Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng số 34

Lời nói đầu Q uá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: Mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Hai khái niệm tương ứng để đo lường hai mặt đó về giá trị là chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Với ý nghĩa đó, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có một vị trí rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói, tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau đó là hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành s

doc150 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng số 34, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản phẩm. Trong điều kiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh, hạch toán kinh doanh thì việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm càng cần thiết, tiết kiệm chi phí hạ giá thành là tăng thu nhập vừa là vũ khí cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong các chỉ tiêu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì giá thành chiếm một vị trí đặc biệt. Giá thành là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế của doanh nghiệp, giá thành cao hay thấp phản ánh mọi cố gắng của doanh nghiệp như trình độ tổ chức, kỹ thuật và trình độ tổ chức sản xuất..., tất cả mọi mặt hoạt động, các biện pháp chi tiêu, biện pháp quản lý có đem lại hiệu quả hay không đều thể hiện qua chỉ tiêu giá thành, về góc độ này giá thành thực hiện chức năng bù đắp chi phí, phản ánh mức độ tích luỹ của doanh nghiệp. Mặt khác, giá thành còn có chức năng lập giá, lúc này nó thể hiện là vũ khí cạnh tranh hiệu quả của doanh nghiệp. Như vậy, giá thành sản phẩm được đặt trong nhiều mối quan tâm của đối tượng sử dụng thông tin. Do đó là tiết kiệm chi phí hạ giá thành đồng thời cung cấp thông tin chính xác về chúng là yêu cầu đặt ra có tính cấp thiết. Trên phương diện quản lý, kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm là một công cụ đáp ứng yêu cầu trên một cách hiệu quả. Trong doanh nghiệp xây dựng nói riêng, với vị trí là ngành sản xuất vật chất duy nhất có nhiệm vụ tái sản xuất tài sản cố định cho xã hội, luôn chiếm mức vốn đầu tư cao, đặc điểm kinh tế- kĩ thuật phức tạp và vừa được đặt trong môi trường cạnh tranh gay gắt của thị trường vừa lại chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước thì việc kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm càng trở nên cần thiết. Đứng trước vấn đề đó, trong thời gian nghiên cứu lý luận trong trường học và thời gian thực tập tại Công ty xây dựng số 34, được sự giúp đỡ của thầy giáo Nguyễn Ngọc Quang và Phòng tài chính- kế toán Công ty, em đã chọn đề tài “Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng số 34” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Bố cục luận văn ngoài lời nói đầu và kết luận gồm có 3 chương: Chương I: Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở các doanh nghiệp xây dựng. Chương II: Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng số 34. Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty xây dựng số 34. Trong bài viết của mình, em đã cố gắng tìm tòi để hoàn thành luận văn song do kiến thức có hạn nên không tránh khỏi sai sót. Em kính mong được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo để luận văn của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn các thầy giáo, cô giáo! Nội dung Chương I: Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở các doanh nghiệp xây dựng. I-đặc điểm của ngành xây dựng và sản phẩm xây lắp-yêu cầu công tác quản lý, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. 1/ Đặc điểm của ngành xây dựng và sản phẩm xây lắp. Xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất độc lập và duy nhất có chức năng tạo ra và trang bị tài sản cố định cho tất cả các ngành kinh tế, tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Vì vậy, nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong xã hội, sản phẩm của ngành xây dựng không chỉ có ý nghĩa trong phạm vi một doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa với toàn bộ nền kinh tế. Sau những năm thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế mới, cũng như tất cả các ngành trong cả nước, ngành xây dựng cơ bản ngày một thích nghi và phát triển. Với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ngành xây dựng cơ bản lại càng khẳng định được vị trí của mình, được Đảng và Nhà nước quan tâm nhiều hơn. Vì vậy, phần lớn thu nhập quốc dân nói chung và tích luỹ nói riêng cùng với vốn đầu tư tài trợ từ nước ngoài được sử dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Hàng năm ngành xây dựng cơ bản thu hút gần 30% tổng số vốn đầu tư trong cả nước. Vấn đề đặt ra là làm sao quản lý vốn có hiệu quả, khắc phục tình trạng thất thoát vốn, lãng phí trong thi công, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, tăng tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp. So với những ngành sản xuất khác, ngành xây dựng cơ bản có những đặc điểm kinh tế- kĩ thuật đặc trưng thể hiện rất rõ ở sản phẩm và quá trình sáng tạo ra sản phẩm của ngành. Do vậy, công tác kế toán trong các doanh nghiệp xây dựng cơ bản phải có nét đặc trưng riêng phù hợp để thực hiện tốt nhất chức năng của kế toán là thông tin và phản ánh, đồng thời cũng phải phù hợp với những chuẩn mực kế toán chung được thừa nhận. Thông thường, sản phẩm xây dựng ở doanh nghiệp được thực hiện thông qua hình thức nhận thầu hoặc theo đơn đặt hàng, sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu), sản phẩm sản xuất xong không phải đem đi tiêu thụ và khách hàng đã được xác định trước khi thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm. Vì vậy, các chi phí lưu thông trong các doanh nghệp này là không có. Chi phí phát sinh chủ yếu trong quá trình cung ứng và quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất, doanh nghiệp sẽ không phải tiến hành các hoạt động xúc tiến tiêu thụ nhưng mặt khác lại phải có quan hệ chặt chẽ với khách hàng về việc bảo đảm quá trình sản xuất theo đúng tiến độ cũng như chất lượng công trình và đó chính là việc xúc tiến tiêu thụ trong tương lai. Phù hợp với đặc điểm này, kế toán chỉ tập trung theo dõi và tập hợp chi phí trong quá trình sản xuất. Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc... - Nó mang tính tổng hợp về nhiều mặt kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội... có quy mô lớn, kết cấu phức tạp có tính đơn chiếc, thời gian sản xuất lâu dài. Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý và hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành phải xác định cho mình một phương pháp và trình tự hạch toán thích hợp, linh hoạt, hiệu quả đảm bảo phản ánh được đầy đủ và chính xác các chi phí phát sinh. Thông thường, trước khi tiến hành xây lắp sản phẩm phải qua các khâu từ lập dự án rồi đến dự toán công trình. Dự toán công trình là tổng mức phí cần thiết cho việc xây lắp công trình, được tính toán cụ thể ở giai đoạn thiết kế kĩ thuật. Tổng dự toán công trình có liên quan đến khảo sát thiết kế, xây dựng, mua sắm thiết bị và các chi phí khác bao gồm cả chi phí dự phòng và yếu tố trượt giá. Dự toán chi phí bao gồm dự toán thiết kế và dự toán thi công được lập cho từng phần việc cụ thể, quá trình sản xuất xây lắp phải so sánh với dự toán và lấy dự toán làm thước đo cả về mặt giá trị lẫn mặt kĩ thuật. Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện của sản xuất (xe máy, thiết bị thi công, vật tư, người lao động...) phải di chuyển theo địa điểm của công trình. Mặt khác, hoạt động xây dựng cơ bản chủ yếu được tiến hành ở ngoài trời, thường chịu ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên và môi trường: mưa, nắng, gió, bão,... dễ dẫn đến mất mát hư hỏng và không có tính ổn định. Vì vậy công tác quản lý, sử dụng và hạch toán vật tư tài sản gặp nhiều khó khăn và phức tạp. Thời gian sử dụng sản phẩm rất lâu dài, đòi hỏi việc tổ chức quản lý và hạch toán sao cho chất lượng công trình được bảo đảm đúng dự toán thiết kế nghĩa là phải bảo đảm phản ánh chính xác và đúng theo từng thời điểm phát sinh. 2/Yêu cầu của công tác quản lý, kế toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp xây dựng. Do vị trí quan trọng của ngành xây dựng cơ bản và đặc thù sản xuất của nó mà việc quản lý về đầu tư và xây dựng là một quá trình khó khăn và phức tạp. Để quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, Nhà nước đã ban hành những quy chế quản lý phù hợp, yêu cầu cơ bản của quản lý đầu tư và xây dựng là: 1. Bảo đảm đúng mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. 2. Huy động và sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như của nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, khai thác tốt tài nguyên và tiềm năng người lao động, đất đai và mọi tiềm lực khác, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái, chống hành vi tham ô, lãng phí trong hoạt động đầu tư và xây dựng. 3. Xây dựng theo quy hoạch, kiến trúc và thiết kế kỹ thuật được duyệt, bảo đảm bền vững, mỹ quan, thực hiện cạnh tranh trong xây dựng nhằm áp dụng công nghệ xây dựng tiên tiến, bảo đảm chất lượng và thời hạn xây dựng với chi phí hợp lý và thực hiện bảo hành công trình. (Trích điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 42/CP ngày 16/7/1996 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Nghị định 177/CP.) Trước đây, xây dựng cơ bản là một lỗ hỏng lớn làm thất thoát nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Để hạn chế sự thất thoát này, Nhà nước thực hiện quản lý giá xây dựng thông qua các chế độ chính sách về giá, các nguyên tắc, phương pháp lập dự toán... để xác định tổng mức vốn đầu tư, tổng dự toán công trình. Đặc biệt tiết kiệm chi phí, hạ giá thành là là mối quan tâm hàng đầu, là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Hiện nay, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng phương pháp đấu thầu, giao nhận thầu xây dựng, trong đó phương pháp đấu thầu được Nhà nước khuyến khích áp dụng. Vì vậy để trúng thầu, được nhận thi công một công trình thì doanh nghiệp phải có một giá đấu thầu hợp lý dựa trên cơ sở các định mức, các đơn giá xây dựng cơ bản do Nhà nước ban hành trên cơ sở giá cả thị trường và khả năng của bản thân doanh nghiệp, mặt khác, lại phải đảm bảo kinh doanh có lãi tức là doanh nghiệp luôn luôn phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Để thực hiện được các yêu cầu trên, đơn vị phải biết sử dụng nhiều biện pháp khác nhau. Đứng trên góc độ quản lý thì cần phải biết nguồn gốc hay con đường hình thành nó để trên cơ sở đó, quản lý mới đề ra được biện pháp cần thiết hạn chế, loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố tiêu cực, khuyến khích phát huy mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tích cực, khai thác khả năng tiềm tàng trong quản lý sử dụng các nguồn lực. Do đó, phải tăng cường công tác quản lý kinh tế nói chung, quản lý chi phí, giá thành nói riêng, trong đó trọng tâm là công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đảm bảo phát huy tối đa tác dụng của công cụ kế toán đối với quản lý sản xuất. Yêu cầu đặt ra cho công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là: óPhải phản ánh kịp thời, đầy đủ, chính xác toàn bộ chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất, thi công. óPhân bổ hợp lý các chi phí sản xuất theo từng khoản mục vào các đối tượng tập hợp chi phí. Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất và quy trình công nghệ mà áp dụng phương pháp tính giá thành thích hợp. óTính toán chính xác, phân bổ kịp thời giá thành xây lắp theo đối tượng tính giá thành. óKiểm tra tình hình thực hiện các định mức về các chi phí về vật tư, nhân công, sử dụng máy và các dự toán chi phí khác, phát hiện kịp thời các khoản chi phí chênh lệch so với định mức, các khoản chi phí ngoài kho, các khoản thiệt hại mất mát hư hỏng,... để đề ra các biện pháp ngăn chặn kịp thời. óKiểm tra việc thực hiện giá thành của doanh nghiệp theo từng công trình, hạng mục công trình, vạch ra các khả năng tiềm tàng và có biện pháp hạ giá thành hợp lý và có hiệu quả. óXác định đúng đắn và bàn giao tính toán kịp thời khối lượng công tác xây lắp hoàn thành, định kỳ kiểm tra và đánh giá khối lượng thi công dở dang theo nguyên tắc quy định. óThông qua việc ghi chép, phản ánh tính toán để đánh giá đúng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng công trình, hạng mục công trình, từng bộ phận, tổ đội thi công và toàn doanh nghiệp trong từng thời kỳ nhất định. Kịp thời lập các báo cáo kế toán về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp. Cung cấp chính xác, đầy đủ thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm phục vụ cho quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp, đồng thời kiểm tra được việc thực hiện kế hoạch hạ giá thành và nhiệm vụ hạ giá thành, vạch ra được những nguyên nhân làm cho hoàn thành hoặc chưa hoàn thành kế hoạch, khai thác những khả năng tiềm tàng và đề ra những phương hướng phấn đấu để không ngừng hạ giá thành sản phẩm thực tế. Để thực hiện được các yêu cầu trên, nhiệm vụ đặt ra cho công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là: óXác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, chọn phương pháp tập hợp và phân bổ chi phí thích hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh. óXác định đúng đối tượng tính giá thành và lựa chọn phương pháp tính giá thành thích hợp. Tổ chức tốt việc tính giá thành sản phẩm. óXây dựng quy tắc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, quy định trình tự công việc phân bổ chi phí cho từng đối tượng, từng chi tiết sản phẩm. II-bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng. 1/ Khái niệm và phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng. 1. Khái niệm chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất trong ngành xây dựng cơ bản là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các khoản hao phí cần thiết khác mà doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất thi công trong một thời kỳ nhất định. 2. Phân loại chi phí sản xuất. Trong doanh nghiệp, chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại, nhiều khoản khác nhau cả về tính chất, nội dung, công dụng, vai trò, vị trí... Để thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán, cần thiết phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất. Xuất phát từ các mục đích và yêu cầu khác nhau của quản lý, chi phí sản xuất cũng được phân loại theo những tiêu thức khác nhau. Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi phí vào từng loại, từng nhóm khác nhau sản xuất theo những đặc trưng nhất định. Xét về mặt lý luận cũng như trên thực tế, có rất nhiều cách phân loại chi phí khác nhau như phân loại theo nội dung kinh tế, theo công dụng, theo vị trí, theo quan hệ của chi phí với quá trình sản xuất, v. v... Mỗi cách phân loại đều đáp ứng ít nhiều cho mục đích quản lý, hạch toán, kiểm tra, kiểm soát chi phí phát sinh,... ở các góc độ khác nhau. Vì thế, các cách phân loại đều tồn tại, bổ sung cho nhau và giữ vai trò nhất định trong quản lý chi phí và tính giá thành sản phẩm. Xuất phát từ đặc điểm của ngành xây lắp và yêu cầu quản lý của ngành xây dựng cơ bản, việc phân loại chi phí sản xuất có những nét không giống với các ngành sản xuất khác. Thông thường, chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp được phân loại theo các phương pháp sau: +Xét trên góc độ kế toán tài chính: Có một số cách phân loại chủ yếu được sử dụng phổ biến trong hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm dưới đây: a/Phân loại theo yếu tố chi phí. Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu đồng nhất của nó mà không kể đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh thì chi phí được phân loại theo yếu tố. Về thực chất, chỉ có hai yếu tố chi phí là chi phí về lao động vật hoá và chi phí về lao động sống. Tuy nhiên, để cung cấp thông tin về chi phí một cách cụ thể hơn nhằm phục vụ cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động, việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán, các yếu tố chi phí trên có thể được chi tiết hoá theo nội dung cụ thể của chúng. Tuỳ theo yêu cầu và trình độ quản lý ở mỗi nước, mỗi thời kỳ mà mức độ chi tiết của các yếu tố có thể khác nhau. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia làm 7 yếu tố sau: óYếu tố nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên, vật liệu chính, phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ,... sử dụng vào sản xuất, thi công (loại trừ giá trị nguyên vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi). óYếu tố nhiên liệu, động lực được sử dụng vào quá trình sản xuất sản phẩm trong kỳ (trừ số sử dụng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi). óYếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương: Phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho công nhân, nhân viên quản lý tổ đội thi công. óYếu tố khấu hao tài sản cố định: Phản ánh tổng số khấu hao tài sản cố định phải trích trong kỳ của tất cả các tiài sản cố định dùng cho sản xuất thi công trong kỳ. óYếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào hoạt động sản xuất, thi công trong kỳ. óYếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố chi phí trên dùng vào hoạt động sản xuất, thi công trong kỳ. b/Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm. Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện việc tính giá thành, chi phí được phân chia theo khoản mục. Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Cũng như cách phân loại theo yếu tố, số lượng các khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức, trình độ quản lý và hạch toán ở mỗi nước, mỗi thời kỳ khác nhau. Theo quy định hiện hành, chi phí sản xuất xây lắp ở Việt Nam bao gồm 4 khoản mục chi phí: óChi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu,... tham gia trực tiếp vào sản xuất, thi công. óChi phí nhân công trực tiếp: Gồm tiền lương, phụ cấp lương của công nhân, nhân viên quản lý xí nghiệp, đội thi công. óChi phí sử dụng máy thi công: Là những chi phí liên quan đến việc sử dụng xe máy thi công phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây lắp công trình theo phương thức thi công hỗn hợp vừa thủ công vừa kết hợp bằng máy. óChi phí sản xuất chung: Là những chi phí phát sinh trong phạm vi xí nghiệp, đội xây dựng, trừ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí máy thi công. Ngoài ra, khi tính chỉ tiêu giá thành toàn bộ (giá thành đầy đủ) thì chỉ tiêu giá thành còn bao gồm cả khoản mục chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Ta thấy điều khác biệt cách phân loại theo khoản mục chi phí ở doanh nghiệp xây dựng so với các ngành sản xuất khác là ở chỗ: Trong doanh nghệp xây dựng, khoản mục chi phí nhân công trực tiếp không bao gồm yếu tố bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn nhưng ở các doanh nghiệp khác thì có. c/Phân loại chi phí theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm, công việc, lao vụ sản xuất trong kỳ. Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất được chia làm 2 loại: óChi phí khả biến (biến phí ): Là loại chi phí có thay đổi về lượng tương quan tỷ lệ thuận với sự thay đổi của khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ. Thuộc loại chi phí này là: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. óChi phí cố định (định phí ): Là chi phí không thay đổi về tổng số khi có sự thay đổi trong mức độ hoạt động của sản xuất hoặc khối lượng công việc, lao vụ sản xuất trong kỳ. Phân loại chi phí sản xuất thành chi phí khả biến và chi phí cố định có tác dụng quản lý định mức và những khoản chi phí mà Nhà nước quản lý chặt chẽ. Đặc biệt nó có vai trò rất quan trọng đối với quản trị kinh doanh, phân tích điểm hoà vốn phục vụ cho việc ra quyết định quản lý, tận dụng tiềm năng phát triển sản xuất kinh doanh. +Trên góc độ kế toán quản trị: Những cách phân loại chi phí nêu trên đều có tác dụng đối với việc ra quyết định của doanh nghiệp, tuy nhiên, để phục vụ tốt hơn cho quá trình quản trị doanh nghiệp thì trong kế toán quản trị còn có những cách phân loại sau: a/Phân loại chi phí theo chức năng của chi phí: Theo cách phân loại này, chi phí được chia làm 2 loại: óChi phí ban đầu: Là những khoản chi phí đầu tiên chủ yếu của sản phẩm, gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp. óChi phí chuyển đổi: Phản ánh mức chi phí cần thiết để chuyển đổi nguyên vật liệu từ dạng thô sang dạng thành phẩm, nó bao gồm 3 khoản là chi phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công và chi phí sản xuất chung. Cách phân loại này giúp doanh nghiệp xác định được cơ cấu chi phí của mình và so sánh với mức chung của ngành, từ đó có sự phân tích, đánh giá để đưa ra quyết định phù hợp. b/Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí. Cách ứng xử của chi phí có nghĩa là chi phí này thay đổi như thế nào đối với các mức độ thay đổi của hoạt động sản xuất. Với cách phân loại này cho phép người quản lý thấy trước được sự thay đổi của chi phí khi hoạt động sản xuất thay đổi, do đó đáp ứng cho yêu cầu lập kế hoạch, kiểm soát và chủ động điều tiết chi phí. Thật ra cách phân loại này chính là cách phân loại chi phí theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm, công việc, lao vụ sản xuất trong kỳ. Tuy nhiên, để phục vụ cho mục đích quản trị, nó có một số nét khác biệt, cụ thể, theo cách phân loại này, chi phí được chia làm 3 loại: óBiến phí (chi phí khả biến): Là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với biến động của mức độ hoạt động sản xuất, nó thường gồm những khoản sau: +Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, +Chi phí nhân công trực tiếp, +Một bộ phận chi phí sản xuất chung, chi phí máy thi công (bao gồm chi phí nguyên vật liệu gián tiếp, chi phí nhân công gián tiếp, chi phí động lực, công cụ, dụng cụ, nhiên liệu,...) óĐịnh phí (chi phí cố định): Là những khoản chi phí không thay đổi khi mức độ hoạt động sản xuất thay đổi, tuy nhiên, định phí chỉ giữ nguyên trong phạm vi phù hợp của mức độ hoạt động giữa mức độ hoạt động tối thiểu và mức độ hoạt động tối đa mà doanh nghiệp dự định sản xuất. ó Chi phí hỗn hợp: Bao gồm cả yếu tố biến phí và định phí ở mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của định phí. Qúa mức độ đó, nó lại thể hiện đặc điểm của chi phí biến đổi. Chi phí hỗn hợp thường bao gồm các khoản điện nước, điện thoại, sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị... Do đó, chỉ có chi phí sản xuất chung mới có đặc điểm của chi phí hỗn hợp. Ngoài ra có các cách phân loại sau đây nhằm mục đích cho việc ra quyết định kinh doanh: -Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. -Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được. : Là những khoản mục chi phí phản ánh phạm vi quyền hạn của người quản lý các cấp đối với những loại chi phí đó. Người quản lý cấp cao có phạm vi quyền hạn rộng đối với chi phí hơn là những người quản lý cấp dươí, nghĩa là họ có nhiều quyền kiểm soát và quyết định chi phí hơn. -Chi phí chênh lệch: là những loại chi phí có ở phương án này mà không có hoặc chỉ có một phần ở phương án kia. Người ta xét chi phí này khi khi chọn phương án hành động. -Chi phí chìm: Là loại chi phí mà doanh nghiệp phải chịu và sẽ phải chịu dù doanh nghiệp chọn phương án hành động nào. Chi phí chìm không bao giờ thích hợp với việc ra quyết định vì chúng không có tính chênh lệch. Do đó, tất cả chi phí đã đầu tư vào tài sản cố định dù theo giá trị ban đầu hay giá trị còn lại đều là chi phí chìm. 2/Khái niệm giá thành và phân loại giá thành trong doanh nghiệp xây dựng. 1.Khái niệm giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành. Trong doanh nghiệp xây dựng, khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành là các công trình, hạng mục công trình, khối lượng xây lắp đã hoàn thành. Như ta đã biết, quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: Mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất và hai thước đo giá trị tương ứng của chúng là chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Tất cả những khoản chi phí phát sinh (phát sinh trong kỳ, kỳ trước chuyển sang) và tất cả các khoản chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Theo đúng ý nghĩa đó, giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị của những lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất cần phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm toàn bộ những chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dụng cho sản xuất sản phẩm, lao vụ, dịch vụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống tiêu hao cho quá trình sản xuất. Mọi cách tính toán một cách chủ quan, không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hoá- tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Tuy nhiên, giá thành là đại lượng tính toán - là một chỉ tiêu biến tướng ý định nên ở phương diện này, nó cũng có phần nào mang tính chủ quan (biểu hiện mặt hạn chế của giá thành). Đặc điểm chủ quan của giá thành được thể hiện ở hai khía cạnh: -Tính vào giá thành một số khoản mục chi phí mà thực chất là thu nhập thuần tuý của xã hội như các khoản trích nộp thuế, nộp cấp trên,... -Một số khoản mục chi phí gián tiếp được phân bổ vào giá thành của từng loại sản phẩm hay từng sản phẩm theo các tiêu thức phù hợp. Như vậy, chỉ tiêu giá thành trong một chừng mực nào đó vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan, vì vậy nó cần được xem xét trên nhiều mặt khác nhau nhằm có thể sử dụng chỉ tiêu này một cách có hiệu quả nhất. 2.Phân loại giá thành sản phẩm. Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau: +Trên góc độ kinh tế chính trị: Có hai khái niệm giá thành là giá thành xã hội và giá thành cá biệt. óGiá thành xã hội là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ lượng hao phí lao động cần thiết để sản xuất ra sản phẩm trong điều kiện trung bình của nền sản xuất xã hội. óGiá thành cá biệt là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ lượng hao phí lao động cần thiết để sản xuất ra sản phẩm trong một điều kiện cụ thể của một cơ sở sản xuất nào đó. Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý vĩ mô, nó cho phép đánh giá việc sử dụng tài nguyên của một quốc gia, một xã hội có hiệu quả như thế nào, năng suất sản xuất đến đâu. +Trên góc độ kế toán tài chính: Trong doanh nghiệp xây dựng có các cách phân loại chủ yếu sau: a/Phân loại giá thành theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành. Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm xây lắp được chia thành giá thành dự toán, giá thành kế hoạch và giá thành thực tế. Giá trị dự toán - Giá thành dự toán = Lãi định mức óGiá thành dự toán: Là tổng số chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng xây lắp công trình, được xác định theo định mức và khung giá quy định áp dụng cho từng vùng lãnh thổ. Giá thành dự toán nhỏ hơn giá trị dự toán ở phần lợi nhuận định mức. Giá thành dự toán của công trình, hạng mục công trình là chi phí cho công tác xây dựng, lắp đặt các cấu kiện, các máy móc thiết bị bao gồm các chi phí trực tiếp, chi phí chung và lợi nhuận định mức. Lãi định mức là chỉ tiêu Nhà nước quy định để tích luỹ cho xã hội giá trị do ngành xây dựng cơ bản sáng tạo ra. óGiá thành kế hoạch: Là loại giá thành được xác định trước khi bước vào sản xuất được xây dựng từ những điều kiện cụ thể về biện pháp thi công, các định mức đơn giá áp dụng trong đơn vị. Việc tính toán giá thành kế hoạch do bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp thực hiện và được tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là căn cứ để so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện hạ giá thành ở doanh nghiệp. Giá thành kế hoạch - Giá thành dự toán = Mức hạ giá thành dự toán Khi tính giá thành kế hoạch, việc quan trọng nhất là xác định đúng số tiết kiệm so với giá thành dự toán nhờ thực hiện các biện pháp kỹ thuật. Bằng cách tính toán có căn cứ các biện pháp kỹ thuật, có thể tổng hợp các hiệu quả kinh tế do các biện pháp mang lại. óGiá thành thực tế: Là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Giá thành thực tế mang tính chất xã hội, nhờ việc so sánh giá thành thực tế với giá thành dự toán cho phép ta đánh giá trình độ quản lý của doanh nghiệp xây lắp đó trong mối quan hệ với doanh nghiệp khác. Việc so sánh giá thành thực tế với giá thành kế hoạch cho phép đánh giá sự tiến bộ hay yếu kém của doanh nghiệp xây lắp trong điều kiện cụ thể về cơ sở vật chất, trình độ tổ chức quản lý của bản thân nó. Đối với các đơn vị không có giá thành dự toán thì theo cách phân loại này, người ta có thêm loại giá thành định mức (giống như các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp). óGiá thành định mức: Cũng như giá thành dự toán hay giá thành kế hoạch, nó được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm dựa trên những định mức tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành lại được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng) nên giá thành định mức luôn phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình sản xuất sản phẩm. b/Phân loại giá thành theo phạm vi phát sinh. Theo cách phân loại này, giá thành được chia thành 2 loại: óGiá thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xưởng): Là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung). Bởi vậy giá thành sản xuất còn có tên gọi là giá thành phân xưởng. óGiá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ): Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (chi phí sản xuất, chi phí bán hàng và chi phí quản lý). Do vậy, giá thành tiêu thụ còn được gọi là giá thành toàn bộ hay giá thành đầy đủ. Z toàn bộ của Z sản xuất Chi phí quản Chi phí tiêu sp tiêu thụ = sản phẩm + lý DN + thụ sp c/Phân loại giá thành th._.eo theo phạm vị tính giá thành: Do quá trình thi công và sản xuất sản phẩm xây lắp kéo dài, khối lượng xây lắp lớn nên để tiện theo dõi những chi phí phát sinh, người ta phân chia giá thành sản phẩm xây lắp thành giá thành hoàn chỉnh và giá thành không hoàn chỉnh. óGiá thành hoàn chỉnh: Phản ánh toàn bộ chi phí liên quan công trình, hạng mục công trình hoàn thành hay chính là chi phí chi ra để tiến hành thi công một công trình, hạng mục công trình kể từ khi khởi công đến khi kết thúc hoàn thành bàn giao cho bên A (bên chủ đầu tư). óGiá thành không hoàn chỉnh (giá thành công tác xây lắp thực tế): Phản ánh giá thành một khối lượng công tác xây lắp đạt tới một điểm dừng kỹ thuật nhất định, nó cho phép kiểm kê kịp thời chi phí phát sinh để kịp thời điều chỉnh cho thích hợp ở những giai đoạn sau, phát hiện những nguyên nhân làm thay đổi chi phí. d/ Ngoài ra, trong xây dựng cơ bản còn sử dụng hai chỉ tiêu giá thành sau: óGiá thành đấu thầu xây lắp: Là một loại giá thành dự toán xây lắp do chủ đầu tư đưa ra để các doanh nghiệp căn cứ vào đó mà tính giá thành của mình (còn gọi là giá thành dự thầu công tác xây lắp). Nếu thấy giá thành của mình thấp hơn giá thành đấu thầu thì sẽ tăng giá đấu thầu công tác xây lắp công trình. Giá đấu thầu công tác xây lắp do chủ đầu tư đưa ra, về nguyên tắc chỉ bằng hoặc nhỏ hơn giá thành dự toán, có như vậy chủ đầu tư mới tiết kiệm được vốn đầu tư, tăng hiệu quả sử dụng đồng vốn. óGiá hợp đồng công tác xây lắp: Là loại giá thành dự toán xây lắp ghi trong hợp đồng được ký kết giữa chủ đầu tư và đơn vị xây lắp sau khi đã thoả thuận giao nhận thầu. Đó cũng chính là giá thành của doanh nghiệp thắng cuộc trong đấu thầu và được chủ đầu tư thoả thuận ký hợp đồng giao thầu. Về nguyên tắc, giá thành hợp đồng chỉ được nhỏ hơn hoặc bằng giá đấu thầu công tác xây lắp. Việc áp dụng hai loại giá thành xây lắp trên là yếu tố quan trọng của việc hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế trong xây dựng. Nó sử dụng được quan hệ tiền - hàng, tạo ra sự mềm dẻo nhất định trong quan hệ giữa chủ đầu tư và doanh nghiệp xây lắp, tạo quyền chủ động trong việc định giá sản phẩm của mình cũng như trong hoạt động kinh doanh, thích hợp với cơ chế thị trường. +Ngoài ra trên góc độ kế toán quản trị, người ta còn phân loại giá thành ra làm 2 loại là giá thành đầy đủ và giá thành cần thiết. óGiá thành đầy đủ: Giá thành đầy đủ của một khối lượng sản phẩm, lao vụ dịch vụ là là loại giá thành mà bao gồm trong đó toàn bộ các khoản chi phí có liên quan đến việc sản xuất ra khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đó. óGiá thành cần thiết: Giá thành cần thiết của một khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ là loại giá thành chỉ bao gồm trong đó những khoản chi phí phát sinh thêm khi sản xuất thêm khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đó. Giá thành cần thiết như là một trường hợp đặc biệt của chi phí cận biên khi sản xuất sản phẩm, lao vụ, dịch vụ. Đây là một cơ sở quan trọng cho việc ra quyết định xác định khối lượng sản phẩm sản xuất và chấp nhận đơn đặt hàng. 3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm có quan hệ mật thiết với nhau cả về mặt chất cũng như mặt lượng. Về mặt chất, chúng đều phản ánh chi phí lao động trên hai mặt của một quá trình thống nhất: quá trình sản xuất. Về mặt lượng, giá thành là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra bất kể ở kỳ nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm, dịch vụ, lao vụ đã hoàn thành trong kỳ. Có thể phản ánh mối quan hệ về lượng đó như sau: Chi phí sản xuất dở Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ dang đầu kỳ b d a Tổng giá thành sản phẩm c Chi phí sản xuất dịch vụ hoàn thành dở dang cuối kỳ Qua sơ đồ ta thấy: AC tức là: = + - Tổng giá thành sản Chi phí sxdd Chi phí sxps Chi phí sxdd phẩm hoàn thành đầu kỳ trong kỳ cuối kỳ Khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất dở dang) đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc khi không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. Như vậy ta thấy, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, điều đó làm cho công tác hạch toán chúng cũng có mối quan hệ chặt chẽ. Xuất phát từ mối quan hệ về chất của hai khái niệm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm mà giữa hai quá trình hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có mối quan hệ là hai quá trình hạch toán kế tiếp nhau của quá trình hạch toán sản xuất. Trước hết là chúng có mối quan hệ chặt chẽ giữa đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành, chúng đều phụ thuộc vào loại hình sản xuất sản phẩm, quy trình công nghệ... Thứ hai là việc tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất có vai trò quan trọng trong việc tính đúng giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, việc hạch toán chi phí sản xuất chưa phải là mục tiêu của phương pháp tính giá thành sản phẩm mà nó chỉ mới là cơ sở, là phương tiện của giá thành. Hạch toán chi phí sản xuất dù đầy đủ và chi tiết đến đâu cũng chỉ phản ánh được một phần của quan hệ này, mặt chi ra của sản xuất, vì vậy, ngoài hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm còn vận dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm nêu ra chính xác nhất quan hệ giữa chi phí và kết quả sản xuất của từng hoạt động sản xuất kinh doanh cụ thể. 4/Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm. 1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm. Để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được chính xác, kịp thời đòi hỏi công việc đầu tiên mà nhà quản lý phải làm là xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm. Vấn đề này có tầm quan trọng đặc biệt cả trong lý luận cũng như thực tiễn và là nội dung cơ bản nhất của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là giai đoạn hạch toán chi tiết chi phí sản xuất phát sinh theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng, giai đoạn công nghệ, phân xưởng,... và giai đoạn tính giá thành sản phẩm, chi tiết sản phẩm, sản phẩm theo đơn đặt hàng đã hoàn thành theo đơn vị tính giá thành quy định. Việc phân chia này xuất phát từ yêu cầu quản lý kiểm tra và phân tích chi phí, yêu cầu hạch toán kinh doanh nội bộ, theo đặc điểm quy trình công nghệ của từng doanh nghiệp và yêu cầu tính giá thành sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định. Có thể nói, việc phân chia quá trình hạch toán thành hai giai đoạn là do sự khác nhau cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí trong hạch toán chi phí sản xuất- tức là đối tượng hạch toán chi phí sản xuất- và sản phẩm hoàn thành cần phải tính giá thành một đơn vị - tức là đối tượng tính giá thành. Như vậy, xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chính là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Còn xác định đối tượng tính giá thành chính là việc xác định sản phẩm, bán thành phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối tượng đó có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang trên dây chuyền sản xuất tuỳ theo yêu cầu của hạch toán kinh tế nội bộ và tiêu thụ sản phẩm. Để phân biệt được đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm ngay cả khi chúng đồng nhất là một cần dựa vào các cơ sở sau đây: a/Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: Sản xuất giản đơn hay phức tạp. Với sản xuất giản đơn, (doanh nghiệp chỉ sản xuất một số ít mặt hàng với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn, khép kín, liên tục, không có điểm dừng, sản phẩm dở dang không có hoặc chỉ có không đáng kể) thì đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất (nếu sản xuất một loại sản phẩm) hoặc có thể là nhóm sản phẩm (nếu sản xuất nhiều thứ sản phẩm cùng tiến hành trong cùng một quá trình lao động). Đối tượng tính giá thành ở đây là sản phẩm cuối cùng. Với sản xuất phức tạp (quy trình sản xuất qua nhiều bước khác nhau, có điểm dừng kỹ thuật, chu kỳ sản xuất kéo dài) thì đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm... Còn đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng hoặc bán thành phẩm ở từng bước chế tạo. b/Loại hình sản xuất: Đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn. Đối với sản xuất đơn chiếc (sản phẩm có quy mô và giá trị lớn, các sản phẩm không hoàn toàn giống nhau) và sản xuất hàng loạt nhỏ thì đối tượng hạch toán chi phí là các đơn đặt hàng riêng biệt, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn. Đối với sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn, phụ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất (đơn giản hay phức tạp) mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ... Còn đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm như đã nêu trên. c/Yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh:. Dựa trên cơ sở trình độ, yêu cầu và tổ chức quản lý để xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành. Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng hạch toán chi phí sản xuát và tính giá thành sản phẩm ở các góc độ khác nhau: ngược lại, nếu trình độ thấp thì đối tượng đó có thể bị hạn chế và thu hẹp lại. Đối với doanh nghiệp xây dựng, đặc điểm quy trình công nghệ là phức tạp có khi là phức tạp kiểu song song, có khi là phức tạp kiểu liên tục và đối với sản xuất phụ (sản xuất bê tông tươi, bê tông cốt thép, cột trụ,...), sản phẩm mang tính đơn chiếc, cũng có khi là hàng loạt nhỏ (sản xuất phụ) do đó đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính gía thành rất đa dạng, phức tạp, có khi, đối tượng tập hợp chi phí là các công trình, các hạng mục công trình, các phân xưởng, các tổ đội; còn đối tượng tính giá thành là các công trình, hạng mục công trình, sản phẩm, nhóm sản phẩm. Việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là vấn đề có ý nghĩa lớn, mang tính định hướng cho cho tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Đồng thời thể hiện được mục đích và phạm vi tiến hành hai giai đoạn của công tác kế toán nêu trên. 2. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Do có sự khác nhau cơ bản giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành mà có sự phân biệt giữa phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành sản phẩm. a/Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất: Là một hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Mỗi phương pháp hạch toán chi phí tương ứng cới một loại đối tượng hạch toán chi phí nên tên gọi của phương pháp biểu hiện đối tượng mà nó cần tập hợp và phân loại chi phí. Trong doanh nghiệp xây dựng, có những phương pháp tập hợp chi phí phổ biến sau: +Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo công trình hay hạng mục công trình (theo nhóm sản phẩm): Nếu là hạng mục công trình hay nhóm hạng mục công trình thì hàng tháng chi phí sản xuất phát sinh liên quan đến hạng mục cong trình nào hay nhóm hạng mục công trình nào thì tập hợp cho hạng mục công trình đó. Các khoản chi phí dược phân chia theo khoản mục giá thành. Giá thành thực tế của đối tượng đó chính là tổng số chi phí được tập hợp cho từng đối tượng, kể từ khi khởi công đến khi hoàn thành. +Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo đơn đặt hàng (theo sản phẩm): Chi phí sản xuất phát sinh sẽ được tập hợp và phân loại theo các đơn đặt hàng riêng biệt. Khi đơn đặt hàng hoàn thành thì tổng số chi phí phát sinh kể từ khi khởi công đến khi hoàn thành chính là giá thành thực tế của đơn đặt hàng đó. +Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo đơn vị thi công (theo nhóm hoặc khu vực thi công): Chi phí phát sinh được tập hợp theo từng đơn vị thi công. Trong từng đơn vị đó, chi phí lại dược tập hợp theo từng đối tượng chịu phí như công trình, hạng mục công trình,... Cuối tháng, tổng hợp chi phí sản xuất phát sinh ở từng đơn vị thi công được so sánh với dự toán cấp phát để xác định hạch toán kế toán nội bộ. Khi công trình, hạng mục công trình hoàn thành thì phải tính giá riêng bằng các phương pháp tính giá thành thích hợp. b/Phương pháp tính giá thành sản phẩm: Là một phương pháp hoặc hệ thống các phương pháp được sử dụng để tính giá thành của đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Về cơ bản, phương pháp tính giá thành bao gồm phương pháp trực tiếp, phương pháp tổng cộng chi phí, phương pháp tỷ lệ, v. v... Việc tính giá thành sản phẩm trong từng doanh nghiệp, cụ thể tuỳ thuộc vào đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành mà có thể áp dụng một trong các biện pháp nói trên hoặc áp dụng kết hợp một số các biện pháp với nhau: +Phương pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản đơn): Phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn. Giá thành sản phẩm theo phương pháp này được tính bằng cách trực tiếp lấy tổng số chi phí sản xuất cộng (+) hoặc trừ (-) số chênh lệch giữa giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ so với đầu kỳ chia (:) cho số lượng sản phẩm hoàn thành. +Phương pháp tổng cộng chi phí: áp dụng đối với các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất sản phẩm được thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các bộ phận, chi tiết sản phẩm hoặc giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản xuất. Giá thành sản phẩm được xác định bằng cách cộng chi phí sản xuất của các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận sản phẩm tạo nên thành phẩm. Giá thành thành phẩm = Z1 + Z2 +... + Zn Phương pháp tổng cộng chi phí được sử dụng phổ biến trong các doanh nghiệp khai thác, dệt, nhuộm, cơ khí chế tạo,... +Phương pháp hệ số: Phương pháp hệ số được sử dụng trong các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm được mà phải tập hợp chung cho cả quá trình sản xuất. Theo phương pháp này, trước hết, kế toán căn cứ vào hệ số quy đổi dể quy các loại sản phẩm về sản phẩm gốc, từ đó, dựa vào tổng chi phí liên quan đến giá thành các loại sản phẩm đã tập hợp để tính ra giá thành sản phẩm gốc và giá thành từng loại sản phẩm. Giá thành Tổng giá thành sản xuất của các loại sản phẩm đơn vị = sản phẩm gốc Tổng số sản phẩm gốc quy đổi x = Giá thành đơn vị Giá thành đơn vị Hệ số quy đổi sản phẩm từng loại sản phẩm gốc sản phẩm từng loại Trong đó: x = = Sản lượng sản Số lượng sản Hệ số quy đổi phẩm quy đổi phẩm loại i sản phẩm loại i - Tổng giá thành Giá trị SP Tổng chi phí Giá trị SP sản xuất của các dở dang + sản xuất phát dở dang loại sản phẩm đầu kỳ sinh trong kỳ cuối kỳ +Phương pháp tỷ lệ: Trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách, phẩm chất khác nhau như may mặc, dệt kim, đóng giày, cơ khí chế tạo (dụng cụ, phụ tùng), v. v... để giảm bớt khối lượng hạch toán, kế toán thường tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm cùng loại. Căn cứ vào tỷ lệ chi phí giữa chi phí sản xuất thực tế với chi phí chi phí sản xuất kế hoach (hoặc định mức), kế toán sẽ tính ra giá thành đơn vị và tổng giá thành sản phẩm từng loại. Giá thành Giá thành kế hoạch Tỷ lệ giữa chi phí thực thực tế đơn vị = hoặc định mức đơn vị x tế so với chi phí kế SP từng loại thực tế sản phẩm từng loại hoạch hoặc định mức +Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ: Đối với các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên cạnh các sản phẩm chính thu được còn có sản phẩm phụ (các doanh nghiệp chế biến đường rượu, bia, mỳ ăn liền... ), để tính giá thành sản phẩm, kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể được xác định theo nhiều phương pháp khác nhau như giá có thể sử dụng, giá trị ước tính, giá kế hoạch, giá nguyên liệu ban đầu... Tổng Giá trị Tổng chi phí Giá trị Giá trị giá thành = SP chính + sản xuất PS - SP phụ - SP chính SP chính DD đầu kỳ trong kỳ thu hồi DD cuối kỳ +Phương pháp tính giá thành theo định mức: Là phương pháp dựa trên cơ sở hệ thống định mức tiêu hao lao động, vật tư hiện hành và dự toán về chi phí sản xuất chung, kế toán sẽ xác định giá thành định mức của từng loại sản phẩm. Đồng thời hạch toán riêng các thay đổi, các chênh lệch so với định mức phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm và phân tích toàn bộ chi phí phát sinh thành ba loại: theo định mức, chênh lệch do thay đổi định mức và chênh lệch so với định mức. Từ đó tiến hành xác định giá thành thực tế của sản phẩm bằng cách: Giá thành Giá thành Chênh lệch Chênh lệch thực tế = định mức do thay đổi so với sản phẩm sản phẩm định mức định mức Việc tính toán giá thành định mức được tiến hành trên cơ sở các định mức tiên tiến hiện hành ngày đầu kỳ (thường là ngày đầu tháng). Tuỳ theo tính chất quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm và đặc điểm sản phẩm mà áp dụng phương pháp tính giá thành sản phẩm khác nhau (theo sản phẩm hoàn thành, theo chi tiết, bộ phận sản phẩm rồi tổng hợp lại...). Việc thay đổi định mức là việc tăng hay giảm các định mức chi phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm do kết quả của việc áp dụng các định mức mới kinh tế và tiết kiệm hơn để thay thế các định mức cũ đã lỗi thời. Việc thay đổi định mức được tiến hành vào ngày đầu tháng để tiện lợi cho việc thực hiện các định mức cũng như kiểm tra việc thi hành các định mức. Trường hợp việc thay đổi định mức diễn ra vào ngày giữa tháng thì đầu tháng sau mới phát sinh ngoài phạm vi định mức và dự toán quy định được gọi là chênh lệch so với định mức hay thoát ly định mức được hạch toán trên cơ sở các chứng từ báo động mang tính hiệu riêng hoặc theo phương pháp kiểm kê hay phương pháp pha cắt vật liệu. Chứng từ báo động là các chứng từ phản ánh xuất bổ sung vật liệu hay thay thế vật liệu dẫn đến chênh lệch so với định mức. Còn phương pháp pha cắt vật liệu là phương pháp so sánh giữa số vật liệu thực tế chi ra với số chi phí vật liệu định mức. Theo phương pháp kiểm kê, số chênh lệch vật liệu được xác định giống như phương pháp pha cắt nhưng chỉ áp dụng đối với những vật liệu quý hiếm, đắt tiền. Đối với chi phí tiền công, khoản chênh lệch cũng được xác định giống như chi phí vật liệu. Đối với các chi phí sản xuất chung, do bao hàm nhiều nội dung nên để đơn giản, cuối tháng chi cần so sánh tổng số chi phí thực tế so với định mức, trường hợp cần thiết mới đi vào từng nội dung cụ thể. Phương pháp tính giá thành theo định mức đảm bảo việc tính giá thành Được nhanh chóng, kịp thời, chính xác và giúp phát hiện những nguyên nhân làm tăng giá thành từ đó có biện pháp khắc phục kịp thời. Tuy nhiên, khi áp dụng phương pháp này, đòi hỏi doanh nghiệp có hệ thống về định mức chi phí đồng thời công tác tổ chức hạch toán chi phí xác định được số phát sinh phù hợp so với định mức, số thoát ly định mức. +Phương pháp liên hợp: Là phương pháp áp dụng cho những doanh nghiệp có tổ chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như các doanh nghiệp sản xuất, dệt kim, đóng giầy, may mặc, xây dựng,... Trên thực tế, kế toán có thể kết hợp phương pháp trực tiếp với tổng công chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ lệ, hệ số với loại trừ giá trị sản phẩm phụ, v. v... Doanh nghiệp xây dựng là doanh nghiệp sản xuất mà đặc điểm của nó có khi là sản xuất giản đơn (công trình quy mô nhỏ, đơn giản, không phân chia thành các hạng mục công trình) thì phương pháp tính giá thành là phương pháp trực tiếp, có khi sản phẩm mang tính phức tạp, quy mô lớn, nhiều hạng mục công trình thì lúc này phương pháp tính giá thành là phương pháp tổng cộng chi phí, còn khi công trình bao gồm nhiều công trình nhỏ thì áp dụng phương pháp tính giá thành kết hợp giữa hai phương pháp trên và phương pháp hệ số hoặc tỷ lệ... c/Kỳ tính giá thành: Cùng với việc xác định đối tượng tính giá thành, chúng ta cũng phải xác định kỳ tính giá thành sản phẩm. Xác định kỳ tính giá thành thích hợp sẽ giúp cho việc tổ chức công tác tính giá thành sản phẩm được hợp lý, khoa học, đảm bảo cung cấp số liệu về giá thành thực tế của sản phẩm kịp thời, phát huy được đầy đủ chức năng giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm của kế toán. Kỳ tính giá thành là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành phải tập hợp số liệu để tính giá thành thực tế cho các đối tượng tính giá. Để xác định kỳ tính giá thành cho thích hợp, kế toán phải căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm và chu kỳ sản xuất sản phẩm. Trường hợp sản xuất với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn và sản xuất liên tục, kỳ tính giá thành thích hợp là theo kỳ báo cáo. Trường hợp sản xuất sản phẩm mang tính đơn chiếc hoặc hàng loạt theo đơn đặt hàng, chu kỳ sản xuất dài, sản phẩm hoặc hàng loạt sản phẩm chỉ hoàn thành khi kết thúc chu kỳ sản xuất thì kỳ tính giá thành thích hợp là kỳ sản xuất, có nghĩa là tính giá thành sản phẩm khi sản phẩm hoặc đơn đặt hàng đã hoàn thành. Căn cứ vào đặc điểm riêng của ngành xây dựng cơ bản thì kỳ tính giá thành thường là: +Đối với những sản phẩm được sản xuất liên tục, cung cấp cho những đối tượng khác nhau, chu kỳ sản xuất ngắn và sản xuất liên tục như sản xuất gạch, ngói,... thì kỳ tính giá thành là kỳ báo cáo hoặc hàng tháng. +Đối với những sản phẩm sản xuất theo đơn đặt hàng có thời gian sản xuất thi công dài, công việc được coi là hoàn thành khi khi kết thúc mọi công việc trong đơn đặt hàng, thì khi hoàn thành toàn bộ mới tính giá thành thực tế đơn đặt hàng đó. +Với những công trình, hạng mục công trình thì kỳ tính giá thành là thời gian mà sản phẩm xây lắp được coi là hoàn thành và được nghiệm thu bàn giao, thanh toán chi bên A. +Với những công trình lớn hơn, thời gian thi công dài hơn, chỉ khi nào có một bộ phận công trình hoàn thành, có giá trị sử dụng được nghiệm thu bàn giao thì lúc đó doanh nghiệp tính giá thành của bộ phận đó. +Đối với những công trình xây dựng, lắp đặt máy móc thiết bị có thời gian thi công nhiều năm mà không tách ra được từng bộ phận, công trình nhỏ đưa vào sử dụng thì từng phần việc xây lắp lớn đạt đến điểm dừng kỹ thuật hợp lý, theo thiết kế ghi trong hợp đồng giao thầu thi công sẽ được bàn giao thanh toán và doanh nghiệp xây lắp tính giá thành thực tế cho khối lượng xây lắp bàn giao. III-nội dung công tác hạch toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng. 1/Trình tự hạch toán chi phí sản xuất. Việc tập hợp chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý, khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp thời được. Trình tự hạch toán chi phí sản xuất là thứ tự các bước công việc cần tiến hành nhằm tập hợp chi phí sản xuất để phục vụ cho việc tính giá thành công trình được kịp thời theo tính chất và đặc điểm của từng ngành. Đối với ngành xây dựng cơ bản, việc tập hợp chi phí sản xuất được tiến hành qua các bước sau: +Bước một: Tập hợp chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng công trình, hạng mục công trình. +Bước hai: Tính toán và phân bổ chi phí lao vụ của các ngành sản xuất kinh doanh phụ có liên quan trực tiếp cho tường công trình, hạng mục công trình trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và đơn giá lao vụ. +Bước ba: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các công trình có liên quan theo các tiêu thức phù hợp. +Bước bốn: Xác định chi phí dở dang cuối kỳ, từ đó tính giá thành sản phẩm hoàn thành. Để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng, Nhà nước quy định chỉ sử dụng phương pháp kê khai thường xuyên. Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi và phản ánh tính hình hiện có, biến động tăng, giảm hàng tồn kho một cách thường xuyên, liên tục trên các tài khoản phản ánh các loại hàng tồn kho. Phương pháp này được sử dụng phổ biến ở nước ta hiện nay vì những tiện ích của nó. Tuy nhiên, với những doanh nghiệp có nhiều chủng loại vật tư, hàng hoá có giá trị thấp, thường xuyên nhập, xuất mà áp dụng phương pháp này sẽ tốn rất nhiều công sức. Dẫu vậy, phương pháp này có độ chính xác cao và cung cấp thông tin vè hàng tồn kho một cách kịp thời, cập nhật. Theo phương pháp này, bất kỳ ở thời điểm nào, kế toán cũng có thể xác định được lượng nhập, xuất, tồn kho của từng loại hàng tồn kho. 2/Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất. 1. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, các cấu kiện, các bộ phận rời lẻ,... được xuất dùng có liên quan trực tiếp đến việc xây dựng hay lắp đặt các công trình (trừ các vật liệu dùng cho máy thi công). Vật liệu sử dụng cho công trình, hạng mục công trình nào thì tính trực tiếp cho công trình đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ cho các đối tượng. Tiêu thức phân bổ thường là định mức tiêu hao, theo khối lượng thực hiện... = x = Chi phí vật liệu phân bổ Tổng tiêu thức phân bổ Tỷ lệ Cho từng đối tượng(sp) cho từng đối tượng (SP) phân bổ Trong đó: Tỷ lệ (hệ số) Tổng chi phí vật liệu cần phân bổ phân bổ Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng a/Tài khoản sử dụng: Để phản ánh các chi phí nguyên vật liệu phát sinh, người ta dụng tài khoản 621-“Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”. Tài khoản 621 được mở chi tiết đến từng công trình xây dựng, lắp đặt (công trình, hạng mục công trình, các giai đoạn công việc, khối lượng xây lắp có dự toán riêng). Các thiết bị đưa vào lắp đặt do chủ đầu tư không phản ánh vào tài khoản này mà phản ánh vào tài khoản 002- “Tài sản giữ hộ”. Tài khoản 621 có kết cấu phản ánh tương tự các doanh nghiệp sản xuất, cụ thể: óBên nợ: -Giá trị nguyên, vật liệu xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm. óBên có: -Giá trị vật liệu xuất dùng không hết. - Kết chuyển chi phí vật liệu trực tiếp. Tài khoản 621 cuối kỳ không có số dư. b/Nội dung hạch toán: +Khi xuất kho vật liệu sử dụng trực tiếp cho hoạt động xây lắp, ghi: Nợ TK 621 (chi tiết cho từng đối tượng). Có TK 152 (chi phí nguyên vật liệu). +Trường hợp thu mua vật liệu chuyển đến chân công trình, không qua kho, sử dụng trực tiếp cho hoạt động xây lắp: Nợ TK 621(chi tiết cho từng đối tượng): Giá mua không thuế. Nợ TK 133 (1331): Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Có TK liên quan (111, 112, 1412, 331,... ): Tổng giá thanh toán. óTK 111, 112, 1412, 331,... : Vật liệu mua ngoài. óTK 411: Nhận cấp phát, nhận liên doanh. óTK 154: Vật liệu tự sản xuất hay thuê ngoài gia công. óTK 311, 338,... : Vật liệu vay, mượn,... +Trường hợp tạm ứng chi phí để thực hiện giá trị khoán xây lắp nội bộ (bộ phận nhận khoán không tổ chức hạch toán riêng), khi quyết toán tạm ứng về khối lượng nội bộ hoàn thành đã bàn giao được duyệt, kế toán ghi nhận chi phí vật liệu trực tiếp: Nợ TK 621 (chi tiết đối tượng). Có TK 141 (1412): Kết chuyển chi phí vật liệu trực tiếp. +Trường hợp vật liệu dùng không hết nhập kho hay bán thu hồi: Nợ TK liên quan (111, 112, 152,... ) Có TK 621 (chi tiết đối tượng). +Cuối kỳ, kết chuyển hoặc phân bổ giá trị nguyên vật liệu trực tiếp theo từng công trình, hạng mục công trình: Nợ TK 154 (chi tiết theo từng đối tượng). Có TK 621 (chi tiết theo từng đối tượng). 2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp. Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản thù lao lao động phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp các công trình, công nhân phục vụ thi công (kể cả công nhân vận chuyển, bốc dỡ vật tư trong phạm vi mặt bằng xây lắp và công nhân chuẩn bị thi công và thu dọn hiện trường) nhưng lưu ý rằng: nó không bao gồm các khoản trích kinh phí công đoàn, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tính theo tiền lương phải trả cho công nhân viên trực tiếp xây lắp và tiền ăn ca của công nhân xây lắp. a/Tài khoản sử dụng: Để hạch toán chi phí nhân công trực tiếp, người ta sử dụng TK 622- “Chi phí nhân công trực tiếp”: Khi hạch toán, tài khoản 622 cũng được mở theo từng công trình, hạng mục công trình, giai đoạn công việc... Kết cấu tài khoản 622 của doanh nghiệp xây dựng cũng giống như của các doanh nghiệp khác nhưng lưu ý rằng: Các khoản trích kinh phí công đoàn, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tính theo tiền lương phải trả cho công nhân viên trực tiếp xây lắp và tiền ăn ca của công nhân xây lắp không được hạch toán vào tài khoản 622 mà hạch toán vào tài khoản 627 - “Chi phí sản xuất chung”, cụ thể, kết cấu tài khoản 622 như sau: óBên nợ: -Chi phí nhân công trực tiếp xây lắp (chỉ gồm tiền lương phải trả cho công nhân viên chứ không gồm các khoản trích theo lương và phụ cấp). óBên có: -Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản tính giá thành. Tài khoản 622 cuối kỳ không có số dư. b/Nội dung hạch toán: +Phản ánh số tiền lương, tiền công trả cho người lao động thuộc danh sách do doanh nghiệp quản lý và lao động thời vụ thuê ngoài theo từng loại công việc cụ thể, chi tiết theo từng đối tượng sản xuất: Nợ TK 622 (chi tiết theo từng đối tượng). Có TK 334 (3341): Phải trả cho công nhân viên thuộc danh sách. Có TK liên quan (3342, 111,... ). +Trường hợp tạm ứng chi phí để thực hiện giá trị khoán xây lắp nội bộ (bộ phận nhận khoán không tổ chức hạch toán riêng), khi quyết toán tạm ứng về khối lượng xây lắp nội bộ hoàn thành đã bàn giao được duyệt, kế toán ghi nhận chi phí nhân công trực tiếp: Nợ TK 622 (chi tiết theo từng đối tượng). Có TK 141 (1413): Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp. +Cuối kỳ, kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào giá thành: Nợ TK 154 (chi tiết theo từng đối tượng). Có TK 622 (chi tiết theo từng đối tượng). 3. Hạch toán chi ph._.4) Có TK 3386. Chú ý: Quá trình tạm ứng giao khoán nội bộ và thanh toán được định khoản tương tự như đối với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. (Các sổ chi tiết và tổng hợp tương tự như hạch toán các khoản mục chi phí khác). a2/Chi phí về nhiên liệu: +Cơ sở để tập hợp chi phí nguyên vật liệu là các chứng từ và các bản phân bổ có mẫu như bảng tập hợp chi phí vật liệu trực tiếp, chỉ khác là nó tập hợp theo từng máy thi công, cụ thể, nó có dạng như biểu số 36. +Sổ hạch toán chi tiết chi phí máy thi công cũng được mở cho từng yếu tố giống như hạch toán chi tiết chi phí sản xuất chung. Cụ thể ở đây ta nêu lên một ví dụ cho yếu tố chi phí nguyên vật liệu (biểu số 37). Biểu số 37: bảng tổng hợp chi phí nguyên vật liệu máy thi công Máy : Chứng từ Diễn giải Tổng số tiền Ghi Nợ tk 6232, ghi Có các TK: Số hiệu Ngày tháng 152 153 1421 3386 Ghi chú Người lập biểu: Kế toán trưởng: Trường Giang Nguyễn Thị Phát Số liệu trên bảng này làm cơ sở để ghi vào bảng tổng hợp chi phí sử dụng máy thi công (biểu số 34), sau đó phân bổ cho các công trình (biểu số 35) trên cơ sở bảng phân bổ chi phí máy thi công, kế toán định khoản: Nợ TK 6233 (chi tiết cho từng công trình) Có TK 152 Chú ý: Với nguyên vật liệu không phải nhận từ kho của công trình thì ngoài các bút toán trên thì còn có các bút toán khác phản ánh quan hệ thanh toán nội bộ tương tự như trường hợp xuất dùng nguyên vật liệu cho sản xuất trực tiếp. a3/Chi phí công cụ dụng cụ Công cụ dụng cụ xuất dùng cho máy thi công chủ yếu là các dụng cụ, gá lắp chuyên dùng cho máy thi công, áo quần, đồ dùng bảo hộ của công nhân điều hành máy thi công,... Công ty vẫn sử dụng phương pháp phân bổ 50%, và do đó khoản chi phí này bao gồm chi phí được phân bổ khi xuất dùng công cụ dụng cụ và chi phí phân bổ khi công cụ dụng cụ báo hỏng. Các chứng từ liên quan đến chi phí này được tập hợp cho từng máy thi công. *Đối với công cụ dụng cụ xuất dùng: +Cơ sở hạch toán yếu tố chi phí này là bảng kê xuất kho nguyên vật liệu (biểu số ở phần hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp). Dựa vào bảng đó, kế toán ghi vào bảng tổng hợp chi phí máy thi công (biểu số 34) rồi sau đó ghi vào bảng phân bổ chi phí máy thi công cho các công trình (biểu số 35), số liệu từ bảng này được làm cơ sở hạch toán như sau: Nợ TK 6233 (chi tiết theo từng công trình): 50% giá trị công cụ dụng cụ xuất dùng. Nợ TK 142: 50% giá trị công cụ dụng cụ xuất dùng. Có TK 153. *Đối với công cụ đang dùng báo hỏng, báo mất: +Cơ sở để hạch toán yếu tố chi phí này là các phiếu báo hỏng vật tư, từ các phiếu báo hỏng vật tư, kế toán lập bảng kê công cụ dụng cụ đang dùng báo hỏng. Đây là cơ sở trực tiếp để hạch toán yếu tố chi phí này (biểu số 38). Biểu số 38: Bảng kê công cụ dụng cụ đang dùng của máy thi công báo hỏng Máy: Tháng 12 năm 1999 STT Chứng từ Nội dung Tổng giá trị Đã phân bổ 50% Giá trị còn lại Báo hỏng, báo mất (ghi có TK 1421, ghi nợ các TK:) Số Ngày 6273 111 3381 152 ... 1 01 2/12 Coppa 3.569.900 3.569.900 2 02 9/12 Coppa 912.000 912.000 Tổng 4.481.900 4.481.900 Từ bảng này, kế toán tiến hành ghi vào bảng tổng hợp chi phí cho từng máy thi công (biểu số 34), sau đó tiến hành phân bổ cho từng công trình (biểu số 35), từ bảng phân bổ này, kế toán ghi bút toán phản ánh chi phí công cụ dụng cụ máy thi công: Nợ TK 6233 (chi tiết cho từng đối tượng): Giá trị được ghi vào chi phí. Có TK 142. Chú ý: Các sổ, thể kế toán chi tiết và tổng hợp tương tự như hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. a4/ Hạch toán chi phí khấu hao tài sản cố định: Kế toán theo dõi riêng khấu hao máy thi công để đến cuối tháng, căn cứ vào sổ theo dõi tài sản cố định, các chứng từ về tài sản cố định, kế toán tiến hành lập bảng phân bổ chi phí khấu hao tài sản cố định có dạng như Biểu số 39, từ bảng này kế toán ghi vào bảng tổng hợp chi phí máy thi công (biểu số 34) rồi phân bổ cho từng công trình (biểu số 35). Trên cơ sở bảng phân bổ chi phí máy thi công, kế toán tiến hành định khoản: Nợ TK 6234 (chi tiết cho từng công trình) Có TK 214. Biểu số 39: Đơn vị: Công ty xây dựng số 34 bảng tính và phân bổ khấu hao Tháng 12 năm 1999 STT Chỉ têu Tỷ lệ khấu hao(%) Toàn doanh nghiệp Tài khoản 627- chi phí sản xuất chung Tài khoản 623 TK 642 Nguyên giá Khấu hao CT UBND Vĩnh phúc CT.. . Máy.... Máy... I-Số khấu hao tháng trước II-Số khấu hao tăng lên trong tháng này III-Số khấu hao giảm trong tháng này. IV-Số khấu hao trích trong tháng này -Máy móc thiết bị công tác. -Phương tiện vận tải a5/Hạch toán chi phí máy thi công dịch vụ mua ngoài: Chi phí này bao gồm các chi phí về thuê ngoài sữa chữa , bảo trì, bảo dưỡng máy móc thiết bị thi công, các chi phí về nhiên liệu mua ngoài,... Biểu số 40: Bảng tổng hợp chi phí máy thi công dịch vụ mua ngoài Công ty xây dựng số 34 Máy: STT Chứng từ Nội dung Số tiền Trong đó Số Ngày Chưa thuế Thuế GTGT Nợ TK 6237 Nợ TK 1421 Từ bảng này, kế toán ghi vào bảng tổng hợp chi phí máy thi công (biểu số 34), sau đó phân bổ cho các công trình theo bảng phân bổ (biểu số 35). Từ bảng phân bổ này, việc định khoản chi phí máy thi công dịch vụ mua ngoài như sau: +Khi Công ty cấp tiền cho đội để chi tiêu phục vụ xây dựng công trình: Nợ TK 1413 Có TK 111,112,.. . +Khi Công ty tập hợp được chứng từ về khoản chi phí này, kế toán định khoản: Nợ TK 623 (6237): chi tiết cho từng đối tượng. Nợ TK 1421: Nếu Công ty phân bổ chi phí cho các kỳ sau. Nợ TK 1331: Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Có TK 3386: Khi nhận được chứng từ chi phí, a6/Hạch toán chi phí máy thi công bằng tiền: Chi phí sử dụng máy thi công khác gồm những khoản chi bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất thi công trong kỳ. Những khoản chi phí này được tập hợp theo từng đội và sau đó phân bổ cho các công trình theo tiêu thức phân bổ và công thức phân bổ như đã nói ở trên rồi tập hợp vào bảng tập hợp như sau (biểu số 41): Biểu số 41: Bảng tổng hợp chi phí máy thi công bằng tiền khác Máy: STT Nội dung Số tiền Từ bảng này . kế toán ghi vào bảng tổng hợp chi phí máy thi công (biểu số 34), sau đó phân bổ cho các công trình theo bảng phân bổ (biểu số 35). Từ bảng phân bổ này, việc định khoản chi phí máy thi công dịch vụ mua ngoài như sau: +Khi Công ty cấp tiền cho đội để chi tiêu phục vụ xây dựng công trình: Nợ TK 1413 Có TK 111,112,.. . +Khi Công ty tập hợp được chứng từ về khoản chi phí này, kế toán định khoản: Nợ TK 623 (6238): chi tiết cho từng đối tượng. Có TK 3386: Khi nhận được chứng từ chi phí, b/Đối với chi phí máy thi công thuê ngoài: Trường hợp này thường xảy ra khi Công ty cần phải hoàn thành gấp khối lượng công việc và nó cũng thường là nó dễ dàng được tập hợp trực tiếp cho các công trình mà nó phục vụ. Do đó, các chứng từ về thuê máy thi công được tập hợp cho từng công trình, cuối tháng gửi về phòng kế toán để tập hợp và định khoản chi phí. Bảng tổng hợp có thể như sau (Tập hợp riêng cho từng công trình): Biểu số 42: Bảng tổng hợp chi phí máy thi công mua ngoài Công ty xây dựng số 34 Công trình: STT Chứng từ Nội dung Số tiền Trong đó Số Ngày Chưa thuế Thuế GTGT Nợ TK 6237 Nợ TK 1421 Việc định khoản chi phí máy thi công thuê ngoài và chi phí máy thi công bằng tiền khác như sau: +Khi Công ty cấp tiền cho đội để chi tiêu phục vụ xây dựng công trình: Nợ TK 1413 Có TK 111,112,.. . +Khi Công ty tập hợp được chứng từ về khoản chi phí này, kế toán định khoản: Nợ TK 623 (6237, 6238): chi tiết cho từng đối tượng. Nợ TK 1421: Nếu Công ty phân bổ chi phí cho các kỳ sau. Nợ TK 1331: Thuế GTGT được khấu trừ. Có TK 3386.Khi nhận được chứng từ chi phí, +Khi quyết toán tạm ứng về khối lượng xây lắp nội bộ đã hoàn thành, kế toán ghi nhận chi phí máy thi công: Nợ tk 623 (6237, 6278- chi tiết cho từng công trình). Có TK 3386. 2/Hạch toán các khoản trích theo lương của công nhân trực tiếp thi công công trình (Boản hiểm xã hội, kinh phí công đoàn, bảo hiểm y tế). Như đã nói ở phần thực trạng hạch toán chi phí nhân công trực tiếp của Công ty, khoản trích theo lương này của công nhân trực tiếp dễ dàng tính được cho từng công trình, cách thức tập hợp và bảng phân bổ như đã nói, chỉ có tài khoản phản ánh là tài khoản 627 (6271). Hàng quý, khi tính ra các khoản trích theo lương của toadn bộ công nhân của đội, bộ phận xây dựng và phân bổ cho từng công trình theo tỷ lệ với tiền lương của từng công trình, kế toán phản ánh vào chi phí sản xuất chung: Nợ TK 627 (6271). Có TK 338 (3382, 3383, 3384). 3/Hạch toán nguyên vật liệu xuất cho sản xuất chung và công cụ dụng cụ xuất dùng có giá trị đưới 5 triệu đồng: Khoản chi phí này được tập hợp trên bảng kê vật liệu xuất kho và nó không được phản ánh vào tài khoản 621 mà được phản ánh vào tài khoản 627 (6272, 6273). Cuối tháng, khi tập hợp được chứng từ về số công cụ dụng cụ xuất dùng, căn cứ vào các bản phân bổ chi phí công cụ dụng cụ, kế toán định khoản: Nợ TK 6272: Khi xuất nguyên vật liệu. Nợ TK 6273: Khi xuất công cụ dụng cụ. Có TK 3386, 152. Biểu số 43: Bảng kê vật tư xuất kho Đội xây dựng: Tháng... STT Số CT Tên vật tư Đơn vị tính Số lượng Đơn giá Ghi nợ TK 152, ghi Có Các TK: Ghi nợ TK 153, ghi Có Các TK: 621 6271 Tổng 6271 1421 Tổng Tổng 4/Hạch toán chi phí lãi vay: Lãi vay của những khoản vay dù có liên quan trực tiếp đến từng công trình cũng không được phản ánh vào tài khoản chi phí sản xuất chung- TK 627 được vì khoản chi phí nàyphụ thuộc vào tình hình tài chính của từng Công ty, do đó nó phải được tập hợp vào tài khoản 811- “Chi phí tài chính”. Như vậy, trong khoản mục chi phí sản xuất chung không có khoản chi phí này. 5/Mở tài khoản chi phí trích trước- TK 335: Với tính chất là một doanh nghiệp xây dựng, Công ty có nhiều tài sản cố định, để chủ động trong việc sửa chữa lớn, mua sắm tài sản cố định nhằm duy trì và phát triển kinh doanh, Công ty nên mở TK 335 để phản ánh chi phí trích trước. Chi phí phải trả (còn gọi là chi phí trích trước) là những khoản chi phí thực tế chưa phát sinh nhưng được ghi nhận là chi phí của kỳ hạch toán. Đây là những khoản chi phí trong kế hoạch của đơn vị mà do tính chất và yêu cầu quản lý nên được tính trước vào chi phí kinh doanh cho các đối tượng chịu phí nhằm bảo đảm cho giá thành sản phẩm, lao vụ, chi phí quản lý, chi phí bán hàng khỏi đột biến tăng khi khoản chi phí này phát sinh. Chi phí phải trả trong doanh nghiệp thường bao gồm: óTiền lương phép của công nhân sản xuất (với các doanh nghiệp sản xuất có tính thời vụ, ví dụ doanh nghiệp xây dựng). óChi phí sửa chữa TSCĐ trong kế hoạch. óThiệt hại về ngừng sản xuất trong kế hoạch. óChi phí về bảo hành sản phẩm trong kế hoạch. óLãi tiền vay chưa đế hạn trả. óTiền thuê TSCĐ, mặt bằng kinh doanh, dụng cụ, công cụ,... chưa trả. óCác dịch vụ mua ngoài sẽ cung cấp. óV. v... a/Tài khoản sử dụng: TK 335-“Chi phí phải trả”. Kết cấu TK 335: óBên nợ: -Chi phí phải trả thực tế phát sinh. óBên có: Các khoản chi phí phải trả được ghi nhận(đã tính trước) vào chi phí trong kỳ theo kế hoạch. óDư có: Các khoản chi phí phải trả đã tính vào chi phí kinh doanh nhưng thực tế chưa phát sinh. b/Nội dung hạch toán: +Hàng tháng, trích trước tiền lương nghỉ phép theo kế hoạch của công nhân: Nợ TK 622 (chi tiết theo từng đối tượng). Có TK 335. +Trích trước chi phí sửa chữa TSCĐ trong kế hoạch: Nợ TK 627: Tính vào chi phí sản xuất chung. Nợ TK 641: Tính vào chi phí bán hàng. Nợ TK 642: Tính vào chi phí quản lý doanh nghiệp. Nợ TK 241: Tính vào chi phí xây dựng cơ bản. Có TK 335. +Trích trước chi phí bảo hành sản phẩm, lãi tiền vay phải trả, các dịch vụ mua ngoài phải trả, thiết hại ngừng sản xuất theo kế hoạch,... Nợ TK liên quan (627, 641, 642). Có TK 335. +Khi phát sinh các chi phí phải trả thực tế về tiền lương nghỉ phép, về chi phí sửa chữa, bảo hành, lãi vay, v. v... Nợ TK 335:Chi phí phải trả thực tế phát sinh. Có TK 334: Tiền lương phép công nhân sản xuất thực tế phải trả. Có TK 331: Các khoản phải trả với bên ngoài. Có TK 2413: Chi phí sửa chữa TSCĐ theo kế hoạch. Có các TK khác (111, 112, 152,... ): Các chi phí khác. +Trường hợp chi phí thực tế phát sinh lớn hơn tổng chi phí phải trả đã ghi nhận thì khoản chênh lệch: óKhi khoản chênh lệch là nhỏ: Nợ TK liên quan (627, 642, 641, 241,... ). Có TK 335. óKhi khoản chênh lệch là lớn: Nợ TK 142 (1421): chi phí chờ phân bổ). Có TK 335. +Trường hợp chi phí phải trả ghi nhận trước lớn hơn chi phí thực tế phát sinh, khoản chênh lệch được ghi tăng thu nhập bất thường: Nợ TK 335. Có TK 721: Thu nhập bất thường. iii/xây dựng hệ thống thông tin cung cấp cho kế toán quản trị doanh nghiệp trên cơ sở hạch toán chi phí sản xuất và tính gái thành sản phẩm. 1.Yêu cầu của thông tin chi phí và giá thành trong quản trị doanh nghiệp. Nhiệm vụ chủ yếu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là tiến hành sản xuất, không ngừng nâng cao hiệu quả và mở rộng sản xuất. Trong quá trình sản xuất, để đạt hiệu quả sản xuất, doanh nghiệp phải khai thác tận dụng năng lực sản xuất ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Muốn vậy doanh nghiệp phải thiết lập cho mình một hệ thống thông tin phải có hiệu quả phục vụ tốt nhất cho các quyết định của quản trị doanh nghiệp về sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các thông tin về chi phí và giá thành sản phẩm. Hệ thống thông tin chi phí và giá thành sản phẩm phải được thu thập xử lý và cung cấp một cánh kịp thời theo yêu cầu của đối tượng sử dụng. Các thông tin về chi phí và giá thành phản ánh trên hệ thống báo cáo tài chính chính thức chỉ phản ánh chi phí và kết quả trong quá khứ. Khi cung cấp cho quản trị doanh nghiệp để phục vụ nhu cầu ra quyết định cho tương lai phải thông tin chi phí giá thành phải được sắp xếp lại theo nhu cầu của từng cấp quản trị. Các thông tin được cung cấp trong trường hợp này không chỉ phản ánh chi phí gía thành là bao nhiêu mà là chi phí đã hình thành như thế nào vì vậy nó phải cung cấp được nguồn gốc như bản chất thực của chi phí, không phải là các chi phí đã được phân bổ. Quản trị doanh nghiệp quan tâm đến vai trò của chi phí trong việc ra quyết định cung cấp. Trong trường hợp này thì thông tin chi phí giá thành phải cho nhà quản trị biết được chi phí giá thành thực tế nếu như các quyết định cung cấp đó thực hiện. Thông thường là các thông tin về biến phí sản xuất hàng hoá dịch vụ (với mức độ hoạt động cho phép ). Ngoài ra còn có các thông tin về mức độ biến động của chi phí, tức là với khoảng mức độ hoạt động bao nhiêu thì có sự tăng giảm của định phí. Thông tin cho việc ra quyết định về phân bổ nguồn lực giữa các hoạt động, giữ các bộ phận sản xuất của doanh nghiệp thưòng được cung cấp thông qua các báo cáo bộ phận. ở đó cho biết hiệu quả thực của mỗi bộ phận cũng như hoạt động sản xuất trong doanh nghiệp. Nếu là sản xuất theo từng giai đoạn độc lập thì thông tin này phải bảo đảm cho biết chi tiết tình hình chi phí của từng giai đoạn và từng đơn vị sản xuất cũng như có thể tính giá thành cho từng giai đoạn. Nhu cầu ra quyết định trong doanh nghiệp là thường xuyên và không theo một chu kỳ nhất định nào vì vậy thông tin chi phí giá thành Phải được cập nhật. Các thông tin này phải được cung cấp thường xuyên liên tục theo đúng bản chất phát sinh của chi phí, đặc biệt khi có các biến động chi phí bất thường. Giá thành phải được tính toán theo nhiều giác độ khác nhau. Giá thành đầy đủ tổng chi phí trực tiếp, giá thành từng giai đoạn và cung cấp cho nhà quản trị ngay khi sản phẩm đã hoàn thành hoặc khi cần ra quyết định. Ngoài các khoản chi phí thuộc phạm vi thực chi của doanh nghiệp, các nhà quản trị cần biết thêm các thông tin về các chi phí cơ hội, chi phí chìm,... trong quá trình quản trị và điều hành sản xuất. Hiệu quả thực của doanh nghiệp chính là hiệu quả khi đã được tính đến các chi phí này. Như vậy, doanh nghiệp cần thiết lập một hệ thống thông tin với nhiều lệnh cung cấp khác nhau. Thể hiện trước hết qua hệ thóng các báo cáo nội bộ được lập và cung cấp thường xuyên: Báo cáo chi phí giá thành cung cấp cho quản trị nội bộ, báo cáo bộ phận. 2.Kế toán chi phí giá thành trong việc cung cấp thông tin cho quản trị nội bộ. Để hoàn thiện hệ thống thông tin chi phí cung cấp cho quản trị doanh nghiệp, trước hết doanh nghiệp phải sử dụng hiệu quả công cụ của kế toán doanh nghiệp như là một công cụ đắc lực của quản trị. Trên giác độ tài chính kế toán, trong tình hình mới kế toán doanh nghiệp cũng phải thay đổi cho phù hợp với các yêu cầu về thông tin của doanh nghiệp. Để có các quyết định tối ưu, xác định các nguyên nhân làm cho giá thành thực tế cao hay thấp, doanh nghiệp cần đi sâu phân tích chi phí giá thành dưới nhiều giác độ và theo một hệ thống chỉ tiêu nhất định. kế toán tài chính với hoạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm như đã trình bày chủ yếu lập báo cáo tài chính theo đúng quy định, chủ yếu cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. Những thông tin đó chưa đủ cho các nhà quản trị doanh ra các định quản lý, vì đó chỉ là sự phản ánh khái quát những quá khứ đã xãy ra về tình hình chi phí giá thành của doanh nghiệp. Trong khi yêu cầu của quản trị là các quyết định cho tương lai. Vì vậy trên cơ sở những thông tin về quá khứ, kế toán phải thu thập xử lý và thiết kế thông tin kế toán để lập báo cáo cho phù hợp với nhu cầu cụ thể của các nhà quản trị và các cấp quản trị trong doanh nghiệp. Khi sử dụng các thông tin chi tiết đã được tóm lược theo yêu cầu sử dụng, nhà quản trị sẽ thấy được ở đâu có vấn đề cần giải quyết nhanh chóng, cần cải tiến kịp thời để có hiệu quả cao hơn. Trên độ chi phí, giá thành các nhà quản trị không phải chỉ biết chi phí là bao nhiêu mà cần phải hiểu chi phí đã hình thành như thế nào và ở đâu và các chi phí có liên quan như thế nào với các quyết định đang xem xét, và các nhà quản trị có thể tác động đến chúng như thế nào. Do vậy chi phí phải được phân loại theo mục đích sử dụng thông tin khác nhau hoặc sắp xếp theo nhu cầu của một số nhà quản trị cá biệt có trách nhiệm về chi phí kiểm soát chúng. Hệ thống quản trị doanh nghiệp tuỳ theo chức năng phải xem xét chi phí theo nhiều mặt khác nhau bao gồm: Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp, chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được, chi phí chênh lệch, chi phí cơ hội, chi phí chìm, chi phí khả biến và chi phí cố định,... Ngoài ra để phục vụ quản trị thì kế toán phải cung cấp thông tin về các phân tích chi phí. Một trong những phân tích thông thường là phân tích biến động của chi phí để thấy mức độ và từ đó tìm ra nguyên nhân biến động của chi phí thông qua phân tích chi tiết. + Phân tích biến động chi phí khả biến: Khi phân tích chi phí khả biến cần so sánh giữa kết quả thực hiện với định mức và nguyên nhân biến động trên hai mặt lượng và giá : Biến động về chi phí khả biến= Biến động về giá +Biến động về lượng. Trong đó: Biến động về giá =Lượng thực tế (Giá thực tế -Giá định mức) Biến động về lượng =Giá kế hoạch x (lượng thực tế - Lượng kế hoạch) Biến động về giá phản ánh giá của một đơn vị nguyên liệu hay giá của một đơn vị thời gian để sản xuất ra sản phẩm đã thay đổi như thế nào. Biến động về lượng phản ánh tiêu hao vật chất và lượng thời gian hao phí để sản xuất ra sản phẩm thay đổi như thế nào. Biến động xảy ra do nhiều yếu tố, có thể do chủ quan hoặc khách quan, có thể do chính quá trình sản xuất của doanh nghiệp hoặc vì cac yếu tố bên ngoài doanh nghiệp. Các biến động về lượng thường mang tính chủ quan, do các yếu tố bên trong doanh nghiệp. Các biến động về lượng thường ít nhiều mang tính khách quan, đó là sự tác động của thị trường. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải cung cấp đầy đủ các thông tin, trên cơ sở những gì đã hạch toán được cho quản trị doanh nghiệp để họ có thể có biện pháp đúng đắn, kịp thời chấn chỉnh hoặc phát huy những biến động theo hướng có lợi nhất. Trong phân tích biến phí của các đơn vị xây dựng thì phải phải phân tích cả chi phí vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sử dụng máy thi công. Ví dụ: Phân tích chi phí vật liệu trực tiếp: Biến động về lượng =giá định mức x (Ci - Cđt) x K Trong đó: Ci: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trên một đơn vị khối lượng thực tế. Cđt: Chi phí vật liệu trực tiếp trên một đơn vị khối lượng công việc theo dự toán. K: Khối lượng công việc. +Đối với định phí thường không phụ thuộc vào mức độ hoạt động của doanh nghiệp và là những khoản tiền lớn không thể chia bình quân được hay nói cách khác, mọi sự chia bình quân định phí không có ý nghĩa gì đối với việc phân tích những vấn đề có liên quan tới cách ứng xử thực tế của chi phí hoặc trong việc kiểm soát chi phí. Chính vì vậy, biến động về hiệu suất và biến động phát sinh từ đối xử với chi phí như là một biến động không thể kiểm soát được. Do vậy, kế toán cần thường cung cấp thông tin cho quản trị nội bộ về sự biến động quy mô của định phí dưới dạng vật chất thay vì tiền tệ. Điều này thể hiện rõ ràng hơn nguyên nhân của biến động. Ngoài các thông tin về chi phí, giá thành cũng là chỉ tiêu tổng hợp mà doanh nghiệp cần quan tâm. Thông tin về giá thành cung cấp cho hệ thống quản lý trong doanh nghiệp không phải là những thông tin về giá thành trên các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp lập định kỳ theo quy định. Nhà quản lý doanh nghiệp cần quan tâm đến chỉ tiêu giá thành trên nhiều giác độ khác nhau. Nếu chỉ để quan hệ với các đối tượng quản lý nhà nước bên ngoài doanh nghiệp, hoặc trong một số quyết định dài hạn thì giá thành của kế toán tài chính đã lập theo khoản mục giá thành chính là chỉ tiêu phù hợp nhất. Nhưng để ra các quyết định về một hợp đồng nhất định nào đó thì họ cần quan tâm đến giá thành với những chi phí thực sự cho hợp đồng đó mà chưa bị phân bổ một khoản chi phí gián tiếp (định phí nào). Khi sản phẩm hoàn thành, báo cáo thường được sử dụng là báo cáo theo mức độ biến động của chi phí theo mức độ hoạt động. Báo cáo được lập theo chi phí biến đổi, chi phí cố định và có thể lập cho từng loại sản phẩm, từng đơn đặt hàng hay từng đơn vị thành viên để nhà quản trị có thể nhìn hoạt động kinh doanh dưới nhiều góc độ khác nhau. Tình hình chi phí giá thành liên quan trực tiếp tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy, thông tin quản lý nội bộ phải được xây dựng và cập nhật thường xuyên, bất cứ lúc nào mà nhà quản trị cần: Có thể là khi hoàn thành công trình, cũng có thể là khi cần ký hợp đồng (đơn đặt hàng) với khách hàng. Như vậy, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có ý nghĩa khác nhau đối với từng cấp quản lý khác nhau. sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường chịu sự chi phối, tác động của nhiều yếu tố. Một doanh nghiệp thành lập và hoạt động cần có sự quan tâm của nhiều đối tượng khác nhau, đặc biệt về vấn đề hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh mà chi phí và giá thành là mặt biểu hiện chủ yếu. Kế toán nói chung và kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng cũng cần năng động hơn và kịp thời hơn trong việc cung cấp thông tin cho các đối tượng. Vấn đề là kế toán cần phải phân biệt cần thông tin ở mức độ nào, trên giác độ nào. Và trước hết, kế toán phải hạch toán đúng, đầy đủ chi phí, phân loại chi phí theo những tiêu thức khác nhau để khi cần có thể cung cấp thông tin cho mọi đối tượng quan tâm một cách đầy đủ kịp thời và chính xác nhất. kết luận Đ ể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, đòi hỏi các doanh nghiệp phải đảm bảo các yếu tố đầu vào, tổ chức sản xuất cùng cân đối quá trình kinh doanh và hạch toán kinh tế. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh hai mặt chủ yếu của quá trình sản xuất là chi phí và kết quả. Vì vậy, kế toán sản phẩm sản xuất và tính giá thành sản phẩm là công việc quan trọng của Kế toán doanh nghiệp. Nó phản ánh từ qua trình cung ứng đến quá trình sản xuất kinh doanh và định hướng cho quá trình tiêu thụ. Mặt khác, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm không chỉ có chức năng phản ánh một cánh đơn thuần mà còn có chức năng thông tin cho quá trình quản trị doanh nghiệp một cách chính xác và kịp thời. Điều này sẽ tăng cường được hiệu quả của quản trị doanh nghiệp nói riêng và quản lý nói chung để thích ứng với yêu cầu tổ chức sản xuất tình hình mới. Việc kết hợp giữa lý luận và thực tiễn đối với quá trình lĩnh hội kiến thức là rất quan trọng, đặc biệt là đối với sinh viên khoa kế toán.Chính vì vậy, sau thời gian nghiên cứu lý luận thì thời gian thực tập, tìm hiểu thực tế của sinh viên là điều hết sức cần thiết. Qua đó, sinh viên sẽ tự bổ sung và hoàn thiện những kiến thức của mình cho phù hợp với thực tiễn. Đồng thời áp dụng nguyên tắc lý thuyết đã được học trong Nhà trường vào thực tế một cách linh hoạt hơn. Do trình độ lý luận, thời gian tìm hiểu thực tế tài doanh nghiệp có hạn nên trong quá trình nhận thức, nghiên cứu và trình bày đề tài kế không tránh khỏi những sai sót. Em kính mong được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong Khoa kế toán cùng tập thể Cán bộ kế toán trong Công ty xây dựng số 34 để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn thầy giáo Nguyễn Ngọc Quang và các Cán bộ kế toán Công ty xây dựng số 34 đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập, nghiên cứu và hoàn thành đề tài này. Tài liệu tham khảo. 1/Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính- PTS Nguyễn Văn Công- Nhà xuất bản Tài chính- Hà Nội 2000. 2/Kế toán tài chính trong các doanh nghiệp- PTS Đặng Thi Loan- Nhà xuất bản Tài chính- Hà Nội, 7- 2000. 3/Kế toán quản trị- PTS Nguyễn Minh Phương. 4/Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh. 5/Hệ thống kế toán doanh nghiệp- Vụ Chế độ Kế toán- NXB tài chính 1995. MụC LụC: Tiêu đề Trang LờI NóI ĐầU 2 nội dung 4 Chương I: Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở các doanh nghiệp xây dựng. 4 I/Đặc điểm của ngành xây dựng và sản phẩm xây lắp, yêu cầu công tác quản lý, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. 4 1/Đặc điểm của ngành xây dựng và sản phẩm xây lắp. 4 2/Yêu cầu công tác quản lý, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp xây dựng. 5 II/Bản chất, nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng. 8 1/Khái niệm và phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng . 8 1.Khái niệm chi phí sản xuất . 8 2.Phân loại chi phí sản xuất . 8 2/Khái niệm và phân loại giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng . 12 1.Khái niệm giá thành sản phẩm . 12 2. Phân loại chi phí sản xuất . 13 3/Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm . 17 4/Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm. 18 1.Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm . 18 2.Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm . 20 III/Nội dung công tác hạch toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng. 24 1/Trình tự hạch toán chi phí sản xuất. 24 2/Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất . 25 1.Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. 25 2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp. 27 3.Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công. 28 4./Hạch toán chi phí sản xuất chung. 31 5.Hạch toán chi phí trả trước. 34 6.Hạch toán chi phí phải trả. 36 7.Hạch toán chi phí thiệt hại trong sản xuất. 38 8.Tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang. 40 3/Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trên hệ thống sổ kế toán. 44 4/Hạch toán chi tiết chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm . 45 chương II: thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng số 34. 48 I/Đặc điểm kinh tế- kỹ thuật và tổ chức bộ máy hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty xây dựng số 34. 48 1/Lịch sử hình thành và phát triển. 48 2/Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh. 51 3/Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý. 51 II/Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán và bộ sổ kế toán tại Công ty xây dựng số 34. 54 1/Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán. 54 2/Đặc điểm tổ chức bộ sổ kế toán. 57 III/Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng số 34. 61 1/Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất. 61 1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. 61 2.Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất . 61 3.Trình tự hạch toán chi phí sản xuất . 61 4.Phân loại chi phí sản xuất . 62 5./Tài khoản hạch toán chi phí sản xuất . 63 2/Nội dung hạch toán chi phí sản xuất . 63 1.Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp . 63 2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp . 73 3.Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công. 4.Hạch toán chi phí sản xuất chung . 5.Hạch toán chi phí trả trước. 6.Hạch toán chi phí thiệt hại trong sản xuất. 7.Tổng hợp chi phí sản xuất . 3. Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang và tính giá thành sản phẩm . 1.Công tác quản lý giá thành ở Công ty . 2.Kiểm kê, đánh giá sản phẩm dở dang ở Công ty . chương iii: Một số giải pháp nhằm công tác hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng số 34. I/Đánh giá khái quát tình hình tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng số 34. II/Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng số 34. 1/Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công. 2/Hạch toán các khoản trích theo lương của công nhân trực tiếp. 3/Hạch toán nguyên vật liệu xuất cho sản xuất chung và công cụ dụng cụ xuất dùng có giá trị dưới 5 triệu đồng. 4/ Hạch toán chi phí lãi vay. 5/Mở tài khoản chi phí phải trả. III/Xây dựng hệ thống thông tin cung cấp cho quản trị doanh nghiệp trên cơ sở hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. 1/Yêu cầu của thông tin chi phí và giá thành sản phẩm trong quản trị doanh nghiệp. 2/Kế toán chi phí và giá thành trong việc cung cấp thông tin cho quản trị nội bộ. Kết luận Tài liệu tham khảo Mục lục Nhận xét của Công ty xây dựng số 34: Nhận xét của giáo viên hướng dẫn: Nhận xét của giáo viên phản biện: Nhận xét của hội đồng bảo vệ luận văn: ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34245.doc
Tài liệu liên quan