, trên cơ sở tìm hiểu thực tế để có những ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại đơn vị thực tập.
Để đạt được mục tiêu trên luận văn bao gồm 3 phần chính:
Phần I: Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất.
Phần II: Thực trạng công tác kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại công ty lương thực cấp I Lương Yên.
Phần III: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại công ty lương thực cấp I Lương Yên.
Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên tiếp xúc với thực tế, đối tượng nghiên cứu lại rất rộng và phức tạp do vậy luận văn không thể tránh khỏi có những sai sót, rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn.
Phần thứ nhất
Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất
I. Sự cần thiết phải hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất
Trong nền kinh tế thị trường, mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh té đều chịu tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ giá thành thì mới có thể đứng vững trong thị trường.
Để đảm bảo yêu cầu hạch toán kinh doanh lấy thu bù chi và có lãi, các doanh nghiệp sản xuất cần phải hạch toán chi phí sản xuất một cách đầy đủ, tính đúng giá thành sản phẩm trên cơ sở đó xác định đúng đắn hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1. Công tác quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Trong quản lý kinh tế có những công cụ quản lý khác nhau được sử dụng như hạch toán nghiệp vụ, hạch toán thông kê, hạch toán kế toán. Trong đó hạch toán kế toán được xác định là công cụ quản lý kinh tế quan trọng nhất với chức năng là thu nhận, xử lý cung cấp thông tin về hoạt động kinh tế tài chính của doanh nghiệp một cách đầy đủ, thường xuyên, liên tục có hệ thống nhằm mục đích kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị. Kế toán cung cấp kịp thời thông tin cần thiết về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Kế toán đã hạch toán chính xác chi phí thông qua tổ chức ghi chép, tính toán thường xuyên liên tục chi phí đã chi ra cho quá trình sản xuất. Trên cơ sở đó cung cấp những thông tin quan trọng về tình hình sử dụng máy móc thiết bị, nguyên vật liệu để các nhà quản trị đề ra các biện pháp quản lý kịp thời chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Ngoài ra kế toán còn cung cấp thông tin cho các nhà quản trị doanh nghiệp về tình hình thực hiện các định mức chi phí về vật tư, lao động, tiền vốn ở từng khâu, từng sản phẩm. Kế toán cung cấp thông tin về chi phí sản phẩm có tiết kiệm hay không, tiết kiệm được bao nhiêu, mức hạ là bao nhiêu, nguyên nhân tại sao? Đó là những thông tin quan trọng đối với công tác quản trị doanh nghiệp. Trên cơ sở đó khai thác tiềm năng của doanh nghiệp, không ngừng nâng cao năng xuất và hạ giá thành sản phẩm.
Như vậy, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là điều kiện quan trọng không thể thiếu được, đóng vai trò là khâu trung tâm trong toàn bộ công tác kế toán doanh nghiệp, có ý nghĩa quyết định trong việc quản lý chi phí sản xuất và quản lý giá thành. Chính vì lẽ đó nên kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được coi trọng đúng mức, đảm bảo được các nhiệm vụ đề ra.
2. Yêu cầu và nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
2.1. Yêu cầu của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Chi phí sản xuất gắn liền với việc sử dụng lao động vật tư một cách hợp lý, tiết kiệm có hiệu quả. Như vậy vấn đề đặt ra là phải tiết kiệm chi phí sản xuất trong mối quan hệ với việc đảm bào chất lượng sản phẩm. Muốn thực hiện được vấn đề đó thì mỗi doanh nghiệp phải làm tốt các nội dung sau:
- Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất ở từng bộ phận sản xuất trong doanh nghiệp.
- Ghi chép, phản ánh đầy đủ kịp thời, chính xác chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chỉ ra mức tiết kiệm hay lãng phí ở từng khâu trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
- Kiểm tra thực hiện các định mức tiêu hao vật tư, kỹ thuật, dự toán phục vụ quản lý sản xuất nhằm thúc đẩy tiết kiệm, sử dụng hợp lý mọi chi phí cho quá trình sản xuất.
- Tính toán chính xác đầy đủ, kịp thời giá thành đơn vị.
- Kiểm tra tình hình thực hiện nhiệm vụ hạ giá thành. Vạch ra được nguyên nhân làm cho hoàn thành hoặc chưa hoàn thành những khả năng tiềm tàng có thể khai thác và phương hướng phấn đấu để hạ giá thành sản phẩm .
- Xác định kết quả hạch toán ở từng bộ phận sản xuất và toàn doanh nghiệp.. 2.2.Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Để phát huy cao nhất vai trò và tác dụng của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm như đã nêu trên, thực hiện tốt các yêu cầu đề ra kế toán phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, lựa chọn phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và phân bổ chi phí sản xuất thích hợp với đặc điểm doanh nghiệp và tổ chức thực hiện tốt việc tập hợp chi phí sản xuất.
- Xác định đúng đối tượng tính giá thành và lựa chọn phương pháp tính giá thành thích hợp. Tổ chức thực hiện tốt việc tính giá thành sản phẩm.
- Xây dựng quy tắc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành của doanh nghiệp. Quy định trình độ công việc, phân bổ các chi phí sản xuất cho từng đối tượng, từng sản phẩm chi tiết.
II. Những vấn đề chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất.
1.1. Khái niệm về chi phí sản xuất.
Sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu của xã hội là hoạt động chính của các doanh nghiệp sản xuất. Để tiến hành một hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có đầy đủ các yếu tố cơ bản như: Tư liệu lao động, đối tượng lao động, sức lao động. Sự tham gia của các yếu tố này vào quá trình sản suất hình thành nên các khoản chi phí tương ứng.
Như vậy, chi phí sản suất là biểu hiện bằng tiền của các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong một kỳ kinh doanh nhất định.
Các chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại, nhiều yếu tố khác nhau song quy lại không ngoài chi phí về lao động sống và lao động vật hoá.
Chi phí về lao động sống bao gồm: Tiền lương, trích quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,... của công nhân sản xuất.
Chi phí về lao động vật hoá bao gồm chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, khấu hao tài sản cố định...
Trong doanh nghiệp cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Đây là hai khái niệm khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí.Tổng số chi phí trong kì của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kì này. Trong khi chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Chi phí và chi tiêu không những khác nhau về lượng mà còn khác nhau cả về thời gian: Có những khoản chi tiêu kì này nhưng chưa được tính vào chi phí, và có những khoản tính vào chi phí kì này nhưng thực tế chưa phát sinh. Sở dĩ có sự khác biệt như vậy là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán chúng.
Như vậy, chi phí trong kì của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ phần tài sản hao mòn hoặc tiêu dùng cho quá trình sản xuất trong kì và số chi tiêu dùng cho quá trình sản xuất phân bổ vào chi phí trong kì.
Khái niệm chi tiêu rộng hơn khái niệm chi phí, việc phân biệt giữa chi tiêu và chi phí có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu bản chất cũng như nội dung, phạm vi và phương pháp hạch toấn chi phí sản xuất.
1.2. Phân loại chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất kinh doanh bao gồm nhiều loại, nhiều khoản. Chúng có nội dung tính chất kinh tế cũng như mục đích công dụng khác nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó công tác quản lý cũng như công tác kế toán đối với các loại chi phí cũng khác nhau.
Việc phân loại chi phí có tác dụng kiểm tra phân tích quá trình phát sinh chi phí, hình thành giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả quản lý của doanh nghiệp,nhằm nhận biết và động viên mọi khả năng tiềm tàng để hạ giá thành.
Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi phí sản xuất vào từng loại, từng nhóm khác nhau theo những đặc trưng nhất định. Chi phí sản xuất có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của công tác quản lý. Tuy nhiên, về mặt hạch toán chi phí sản xuất thường được phân theo các tiêu thức sau:
1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố chi phí.
Theo tiêu thức phân loại này, các chi phí có tính chất, nội dung kinh tế giống nhau được xếp vào một yếu tố, không phân biệt chi phí đó phát sinh trong lĩnh vực hoạt động nào, ở đâu. Theo quy định hiện hành ở Việt nam toàn bộ chi phí được chia làm 7 yếu tố:
- Yếu tố nguyên liệu, vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ... sử dụng vào sản xuất kinh doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
- Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ (trừ số không dùng hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
- Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương: Phản ánh tổng số tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương phải trả cho toàn bộ công nhân viên chức.
- Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ: Phản ánh phần BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên chức.
-Yếu tố khấu hao tài sản cố định: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ.
- Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua n goài dùng vào sản xuất, kinh doanh.
- Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Cách phân loại này giúp cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập kiểm tra và phân tích dự toán chi phí.
1.2.2. Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm.
Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Số lượng khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm tuỳ thuộc vào trình độ quản lý và hạch toán ở mỗi nước, mỗi thời kỳ khác nhau. Theo quy định hiện hành giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) ỏ Việt nam bao gồm 3 khoản mục chi phí:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu... trực tiếp tham gia vào việc sản xuất chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
- Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích cho các quỹ BHXH,BHYT,KPCĐ theo tỷ lệ với tiền lương phát sinh.
- Chi phí sản xuất chung: Là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất (trừ chi phí vật liệu và nhân công trực tiếp).
Ngoài ra, khi tính chỉ tiêu giá thành toàn bộ (giá thành đầy đủ) thì chỉ tiêu giá thành còn bao gồm khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng.Phân loại chi phí theo cách này sẽ thuận tiện cho việc tính giá thành toàn bộ.
1.2.3. Phân loại chi phí theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh.
Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động kinh doanh, toàn bộ chi phí được chia thành 3 loại:
-Chi phí sản xuất kinh doanh: Bao gồm những chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất, tiêu thụ và quản lý hành chính quản trị kinh doanh.
-Chi phí hoạt động tài chính: Bao gồm những chi phí liên quan đến hoạt động về vốn và đầu tư tài chính.
- Chi phí bất thường: Gồm những chi phí ngoài dự kiến có thể do chủ quan hay khách quan mang lại.
Cách phân loại này giúp cho việc phân định chi phí được chính xác, phục vụ cho việc tính gía thành xác định chi phí và kết quả của từng hoạt động kinh doanh đúng cũng như lập báo cáo tài chính nhanh chóng, kịp thời.
1.2.4. Phân loại chi phí theo chức năng trong sản xuất, kinh doanh.
Dựa vào chức năng hoạt động trong quá trình kinh doanh và chi phí liên quan đến việc thực hiện các chức năng mà chia chi phí sản xuất kinh doanh chia làm 3 loại:
- Chi phí thực hiện chức năng sản xuất: Gồm những chi phí phát sinh liên quan đến việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ trong phạm vi phân xưởng.
- Chi phí thực hiện chức năng tiêu thụ: Gồm những chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ.
- Chi phí thực hiện chức năng quản lý: Gồm các chi phí quản lý kinh doanh, hành chính và những chi phí chung phát sinh liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp.
Cách phân loại này là cơ sở để xác định giá thành công xưởng, giá thành toàn bộ, xác định trị giá hàng tồn kho, phân biệt được chi phí theo từng chức năng cũng như làm căn cứ để kiểm soát và quản lý chi phí.
* Ngoài các cách phân loại chủ yếu trên để phục vụ trực tiếp cho công tác quản lý và công tác kế toán chi phí sản xuất còn có thể được phân loại theo các tiêu thức như:
- Căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với khối lượng sản phẩm lao vụ hoàn thành chia thành biến phí và định phí.
- Căn cứ vào phương pháp hạch toán, tập hợp chi phí chia thành chi phí hạch toán trực tiếp và chi phí phân bổ gián tiếp.
2. Giá thành sản phẩm và các loại giá thành sản phẩm.
2.1. Khái niệm và bản chất giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là một phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất hàng hoá. Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu quan trọng của quản lý theo nguyên tắc hạch toán kinh tế. Giá thành sản phẩm được tính toán xây dựng theo từng loại sản phẩm, dịch vụ hoàn thành cụ thể.
Vậy, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến khối lượng sản phẩm, công tác lao vụ dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ.
Giá thành là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế tài chính của doanh nghiệp.Và giá thành sản phẩm có hai chức năng chủ yếu đó là chức năng bù đắp và chức năng lập giá.Toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành một khối lượng công việc, sản phẩm phải được bù đắp bằng chính số tiền thu về tiêu thụ sản phẩm đó. Việc bù đắp chi phí đầu vào mới đảm bảo được quá trình tái sản xuất giản đơn chứ chưa phải là mục đích sản xuất và nguyên tắc kinh doanh trong cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, giá bán của sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào qui luật cung cầu, thông qua việc tiêu thụ sản phẩm mà thực hiện giá trị sử dụng của sản phẩm. Giá bán của sản phẩm là biểu hiện giá trị của sản phẩm, phải được dựa trên cơ sở giá thành sản phẩm để xác định. Thông qua giá bán của sản phẩm mà đánh giá được mức độ bù đắp chi phí và hiệu quả của chi phí.
Ngoài ra để hiểu rõ hơn về giá thành sản phẩm ta hãy xem xét nó trong mối quan hệ với giá trị và giá cả. Giá thành sản phẩm là phạm trù kinh tế khách quan của sản xuất hàng hoá, có mối quan hệ mật thiết với giá trị và giá cả hàng hoá. Giá thành sản phẩm được coi là xuất phát điểm để xây dựng giá cả, là giới hạn tối thiểu về chất lượng của giá cả, dưới mức đó thì không thể thưc hiện tái sản xuất giản đơn. Trên ý nghĩa đó thì giá thành sản phẩm là một bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá trị. Giá thành và giá cả có mối quan hệ mật thiết, giữa giá thành sản phẩm với giá trị và giá cả luôn luôn tồn tại khách quan một sự chênh lệch về lượng hoặc là có lợi cho nhà sản xuất hàng hoá, trở thành điều kiện vật chất phát triển hoặc là có hại cho người sản xuất. Sản xuất chỉ có thể tồn tại và phát triển khi người sản xuất đạt mức giá thành thấp hơn giá bán của hàng hoá. Giá thành là cơ sở xuất phát để xây dựng và qui định giá cả sản phẩm. Qui định giá cả đúng đắn phụ thuộc vào mức độ đầy đủ và chính xác của việc xác định giá thành cuả từng loại sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra.
Như vậy, giữa giá thành và giá cả có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giá cả là cơ sỏ của giá thành và giá thành là cơ sở để xây dựng giá cả. Vì vậy, nếu trong điều kiện giá bán không đổi thì việc giảm giá thành sản phẩm là cũng là việc tăng lợi nhuận, nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của công tác quản kí kinh tế, quản trị doanh nghiệp.
2.2. Phân loại giá thành sản phẩm.
Để nâng cao chất lượng quản lý giá thành và tổ chức công tác tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, nhanh chóng, kịp thời trong lý luận cũng như trong thực tiễn người ta thường phân loại giá thành theo các tiêu thức khác nhau. Tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý và tiêu thức sử dụng ta có thể có các loại giá thành tưong ứng.
2.2.1. Nếu căn cứ vào thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành,giá thành được chia thành giá thành kế hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế.
- Giá thành kế hoạch: là giá thành được tính trước khi bước vào sản xuất trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch.
- Giá thành định mức: Cũng như giá thành kế hoạch, giá thành định mức cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, khác với giá thành kế hoạch xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức được xác định trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi phù đổi với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành.
- Giá thành thực tế: là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác định được các nguyên nhân vượt (hụt) định mức chi phí trong kỳ hạch toán, từ đó, điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức cho phù hợp.
2.2.2. Nếu căn cứ vào phạm vi phát sinh chi phí, chỉ tiêu giá thành được chia thành giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ.
- Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất.
- Giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành tiêu thụ được tính theo công thức:
Giá thành toàn bộ Giá thành sản xuất Chi phí Chiphí
của sản phẩm = của sản phẩm + quản lý + bán
tiêu thụ tiêu thụ doanh nghiệp hàng
Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kết quả kinh doanh (lãi, lỗ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý cho từng mặt hàng, từng loại dịch vụ nên cách phân loại này chỉ còn mang ý nghĩa học thuật, nghiên cứu.
2.3. Kết cấu giá thành sản phẩm.
Kết cấu của giá thành sản phẩm là tỷ trọng từng khoản mục chi phí trong giá thành. Kết cấu này thường khác nhau giữa các nghành, các loại hình sản xuất, các doanh nghiệp, và giữa các loại sản phẩm. Sự khác nhau này trước hết được xác định bởi đặc điểm của nghành, của loại hình, của sản phẩm tiếp đến mới là trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ tổ chức sản xuất, cung ứng tiêu thụ, điều kiện sản xuất sản phẩm.
Nghiên cứu kết cấu giá thành giúp ta thấy rõ tình hình chi phí cho một đơn vị sản phẩm, cũng như sự biến động của các khoản mục chi phí trong từng thời kỳ,thấy được sự tăng giảm đó là hợp lý hay không, trên cơ sở đó doanh nghiệp có hướng để quản lý và có biện pháp phấn đấu hạ giá thành.
3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Chúng đều là giới hạn để tập hợp chi phí nhằm phục vụ cho công tác quản lý, phân tích và kiểm tra chi phí giá thành.Chúng là hai mặt của quá trình sản xuất. Chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất còn giá thành sản phẩm phản ánh mặt kết quả thu được trong sản xuất. Trong mối quan hệ này chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm vừa có những điểm giống và khác nhau:
Chi phí sản xuất và gía thành sản phẩm đều bao gồm hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong kì sản xuất. Chi phí sản xuất trong kỳ là căn cứ, là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành. Trong một chu kì sản xuất ngắn, chi phí sản phẩm dở dang cuối kỳ và đầu kỳ bằng nhau hoặc không có sản phẩm dở dang thì chi phí sản xuất bằng giá thành sản phẩm được sản xuất ra hay giá thành sản phẩm chính bằng những chi phí đã chi ra trong kì. Tuy nhiên, trong một chu kì sản xuất dài sẽ có sự khác biệt về lượng giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, cụ thể là:
Chi phí sản xuất luôn gắn với từng thời kì đã phát sinh chi phí, còn giá thành sản phẩm lại gắn với khối lượng sản phẩm, công việc lao vụ đã sản xuất hoàn thành.
Chi phí sản xuất trong kì bao gồm cả những chi phí sản xuất đã trả trước trong kì nhưng chưa phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kì trước nhưng kì này mới phát sinh thực tế, nhưng không bao gồm chi phí trả trước của kì trước phân bổ cho kì này và những chi phí phải trả kì này nhưng chưa thực tế phát sinh. Ngược lại, giá thành sản phẩm chỉ liên quan đến chi phí phải trả trong kì và chi phí trả trước được phân bổ trong kì.
Chi phí sản xuất trong kì không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm dở dang cuối kì và cả sản phẩm hỏng. Còn giá thành sản phẩm không liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang cuối kì và sản phẩm hỏng nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dỏ dang kì trước chuyển sang. Do chi phí sản xuất kì trước chuyển sang kì này thường không như nhau nên chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong kì thường không trùng nhau.
Mối quan hệ được thể hiện ở sơ đồ sau:
Sơ đồ 1. Phản ánh mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
D
C
B
Chi phí SXDDCK
Tổng giá thành sản phẩm
Chi phí SXPSTK
Chi phí SXDDCK
A
Qua sơ đồ ta thấy AC= AB + BD- CD
Hay:
Tổng giá thành sản phẩm = CPSXDDĐK + CPSXPSTK – CPSXKDDDCK.
III. Nội dung của hạch toán kế toán chi phí sản xuất.
1.Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất.
1.1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất.
Để hạch toán chi phí sản xuất được chính xác, kịp thời đòi hỏi công việc đầu tiên mà nhà quản lý phải làm là xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất. Vấn đề này có tầm quan trọng đặc biệt cả trong lý luận và thực tiễn hạch toán và là nội dung cơ bản nhất của tổ chức hạch toán chi phí sản xuất.
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là phạm vi giới hạn mà chi phí sản xuất cần được hạch toán theo đó nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm tra, phân tích chi phí và yêu cầu tính giá thành sản phẩm. Như vây, xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chính là xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí.
Tuỳ theo cơ cấu tổ chức sản xuất, yêu cầu và trình độ quản lý kinh tế của doanh nghiệp và đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là toàn doanh nghiệp, phân xưởng, quy trình công nghệ hay từng giai đoạn công nghệ. Tuỳ thuộc và quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, yêu cầu của công tác tính giá thành mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là từng chi tiết, cụm chi tiết, mặt hàng, nhóm sản phẩm...
Khi xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất cần căn cứ vào:
- Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất.
Sản xuất giản đơn hay phức tạp: Với sản xuất giản đơn thì đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, toàn bộ quy trình sản xuất hay nhóm sản phẩm. Với sản xuấtphức tạp đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng, nhóm chi tiết sản phẩm...
- Loại hình sản xuất:
Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt nhỏ thì đối tượng hạch toán chi phí là các đơn đặt hàng riêng biệt.
Với sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ...Tuỳ thuộc vào quy trình công nghệ.
- Yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh.
Với trình độ cao có thể chi tiết đối tượng hạch toán chi phí sản xuất ở các góc độ khác nhau. Ngược lại, nếu trình độ thấp thì đối tượng có thể bị hạn chế và thu hẹp.
Việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là khâu đầu tiên của công tác hạch toán chi phí sản xuất, và nó giữ vai trò rất quan trọng. Có xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất đúng đắn phù hợp với yêu cầu quản lý chi phí sản xuất mới tổ chức được tốt công tác hạch toán chi phí sản xuất.
Do đối tượng hạch toán chi phí khác nhau nên cũng có nhiều phương pháp hạch toán chi phí sản xuất phù hợp cho từng đối tượng. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Về cơ bản, phương pháp hạch toán chi phí bao gồm các phương pháp hạch toán theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn công nghệ, theo phân xưởng, theo nhóm sản phẩm...
1.2. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất.
Tuỳ theo từng đối tượng tập hợp chi phí mà người ta có thể áp dụng phương pháp tập hợp chi phí phù hợp. Có các phương pháp sau:
1.2.1. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo chi tiết hoặc bộ phận sản phẩm:
Theo phương pháp này, các chi phí sản xuất được tập hợp và phân loại theo từng chi tiết bộ phận sản phẩm. Khi đó giá thành sản phẩm được xác định bằng tổng cộng chi phí của các chi tiết, bộ phận cấu thành sản phẩm.
Nhưng phương pháp này có nhược điểm là khá phức tạp nên chỉ được áp dụng hạn chế trong các doanh nghiệp chuyên môn hoá cao, sản xuất sản phẩm với số lượng nhỏ hoặc mang tính chất đơn chiếc, có ít chi tiết, bộ phận cấu thành sản phẩm.
1.2.2. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo sản phẩm:
Theo phương pháp này, các chi phí sản xuất được tập hợp và phân loại theo từng loại sản phẩm riêng biệt, không phụ thuộc vào tính chất phức tạp của sản phẩm và quy trình công nghệ sản xuất. Nếu quy trình chế biến sản phẩm qua nhiều phân xưởng khác nhau thì các chi tiết được tập hợp theo từng sản phẩm trong đó các chi phí trực tiếp được phân loại theo từng sản phẩm, các chi phí phục vụ quản lý sản xuất được phân bổ cho từng sản phẩm theo các tiêu thức phù hợp. Khi đó giá thành sản phẩm được xác định bằng phương pháp trực tiếp hay phương pháp tổng cộng chi phí. Phương pháp này được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp sản xuất thuộc loại hình sản xuất hàng loạt với quy mô lớn như các công ty dệt, khai thác khoáng sản.
1.2.3. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm:
Theo phương pháp này, các chi phí sản xuất được tập hợp và phân loại theo từng nhóm sản phẩm cùng loại. Khi đó, giá thành sản phẩm được xác định bằng phương pháp liên hợp, tức là kết hợp sử dụng một số phương pháp như phương pháp trực tiếp, phương pháp hệ số, phương pháp tỉ lệ. Phương pháp này được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều chủng loại sản phẩm có quy cách khác nhau như trong các doanh nghiệp may mặc, đóng giầy.
1.2.4. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất t._.heo đơn đặt hàng:
Theo phương pháp này, các chi phí sản xuất được tập hợp và phân loại theo từng đơn đặt hàng riêng biệt. Khi đơn đặt hàng hoàn thành thì tổng chi phí tập hợp theo đơn đặt hàng sẽ là giá thành thực tế của sản phẩm, khối lượng công việc hoàn thành theo đơn đặt hàng. Phương pháp này được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp sản xuất có tính chất đơn chiếc như các doanh nghiệp cơ khí chế tạo.
1.2.5. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo giai đoạn công nghệ:
Theo phương pháp này, các chi phí sản xuất được tập hợp và phân loại theo từng giai đoạn công nghệ. Trong từng giai đoạn công nghệ, các chi phí được tính theo từng loại sản phẩm hoặc bán thành phẩm. Phương pháp này được áp dụng trong những doanh nghiệp mà toàn bộ công nghệ sản xuất được chia ra làm nhiều giai đoạn khác nhau và vật liệu chính được chế biến liên tục từ giai đoạn đầu đến giai đoạn cuối theo một trình tự nhất định, sản phẩm của doanh nghiệp có tính chất lặp đi lặp lại với một số lượng lớn.
1.2.6. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo đơn vị sản xuất:
Theo phương pháp này, các chi phí sản xuất được tập hợp và phân loại theo từng đơn vị sản xuất. Trong mỗi đơn vị sản xuất, các chi phí lại được tập hợp theo từng loại chi tiết, sản phẩm. Khi đó giá thành sản phẩm có thể được xác định bằng phương pháp trực tiếp, tổng cộng chi phí...
2. Trình tự hạch toán chi phí sản xuất.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành nghề, từng doanh nghiệp, vào mối quan hệ giữa các hoạt động sản xất kinh doanh trong doanh nghiệp, vào trình độ công tác quản lý và hạch toán mà trình tự hạch toán ở các doanh nghiệp khác nhau thì không giống nhau. Tuy nhiên, có thể khái quá chung việc tập hợp chi phí sản xuất qua các bước sau:
Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng sử dụng.
Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của các nghành sản xuất kinh doanh phụ có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và giá thành đơn vị lao vụ.
Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các loại sản phẩm có liên quan.
Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ.
Tuỳ theo phương pháp hạch toán hàng tồn kho áp dụng trong doanh nghiệp mà nội dung, cách thức hạch toán chi phí sản xuất có những điểm khác nhau.
3. Hạch toán chi phí sản xuất.
3.1. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
3.1.1. Nội dung.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên, vật liệu, vật liệu phụ, nhiên liệu... được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất, sản phẩm, lao vụ...) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí không thể tổ chức hạch toán riêng biệt được thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ chi phí cho các đối tượng có liên quan. Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng lượng, số lượng sản phẩm... Công thức phân bổ như sau:
Chi phí vật liệu phân bổ cho từng đối tượng
=
Tiêu thức phân bổ của từng đối tượng
*
Tỷ lệ (hệ số)
Hệ số
phân bổ
Tổng chi phí vật liệu cần phân bổ
Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng
=
Khi áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên để hạch toán tổng hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, giá trị vật liệu xuất dùng phản ánh trên TK621 được ghi theo các chứng từ xuất nguyên vật liệu. Trong khi đó, khác với trường hợp trên, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp theo phương pháp kiểm kê định kỳ chỉ có thể được xác định vào cuối kì hạch toán, tại thời điển tiến hành kiểm kê để xác định giá trị nguyên vật liệu tồn kho và hàng mua đang đi đường.
Giá trị nguyên vật liệu trực tiếp xuất dùng được xác định bằng công thức sau:
Giá vật liệu xuất
dùng trong kì
=
Giá trị vật liệu
tồn đầu kì
+
Giá trị vật liệu
mua vào trong kì
-
Giá trị vật
liệu tồn cuối kì
3.1.2. Tài khoản sử dụng.
Để theo dõi các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng Tài khoản 621 - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất, sản phẩm, nhóm sản phẩm...)
Kết cấu của tài khoản:
Bên nợ: Giá trị nguyên, vật liệu xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
Bên có: + Trị giá phế liệu thu hồi.
+ Giá trị nguyên,vật liệu xuất dùng không hết nhập lại kho.
+ Kết chuyển và phân bổ trị giá nguyên, vật liệu trực tiếp sử dụng cho sản xuất trong kỳ vào tài khoản 154- chi phí sản xuất kinh doanh (KKTX) hoặc bên nợ TK 631- Giá thành sản xuất (KKĐK)
Tài khoản 621 không có số dư cuối kỳ.
3.1.3. Phương pháp hạch toán: (sơ đồ 2, sơ đồ 3)
3.2. Hạch toán nhân công trực tiếp.
3.2.1. Nội dung:
Chi phí nhân công trực tiếp là khoản thù lao lao động phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ như tiền lương chính, lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương. Ngoài ra, chi phí nhân công trực tiếp còn bao gồm các khoản đóng góp cho các quỹ BHXH,BHYT,KPCĐ do chủ lao động chịu, khoản trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất hoặc tiền lương phải trả cho công nhân sản xuất trong thời gian ngừng sản xuất có kế hoạch. Các khoản thuế về sử dụng lao động tính theo lao động trực tiếp của doanh nghiệp.
Nguyên tắc phân bổ chi phí nhân công trực tiếp cũng giống như phân bổ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Tiêu thức phân bổ có thể là tiền lương theo sản phẩm trực tiếp, theo thời gian hao phí lao động định mức, theo chi phí tiền lương định mức...
3.2.2. Tài khoản sử dụng.
Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp kế toán sử dụng Tài khoản 622- Chi phí nhân công trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết cho từng đối tượng tập hợp chi phí.
Kết cấu tài khoản:
Bên nợ: Chi phí nhân công trực tiếp sản xuất sản phẩm, thực hiện lao vụ, dịch vụ phát sinh trong kì.
Bên có: Kết chuyển và phân bổ chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản tính gía thành.
Tài khoản 622 cuối kỳ không có số dư.
3.2.3. Phương pháp hạch toán: (sơ đồ 4)
3.3. Hạch toán chi phí trả trước.
3.3.1. Nội dung.
Chi phí trả trước (còn được gọi là chi phí chờ phân bổ) là các khoản chi phí thực tế đã phát sinh nhưng chưa tính hết vào chi phí sản xuất kinh doanh của kì này mà được tính cho hai hoặc nhiều kì hạch toán. Đây là những khoản chi phí phát sinh một lần quá lớn hoặc do bản thân chi phí phát sinh có tác động tới kết quả hoạt động của nhiều kì hạch toán. Chi phí trả trước có thể bao gồm:
- Giá trị công cụ dụng cụ nhỏ xuất dùng thuộc diện phân bổ từ 2 lần trở lên.
- Giá trị bao bì luân chuyển, đồ dùng cho thê.
- Dịch vụ mua ngoài trả trước (điện, điện thoại, nước...)
- Giá trị sửa chữa lớn TSCĐ phát sinh ngoài kế hoạch của doanh nghiệp, tiền thuê TSCĐ, phương tiện kinh doanh trả trước, chi phí bán hàng, chi phí QLDN (với doanh nghiệp có chu kì kinh doanh dài), lệ phí giao thông,...
Về nguyên tắc, các chi phí trả trước phải được phân bổ hết cho đối tượng chịu chi phí trong năm (trừ trường hợp chi phí trả trước phát sinh ở tháng cuối năm hoặc còn liên quan đến các kì kinh doanh của năm sau). Bởi vậy, việc tính và phân bổ chi phí trả trước đã phát sinh vào các kì hạch toán phải được kế hoạch hoá chặt chẽ trên cơ sở các dự toán chi phí và kế hoạch phân bổ chi phí.
3.3.2. Tài khoản sử dụng.
Để theo dõi các khoản chi phí trả trước, kế toán sử dụng Tài khoản 142- Chi phí trả trước.
Tài khoản này có kết cấu như sau:
Bên nợ: Các khoản chi phí trả trước thực tế phát sinh.
Bên có: Các khoản chi phí trả trước đã phân bổ vào chi phí kinh doanh.
Dư nợ: Chi phí trả trước thực tế đã phát sinh nhưng chưa phân bổ vào chi phí kinh doanh.
TK142 chi tiết làm 2 tiểu khoản: - TK1421: Chi phí trả trước.
- TK 1422: Chi phí chờ kết chuyển.
3.3.3. Phương pháp hạch toán: (sơ đồ 6).
3.4. Hạch toán chi phí phải trả.
3.4.1. Nội dung.
Chi phí phải trả (còn gọi là chi phí trích trước) là những khoản chi phí thực tế chưa phát sinh nhưng được tính là chi phí của kì hạch toán. Đây là những khoản chi phí trong kế hoạch của đơn vị mà theo yêu cầu quản lý hay do tính chất của nó nên được tính trước vào chi phí kinh doanh cho các đối tượng có liên quan nhằm đảm bảo cho giá thành sản phẩm lao vụ, dịch vụ, chi phí bán hàng hay chi phí quản lý khỏi bị đội lên quá cao.
Chi phí phải trả trong doanh nghiệp thường bao gồm: Tiền lương phép của công nhân sản xuất, chi phí sửa chữa TSCĐ trong kế hoạch, thiệt hại về ngừng sản xuất trong kế hoạch, chi phí bảo hành sản phẩm trong kế hoạch, lãi tiền vay chưa đến hạn trả, tiền thuê mặt bằng sản xuất,...
3.4.2. Tài khoản sử dụng.
Để theo dõi các chi phí phải trả, kế toán sử dụng Tài khoản 335 - Chi phí phải trả . Tài khoản này có kết cấu như sau:
Bên nợ: Chi phí phải trả thực tế phát sinh.
Bên có: Các khoản chi phí phải trả được ghi nhận (đã tính trước) vào chi phí trong kì theo kế hoạch.
Dư có: Các khoản chi phí phải trả đã tính vào chi phí kinh doanh nhưng thực tế chưa phát sinh. Về nguyên tắc, tài khoản 335 không có số dư tại thời điểm cuối năm, chỉ trừ các trường hợp chi phí phải trả có liên quan đến nhiều niên độ kế toán như chi phí về lãi tiền vay dài hạn, chi phí sửa chữa TSCĐ...
3.4.3. Phương pháp hach toán. (sơ đồ 7)
3.5. Hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất.
3.5.1. Hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng.
a. Nội dung.
Sản phẩm hỏng là những sản phẩm không thoả mãn các tiêu chuẩn chất lượng và đặc điểm kỹ thuật của sản xuất về màu sắc, kích cỡ, trọng lượng... Sản phẩm hỏng có thể chia làm hai loại:
- Sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được là những sản phẩm mà về mặt kỹ thuật có thể sửa chữa được và việc sửa chữa đó là có lợi về mặt kinh tế.
- Sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được là những sản phẩm mà về mặt kỹ thuật là không thể sửa chữa được hoặc có thể sửa chữa được nhưng việc đó không đem lại hiệu quả kinh tế.
Cả hai loại sản phẩm hỏng nói trên lại được chi tiết thành sản phẩm hỏng trong định mức và sản phẩm hỏng ngoài định mức. Những sản phẩm hỏng trong kịnh mức là những sản phẩm hỏng được nằm trong dự kiến của quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Chi phí cho các sản phẩm hỏng trong định mức này được coi là chi phí sản xuất chính phẩm, và do đó các chi phí này cũng được hạch toán như đối với chính phẩm. Sản phẩm hỏng ngoài định mức là những sản phẩm hỏng nằm ngoài dự kiến của doanh nghiệp, xảy ra do các nguyên nhân bất thường như hỏng máy, hỏa hoạn... Các chi phí cho sản phẩm hỏng ngoài định mức do xảy ra bất thường, không được chấp nhận nên không được tính vào chi phí sản xuất chính phẩm mà phải trừ thẳng vào thu nhập.
b. Tài khoản sử dụng.
- Để theo dõi thiệt hại về sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được kế toán sử dụng tài khoản 142- Chi phí trả trước (đã nêu trong phần 3.3.)
- Để theo dõi thiệt hại về sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được kế toán sử dụng Tài khoản 138 -Phải thu khác. Tài khoản này có kết cấu như sau:
Bên nợ: Ghi số tiền đơn vị còn phải thu thuộc các khoản phải thu khác.
Bên có: Ghi số tiền đơn vị đã thu thuộc các khoản phải thu khác.
Dư nợ: Các khoản phải thu khác còn phải thu.
Tài khoản 138 - Phải thu khác có hai tài khoản cấp 2:
TK 1381 - Tài sản thiếu chờ xử lý.
TK 1382 - Phải thu khác.
c. Phương pháp hạch toán: (sơ đồ 8, sơ đồ 9).
3.5.2. Thiệt hại ngừng sản xuất.
a. Nội dung.
Trong thời gian ngừng sản xuất vì những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan các doanh nghiệp vẫn phải bỏ ra một số khoản chi phí dể duy trì hoạt động như tiền công lao đông, khấu hao TSCĐ... Những khoản chi phí này được coi là thiệt hại về ngừng sản xuất.
b. Tài khoản sử dụng.
Đối với trường hợp ngừng sản xuất trong kế hoạch, kế toán theo dõi thiệt hại trên TK 335 (đã nêu ở 3.4.) Trường hợp ngừng sản xuất bất thường, do không được chấp nhận phải theo dõi riêng trên TK 142 (đã nêu ở 3.3.). Cuối kì sau khi trừ phần thu hồi, giá trị thiệt hại thực tế sẽ trừ vào thu nhập.
c. Phương pháp hạch toán: (sơ đồ 10)
3.6 Hạch toán chi phí sản xuất chung.
3.6.1.Nội dung.
Chi phí sản xuất chung là các chi phí quản lý và phục vụ sản xuất phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bao gồm: Chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bằng tiền khác...
Chi phí sản xuất chung phải được tập hợp theo từngđịa điểm phát sinh chi phí, cuối tháng chi phí sản xuất chung đã tập hợp được kết chuyển để tính giá thành sản phẩm. Vì chi phí sản xuất chung liên quan đến nhiều loại sản phẩm nên khi tiến hành tập hợp và hạch toán chi phí này ta phải tiến hành phân bổ cho từng đối tượng theo các tiêu thức thích hợp. Trong thực tế, người ta thường áp dụng các tiêu thức phân bổ như: Phân bổ theo định mức, theo giờ làm việc thực tế của công nhân sản xuất, theo tiền công công nhân sản xuất...Công thức phân bổ chi phí sản xuất chung tương tự như công thức phân bổ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
3.6.2. Tài khoản sử dụng.
Để theo dõi chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng Tài khoản 627- Chi phí sản xuất chung (mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất, dịch vụ).
Kết cấu tài khoản:
Bên nợ:Chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kì.
Bên có: + Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung.
+ Kết chuyển (hay phân bổ) chi phí sản xuất chung vào chi phí sản phẩm, hay lao vụ, dịch vụ.
Tài khoản 627 cuối kì không có số dư và được chi tiết thành 6 tiểu khoản:
TK 6271: Chi phí nhân viên phân xưởng.
TK 6272: Chi phí vật liệu.
TK 6273: Chi phí công cụ, dụng cụ.
TK 6274: Chi phí khấu hao TSCĐ.
TK 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài.
TK 6278: Chi phí bằng tiền khác.
3.6.3. Phương pháp hạch toán: (sơ đồ 5)
3.7. Tổng hợp chi phí sản xuất.
3.7.1. Tài khoản sử dụng:
Cuối kì, để phục vụ công tác tính giá thành sản phẩm, lao vụ hoàn thành, kế toán tổng hợp các chi phí đã tập hợp ở trên vào bên nợ TK 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang (theo KKTX) hoặc bên nợ TK 631 - Giá thành sản xuất (theoKKĐK).
Tài khoản 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang.
Bên nợ: Tập hợp các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Bên có: + Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất.
+ Tổng giá thành sản xuất thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành.
Dư nợ: Chi phí thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ dở dang chưa hoàn thành.
Tài khoản 631 - Giá thành sản xuất.
Bên nợ: Phản ánh trị giá sản phẩm dở dang đầu kì và các chi phí sản xuất phát sinh trong kì liên quan tới chế tạo sản phẩm hay lao vụ, dịch vụ.
Bên có: + Kết chuyển giá trị sản phẩm dở dang cuối kì.
+ Tổng giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành.
+ Giá trị thu hồi ghi giảm chi phí từ sản xuất.
Tài khoản 631 cuối kì không có số dư.
3.7.2. Phương pháp hạch toán: (sơ đồ 11, sơ đồ 12).
4. Đánh giá sản phẩm dở dang.
Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn đang nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang. Mỗi doanh nghiệp lựa chọn một phương pháp đánh giá phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ... của mình.
4.1. Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí chế biến bước trước.
Theo phương pháp này khi có 1 sản phẩm dở dang ở một giai đoạn nào đó thì giá trị của nó được tính bằng giá thành chế biến bước trước. Đối với giai đoạn đầu thì tính bằng chi phí vật liệu chính.
Giá trị sản phẩm dở dang
=
Tổng chi phí NVLC hoặc chi phí chế biến bước trước
Số lượng SPDD+ Số lượng SP hoàn thành
x
Số lượng
SPDD quy đổi
Phương pháp này áp dụng khi chi phí vật liệu chính hoặc chi phí chế biến bước trước chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng chi phí. Phương pháp này tính đơn giản tuy nhiên độ chính xác không cao.
4..2. Xác định giá trí sản phẩm dở dang theo sản lượng ước tính tương đương.
Theo phương pháp này giá trị sản phẩm dở dang ngoài chi phí vật liệu chính hoặc chi phí bước trước thì còn bao gồm các chi phí khác phát sinh tại phân xưởng phân bổ cho nó. Chi phí khác sẽ phân bổ cho sản phẩm dở dang theo sản lượng ước tính tương đương, nó chính là SPDD quy đổi thành sản phẩm hoàn thành tương đương.
SLSPDD quy đổi = Số SPDDCK x Mức độ hoàn thành
Chi phí khác phân bổ cho SPDD
Chi phí khác phân bổ cho SPDD
=
Tổng chi phí khác
Số lượng SP hoàn thành + Số lượng SPDD quy đổi
x
=
Tổng chi phí khác
Số lượng SP hoàn thành + Số lượng SPDD quy đổi
x
Số lượng
SPDD
quy đổi
Chi phí VLC tính cho SPDDCK
=
Tổng giá trị vật liệuchính
Số lượng SP hoàn thành + Số lượng SPDD không quy đổi
x
Số lượng SP
DDkhông quy đổi
Giá trị
SPDD
=
Chi phí vật liệu chính hoặc chi phí chế biến bước trước
+
Chi phí khác phân bổ cho SPDD
Phương pháp này áp dụng khi các chi phí khác tại phân xưởng chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng chi phí.
4..3. Xác định giá trị SPDD theo 50 % chi phí chế biến.
Phương pháp này thường áp dụng đối với những loại sản phẩm mà chi phí chế biến chiếm tỷ trọng thấp trong tổng chi phí.
Giá trị SPDD
=
Giá trị chi phí VLC hoặc chi phí chế biến
bước trước trong SPDD
+
50 % chi phí chế biến tại phân xưởng
4..4. Xác định giá trị SPDD theo định mức hoặc kế hoạch.
Phương pháp này căn cứ vào các định mức tiêu hao (hoặc chi phí kế hoạch) cho các khâu, các bước, các công việc trong quá trình chế tạo sản phẩm để xác định giá trị sản phẩm dở dang.
Ngoài ra, trên thực tế người ta còn áp dụng các phương pháp khác để xác định giá trị SPDD như phương pháp thống kê kinh nghiệm,tính theo chi phí vật liệu chính, và vật liệu phụ.
IV. Đối tượngvà phương pháp tính giá thành.
1. Đối tượng tính giá thành và kỳ tính giá thành.
*Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên cần thiết trong toàn bộ công việc tính gía thành sản phẩm của kế toán. Xác định đối tượng tính giá thành chính là việc xác định sản phẩm, bán thành phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Khi xác định đối tượng tính giá thành doanh nghiệp cần dựa vào:
- Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: Với sản xuất giản đơn, đối tượng tính giá thành là sản phẩm cuối cùng. Với sản xuất phức tạp, đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng hay bán thánh phẩm ở từng bước chế tạo.
-Loại hình sản xuất: Với sản xuất đơn chiếc hay hàng loạt nhỏ đối tượng tính giá thành là từng đơn đặt hàng. Với sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm.
- Yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất, kinh doanh: Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng tính giá thành ở các góc độ khác nhau và ngược lại.
* Kỳ tính giá thành là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành cần phải tiến hành công việc tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành.
Xác định kỳ tính giá thành thích hợp giúp cho việc tính giá thành một cách khoa học hợp lý, đảm bảo cung cấp số liệu kịp thời đầy đủ cho giám đốc về tình hình thực hiện kế hoạch giá thành. Kỳ tính giá thành có thể là định kỳ hàng tháng hoặc theo chu kỳ sản xuất.
2. Mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành.
Tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau và có mối quan hệ mật thiết với nhau đó là giai đoạn hạch toán chi tiết chi phí sản xuất, và giai đoạn tính giá thành.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành giống nhau ở bản chất chung chúng dều là phạm vi giới hạn để tập hợp chi phí, vì thế có thể có trường hợp trùng nhau. Chúng cùng phục vụ cho công tác kiểm tra, quản lý, phân tích chi phí và giá thành. Tuy nhiên, chúng lại khác nhau về nội dung: Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là căn cứ để kế toán tổ chức ghi sổ chi tiết, tổ chức công tác ghi chép ban đầu, tập hợp phân bổ chi phí sản xuất hợp lý. Còn việc xác định đối tượng tính giá thành lại là căn cứ để kế toán giá thành tổ chức các bảng tính giá thành sản phẩm, lựa chọn phương pháp tính giá thành thích hợp, tổ chức công việc tính giá thành hợp lý.
Giữa đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành có các loại quanhệ: Quan hệ giữa một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất với một đối tượng tính giá thành, quan hệ giữa một đối tượng tập hợp chi phí với nhiều đối tượng tính giá thành, quan hệ giữa nhiều đối tượng tập hợp chi phí với một đối tượng tính giá thành.
3. Các phương pháp tính giá thành sản phẩm.
Phương pháp tính giá thành là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tính gía thành một đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Trong doanh nghiệp sản xuất, tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng đối tượng tính gía thành và đối tượng hạch toán chi phí mà kế toán sử dụng một hay nhiều phương pháp tính giá thành thích hợp.
3.1. Phương pháp giản đơn.
Phương pháp này áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với khối lượng lớn và chu kỳ sản xuất ngắn như nhà máy điện, nước...
Theo phương pháp này tổng giá thành sản phẩm được xác định:
Tổng giá thành SP
=
Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang đầu kì
+
Chi phí sản xuất kinh doanh phát sinh trong kì
-
Chi phí SXKDDD cuối kỳ
Tổng giá thành sản phẩm
Số lượng sản phẩm hoàn thành
=
Giá thành
đơn vị SP
3.2. Phương pháp tổng cộng chi phí.
Phương pháp này áp dụng ở các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất sản phẩm thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ.
Theo phương pháp này giá thành sản phẩm được xác định bằng cách cộng chi phí sản xuất của các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận sản xuất tạo nên sản phẩm.
Tổng giá thành sản phẩm = Z 1 + Z 2 + ... + Z n
3.3. Phương pháp hệ số.
áp dụng trong điều kiện một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất tương ứng với nhiều đối tượng tính giá thành. Theo phương pháp này trước hết kế toán căn cứ vào hệ số quy đổi để quy các sản phẩm về sản phẩm gốc. Từ đó dựa vào tổng chi phí phát sinh liên quan đến các loại sản phẩm đã tập hợp để tính giá thành sản phẩm gốc và giá thành từng loại sản phẩm.
Giá thành đơn vị sản phẩm gốc
=
Tổng giá thành sản xuất của các loại sản phẩm
Tổng số sản phẩm gốc quy đổi
Giá thành đơn vị sản phẩm từng loại
=
Giá thành đơn vị sản phẩm gốc
x
Hệ số quy đổi sản phẩm từng loại
Số lượng sản phẩm quy đổi
=
Số lượng sản phẩm từng loại
x
Hệ số quy đổi từng loại
Tổng giá thành sản xuất của các loại sản phẩm
=
Giá trị SPDD
đầu kì
+
Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kì
-
Giá trị SPDD
cuối kì
3.4. Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ.
áp dụng khi cùng một quá trình sản xuất doanh nghiệp vừa thu được sản phẩm chính vừa thu được sản phẩm phụ, đối tượng tính giá thành là sản phẩm chính. Giá trị sản phẩm phụ có thể được xác định theo nhiều phương pháp như: Giá trị ước tính, giá kế hoạch...
Giá thành
SP chính dở dang cuối kì
Giá trị SP phụ thu hồi
Giá thành SP
chính dở
dang đầu kì
Tổng giá
thành
SP chính
-
-
Tổng chi phí sản xuất PS trong kì
+
=
3.5. Phương pháp tỷ lệ.
áp dụng trong điều kiện một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất tương ứng với nhiều đối tượng tính giá thành, và doanh nghiệp đã xác định được khá chính xác giá thành kế hoạch của từng đối tượng tính gía thành.
Giá thành thực tế đơn vị SP từng loại
=
Giá thành kế hoạch hoặc định mức đơn vị thực tế SP từng loại
x
Tỷ lệ giữa chi phí thực tế so với chi phí kế hoạch hoặc định mức
3.6. Phương pháp liên hợp.
Trên thực tế doanh nghiệp có thể kết hợp các phương pháp để tính giá thành sản phẩm cho phù hợp với đặc điểm sản xuất, quy trình công nghệ.
4. Tính giá thành sản phẩm và lập thẻ tính giá thành.
Tính giá thành sản phẩm là giai đoạn quyết định của công tác hạch toán gía thành. Giá thành sản phẩm được tính dựa vào phương pháp tính giá thành áp dụng, tổng cộng chi phí sản xuất thực tế phát sinh theo đối tượng tính gía thành, giá trị sản phẩm dở dang vào đầu kì, cuối kì.
Sau khi tính ra được giá thành thực tế của sản phẩm, kế toán tiến hành lập thẻ tính giá thành sản phẩm như sau:
Thẻ tính giá thành sản phẩm, dịch vụ
Tháng ... năm...
Tên sản phẩm, dịch vụ.
Chỉ tiêu
Tổng số
Chia ra
NVLTT
NCTT
SXC
CP SXKD DD đầu kỳ
CPSXKD PS trong kỳ
CPSXKDD cuối kỳ
Tổng giá thành sản phẩm
Giá thành đơn vị sản phẩm
5. Phương pháp tính giá thành sản phẩm áp dụng trong một số loại hình doanh nghiệp chủ yếu.
5.1.Doanh nghiệp sản xuất giản đơn.
Doanh nghiệp sản xuất giản đơn thường là những doanh nghiệp chỉ sản xuất một số ít mặt hàng với khối lượng lớn, chu kì sản xuất ngắn, sản phẩm dở dang không có hoặc có không đáng kể. Do số lượng mặt hàng ít nên việc hạch toán chi phí sản xuất được mở ở một sổ (hoặc thẻ) hạch toán chi phí sản xuất. Công việc tính giá thành thường được tiến hành vào cuối tháng theo phương pháp trực tiếp (giản đơn) hoặc phương pháp liên hợp.
5.2. Doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất theo các đơn hàng của khách hàng kế toán tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo từng đơn. Đối tượng tính giá thành sản phẩm là sản phẩm của từng đơn đặt hàng. Phương pháp tính giá thành tuỳ theo tính chất và số lượng sản phẩm của từng đơn sẽ áp dụng phương pháp thích hợp như phương pháp trực tiếp, phương pháp hệ số, phương pháp tổng cộng chi phí hay phương pháp liên hợp...
Đặc điểm của việc tập hợp chi phí trong doanh nghiệp này là toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh đều được tập hợp theo từng đơn đặt hàng của khách. Đối với các chi phí trực tiếp phát sinh trong kì liên quan trực tiếp đến đơn đặt hàng nào thì hạch toán trực tiếp cho đơn đặt hàng đó theo chứng từ gốc. Đối với chi phí sản xuất chung, sau khi tập hợp xong sẽ phân bổ cho từng đơn theo tiêu chuẩn phù hợp (giờ công sản xuất, chi phí nhân công trực tiếp).
Việc tính giá thành chỉ tiến hành khi đơn đặt hàng hoàn thành nên kỳ tính giá thành thường không nhất trí với kì báo cáo. Đối với những đơn đặt hàng đến kì báo cáo chưa hoàn thành thì toàn bộ chi phí tập hợp được theo đơn đó đều coi là sản phẩm dở dang cuối kì chuyển kì sau. Đối với những đơn đặt hàng đã hoàn thành thì tổng chi phí đã tập hợp được theo đơn đó thì chính là tổng giá thành sản phẩm, trên cơ sở đó tính giá thành đơn vị. Tuy nhiên, đối với những đơn đặt hàng chỉ mới hoàn thành một phần việc xác định sản phẩm dở dang của đơn đó có thể dựa vào giá thành kế hoạch (hay định mức) hoặc mức độ hoàn thành của đơn.
5.3. Doanh nghiệp áp dụng hệ thống hạch toán định mức.
Trên cơ sở hệ thống định mức tiêu hao lao động, vật tư hiện hành và dự toán về chi phí sản xuất chung, kế toán sẽ xác định giá thành định mức của từng loại sản phẩm. Đồng thời hạch toán riêng các thay đổi, các chênh lệch so với định mức phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm và phân tích toàn bộ chi phí thực tế phát sinh trong kỳ thành ba loại: theo định mức, chênh lệch do thay đổi định mức và chênh lệch so với định mức. Từ đó xác định giá thành thực tế của sản phẩm bằng cách:
Giá thành thực tế sản phẩm
=
Giá thành định mức sản phẩm
+
Chênh lệch do thayđổi định mức
+
Chênh lệch so với định mức
Việc tính toán giá thành định mức được tiến hành trên cơ sở định mức tiên tiến hiện hành ngày đầu kì (thường là đầu tháng). Tuỳ theo tính chất quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm và đặc điểm sản phẩm mà áp dụng các phương pháp tính giá thành định mức khác nhau. Việc thay đổi định mức được tiến hành vào ngày đầu tháng để thuận lợi cho việc thực hiện định mức cũng như kiểm tra việc thi hành định mức. Trường hợp thay đổi định mức diễn ra vào ngày giữa tháng thì đầu tháng sau mới phải điều chỉnh gía thành định mức.
5.4. Doanh nghiệp sản xuất phức tạp theo kiểu chế biến liên tục.
Doanh nghiệp sản xuất phức tạp theo kiểu chế biến liên tục là doanh nghiệp có quy trình công nghệ chế tạo sản phẩm bao gồm nhiều bước(giai đoạn) nối tiếp nhau theo một trình tự nhất định, mỗi bước tao ra một loại bán thành phẩm và bán thành phẩm của bước trước là đối tượng (hay nguyên liệu) chế biến của bước sau. Trong những doanh nghiệp này, phương pháp hạch toán chi phí thích hợp nhất là hạch toán theo bước chế biến (giai đoạn công nghệ). Theo phương pháp này, chi phí sản xuất phát sinh thuộc giai đoạn nào sẽ được tập hợp cho giai đoạn đó. Riêng với chi phí sản xuất chung sau khi được tập hợp theo phân xưởng sẽ được phân bổ cho các bước theo tiêu thức phù hợp.
Tuỳ theo tính chất hàng hoá của bán thành phẩm và yêu cầu của công tác quản lý, chi phí sản xuất có thể được tập hợp theo phương án có bán thành phẩm và phương án không có bán thành phẩm. Phương pháp tính giá thành thường là phương pháp trực tiếp kết hợp với phương pháp tổng cộng chi phí hay hệ số.
5.4.1. Tính giá thành phân bước theo phương án hạch toán có bán thành phẩm.
Phương án này thường được áp dụng ở các doanh nghiệp có yêu cầu hạch toán kinh tế nội bộ cao hoặc nửa thành phẩm bán ra ngoài. Đặc điểm của phương án này là khi tập hợp chi phí sản xuất của các giai đoạn công nghệ, giá trị nửa thành phẩm của các bước trước chuyển sang bước sau được tính theo giá thành thực tế và được phản ánh theo từng khoản mục chi phí. Việc tính giá thành phải được cùng tính ra giá thành thành phẩm còn gọi là kết chuyển tuần tự.
Sơ đồ 13: Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành theo phương án phân bước có tính giá thành bán thành phẩm.
+
Giá thành bán thành phẩm bước 1
=
CLGTSPDDĐK & CK bước 1
Chi phí chế biến bước 1
+
Chi phí NVL chính
+
Giá thành bán thành
phẩm bước 2
=
CLGTSPDDĐK
& CK bước2
Chi phí chế biến bước 2
+
Giá thành bán thành phẩm bước 1
.
Giá thành bán thành phẩm bước (n-1)
+
Chi phí chế biến bước n
+
CLGTSPDDĐK
& CK bướcn
=
Tổng giá thành thành
phẩm
.......
5.4.2. Tính giá thành phân bước theo phương án không có bán thành phẩm.
Trong những doanh nghiệp mà yêu cầu hạch toán kinh tế ở nội không cao hoặc nửa thành phẩm chế biến ở từng bước không bán ra ngoài thì chi phí chế biến phát sinh trong các giai đoạn công nghệ được tính nhập vào giá thành thành phẩm một cách đồng thời, song song nên còn gọi là kết chuyển song song. Theo đó, kế toán không cần tính giá thành bán th._. thức tổ chức cơ cấu - bộ máy kế toán vừa tập trung, vừa phân tán là thích hợp, đảm bảo sự lãnh đạo của kế toán trưởng cũng như sự quản lý chặt chẽ ở các chi nhánh tại các điạ phương khác nhau.
Công ty áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên để hạch toán hàng tồn kho phù hợp với tình hình thực tế của công ty, đáp ứng được yêu cầu theo dõi thường xuyên tình hình biến động vật tư, hàng hoá.
Ngoài ra, công ty còn tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên trong cơ quan đi học để nâng cao trình độ nghiệp vụ, mở rộng hiểu biết, đáp ứng yêu cầu của kế toán tài chính, kế toán quản trị hiện nay. Công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được tiến hành hàng quý khá nề nếp.Việc phối hợp giữa các nhân viên kế toán nhịp nhàng giúp cho số liệu hạch toán ghi chép được chính xác, đầy đủ là cơ sở đảm bảo cho giá thành sản phẩm được tính toán chính xác.
Công ty áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên để hạch toán hàng tồn kho phù hợp với tình hình thực tế của công ty, đáp ứng được yêu cầu theo dõi thường xuyên tình hình biến động vật tư, hàng hoá.
Nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất, tăng hiệu quả sản xuất công ty đã thực hiện các biện pháp tích cực. Cụ thể là công ty đã thực hiện chế độ khoán quỹ lương, trả lương theo sản phẩm có tác dụng khuyến khích công nhân hăng hái lao động, đồng thời sử dụng hết công suất của máy móc, thiết bị.
Bên cạnh những thành công đã đạt được trong công tác kế toán nói chung, công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng thì vẫn còn một số tồn tại mà công ty có khả năng cải tiến và hoàn thiện nhằm đáp ứng hơn nữa yêu cầu quản lý.Những tồn tại đó là:
Tồn tại 1: Về hình thức sổ kế toán
Công ty áp dụng hình thức sổ kế toán chứng từ ghi sổ song thực tế việc áp dụng cho phần hành kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành chưa đúng theo hình thức này. Cụ thể:
- Không lập chứng từ ghi sổ.
- Không sử dụng sổ đăng ký chứng từ ghi sổ.
- Phiếu kế toán có mẫu thiết kế vào mục đích sử dụng như sổ nhật ký chung. Tuy nhiên nếu Nhật ký chung dùng để ghi chép hàng ngày trực tiếp từ chứng từ gốc thì phiếu kế toán ghi theo định kỳ sau khi đã phân loại, tổng hợp chứng từ gốc.
Tồn tại 2: Về việc sử dụng tài khoản.
Kế toán chưa làm đúng hệ thống chế độ kế toán ban hành ngày 1/1/1996 vì không sử dụng một số tài khoản như:
- Tài khoản 621 “ Chi phí NVLTT “ để tập hợp chi phí nguyên vật liệu.
- Tài khoản 622 “ Chi phí NCTT “ để tập hợp chi phí nhân công.
Kế toán sử dụng tài khoản 154 để tập hợp khấu hao TSCĐ mà không sử dụng tài khoản 627. Việc sử dụng tài khoản 627 để hạch toán tiền thu sử dụng vốn là sai quy định và khoản này phải hạch toán vào tài khoản 421 để giá thành sản phẩm khỏi tăng lên một cách bất hợp lý.
Như vậy, những điều này đã gây khó khăn cho công tác quản lý các chi phí phát sinh trong kỳ và khó khăn cho việc tính giá thành theo khoản mục.
Tồn tại 3: Về việc tập hợp các khoản chi phí.
ở công ty việc tập hợp một số chi phí không hoàn toàn chính xác. Cụ thể:
- Đối với chi phí bao bì chi thêm để đóng gói mì: Tại công ty khi kết thúc quy trình công nghệ sản xuất, thành phẩm mì gồm các loại mì với các phẩm cấp khác nhau trong đó có mì gói. Tuy nhiên, để mì gói bán được ra ngoài cần phải gia công thêm bằng cách đóng gói. Theo tôi khoản chi phí này nên hạch toán vào chi phí bán hàng, tập hợp riêng cho mì gói. Việc hạch toán như vậy làm cho công tác tập hợp chi phí sản xuất tính giá thành đơn giản hơn.
- Đối với chi phí nhân công: Theo đúng chế độ kế toán quy định, phải bao gồm cả kinh phí công đoàn trích theo tỷ lệ 2 % tiền lương công nhân sản xuất. Nhưng kế toán công ty đã đưa chi phí này vào chi phí quản lý doanh nghiệp làm giảm chi phí sản xuất tập hợp được, giảm giá thành một cách bất hợp lý.
- Đối với chi phí khấu hao TSCĐ: Theo nguyên tắc hàng kỳ phải trích đủ số khấu hao đã tính bình quân vào giá thành nhưng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành ở công ty đã không làm như vậy. Việc tập hợp chi phí khấu hao trong kỳ nhiều hay ít phụ thuộc vào sức chịu đựng của giá thành. Như vậy là không đúng chế độ kế toán ban hành.
Tồn tại 4: Về cách phân loại chi phí.
Chi phí sản xuất ở công ty được tập hợp theo yếu tố nên việc hai yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí khác bằng tiền gọi chung là chi phí sản xuất chung là chưa hợp lý vì nếu tập hợp chi phí theo yếu tố thì hai yếu tố chi phí này phải được tách ra, quản lý riêng.
Tồn tại 5: Về công tác tính giá thành sản phẩm.
Công tác tính giá thành sản phẩm còn một số điểm cần xem xét:
- Giá thành tại đơn vị không được tính toán chi tiết theo khoản mục chi phí gây khó khăn lớn cho việc đánh giá, phân tích từng khoản mục chi phí trong giá thành.
- Kế toán tính giá thành không sử dụng sổ, bảng tính giá thành theo quy định làm cho công tác quản lý giá thành của từng đối tượng tính giá thành không thực hiện được.
- Phương pháp tính giá thành doanh nghiệp áp dụng là phương pháp hệ số, tuy nhiên hệ số quy đổi doanh nghiệp áp dụng không thống nhất. Cụ thể kế toán căn cứ cả vào giá bán và trọng lượng sản phẩm để tính hệ số quy đổi.
- Bên cạnh đó, cuối mỗi kỳ báo cáo sau khi đã tính toán xác định được giá thành sản phẩm cần tiến hành phân tích chỉ tiêu giá thành sản phẩm để tìm biện pháp hạ giá thành nhưng ở công ty chưa tiến hành công việc này.
Trên đây là một số ý kiến nhận xét về công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của công ty lương thực cấp I Lương Yên với mong muốn được góp phần hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành ở công ty.
II. Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty lương thực cấp I Lương Yên.
ý kiến 1: Hoàn thiện sổ sách theo hình thức chứng từ ghi sổ
Hiện nay, công ty Lương thực cấp I Lương Yên đang áp dụng Phiếu kế toán thay cho Chứng từ ghi sổ. Tuy nhiên phiếu kế toán lại có kết cấu giống nhận ký chung, do các nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhiều nên khi ghi bị trùng lắp, khó theo dõi chi tiết cho từng khoản mục chi phí.
Mặt khác công ty là một doanh nghiệp có quy mô lớn vừa sản xuất, chế biến vừa kinh doanh lại nhiều cán bộ kế toán nên áp dụng hình thức kế toán chứng từ ghi sổ là hợp lý hơn. Nhưng khi áp dụng hình thức này kế toán chi phi sản xuất và tính giá thành sản phẩm cần phải tuân thủ đúng chế độ kế toán đã ban hành, phải tiến hành ghi sổ theo sơ đồ 17 (trình bày ở phần thứ nhất. VI)
ở doanh nghiệp các nghiệp vụ liên quan đến sản xuất, chế biến diễn ra không nhiều hàng ngày. Vì vậy việc lập chứng từ ghi sổ có thể tiến hành định kỳ theo tháng sau khi đã phân loại chứng từ gốc theo nội dung kinh tế và thời gian các nghiệp vụ phát sinh. Chứng từ ghi sổ sau đó được đánh số theo thời gian và ghi vào sổ cái theo hệ thống.
* Bổ sung sổ đăng ký chứng từ ghi sổ.
Theo chế độ, sổ đăng ký chứng từ ghi sổ là sổ kế toán tổng hợp chi phí dùng để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo trình tự thời gian (nhật ký). Sổ này vừa dùng để đăng ký các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, quản lý chứng từ ghi sổ, vừa để kiểm tra đối chiếu số liệu với bảng cân đối số phát sinh. Với tác dụng nhẳm quản lý và kiểm tra đối chiếu với các chứng từ ghi sổ như trên theo em công ty nên bổ sung thêm sổ đăng ký chứng từ ghi sổ.
Mẫu 16: Chứng từ ghi sổ
Số 07
Ngày 30/ 3 /2001 Đơn vị: đồng
Trích yếu
Số hiệu tài khoản
Số tiền
Ghi chú
Nợ
Có
Nợ
Có
.....
Chi tiền điện nước tháng 3
Chi phí khấu hao TSCĐ
Tiền lương phải trả CNSX T3
Các khoản trích theo lương T3
6277
6274
6221
6222
111
214
334
338
2.885.526
5.397.020
8.346.420
1.585.820
2.885.526
5.397.020
8.346.420
1.585.820
Theo số liệu thực tế quý I /2001:
Mẫu 17: Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ
Quý I/ 2001 Đơn vị: đồng
Chứng từ ghi sổ
Số tiền
Số hiệu
Ngày
...
02
03
04
30/1
30/1
30/1
800.158.243
8.639.179
1.580.850
Cộng tháng 1
...
03
02
04
01
29/2
29/2
29/2
29/2
26.795.453
7.608.812
1.186.200
87.321.318
Cộng tháng 2
...
05
06
07
31/3
30/3
30/3
73.424.642
8.282.546
8.346.420
Cộng tháng 3
Luỹ kế từ đầu quý
ý kiến 2: Về công tác kế toán tập hợp chi phí NVLTT:
ở công ty Lương thực cấp I Lương Yên đang tập hợp chi phí theo yếu tố nhưng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty lại ghép chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí khác bằng tiền thành chi phí sản xuất chung. Mặt khác chi phí sản xuất ở công ty không lớn chỉ có bốn yếu tố CPNVL, CPNC, CPKHTSCĐ và CPSXC. Như vậy kế toán công ty nên tập hợp chi phí sản xuất theo khoản mục để thuận lợi cho việc tính giá thành.
Như trên đã đề cập, chi phí bao bì cho mì gói hạch toán vào giá thành là chưa hợp lý nên sẽ được hạch toán lại như sau:
Nợ TK 641: 14.628.200 đ
Có TK 153 (1532): 14.628.200 đ
Kế toán tập hợp chiphí sản xuất phải sử dụng TK 621- CPNVLTT để phản ánh chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và các tài khoản cấp 2 để phản ánh chi tiết khoản mục chi phí NVLTT:
- TK 6211: Chi phí nguyên liệu chính.
- TK 6212: Chi phí vật liệu phụ(Bao bì đóng gói).
- TK 6213 : Chi phí nhiên liệu.
Hàng tháng căn cứ vào các chứng từ gốc hoặc bảng tổng hợp chứng từ gốc, kế toán lập chứng từ ghi sổ. Các chứng từ gốc sau khi làm căn cứ để lập chứng từ ghi sổ được dùng để ghi vào sổ, thẻ kế toán chi tiết. Chứng từ ghi sổ đính kèm với các chứng từ gốc sẽ là căn cứ để ghi vào sổ Đăng kí chứng từ ghi sổ, sau đó được dùng để ghi vào sổ cái.
Cụ thể kế toán sẽ tiến hành ghi sổ việc tập hợp chi phí NVLTT như sau:
Căn cứ vào các phiếu xuất kho (mẫu 02), hàng tháng kế toán lập chứng từ ghi sổ (mẫu 16). Chứng từ ghi sổ sau khi lập sẽ là căn cứ để ghi sổ đăng ký chứng từ ghi sổ(mẫu 17), sổ cái tài khoản 621- Chi phí NVLTT(mẫu 12).
ý kiến 3: Về chi phí nhân công trực tiếp.
Nội dung chi phí nhân công trực tiếp ngoài tiền lương, phụ cấp và các khoản bảo hiểm như kế toán công ty đã làm còn phải bao gồm kinh phí công đoàn tính theo tiền lương phải trả 2% như BHYT.
Để phản ánh tình hình thanh toán lương thực tế ở phân xưởng Nhân chính, kế toán nên sử dụng TK 622-CPNCTT và tài khoản cấp 2:
- TK6221: Chiphí tiền lương.
- TK 6222: Các khoản trích theo lương theo tỷ lệ quy định.
Ngoài ra, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành còn phải tính KPCĐ trích trên tiền lương thực tế phải trả công nhân sản xuất mì: 2% * 22.000.194= 440.003 đ
Với số liệu cụ thể phát sinh tại phân xưởng của công ty trong quý I / 2001 kế toán hạch toán lại khoản chi phí này như sau:
Nợ TK 622: 26.180.231 đ
- TK 6221 : 22.000.194 đ
- TK 6222 : 4.180.037 đ
Có TK 334: 22.000.194 đ
Có TK 338: 4.180.037 đ
Việc ghi sổ kế toán khoản mục chi phí này được tiến hành như sau: Căn cứ vào các bảng thanh toán lương (mẫu 06) kế toán lập các chứng từ ghi sổ (mẫu 16) với nội dung “ tiền lương phải trả cho công nhân phân xưởng”. Chẳng hạn như quý I/ 2001, từ các chứng từ gốc, kế toán lập được các chứng từ ghi sổ liên quan đến việc tính lương và các khoản trích theo lương của công nhân phân xưởng. Các chứng từ gốc này được sử dụng để ghi vào sổ đăng ký chứng từ ghi sổ (mẫu 17) và sổ cái TK 622 (mẫu 13). Số liệu trên sổ cái là số liệu tổng cộng từ chứng từ ghi sổ (mẫu 16).
ý kiến 4: Đối với chi phí sản xuất chung.
Tại phân xưởng của công ty không có bộ phận quản lý phân xưởng mà lãnh đạo công ty trực tiếp quản lý.Một mặt chi phí tiền lương cho bộ phận lãnh đạo không lớn lắm so với chi phí sản xuất, mặt khác để đơn giản hoá công việc kế toán nên kế toán đã không phân bổ chi phí tiền lương của cán bộ quản lý vào chi phí sản xuất của phân xưởng. Tại phân xưởng cũng không phát sinh nghiệp vụ xuất kho NVL, công cụ, dụng cụ để phục vụ quản lý phân xưởng, chi phí khác bằng tiền cũng ít phát sinh ở phân xưởng vì vậy chi phí sản xuất chung chỉ bao gồm chi phí khấu hao và chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền.Kế toán nên sử dụng TK cấp 2 của TK 627 để phản ánh chi tiết các khoản mục chi phí :
- TK 6274: Phản ánh chi phí khấu hao TSCĐ.
- TK 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài.
- Tk 6278: Chi phí khác bằng tiền.
Về chi phí khấu hao TSCĐ kế toán công ty cần tuân thủ chế độ kế toán trong việc tính đúng, tính đủ khấu hao TSCĐ vào chi phí sản xuất trong quý. Chi phí khấu hao chiếm tỉ lệ lớn trong tổng chi phí sản xuất ở phân xưởng, ảnh hưởng lớn tới giá thành, do vậy tính không đủ chi phí khấu hao TSCĐ vào chi phí sản xuất sẽ làm giá thành sai lệch, ảnh hưởng tới quyết định của nhà quản lý. Để tính đúng, đủ chi phí khấu hao, kế toán công ty cần quan tâm đến việc phân bổ chi phí khấu hao TSCĐ dùng chung cho sản xuất mì gà và mì kg cho từng đối tượng tập hợp chi phí theo tiêu thức thích hợp. Tiêu thức phân bổ có thể chọn là số giờ máy chạy cho mỗi hoạt động sản xuất hoặc chi phí nhân công trực tiếp. ở công ty nên chọn tiêu thức phân bổ là chi phí nhân công trực tiếp vì nó có sẵn hàng quý, đơn giản. Nếu chọn tiêu thức là số giờ máy chạy thì tại phân xưởng phải tổ chức thêm bộ phận theo dõi số giờ máy chạy, điều này không thuận lợi ở công ty.
Ngoài ra, việc hạch toán tiền thu sử dụng vốn vào chi phí sản xuất chung là sai quy định của chế độ kế toán, khoản chi phí đó phải được hạch toán lại như sau:
Nợ TK 421: 2.058.378 đ
Có TK 333 (3335): 2.058.378 đ
Từ số liệu thực tế quý I/ 2001, kế toán có thể hạch toán lại khoản mục này như sau:
Nợ TK 627: 11.049.596 đ
- TK 6274: 5.397.020 đ
- TK 6277: 5.652.576 đ
Có TK 214: 5.397.020 đ
Có TK 111: 5.652.576 đ
Việc ghi sổ kế toán khoản mục chi phí SXC được tiến hành như sau: Căn cứ vào các phiếu chi tiền mặt, các tài liệu liên quan đến tính toán khấu hao. kế toán lập các chứng từ ghi sổ (mẫu 16) theo từng tháng với loại nghiệp vụ phát sinh. Căn cứ vào chứng từ ghi sổ này, kế toán ghi vào sổ đăng ký chứng từ ghi sổ (mẫu 17) và sổ cái TK 627 (mẫu 14).
ý kiến 5: Về kế toán tổng hợp chi phí sản xuất toàn phân xưởng.
Tại công ty, các chi phí sản xuất tập hợp không đúng trên tài khoản qui định (đã nêu ở phần I) và trình tự ghi vào sổ kế toán cũng không đúng. Như vậy rất khó cho kế toán chi phí trong việc tìm khoản mục chi phí sản xuất để tập hợp và tính giá thành sản phẩm, gây khó khăn cho công tác kiểm tra kế toán. Vì vậy kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nên tiến hành như sau:
Toàn bộ chi phí sau khi được tập hợp theo từng khoản mục sẽ được kết chuyển từ các tài khoản chi phí vào tài khoản 154- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang để tổng hợp toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh và tính giá thành sản phẩm.
Kế toán nên tiến hành ghi sổ kế toán như sau: Kế toán phản ánh các nghiệp vụ kết chuyển trên chứng từ ghi sổ, sau đó đánh số và sử dụng làm căn cứ để ghi sổ đăng ký chứng từ ghi sổ (mẫu 17) và sổ cái TK 154 (mẫu 15)
Mẫu 15: Sổ cái tài khoản 154
Quý I / 2001 Đơn vị: đồng
NTGS
CTGS
Diễn giải
TK
ĐƯ
Số tiền
Số
NT
Nợ
Có
SDĐK
Kết chuyển CPNVLTT- CPNVL chính
- CPVL phụ
- CP nhiên liệu
Kết chuyển CPNCTT
-Tiền lương phải trả
- Các khoản trích
Kết chuyển CPSXC
- Chi phí KHTSCĐ
- CPDVMN
Nhập kho thành phẩm
Cộng số phát sinh
SDCK
621
6211
6212
6213
622
6221
6222
627
6274
6277
155
0
900.378.338
800.158.243
26.795.453
73.424.642
26.180.231
22.000.194
4.180.037
11.049.596
5.397.020
5.652.576
937.608.165
0
937.608.165
(trích minh hoạ)
ý kiến 6: Về việc xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm mì.
Sau khi kết thúc quy trình công nghệ sản xuất mì, sản phẩm thu được ở giai đoạn này gồm nhiều loại như mì gói, mì cân, mì khô, mì vụn dầu. Qua tìm hiểu thực tế, em thấy mì gói, mì cân là những sản phẩm chính còn mì khô, mì vụn dầu là những sản phẩm phụ của sản phẩm chính. Vì chiên xong, các vắt mì rất giòn, dễ bị gãy khi chuyển động trên dây chuyền, cho nên ngoài thu được vắt mì nguyên lành còn thu được mì khô và mì vụn dầu. Do đó theo em đối tượng tính giá thành nên là các sản phẩm chính như mì cân, mì gói còn mì khô và mì vụn dầu tính vào chi phí bất thường sau đó khi bán được 2 loại mì này thì tính vào thu nhập bất thường.
Số liệu quý I/ 2001: Nợ TK 111: 15.730.497 đ
Có TK 721: 15.730.497 đ
ý kiến 7: Về công tác tính giá thành.
Sản phẩm của phân xưởng sản xuất ra là hai loại mì: mì kg và mì gà. Cả hai loại sản phẩm này đều phải được tính giá thành. Vì vậy kế toán có thể căn cứ vào số lượng sản phẩm hoàn thành của mì cân gà và mì cân kg theo tỷ lệ 0,006 theo cách mà doanh nghiệp đã làm. Sở dĩ có thể áp dụng tỷ lệ này vì mì gà là sản phẩm mới của phân xưởng và số lượng của mì gà so với mì kg không lớn lắm.
Nhưng để đảm bảo đúng chế độ kế toán doanh nghiệp cần phải lập bảng tính giá thành cho từng loại mì và cũng là để kế toán theo dõi, nắm bắt được chi phí bỏ ra cho từng loại mì từ đó có những đánh giá thiết thực cụ thể nhằm hạ giá thành sản phẩm.Căn cứ vào phương pháp tính giá thành để kế toán lập bảng tính giá thành mì cho từng loại mì kg và mì gà.
Mẫu 17: Bảng tính tổng giá thành liên sản phẩm mì kg
Quý I/2001 Đơn vị: đồng
Khoản mục
CPDD đầu quý
CP SX phát sinh trong quý
CPDD cuối quý
Tổng giá thành liên SP mì kg
CP NVL TT
-CPNVL chính
-CPNVL phụ
-CP nhiên liệu
CPNC TT
-Tiền lương
-Các khoản trích
CP SXC
-Cp khấu hao TSCĐ
-CP DVMN
893.204.314
793.583.863
26.636.357
72.984.094
26.023.150
21.868.193
4.154.957
10.983.299
5.364.638
5.618.661
893.204.314
793.583.863
26.636.357
72.984.094
26.023.150
21.868.193
4.154.957
10.983.299
5.364.638
5.618.661
Cộng
930.210.763
930.210.763
Đối với mì kg sẽ tính lại giá thành theo ý kiến 7 về đối tượng tính giá thành sản phẩm mì. ở đây toàn bộ chi phí sẽ tập hợp cho mì cân kg và mì gói 500 g với hệ số quy đổi tương ứng là 1 và 0,05 (vì trọng lượng của mì gói là 500 g còn mì cân kg coi như là sản phẩm tiêu chuẩn). Khi đó:
Tổng sản lượng quy đổi = 108012 + 372.776 * 0,05 = 126.650,8 đ.
Mẫu 18: Bảng tính giá thành mì cân kg
Số lượng: 108.012 gói
Quý I/2001 Đơn vị: đồng
Khoản mục
Tổng giá thành liên sản phẩm mì kg
Hệ số tính
Tổng giá thành mì cân kg
Giá thành đơn vị
108.012
126.650,8
= 0,85
CPNVLTT:
-CPNL chính
-CPNL phụ
-CP nhiên liệu
-CPNCTT:
-Tiền lương
-Các khoản trích
-CPSXC
-CPkhấu haoTSCĐ
-CPDVMN
893.204.314
793.583.863
26.636.357
72.984.094
26.023.150
21.868.193
4.154.957
10.983.229
5.364.638
5.618.661
759.223.667
674.546.283
22.640.903
62.036.481
22.119.677
18.587.964
3.531.713
9.335.803
4.559.942
4.775.861
7029
6245
209
575
205
172
33
86
42
44
Cộng
930.210.763
0.85
790.679.147
Mẫu 19: Bảng tính tổng giá thành liên sản phẩm mì gà.
Quý I/2001 Đơn vị: đồng
Khoản mục
CPDDĐQ
CPPS trong quý
CPDDCQ
Tổng giá thành liên SP mì gà
CPNVLTT:
-CPNL chính
-CPVL phụ
-CP nhiên liệu
CPNCTT:-Tiền lương
-Các khoản trích
CPSXC:
-CP KHTSCĐ
-CPDVMN
7.174.024
6.574.380
159.096
440.548
157.081
132.001
25.080
66.297
32.382
33.915
7.174.024
6.574.380
159.096
440.548
157.081
132.001
25.080
66.297
32.382
33.915
Cộng
7.397.402
7.397.402
Mẫu 20 : Bảng tính giá thành mì cân gà
Số lượng: 768 kg.
Quý I/ 2001 Đơn vị: đồng
Khoản mục
Tổng giá thành liên sản phẩm mì gà
Hệ số tính
Tổng giá thành mì cân gà
Giá thành đơn vị
768
982,2
=0,78
CPNVLTT:
-CPNL chính
-CPVL phụ
-CP nhiên liệu
CPNCTT:
-Tiền lương
-Các khoản trích
CP SXChung
-CPKHTSCĐ
-CPDVMN
7.174.024
6.574.380
159.096
440.548
157.081
132.001
25.080
66.297
32.382
33.915
5.595.739
5.128.016
124.095
343.628
122.523
102.961
19.562
51.712
25.258
26.454
7.286
6.677
161,6
447,4
159,5
134,1
25,4
67,3
32,9
34,4
Cộng
7.397.402
0,78
5.769.974
Cũng tương tự như mì cân kg và mì cân gà kế toán tính giá thành mì gói 500g và 700g theo mẫu 18,mẫu 20.
ý kiến 8: Về việc áp dụng máy vi tính cho công tác kế toán.
Cùng với sự phát triển của xã hội hiện nay, nền sản xuất cũng không ngừng phát triển để đáp ứng những yêu cầu mới. Yêu cầu của công tác quản lý về khối lượng thông tin ngày càng tăng. Đặc biệt công tác quản trị doanh nghiệp trong cơ chế thị trường cạnh tranh đòi hỏi phải tính toán chính xác, kịp thời chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm để có thể đưa ra những quyết định đúng đắn. Tất cả điều này khẳng định sự cần thiết phải áp dụng máy tính trong công tác kế toán nói chung và công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng.
Hiện nay công ty đang áp dụng hình thức chứng từ ghi sổ, mặc dù có nhiều ưu điểm song việc ghi chép bị trùng lắp nên hiệu suất lao động kế toán thấp dẫn đến việc lập báo cáo bị chậm trễ.
Với hình thức chứng từ ghi sổ, việc áp dụng kế toán máy là rất thuận tiện, trong trường hợp có điều kiện về tài chính, công ty nên đầu tư nhiều cho việc sử dụng kế toán máy trong công tác kế toán để các thông tin cho quản lý được xử lý nhanh chóng, kịp thời và chính xác hơn.
III. Một số biện pháp giảm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm.
Trong doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp sản xuất nói riêng, muốn tồn tại và phát triển được phải luôn luôn quan tâm dến chất lượng sản phẩm. Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính của DN. Nó là căn cứ để phân tích tìm biện pháp hạ gía thành nhưng hạ giá thành trên cơ sở tính đúng, tính đủ các khoản chi phí phát sinh.
Trong DNSX, một biện pháp để hạ giá thành sản phẩm là việc tiết kiệm các yếu tố chi phí sản xuất khi sử dụng chứ không phải là việc bớt xén một cách máy móc mà phải đảm bảo trong điều kiện chi phí giảm nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm, đảm bảo đúng tiến độ, tốc độ sản xuất. Đây là yếu tố quyết định tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Xuất phát từ đặc điểm của công ty, em xin đưa ra một số biện pháp hạ thấp giá thành sản phẩm như sau:
1. Tiết kiệm nguyên vật liệu:
- Trên cơ sở khối lượng nguyên vật liệu đặt ra, công ty tiến hành giao việc mua sắm nguyên vật liệu cho phân xưởng sản xuất. Yêu cầu phân xưởng sản xuất phải chấp hành về định mức nhưng phải đảm bảo về chất lượng sản phẩm.
- Có chế độ khen thưởng, xử phạt thích đáng đối với cá nhân, tập thể tiết kiệm hay sử dụng lãng phí nguyên vật liệu.
- Giảm hao phí đến mức thấp nhất trong công tác thu mua, vận chuyển, bảo quản và sử dụng vật tư. Không để cho vật tư hao hụt, mất mát hoặc xuống cấp.
- Sản phẩm của công ty rất được ưa chuộng nên công ty nên mở rộng hơn nữa mối quan hệ với bạn hàng, cần phải có nguồn hàng lâu dài để khi cần là có thể mua vật liệu ở nơi gần địa điểm sản xuất nhất và có thể vận chuyển ngay đến phân xưởng sản xuất. Do đó tránh được hiện tượng tồn kho vật liệu quá nhiều, giảm được chi phí vận chuyển.
- Trong điều kiện có thể công ty nên sử dụng hợp lý vật liệu thay thế do địa phương sản xuất, khai thác vật liệu tại nơi sản xuất, tận dụng phế thải, phế liệu để giảm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm.
2. Tăng năng suất lao động.
Tăng năng suất lao động là giảm hao phí lao động cho một đơn vị sản phẩm hoàn thành. Để thực hiện vấn đề nay, công ty cần nghiên cứu,tổ chức các biện pháp sản xuất một cách khoa học. Các khối lượng công việc được sắp xếp theo một trình tự hợp lý, không để sản xuất bị ngắt quãng. Vật liệu phải được cung cấp một cách kịp thời cho sản xuất. Công ty phải thường xuyên ứng dụng kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động. Công ty nên sử dụng các đòn bẩy kinh tế, kích thích phát triển sản xuất bằng chế độ tiền lương, tiền thưởng.
3. Giảm các khoản chi phí sản xuất chung.
Các khoản chi phí sản xuất chung thường gồm nhiều loại, đôi khi không có chứng từ gốc để xác minh. Vì vậy, công ty cần có quy định cụ thể nhằm hạn chế các khoản chi phí này. Tuy nhiên, các khoản chi phí hợp lý cần phải được giải quyết kịp thời để đảm bảo thuận lợi cho hoạt động sản xuất.
4. Hạn chế thiệt hại về sản phẩm hỏng
Để giảm bớt các khoản thiệt hại, công ty cần phải trang bị máy móc , thiết bị sản xuất tốt, nâng cao trình độ tay nghề công nhân, có thưởng phạt nghiêm minh, rõ ràng về sản phẩm hỏng.
IV. Các điều kiện để thực hiện các hướng hoàn thiện đã nêu trên:
Một trong những phương thức chủ yếu cải tiến công tác hạch toán kế toán là gắn chặt việc hạch toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm với việc tăng cường và cũng cố chế độ hạch toán nội bộ.
Để thực hiện các hướng hoàn thiện đã nêu trên công ty cần chú trọng tới các điều kiện sau:
- Cần có sự chỉ đạo, giám sát hơn nữa từ giám đốc công ty đến các phòng ban, giám đốc xí nghiệp và từng phân xưởng để tổ chức hạch toán đầy đủ các chỉ tiêu cần thiết để đánh giá được chất lượng công tác ở phòng ban, phân xưởng.
- Công tác hạch toán ở các đơn vị trực thuộc, phân xưởng cần phải thực hiện tốt, phản ánh một cách đầy đủ các chi phí phát sinh theo đúng chế độ.
- Tất cả các phòng ban cần thực hiện tốt nhiệm vụ và chức năng của mình, xứng đáng là bộ máy tham mưu cho giám đốc.
- Công ty phải thực hiện chế độ thưởng, phạt rõ ràng về sử dụng tiết kiệm hay lãng phí vật tư đối với các phân xưởng. Về phần mình, phân xưởng phải thường xuyên phân tích, đánh giá, báo cáo tình hình sử dụng vật tư của đơn vị mình.
- Đối với trung tâm kho cần bảo đảm đúng kỹ thuật, tránh ẩm thấp gây mối, gián làm hỏng thóc, gạo, mì, hao hụt vật tư.
- Để thực hiện việc sử dụng tiết kiệm tránh lãng phí trong khâu sản xuất thì bộ phận sản xuất dựa trên căn cứ quy định, trên cơ sở tiết kiệm nhất. Quán triệt ý thức trách nhiệm đến người lao động, thực hiện hạch toán nguyên vật liệu tiêu hao trên mỗi máy và cân đối giữa định mức và tổng mức tiêu hao, xác định nguyên nhân làm hao hụt vật tư. Yêu cầu đối với người lao động là như vậy, còn trách nhiệm về phía công ty cần:
- Tìm mọi cách để từng bước nâng cao đời sống của người lao động. Bảo đảm đời sống là khâu đầu tiên để người lao động gắn bó với phân xưởng, phát huy mọi năng lực sáng tạo của mình. Nhưng muốn nâng cao đời sống của công nhân, trước hết phải cho họ những điều kiện lao động tốt nhất, có môi trường lao động tốt và được đào tạo bồi dưỡng thường xuyên để có đủ trình độ theo kịp với sự phát triển của đời sống xã hội và nhịp độ phát triển của nền kỹ thuật hiện đại. Chế độ tiền lương, tiền thưởng, chế độ về nghỉ ngơi, nhà ở. luôn là đòn bẩy để nâng cao chất lượng, năng suất lao động do đó phải luôn được chú ý đảm bảo.
+ Cần tăng cường, tạo điều kiện để công nhân, cán bộ được tham gia học tập ở các trường đại học.
+ Không ngừng xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật đổi mới công nghệ tạo sự hứng thú trong công việc của người lao động.
- Đối với bộ máy kế toán của công ty với đội ngũ nhân viên trẻ tuổi đầy nhiệt tình trong công tác, công ty cần có sự đầu tư thích đáng để nhằm phát huy tính sáng tạo của họ.
Công ty lương thực cấp I lương Yên ngoài sự nỗ lực của bản thân thì công ty cũng cần có sự giúp đỡ của Tổng công ty lương thực miền Bắc, cụ thể là:
- Chỉ huy cấp trên cũng cần thường xuyên tạo điều kiện : bổ sung nguồn vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng, chăm lo đời sống của cán bộ, công nhân trong công ty. Sự chăm lo đó là sư khích lệ, động viên to lớn đối với cán bộ, công nhân viên ở công ty để họ phấn khởi, an tâm sản xuất, hoàn thành nhiệm vụ.
- Khen thưởng kịp thời, uốn nắn kịp thời những sai sót lệch lạc đảm bảo cho công ty lương thực cấp I Lương Yên đi đúng hướng, chấp hành mọi chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước.
- Khuyến khích sự độc lập suy nghĩ, sáng tạo của công ty, phát huy tinh thần chủ động, dám nghĩ dám làm, chịu trách nhiệm, tạo ra phong cách làm việc có những nét riêng của mình.
- Tất cả những nỗ lực của các cấp lãnh đạo, chỉ huy và các cơ quan chức năng là chỗ dựa vững chắc, đồng thời cũng là động lực, là sự khuyến khích, động viên to lớn để cán bộ, công nhân viên công ty lương thực cấp I Lương Yên làm nên những chiến công, trở thành đơn vị anh hùng, một doanh nghiệp có tầm vóc, có uy tín của ngành lương thực trong nước.
Tóm lại, trong điều kiện kinh tế thị trường luôn có sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển cần phải không ngừng hoàn thiện chính bản thân mình.
Kết luận
Qua quá trình học tập và thời gian tìm hiểu thực tế tại công ty lương thực cấp I Lương Yên cùng với sự giúp đỡ của cô giáo hướng dẫn, em đã nhận thức được ý nghĩa của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Đó là khâu quan trọng không thể thiếu được của bất kỳ một quá trình hạch toán kinh tế nào. Do vậy em đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài “ Hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty lương thực cấp I Lương Yên “
Trong một chừng mực nhất định phù hợp với khả năng và trình độ của bản thân, đề tài đã giải quyết được những nội dung và yêu cầu cơ bản sau:
- Về mặt lý luận: Đã trình bày một cách khái quát có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp, từ đó có sự vận dụng thích hợp đối với từng loại doanh nghiệp cụ thể.
- Về mặt thực tế: Trên cơ sở tìm hiểu thực tế công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty lương thực cấp I Lương Yên, đề ra những định hướng có bản cũng như các biện pháp cụ thể nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm nói riêng cũng như công tác kế toán nói chung.
Trên đây là nội dung của luận văn, có thể thấy rằng tổ chức công tác kế toán nói chung và tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm nói riêng là một vần đề vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn. Để làm cho công tác kế toán thực sự phát huy tác dụng của mình, trở thành một công cụ sắc bén và có hiệu lực phục vụ cho quản lý kinh tế, công ty cần kiện toàn và tổ chức công tác hạch toán chi phí và tính giá thành một cách khoa học và hợp lý hơn. Những đề xuất ở trên cũng là nhằm mục đích hoàn thiện hơn công tác kế toán. Tuy nhiên, với thời gian thực tập ngắn, hiểu biết về thực tế không nhiều do đó luận văn không tránh khỏi những sai xót. Em mong nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo của cô giáo hướng dẫn và các cô chú, anh chị trong phòng tài chính kế toán công ty lương thực cấp I Lương Yên để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình chỉ bảo của cô giáo hướng dẫn ThS. Phạm Bích Chi và các cô chú, anh chị trong công ty đã tạo điều kiện để em hoàn thành luận văn này.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36881.doc