Lời mở đầu
Hoàn thuế GTGT được triển khai từ đầu năm 1999 cùng với việc áp dụng Luật thuế GTGT nhằm giải quyết một phần khó khăn của doanh nghiệp khi đầu tư, thực hiện các chiến lược thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu. Sau hơn 3 năm thực hiện, bên cạnh tính ưu việt, cơ chế hoàn thuế đầu vào đã bộc lộ không ít nhược điểm, tạo kẽ hở cho sự gian lận chiếm đoạt tiền hoàn thuế của NSNN.
Năm 2002 thực sự là năm của những vấn đề về hoàn thuế GTGT phát sinh và được công luận quan tâm chú ý. Sau một số
62 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1295 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác hoàn thuế giá trị gia tăng đối với các Doanh nghiệp ngành Giao thông - Xây dựng trên địa bàn Thành Phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vụ việc gian lận hoàn thuế lớn hàng trăm tỷ đồng bị phát hiện, các nhà hoạch định chính sách đã đặc biệt quan tâm nghiên cứu những hạn chế của nghiệp vụ hoàn thuế. Với chỉ thị 19/2002/CT-TTg ngày 13/09/2002, thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo cả bộ máy nhà nước tấn công vào lĩnh vực gian lận hoàn thuế GTGT. Các văn bản của Chính phủ, Bộ Tài Chính ban hành sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm tăng cường công tác quản lý, chống thất thoát qua hoàn thuế đã được triển khai thi hành. Chính từ thực tiễn này, chúng ta mới nhận thấy rằng hoàn thuế và chống gian lận hoàn thuế GTGT đã trở thành một vấn đề hết sức nóng bỏng và nan giải.
Hoàn thành trong đầu năm 2003, đề tài “Hoàn thiện công tác hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngành Giao thông-Xây dựng trên địa bàn Thành Phố Hà Nội” có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, góp phần vào việc đi tìm giải pháp cho vấn đề hoàn thuế GTGT hiện nay.
Luận văn tốt nghiệp “Hoàn thiện công tác hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngành Giao thông-Xây dựng trên địa bàn Thành Phố Hà Nội” do sinh viên Vũ Hồng Hạnh thực hiện, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo Nguyễn Thị Liên. Luận văn nghiên cứu những lý luận chung về hoàn thuế GTGT, thực trạng công tác hoàn thuế trong ngành Xây dựng-Giao thông, những tác dụng tích cực và hạn chế trong quá trình thực hiện và đề xuất một số giải pháp có tính khả thi phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội trên địa bàn Hà Nội hiện nay.
Nội dung nghiên cứu được tập trung trong 3 chương
Chương I : Hoàn thuế và hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngành Giao thông-Xây dựng
Chưong II : Thực trạng công tác hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngành Giao thông-Xây dựng trên đại bàn Thành Phố Hà Nội
Chương III : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngành Giao thông-Xây dựng.
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn: Nhà giáo tiến sĩ Nguyễn Thị Liên, các thầy cô giáo trong bộ môn Thuế Nhà nước ; Ông Nguyễn Văn Chính-Trưởng phòng thuế Giao thông, bà Phạm thị Hiền-Phó phòng thuế Giao thông, chú Cao Văn Thắng, cô Nguyễn Thanh Hương, và các cán bộ phòng thuế Giao thông-cục thuế Hà Nội về sự giúp đỡ tận tình, sự hướng dẫn quý báu trong quá trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Do thời lượng nghiên cứu không nhiều, trình độ và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả luận văn rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc. Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2002
Sinh viên
Vũ Hồng Hạnh
Chương I: hoàn thuế và hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngành giao thông - xây dựng trên địa bàn TP hà nội
Khái quát về hoàn thuế và hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngành Giao Thông-Xây Dựng
1.1.1 khái quát chung về hoàn thuế
1.1.1.1 Khái niệm
Thuế và Nhà nước là hai cặp phạm trù gắn bó hữu cơ với nhau. Lịch sử phát triển của loài người đã chứng minh, thuế ra đời là một sự cần thiết khách quan gắn liền với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Với hai chức năng chủ yếu là đảm bảo nguồn thu cho NSNN và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thuế được các quốc gia trên thế giới sử dụng như một công cụ quản lý kinh tế hữu hiệu.
Khi xây dựng một hệ thống thuế, thách thức lớn nhất với những nhà hoạch định chính sách là làm thế nào người nộp thuế cảm nhận được sự công bằng, mà vẫn đảm bảo số thu cần thiết. Vì thế, mỗi nội dung, phương diện của một sắc thuế cần được nghiên cứu kỹ lưỡng và điều chỉnh kịp thời. Hoàn thuế là một nội dung đang được quan tâm trong các sắc thuế hiện hành ở Việt Nam.
Hoàn thuế là việc NSNN hoàn trả cho đối tượng nộp thuế (ĐTNT) khoản thuế đã nộp theo những điều kiện nhất định trong các luật thuế.
Thông thường, hoàn thuế được thực hiện trong các trường hợp sau:
- ĐTNT nộp quá số thuế phải nộp theo quy định do có sự nhầm lẫn, sai sót trong tính toán số thuế phải nộp
- ĐTNT đã nộp thuế nhưng trên thực tế không phát sinh hoạt động chịu thuế hay có phát sinh nhưng mức độ thấp hơn.
- ĐTNT đã nộp thuế thừa, sau đó không còn tồn tại tư cách pháp nhân (chia tách, giải thể, hợp nhất…).
- ĐTNT GTGT theo phương pháp khấu trừ có số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra trong các trường hợp do pháp luật thuế GTGT quy định được xét hoàn thuế.
- ĐTNT được hưởng các ưu đãi đặc biệt theo quy định của pháp luật.
Khi các ĐTNT có đủ điều kiện, NSNN sẽ tiến hành hoàn thuế theo hai cách:
- Cho phép trừ vào số thuế phải nộp kỳ sau của ĐTNT.
- Cấp hoàn trả cho ĐTNT số thuế được hoàn.
Mục đích của hoàn thuế
Cơ chế hoàn thuế cho các đối tượng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau được quy định trong từng Luật thuế như thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế xuất nhập khẩu, thuế TNDN. Hoàn thuế nhằm mục đích :
Đảm bảo công bằng về nghĩa vụ nộp thuế cho các ĐTNT
Về nguyên tắc, tất cả ĐTNT có nghĩa vụ phải nộp thuế đầy đủ và đúng hạn theo quy định. Trong trường hợp nộp thừa thuế do kê khai nhầm, không phát sinh hoạt động chịu thuế hay có phát sinh nhưng ở mức độ thấp hơn, Nhà nước sẽ hoàn lại số thuế nộp quá quy định cho ĐTNT. Việc hoàn lại số thuế đã nộp thừa nhằm đảm bảo sự công bằng giữa các ĐTNT, đồng thời thực hiện đúng nghĩa vụ theo luật định.
VD : Luật thuế xuất nhập khẩu quy định đối với các trường hợp ĐTNT nhầm lẫn trong kê khai thì được hoàn trả tiền nộp thuế thừa trong thời hạn một năm về trước kể từ ngày kiểm tra phát hiện. Ngoài ra, các hàng hóa chịu thuế TTĐB xuất khẩu đã nộp thuế xuất khẩu nhưng không xuất nữa hoặc các hàng hóa chịu thuế TTĐB đã nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu những thực tế xuất, nhập khẩu ít hơn đều được xét hoàn thuế.
Giảm bớt khó khăn về tài chính cho ĐTNT
Vốn là máu của doanh nghiệp. Một ý tưởng dù hay đến đâu cũng cần có tiền để biến ý tưởng đó thành lợi nhuận. Cần phải có đủ vốn để tổ chức một doanh nghiệp, đảm bảo các công trình cần thiết, máy móc và thiết bị, mua nguyên vật liệu, đáp ứng những chi phí quảng cáo và tiêu thụ, chi trả nhân công và trang trải vô số chi phí khác phát sinh trong quá trình hình thành một doanh nghiệp. Ngoài ra cũng cần có đủ vốn để tiến hành kinh doanh, đạt được mục tiêu mong muốn và không ngừng phát triển trong tương lai.
Không chỉ khi mới bắt đầu hình hành sản xuất, doanh nghiệp phải ứng trước một lượng vốn nhất định khi chưa có doanh thu, mà trong suốt quá trình hoạt động sau này, vốn sản xuất cũng bị ứ đọng ở các khâu: dự trữ nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm… Nhằm trợ giúp các doanh nghiệp đầu tư mở rộng kinh doanh, Nhà nước thực hiện hoàn thuế tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu hồi vốn đã ứng trước.
VD : Luật thuế GTGT quy định các cơ sở kinh doanh trong 3 tháng liên tục trở lên (không phân biệt niên độ kế toán) có lũy kế số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra được hoàn thuế. Số thuế được là số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết của thời gian xin hoàn thuế.
Thực hiện các định hướng phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước
Nhằm ưu đãi hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, Nhà nước cho phép hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp cho các nhà đầu tư nước ngoài dùng thu nhập được chia để tái đầu tư.
Ngoài ra, những hàng hóa được mua để sử dụng cho mục đích nhân đạo cũng được xét hoàn thuế. Luật thuế GTGT quy định tổ chức Việt Nam dùng tiền viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại của tổ chức cá nhân nước ngoài để mua hàng hóa tại Việt Nam thì được hoàn lại tiền thuế GTGT đã trả ghi trên hóa đơn mua hàng.
Trên nguyên tắc, thuế gián thu không điều tiết với những hàng hóa xuất khẩu (là những hàng hóa được sản xuất trong nước nhưng sẽ tiêu dùng ở nước ngoài). Vì vậy, toàn bộ số thuế đầu vào nằm trong hàng hóa này sẽ được xét hoàn lại. Nhằm khuyến khích hoạt động xuất khẩu, Nhà nước áp dụng mức thuế suất 0% cho những hàng hóa xuất khẩu. Đây là một lợi thế rất lớn cho các đơn vị xuất khẩu khi không phải nộp thuế đầu ra, lại được hoàn toàn bộ số thuế đầu vào. Các yếu tố đầu vào (như nguyên vật liệu, máy móc thiết bị…) không chịu gánh nặng của thuế sẽ tạo nên chi phí sản phẩm thấp hơn mức thông thường. Doanh nghiệp có thể tận dụng nguồn vốn để sản xuất với số lượng lớn hơn, nâng cao chất lượng, hạ giá thành của sản sản phẩm. Điều này nâng cao khả năng cạnh tranh về giá của các sản phẩm xuất khẩu, tạo chỗ đứng và uy tín cho doanh nghiệp trên thị trường trong nước, quốc tế.
1.1.2 hoàn thuế GTGT
1.1.2.1 Khái niệm
Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) được quốc hội khóa IX thông qua ngày 10/05/1997 tại kỳ họp thứ 11, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999, thay cho Luật thuế Doanh thu.
Thuế GTGT là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được nộp vào NSNN theo mức độ tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.
Sau hơn 3 năm thực hiện, Luật đã thực sự đi vào đời sống kinh tế-xã hội và chứng tỏ tính ưu việt của mình: Tránh được sự đánh thuế trùng lắp; Thúc đẩy sự phát triển của sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; Khuyến khích hoạt động xuất khẩu hàng hóa; Đảm bảo nguồn thu thường xuyên và ổn định cho NSNN…
Hoàn thuế GTGT là việc ngân sách Nhà nước trả lại cho ĐTNT số tiền thuế GTGT đầu vào đã trả khi mua hàng hóa, dịch vụ mà ĐTNT chưa được khấu trừ trong kỳ tính thuế.
Một số nguyên nhân dẫn đến số thuế GTGT đầu vào lớn hơn số thuế GTGT đầu ra (hiện tượng thuế âm):
Việc quy định áp dụng thuế suất đầu ra là 0% đối với các hàng hóa xuất khẩu, trong khi đầu vào nằm trong các sản phẩm đã có thuế, vì vậy dẫn đến hiện tượng thuế âm.
Do sự chênh lệch về thuế suất giữa nguyên liệu đầu vào và hàng hóa, dịch vụ bán ra, cụ thể là thuế suất đầu vào lớn hơn thuế suất đầu ra.
VD: Đối với hoạt động xây dựng lắp đặt, thuế suất thuế GTGT quy định cho giá trị xây lắp và giá trị thiết bị cung cấp là 5% (đầu ra), nhưng thuế suất của hầu hết các nguyên vật liệu đầu vào là 10%.
Do sự không trùng hợp giữa thời gian nhập hàng với thời gian xuất bán, hiện tượng này xảy ra chủ yếu đối với các loại hàng hóa mang tính thời vụ.
Do sự biến động của thị trường dẫn đến hiện tượng giảm giá làm cho số thuế thu trước vượt quá số thuế thực phải thu. Nguyên nhân này một phần xuất phát từ nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu và các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp.
Do doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa hoặc có nhận ủy thác nhập khẩu với số lượng lớn nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa chịu thuế GTGT, trong thời gian chưa đến kỳ tiêu thụ, sẽ làm cho số thuế GTGT đầu vào hàng nhập khẩu lớn hơn số thuế GTGT đầu ra phải nộp.
1.1.2.2 Quy định về đối tượng và các trường hợp được xét hoàn thuế, hồ sơ hoàn thuế
Luật thuế GTGT quy định có 7 trường hợp cơ quan Thuế phải tiến hành các thủ tục hoàn thuế cho đối tượng nộp thuế, đó là :
(1) Cơ sở kinh doanh thuộc ĐTNT theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế trong các trường hợp có lũy kế số thuế đầu vào được khấu trừ âm trong 3 tháng liên tục, kể cả do xuất khẩu hay kinh doanh trong nước.
Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hóa xuất khẩu nếu số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ từ 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế theo tháng, hay chuyến hàng ( nếu xác định được thuế GTGT đầu vào riêng của chuyến hàng ).
Đối với cơ sở mới thành lập, đầu tư tài sản mới đã đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ nhưng chưa phát sinh doanh thu bán hàng để tính thuế GTGT đầu ra, nếu thời gian đầu tư từ 1 năm trở lên được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn có giá trị lớn từ 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế theo từng quý.
Hồ sơ hoàn thuế quy định cho trường hợp (1) và (2) như sau
Công văn đề nghị hoàn thuế GTGT nêu rõ lý do hoàn thuế, số thuế đề nghị hoàn, thời gian hoàn…
Bảng kê khai tổng hợp số thuế phát sinh đầu ra, số thuế đầu vào được khấu trừ, số thuế đã nộp (nếu có), số thuế đầu vào lớn hơn đầu ra đề nghị hoàn lại.
Bảng kê hàng hóa, dịch vụ mua vào, bán ra trong kỳ liên quan đến việc xác định thuế GTGT đầu vào, đầu ra.
Trường hợp hoàn thuế cho hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, hoạt động xây dựng, lắp đặt công trình ở nước ngoài và của doanh nghiệp chế xuất thì phải có bảng kê các hồ sơ có chữ ký và đóng dấu của cơ sở.
Bao gồm:
+ Số, ngày tờ khai xuất khẩu của hàng hóa xuất khẩu hay hợp đồng xuất khẩu, hợp đồng ủy thác xuất khẩu.
+ Số, ngày chứng từ thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, hoạt động xây dựng lắp đắt công trình ở nước ngoài và của doanh nghiệp chế xuất qua Ngân hàng, ghi rõ hình thức và đồng tiền thanh toán.
+ Số, ngày biên bản thanh lý hợp đồng ủy thác xuất khẩu.
+ Xuất khẩu hàng hóa theo đường biên giới đất liền, đường biển, đường hàng không, tên nước nhập khẩu.
Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản có thuế GTGT nộp thừa, cơ sở có quyền đề nghị cơ quan Thuế hoàn lại số thuế GTGT nộp thừa.
Hồ sơ hoàn thuế quy định cho trường hợp (3) như sau
Công văn đề nghị hoàn thuế GTGT nộp thừa vào NSNN.
Quyết định sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản của cấp có thẩm quyền.
Quyết toán thuế GTGT đến thời điểm sáp nhập, giải thể.
(4) Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
(5) Hoàn thuế GTGT đã trả đối với các dự án sử dụng nguồn vốn ODA
- Chủ dự án sử dụng vốn ODA không hoàn lại mua hàng hóa, dịch vụ từ các nhà cung cấp trong nước có thuế GTGT để sử dụng cho các dự án này.
Nhà thầu chính thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế sử dụng vốn ODA không hoàn lại cung cấp các hàng hóa, dịch vụ cho các dự án sử dụng vốn ODA không hoàn lại không phải tính thuế GTGT đầu ra nhưng được tính khấu trừ hoặc hoàn thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ mua trong nước có thuế GTGT.
Hồ sơ hoàn thuế quy định cho trường hợp (5) như sau
Hồ sơ quy định cho trường hợp (1).
Quyết định đầu tư của cơ quan có thẩm quyền.
Xác nhận bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền về dự án sử dụng nguồn vốn ODA không hoàn lại (hoặc sử dụng nguồn vốn ODA vay thuộc diện được NSNN đầu tư không hoàn trả) thuộc đối tượng được hoàn thuế GTGT.
(6) Tổ chức ở Việt Nam sử dụng tiền viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại của tổ chức, cá nhân nước ngoài để mua hàng hóa tại Việt Nam thì được hoàn lại tiền thuế GTGT đã trả ghi trên hóa đơn GTGT khi mua hàng.
Hồ sơ hoàn thuế quy định cho trường hợp (6) như sau
Hồ sơ quy định cho trường hợp (1).
Bản sao quyết định phê duyệt các khoản viện trợ của cấp có thẩm quyền theo quy định.
Văn bản xác nhận của Ban quản lý tiếp nhận viện trợ bộ Tài Chính về khoản tiền viện trợ của tổ chức phi Chính phủ nước ngoài, tổ chức viện trợ, giá trị khoản viện trợ, cơ quan tiếp nhận, quản lý tiền viện trợ.
Đối tượng được hưởng ưu đãi miễn trừ ngoại giao mua hàng hóa, dịch vụ tại Việt Nam được hoàn lại số thuế GTGT đã trả ghi trên hóa đơn GTGT. Cơ sở kinh doanh tại Việt Nam bán hàng hóa, dịch vụ cho đối tượng nàykhi lập hóa đơn tính thuế GTGT vẫn phải tính thuế GTGT.
1.1.2.3 Phân loại đối tượng hoàn thuế
Nhằm hạn chế những gian lận về hoàn thuế GTGT và ngăn chặn tình hình NSNN bị chiếm đoạt nghiêm trọng qua hoàn thuế GTGT trong thời gian gần đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2002/NĐ-CP ngày 13/09/2002 sửa đổi bổ sung Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000. Bên cạnh đó, Bộ Tài Chính đã ban hành thông tư số 82/2002/TT-BTC ngày 18/09/2002 sửa đổi bổ sung thông tư số 122/2000/TT-BTC ngày 29/12/2000.
Khác với các văn bản được ban hành trước đây, thông tư số 82/2002/TT-BTC đã có sự thay đổi lớn về cách thức hoàn thuế GTGT, quy định chặt chẽ hơn nhằm chống hoàn thuế GTGT khống, hạn chế thất thoát NSNN. Thay vì cách thức hoàn thuế trước kiểm tra sau thông thường, việc hoàn thuế GTGT sẽ được tiến hành theo hai phương thức : “hoàn thuế trước, kiểm tra sau” và “kiểm tra, thanh tra trước khi hoàn thuế”
Theo thông tư số 82/2002/TT-BTC đối tượng hoàn thuế được phân loại như sau :
Đối tượng áp dụng kiểm tra, thanh tra trước khi hoàn thuế
Cơ sở kinh doanh mới thành lập có thời gian kinh doanh dưới 1 năm, đề nghị hoàn thuế lần đầu.
Cơ sở kinh doanh đã có các hành vi vi phạm gian lận về thuế GTGT như sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp; Bán hàng hóa, dịch vụ không lập hóa đơn, không kê khai nộp thuế GTGT; Hàng hóa bán trong nước nhưng kê khai là xuất khẩu để hưởng thuế suất 0%; Các hành vi gian lận khác nhằm chiếm đoạt tiền thuế của NSNN…
Đối với các trường hợp có hành vi gian lận về thuế GTGT, sau thời gian 12 tháng nếu đã chấp hành tốt các quy định của Luật thuế, chế độ quản lý sử dụng hóa đơn, chứng từ sẽ được áp dụng hoàn thuế trước, kiểm tra sau. Cơ quan Thuế sẽ xem xét cụ thể các trường hợp này.
Cơ sở kinh doanh xuất khẩu hàng hóa là nông sản, lâm sản, thủy hải sản chưa qua chế biến theo đường biên giới đất liền.
Cơ sở kinh doanh chia tách, giải thể, phá sản.
Đối tượng áp dụng hoàn thuế trước, kiểm tra sau
Là các đối tượng không thuộc 4 nhóm quy định áp dụng kiểm tra, thanh tra trước khi hoàn thuế đã nêu trên.
1.1.2.4 Quy trình quản lý hoàn thuế GTGT
Quy trình quản lý hoàn thuế là một yếu tố quan trọng của công tác hoàn thuế. Mới đây, nhằm quản lý chặt chẽ, chống thất thoát trong hoàn thuế GTGT, Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế đã ban hành quyết định 1329/TCT/QĐ/NV1 ngày 18/09/2002 quy định rõ trách nhiệm của các bên trong quy trình quản lý hoàn thuế GTGT.
Trách nhiệm của đối tượng đề nghị hoàn thuế
Người đại diện hợp pháp của đối tượng được hoàn thuế phải ký, gửi đơn đề nghị hoàn thuế kèm đầy đủ hồ sơ theo quy định cho Cơ quan Thuế trực tiếp quản lý.
Ngoài hồ sơ gửi đến Cơ quan Thuế theo quy định, các tài liệu, hồ sơ khác liên quan đến hoàn thuế, đối tượng được hoàn thuế phải lưu giữ đầy đủ ở cơ sở. Đối tượng được hoàn thuế phải cung cấp các tài liệu liên quan đến hoàn thuế khi Cơ quan Thuế yêu cầu.
Đối tượng đề nghị hoàn thuế chịu trách nhiệm trước Pháp luật về tính chính xác, trung thực của số liệu đã kê khai với Cơ quan Thuế.
Trách nhiêm của Cơ quan Thuế
Tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế
Cơ quan Thuế trực tiếp quản lý đối tượng được hoàn thuế GTGT có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế theo đúng quy trình, thủ tục hành chính. Khi nhận hồ sơ, bộ phận hành chính phải ghi rõ ngày nhận hồ sơ, đóng dấu công văn đến, chuyển hồ sơ cho bộ phận quản lý trong ngày, chậm nhất là ngày làm việc tiếp theo.
Kiểm tra thủ tục, hồ sơ hoàn thuế
Khi nhận hồ sơ do bộ phận hành chính chuyển sang, bộ phận quản lý thực hiện kiểm tra các nội dung :
Kiểm tra thủ tục hồ sơ hoàn thuế theo quy định tại các văn bản pháp luật về thuế GTGT.
Kiểm tra về đối tượng và trường hợp đề nghị hoàn thuế.
Kiểm tra các chỉ tiêu, số liệu tổng hợp và chi tiết liên quan đến số thuế GTGT đề nghị hoàn trên hồ sơ của đối tượng.
Trường hợp kiểm tra hồ sơ hoàn thuế nếu thấy chưa lập đầy đủ, đúng quy định, Cơ quan Thuế phải thông báo bằng văn bản yêu cầu đối tượng hoàn thuế bổ sung.
Phân loại đối tượng hoàn thuế
Đối với hồ sơ hoàn thuế lập đầy đủ, đúng quy định, bộ phận quản lý phận loại đối tượng hoàn thuế theo quy định.
Kiểm tra xác định số thuế được hoàn
Đối tượng áp dụng hoàn thuế trước, kiểm tra sau
Đối chiếu số liệu liên quan giữa số thuế GTGT đề nghị hoàn; Biểu kê khai tổng hợp thuế GTGT đầu ra; thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và chưa được khấu trừ hết với Tờ khai nộp thuế GTGT tháng; quyết toán thuế của năm có liên quan, các bảng kê chi tiết hóa đơn hàng hóa, dịch vụ mua vào bán ra…
Đối tượng áp dụng kiểm tra thanh tra trước khi hoàn thuế
Căn cứ vào kết quả kiểm tra, thanh tra, quyết định xử lý vi phạm (nếu có), nếu đối tượng đã thực hiện các quyết định xử lý vi phạm của Cơ quan Thuế thì phòng Quản lý thu trình lãnh đạo Cục Thuế ra quyết định hoàn thuế theo số thuế được hoàn xác định lại qua kiểm tra, thanh tra.
Ra quyết định hoàn thuế
Lãnh đạo cục Thuế căn cứ hồ sơ hoàn thuế của phòng quản lý thu, phòng nghiệp vụ thuế trình để ra quyết định hoàn thuế.
Thời gian xử lý hoàn thuế là 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, đúng quy định đến khi ra quyết định hoàn thuế; riêng với đối tượng sử dụng vốn ODA thời gian là 3 ngày. Trường hợp cần kiểm tra, thanh tra xác minh trước hoàn thuế, thời gian tối đa là 60 ngày.
Lưu hành quyết định hoàn thuế
Lập chứng từ ủy nhiệm chi hoàn thuế
Phòng kế hoạch tổng hợp căn cứ vào Quyết định hoàn thuế lập ủy nhiệm chi hoàn thuế gửi Kho bạc Nhà nước tỉnh, thành phố.
8. Lập danh sách đối tượng được hoàn thuế, điều chỉnh số thuế GTGT phải nộp của đối tượng được hoàn thuế
Phòng quản lý thu, phòng nghiệp vụ lập danh sách kết quả hoàn thuế theo mẫu quy định chuyển cho phòng xử lý thông tin và tin học, phòng này sẽ điều chỉnh số thuế phải nộp cho kỳ tính thuế sau.
Hạch toán tổng hợp, báo cáo số thuế đã hoàn
10.Lưu hồ sơ hoàn thuế
Kiểm tra, thanh tra hoàn thuế tại cơ sở
Trình tự hoạt động thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế được tiến hành theo từng bước, quy định chặt chẽ trong luật. Gồm:
Đối tượng kiểm tra thanh tra
Ra quyết định kiểm tra thanh tra
Nội dung kiểm tra thanh tra: Kết thúc kiểm tra thanh tra, đoàn thanh tra tiến hành lập biên bản về nội dung đã kiểm tra, thanh tra và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận của mình.
Xử lý kết quả kiểm tra thanh tra: Trường hợp phát hiện kê khai khấu trừ thuế, hoàn thuế không đúng, Cơ quan Thuế sẽ truy thu kịp thời vào NSNN. Trường hợp vi phạm nghiêm trọng phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Pháp luật, cơ quan Thuế lập đầy đủ hồ sơ theo quy định chuyển cho các cơ quan chức năng xử lý.
Trách nhiêm của Kho bạc Nhà nước
Kho bạc Nhà nước các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện chi hoàn thuế cho các đối tượng trong thời gian 3 ngày kể từ ngày nhận được quyết định hoàn thuế và ủy nhiệm chi của Cơ quan Thuế.
Hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngành Giao Thông-Xây Dựng
1.2.1 Đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của ngành Giao Thông-Xây Dựng
Ngành Xây Dựng
Xây dựng là một trong những ngành sản xuất vật chất lớn nhất của nền kinh tế quốc dân, có nhiệm vụ tái sản xuất các tài sản cố định cho mọi lĩnh vực sản xuất của đất nước. Hàng năm, ngành xây dựng sử dụng một lượng vốn lớn của xã hội và cũng đóng góp đáng kể vào giá trị tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Công tác quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực này ngày càng được coi trọng.
Đặc điểm của sản phẩm xây dựng có ảnh hưởng rất lớn đến tổ chức sản xuất và quản lý kinh tế trong xây dựng, làm cho công việc này có những sắc màu riêng không giống với các ngành sản xuất vật chất khác. Sản phẩm xây dựng với tư cách là một công trình xây dựng hoàn chỉnh thường có các tính chất sau :
Sản phẩm của xây dựng là những công trình nhà cửa được xây dựng và sử dụng tại chỗ, đứng cố định tại địa điểm xây dựng và phân bố tản mạn ở nhiều nơi trên lãnh thổ. Đặc điểm này làm cho sản xuất xây dựng có tính chất lưu động cao và thiếu ổn định.
Sản phẩm xây dựng phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện địa phương, mang nhiều tính đa dạng và cá biệt cao về công dụng, về cách cấu tạo và phương pháp chế tạo.
Sản phẩm xây dựng thường có kích thước lớn, chi phí lớn, thời gian xây dựng và sử dụng lâu dài. Do đó, những sai lầm về xây dựng có thể gây nên lãng phí lớn, tồn tại lâu dài và khó sửa chữa.
Sản phẩm xây dựng chủ yếu đóng vai trò nâng đỡ và bao che, không tác động trực tiếp lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất (trừ một số loại công trình đặc biệt như đường ống, công trình thủy lực, lò gang thép…)
Sản phẩm xây dựng có liên quan đến nhiều ngành cả về phương diện cung cấp nguyên vật liệu và cả phương diện sử dụng sản phẩm của xây dựng làm ra. Sản phẩm xây dựng mang tính chất tổng hợp về kỹ thuật, kinh tế, xã hội, văn hóa, nghệ thuật và quốc phòng.
Vì các sản phẩm xây dựng thường rất lớn và phải xây dựng trong nhiều năm nên để phù hợp với công tác thanh quyết toán tài chính, cần phân biệt sản phẩm trung gian và sản phẩm cuối cùng của xây dựng. Sản phẩm trung gian có thể là các công việc xây dựng , các giai đoạn và đợt xây dựng đã hoàn thành và bàn giao. Sản phẩm cuối cùng ở đây là công trình hay hạng mục công trình xây dựng hoàn chỉnh và có thể bàn giao đưa vào sử dụng.
Ngành Giao Thông
Giao thông vận tải là một trong những ngành trọng yếu của cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, là ngành sản xuất vật chất thúc đẩy sự phát triển và phân bố lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội.
Giao thông vận tải là điều kiện tất yếu, không thể thiếu được của sự hình thành thị trường và phát triển kinh tế. Nó mang những đặc thù riêng khác với những ngành sản xuất vật chất khác.
Ngành giao thông vận tải không tạo ra sản phẩm vật chất, những nó làm thay đổi địa điểm các sản phẩm vật chất. Sự thay đổi địa điểm đó tạo ra mối liên hệ không gian, được biểu hiện cụ thể bằng các tuyến đường và được dừng lại ở sân ga, cảng, bến xe, sân bay… mà sau đó tiếp tục chuyển đến các địa điểm sản xuất hoặc tiêu dùng để hoàn tất quá trình sản xuất hoặc lưu thông.
Giao thông vận tải là sự tiếp tục của một quá trình sản xuất ở bên trong quá trình lưu thông. Trong quá trình lưu thông giá trị do vận tải tạo ra được cộng thêm vào giá trị sản phẩm cần vận chuyển.
Giao thông vận tải bao gồm nhiều loại, nhiều phương thức vận chuyển khác nhau với những đặc điểm kinh tế kỹ thuật khác nhau , bổ sung cho nhau và khắc phục ưu nhược điểm của nhau.
So với các ngành nông nghiệp, công nghiệp thì không gian và phạm vi phân bố của ngành giao thông vận tải rất rộng. Nó không chỉ đóng khung và có ý nghĩa trong một vùng, một nước, mà còn có ý nghĩa quốc tế.
Cùng với nhu cầu phát triển của nền kinh tế, phạm vi hoạt động của ngành giao thông không ngừng mở rộng, bao gồm hoạt động vận tải đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển, đường hàng không, đường ống … Nhưng để phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế hiện đại, ngành giao thông cần tiếp tục được đầu tư và tăng cường công tác quản lý Nhà nước để phát huy vai trò cấu trúc hạ tầng của mình đối với quá trình phát triển kinh tế- xã hội.
Trên đây là những giới thiệu khái quát về ngành Giao Thông và Xây Dựng, những ngành sản xuất trọng yếu của nền kinh tế. Với quy mô và phạm vi hoạt động rộng khắp cũng như những đặc tính kinh tế kỹ thuật của ngành sẽ chi phối công tác quản lý tài chính nói chung, quản lý thuế nói riêng. Vì vậy, hoàn thuế GTGT ngành Giao thông-Xây dựng cũng mang những đặc điểm riêng.
1.2.1 Đặc điểm của hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngành Giao Thông- Xây Dựng
Do đặc tính thiết yếu của Giao thông-Xây dựng đối với nền kinh tế quốc dân, lĩnh vực này tập trung chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước (xấp xỉ 20% tổng số DNNN phân bổ cho các ngành trong nền kinh tế). Đây cũng là lĩnh vực phát sinh nhiều hoạt động chịu thuế GTGT và các trường hợp được xét hoàn thuế. Hiện nay, các doanh nghiệp ngành Giao thông-Xây dựng chủ yếu xét hoàn thuế trong một số trường hợp :
Doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ có lũy kế số thuế đầu vào được khấu trừ âm trong 3 tháng liên tục (kể cả do xuất khẩu hay kinh doanh trong nước). Đây là trường hợp được xét hoàn thuế phổ biến nhất gồm các công ty xây dựng, công ty kinh doanh vật tư ngành Xây dựng (cung cấp nội địa và xuất khẩu). Việc quy định 4 mức thuế suất áp dụng cho các hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT như hiện nay thì rất dễ xảy ra hiện tượng thuế âm trong hoạt động xây dựng, lắp đặt. Vì hầu hết các loại nguyên vật liệu đầu vào chịu thuế suất 10% trong khi thuế suất thuế GTGT quy định cho giá trị xây lắp và giá trị thiết bị cung cấp là 5%. Ngoài ra, do sản phẩm của xây dựng thường có giá trị lớn, thời gian hoàn thành sản phẩm rất dài có thể hàng tháng, hàng năm, do vậy phát sinh đầu vào lớn hơn đầu ra liên tục trong nhiều tháng dẫn đến hoàn thuế.
Hoàn thuế cho chủ đầu tư và nhà thầu chính đối với các công trình sử dụng vốn ODA gồm các công ty xây dựng công trình ngành Giao thông và các công ty xây dựng các dự án lớn ngành Xây dựng. Thông thường các dự án được nguồn vốn ODA tài trợ có nhiều bên tham gia thi công như chủ dự án, nhà thầu chính, nhà thầu phụ…nên quy trình hoàn thuế khá phức tạp.
Các trường hợp hoàn thuế khác theo luật quy định ít khi xảy ra.
Do đặc tính kinh tế-kỹ thuật của ngành Giao thông-Xây dựng, cơ chế hoàn thuế GTGT cũng mang những đặc điểm riêng.
Số thuế được hoàn thường lớn
Các sản phẩm xây dựng thường có giá trị sử dụng lớn cả về công dụng và thời gian nên quá trình tạo ra sản phẩm cũng tốn kém về nhiều mặt. Khâu nguyên liệu đầu vào đòi hỏi các chi phí rất lớn. Trong giai đoạn thi công dài hạn để hoàn thành sản phẩm, thuế đầu vào lớn hơn đầu ra ngày càng lớn sẽ dẫn đến số hoàn thuế lớn. So với các ngành sản xuất khác, chi phí cho khâu đầu vào của ngành xây dựng lớn hơn nhiều do bị chi phối bởi tính phức tạp của kết cấu và quy mô các công trình XDCB. Đặc điểm này đặt ra yêu cầu cho công tác kiểm tra phải rà soát kỹ lưỡng, thực hiện đúng quy trình để ngăn chặn kịp thời sai phạm, tránh thất thoát, thiệt hại cho NSNN.
Một sản phẩm hoàn thành có thể được hoàn thuế nhiều lần.
Các dự án xây dựng, lắp đặt thực hiện thanh toán theo hạng mục công trình hoặc giá trị khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao và do nhiều đơn vị thi công hoàn thành. Đối với những dự án lớn như xây dựng các công trình giao thông, xây dựng sân vận động…thường tiến hành thanh toán theo từng hạng mục công trình. Như vậy, hoàn thuế có thể phát sinh cho từng hạng mục công trình hoàn thành, không nhất thiết phải có cả công trình xây dựng hoàn thành. Và cùng một sản phẩm xây dựng có thể là đối tượng hoàn thuế cho nhiều đơn vị thi công nhưng ở những phần hành khác nhau. Đây là đặc điểm khác biệt rất lớn giữa hoàn thuế trong ngành Giao thông-Xây dựng với các ngành kinh tế khác. Trong quá trình kiểm tra sẽ phải xem xét đối chiếu số liệu giữa các đơn vị có liên quan đến công trình, nếu công tác kế toán thuế ở từng đơn vị làm tốt sẽ tạo thuận lợi cho việc thanh tra kiểm tra, ngược lại sẽ gây hậu quả phức tạp.
Nghiệp vụ hoàn thuế khá phức tạp
Trong quy trình quản lý hoàn thuế, cơ quan Thuế rất chú trọng việc kiểm tra phân tích tính hợp lý, đúng đắn của số liệu mà đối tượng xin hoàn thuế cung cấp. Việc kiểm tra, thanh tra trong lĩnh vực này gặp rất nhiều khó khăn vì nhiều nguyên nhân.
Trong hoạt động xây dựng cơ bản, một công trình hay hạng mục công trình hoàn thành bàn giao và quyết toán có liên quan đến nhiều bên như bên chủ thầu, bên nhận thầu, các bên chuyên cung cấp vật tư…Chu kỳ sản xuất xây dựng thường dài, chịu ảnh hưởng lớn bởi yếu tố thời tiết._. thiên nhiên. Điều này tạo ra phức tạp cho việc kiểm tra thanh tra khi hoàn thuế bởi từ các nguyên vật liệu đầu vào đã biến đổi rất nhiều trong quá trình xây dựng, định mức hao hụt do ảnh hưởng của tự nhiên lại không thể có chuẩn mực rõ ràng.
Trường hợp bên chủ thầu đặt cơ sở thường trú tại một tỉnh, thành phố nhưng tiến hành xây dựng công trình trên ở nhiều nơi trong cả nước. Về nguyên tắc thuế phát sinh ở đâu nộp tại đó nhưng cũng chính điều này lại gây khó khăn cho việc kê khai và hoàn thuế. Cụ thể, khi một hóa đơn nguyên vật liệu mua vào nhằm phục vụ cho nhiều công trình ở các địa bàn khác nhau do vậy việc bóc tách đầu vào là hết sức phức tạp và đa số không thể làm nổi. Việc quy định nộp 1% trên giá thanh toán công trình tại địa phương nơi xây dựng và toàn bộ đầu vào được kê hết về cục thuế nơi đặt trụ sở chính chưa được thực hiện thống nhất trong cả nước. Điều này gây ra nhiều khó khăn, phức tạp cho cả cơ quan Thuế và đối tượng hoàn thuế .
Do đặc thù của mô hình sản xuất một số Tổng công ty xây dựng lớn có thể vừa là đơn vị tổng thầu, vừa là đơn vị trực tiếp thi công (cơ quan tổng công ty có các đơn vị thi công trực thuộc) hợp đồng thi công thực hiện trọn gói cho các thầu phụ nhưng một số vật tư và thiết bị chuyên dùng lại do cơ quan của Tổng công ty cung cấp. Như vậy, các tổng công ty này vừa là thầu chính, vừa là thầu phụ của các đơn vị thi công, và cũng phát sinh các khoản thu do cung cấp vật tư, thiết bị và lao vụ khác cho các thầu phụ. Hình thức thanh toán cho đơn vị thi công trọn gói sẽ tạo ra nhiều phức tạp cho công tác kế toán thuế và cơ chế hậu kiểm tại các loại hình đơn vị này.
Qua những phân tích trên đây có thể nhận thấy rằng, hoàn thuế GTGT trong ngành Giao thông- Xây dựng là hết sức phức tạp và còn không ít vướng mắc. Vì vậy, cần thiết phải hoàn thiện công tác hoàn thuế nhằm đáp ứng yêu cầu và mục đích của việc hoàn thuế GTGT.
Chương II
Thực trạng công tác hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngành giao thông-xây dựng trên địa bàn tp hà nội
2.1 Công tác quản lý thu thuế GTGT và hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp trên địa bàn tp Hà Nội
2.1.1 Bộ máy quản lý thu thuế GTGT tại cục thuế Hà Nội
Phòng Hành chính:
Bộ phận hành chính có trách nhiệm nhận, ghi rõ ngày, đóng dấu, phân loại và gửi cho phòng quản lý thu các tờ khai thuế, hồ sơ hoàn thuế, miễn giảm thuế, quyết toán thuế GTGT hàng năm.
Gửi cho đối tượng nộp thuế các thông báo thuế, quyết định hoàn thuế, miễn giảm thuế GTGT và các biên bản vi phạm hành chính.
Lưu hành quyết định hoàn thuế GTGT đã được lãnh đạo cục ký duyệt.
Phòng Nghiệp Vụ:
Là một bộ phận quan trọng nhằm trợ giúp cục trưởng cục Thuế hướng dẫn chỉ đạo thực hiện chính sách thuế, các chế độ, quản lý và biện pháp nghiệp vụ thu thuế GTGT với các đối tượng nộp thuế thuộc mọi thành phần kinh tế trên địa bàn cục quản lý. Kiến nghị lãnh đạo cục hoàn thiện chính sách thuế.
Phối hợp với phòng quản lý thu thẩm định các hồ sơ hoàn thuế và trình lãnh đạo cục ra quyết định hoàn thuế.
Cùng với phòng quản lý thu và phòng thanh tra tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra trước và sau hoàn thuế.
Lưu hồ sơ hoàn thuế của đối tượng hoàn thuế, biên bản kiểm tra, thanh tra và quyết định xử lý nếu có.
Phòng quản lý thu:
Đây là bộ phận trực tiếp theo dõi tình hình biến động đối tượng nộp thuế thuộc mọi lĩnh vực ngành nghề. Hiện nay tại Cục Thuế Hà Nội có các phòng quản lý thu về các lĩnh vực Công Nghiệp, Tài Chính Ngân Hàng, Văn Xã, Giao thông-Xây dựng-Bưu điện, Thương Nghiệp, Quốc Doanh, Ngoài Quốc Doanh, Đầu Tư Nước Ngoài.
Phòng quản lý ấn chỉ:
Có nhiệm vụ quản lý, phát hành và thu hồi, hướng dẫn việc sử dụng hóa đơn chứng từ GTGT và các ấn chỉ khác.
Phòng xử lý thông tin và tin học:
Xử lý bằng tin học việc tính thuế, tính nợ, phạt nộp chậm, in thông báo thuế…Tổng hợp tình hình thu nộp thuế GTGT của đối tượng nộp thuế theo các chỉ tiêu khác nhau để cung cấp thông tin cho các phòng quản lý thu, phòng thanh tra, phòng nghiệp vụ thực hiện các biện pháp quản lý thu nộp thuế.
Căn cứ kết quả xét miễn giảm, kết quả thanh tra kiểm tra hoàn thuế và số liệu liên quan đến hoàn thuế GTGT điều chỉnh số thuế phải nộp cho kỳ tính thuế sau.
Nhận, nhập chứng từ hoàn thuế từ Kho bạc Nhà nước, lưu chứng từ tại phòng, kiểm tra số thuế đã hoàn theo các đối tượng, quyết định hoàn thuế. Phòng xử lý thông tin và tin học lập báo cáo hoàn thuế theo chế độ báo cáo hiện hành.
Phòng Kế hoạch thống kê
Căn cứ vào tình hình tăng trưởng KT-XH của từng lĩnh vực, ngành nghề phân tích số liệu thống kê thuế lập dự toán thu thuế hàng năm cho Cục thuế Hà Nội. Tham mưu cho lãnh đạo cục về khai thác nguồn thu, bồi dưỡng nguồn thu và biện pháp chỉ đạo thu.
Trong công tác hoàn thuế GTGT: lưu hành các qui định hoàn thuế. Căn cứ vào qui định hoàn thuế lập ủy nhiệm chi hoàn thuế gửi kho bạc Nhà nước Tỉnh, Thành phố .
Phòng thanh tra xử lý tố tụng:
Kiểm tra việc chấp hành các qui định về quản lý thu và tính thuế của các bộ phận quản lý thu. Kiểm tra đối tượng nộp thuế có dấu hiệu vi phạm khai man, trốn lậu thuế, đề xuất các hình thức xử lý theo pháp luật.
Phối hợp với phòng nghiệp vụ, phòng quản lý thu trong hoạt động thanh tra sau hoàn thuế. Thực hiện quyết định kiểm tra, lập kế hoạch kiểm tra và xử lý kết quả kiểm tra.
2.1.2 Tình hình quản lý thu thuế GTGT trên địa bàn Hà Nội năm 2002
Với sức ép của việc gia nhập AFTA và hướng tới là tổ chức Thương Mại Quốc tế WTO, Việt Nam sẽ phải giảm thuế nhập khẩu cho nhiều mặt hàng. Để phù hợp với chủ trương tăng thu nội địa, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, công tác quản lý thu thuế GTGT ngày càng được coi trọng. Qua hơn 3 năm thực hiện, Luật thuế GTGT đã thực sự đi sâu vào đời sống kinh tế xã hội và chứng tỏ được tính ưu việt của mình, đem lại số thu thường xuyên và ổn định cho NSNN. Năm 2002 vừa qua, công tác quản lý thuế GTGT trên địa bàn thành phố Hà Nội đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Sự tăng trưởng của kinh tế thủ đô năm qua là tác nhân cơ bản đảm bảo số thu cho ngân sách. Năm 2002, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế đều tăng so với năm trước. Tổng sản phẩm nội địa GDP đạt 10,3% là mức tăng cao nhất trong 5 năm trở lại đây. Trong đó, ngành Giao thông vận tải, xây dựng khoảng 6,09%. Hoạt động xuất khẩu tuy gặp khó khăn về thị trường và giá cả nhưng vẫn tăng được 10,1%. Giá cả hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng biến động nhẹ nhưng vẫn giữ ổn định thị trường, có tác dụng nhất định đến tăng trưởng sản xuất.
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế của thành phố, sự chấp hành luật thuế của các doanh nghiệp ngày càng tốt hơn, sự chỉ đạo sâu sát và phối hợp chặt chẽ của các ban ngành có liên quan, ngành thuế Hà Nội đã hoàn thành vượt mức nhiệm vụ ngân sách được giao. Thu từ ngành thuế là 16.047 tỷ đồng, đạt 109,98% dự toán pháp lệnh. Hầu hết các khoản thu, sắc thuế đều hoàn thành vượt mức dự toán và tăng khá so với năm 2001. Tổng số thu thuế GTGT là 2.840 tỷ đồng đạt 128% so với dự toán và tăng 40% so với năm 2001 (số thu là 1979 tỷ đồng). Kết quả trên đã phản ánh sự phấn đấu nỗ lực của ngành thuế Hà Nội trong công tác quản lý thu thuế GTGT.
Kết quả thu thuế GTGT năm 2001-2002
Đơn vị : tỷ đồng
Khu vực
Thực hiện
Năm 2001
Dự toán
Năm 2002
Thực hiện
Năm 2002
% so dự
toán 2002
% so thực hiện 2001
KTQD
KTNQD
DNcóVĐTNN
1382
252
445
1425
315
472
1937
300
603
135,93
95,15
127,77
151,09
119,05
135,58
Tổng cộng
1979
2121
2840
128,39
143,51
( Nguồn: Phòng Nghiệp vụ Cục Thuế Hà Nội )
Đối với khu vực kinh tế quốc doanh, các doanh nghiệp Nhà nước chấp hành tốt việc kê khai thuế GTGT và nộp ngân sách tương đối sát với số phát sinh nên kết quả thu đạt cao. Số thu từ khu vực này là 1.937 tỷ đồng đạt 135,93% tăng 51,09% so với năm 2001 là 1.382 tỷ đồng. Trong đó, một số đơn vị có số nộp ngân sách lớn như: Tổng công ty Xăng Dầu 370 tỷ đồng, Tổngcông ty Bưu Chính Viễn Thông 289 tỷ đồng, Bưu Điện TP Hà Nội 108 tỷ đồng, Tổng công ty Điện Lực 103 tỷ đồng, Công ty Điện Lực Hà Nội 108 tỷ đồng.
Đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, số thu thuế GTGT chỉ đạt 95,15% so với dự toán nhưng vẫn tăng so với năm 2001 là 19,05%. Ngay từ đầu năm, Cục Thuế Hà Nội đã chỉ đạo các phòng quản lý thu thuế và chi cục tăng cường các biện pháp quản lý, thực hiện nghiêm túc các chỉ thị của Chính phủ, Bộ Tài Chính, Tổng cục Thuế, về công tác quản lý thu thuế GTGT và chống thất thu thuế ngoài quốc doanh. Vấn đề quản lý doanh thu, quản lý hộ và kiểm tra quyết toán thuế được đẩy mạnh để hoàn thành dự toán năm. Tuy kết quả thu được khá nhưng công tác quản lý thuế GTGT ngoài quốc doanh vẫn còn thất thu cả về hộ và doanh thu. Cục thuế đã kiểm tra, lập biên bản 135 doanh nghiệp kinh doanh xe máy có dấu hiệu ghi giá bán trên hóa đơn thấp hơn giá thị trường đã yêu cầu các doanh nghiệp này thực hiện việc áp giá theo giá tính lệ phí trước bạ, truy thu 670 triệu đồng. Một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa tự giác kê khai thuế GTGT theo thực tế phát sinh, việc ghi chép sổ sách kế toán chỉ là hình thức. Thất thu thuế ở một số lĩnh vực, một số mặt hàng lớn như: xây dựng cơ bản tư nhân, vận tải tư nhân, kinh doanh xe máy, kinh doanh khách sạn, du lịch, ăn uống…
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong năm qua có sự phát triển mạnh mẽ. Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội có 439 dự án với tổng số vốn khoảng 7 tỷ 770 triệu USD trong đó có 192 dự án 100% vốn nước ngoài, 220 dự án liên doanh và 27 dự án hợp tác kinh doanh. Năm 2002, có 5 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với số vốn 123,7 triệu USD được cấp phép (tăng 30,2% so với năm 2001). Số thu thuế GTGT từ khu vực này đạt 603 tỷ đồng tăng 27,77% so với dự toán và tăng 35,58% so với năm 2001 (số thu là 445 tỷ đồng).
Các con số thống kê nói trên đã cho thấy sự nỗ lực của ngành thuế Hà Nội với công tác quản lý thuế GTGT trong năm 2002 vừa qua.
2.1.3 Tình hình hoàn thuế GTGT trên địa bàn Hà Nội năm 2002
Hoàn thuế GTGT bắt đầu được triển khai thực hiện cùng với việc áp dụng Luật thuế GTGT ngay từ đầu năm 1999. Song năm 2002 mới là năm của những vấn đề về hoàn thuế GTGT phát sinh và được công luận đặc biệt quan tâm chú ý. Điều này cũng dễ hiểu bởi trong 3 năm 1999-2001, do luật thuế mới được triển khai còn nhiều bỡ ngỡ, các trường hợp hoàn thuế chưa nhiều và phức tạp, các hồ sơ có số thuế được hoàn lớn chưa nhiều. Năm 2002, sau một số vụ việc gian lận hoàn thuế lớn bị phát hiện, các ngành chức năng đã kịp thời quan tâm và có hướng chỉ đạo mới nhằm khắc phục những kẽ hở còn tồn tại trong quy trình hoàn thuế, tiến tới hạn chế gian lận trong hoàn thuế GTGT.
Theo tinh thần Nghị định số 76/2002/NĐ-CP ngày 13/09/2002 của Chính Phủ và thông tư số 82/2002/TT/BTC ngày 14/10/2002 của Bộ Tài Chính nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT có hiệu quả, giảm thất thoát cho NSNN, ngăn chặn các hành vi gian lận, công tác hoàn thuế GTGT đã thực hiện nghiêm túc theo quy trình mới. Cục thuế Hà Nội đã tiến hành rà soát, phân loại các hồ sơ hoàn thuế theo hai dạng thanh tra trước khi hoàn và hoàn trước kiểm tra sau. Trong quy trình thẩm định, để đảm bảo việc hoàn thuế được chặt chẽ về mặt hồ sơ thủ tục và đúng đối tượng, phòng quản lý thu và phòng nghiệp vụ đã phối hợp kiểm tra xem xét kỹ các hồ sơ hoàn thuế, đặc biệt là các hồ sơ xuất khẩu để kịp thời phát hiện các trường hợp nghi vấn và không đủ điều kiện hoàn.
Năm 2002, thực hiện quy trình mới cục thuế Hà Nội đã thực hiện phân loại 16 hồ sơ thuộc diện kiểm tra trước khi hoàn với tổng số tiền là 432 triệu đồng. Thực hiện hoàn thuế cho 525 hồ sơ của 285 doanh nghiệp với tổng số tiền thuế đã hoàn là 642.401 triệu đồng. Quy trình hoàn thuế được thực hiện theo đúng chủ trương của luật định đồng thời phát huy tác dụng đối với các doanh nghiệp được hoàn thuế: giảm bớt khó khăn về tài chính cho các doanh nghiệp, khuyến khích hoạt động xuất khẩu, hoàn vốn cho các dự án ODA…
Công tác kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế được tăng cường. Thực hiện chỉ thị của Tổng cục Thuế, cục Thuế Hà Nội đã rà soát lại 1.424 hồ sơ đã hoàn thuế từ năm 1999 đến nay, qua đó phát hiện ra 45 hồ sơ có vi phạm với số tiền khoảng 9,4 tỷ đồng. Tiến hành thanh tra sau hoàn thuế với 537 hồ sơ, phát hiện 82 hồ sơ có vi phạm với số tiền khoảng 6 tỷ đồng. Riêng năm 2002, thanh tra sau hoàn thuế 174 hồ sơ, phát hiện 41 hồ sơ có vi phạm với số tiền 2,5 tỷ đồng. Đến nay đã thu về cho tài khoản truy hoàn thuế số tiền gần 8 tỷ đồng. Riêng trong năm 2002, đã thu hồi được 6,5 tỷ đồng. Có 17 doanh nghiệp vi phạm hoàn thuế GTGT trong việc xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy sản đi Trung Quốc. Cục thuế Hà Nội đã tiến hành kiểm tra, xác minh tại Trung Quốc và phát hiện các doanh nghiệp này đã chiếm đoạt hơn 39 tỷ đồng của NSNN từ tiền hoàn thuế đến nay mới chỉ thu hồi 16,7 tỷ đồng. Công tác truy thu tiền hoàn thuế cần kiên quyết và đẩy mạnh hơn nữa.
Một trong những công tác quản lý thuế quan trọng, hỗ trợ giảm bớt các gian lận trong hoàn thuế được triển khai thực hiện tốt trên địa bàn Thủ đô là quản lý hóa đơn chứng từ. Trong năm 2002, cục Thuế Hà Nội đã gửi đi xác minh 8.437 số hóa đơn, đã có trả lời 4.591 số hóa đơn; từ đó phạt, truy thu do sai phạm 403 triệu đồng. Hà Nội cũng nhận xác minh 28.668 số hóa đơn và đã tiến hành xác minh trả lời được đối với 22.761 số; giúp truy thu, phạt 2,763 tỷ đồng. Thông báo mất 2.398 số hóa đơn của 188 đơn vị, phát hiện 124 doanh nghiệp bỏ trốn, mang theo 31.735 số hóa đơn. Việc kiểm tra sử dụng hóa đơn được đẩy mạnh, hạn chế những tiêu cực trong lĩnh vực này. Các đơn vị thuế trên địa bàn đã lập biên bản 606 doanh nghiệp vi phạm chế độ quyết toán hóa đơn; ra quyết định xử lý 603 doanh nghiệp; xử phạt 13 doanh nghiệp vi phạm chế độ sử dụng hóa đơn, chứng từ; truy thu và phạt trên 1,6 tỷ đồng. Bảy doanh nghiệp vi phạm nghiêm trọng trong quản lý, sử dụng hóa đơn bước đầu xác định chênh lệch do vi phạm là 3,6 tỷ đồng. Thực hiện các hướng dẫn của bộ Tài Chính, Tổng Cục Thuế về quản lý ấn chỉ, đặc biệt là sau 3 tháng thực hiện quyết định 110/2002/QĐ-BTC ngày 18/09/2002 của bộ Tài Chính và công văn số 3207 TCT/AC ngày 23/08/2002 của Tổng cục Thuế, bước đầu đã hạn chế được tình trạng các đối tượng lợi dụng thành lập mới để mua hóa đơn nhưng không hoạt động sản xuất kinh doanh, hoặc sử dụng ít nhưng mua nhiều để bán hóa đơn kiếm lời, gây ra những vi phạm gian lận hoàn thuế rất khó kiểm soát.
Trên đây là những con số nói lên kết quả một năm công tác hoàn thuế GTGT ngành thuế Hà Nội
Báo cáo tình hình hoàn thuế GTGT các phòng quản lý thu Cục Thuế HN (đơn vị số tiền: triệu đồng)
Chỉ Tiêu
Đề nghị hoàn thuế
Đã giải quyết
VPsau HT
Lượt ĐV
Lượt HS
Số Tiền
Lượt ĐV
Lượt HS
Số Tiền
Số
ĐV
Số Tiền
Tổng Cộng
P.Văn xã
P.Thương nghiệp P.Giao thông
P.Đầu tư NN P.Công nghiệp P.Nông lâm
P.NQD số 1
P.NQD số 2 P.Nghiệp vụ thuế
P.TChính-NHàng
Trong đó
-HT xuất khẩu
-HT dự án ODA
-Khác
631 28
48
13
56
85
58
91
83 150 19
276 161 194
660
36
49
13
54
85
64
91
84
165
19
285 176 199
746732
23452 38106 27395 26051 296299 186376 35165 33963 26792 52773
299897 43840 402635
513
20
46
5
45
77
54
55
50 145
16
246 153 114
525
20 46
5
47
80 54 55 50 146 18
247 163 115
642401
11107 37294 13380 16965 289051 168943 15436 16051 24135 50040
270466 43540 328395
41
0
9
8
0
5
4
5
6
4
0
22
6 13
2510
0
410 971
0
347 256
191 245
30
0
784 1158 568
(Nguồn: Phòng Kế hoạch-Cục Thuế Hà Nội)
Quy ước
Đơn vị: ĐV ; Hồ sơ: HS ; Vi phạm: VP ; Hoàn thuế: HT
2.2 Hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngành Giao thông-Xây dựng trên địa bàn TP Hà Nội
2.2.1 Bộ máy quản lý thu thuế GTGT ngành Giao Thông-Xây Dựng
Trực tiếp quản lý thu đối với ngành Giao thông-Xây dựng là phòng quản lý thu Giao thông-Bưu điện-Xây dựng. Đây là một trong những phòng ban giàu thành tích nhất của cục Thuế Hà Nội, mỗi năm đảm nhận hơn 50% trong tổng nguồn thu của toàn cục. Đối với công tác hoàn thuế, Phòng quản lý thu có nhiệm vụ :
Tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế của các đối tượng đề nghị hoàn.
Kiểm tra, xem xét tính đầy đủ và hợp lệ của các hồ sơ hoàn thuế.
Phân loại đối tượng hoàn thuế.
Trình lãnh đạo cục giải quyết hoàn thuế.
Tiến hành việc kiểm tra thanh tra trước và sau hoàn thuế các đối tượng đã được xét hoàn.
Phối hợp với các phòng ban liên quan như: phòng nghiệp vụ, phòng thanh tra trong khi tiến hành quy trình hoàn thuế.
Đề xuất và tham mưu cho lãnh đạo cục các giải pháp hoàn thiện quy trình hoàn thuế.
Lưu hồ sơ, quyết định hoàn thuế.
2.2.2 Kết quả hoàn thuế GTGT NGàNH Giao Thông-Xây Dựng
Phụ trách khối ngành trọng điểm của nền kinh tế, hàng năm phòng Giao thông-Xây dựng tiếp nhận và xử lý rất nhiều hồ sơ hoàn thuế, trong đó đã giải quyết cho những hồ sơ có giá trị lớn. Do đặc thù kinh tế của ngành quản lý, nguồn thu từ khu vực quốc doanh trung ương chiếm tỷ trọng trên 90% tổng số thu toàn phòng, đây cũng là lĩnh vực có nhiều dự án đầu tư lớn và phát sinh hoàn thuế cao. Qua hơn 3 năm thực hiện, công tác hoàn thuế phát huy hiệu quả tích cực, đúng thủ tục và kịp thời giúp các doanh nghiệp tận dụng tối đa nguồn vốn, mở rộng đầu tư, khuyến khích xuất khẩu…bên cạnh đó cũng bộc lộ không ít nhược điểm. Thực tế cho thấy, những sai phạm trong hoàn thuế một phần do tính phức tạp của đặc điểm kinh tế ngành Giao thông-Xây dựng mang lại; các doanh nghiệp có nhiều sai sót trong làm thủ tục, kê khai xin hoàn thuế; còn nhiều kẽ hở trong cơ chế chính sách…
Báo cáo tình hình hoàn thuế năm 2001-2002
Đơn vị số tiền: triệu dồng
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Số lượng
Số tiền
Số lượng
Số tiền
-Số đơn vị đề nghị hoàn
-Số đơn vị không đủ điều kiện
-Số đơn vị đã giải quyết
-Số chuyển sang năm sau
24
14
9
1
68581
14561
52604
1416
13
8
5
0
27395
14015
13380
0
(Nguồn: Phòng thuế Giao thông-Cục Thuế Hà Nội)
So với giai đoạn đầu khi mới triển khai thực hiện Luật thuế GTGT năm 1999, quy trình hoàn thuế đã không ngừng được hoàn thiện nhằm tăng cường công tác quản lý thuế GTGT cho phù hợp với tình hình mới. Việc hoàn thuế cho các doanh nghiệp ngành Giao thông-Xây dựng nhìn chung được thực hiện khá tốt, đảm bảo đúng thủ tục, thời gian quy định nhằm thực hiện các chủ trương hỗ trợ các doanh nghiệp của Nhà nước. Tuy khẩn trương nhưng công tác này cũng đòi hỏi sự thận trọng, chính xác, rà soát kỹ càng từng hồ sơ. Ngoài sự nỗ lực của các cán bộ trong phòng, còn tranh thủ sự phối kết hợp các bộ phận trong cơ quan, các ngành kiểm tra để thực hiện tốt quy trình, hạn chế những sơ xuất do nghiệp vụ hoặc cơ chế chưa rõ để đưa ra những phản biện thích hợp về vấn đề hoàn thuế. Trình tự giải quyết hoàn thuế cho các doanh nghiệp ngành tương đối đảm bảo tuy nhiên cũng còn một số vướng mắc cần hoàn thiện. Sau đây là phân tích cụ thể tình hình hoàn thuế các doanh nghiệp ngành Giao thông-Xây dựng trong năm 2002 vừa qua.
2.2.2.1 Giải quyết hồ sơ hoàn thuế
Năm 2001
đơn vị: ngàn đồng
Stt
QĐsố
Ngày
Tên Doanh Nghiệp;Lý do hoàn
Số Tiền
1
2
3
4
5
6
7
8
9
3000
446
1418
2870
568
10924
10716
16400
13670
10/04/2001
16/01/2001
01/03/2001
05/04/2001
18/01/2001
31/08/2001
28/08/2001
07/12/2001
22/10/2001
Tổng CT Xây Dựng HN;ODA
TổngCT Xây Dựng công trình GT I;ODA
CT XNKvật tư đường biển;đvào>đra
CT XL TCCG sông Đà 9; đvào>đra
CT kinh doanh nước sạch; đvào>đra
CT XD Thăng Long ; ODA
Tổng CTXD công trình GT I ; ODA
CTTM đầu tư phát triển GTVT; đvào>đra
Tổng CT thủy tinh gốm XD;đvào>đra
Tổng
1.162.260
5.593.481
4.503.045
253.345
4.615.782
11.616.690
16.669.082
1.090.592
7.099.901
52.604.178
(Nguồn: Phòng thuế Giao thông-Cục Thuế Hà Nội)
Năm 2002
đơn vị: ngàn đồng
Stt
QĐsố
Ngày
Tên Doanh Nghiệp;Lý do hoàn
Số tiền
1
2
3
4
5
1941
8200
8952
14174
22274
08/02/2002
17/06/2002
01/07/2002
17/09/2002
22/01/2002
CT XD bảo tàng HCM; đvào>đra
TCT thủy tinh gốm XD; đvào>đra
Ban diều hành hợp đồng 1A2; ODA
CT vật tư bưu điện I ; XK
TCT tư vấn thiết kế GTGT; đra
Tổng
1.392.626
2.936.382
5.615.350
2.998.198
437.504
13.380.060
(Nguồn: Phòng thuế Giao thông-Cục Thuế Hà Nội)
Năm 2002 vừa qua phòng thuế Giao thông đã thực hiện hoàn thuế cho 5 đơn vị với tổng số thuế hoàn 13.380 triệu đồng. Công tác hoàn thuế đã thực hiện theo đúng quy trình mới, phù hợp với sự chỉ đạo của bộ Tài Chính và Tổng cục Thuế, góp phần phát huy tác dụng của hoàn thuế đối với các doanh nghiệp. Để đảm bảo quy trình và thời gian giải quyết các trường hợp hoàn thuế, các hồ sơ đến phòng, hồ sơ cán bộ trả phòng, hồ sơ gửi phòng nghiệp vụ, phòng máy tính đều được lập sổ theo dõi ngày. Việc kiểm tra, rà soát các hồ sơ đề nghị hoàn thuế được tiến hành kỹ càng, hóa đơn GTGT xin hoàn đều phải gửi đi xác minh. Phòng cũng phối hợp với phòng nghiệp vụ trong quá trình trình thẩm định các hồ sơ hoàn thuế. Các hồ sơ đủ điều kiện sẽ được trình lãnh đạo cục để quyết định hoàn thuế. Theo kết quả tổng hợp lũy kế quyết định hoàn thuế cho thấy: Năm 2001, phòng Giao Thông đã giải quyết 9 hồ sơ hoàn thuế, năm 2002 là 5 hồ sơ, như vậy tổng số hồ sơ giải quyết hoàn năm 2002 giảm gần một nửa so với trước. Số tiền hoàn thuế năm 2002 đã giảm hẳn so với năm trước (năm 2001 là 52.604.178.000đ; năm 2002 là 13.380.061.000).
Nguyên nhân cụ thể là:
Trước đây theo quy định của thông tư số 122/2000/TT-BTC của Bộ Tài Chính, hồ sơ hoàn thuế có công văn đề nghị xin hoàn và bảng kê khai tổng hợp số thuế phát sinh đầu ra, số thuế đầu vào được khấu trừ với số thuế đầu vào lớn hơn đầu ra đề nghị hoàn lại là đủ. Phòng quản lý thu sau khi tiếp nhận hồ sơ, trên cơ sở kiểm tra tính đầy đủ của các yêu cầu trên, sẽ đề nghị lãnh đạo cục ra quyết định hoàn thuế. Cơ chế này đã tạo thuận lợi rút ngắn thời gian thủ tục giải quyết hoàn thuế cho các doanh nghiệp nhưng cũng là kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng. Một số doanh nghiệp xuất khẩu nông lâm thủy sản đã dựa vào cơ chế này để gian lận tiền hoàn thuế GTGT của nhà nước. Bằng việc cấu kết với bên nước ngoài lập hợp đồng kinh tế, hóa đơn GTGT, chứng từ thanh toán khống và mua chuộc hải quan khi xuất hàng qua cửa khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu có thể hoàn tất hồ sơ hoàn thuế để chiếm đoạt tiền của NSNN. Nhằm hạn chế sự vi phạm này, thông tư 82/2002/TT-BTC ngày 18/09/2002 đã bổ sung một số yêu cầu về hồ sơ hoàn thuế. Căn cứ vào quy định mới này, rất nhiều hồ sơ đề nghị hoàn thuế đã bị trả lại không được xét hoàn thuế vì những nguyên nhân sau:
Số liệu kê khai giữa tờ khai và công văn xin hoàn thuế không khớp.
Không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hoạt động xuất khẩu.
Tại các đơn vị xây dựng, không bóc tách được đầu vào của hóa đơn mua nguyên vật liệu tại Hà Nội nhưng lại xuất dùng cho các công trình ở nơi khác.
Đơn vị kê khai nhầm cả số thuế đã nộp ở kỳ sau vào đầu vào của kỳ trước.
Việc hoàn thuế GTGT cho chủ dự án, nhà thầu chính, do thời gian giữa các lần thanh toán định kỳ thường dài, các đơn vị rất hay mắc sai lầm trong kê khai số thuế đầu vào và đầu ra phát sinh trong tháng. Sai lầm thường thấy là kê khai trùng giữa các tháng, hóa đơn phát sinh cách nhau 4 tháng lại xếp cùng vào một hồ sơ hoàn thuế…
Cũng theo tinh thần của thông tư 82, công tác hoàn thuế năm 2002 đã được tiến hành theo quy trình mới, phân loại đối tượng hoàn thuế để quyết định phương thức “hoàn thuế trước, kiểm tra sau” hay “kiểm tra thanh tra trước khi hoàn thuế”. Các điều kiện để phân loại đối tượng hoàn thuế đã nêu ở chương I. Những quy định này đã có ý nghĩa nhất định trong việc thúc đẩy ý thức tự giác và nâng cao trách nhiệm của cả doanh nghiệp và cơ quan thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Việc phân loại đã tạo điều kiện kiểm tra, rà soát kỹ lưỡng, phát hiện sớm các vi phạm đã khiến cho số hồ sơ giải quyết hoàn thuế năm 2002 giảm hẳn so với năm trước.
Trước đây với quy định thống nhất một cơ chế hậu kiểm thì doanh nghiệp chịu trách nhiệm pháp lý cao trong việc xác lập hồ sơ hoàn thuế. Nếu xảy ra gian lận, doanh nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm phần lớn. Trách nhiệm của cơ quan thuế cũng lớn nhưng không căng thẳng, vì chỉ có nghĩa vụ kiểm tra tính logic và hợp lý của các hồ sơ xin hoàn. Cơ chế hậu kiểm cũng đảm bảo rút ngắn thời gian hoàn thuế cho các doanh nghiệp phù hợp với chủ trương hỗ trợ của Nhà nước. Tuy nhiên, kiểm tra sau hoàn thuế khi các hành vi gian lận đã thực hiện rồi thì việc phát hiện, quy trách nhiệm và truy thu tiền hoàn gặp không ít khó khăn. Vì vậy, đối với các trường hợp có nhiều khả năng xảy ra gian lận, nên tiến hành kiểm tra trước khi hoàn thuế. Nhưng cũng chính quy định mới này đã đẩy đến một thực trạng là hầu hết các hồ sơ đề nghị hoàn từ khi có quyết định phân loại thường rất sơ sài, bởi mọi phát hiện không hợp lệ cũng không bị xử phạt như là một hành vi gian lận về thuế, vì hành vi đó chưa xảy ra. Trách nhiệm của cơ quan thuế trong việc hoàn thuế rất cao, nếu hồ sơ đề nghị hoàn được thông qua trong quá trình tiền kiểm có nghĩa là nếu phát hiện có gian lận trong hồ sơ đó, cán bộ trực tiếp thụ lý hồ sơ sẽ phải chịu trách nhiệm. Thời gian xét hoàn thuế sẽ lâu, thậm chí có những hồ sơ rất lâu, gây ảnh hưởng đến đơn vị hoàn thuế, đặc biệt trong ngành xây dựng với những công trình lớn gồm nhiều hạng mục thi công thì nhu cầu về vốn là rất quan trọng. Xét trên góc độ này, quy định mới đã không phát huy được tính tích cực của mục đích hoàn thuế ban đầu.
Là một trong những ngành kinh tế được nguồn vốn ODA tài trợ cho nhiều dự án lớn, hoàn thuế GTGT cho các doanh nghiệp ngành Giao thông-Xây dựng hàng năm đã xét hoàn thuế cho khá nhiều hồ sơ ODA. Việc hoàn thuế cho các chủ dự án ODA không hoàn lại về thực chất cũng chỉ là một hình thức biến tướng của việc xin hoàn thuế cho hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu tại chỗ chịu thuế suất 0% cho người sử dụng cuối cùng mà thôi. So với năm 2001, số hồ sơ thuộc diện ODA được giải quyết hoàn thuế đã giảm hẳn. Do quy trình hoàn thuế năm 2002 đối với các dự án sử dụng nguồn vốn ODA đã có sự thay đổi từ sau thông tư số 41/2002/TT-BTC ngày 3/5/2002, yêu cầu phải có ý kiến xác nhận của chủ dự án về số thuế GTGT được hoàn trên hồ sơ hoàn thuế cho các nhà thầu, xác nhận các chi phí là hợp lý hợp lệ phục vụ cho dự án sử dụng nguồn vốn ODA. Trên thực tế, hầu hết các xác nhận của chủ dự án đều chung chung, không cụ thể đúng theo yêu cầu của thông tư 41. Vì vậy, rất nhiều trường hợp thuộc diện hoàn thuế trước đây đã không được xét hoàn do chưa đáp ứng yêu cầu mới.
VD: dự án của Tổng công ty công trình giao thông I, Tổng công ty xây dựng Thăng Long.
2.2.2.2 Công tác thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế
Thực hiện chỉ thị số 19/2002/CT-TTg của thủ tướng chính phủ về tăng cường công tác quản lý thuế GTGT và công văn 11077 TC/TCT ngày 14/10/2002 của Bộ Tài Chính, phòng thuế Giao thông đã đẩy mạnh việc kiểm tra, rà soát lại các hồ sơ đã thực hiện hoàn thuế nhằm ngăn chặn, khắc phục kịp thời những hành vi gian lận trong công tác hoàn thuế GTGT.
Theo thống kê kết quả kiểm tra sau hoàn thuế năm 2002 vừa qua, phòng thuế Giao Thông đã tiến hành thực hiện thanh tra kiểm tra 10 hồ sơ hoàn thuế của 8 doanh nghiệp, lập biên bản và thu hồi số thuế vi phạm là 971 triệu đồng.
Trong quá trình kiểm tra, nhìn chung các đối tượng nộp thuế chấp hành tốt các yêu cầu của cơ quan thuế về việc cung cấp các tài liệu hóa đơn chứng từ liên quan, giải trình những vướng mắc về tính trung thực của số liệu…Do các đơn vị thuộc ngành Giao thông-Xây dựng hầu hết là các doanh nghiệp quốc doanh nên có ý thức chấp hành luật khá tốt. Các sai phạm chủ yếu do công tác kế toán thuế còn yếu bởi đặc thù mô hình sản xuất của các đơn vị ngành xây dựng khá phức tạp. Việc thu hồi số tiền thuế vi phạm được tiến hành kiên quyết và thực hiện khá nghiêm chỉnh đối với tất cả các đơn vị sai phạm.
Quá trình kiểm tra đã phát hiện các sai phạm phải truy thu tiền hoàn thuế. Trường hợp tại công ty Sông Đà 9, khi kiểm tra đối chiếu số liệu trên hóa đơn chứng từ thực tế phát sinh trong hồ sơ hoàn thuế tháng 6 năm 2000 với số liệu trên sổ sách kế toán đã phát hiện sai phạm 21 triệu đồng. Không biết vì chưa nắm rõ việc tính thuế GTGT đầu vào, đầu ra hay do cố ý mà kế toán đơn vị đã không chia cho tỷ trọng doanh thu chưa thuế VAT và không chịu thuế VAT, khiến số thuế được hoàn lớn hơn. Ngoài ra, đơn vị cũng không giải trình được số thuế GTGT được tính hoàn của các hóa đơn mua hàng tết và mua TSCĐ khác trong chi phí quản lý của văn phòng công ty tại Hà Nội. Những sai sót không đáng có sau hơn 3 năm triển khai thực hiện luật thuế GTGT vẫn còn như ghi không đúng tên, mã số thuế của người mua, trường hợp của Công ty Xây dựng số 3 hoàn thuế cho nguyên vật liệu xây dựng mua vào số tiền 3 triệu đồng, lỗi tương tự với Tổng công ty Xây dựng Thăng Long số tiền 4,6 triệu đồng, nguyên nhân thường do bộ phận tiếp liệu của các đơn vị này thiếu cẩn thận không kiểm tra các hóa đơn; Hay sai số giữa hồ sơ xin hoàn và hóa đơn chênh lệch đến 10 lần, sự nhầm lẫn vô lý này của Tổng công ty xây dựng Thăng Long đã được giải trình là do kế toán thuế sử dụng máy vi tính vào dữ liệu, sau đó thiếu sự kiểm tra đối chiếu nên bị nhầm giữa giá trị hàng hóa (15.927.000đ) và phần thuế được hoàn (1.592.700đ) do đó có chênh lệch (-14.334.300đ). Tuy nhiên cần phải quy trách nhiệm rõ ràng để hạn chế những sai phạm không đáng có nêu trên.
Do đặc điểm của hoạt động xây dựng tiến hành theo dự án là việc thanh toán được tiến hành theo định kỳ mà thời gian cách quãng giữa các lần thanh toán là hơn 1 tháng hoặc có thể lâu hơn, vì vậy công tác thanh toán thường rải rác trong năm nên việc kê khai trùng rất dễ xảy ra. Hiểu rõ đặc điểm này, việc rà soát các hóa đơn, chứng từ rất được coi trọng và đã phát hiện không ít sai sót trong công tác kế toán thuế. Một chứng từ có thể kê vào 2 công trình khác nhau như trường hợp hoàn thuế cho Ban điều hành 1A2 đã thu hồi số tiền sai phạm và yêu cầu phạt hành chính là 31 triệu đồng. Trong hoạt động Xây dựng và Giao thông công trình, thời điểm hải quan thông báo thuế (kế toán đã kê khai thuế) và thời điểm tiếp liệu viên làm thủ tục nộp thuế và thanh toán tạm ứng cách xa nhau, nếu kế toán thiếu sự kiểm tra đối chiếu lại kê khai một lần nữa theo biên lai nộp thuế sẽ dẫn đến kê khai hai lần. Ngoài ra, để đảm bảo tiến độ công trình và kê khai thuế kịp thời, kế toán đã căn cứ vào chứng chỉ thanh to._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32225.doc