Hoàn thiện công tác huy động vốn tại NHNN & PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội

Tài liệu Hoàn thiện công tác huy động vốn tại NHNN & PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội: ... Ebook Hoàn thiện công tác huy động vốn tại NHNN & PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1294 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác huy động vốn tại NHNN & PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Ngày nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một su thế tất yếu của mọi nền kinh tế trên thế giới. Bởi vì, chỉ có sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì nền kinh tế của một quốc gia mới có thể phát huy hết những thế mạnh của mình, đồng thời tiếp thu được những tinh hoa của thế giới. Và cùng với sự hội nhập thì một điều tất yếu là các doanh nghiệp sẽ phải đương đầu với sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài, điều đó đời hỏi các doanh nghiệp luôn phải đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới trang thiết bị công nghệ. Do đó cần có một thị trường tài chính hiện đại để đáp ứng nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp, cũng như các thành phần kinh tế khác. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc đẩy mạnh vai trò của các ngân hàng trên thị trường tài chính là một điều tất yếu. Hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại nước ta đã đạt được những bước phát triển rất mạnh mẽ, và đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành sự vận động liên tục của nền kinh tế. Cùng với các thành phần khác trong thị trường tài chính hệ thống ngân hàng thương mại đóng một vai trò quan trọng trong việc tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kìm chế lạm phát, phát triển thị trường ngoại hối. Trong những năm qua các ngân hàng thương mại nước ta đã thực hiện huy đông được một lượng vốn đánh kể cho việc phát triển kinh tế, từ đó tạo công ăn việc làm cho người lao động. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Chi nhánh Nam Hà Nội là một chi nhánh của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Ngay từ khi thành lập, ngân hàng đã không ngừng từng bước lớn mạnh bắt nhịp với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Thấy được tầm quan trọng của công tác huy động vốn đối với hoạt động của mình, chi nhánh đã đề ra rất nhiều những biệm pháp để tăng cường công tác huy động vốn. Vì vậy, sau quá trình thực tập tại chi nhánh em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác huy động vốn tại NHNN&PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội” Nội dung chuyên dề gồm có 3 chương: Chương1 - Công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại Chương2 - Thực trạng công tác huy động vốn của NHNN&PTNT Việt Nam Chi nhánh Nam Hà Nội Chương3 - Giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn tại NHNN&PHNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội Vì kinh nghiệm thực tế của bản thân còn nhiều hạn chế, nên những vấn đề mà em xem xét trong nội dung chuyên đề thực tập còn rất nhiều thiếu góp ý. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, các anh chị, cô chú tại NHNN&PHNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo và giúp đỡ tận tình của thầy giáo tiến sĩ Trần Đăng Khâm và toàn thể nhân viên NHNN&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội đã giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành chuyên đề này. CHƯƠNG 1:CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Khái quát về ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của ngân hàng thương mại Hình thức sơ khai của các ngân hàng thương mại được hình thành và phát triển từ hoạt động kinh doanh của thợ vàng trước đây. Các thợ vàng trước đây thường là những người giàu có, vì vậy họ có điều kiện về vốn để thực hiện hoạt động cho vay để thu lãi. Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu cất trữ tiền, họ thường có két tốt để cất trữ tiền một cách an toàn. Do yêu cầu cất trữ tiền của các lãnh chúa, cũng như các nhà buôn… các thợ vàng cũng thực hiện luôn việc cất trữ tiền hộ để thu các khoản phí. Và chính hoạt động cất trữ hộ đã làm tăng lượng tiền tạm có của các thợ vàng. Thực tiễn cho thấy luôn có một lượng tiền được gửi vào và một lượng tiền được rút ra, song tất cả người gửi tiền và người rút tiền đều không thực hiện cùng một lúc, đã tạo số dư thường xuyên trong két. Do vậy, họ có thể sử dụng tạm thời khoản tiền này để thực hiện hoạt động cho vay, từ đây bắt đầu hình thành các hoạt động tín dụng sơ khai của ngân hàng thương mại. Mặt khác, với việc mỗi một quốc gia đều có một đồng tiền riêng được sử dụng trong hoạt động lưu thông trao đổi mua bán hàng hoá đã tạo điều kiện cho những người thợ vàng thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Lợi nhuân thu được là chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Đó là hoạt động mua bán ngoại tệ sơ khai, từ đó hính thành lên hoạt động trao đổi mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật cũng như của toàn bộ nền kinh tế thế giới, thì quá trình hoạt động kinh doanh trên thị trường của các ngân hàng thương mại cũng đã có rất nhiều thay đổi quan trọng. Ngày nay, các ngân hàng hoạt động dưới rất nhiều các hình thức khác nhau để đáp ứng nhu cầu hoạt động riêng. Quá trình gia tăng nguồn vốn để đưa và kinh doanh đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của các ngân hàng cổ phần. Và để tăng cường khả năng kiểm soát, cũng như điều tiết kinh tế của nhà nước đã dẫn đến sự hình thành lên các ngân hàng quốc doanh, ngoài ra các ngân hàng còn tồn tại dưới hình thức là các ngân hàng liên doanh, các tập đoàn ngân hàng… Và song song với quá trình đó là quá trình đa dạng hoá trong hoạt động của các ngân hàng, nhiều nghiệp vụ ngân hàng mới đang ngày càng phát triển. Ngân hàng thương mại từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã đi đến cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản. Ngoài ra, nhiều ngân hàng còn tiến hành cho vay tiêu dùng, kinh doanh chứng khoán, cho thuê… Bên cạnh đó, các hình thức huy động vốn cũng trở lên ngày càng phong phú. Bên cạnh các hình thức huy động vốn truyền thống như nhận tiền gửi, các ngân hàng còn mở rộng các hình thức đi vay như vay ngân hàng trung ương, vay trên thị trường tín dụng. Ngày nay, tuy hệ thống ngân hàng thương mại cũng như ngân hàng quốc doanh đã trở lên rất đa dạng và phong phú về loại hình hoạt động, cũng như các dịch vụ cung cấp, nhưng nhìn chung các hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại vẫn không thay đổi về bản chất, mà nó chỉ tiện lợi hơn, đa dạng hơn. Sự hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng ngay từ đầu đã luôn đóng vai trò quan trọng là thước đo, là huyết mạch và còn là thước đo cho sự hoạt động của một nền kinh tế. Tóm lại, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ, hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Thực tế, rất nhiều tổ chức trung gian tài chính- bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiệm vụ môi giới khác. Mặc dù đã trải qua quá trình phát triển lâu dài, nhưng cho đến nay khái niệm về cụ thể về Ngân hàng thương mại vẫn chưa được thực sự thống nhất, mà vẫn còn có nhiều các khái niệm khác nhau. Theo cách tiếp cận trên phương diện các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì cho rằng: “ Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tài chính, cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” . Cũng có một quan điểm khác cho rằng: “ Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng “ . Và theo luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá X ( kỳ họp thứ hai, từ ngày 21 tháng 11 đến ngày 12 tháng 12 năm 1997) thông qua thì “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Như vậy, ta có thể thấy có rất nhiều những quan điểm cũng như những cách nhìn nhận khác nhau về khái niệm ngân hàng thương mại. Các quan điểm nhìn nhận về khái niệm ngân hàng thương mại tuỳ thuộc vào từng quốc gia, từng khu vực, cũng như từng khía cạnh. Tuy nhiên nhìn chung thì các quan niệm này đều cho thấy các hoạt động và các dịch vụ mà các ngân hàng cung cấp. Đặc điểm Đặc điểm đầu tiên phải kể đến của các ngân hàng thương mại chính là nó có một sự ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển kinh tế. Bởi vì, ngân hàng là tổ chức huy động tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội đều gửi tiền trong ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ của toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là thu nhập quan trọng của nhiều ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng còn là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước ( thành phố, tỉnh ). Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng là tổ chức cung cấp hệ thống tín dụng để phục vụ cho việc mua sắm trang thiết bị, xây dựng nhà máy, mua hàng hoá dự trữ. Khi doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử… Và khi cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến các ngân hàng để được tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ ( thông qua mua chứng khoán Chính phủ ) là nguồn tài chính qua trọng cho đầu tư và phát triển. Ngân hàng thực hiện các chính sách về kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là công cụ quan trong trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế bền vững. Do đó vấn đề nghiên cứu và hiểu một cách cặn kẽ về loại hình tổ chức này để từ đó làm cơ sở cho việc đề ra các phương thức vận hành và quản lý nó một cách hiệu quả là một điều hết sức cần thiết. Trong thị trường tài chính thì các ngân hàng thương mại đóng vai trò là một trung gian tài chính. Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp súc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế là các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; và thứ hai là các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu sẽ chuyển tiền từ nhóm thứ hai đến nhóm thứ một nếu cả hai cùng có lợi. Tuy nhiên quan hệ trực tiếp nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô thời gian và không gian… Điều này cảm trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hoá các trung gian tài chính sẽ giảm được các chi phí giao dịch. Mặt khác, các ngân hàng sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các loại chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế ngân hàng đã tham gia vào kinh doanh rủi ro. Đặc điểm tiếp theo phải kể đến là ngân hàng thương mại đóng vai trò tạo ra các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. Tiền có một vai trò quan trọng là lam phương tiện thanh toán. Giấy nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã đựơc sự chấp nhân rộng rãi. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế , dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế cho tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phươn tiện cất trữ nó trở thành tiền giấy. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy họ có số dư tiền gửi trên tài khoản thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông, thứ hai là số dư tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các khoản tài khoản gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn… Khi ngân hàng cho vay, số dư tiền gửi trên tài khoản của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng mua hàng hoá hay dịch vụ. Do đó bằng việc cho vay, các ngân hàng đã tạo ra phương tiên thanh toán. Toàn bộn hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng sử dụng một khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo lên một khoản thu ( tức làm tăng số dư tiền gửi ) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể toạ ra một khối lượng tiền gửi gấp bội thông qua hoạt động cho vay Ngoài ra các ngân hàng thương mại còn đóng vai trò của trung gian thanh toán. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá dịch vụ. Để việc thanh toán được nhanh chóng và thuận tiện, đồng thời tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra nhiều hình thức thanh toán khác nhau như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung gian thanh toán. 1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại Cùng với sự phát triển của kinh tế, thì các hoạt động của ngân hàng thương mại cũng dần dần được mở rộng và trở lên đa dạng hơn. Các ngân hàng thương mại ngày nay là một doanh nghiệp cung cấp rất nhiều các dịch vụ khác nhau cho công chúng và doanh nghiệp. Thành công của một ngân hàng phụ thuộc vào năng lực cung cấp và xác định các dịch vụ tài chínhàm xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả. Dưới đây là một số những dịch vụ mà các ngân hàng thương mại thường hay cung cấp cho khách hàng. Mua bán ngoại tệ Dịch vụ mau bán, trao đổi ngoại tệ là một trong những dịch vụ đầu tiên mà ngân hàng thực hiện. Với dịch vụ này, các ngân hàng thương mại sẽ đứng ra mua một loaị ngoại tệ này để đổi lấy một loại ngoại tệ khác, từ đó thu về chênh lệch và hưởng phí giao dịch. Hiện nay điều này trở lên rất quan trọng đối với thương mại quốc tế, đặc biệt là đối với ngành du lịch. Đồng thời, dịch vụ này còn là một kênh huy động vốn cho ngân hàng, cho vay ngoại tệ. Nhận tiền gửi Cho vay được coi là một hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động tiền. Và một trong những nguồn quan trọng nhất trong việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại đó là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho khoản tiền gửi như một phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu chi tiêu trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời số tiền này để đưa vào kinh doanh. Cho vay Hoạt động cho vay cũng là một trong những hoạt động đầu tiên của các ngân hàng thương mại. Hiện nay, các ngân hàng thương mại có các hình thức cho vay như sạu: - Cho vay thương mại và chiết khấu thương phiếu: Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng thương mại đã chiết khấu thương phiếu mà thực ra là cho vay đối với người bán ( người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng ( là người mua ), giúp họ có vốn để mua hàng hoá để mở rộng sản xuất kinh doanh. - Cho vay tiêu dùng:Trong giai đoạn đầu thành lập, các ngân hàng thương mại đều không tích cực với hoạt động cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình trong việc tiêu dùng, bởi vì họ tin rằng hoạt động cho vay tiêu dùng hàm chứa rủi ro cao, rất dễ dẫn đến phá sản. Tuy nhiên sau đó, cùng với sự phát triển không ngừng của các nền kinh tế, kéo theo sự tăng kên của thu nhập cá nhân, nhu cầu cho tiêu của cá nhân, cũng như hộ gia đình tăng cao hoạt động cho vay tiêu dùng cũng theo đó mà trở thành một hoạt động sinh lới cao. Mặt khác, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường ngày càng trở lên khốc liệt trong việc huy động vốn, điều này đã buộc các ngân hàng phải hướng đến các cá nhân và hộ gia đình như một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. Mặc dù hiện nay tốc độ đã chậm lại do cành tranh tín dụng ngày càng lớn trong khi nền kinh tế phát triển chậm lại. Tuy nhiên cho vay tiêu dùng vẫn luôn là một hoạt động quan trong của các ngân hàng thương mại. -Cho vay tài trợ cho các dự án: Ngày nay, ngoài các hoạt động mang tính truyền thống như là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng thương mại còn tham gia vào các hoạt động tài trợ và đồng tài trợ cho các dự án như xây dựng nhà máy , phát triển công nghệ cao, một số ngân hàng còn tham gia vào hoạt động cho vay để đàu tư vào đất. Hoạt động cho vay tài trợ cho các dự án nói chung thường hàm chứa rủi ro cao. Do vậy, hoạt động này thường được thực hiện với một công, hoặc một số công ty đầu tư, các thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với sự hợp tác của các công ty khác để chua sẻ rủi ro. Ngoài ra, các ngân hàng còn tham gia vào việc tài trợ cho các chương trình văn hoá xã hội, các chương trình thể thao, các trương trình văn hoá xã hội… Bảo quản tài sản hộ Các ngân hàng thực hiệc việc lưu giữ vàng, các giấy tời có giá và các tài sảm khác cho khách hàng trong két (vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng thường giữ hộ các tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc những giấy tờ quan trọng khác của khách hàng với nguyên tắc an toán bí mật và thuận tiện. Dịch vụ này phát triển cùng với nhiều dịch vụ khác như mau bán hộ các giấy tờ có giá khác cho khách, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ… Mặt khác, các giấy chứng nhận do ngân hàng ký và phát cho khách hàng (ghi nhận về tái sản đang được lưu giữ ) có thể trao đổi mau bán như một loại tiền và đây là nền tảng cho việc hình thành các loại hình thanh toán hiện nay như séc, các loại thẻ… Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ thực hiện bảo quản mà còn thay mặt khách hàng thực hiện các hoạt động chi trả hộ khách hàng. Và quá trình thanh toán thông qua ngân hàng đã mở đầu cho việc thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng, sau đó khách hàng chỉ việc mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Phương thức thanh toán không dùng tiền mặt có rất nhiều những tiện ích như : an toán, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí… đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và tiết kiệm cho phí cho khách hàng, thông qua đó cũng phần nào nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi thanh toán của ngân hàng được mở rộng, càng toạ ra nhiều tiện ích hơn. Điều này khuyến khích việc gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh các thể thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi , nhờ thu, đã phát triển hình thức thanh toán mới bằng thẻ… Quản lý ngân quỹ Các ngân hàng mở tài khoản và tiền gửi của phần lớn các doanh nghiệp và cá nhân. Nhờ đó, các ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Đó cũng là điều kiện để ngân hàng có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong dó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặn dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ Các hoạt động của ngân hàng thương mại luôn có tác động cũng như ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển chung của nền kinh tế. Vì vậy, ngay từ khi được thành lập các ngân hàng đã phải hoạt động theo những quy định chung của chính phủ các nước. Mặt khác, ngân hàng thương mại có một khả năng huy động vốn vay rất lớn. Do đó, các ngân hàng thương mại đã trở thành trọng tâm chú ý của chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu của chính phủ thường là lớn và cấp bách trong khi các nguồn thu không đủ, nên chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản vay của ngân hàng. Ngày nay m chính phủ các nước đều giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp phép thành lập với cam kết họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chinh sách của chính phủ và tài trợ cho chính phủ. Các ngân hàng thường mua trài phiếu chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được Bảo lãnh Do khả năng thanh toán của một ngân hàng cho một khách hàng là rất lớn và do ngân hàng năm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng trở lên đã dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá, trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác… Cho thuê thiết bị trung và dài hạn Nhằm đẻ bán được các thiết bị, đặn biệt alf các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê khách hàng có thể mua ( do vậy còn gọi là lợp đồng thuê mua ). Rất nhiều các ngân hàng tích cực cho khách hàng lựa chọn quyền thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua các hợp đồng thuê mua, trong đó các ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàng phải trả tới hơn 70% hoặc 100% giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy cho thuê của ngân hàng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn. Cung cấp dịch vụ uỷ thác tư vấn Hoạt động của ngân hàng chính là hoạt động đặc chưng của một tổ chức tài chính, do đó điều tất yếu là ngân hàng phải có rất nhiều chuyên gia về lĩnh vực tài chính giàu kinh nghiệm cũng như chuyên môn. Và đó cũng là lý do mà rất nhiều cá nhân và doanh nghiệp nhớ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Khi khách hàng có nhu cầu thì ngân hàng sẽ tiến hành các tư vấn về đầu tư,về quản lý, về thành lập, tách gộp công ty, hay mua bán chứng khoán. Thậm chí các ngân hàng còn tiến hành các dịch vụ như uỷ thác di chúc, quản lý tài sản của khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn về tài chính. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán Cùng với sự phát triển không ngừng của các nền kinh tế trên thế giới, thì cùng với nó là sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp nói chung và giữa các ngân hàng nói riêng, đã buộc các ngân hàng phải ngày càng lỗ lực trong việc thực hiện cung cấp ngầy càng đầy đủ các dịch vụ cho khách hàng, nhằm thoả mãn mọi nhu cầu cho khách hàng. Và đây cũng là một trong những ly do khiến các ngân hàng bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Hiện nay, các ngân hàng còn thành lập ra các công ty chứng khoán hoặc các công ty môi giới chứng khoán đẻ cung cấp các dịch vụ về chứng khoán cho khách hàng. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm Ngày nay hoạt động của các ngân hàng đã lan sang cả lĩnh vực bảo hiểm. Các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế do gặp rủi ro trong hoạt động mất khả năng thanh toán. Ngoài ra ngân hàng còn liên doanh với các công ty bảo hiểm, hoặc tổ chức ra các công ty bảo hiểm con, ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí… Cung cấp các dịch vụ đại lý Do nhiều yếu tố khác nhau lên nhiều ngân hàng không thể thiêt lập các chi nhánh và văn phòng đại diện ở khắp mọi nơi. Vì vậy một nhu cầu tất yếu sinh ra đó là nhu cầu về dịch vụ đại lý. Chính vì vậy, mà các ngân hàng lớn có khả năng sẽ cung cấp các dịch vụ đại lý cho các ngân hàng khác không có điều kiện. Các dịch vụ đó có thể là thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối cho đồng tài trợ… 1.1.3.Vai trò của công tác huy động vốn trong hoạt động của ngân hàng thương mại Ng©n hµng th­¬ng m¹i kinh doanh tiÒn tÖ d­íi h×nh thøc huy ®éng, cho vay, ®Çu t­ vµ cung cÊp c¸c dÞch vô kh¸c. V× vËy c«ng t¸c huy ®éng vèn- ho¹t ®éng t¹o nguån vèn cho ng©n hµng th­¬ng m¹i ®ãng mét vai trß hÕt søc quan träng. Ho¹t ®éng cña c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i cã ¶nh h­ëng rÊt lín ®Õn c¸c thµnh phÇn trong nÒn kinh tÕ, bëi v× c¸c ng©n hµng n¾m gi÷ mét l­îng vèn rÊt lín cña c¸c kh¸ch hµng, vµ còng tõ ®ã c¸c ho¹t ®éng cña ng©n hµng sÏ cã t¸c ®éng rÊt lín ®Õn sù ph¸t triÓn cña mét nÒn kinh tÕ nãi chung. V× vËy luÊt ph¸p cña c¸c quèc gia lu«n buéc c¸c ng©n hµng ph¶i duy tr× mét l­îng vèn lín. §ã sÏ lµ yÕu tè ®¶m b¶o mét phÇn cho c¸c rñi ro cã thÓ x¶y ra. §ã còng lµ lý do khiÕn cho viÖc huy ®éng vèn lµ yÕu tè ®ãng vai trß quan träng trong ho¹t ®éng cña ng©n hµng. 1.2. Công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại 1.2.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại Nguồn vốn là yếu tố cần thiết đầu tiên cần thiết cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, luật pháp của mỗi quốc gia đều quy định mức vốn tối thiểu mà ngân hàng phải có ngay từ khi thành lập. Mặt khác trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường, các ngân hàng có thể huy động thêm vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại có thể huy động từ nhiều nguồn khác nhau như: Vốn chủ sở hữu: Để bắt đầu hoạt động (được pháp luật cho phép ) chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành lên trang thiệt bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành của loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. - Nguồn vốn hình thành ban đầu: Tuỳ theo tính chất của mỗi loại ngân hàng mà nguồn gốc hình thành ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, ngân hàng Nhà nước cấp vốn ( vốn Nhà nước ). Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông góp vốn thông qua mua cổ phiếu hoặc cổ phần. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh tham gia góp vốn, ngân hàng thư nhân là thuộc sở hữu tư nhân. - Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt động các ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể. Nguồn từ lợi nhuận, trong điều kiện thu nhập dòng lớn hơn không, chủ ngân hàng có su hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập dòng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích luỹ tuỳ thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích luỹ và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập dòng lớn hơn, nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận sẽ cao sơ với vốn của chủ hình thành ban đầu. Nguồn vốn bổ sung từ quá trình phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng yêu cầu tăng vốn của chủ. Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết. - Các quỹ: Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có một mục đích riêng. trước tiên là dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại nhằm bù đắp lại những tổn thất có thể xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn mục đích bù đắp sự hao mòn của vốn dưới tác động của lạm pháp. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của khách hàng và chênh lệnh giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Tuỳ theo quy định của từng nước, các ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng quỹ giám đốc… Các quỹ của ngân hàng thuộc chủ sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên một số quỹ ngân hàng không thể sử dụng lâu dài. - Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể coi là bộ phận của vốn sở hữu của ngân hàng ( vốn bổ sung ) do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai, và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. Vốn nợ Vốn nợ chính là nguồn vốn mà ngân hàng thương mại huy động được trên thị trường trong quá trình hoạt động kinh doanh. Vì nguồn vốn chủ sở hữu là có hạn, mà hoạt động của ngân hàng thương mại đòi hỏi cần một lượng vốn lớn, do đó các ngân hàng thường xuyên có các kênh huy động vốn. Các nguồn này bao gồm : tiền gửi của khách hàng, tiền vay. Công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn theo nhiều phương thức khác nhau, tuy nhiên có thể chia các nguồn huy động vốn của ngân hàng thương mại như sau Theo đối tượng huy động - Nguồn vốn huy động từ dân cư: một trong những kênh huy động vốn rất quan trọng đối với ngân hàng, đó là nguồn vốn nhàn dỗi từ trong dân cư. Trên thực tế, trong dân cư luôn tồn tại một nguồn vốn rất lớn mà chưa sử dụng đến, do đó các ngân hàng thương mại có thể tiến hành huy động nguồn vốn này thông qua các hình thức như: tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, uỷ thác đầu tư. Đặc điểm của nguồn vốn này là tương đối ổn định, các khoản chi phí cho giao dịch đối với nguồn này tương đối thấp. - Huy động từ các doang nghiệp: trong nền kinh tế mỗi một doanh nghiệp, mỗi một tổ chức thường hoạt động theo một chu kỳ nhất định. Và vì vậy, vào mỗi một thời điểm khác nhau thì doanh nghiệp cũng có nhu cầu về vốn khác nhau. Do đó, trên cơ sở nắm bắt được chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp, chu kỳ hoạt động của các tổ chức, mà ngân hàng có thể huy động vốn tuỳ theo thảo thuận với các doanh nghiệp. - Huy động từ các tổ chức tín dụng: trong qua trình hoạt động trên thị trường tài chính sẽ có thời điểm các ngân hàng thương mại xảy ra tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời để thanh toán cho khách hàng, hoặc trong trường hợp thiếu hụt dự trữ bắt buộc theo quy đinh của Ngân hàng nhà nước, hoặc để đáp ứng các nhu cầu bất khả kháng. Khi đó, ngân hàng sẽ tiến hành vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác để đáp ứng nhu cẩu trước mắt. Tuy nhiên, nguồn này thường có tỷ trọng rất thấp, tính ổn định không cao và không thường xuyên. Các ngân hàng thường rất hạn chế sử dụng tới nguồn huy động này. Theo mục đích gửi tiền: - Tiền gửi tiết kiệm: đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguốn vốn huy ._.động của ngân hàng. Theo tình hình cụ thể của bản thân ngân hàng, cũng như tình hình thực tế trên thị trường, mà các ngân hàng thương mại sẽ có những chính sách phù hợp để huy động nguồn vốn thông qua tiết kiệm. Công cụ chính mà các ngân hàng sử dụng để huy động tiền gửi tiết kiệm chính là lãi suất, thông qua lãi suất các ngân hàng sẽ thu hút khách hàng gửi tiền vào ngân hàng. - Tiền gửi thanh toán: nguồn tiền này thường có mục đích là phục vụ cho việc thanh toán thường xuyên hay tiêu dùng hàng ngày của khách hàng. Do vậy nó có tính ổn định không cao, tuy nhiên ngân hàng có thể sử dụng một phần nguồn này để phục vụ cho các mục đích nhất định trên cơ sở tính toán hợp lý quy luật biến động của loại tiền gửi này. - Tiền gửi uy thác đầu tư: hiện tại có nhiều doanh nghiệp có lượng vốn để đưa vào hoạt động đầu tư, tuy nhiên họ lại thiếu kinh nghiêm trong lĩnh vực tài chính, hoặc thiếu thông tin trên thị trường. Khi đó họ có thể uỷ thác đầu tư cho ngân hàng theo thoả thuận. Hoặc có những doanh nghiệp hay tổ chức không được phép gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng, nên họ biến tướng dưới hình thức uỷ thác đầu tư Các nguồn vay khác như phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, thương phiếu… 1.2.2.Các phương pháp huy động vốn của ngân hàng thương mại Tiền gửi : Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiêng của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau. - Tiền gửi thanh toán ( tiền gửi giao dịch, hoặc tiền gửi thanh toán ). Để đáp ứng nhu cầu chi trả cho các hoạt động thanh toán, giao dịch, các cá nhân và tổ chức sẽ gửi tiền vào ngân hàng, và trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đề được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đề có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rất thấp ( hoặc bằng không ), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ của ngân hàng với mức phí thấp. Hiện nay, với sự cạnh tranh ngày càng trở lên khốc liệt trên thị trường, các ngân hàng luôn lỗ lực rút ngắn thời gian, thủ tục một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất. Ngoài ra, để thu hút khách hàng các ngân hàng còn kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay ( thấu chi – chi trội hơn số dư tài khoản tiền gửi thanh toán). Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức biến tướng của thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác. - Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội : Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả trong một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện trong hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng như cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra các hình thức gửi tiền có kỳ hạn. Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận tiện cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kỳ hạn. Đây là một yếu tố thu hút được nhiều nguồn tiền nhán dỗi trong dân cư cũng như các tổ chức khác. - Tiền gửi tiết kiệm của dân cư : Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng ( các khoản tiết kiệm ). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với tài khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn ( ví dụ như tiền gửi với các kì hạn khác nhau, tiết kiệm nhiều trương mục tiết kiệm ( hoặc là sổ tiết kiệm ) cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép. - Tiền gửi của các ngân hàng khác : Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô nguồn này thường không lớn. Tiền vay : Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm. Tại nhiều nước, ngân hàng Trung ương thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ. Do vậy nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. Các nguồn mà ngân hàng có thể huy động nguồn tiền vay là: - Vay ngân hàng Nhà nước: Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trước mắt trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ ( thiếu dự trứ bắt buộc, dự trữ thanh toán ), ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng Nhà nước là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn ). Các thương phiếu đã được ngân hàng thương mại chiết khấu ( hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, các ngân hàng thương mại mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại ngân hàng Nhà nước. Nghiệp vụ này làm cho thương phiếu của ngân hàng thương mại giảm đi và dự trữ ( tiền mặt hoặc tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước) tăng lên. Ngân hàng Nhà nước điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ, ngân hàng thương mại phải thực hiện cácđiều kiệm đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng ( thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao ) và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng Nhà nước vào từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, ngân hàng Nhà nước cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. - Vay các tổ chức tín dụng khác : Đây là nguồn vay mượn lẫn nhau và cay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tím kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn bổ sung từ ngân hàng Nhà nước. Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý ( hoặc ngân hàng Nhà nước ). Khoản vay có thể không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên. - Vay trên thị trường vốn : Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành thêm giấy nợ ( kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu ) trên thị trường vốn. Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguốn tiền trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thướng đây là khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay trực tiếp bằng cách này, họ thương phải vay thông qua các ngân hàng đại lý hoặc được sự bảo lãnh của ngân hàng Đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất , bảo quản bộ… cũng được ngân hàng quan tâm. Các nguồn khác : - Tiền uỷ thác : Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ…Các dịch vụ này tạo lên nguồn vốn uỷ thác tại ngân hàng. Ngày nay, cùng với sự phát triển của các quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ chức kinh tế, xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng ngân hàng như là một kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Và kết quả là hình thành nguồn vốn uỷ thác, làm tăng nguồn vốn của ngân hàng. - Nguồn trong thanh toán : Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành các nguồn trong thanh toán ( séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở L/C …). Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có số kêt dư của ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay… - Tiền khác: Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả… 1.2.3.Tổ chức công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại 1.2.3.1.Các căn cứ khi tổ chức công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại Khi tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường, mỗi một ngân hàng thương mại đều có một cách thức tổ chức huy động vốn riêng, tuỳ thuộc vào tình hình thực tế về điều kiện của mỗi ngân hàng, vào thực trạng của nền kinh tế, và chính sách cũng như mục tiêu của từng ngân hàng. Chính vì thế mà khi tổ chức công tác huy động vốn thì các ngân hàng phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau như; - Tình hình thực tế của kinh tế xã hội: Yếu tố vể dự phát triển kinh tế vĩ mô của toàn xã hội luôn có những tác động trực tiếp đến công tác huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Khi một nền kinh tế phát triển bền vững thì các thành phần kinh tế mới gia tăng được thu nhập, doanh thu, đồng thời yên tâm gửi tiền vào ngân hàng. Hoặc ngược lại, trong thời kỳ mà kinh tế có nhiều biến động, lam phát cao, thì mọi người có su hướng giữ tiền trong mình để đảm bảo an toàn. - Chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nươc, cũng như các quy định cụ thể trong lĩnh vực hoạt động của ngành ngân hàng. Do đặc trưng hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường tài chính, mà tầm ảnh hưởng của các ngân hàng đến sự phát triển kinh tế là rất lớn. Chính vì vậy, mà Chính phủ các quốc gia luôn kiểm soát rất chặt chẽ các hoạt động của ngân hàng thương mại. Các hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại sẽ được điều chỉnh kiểm soát chặt chẽ theo các quy định của Ngân hàng Nhà nước. - Và cuối cùng là tình hình thực tế của ngân hàng mà có thể đưa ra các cách tổ chức huy động vốn thích hợp. Một ngân hàng lớn , với mạng lưới chi nhánh rộng có nhiều khả năng huy đông được lượng vốn lớn. 1.2.3.2.Tổ chức công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại Trong thực tế, khi một doanh nghiệp muốn thành lập và đi vào hoạt động thì yếu tố đầu tiên không thể thiếu là yếu tố về vốn. Đó sẽ là cơ sở đầu tiên để doanh nghiệp mau sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất, mua nguyên vật liệu. Đặc biệt, hoạt động của các ngân hàng trên thị trường chủ yếu là kinh doang tiền tệ nên điều tất yếu là phải có một lượng vốn ban đầu lớn. Mặt khác, do hoạt động đặc thù của các ngân hàng là kinh doanh một lượng tiền rất lớn, do vậy việc huy động vốn đòi hỏi phải diễn ra liên tục. Có thể nói hoạt động huy động vốn trên thị trường là một yếu tố rất quan trọng quyết định đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trên thị trường. Do công tác huy động vốn của các ngân hàng luôn đóng vai trò hết sức quan trọng, lên việc tổ chức công tác huy động vốn của ngân hàng sẽ tuỳ thuộc vào quy mô, chức năng, nhiệm vụ của từng ngân hàng mà được tổ chức dưới các hình thức khác nhau. Nhưng nhìn chung, việc tổ chức công tác huy động vốn trong các ngân hàng sẽ được giao cho bộ phận có chức năng soạn thảo, và phải được người có thẩm quyền thông qua. Tuy nhiên, quá trình thực hiện công tác huy động vốn sẽ do nhiều bộ phận khác nhau cúng tham gia phối hợp thực hiện. Các vấn đề cần quan tâm trong công tác huy động vốn - Điều đầu tiên cần phải nhắc đến khi huy động vốn đó là để đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư. Ngay từ, khi mới thành lập thì hoạt động cho vay đã là hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại, đó cũng là hình thức kinh doanh chủ yếu của ngân hàng. Hoạt động đặc trưng của các ngân hàng đó là hoạt động cho vay để thu được lãi suất. Nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế, thì hoạt động của các ngân hàng không chỉ còn đơn thuần là hoạt động cho vay để thư lãi, mà nó còn mở rộng ra các lĩnh vực đầu tư. Hoạt động đầu tư của các ngân hàng sẽ tận dụng được các khoản tiền nhàn dỗi, đồng thời tận dụng được các kinh nghiệm cũng như khả năng trên thị trường tài chính. Do vậy yếu tố đầu tiên phải xem xét khi huy động vốn là phải cân đối với hoạt động cho vay và đầu tư. Đó cũng chính là mục đích huy động vốn của các ngân hàng. - Quá trình huy động vốn cần phải đảm bảo rằng tính chất nguồn huy động phải phù hợp với tính chất sử dụng. Điều này đóng một vai trò hết sức quan trọng hoạt động kinh doanh của ngân hàng trên thị thường. Khi tổ chức công tác huy động vốn trên thị trường ngân hàng cần căn cứ vào nhu cầu sử dụng của mình là gì, đó có thể là các khoản tín dụng dài hạn, trung hạn, hoặc là ngắn hạn. Sự phù hợp giữa tính chất của nguồn huy động và tính chất sử dụng sẽ giúp cho ngân hàng chủ động hơn trong kế hoạch kinh doanh của mình, đồng thời tận dụng được các cơ hội kinh doanh, tăng thời gian quay vòng vốn. Tính chất sử dụng vốn của các ngân hàng không chỉ thời hạn của khoản tín dụng, mà còn là phương thức thanh toán trong nước hay quốc tế. - Điều tiếp theo cần phải kể đến là vấn đề an toàn về vốn trong công tác huy đông vốn. Hoạt động của các ngân hàng thương mại trên thị trường tài chính luôn hàm chứa rất nhiều những rủi ro, do vậy vấn đề đảm bảo các điều kiện an toàn về vốn là một việc hết sức cần thiết. Sự an toàn trong công tác huy động vốn có thể thể hiện ở tính thanh khoản của khoản vốn. Bởi vì, trong quá trình kinh doanh các khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào, do vậy các khoản vốn mà ngân hàng huy động được cần phải bảo đảm tính thanh khoản song song với việc sinh lãi. - Chi phí thấp, cơ cấu vốn phù hợp. Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại là vì mục tiêu lợi nhuận, vì thế yếu tố chi phí cho hoạt động huy động vốn của ngân hàng sẽ đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nó sẽ quyết định đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng, cũng như vấn đề về lợi nhuận của ngân hàng. Ngoài ra cơ cấu của nguồn vốn cũng có ảnh hưởng rất lớn tới cơ cấu tài sản và quyết định chi phí của ngân hàng. Quản lý cơ cấu của nguồn huy động phải đảm bảo các nội dụng sau: Thống kê đầy đủ và kịp thời các thay đổi về các loại nguồn vốn huy động, tốc độ quay vòng của mỗi loại. Phân tíc kỹ lưỡng các nhân tốc gắn liền với thay đổi đó. Lập kế hoạch phù hợp cho từng giai đoạn phù hợp với yêu cầu sử dụng. 1.3.Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại Trong nền kinh tế, các ngân hàng thương mại vứa đóng vai trò là một nơi tập trung vốn, vừa là nơi phân phân phối vốn trong xã hội, vì vậy mà hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại không tồn tại một cách độc lập, mà nó luôn có quan hệ chặt chẽ với các yếu tố khác. Có thể nói hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại, chịu sự tác động của rất nhiều những yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau, các yếu tố này đều trực tiếp, hoặc gián tiếp đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. 1.3.1.Nhân tố chủ quan Nhân tố khách quan là các nhân tố bên trong nội tại các ngân hàng, là các nhân tố ngân hàng hoàn toàn có thể thay đổi. Các nhân tố này có tác động đến tất cả các hoạt động của ngân hàng đặc biệt là hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Các yếu tố chủ quan này bao gồm: - Yếu tố đầu tiên phải kể đến đó chính là năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng có thể là ở quy mô, ở thương hiệu…Các yếu tố này đóng vai trò hết sức quan trong trong việc huy động vốn của ngân hàng, bởi vì nó thể hiện uy tín, lòng tin vào ngân hàng của khách hàng, là sức mạnh trong cạnh tranh của ngân hàng. Đặc biệt trong thời đại như ngày nay, thì vấn để cạnh tranh giữa các ngân hàng lại càng trở lên quan trong hơn bao giờ hết. Bởi vì, trong cơ chế thị trường, các doanh nhiệp đề có vai trò bình đẳng như nhau. Do đó chỉ có doanh nghiệp nào khẳng định được mình và vươn lên thì mới có thể tồn tại được. - Chiến lược kinh doanh của các ngân hàng. Trong mỗi một giai đoạn nhất định thì các ngân hàng thường đề ra một chiến lược kinh doanh nhất định, chiến lược này phải phù hợp với tình hình thực tế của ngân hàng. Đó sẽ là yếu tố quyết định đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Với mỗi một chiến lược kinh doanh khác nhau, thì ngân hàng đồng thời sẽ có một chiến lược huy đông vốn khác nhau sao cho phù hợp với chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Và tất nhiên là với một chiến lược kinh doanh thích hợp, thì công tác huy động vốn sẽ đạt được những thành công. - Nội dung chính sách huy động vốn mà ngân hàng đang áp dụng. Thông thường chính sách huy động vốn sẽ thường xuyên thay đổi theo mục tiêu cụ thể mà ngân hàng theo đuổi, cũng như chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Khi có nhu cầu về vốn lớn, ngân hàng thương mại có thể đưa ra nhiều phương thức huy động vốn khác nhau như lãi suất , cung cấp dịch vụ… - Nhận thức về công tác huy động vốn. Đây là một yếu tố rất quan trọng đối với công tác huy động vốn của ngân hàng. Bởi vì, nếu ngân hàng không có được những nhận thức đúng đắn về vai trò cũng như chức năng của công tác huy động vốn thì vấn đề huy động vốn của ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Và chỉ khi có được những nhận thức đúng đắn về công tác huy động vốn thì ngân hàng mới có thể đưa ra được các chính sách cũng như các biệm pháp huy động vốn cho phù hợp, từ đó công tác huy động vốn sẽ đạt được những thành công như mong muốn. - Cùng với đó thì yếu tố về nhân sự của ngân hàng cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong công tác huy động vốn của ngân hàng. Nguồn nhân lực bên trong ngân hàng chính là yếu tố quyết định đến khả năng, đến năng lực làm việc, cũng như khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ thì năng lực của các nhận viên trong ngân hàng về khả năng nắm bắt các công nghệ mới sẽ có vai trò quyết định trong việc hội nhập với thị trường tài chính quốc tế. Do vậy, ngân hàng cần có các chính sách tuyển trọn, các chính sách đãi ngộ phù hợp để thu hút được nguồn nhân lực có chất lượng cao. - Ngoài ra các yếu tố như: mạng lưới chi nhánh, kinh nghiệm cũng như khả năng của đội ngũ nhân viên ngân hàng, yếu tố về thương hiệu… cũng sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động vốn của ngân hàng. 1.3.2. Nhân tố khách quan Bên cạnh các yếu tố chủ quan bên trong ngân hàng, thì công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại còn chịu sự ảnh hưởng rất lớn của các yếu tố khách quan nằm bên ngoài sự kiểm soát của ngân hàng. - Yếu tố tâm lý của khách hàng : Đây là một yếu tố có ảnh hưởng không nhoe đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng . Thông thường ở các nước phát triển tiên tiến, người dân thường sử dụng các dịch vụ tiện ích của ngân hàng, mà ít khi dùng tiền mặt, do vậy lượng tiền mặt lưu thông trong nền kinh tế là rất nhỏ, điều này sẽ tạo điều kiệm thuận lợi cho hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại. Nhưng ngược lại, ở các nước đang phát triển, người dân vẫn giữ thói quen tiêu dùng tiền mặt trong thanh toán, vì vậy hoạt động huy động vốn của các ngân hàng tại đây sẽ gặp khó khăn. - Đặc điểm tình hình kinh tế xã hội. Nền kinh tế có ổn định, phát triển bền vững, thu nhập bình quân đầu người có cao, trình độ dân chí của dân cư có cao, thì khả năng huy động vốn của ngân hàng mới có thể có điều kiện phát triển tốt. Bởi vì, chỉ khi người dân có thu nhập cao thì họ mới có thể có khả năng chi trả cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày và có nguồn vốn nhán dỗi chưa sử dụng dến dư ra từ thu nhập. Khi đó, họ sẽ nghĩ đến việc cất trữ trong ngân hàng để nhằm mục đích thu lãi, và đảm bảo an toàn. Và bên cạnh đó, người dân chỉ gửi tiền vào ngân hàng khi họ cảm thấu an toàn, tức là khi mà nền kinh tế phát triển ổn định, cùng với sự ổn định về chính trị. Ngược lại, nếu trong một nền kinh tế mà không ổn định, thu nhập, cũng như dân trí thấp thì tất yếu là tiết kiệm của xã hội cũng sẽ thấp, thêm vào đó là tâm lý ưu dùng tiền mặt, người dân chưa thấy hết được các tiện ích mà ngân hàng cung cấp, và điều này sẽ gây rất nhiều những khó khăn cho hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Ngoài ra, hoạt động huy động vốn của ngân hàng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như tỷ lệ lạm phát, sự suy thoái của nền kinh tế, thậm chí là sự phát triển quá nóng của nền kinh tế. - Môi trường pháp lý. Nhà nước luôn đóng vai trò điều tiết vĩ mô toàn bộ hoạt động kinh tế của một quốc gia, nhằm thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Đặc biệt, hoạt động của ngân hàng luôn có tác động rất lớn đến hoạt động của toàn bộ nền kinh tế, nên sẽ chịu sự điều tiết chặt chẽ của các chế tài của pháp luật, và chịu sự điều tiết và quản lý từ phía Ngân hàng Nhà nước. Pháp luật của các quốc gia quy định, trong các trường hợp cần thiết, các ngân hàng thương mại phải tiến hành mua trái phiếu chính phủ do Chính phủ ( mà đại diện là kho bạc nhà nước ) phát hành. Ngoài ra, tại nhiều quốc gia, Ngân hàng Nhà nước còn quy định mức vốn tối đa được phép huy động theo một tỷ lệ nhất định nào đó so với vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại, để đáp ứng các mục tiêu an toàn và an ninh tiền tệ của quốc gia. Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại còn chịu sự điều tiết của nhiều chế tài pháp luật khác, nhiều cơ quan khác. - Trình độ phát triển của thị trường tài chính. Một thị trường tài chính phát triển ở trình độ cao và hiện đại, thì việc động vốn sẽ có thể thực hiện theo nhiều phương thức cũng như nhiều kênh khác nhau. Ngoài ra, trong một thị trường tài chính hiện đại thì vấn đề thông tin đến với các doanh nghiệp sẽ có khả năng đầy đủ và kịp thời hơn. Và đó sẽ là điều kiện rất tốt cho hoạt động huy động vốn của các ngân hàng. - Môi trường cạnh tranh. Quá trình cạnh tranh trong hoạt động của các ngân hàng thương mại được bắt đầu ngay từ khi ngân hàng được ra đời. Đặc biệt trong giai đoạn hội nhập mạnh mẽ như ngày nay thì vấn đề cạnh tranh càng trở lên khốc liệt hơn bao giờ hết. Sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các ngân hàng mà còn bao gồm cả các tổ chức tín dụng, các công ty tài chính, các công ty cho thuê tài chính, và các loại hình dịch vụ mà các tổ chức khác cung cấp. Các yếu tố này sẽ có các tác động rất lớn tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng, điều này đòi hỏi các ngân hàng phải có các chính sách huy động vốn phù họp với tình hình thị trường. Như vậy, ta có thể thấy rằng hoạt động của các ngân hàng chịu sự tác động của rất nhiều các yếu tố khác nhau bao gồm cả các yếu tố khác quan, cũng như các yếu tố chủ quan. Các yếu tố này sẽ có các tác động ở nhiều mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn, tưng thời kỳ, cũng như tình hình cụ thể của thị trường. Do vậy đòi hỏi các ngân hàng phảo có các chính sách cũng như các biệm pháp huy động vốn cho phù hợp với điều kiện và tình hình cụ thể. CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHNN&PTNT VIỆT NAM CHI NHÁNH NAM HÀ NỘI 2.1. Khái quát về NHNN&PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội 2.1.1.Lịch sử hình thành và phát triển Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật trong những năm qua, nền kinh tế thế giới đã đạt được những bước tiến mạnh mẽ. Hoà vào cùng với sự phát triển đó, với những lỗ lực của mình, nền kinh tế Việt Nam cũng đã đạt được rất nhiều những thành tựu đáng kể. Và cùng với su thế hội nhập chung của thế giới, Việt Nam đang từng bước phát huy tối đa nội lực để bắt nhịp với sự phát triển kinh tế của thế giới. Sự hội nhập kinh tế thế giới đòi hỏi thị trường tài chính trong nước, đặc biệt là ngành ngân hàng phải có những cải cách quan trọng cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Trong cơ chế kinh tế tập chung bao cấp, các ngân hàng trong nước được tổ chức theo mô hình của các ngân hàng chuyên doanh. Bước sàng thời kỳ đổi mới kinh tế, để đáp ứng nhu cầu của thị trường các ngân hàng cần đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, đồng thời mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài. Đó sẽ là điều kiện quan trọng giúp cho ngân hàng tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường trong nước cũng như thế giới. Do vậy các ngân hàng tại Việt Nam cũng từng bước chuyển sang mô hình ngân hàng đa năng, thực hiện cung cấp tất cả các dịch vụ của ngân hàng: các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, mở rộng cho vay xây dựng cơ bản, cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn…ngoài ra các ngân hàng còn tham gia vào lĩnh vực bảo hiểm và chứng khoán dưới hình thức thành lập các công ty con như: công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán. Nhiều ngân hàng còn tiến hành liên doanh với các ngân hàng nước ngoài để mở các chi nhánh tại nhiều địa điểm khác nhau nhằm phát triển mạng lưới chi nhánh trong nước cũng như quốc tế. Hoà nhập cùng với xu thế tất yếu đó, ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã không ngừng lỗ lực để nâng cao công nghệ cũng như trình độ của cán bộ công nhân viên trong hệ thống, đồng thời mở rộng mạng lưới chi nhánh trên toàn quốc. Ban lãnh đạo ngân hàng nhận thấy khu vực phía Nam Hà Nội là một thị trường đầy tiềm năng, cho lên ban lãnh đạo ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã ra quyết định 48/QĐ-HĐQT ngày 12/3/2001 về việc thành lập chi nhánh Nam Hà Nội, và được chinh thức khai trương vào đi vào hoạt động ngày 08/5/2001 với đội ngũ cán bộ công nhân viên ban đầu là 36 người và đến nay là 95 cán bộ. Chi nhánh có trụ sở tại khu nhà C3, phường Phương Liệt, quận Thanh Xuân thành phố Hà Nội, phạm vi hoạt động chủ yếu là trên địa bàn quận Thanh Xuân và các quân nội thành Hà Nội. Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước về việc thực hiện công nghiệp háo hiện đại hoá nông thôn, trong những năm qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội đã có rất nhiều đóng góp cho sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn bằng các hình thức đầu tư tín dụng. Trong những năm đầu thành lập, Chi nhánh mặc dù gặp không ít những khó khăn, nhưng vẫn đạt được những bước tiến quan trọng. Và trong thời gian tới, Chi nhánh vẫn không ngừng đổi mới và phục vụ ngày càng tốt hơn cho sự nghiệp phát triển nông thôn và hội nhập kinh tế 2.1.2.Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh 2.1.2.1.Tổ chức biên chế bộ máy và cơ cấu cán bộ của Chi nhánh Tổng số cán bộ đến ngày 31/12/2005của toàn Chi nhánh là 112 lao động và được xếp theo sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Nam Hà Nội Hội sở Phòng thanh toán quốc tế Phòng kế toán ngân quỹ Phòng thẩm định Phòng hành chính nhân sự Phòng tín dụng Phòng nguồn vốn và kế hoạch tổng hợp Tổ kiểm tra thanh toán nội bộ Ban lãnh đạo Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội CN Nam Đô PGD số 4 PGD số 5 PGD số 6 CN Tây Đô CN Giảng Võ 2.1.2.2.Chức năng, nhiệm vụ của NHNN&PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội Chức năng: cũng như các ngân hàng thương mại khác NHNP&PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội cũng có các chức năng cơ bản sau đây: Là một tổ chức trung gian tài chính hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Tạo phương tiện thanh toán. Khi ngân hàng cho vay số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của ngân hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng hoá dịch vụ. Đóng vai trò là trung gian thanh toán . Thay mặt khách hàng, ngân hàng thanh toán giá trị hàng hoá dịch vụ. Bên cạnh đó còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Nhiệm vụ: khai thác thị trường phía Nam Hà Nội và thực hiện chương trình của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam 2.1.2.3.Nghiệp vụ kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu sau đây: Nhận tiền gửi. Đây là một trong những hoạt động đầu tiên của các ngân hàng thương mại từ khi hình thành. Trên cơ sở ngân hàng mở các tài khoản nhận tiền gửi cho khách hàng với cam kết trả đúng hạn, và cam kết trả cho khách hàng một khoản tiền lãi ( hay là chi phí đánh đổi cho việc sử dụng vốn ). Cho vay. Ngân hàng có nhiều cách thức để huy động vốn khác nhau. Và khi đã huy động được vốn, thì một trong những phương thức đem lại lợi nhuận cho ngân hàng là cho vay. Đó là hình thức mà ngân hàng sẽ cho các cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu về vốn vay với một lãi suất cao hơn chi phí mà ngân hàng bỏ ra để huy động vốn, từ đó ngân hàng sẽ thu được khoản chênh lệch về lãi suất. Nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ mang lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng thương mại. Mua bán ngoại tệ. Đây sẽ là hoạt động mang đầy tính tiềm năng cho các ngân hàng đặc biệt là trong su thế hội nhập như hiên nay. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng sẽ tiến hành sẽ mua một loại tiền này để đổi lấy một loại tiên khác và hưởng khoản chênh lệch, cũng như phí dịch vụ. Bảo quản vật có giá. Ngân hàng sẽ tiến hành giữ hộ khách hàng các vật có giá như vàng bạc và các tài sản có giá khác, và thu được các khoản phí. Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế: chuyển tiền, nhờ thu, mở và thanh toán L/C phục vụ khách hàng trong và ngoài nước. Tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ Thực hiện các chương trình dự án của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Cung cấp các dịch vụ khác như: môi giới chứng khoán, bảo hiểm, dịch vụ đại lý, dịch vụ bảo lãnh… 2.1.3. Sơ lược về hoạt động kinh doanh của Chi nhánh năm 2005. 2.1.3.1. Nguồn vốn. Bảng 2: Kết quả nguồn vốn của Chi nhánh Đơn vị: triệu VNĐ STT CHỈ TIÊU 2005 CƠ CẤU Tăng giảm sơ với 2004 TĐ % ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5532.doc