Lời nói đầu
Ngày nay, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta đang ngày càng phát triển. Sự đa dạng và phong phú về sản phẩm đã tạo cho người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn cho nhu cầu của mình. Điều đó, khiến cho các nhà sản xuất doanh nghiệp phải xem xét để lựa chọn những phương án sản xuất tối ưu sao cho giảm được giá thành mà vẫn đảm bảo chất lượng và hiệu quả kinh tế mong muốn. Giảm giá thành là một trong nhiều chiến lược mà doanh nghiệp lựa chọn để tạo cho mình một lợi thế cạ
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1213 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất & tính GT tại Công ty Du lịch & xúc tiến thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tranh so với các đối thủ khác. Có thể nói, giá thành không chỉ là cơ sở để định giá bán sản phẩm, dịch vụ mà còn là cơ sở để đánh giá trình độ quản lý của nhà sản xuất đối với công tác quản lý về tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, dịch vụ. Muốn đánh giá được chính xác giá thành thì công tác tập hợp chi phí sản xuất phải đựơc tổ chức hợp lý và có hiệu quả. Tập hợp chi phí và tính giá thành là một công việc rất quan trọng. Nó cho người quản lý biết họ đã bỏ ra bao nhiêu chi phí để sản xuất ra sản phẩm hoặc để cung cấp dịch vụ. Từ đó, các chiến lược định giá sản phẩm có cơ sở vững chắc và việc định giá đối với sản phẩm, dịch vụ sẽ hợp lý và tạo ra lợi ích cho doanh nghiệp về lợi thế cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh. Mặc dù có tầm quan trọng như vậy, nhưng trên thực tế công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm, dịch vụ vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết.
Xuất phát từ quan điểm đó, qua thời gian khảo sát thực tế tại Công ty du lịch và xúc tiến thương mại kết hợp với những lý thuyết được trang bị tại nhà trường, em dã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành tại Công ty du lịch và xúc tiến thương mại” với mong muốn tự nâng cao kiến thức cho bản thân, đồng thời góp phần trợ giúp cho công tác kế toán tại Công ty có hiệu quả hơn.
Nội dung khoá luận gồm 3 phần:
Phần I: Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành trong các doanh nghiệp.
Phần II: Thực trạng công tác hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm, dịch vụ tại Công ty du lịch và xúc tiến thương mại.
Phần III: Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, dịch vụ tại Công ty du lịch và xúc tiến thương mại.
Phần I: Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán
chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành trong các doanh nghiệp.
I. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm dịch vụ
1. Đặc điểm hoạt động, kinh doanh du lịch và dịch vụ có ảnh hưởng đến hạch toán kế toán
Kinh doanh du lịch và dịch vụ là việc cung cấp những lao vụ, dịch vụ phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và thoả mãn nhu cầu đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. Nhu cầu đó rất đa dạng vì vậy để đáp ứng một nhu cầu thường có một loại hình dịch vụ riêng. Tuy vậy, dù là loại hình kinh doanh dịch vụ du lịch nào thì đều có chung những điểm chủ yếu sau:
+ Ngành du lịch và dịch vụ là một ngành kinh tế đòi hỏi có vốn đầu tư ban đầu cao nhưng đây lại là ngành có hiệu quả cao, tỉ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư lớn.
+ Hoạt động kinh doanh du lịch mang tính thời vụ, phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế văn hoá xã hội, điều kiện di sản lịch sử văn hoá, phong cảnh, chùa chiền và còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên.
+ Đối tượng phục vụ của ngành du lịch rất đa dạng và luôn di động. Sở dĩ như vậy là vì, bất kì ai có đủ điều kiện về kinh tế và có nhu cầu tiêu dùng dịch vụ thì đều là đối tượng của ngành dịch vụ, du lịch. Tuy nhiên, đối tượng phục vụ của ngành du lịch cũng rất phức tạp. Ví dụ cùng một yêu cầu về ăn nhưng mỗi người lại có một sở thích và có cách lựa chọn khác nhau. Do đối tượng phục vụ luôn di động nên việc tổ chức hoạt động du lịch khá phân tán và không ổn định.
+ Kinh doanh du lịch, dịch vụ là ngành kinh tế tổng hợp, bao gồm nhiều hoạt động khác nhau như kinh doanh phòng nghỉ, ăn uống, khách sạn, ... Các hoạt động này có quy trình sản xuất khác nhau, chi phí kinh doanh cũng khác nhau... Mỗi loại dịch vụ có những đặc trưng riêng về chi phí sản xuất kinh doanh. Ví dụ chi phí kinh doanh buồng ngủ thì chi phí về khấu hao tài sản cố định chiếm tỉ trọng đa số trong cơ cấu giá thành kinh doanh. Bởi vì, chi phí khấu hao TSCĐ phản ánh chất lượng của dịch vụ kinh doanh phòng ngủ.
+ Nếu sản phẩm của các ngành công nghiệp sản xuất là các sản phẩm có hình thái vật chất cụ thể như hàng hoá, ... thì hầu hết sản phẩm của ngành du lịch, dịch vụ không mang hình thái vật chất do vậy mà không có quá trình nhập kho, xuất kho sản phẩm. Đặc biệt đó là không có chi phí sản xuất dở dang đầu kì, cuối kì kinh doanh.
+ Sản phẩm của ngành dịch vụ được tiêu dùng ngay khi sản xuất có nghĩa là quá trình sản xuất và tiêu thụ được tiến hành đồng thời, ngay cùng một địa điểm,thái độ của người sản xuất ( dịch vụ) ảnh hưởng trực tiếp đến khách hàng.
2. Chi phí sản xuất kinh doanh
1.1. Khái niệm
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp dã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, năm, quý).
Quá trình sản xuất của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng đều là sự tiêu hao của yếu tố sản xuất cơ bản như tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Do vậy, việc tiến hành hoạt động sản xuất đòi hỏi con người phải bỏ ra các chi phí về lao đông, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Vì vậy, sự phát sinh và hình thành chi phí là một tất yếu của quá trình sản xuất, có sản xuất thì sẽ phát sinh chi phí.
Tuy nhiên, chi phí là một khái niệm cần được phân biệt với khái niệm chi tiêu. Chi phí phản ánh những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. Những chi phí này được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ. Khác với chi phí, khái niệm chi tiêu phản ánh sự giảm đi đơn thuần của các loại vật tư, hàng hoá, tiền vốn của doanh nghiệp mà không cần biết nó được dùng vào mục đích gì. Như vậy chi tiêu trong kỳ doanh nghiệp bao gồm chi tiêu trong quá trình cung cấp (chi mua sắm vật tư, hàng hoá), chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh chi tiêu cho quá trình tiêu thụ. Chi phí và chi tiêu là 2 khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ rất khăng khít và mật thiết. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí. Sở dĩ có sự khác nhau giữa chi tiêu và chi phí là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất kinh doanh và yêu cầu kỹ thuật hạch toán chung.
Tóm lại, bản chất của chi phí sản xuất kinh doanh là sự chuyển dịch vốn, chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá thành (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ).
2.2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra rất nhiều chi phí. Các chi phí này rất nhiều loại, nhiều khoản khác nhau, khác nhau cả về nội dung, tính chất, công dụng… trong quá trình kinh doanh. Do vậy, để thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán cần thiết phải tiến hành phân loại chi phí theo những tiêu thức khác nhau.
Như vậy, phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi phí sản xuất vào từng loại, từng nhóm khác nhau theo những đặc trưng, những tiêu chuẩn nhất định.
Trên thực tế, xuất phát từ những yêu cầu của công tác quản lý hạch toán, việc phân loại chi phí sản xuất kinh doanh rất đa dạng và phong phú. Thông thường, chi phí sản xuất kinh doanh được phân theo một số cách, chủ yếu trong hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành trên góc độ kế toán tài chính cụ thể như sau:
2.2.1. Phân theo yếu tố chi phí.
Nhằm phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu đồng nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh, chi phí được phân theo yếu tố. Ưu điểm của cách phân loại này giúp cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc kiểm tra và phân tích dự toán chi phí. Theo quy định hiện hành, toàn bộ chi phí được chia làm 7 yếu tố:
+ Yếu tố nguyên liệu, vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ sử dụng vào sản xuất kinh doanh (loại trừ giá trị dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi cùng với nhiên liệu, động lực).
+ Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
+ Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương: Phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho công nhân viên. Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên.
+ Yếu tố khấu hao TSCĐ: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh.
+ Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng cho sản xuất kinh doanh.
+ Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
2.2.2. Phân theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm.
Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ toàn bộ chi phí cho từng đối tượng. Theo quy định hiện hành, giá thành toàn bộ sản phẩm bao gồm 5 khoản mục chi phí sau:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm toàn bộ tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp mang tính chất tiền lương trả cho công nhân trực tiếp sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ cùng với các khoản trích theo tỷ lệ quy định cho các quỹ KPCĐ, BHXH, BHYT (phần trích vào chi phí).
+ Chi phí sản xuất chung: Gồm toàn bộ các khoản chi phí còn lại phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất sau khi đã loại trừ chi phí nguyên vật liệu và chi phí nhân công trực tiếp nói trên.
+ Chi phí bán hàng: Gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ trong kỳ.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: Gồm toàn bộ các khoản chi phí liên quan đến quản trị kinh doanh và quản lý hành chính trong phạm vi toàn doanh nghiệp mà không tách được cho bất kỳ hoạt động hay phân xưởng nào.
2.2.3: Phân theo cách thức kết chuyển chi phí:
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ. Chi phí sản phẩm là những chi phí gắn liền với việc sản xuất ra được sản phẩm hoặc được mua. Còn chi phí thời kỳ là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào đó. Nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua nên được xem là các chi phí, phí tổn cần được khấu hao ra từ lợi nhuận của thời kỳ mà các chi phí đó phát sinh.
3. Giá thành sản phẩm, dịch vụ:
2.1. Khái niệm.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
Các khoản chi phí được tính vào giá thành sản phẩm đó là những chi phí tham gia trực tiếp và gián tiếp vào quá trình sản xuất ra sản phẩm. Những chi phí này phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán mang tính chủ quan mà không phản ánh được một cách đúng đắn sự hao phí các yếu tố sản xuất trong giá thành sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh và việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
3.2. Phân loại giá thành.
Trong thực tế, để đáp ứng yêu cầu và mục đích của công tác quản lý và hạch toán giá thành được phân loại theo nhiều loại khác nhau. Cụ thể có một số cách phân loại giá thành sau:
3.2.1. Phân loại thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành: Giá thành kế hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế.
+ Giá thành kế hoạch: là giá thành được xác định trước khi bước vào sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch.
+ Giá thành định mức: cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Giá thành định mức được xác định trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành.
+ Giá thành thực tế: Là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Ưu điểm của việc phân loại này: Đó là quan sát, quản lý chi phí chặt chẽ hơn, nắm được nguyên nhân làm tăng giảm định mức chi phí trong kỳ hạch toán. Từ đó có những biện pháp điều chỉnh kế hoạch sản xuất và định mức chi phí cho phù hợp.
3.2.2: Phân loại phạm vi phát sinh chi phí.
Theo cách phân loại này, giá thành được chia thành giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ.
+ Giá thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xưởng): là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất.
+ Giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ): là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất tiêu thụ sản phẩm. Giá thành tiêu thụ được tính theo công thức:
Giá thành toàn bộ Giá thành sản xuất Chi phí quản lý Chi phí
= + +
của sản phẩm của sản phẩm doanh nghiệp bán hàng
Ưu điểm của cách phân loại này là giúp cho nhà quản lý biết được kết quả kinh doanh (lãi, lỗ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ doanh nghiệp kinh doanh. Tuy nhiên việc lựa chọn những tiêu thức phân phân bổ những chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Trong thực tế còn rất nhiều hạn chế nên cách phân loại này chỉ còn mang ý nghĩa học thuật, nghiên cứu.
4. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, dịch vụ.
Có thể nói, chi phí sản xuất và giá thành là hai thuật ngữ luôn đi đôi với nhau. Hoạt động hạch toán chi phí, tập hợp chi phí với mục đích tính toán số tiền mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá khứ để sản xuất ra sản phẩm. Nhưng nếu chỉ hạch toán, tập hợp chi phí không thì chưa đủ bởi vì không phải tất cả chi phí đó đều dùng vào cho sản xuất ra sản phẩm. Vì vậy, để xác định đúng số chi phí để sản xuất ra sản phẩm hay giá trị thực của sản phẩm, dịch vụ thì cần thiết phải tính giá thành. Để công việc tính giá thành được chính xác đòi hỏi công tác tập hợp chi phí sản xuất phải chặt chẽ, chính xác. Chi phí sản xuất là cơ sở tính giá thành sản phẩm, dịch vụ. Khi tính toán được giá thành, giúp cho doanh nghiệp xác định được yếu tố sản xuất nào sử dụng hợp lý, hiệu quả, yếu tố sản xuất nào sử dụng chưa hợp lý dẫn đến hiệu quả chưa cao. Từ đó, doanh nghiệp có cơ sở đưa ra các biện pháp điều chỉnh chi phí sản xuất kinh doanh cho phù hợp nhằm nâng cao được chất lượng sản phẩm, hạ thấp giá thành.
Tóm lại, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, dịch vụ là hai khái niệm luôn đi đôi với nhau. Khi tập hợp chi phí mục đích là tính giá thành, giá thành được tính toán chính xác sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện được tái sản xuất giản đơn, tái sản xuất mở rộng. Vai trò của chi phí sản xuất kinh doanh, giá thành sản phẩm dịch vụ là rất quan trọng đối với công tác quản lý và hạch toán của doanh nghiệp.
II. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm, dịch vụ.
1. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình tổ chức hạch toán sản xuất, việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh là rất quan trọng. Thực chất việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh là việc xác định nơi xác định chi phí và nơi chịu chi phí. Mỗi doanh nghiệp có đặc điểm hoạt động kinh doanh khác nhau do đó đối tượng tập hợp chi phí cũng có thể khác nhau. Trong thực tế các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh du lịch thường tập hợp chi phí theo hoạt động kinh doanh. Tập hợp chi phí theo từng hoạt động có nghĩa là các chi phí liên quan đến hoạt động nào thì được tập hợp trực tiếp cho hoạt động đó (ví dụ hoạt động hướng đẫn du lịch, hoạt động kinh doanh ăn uống, kinh doanh dịch vụ lưu trú).Tuỳ theo yêu cầu của chế độ hạch toán kinh tế nội bộ của các tổng công tymà các đơn vị phụ thuộc có thể lựa chọn đối tượng tập hợp chi phí theo địa điểm kinh doanh dịch vụ . Trên cơ sở đối tượng hạch toán chi phí, kế toán lựa chọn phương pháp hạch toán (tập hợp) chi phí thích ứng. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất kinh doanh trong phạmvi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Thông thường, phương pháp hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh bao gồm các phương pháp như hạch toán chi phí theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn công nghệ, theo phân xưởng… Nội dung chủ yếu của phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là kế toán mở thẻ (hoặc sổ) chi tiết hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định, phản ánh các chi phí liên quan đến đối tượng. Hàng tháng tổng hợp chi phí theo từng đối tượng. Do đặc điểm kinh doanh du lịch có nhiều hoạt động được thực hiện đồng thời, các chi phí phục vụ kinh doanh có thể liên quan đến một hoặc nhiều hoạt động. Vì vậy, phương pháp tập hợp chi phí dich vụ du lịch thường bao gồm 2 bước sau đây:
Bước 1: Những chi phí cơ bản liên quan đến hoạt động kinh doanh nào thì tập hợp trực tiếp cho hoạt động đó. Những chi phí cơ bản liên quan đến nhiều hoạt động kinh doanh thì được tập hợp riêng để cuối tháng tiến hành phân bổ cho từng hoạt động theo tiêu chuẩn phù hợp.
Bước 2: Phương pháp tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung.
Những chi phí chung trong kinh doanh du lịch bao gồm chi phí dịch vụ mua ngoài như tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại, ..., khấu hao tài sản cố định, công cụ đồ dùng và các chi phí khác. Các chi phí này liên quan đến nhiều hoạt động khác nhau nên khi chi phí phát sinh cũng được tập hợp riêng để cuối tháng phân bổ cho từng hoạt động kinh doanh.
Tóm lại, việc xác định đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí là rất cần thiết trước khi chi phí sản xuất kinh doanh phát sinh. Mỗi đối tượng hạch toán chi phí thường chỉ thích ứng với một phương pháp hạch toán và tập hợp chi phí.
2. Đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm, dịch vụ.
2.1. Xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm, dịch vụ.
Xác định đối tượng tính giá thành thực chất là việc xác định sản phẩm, bán thành phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối tượng đó có thể là một sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang trên dây chuyền sản xuất tuỳ theo yêu cầu của hạch toán kinh tế nội bộ và tiêu thụ sản phẩm. Để phân biệt được đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm ngay cả khi chúng là một, ta phải dựa vào nhiều tiêu chuẩn khác nhau như đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất (giản đơn hay phức tạp) vào loại hình sản xuất (đơn chiếc, hàng loạt) vào yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh…
Căn cứ vào đặc điểm tổ chức kinh doanh dịch vụ,loại sản phẩm dịch vụ mà người ta xác định đối tượng tính giá thành cho phù hợp. Kinh doanh dịch vụ du lịch có nhiều hoạt động khác nhau, mỗi hoạt động có đặc điểm riêng và thưc hiện một số dịch vụ nhất định nên việc xác định đối tượng tính giá thành hợp lí là rất cần thiết. Cụ thể, hoạt động hướng dẫn du lịch thì đối tượng tính gía thành thường là tuor du lịch hoặc đối tượng tính giá thành của hoạt động vận chuyển là người hoặc 1000 người. Km. Hành khách vận chuyển.
2.2: Phương pháp tính giá thành sản phẩm:
Trong thực tế có rất nhiều phương pháp tính giá thành sản phẩm dịch vụ tuỳ thuộc vào phương pháp tập hợp chi phí. Về cơ bản, phương pháp tính giá thành bao gồm một số phương pháp sau:
2.2.1: Phương pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản đơn):
Phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít sản xuất với khối lượng lớn và chu kỳ sản xuất ngắn như các nhà máy điện, nước, các doanh nghiệp khai thác (quặng, than, gỗ…). Đối tượng hạch toán chi phí ở các doanh nghiệp này là từng loại sản phẩm, dịch vụ. Giá thành sản phẩm được tính bằng cách trực tiếp lấy tổng số chi phí sản xuất cộng hoặc trừ số chênh lệch giữa sản phẩm dở dang đầu kỳ so với cuối kỳ chia cho số lượng sản phẩm hoàn thành.
2.2.2: Phương pháp hệ số:
Phương pháp hệ số được áp dụng trong những doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất cùng sử dụng một số nguyên liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau. Và chi phí không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm mà được tập hợp chung cho cả quá trình sản xuất. Theo phương pháp này, kế toán căn cứ vào hệ số quy đổi để quy đổi các loại sản phẩm về sản phẩm gốc. Từ đó, dựa vào tổng chi phí liên quan đến giá thành các loại sản phẩm đã tập hợp để tính ra giá thành sản phẩm gốc và giá thành từng loại sản phẩm.
Ta có một số công thức sau:
Tổng giá thành của tất cả các loại sản phẩm
Giá thành đơn vị sản phẩm gốc=
Tổng số sản phẩm gốc (kể cả quy đổi)
Giá thành đơn vị Giá thành đơn vị Hệ số quy đổi sản phẩm
= x
sản phẩm từng loại sản phẩm gốc từng loại
III. Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên:
1. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, việc tiêu dùng nguyên vật liệu trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm, thực hiện dịch vụ là điều không tránh khỏi. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên vật liệu, vật liệu phụ, nhiên liệu được xuất dùng trực tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Xuất nguyên vật liệu cho đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất kinh doanh hoặc sản phẩm, dich vụ) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trong trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí mà không hạch toán riêng biệt ra được thì sẽ tiến hành phân bổ chi phí cho các đối tượng có liên quan. Công thức phân bổ như sau:
Chi phí vật liệu phân bổ Tổng chi phí vật liệu Tỷ lệ (hay hệ số)
= x
cho từng đối tượng cần phân bổ phân bổ
Trong đó:
Tỷ lệ (hay hệ số) Tổng tiêu thức phân bổ của từng đối tượng
=
phân bổ Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng
Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng lượng…
Để thuận tiện trong công tác hạch toán, theo dõi các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng TK 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Tài khoản này không có số dư và được mở chi tiết cho từng đối tượng hạch toán chi phí (phân xưởng, sản phẩm, dịch vụ)
Bên nợ: Phản ánh giá trị nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp cho sản xuất kinh doanh
Bên có: Giá trị nguyên vật liệu dùng không hết nhập lại kho.
Giá trị kết chuyển chi phí nguyên vật liệu
Kế toán tiến hành công tác hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp như sau:
* Xuất kho nguyên vật liệu sử dụng để chế tạo sản phẩm, kế toán ghi:
Nợ TK 621- Chi tiết theo từng đối tượng
Có TK 152- Giá thực tế xuất dùng theo từng loại
* Nếu mua nguyên vật liệu về không nhập kho mà xuất trực tiếp cho sản xuất, kế toán ghi:
Nợ TK 621- Giá mua chưa có thuế
Nợ TK 133 (1331)- Thuế GTGT được khấu trừ
Có TK 331, 111, 112…
* Nếu xuất dùng không hết nhập lại kho:
Nợ TK 152- Chi tiết vật liệu
Có TK 621- Chi tiết đối tượng
* Cuối kỳ, kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp để tính giá thành:
Nợ TK 154- Chi tiết theo từng đối tượng
Có TK 621- Chi tiết theo từng đối tượng
Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
TK 151,152,331,111 TK621 TK 154
112,411,311
Vật liệu dùng trực tiếp chế tạo Kết chuyển chi phí
sản phẩm, tiến hành lao vụ, nguyên vật liệu trực tiếp
dịch vụ TK 152
Vật liệu dùng không hết
nhập kho hay chuyển kỳ sau
2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp:
Chi phí nhân công trực tiếp là khoản thù lao lao động mà doanh nghiệp phảI trả cho lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ như tiền lương chính, lương phụ, các khoản phụ cấp có tính chất lương như phụ cấp độc hại, phụ cấp làm đêm. Chi phí nhân công trực tiếp còn bao gồm các khoản đóng góp như BHXH, BHYT, KPCĐ do chủ sử dụng lao động chịu và được tính vào chi phí kinh doanh theo một tỷ lệ nhất định với tiền lương của công nhân sản xuất.
Để theo dõi và hạch toán chi phí này, kế toán sử dụng TK 622- Chi phí nhân công trực tiếp. Tài khoản này không có số dư và được mở chi tiết theo từng đối tượng hạch toán chi phí giống như TK 621.
Bên nợ: Phản ánh chi phí nhân công trực tiếp phát sinh
Bên có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp
Kế toán hạch toán chi phí nhân công trực tiếp như sau:
+ Phản ánh tiền lương và phụ cấp lương phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất hay thực hiện lao vụ trong kỳ.
Nợ TK 622- Chi tiết theo đối tượng
Có TK 334- Tổng số tiền lương và phụ cấp phải trả cho công nhân trực tiếp
+ Trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định 19%
Nợ TK 622- Chi tiết theo đối tượng
Có TK 338 (3382, 3383, 3384)
+ Trích trước tiền lương nghỉ phép vào chi phí và các khoản tiền lương trích trước khác (ngừng sản xuất, kinh doanh theo kế hoạch)
Nợ TK 622- Chi tiết theo đối tượng
Có TK 335- Tiền lương trích trước
+ Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào cuối kỳ
Nợ TK 154- Chi tiết theo đối tượng
Có TK 622- Chi tiết theo đối tượng
Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nhân công trực tiếp:
TK 334 TK 622 TK 154
Tiền lương và phụ cấp lương Kết chuyển chi phí
phải trả cho CN trực tiếp SX nhân công trực tiếp
TK 338
Các khoản đóng góp theo tỷ lệ
với tiền lương của CNTTSX
thực tế phát sinh
3. Hạch toán chi phí sản xuất chung:
Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất ra sản phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. Để theo dõi các khoản chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng TK 627- Chi phí sản xuất chung. Mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất, dịch vụ.
+ Bên nợ: Phản ánh chi phí phát sinh thực tế trong kỳ
+ Bên có:
Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung
Kết chuyển chi phí sản xuất chung
Hạch toán chi phí sản xuất chung được tiến hành như sau:
+ Tính ra tiền lương phải trả cho nhân viên phân xưởng
Nợ TK627 (6271- Chi phí phân xưởng, bộ phận)
Có TK 334
+ Trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định (phần tính vào chi phí)
Nợ TK6271- Chi tiết phân xưởng bộ phận
Có TK338 (3382, 3383, 3384)
+ Chi phí vật liệu xuất kho dùng cho từng phân xưởng
Nợ TK627 (6272- Chi tiết theo từng phân xưởng)
Có TK152- Chi tiết tiểu khoản
+ Các chi phí công cụ dụng cụ sản xuất dùng cho các bộ phận phân xưởng (loại phân bổ một lần)
Nợ TK627 (6273- Chi tiết theo từng phân xưởng)
Có TK153- Giá trị xuất dùng
+ Trích khấu hao tài sản cố định của phân xưởng
Nợ TK627 (6274- Chi tiết theo từng phân xưởng)
Có TK214- Chi tiết tiểu khoản
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài
Nợ TK627 (6277- Chi tiết theo từng phân xưởng)
Nợ TK133 (1331)- Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ
Có TK111,112,331… Giá trị mua ngoài
+ Các chi phí dự toán tính vào chi phí sản xuất chung trong kỳ (chi phí sửa chữa TSCĐ, giá trị công cụ nhỏ xuất dùng)
Nợ TK627- Chi tiết theo từng phân xưởng
Có TK335- Chi tiết chi phí phải trả
Có TK142- Chi tiết chi phí trả trước
+ Các chi phí bằng tiền khác (tiếp tân, hội nghị)
Nợ TK627 (6278- Chi tiết theo từng phân xưởng)
Có TK liên quan (111,112…)
Do chi phí sản xuất chung có liên quan đến nhiều loại sản phẩm lao vụ, dịch vụ trong phân xưởng nên cần thiết phải phân bổ các chi phí sản xuất chung cho từng đối tượng (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ) theo tiêu thức phù hợp. Trong thực tế, thường sử dụng các tiêu thức phân bổ chi phí sản xuất chung như phân bổ theo định mức, theo giờ làm việc thực tế của công nhân sản xuất.
Phản ánh mức phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng chịu chi phí liên quan
Nợ TK154- Chi tiết theo từng đối tượng
Có TK627- Chi tiết theo từng tiểu khoản
Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất chung
TK334,338 TK627 TK111,112,152
Chi phí nhân viên
Các khoản ghi giảm chi phí
TK152,153
Chi phí vật liệu, dụng cụ SX chung (phế liệu thu hồi,
vật tư xuất dùng không hết)
TK1421,335
Chi phí theo dự toán
TK214 TK 154
Chi phí khấu hao TSCĐ Phân bổ hoặc kết chuyển
TK331,111,112 chi phí sản xuất chung
Chi phí SX chung khác
4. Tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang:
4.1. Tổng hợp chi phí sản xuất:
Các chi phí sản xuất đã được hạch toán theo từng loại. Mục đích cuối cùng là phải được tổng hợp vào bên nợ của TK154- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. TK154 được mở chi tiết theo từng ngành sản xuất, từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết sản phẩm, từng loại lao vụ, dịch vụ… của các bộ phận sản xuất kinh doanh chính, sản xuất kinh doanh phụ ( kể cả vật tư, sản phẩm, hàng hoá thuê ngoài gia công chế biến)
Nội dung phản ánh của TK154 như sau:
+ Bên nợ: Tổng hợp các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
+ Bên có: Các khoản giảm chi phí sản phẩm
Tổng giá thành sản xuất thực tế hay chi phí thực tế của sản phẩm lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành.
+ Dư nợ: Chi phí thực tế của sản phẩm, dịch vụ dở dang chưa hoàn thành.
Đối với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch thì TK 154 đa số không có số dư nợ.Do hoạt dộng kinh doanh này không có quá trình nhập kho và xuất kho sản phẩm dịch vụ.
Quá trình hạch toán, tổng hợp chi phí sản xuất kinh doanh được tiến hành như sau:
Cuối kỳ, căn cứ vào chi phí sản xuất đã được tập hợp, kế toán tiến hành bút toán kết chuyển chi phí theo từng đối tượng.
Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung theo từng đối tượng
Nợ TK154- Chi tiết đối tượng
Có TK621- Chi tiết đối tượng
Có TK622- Chi tiết đối tượng
Có TK627- Chi tiết đối tượng
Các bút toán ghi giảm chi phí
+ Phế liệu thu hồi trong sản xuất
Nợ TK152- Chi tiết phế liệu
Có TK154- Chi tiết sản phẩm, lao vụ
+ Vật liệu không dùng hết nhập kho
Nợ TK152- Chi tiết vật liệu
Có TK154- Chi tiết sản phẩm, lao vụ
+ Phản ánh tổng giá thành công xưởng thực tế sản phẩm hoàn thành
Nợ TK632- Tiêu thụ thẳng không qua kho
Có TK 154- Tổng giá thành công xưởng thực tế sản phẩm, d._.ịch vụ hoàn thành.
Sơ đồ hạch toán chi phí sản phẩm theo phương pháp kê khai thường xuyên
TK154 TK152,111
TK621
Chi phí NVL trực tiếp Các khoản ghi giảm chi phí sp
TK622 TK632
Giá thành dịch vụ hoàn thành
Chi phí nhân công trực tiếp
TK627
Chi phí sản xuất chung
4.2. Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang.
Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa đạt đủ tiêu chuẩn về kỹ thuật, vẫn còn trong giai đoạn chế biến. Để tính được giá thành sản phẩm, doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang. Tuỳ thuộc vào đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ và tính chất của sản phẩm mà doanh nghiệp áp dụng một trong các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang sau đây:
4.2.1. Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu chính.
Nội dung chủ yếu của phương pháp này là toàn bộ chi phí chế biến được tính hết cho thành phẩm. Vì vậy, sản phẩm dở dang chỉ bao gồm giá trị của nguyên vật liệu chính mà thôi.
Giá trị vật liệu chính nằm Số lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ Toàn bộ
= x giá trị VL
trong sản phẩm dở dang Số lượng Số lượng sản phẩm chính
+ xuất dùng
thành phẩm dở dang
4.2.2: Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo 50% chi phí chế biến:
Phương pháp này thường được áp dụng đối với những loại sản phẩm mà chi phí chế biến chiếm tỷ trọng thấp trong tổng chi phí chế biến. Về bản chất, đây là một dạng của phương pháp ước tính theo sản lượng tương đương, trong đó giả định rằng sản phẩm dở dang đã hoàn thành ở mức độ 50% so với thành phẩm.
4.2.3: Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí định mức hoặc kế hoạch:
Căn cứ vào định mức tiêu hao (hoặc chi phí kế hoạch) cho các khâu, các bước, các công việc trong quá trình chế tạo sản phẩm để xác định giá trị sản phẩm dở dang.
Ngoài các phương pháp được trình bày ở trên thì trong thực tế người ta còn áp dụng các phương pháp khác để xác định giá trị sản phẩm dở dang như phương pháp thống kê kinh nghiệm, phương pháp tính theo chi phí vật liệu chính và vật liệu phụ nằm trong sản phẩm dở dang… Các phương pháp này được áp dụng tuỳ thuộc vào đặc điểm của quá trình sản xuất, của quy trình công nghệ… với mục đích tính toán một cách phù hợp nhất giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ, tạo cơ sở cho công tác tính giá thành được chính xác, hợp lý.
IV. Đặc điểm hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kỳ:
1. Khái niệm và tài khoản sử dụng:
1.1. Khái niệm phương pháp kiểm kê định kỳ:
Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp không theo dõi một cách thường xuyên, liên tục về tình hình biến động của các loại vật tư, hàng hoá, sản phẩm trên các tài khoản phản ánh từng loại hàng tồn kho mà chỉ phản ánh giá trị tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ của chúng trên cơ sở kiểm kê cuối kỳ, xác định lượng tồn kho thực tế. Từ đó xác định lượng xuất dùng cho sản xuất kinh doanh và các mục đích khác trong kỳ theo công thức:
Giá trị hàng tồn kho Giá trị hàng tồn Tổng giá trị hàng Giá trị hàng tồn
= + _
xuất dùng trong kỳ kho đầu kỳ tồn kho tăng thêm kho cuối kỳ
Ưu điểm của phương pháp hạch toán này là tiết kiệm được công ghi chép, tuy nhiên độ chính xác của phương pháp này lại không cao. Phương pháp kiểm kê định kỳ chỉ thích hợp với các đơn vị kinh doanh những chủng loại hành hoá, vật tư khác nhau, giá trị thấp thường xuyên xuất dùng, xuất bán.
1.2. Tài khoản sử dụng:
Để hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh, kế toán cũng sử dụng các TK621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, TK622- Chi phí nhân công trực tiếp, TK627- Chi phí sản xuất chung. Do đặc điểm của phương pháp kiểm kê định kỳ nên các chi phí vật liệu xuất dùng rất khó phân định được mục đích sử dụng như là phục vụ cho sản xuất, quản lý hay cho tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, kế toán cần theo dõi chi tiết các chi phí phát sinh liên quan đến từng đối tượng. Trong phương pháp kiểm kê định kỳ, kế toán sử dụng TK631- Giá thành sản xuất thay cho TK154- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. TK631 có vai trò giống với TK154, tài khoản tập hợp chi phí sản xuất liên quan đến việc chế tạo sản phẩm, thực hiện lao vụ, dịch vụ. Cuối kỳ, TK631 không có số dư, giá thành sản phẩm được kết chuyển vào TK632, giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ- TK154.
2. Phương pháp hạch toán:
2.1: Hạch toán chi phí nguyên vật liệu:
Kế toán cũng sử dụng TK621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Các chi phí được phản ánh trên TK621 không ghi theo từng chứng từ xuất dùng nguyên vật liệu mà một lần vào cuối kỳ hạch toán sau khi tiến hành kiểm kê và xác định được giá trị nguyên vật liệu tồn kho và đang đi đường. Nội dung phản ánh của TK621 giống như phương pháp kê khai thường xuyên.
Phương pháp hạch toán cụ thể:
+ Trị giá vật liệu xuất dùng trực tiếp để chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ
Nợ TK621- Chi tiết đối tượng
Có TK611(6111)- Giá trị vật liệu xuất dùng
+ Cuối kỳ, kết chuyển chi phí nguyên vật liệu vào giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ (chi tiết theo từng đối tượng)
Nợ TK631
Có TK621
Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp theo phương pháp kiểm kê định kỳ
TK311,111,112… TK611 TK621 TK631
Giá trị vật liệu tăng Giá trị VL vật liệu để K/c chi phí NVL
trong kỳ chế tạo sản phẩm hay trực tiếp
thực hiện dịch vụ
TK151,152 TK151,152
K/c giá trị vật liệu Giá trị vật liệu chưa
chưa dùng đầu kỳ dùng cuối kỳ
2.2: Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp:
Cách hạch toán giống như phương pháp kê khai thường xuyên. Cuối kỳ, kế toán tiến hành kết chuyển chi phí.
Nợ TK631
Có TK622
2.3: Hạch toán chi phí sản xuất chung:
Kế toán hạch toán chi phí sản xuất chung giống như phương pháp kê khai thường xuyên. Cuối kỳ tiến hành kết chuyển chi phí để tính giá thành sản phẩm
Nợ TK631
Có TK627
2. Tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê đánh giá sản phẩm:
Để phục vụ cho việc tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, kế toán sử dụng TK631- Giá thành sản xuất. Việc hạch toán được thực hiện chi tiết theo địa điểm phát sinh chi phí và theo loại, nhóm sản phẩm, dịch vụ. Tương tự như TK154
Quá trình tổng hợp chi phí được khái quát qua sơ đồ sau:
TK621 TK631 TK632
K/c chi phí nguyên vật liệu Tổng giá thành sản xuất của
Trực tiếp sản phẩm dịch vụ hoàn thành
TK622
K/c chi phí nhân công trực tiếp
TK627
K/c chi phí sản xuất chung
Các phương pháp kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ cũng được áp dụng tương tự như phương pháp kê khai thường xuyên.
Tóm lại, dù doanh nghiệp sử dụng phương pháp hạch toán hàng tồn kho là phương pháp kê khai thường xuyên hoặc phương pháp kiểm kê định kỳ thì mục đích cuối cùng đều giống nhau. Đó là phải đảm bảo độ tin cậy cho thông tin kế toán. Mỗi phương pháp đều có những mặt tích cực và hạn chế. Vì vậy, khi áp dụng ta cần phải tận dụng và phát huy mặt tích cực, đồng thời tìm ra những biện pháp nhằm ngày càng hoàn thiện phương pháp hạch toán hàng tồn kho, phương pháp tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh.
Phần II: Thực trạng công tác hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm tại Công ty du lịch và xúc tiến thương mại.
I. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật và tổ chức bộ máy quản lý hoạt động sản xuất - kinh doanh của Công ty du lịch và xúc tiến thương mại có ảnh hưởng đến hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm - dịch vụ
1. Lịch sử hình thành và phát triển
1.1. Giới thiệu về Công ty du lịch và xúc tiến thương mại
Công ty du lịch và xúc tiến du lịch toạ lạc ở 25 Ngọc Khánh - Ba Đình - Hà Nội. Công ty được thành lập dựa trên cơ sở sáp nhập hai Công ty Khách sạn và du lịch Hoa Lan - Bộ Nội Thương và khách sạn kinh tế Đối Ngoại của Bộ kinh tế đối ngoại theo quyết định số 912/TCCBTM ngày 10/9/1993 của Bộ Thương Mại.
Tel: 84.4.8344677.
Fax: 84.4.8343165.
Mã số thuế: 01.0010765.2-1.
Khách sạn là ngành kinh doanh chính của Công ty thể hiện khách sạn Thương mại chiếm tỷ trọng 93% toàn Công ty. Bên cạnh việc kinh doanh dịch vụ khách sạn như cho thuê phòng, tổ chức các tua du lịch, Công ty còn kinh doanh các dịch vụ khác như nhận đặt tiệc, tổ chức hội thảo, xuất nhập khẩu đồ thủ công mỹ nghệ và dịch vụ xuất nhập cảnh.
Khách sạn đi vào hoạt động từ tháng 1 năm 1995. Khách sạn có 5 tầng bao gồm 60 phòng nghỉ trong đó có 3 loại phòng theo các loại giá khác nhau từ loại 1 đến loại 3. Khách sạn có 3 phòng ăn, 12 phòng massage, phòng giải trí và phòng internet đều ở tầng 2.
Giám đốc của công ty là người đã từng giữ cương vị giám đốc sở Thương mại tỉnh Nam Định. Với kinh nghiệm của mình, ông đã giữ Công ty trụ vững và phát triển trong cơ chế thị trường đầy cạnh tranh của các Công ty nước ngoài.
1.2. Bối cảnh ra đời và chức năng nhiệm vụ của Công ty
1.2.1. Bối cảnh ra đời của Công ty
Công ty Du lịch và xúc tiến thương mại ra đời gắn với sự ra đời của Bộ Thương Mại. Việc sáp nhập hai bộ: Bộ Nội Thương và Bộ Kinh Tế đối ngoại có thể coi là lý do chính trị cho việc sáp nhập Công ty dịch vụ Hoa Lan và khách sạn Ngọc Khánh để trở thành Công ty du lịch và xúc tiến thương mại.
Vào những năm 1993 khi đất nước bước vào giai đoạn mở cửa thị trường, các Công ty nước ngoài liên tục đầu từ vào Việt Nam. Với chủ trương liên doanh với các đối tác nước ngoài để có thể thu lợi nhuận và học hỏi thêm bên bạn nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh Công ty dịch vụ Hoa Lan thuộc bộ nội thương ở số 19 Phạm Đình Hổ đã quyết định liên doanh với bên Malayxia để thành lập khách sạn Sunway là một khách sạn sang trọng ở Hà Nội hiện nay. Bên cạnh mục tiêu liên doanh để phát triển ngành du lịch và công ty muốn mở rộng quy mô kinh doanh, muốn tạo dựng cho ngành thương mại mới thành lập một khách sạn lớn hơn với đội ngũ nhân viên và quản lý tinh nhuệ hơn. Đây là một quyết định táo bạo của ban lãnh đạo Công ty cũng như Bộ thương mại. Trước kia Công ty khách sạn và dịch vụ Hoa Lan cũng như Công ty khách sạn Ngọc Khánh đều chỉ là khách sạn nhỏ phục vụ nhu cầu trong nội bộ. Việc xây dựng khách sạn Thương Mại đạt tiêu chuẩn 3 sao đặt ra cho các thành viên sáng lập cùng ban lãnh đạo Công ty rất nhiều khó khăn.
Thứ nhất về mặt nội lực đòi hỏi Công ty cần phải nâng cao trình độ vè mặt quản lý. Sự thay đổi này cần thiết là sự thay đổi về chất, do vậy Công ty đã liên tục tổ chức các khoá đào tạo chuyên nghiệp cho các cán bộ quản lý. Tuyển nhân viên mới có trình độ cao. Ngay cả các đội ngũ nhân viên cũ cũng được đào tào lại để có thể phục vụ cho khách sạn mới với phương trâm "con người là một nửa của khách sạn".
Thứ hai Do việc sáp nhập hai Công ty để thành lập Công ty mới dẫn đến việc dư thừa nhiều lao động nên Công ty chỉ có thể giữ lại theo cơ chế sàng lọc những nhân viên tốt phù hợp nhất với công việc mới. Việc dừ thừa nhiều lao động dẫn đến việc Công ty phải bố trí lại việc làm cho họ. Theo khoản 1 điều 17 Bộ luật lao động: "Trong trường hợp do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ mà người lao động đã làm thường xuyên trong doanh nghiệp từ 1 năm trở lên bị mất việc làm, thì người sử dụng lao động có trách nhiệm đào tạo lại họ để tiếp tục sử dụng họ vào những chỗ làm mới; nếu không thể giải quyết vào công việc mới, phải cho người lao động thôi việc thì phải trợ cấp mất việc làm, cứ mỗi năm làm việc phải trả một tháng lương, nhưng thấp nhất cũng bằng hai tháng lương".
Ngay từ khi thành lập ban lãnh đạo mới của Công ty đã phải đối mặt với những thách thức không nhỏ trong việc bố trí lao động. Theo điều 31 Bộ luật lao động: "Trong trường hợp sáp nhập phân chia doanh nghiệp, chuyển quyền sở hữu, quyền quản lý hoặc quyền sử dụng tài sản doanh nghiệp thì người sử dụng lao động kế tiếp phải chịu trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động với người lao động cho tới khi 2 bên thoả thuận sửa đổi, chấm dứt hợp đồng lao động hoặc giao kết hợp đồng lao động mới".
Bên cạnh những khó khăn Công ty có những thuận lợi trong quá trình sáp nhập, đặc biệt là về thủ tục hành chính. Đây là điều dễ hiểu do Công ty là Công ty trực thuộc Bộ thương mại.
Hiện nay Công ty lấy kinh doanh khách sạn là chủ yếu do những năm gần đây rất phát triển, Việt Nam chúng ta đã trở thành điểm đến của du khách 4 phương. Tuy nhiên phòng kinh doanh của Công ty vẫn luôn thường xuyên trình giám đốc chiến lược XNK các sản phẩm thủ công mỹ nghệ nhằm tăng thêm doanh thu và đa dạng hoá loại hình kinh doanh cho doanh nghiệp. Đặc biệt dịch vụ xuất nhập cảnh và vận chuyển hành khách những năm gần đây đặc biệt phát triển. Tuy nhiên Công ty vẫn chưa đủ sự chuyên nghiệp để có thể làm trọn gói cho một tour du lịch của khách. Ví dụ Công ty vẫn còn thiếu đội ngũ hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp hay Công ty vẫn chưa thể đáp ứng được mọi địa điểm mà khách muốn tham quan.
Có thể tóm tắt quá trình ra đời của Công ty qua sơ đồ sau
1993
Bộ Thương Mại
Bộ Nội Thương
Bộ Kinh Tế Đối Ngoại
24/5/1993
Bộ trưởng BTM trình thủ tướng CP về việc sáp nhập 2 công ty
Thủ tướng CP ra thông báo về việc đồng ý để Bộ trưởng sáp nhập 2 công ty và thành lập doanh nghiệp mới
24/7/1993
Bộ trưởng ra quyết định sáp nhập 2 công ty và thành lập công ty du lịch và xúc tiến thương mại - đồng thời ra quyết định bổ nhiệm giám đốc mới cho công ty
24/9/1993
Công ty thực hiện việc đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật. Công ty du lịch và xúc tiến thương mại chính thức ra đời
1/3/1994
1.2.2. Chức năng nhiệm vụ của Công ty
+ Xây dựng và thực hiện các kế hoạch kinh doanh của Công ty theo quy chế hiện hành để thực hiện mục đích và nội dung các hoạt động của Công ty được quy định tại phần trên.
+ Tự tạo ra nguồn vốn, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đó, mở rộng đầu tư sản xuất, đổi mới trang thiết bị, bù đắp chi phí, cân đối giữa xuất và nhập, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước.
+ Tuân thủ các chính sách, chế độ, luật pháp của Nhà nước có liên quan đến hoạt động kinh doanh của Công ty. Thực hiện nghiêm chỉnh các hợp đồng kinh tế, hợp đồng mua bán và các văn bản mà Công ty đã ký kết.
+ Quản lý, chỉ đạo các đơn vị trực thuộc Công ty theo quy chế hiện hành của Nhà nước.
+ Thực hiện đúng chính sách cán bộ, bồi dưỡng, đào tạo không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ các mặt cho các cán bộ công nhân viên trong Công ty.
+ Làm tốt công tác bảo hộ an toàn lao động, trật tự xã hội, bảo vệ môi trường, bảo vệ tài sản XHCN, bảo vệ an ninh quốc phòng.
2. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh
2.1. Sơ đồ tổ chức quản lý của Công ty Du lịch và xúc tiến thương mại
Giám đốc
Phó giám đốc
Công ty liên doanh khách sạn Hà Nội Sunway
Phòng tổ chức hành chính
Lễ tân
Phòng kế toán tài vụ
Phòng kinh doanh nghiệp vụ
Cửa hàng KD tổng hợp Tràng Tiền
Khách sạn Thương mại
Trung tâm dịch vụ Thương mại Đội Cấn
Buồng
Nhà hàng
Quầy bar
Bảo vệ
Kỹ thuật
2.2. Cơ cấu tổ chức và quản lý Công ty
Qua sơ đồ ta có thể thấy cơ cấu tổ chức và quản lý của Công ty tương đối đơn giản và thống nhất. Công ty du lịch và xúc tiến thương mại có phạm vi kinh doanh rộng và bên cạnh khách sạn Thương mại (giữa vai trò quan trọng nhất của Công ty) còn có cửa hàng Tràng Tiền và trung tâm dịch vụ Đội Cấn nên các Công ty trực thuộc cũng vẫn có sự độc lập cần thiết để chủ động trong kinh doanh.
Khách sạn Sunway là một khách sạn liên doanh với tập đoàn Sunway của Malayxia, phần góp vốn của Công ty là 29 %, có 2 thành viên trong hội đồng quản trị nên có thể dễ dàng thấy rằng tiếng nói của Công ty trong liên doanh không thể so sánh với nước bạn. Tuy nhiên chủ trương liên doanh là tất yếu trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế thế giới và để thúc đẩy ngành du lịch đầy tiềm năng nhưng thiếu vốn đầu tư của chúng ta.
Trung tâm dịch vụ Đội Cấn cũng có ngành nghề kinh doanh chính là khách sạn. Trung tâm hoạt động theo kiểu lấy thu bù chi, nộp khấu hao tài sản, hạch toán báo sổ. Trung tâm tự chủ về kế hoạch kinh doanh, tài chính, nhân sự lao động và tiền lương song phải phù hợp với kế hoạch chung của Công ty và báo cáo với Công ty trước khi thực hiện.
Cũng giống với trung tâm dịch vụ Đội Cấn, cửa hàng Tràng Tiền hoạt động theo nguyên tắc lấy thu bù chi, tuy nhiên cửa hàng có thể chủ động dễ dàng trong việc thay đổi ngành nghề kinh doanh để phù hợp với thị trường. Ví dụ, trước kia cửa hàng kinh doanh đồng hồ còn bây giờ cửa hàng chuyển sang kinh doanh đồ thủ công mỹ nghệ.
2.3. Chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận
Theo sơ đồ trên thì Giám đốc là người điều hành cao nhất, là người có toàn quyền quyết định và chịu trách nhiệm chung đối với hoạt động kinh doanh của Công ty trước Bộ thương mại và pháp luật. Giám đốc trực tiếp điều hành, quản lý hoạt động của 3 phòng: Phòng tổ chức hành chính, phòng kế toán tài vụ, phòng kinh doanh nghiệp vụ. Riêng khách sạn Sunway là khách sạn liên doanh với Malayxia thì hoạt động có những đặc thù riêng. Phần vốn góp của Công ty trong liên doanh là 29%, công ty cử hai thành viên tham gia vào hội đồng quản trị, một giữ chức phó tổng giám đốc, một tham gia vào phòng quản lý nhân sự, ngoài ra còn có một người phụ trách kế toán.
Phó giám đốc có trách nhiệm giúp việc cho giám đốc trong việc xây dựng kế hoạch các chính sách kinh doanh và trực tiếp phụ trách công việc kinh doanh của Công ty và khách sạn.
Các phòng giúp việc cho Giám đốc sẽ điều phối hoạt động của cửa hàng kinh doanh tổng hợp Tràng Tiền, trung tâm dịch vụ thương mại Đội Cấn và khách sạn Thương Mại theo chức năng và nhiệm vụ của mỗi phòng. Cụ thể như sau:
+ Phòng tổ chức hành chính: có nhiệm vụ quản lý cơ sở vật chất phục vụ kinh doanh, tổ chức xây dựng bộ máy quy hoạch cán bộ, quản lý nhân sự, xây dựng và quản lý định mức lao động, tiền lương, ...
+ Phòng kế toán: có nhiệm vụ xây dựng và quản lý về ngân quỹ, theo dõi thu chi, quản lý tài chính vốn, quản lý hướng dẫn hoá đơn chứng từ, tình hình thực hiện chi tiêu tài chính và các hoạt động kế toán của Công ty.
+ Phòng kinh doanh: có nhiệm vụ xây dựng chiến lược chính sách kinh doanh, lập kế hoạch kinh doanh. Ngoài ra, phòng kinh doanh còn trực tiếp kinh doanh các mặt hàng xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ, trang trí nội thất, thực phẩm ăn uống phục vụ cho kinh doanh khách sạn. Việc tổ chức tiếp thị quảng cáo, tổ chức hội nghị, tiệc cưới, hướng dẫn du lịch, lữ hành cũng là nhiệm vụ của phòng.
Khách sạn Thương mại bao gồm các bộ phận: Lễ tân, tổ buồng, tổ bar, nhà hàng, tổ bảo vệ, tổ kỹ thuật đây là những bộ phận lao động trực tiếp trong khách sạn.
Bộ phận lễ tân: là bộ phận quan trọng nhất đòi hỏi nhân viên phải thành thạo ít nhất 1 ngoại ngữ và nắm vững nghiệp vụ kinh doanh của khách sạn, nhạy bén trong giao tiếp. Mọi yêu cầu của khách hàng đều được thông qua phòng lễ tân, rồi từ đó nhân viên lễ tân sẽ liên lạc đến các bộ phận cần thiết khác để phục vụ khách nhanh nhất, tốt nhất.
Bộ phận nhà hàng: phục vụ khách hàng 24/24 giờ và cũng đảm nhiệm phục vụ tiệc hay hội thảo khi có sự kiện đó diễn ra.
Bộ phận buồng: bộ phận này chịu trách nhiệm về toàn bộ nội ngoại thất phòng ở khách sạn. Các nhân viên thuộc bộ phận này có nhiệm vụ phải dọn dẹp, làm vệ sinh phòng cho khách hàng ngày và theo yêu cầu của khách, ngoài ra họ còn phải đảm bảo đầy đủ đồ dùng hàng ngày cho khách như: khăn mặt, khăn tắm, xà bông, ...
Bộ phận bếp: có chức năng chế biến các món ăn phục vụ theo yêu cầu hàng ngày của khách hàng. Chất lượng phục vụ của bộ phận này được đánh giá rất cao, đặc biệt là các món ăn Trung Quốc, Hàn Quốc, Pháp. Đây là kết quả của việc tuyển chọn khắt khe cùng với chế độ ưu đãi đặc biệt với các đầu bếp của Công ty.
Bộ phận bảo vệ: Bộ phận này có nhiệm vụ đảm bảo an toàn an ninh cho khách sạn và cho khách hàng đang lưu trú tại khách sạn.
Bộ phận kỹ thuật: Có nhiệm vụ theo dõi, bão dưỡng, sửa chữa các thiết bị về điện nước ... của khách sạn.
Bộ phận tạp vụ: bộ phận này phụ trách công việc thu dọn vệ sinh sạch sẽ toàn khuôn viên của khách sạn. Ngoài ra, bộ phận này có trách nhiệm cung cấp đầy đủ dụng cụ, đồ dùng cần thiết cho nhà hàng và khách sạn.
3. Những hoạt động kinh doanh của công ty Du lịch và xúc tiến thương mại
Công ty Du lịch và xúc tiến thương mại chủ yếu kinh doanh ngành khách sạn. Khách sạn Thương mại của công ty chiếm tỷ trọng 93% toàn công ty. Khách sạn Thương mại kinh doanh dịch vụ lưu trú là chủ yếu. Khách san có 60 phòng nghỉ với mức giá khác nhau từ loại 1 đến loại 3. Bên cạnh dịch vụ lưu trú các hoạt động như nhận đặt tiêc cưới, phục vụ hội thảo, cho thuê hội trường, kinh doanh đồ lưu niệm, dịch vụ massage... cũng thuộc sự quản lí của khách sạn. Ngoài khách sạn Thương mại , nhà hàng Thương mại và nhà hàng Hàn Quốc kinh doanh hoạt động ăn uống đáp ứng nhu cầu ẩm thực của khách lưu trú tại khách sạn và khách du lịch. Nhà hàng Hàn Quốc chuyên phục vụ các món ăn hải sản và các món ăn truyền thống của Hàn Quốc. Nhà hàng Thương mại phục vụ đồ ăn sáng cho khách lưu trú và đảm nhận tiệc cưới, phục vụ hội thảo khi các sự kiện đó diễn ra. Các quầy Mini Bar, Lobby Bar phục vụ các đồ uống và đồ ăn nhanh cho khách.
II. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán và bộ sổ kế toán tại Công ty Du lịch và xúc tiến thương mại.
1. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán.
Công ty tổ chức công tác kế toán theo hình thức tập trung, theo hình thức tổ chức công tác kế toán này, toàn đơn vị chỉ tổ chức một phòng kế toán trung tâm (đơn vị kế toán cơ sở) ở đơn vị chính, còn ở các đơn vị trực thuộc đều không có tổ chức kế toán riêng. Phòng kế toán trung tâm chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện toàn bộ công tác kế toán, công tác tài chính và công tác thống kê trong toàn công ty. Còn ở các đơn vị trực thuộc, phòng kế toán trung tâm chỉ bố trí nhân viên hạch toán làm nhiệm vụ hướng dẫn hạch toán ban đầu, thu nhận và kiểm tra chứng từ ban đầu để định kỳ (thường là một tuần) chuyển chứng từ về phòng kế toán trung tâm. Ngoài ra để phục vụ cho yêu cầu quản lý về hạch toán thống kê, phòng kế toán trung tâm giao cho các nhân viên hạch toán thực hiện một số phần hành công việc hạch toán khác như ghi chép các chỉ tiêu cần thống kê, ghi chép hạch toán một số nghiệp vụ cụ thể. Về cơ cấu bộ máy kế toán của công ty bao gồm có 5 người. Một nhân viên kế toán trưởng kiêm kế toán tổng hợp, một kế toán khách sạn, một kế toán về thanh toán, một kế toán về nguyên vật liệu, hàng hoá, công cụ, một nhân viên làm thủ quỹ.
Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán của công ty Du lịch và xúc tiến thương mại.
Kế toán khách sạn
Kế toán TSCĐ, vật liệu
Kế toán trưởng
Kế toán thanh toán
Thủ quỹ
Kế toán khách sạn có nhiệm vụ ghi chép phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong các lĩnh vực như phòng nghỉ, điện thoại, giặt là, massage… kế toán phản ánh nghi chép doanh thu từ các dịch vụ, các khoản điều chỉnh doanh thu như hoạt động massage chịu thuế tiêu thụ đặc biệt – một khoản giảm trừ doanh thu, kế toán theo dõi tình hình kinh doanh phòng nghỉ trên cơ sở các bảng thống kê của nhân viên lễ tân về số lượng phòng đang đưa vào kinh doanh hay phòng có khách, số lượng phòng vẫn còn trống. Ngoài ra kế toán còn theo dõi tình hình kinh doanh hàng hoá là các đồ lưu niệm bán cho khách du lịch v.v…
Kế toán vốn bằng tiền, vay và thanh toán có nhiệm vụ ghi chép phản ánh số hiện có và tình hình biến động của các khoản vốn bằng tiền (tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng). Kế toán ghi chép, tổng hợp và kế toán chi tiết các khoản tiền vay, các khoản công nợ (các khoản nợ phải thu, phải trả) và nguồn vốn chủ sở hữu.
Kế toán tài sản cố định, vật liệu có nhiệm vụ ghi chép kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết tài sản cố định, công cụ dụng cụ tồn kho, nguyên vật liệu tồn kho, kế toán định kỳ khấu hao tài sản cố định, phân bổ công cụ dụng cụ tính trị giá vốn vật liệu xuất kho. Lập các báo cáo kế toán nội bộ về tăng giảm tài sản cố định, báo cáo nguyên vật liệu tồn kho, theo dõi tình hình sử dụng tài sản cố định, báo cáo nguyên vật liệu tồn kho, theo dõi tình hình sử dụng tài sản cố định, công cụ dụng cụ ở các bộ phận trong công ty.
Thủ quỹ là người chịu trách nhiệm quản lý, bảo quản toàn bộ lượng tiền mặt trong két sắt, nhập-xuất quỹ tiền mặt.
Kế toán trưởng kiêm kế toán tổng hợp: trực tiếp phụ trách phòng kế toán, chịu trách nhiệm trước cơ quan tài chính cấp trên và giám đốc công ty về các vấn đề có liên quan đến tình hình tài chính và công tác hạch toán kế toán của công ty, kiểm tra công tác chỉ đạo, công tác quản lý, tạo nguồn vốn, sử dụng tiền vốn theo đúng chế độ tài chính nhà nước ban hành. Ngoài ra, kế toán trưởng là người tổng hợp tất cả các số liệu từ nhật ký chứng từ, bảng kê để lập báo cáo kế toán quyết toán tài chính theo quy định nhà nước và đảm nhiệm các phần hành kế toán còn lại.
Để góp phần đảm bảo độ chính xác cho thông tin kế toán, đồng thời giảm nhẹ khối lượng công việc, công ty đã áp dụng phần mềm kế toán vào công tác quản lý hạch toán. Hệ thống tài khoản kế toán của công ty áp dụng thống nhất hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp ban hành theo quyết định 114TTC-QĐ/CĐKT ngày 1/11/1995 của Bộ Tài chính đã bổ xung.
Kế toán công ty sử dụng hình thức Nhật ký-chứng từ.
2. Đặc điểm tổ chức bộ sổ kế toán tại Công ty Du lịch và xúc tiến thương mại.
2.1. Đặc điểm hình thức hạch toán Nhật ký chứng từ.
Công ty áp dụng hình thức kế toán Nhật ký-chứng từ. Hình thức này có một số đặc điểm đó là kết hợp trình từ ghi sổ theo trật tự thời gian với trình tự ghi sổ phân loại theo hệ thống các nghiệp vụ kinh tế cùng loại phát sinh vào sổ kế toán tổng hợp riêng biệt gọi là sổ Nhật ký-chứng từ. Sổ này vừa là sổ nhật ký của các nghiệp vụ cùng loại vừa là chứng từ ghi sổ để ghi sổ Cái cuối tháng (số tổng công cuối tháng ở Nhật ký chứng từ là định khoản kế toán để ghi sổ cái). Nhật ký chứng từ được sử dụng ở công ty, phân loại các nghiệp vụ có liên quan đến bên có và bên nợ của một tài khoản ví dụ như nhật ký chứng từ số 1 được ghi vào cuối tháng dựa trên cơ sở sổ thu tiền, sổ chi tiền ( các sổ này được ghi chép hàng ngày).
2.2. Các loại sổ kế toán của hình thức nhập ký chứng từ.
ở hình thức kế toán này, sổ kế toán tổng hợp bao gồm các nhật ký chứng từ, bảng kê, sổ cái. Các sổ chi tiết là các sổ kế toán được mở theo từng hoạt động kinh doanh, từng đối tượng tập hợp chi phí, tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý của chủ doanh nghiệp.
Hệ thống sổ tổng hợp của hình thức nhật ký chứng từ bao gồm 10 Nhật ký chứng từ được đánh số từ 1 đến 10. Trong thực tế, doanh nghiệp thường sử dụng 4 Nhật ký chứng từ chủ yếu và một số bảng kê thông dụng.
Sau đây là hệ thống sổ kế toán theo hình thức Nhật ký chứng từ được sử dụng ở doanh nghiệp.
Bảng kê một số Nhật ký chứng từ và bảng kê được sử dụng ở công ty
Bảng kê
Nhật ký chứng từ
-Bảng kê chi tiết TK 131.
-Bảng kê chi tiết TK 133.
-Bảng kê chi tiết TK 138.
-Bảng kê các khoản tạm ứng.
-Bảng kê chi tiết TK 152.
-Tổng hợp bảng kê TK 156.
-Bảng kê chi tiết TK 214.
-Bảng kê chi tiết TK 311.
-Bảng kê chi tiết TK 331.
-Bảng kê chi tiết TK 333
-Nhật ký chứng từ số 1.
-Nhật ký chứng từ số 2.
-Nhật ký chứng từ số 7.
-Nhật ký chứng từ số 8.
Ngoài việc sử dụng một số sổ kế toán tổng hợp, để phục vụ cho công tác quản lý hạch toán và yêu cầu của doanh nghiệp, kế toán còn mở thêm các sổ kế toán chi tiết như sổ thu, sổ chi, sổ theo dõi tiền lương và thu nhập đối với cán bộ công nhân viên, sổ chi tiết thanh toán đối với người bán TK 331, sổ chi tiết thanh toán dối với khách hàng TK 131…
2.3. Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức nhật ký chứng từ
Chứng từ gốc
Sổ quỹ
Sổ kế toán chi tiết
Bảng phân bổ
Bảng kê
Nhật ký chứng từ
Bảng tổng hợp chi tiết
Báo cáo kế toán
Sổ cái
Ghi hàng ngày Quan hệ đối chiếu
Ghi cuối tháng
Qua sơ đồ trên ta thấy việc hạch toán xuất phát từ chứng từ gốc sau đó được hạch toán vào sổ quỹ, sổ kế toán chi tiết và ghi vào bảng phân bổ. Công ty áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên do đó việc hạch toán được thực hiện hàng ngày. Cuối tháng, số liệu được tổng hợp trên sổ chi tiết để ghi vào các bảng kê, các nhật ký chứng từ có liên quan. Từ nhật ký chứng từ, việc ghi các sổ cái được thực hiện dựa vào số công có, công nợ trên các nhật ký chứng từ có liên quan. Báo cáo kế toán được lập dựa trên các bảng kê, nhật ký chứng từ, sổ cái có liên quan.
2.4. Trình tự ghi sổ kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm dịch vụ.
Chứng từ gốc
Sổ quỹ
Nhật ký chứng
từ 1,2…
Bảng phân bổ
Tiền lương, BHXH…
Công cụ, dụng cụ, chi phí sửa chữa.
Khấu hao TSCĐ
Bảng tập hợp chi phí theo
hoạt động kinh doanh
Nhật ký chứng từ số 7
Sổ cái
Bảng tính giá thành
Báo cáo kế toán
Ghi hàng ngày.
Ghi cuối tháng.
Quan hệ đối chiếu.
II. Hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh tại công ty Du lịch và xúc tiến thương mại.
1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh.
Công ty Du lịch và xúc tiến thương mại kinh doanh hoạt dộng du lịch và dịch vụ do đó mà việc xác định đối tượng để tập hợp chi phí là rất quan trọng. Đối tượng tập hợp chi phí chình là các hoạt động kinh doanh nhà hàng, hoạt động kinh doanh bar… Mỗi hoạt động là một đối tượng tập hợp chi phí. Như vậy, kế toán tập hợp chi phí theo địa điểm và thời gian phát sinh chi phí, theo từng hoạt động kinh doanh. Do đối tượng tập hợp chi phí khá nhiều nên để thuận tiện cho việc minh hoạ về cách hạch toán chi phí, em chọn hoạt động kinh doanh buồng ngủ để trình bày các thức hạch toán của công ty.
Đối với hoạt động kinh doanh buồng ngủ, các chi phí phát sinh phục vụ cho hoạt động kinh doanh này đều được xác định là các chi phí thuộc hoạt động kinh doanh buồng. Các chi phí phục vụ cho kinh doanh buồng nghỉ bao gồm các chi phí có thể hạch toán trực tiếp ( như: hoa quả để bàn, đồ dùng đặt tại phòng, các chi phí cảu nhân viên trực tiếp phục vụ buồng) và các chi phí được tập hợp riêng do liên quan đến nhiều hoạt động kinh doanh để cuối tháng tiến hành phân bổ cho từng hoạt động ( thường đó là các chi phí khấu hao tài sản cố định, các chi phí dịch vụ mua ngoài như tiền điện, nước, điện thoại).
2. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp của hoạt động kinh doanh buồng ngủ.
Nguyên vật liệu trực tiếp được sử dụng phục vụ cho hoạt động kinh doanh buồng ngủ rất phong phú. Trong chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thường bao gồm các chi phí ăn sáng của khách, chi phí về các đồ dùng đặt phòng như bàn chải đánh răng, kem đánh răng, giấy vệ sinh, xà phòng, hoa để bàn, hoa quả đặt phòng, hoá chất phục vụ cho hoạt động vệ sinh như thuốc tẩy, bột giặt…ngoài ra còn một số đồ dùng nhỏ khác.
Để tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng tài khoản 621 – chi phí nguyên vật ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K0178.doc