Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Công ty X49 - Bộ quốc phòng

Lời nói đầu Hạch toán kế toán là một bộ phận quan trọng trong hệ thống quản lý kinh tế tài chính, giữ vai trò tích cực trong việc điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh doanh. Là một khâu của hạch toán kế toán, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp công nghiệp giữ một vai trò hết sức quan trọng. Giá thành là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ quản lý, sử dụng vật tư, lao động, thiết bị, trình độ tổ chức, công nghệ sản xuất sản phẩm, là cơ sở

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1346 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Công ty X49 - Bộ quốc phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để đáng giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm không chỉ dừng lại ở chỗ tính đúng, tính đủ chi phí trong giá thành mà còn phải tính đến việc cung cấp thông tin cho quản trị doanh nghiệp. Để cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu thông tin là tất yếu, trên cơ sở những thông tin chính xác về chi phí và giá thành, nhà quản trị có thể đưa ra được những chiến lược hạ giá thành phù hợp. Để đáp ứng được các yêu cầu trên, công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành phải không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, qua thời gian thực tập tại Công ty X49, em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty X49- Bộ Quốc phòng”. Hiện nay, công tác này tại Công ty tương đối tốt. Tuy nhiên, qua báo cáo thực tập , em mong được góp phần nhỏ bé của mình nhằm hoàn thiện thêm công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty. Ngoài lời mở đầu và kết luận, báo cáo gồm ba phần chính: Phần I: Lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Phần II: Thực tế công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty X49-Bộ Quốc phòng. Phần III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty X49 - Bộ Quốc phòng. Báo cáo này được hoàn thành với sự hướng dẫn nhiệt tình của các cô chú trong phòng Tài chính - Kế toán Công ty X49. Tuy nhiên, do thời gian thực tập có hạn, những nhận thức về lý luận cũng như thực tiễn còn hạn chế, do vậy báo cáo vẫn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp để báo cáo được hoàn thiện hơn. Phần I Lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm I. ý nghĩa, nội dung của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Chi phí sản xuất Khái niệm chi phí sản xuất. Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất (lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động). Quá trình sử dụng các yếu tố cơ bản trong sản xuất cũng đồng thời là quá trình doanh nghiệp phải chi ra những chi phí sản xuất tương ứng, những chi phí này được biểu hiện bằng thước đo tiền tệ. Như vậy, chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của các hao phí về lao động sống, lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra để tiến hành các hoạt động sản xuất trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm). Chi phí về lao động sống gồm: chi phí tiền lương, tiền công, các khoản trích nộp theo quy định. Chi phí về lao động vật hoá gồm: chi phí về nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ dùng cho sản xuất, chi phí về năng lượng, chi phí khấu hao tài sản cố định... Ngoài những hoạt động có liên quan đến hoạt động sản xuất ra sản phẩm hoặc lao vụ trong các doanh nghiệp sản xuất, còn có những hoạt động kinh doanh và hoạt động khác không có tính chất sản xuất như hoạt động bán hàng, hoạt động quản lý... Để tiến hành những hoạt động này doanh nghiệp cũng cần phải chi ra những khoản chi phí tương ứng là chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp... Tuy nhiên, chỉ những chi phí để tiến hành các hoạt động sản xuất mới được coi là chi phí sản xuất. Phân loại chi phí sản xuất Chi phí sản xuất của các doanh nghiệp bao gồm nhiều loại có nội dung kinh tế khác nhau, mục đích và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất cũng khác nhau. Để thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán, cần thiết phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất. Xuất phát từ các mục đích và yêu cầu khác nhau của quản lý, chi phí sản xuất cũng được phân loại theo những tiêu thức khác nhau. Sau đây là một số tiêu thức phân loại phổ biến. Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố chi phí (theo nội dung kinh tế ) Theo cách phân loại này, căn cứ vào tính chất, nội dung kinh tế của chi phí sản xuất khác nhau để chia ra các yếu tố chi phí, mỗi yếu tố chi phí chỉ bao gồm những chi phí có cùng một nội dung kinh tế, không phân biệt công dụng cụ thể hay địa điểm phát sinh của chi phí đó. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí sản xuất trong kỳ được chia làm 5 yếu tố sau: - Yếu tố chi phí nguyên vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ ... sử dụng vào hoạt động sản xuất trong kỳ (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi). + Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất trong kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi). - Yếu tố chi phí nhân công và các khoản phụ cấp lương: Phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho toàn bộ công nhân trực tiếp và gián tiếp sản xuất. + Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ: Phản ánh phần BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân trực tiếp và gián tiếp sản xuất. - Yếu tố chi phí khấu hao tài sản cố định: Phản ánh tổng số khấu hao tài sản cố định phải trích trong kỳ của tất cả tài sản cố định sử dụng vào hoạt động sản xuất trong kỳ. - Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất . - Yếu tố chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất trong kỳ. Phân loại theo yếu tố chi phí có tác dụng rất lớn trong quản lý chi phí sản xuất, nó cho biết kết cấu, tỷ trọng của từng yếu tố chi phí sản xuất để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, lập báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố ở bảng thuyết minh báo cáo tài chính. Hơn nữa, thông tin về chi phí được cung cấp một cách cụ thể sẽ giúp doanh nghiệp trong việc lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ lương, tính toán nhu cầu vốn lưu động cho kỳ sau. Đồng thời, cung cấp tài liệu để tính toán thu nhập quốc dân. Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm: Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân chia theo khoản mục. Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Theo Nghị định 59/CP của Chính phủ ban hành năm 1996, giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) ở Việt Nam bao gồm ba khoản mục chi phí: - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là chi phí nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu sử dụng trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ. - Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm tiền lương, tiền công, các khoản trích nộp của công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp phải nộp theo quy định. - Chi phí sản xuất chung: Là các chi phí sử dụng chung cho hoạt động sản xuất, chế biến của phân xưởng (bộ phận kinh doanh) trực tiếp tạo ra sản phẩm và dịch vụ như: chi phí vật liệu, công cụ lao động động nhỏ, khấu hao tài sản cố định thuộc phân xưởng (bộ phận kinh doanh); tiền lương, các khoản trích nộp theo quy định của nhân viên phân xưởng (bộ phận kinh doanh), chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền phát sinh ở phân xưởng (bộ phận kinh doanh) Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành có tác dụng phục vụ cho yêu cầu quản lý chi phí sản xuất theo định mức; cung cấp số liệu trong công tác tính giá thành, làm tài liệu tham khảo để lập định mức chi phí sản xuất và lập kế hoạch giá thành sản phẩm cho kỳ sau. Phân loại chi phí sản xuất theo quan hệ với khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành: Theo cách này, chi phí sản xuất được chia làm hai loại: - Chi phí khả biến (biến phí): là những chi phí có sự thay đổi về lượng tương quan tỷ lệ thuận với sự thay đổi của khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ, chẳng hạn chi phí về nguyên vật liệu, nhân công trực tiếp... Cần lưu ý rằng, các chi phí biến đổi nếu tính trên một đơn vị sản phẩm thì lại có tính cố định. - Chi phí bất biến (định phí): là chi phí không thay đổi về tổng số so với khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn các chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh... Các chi phí này nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi nếu số lượng sản phẩm thay đổi. Cách phân loại này cho phép thấy trước được sự biến đổi của chi phí khi mức độ hoạt động sản xuất thay đổi. Do đó nó có tác dụng lớn trong quản trị kinh doanh, đáp ứng cho yêu cầu lập kế hoạch kiểm soát hoặc chủ động điều tiết chi phí cho người quản lý, phân tích điểm hoà vốn và phục vụ cho việc ra quyết định. Giá thành sản phẩm a. Khái niệm giá thành sản phẩm Quá trình sản xuất luôn luôn tồn tại hai mặt đối lập nhau nhưng có liên quan mật thiết với nhau, đó là: các chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra và kết quả sản xuất thu được - sản phẩm, công việc hoàn thành. Như vậy, doanh nghiệp phải tính được chi phí đã bỏ ra để sản xuất được sản phẩm. Điều đó có nghĩa là phải xác định được giá thành sản phẩm. Vậy giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành. Để xác định được giá thành sản phẩm, trước hết doanh nghiệp phải tập hợp được toàn bộ chi phí sản xuất chi ra trong kỳ có liên quan đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Do đó chi phí sản xuất là cơ sở để hình thành nên giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất, kết quả sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Giá thành sản phẩm có hai chức năng chủ yếu là chức năng thước đo bù đắp chi phí và chức năng lập giá. Toàn bộ các chi phí sản xuất mà doanh nghiệp chi ra để sản xuất sản phẩm sẽ được bù đắp bởi số tiền thu về tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, việc bù đắp các chi phí đầu tư vào đó mới chỉ đảm bảo quá trình tái sản xuất giản đơn. Mục đích sản xuất và nguyên tắc kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải đảm bảo trang trải, bù đắp mọi chi phí đầu vào và có lãi. Vì thế, trong cơ chế thị trường, giá cả không những phụ thuộc vào quy luật cung cầu, vào sự thoả thuận giữa doanh nghiệp với khách hàng mà còn phải dựa trên cơ sở của giá thành sản phẩm. Ngoài hai chức năng quan trọng là bù đắp chi phí và bù đắp giá bán, giá thành sản phẩm còn giúp cho các doanh nghiệp lập kế hoạch, kiểm tra, đánh giá hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và là cơ sở để ra các quyết định đầu tư. Để giúp cho việc nghiên cứu và quản lý tốt giá thành sản phẩm, kế toán cũng cần phân biệt các loại giá thành khác nhau. b. Phân loại giá thành sản phẩm. Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Xét theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành, giá thành được chia thành giá thành kế hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế. - Giá thành kế hoạch: Giá thành kế hoạch được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch. - Giá thành định mức: Cũng như giá thành kế hoạch, giá thành định mức cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch. Giá thành định mức lại được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình sản xuất sản phẩm. - Giá thành thực tế: Giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Giá thành thực tế là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được chia thành giá thành sản xuất và giá thành toàn bộ. - Giá thành sản xuất : là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất (chi phí vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung). Bởi vậy, giá thành sản xuất còn có tên gọi là giá thành phân xưởng. - Giá thành toàn bộ: là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (chi phí sản xuất, quản lý và bán hàng). Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm riêng biệt nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ đó được thể hiện ở chỗ: giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất thực tế đã tập hợp được và số lượng sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ báo cáo. Nội dung của giá thành sản phẩm chính là chi phí sản xuất được tính cho số lượng và loại sản phẩm đó. Về mặt kế toán thì kế toán tập hợp chi phí sản xuất tạo cơ sở số liệu để tính giá thành sản phẩm. Có thể nói kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành là hai bước công việc liên tiếp và gắn bó hữu cơ với nhau. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm giống nhau về chất vì đều là những hao phí về lao động sống, lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm; tuy nhiên, xét về mặt lượng thì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm lại không giống nhau vì: - Chi phí sản xuất luôn gắn với một thời kỳ nhất định, còn giá thành sản phẩm gắn liền với một loại sản phẩm, công việc nhất định. - Chi phí sản xuất chỉ bao gồm những chi phí phát sinh kỳ này, còn giá thành sản phẩm chứa đựng cả một phần của chi phí kỳ trước (chi phí sản phẩm làm dở đầu kỳ). Có thể phản ánh mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm qua sơ đồ dưới đây: Chi phí sản xuất A dở dang đầu kỳ Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ B C D Tổng giá thành sản xuất của sản phẩm, dịch vụ hoàn thành Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ Qua sơ đồ ta thấy: AC = AB + BD - CD + = Tổng giá thành sản phẩm, dịch vụ hoàn thành CPSX dở dang đầu kỳ CPSX phát sinh trong kỳ CPSX dở dang cuối kỳ Khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất dở dang) đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. Như vậy, giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ rất mật thiết với nhau. Chi phí sản xuất trong kỳ là căn cứ, là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành. Sự tiết kiệm hoặc lãng phí chi phí sản xuất của doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hạ hay tăng giá thành sản phẩm. Do đó, quản lý giá thành phải gắn liền với quản lý chi phí sản xuất. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được chính xác, kịp thời đòi hỏi công việc đầu tiên mà nhà quản lý phải làm là xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm. Vấn đề này có tầm quan trọng đặc biệt cả trong lý luận cũng như thực tiễn hạch toán và là nội dung cơ bản nhất của tổ chức hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm. Tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là giai đoạn hạch toán chi tiết chi phí sản xuất phát sinh theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng, giai đoạn công nghệ, phân xưởng... và giai đoạn tính giá thành sản phẩm, chi tiết sản phẩm, sản phẩm theo đơn đặt hàng đã hoàn thành... theo đơn vị tính giá thành qui định. Việc phân chia này xuất phát từ yêu cầu quản lý, kiểm tra và phân tích chi phí, yêu cầu hạch toán kinh doanh nội bộ, theo đặc điểm quy trình công nghệ của từng doanh nghiệp và yêu cầu tính giá thành sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định. Có thể nói việc phân chia quá trình hạch toán thành hai giai đoạn là do sự khác nhau cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí trong hạch toán chi phí sản xuất - tức là đối tượng hạch toán chi phí sản xuất - và sản phẩm hoàn thành cần phải tính giá thành một đơn vị - tức là đối tượng tính giá thành. Như vậy, xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chính là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Còn xác định đối tượng tính giá thành chính là việc xác định sản phẩm, bán thành phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối tượng đó có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang trên dây chuyền sản xuất tuỳ theo yêu cầu của hạch toán kinh tế nội bộ và tiêu thụ sản phẩm. Để phân biệt được đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành ngay cả khi chúng đồng nhất là một cần dựa vào các cơ sở sau đây: a. Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: sản xuất giản đơn hay phức tạp Với sản xuất giản đơn: Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất (nếu sản xuất một thứ sản phẩm) hoặc có thể là nhóm sản xuất (nếu sản xuất nhiều thứ sản phẩm cùng tiến hành trong một quá trình lao động). Còn đối tượng tính giá thành ở đây là sản phẩm cuối cùng. Với sản xuất phức tạp: Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm... Còn đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo. b. Loại hình sản xuất: đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn. Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt nhỏ: Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là các đơn đặt hàng riêng biệt. Còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn. Đối với sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn: Phụ thuộc vào qui trình công nghệ sản xuất (giản đơn hay phức tạp) mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ... Đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm như đã nêu ở trên. Yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh: Dựa trên cơ sở trình độ, yêu cầu và tổ chức quản lý để xây dựng đối tượng hạch toán CPSX và đối tượng tính giá thành. Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành ở các góc độ khác nhau; Ngược lại, nếu trình độ thấp thì đối tượng đó có thể bị hạn chế và thu hẹp lại. Việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là vấn đề có ý nghĩa lớn, mang tính định hướng cho tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Đồng thời thể hiện được mục đích và phạm vi tiến hành hai giai đoạn của công tác kế toán nêu trên. Nguyên tắc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận chi phối đến toàn bộ công tác kế toán của đơn vị. Các nguyên tắc cơ bản này được biểu hiện rõ nét nhất trong kế toán chi phí và giá thành sản phẩm, đặc biệt là các nguyên tắc sau: Nguyên tắc giá phí (giá gốc): Theo nguyên tắc này đòi hỏi việc đo lường, tính toán về vốn, doanh thu và chi phí phải đặt trên cơ sở giá phí. Giá phí của tài sản là toàn bộ chi phí cần thiết và hợp lý phải bỏ ra để có được tài sản đó ở trạng thái sẵn sàng đưa vào sử dụng. Tài sản hình thành từ quá trình sản xuất chính là sản phẩm, các sản phẩm sản xuất ra trước hết phải được tính theo giá gốc (giá phí). Giá gốc của các sản phẩm sản xuất hoàn thành là giá thành sản xuất, giá thành sản xuất sản phẩm được tính toán dựa trên những chi phí sản xuất sản phẩm đã tập hợp được trong quá trình sản xuất sản phẩm. Chi phí cấu thành giá thành sản phẩm gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Cuối kỳ, căn cứ vào chi phí đã tập hợp được để tính giá thành sản phẩm hoàn thành theo phương pháp thích hợp. Nếu quá trình hình thành sản phẩm diễn ra dứt điểm trong một thời gian nhất định như sản xuất sản phẩm đơn chiếc hoặc sản xuất sản phẩm theo đơn đặt hàng thì giá thành sản phẩm là tổng chi phí cấu thành đã tập hợp được. Còn nếu quá trình sản xuất diễn ra liên tục, luôn có sản phẩm hoàn thành và sản phẩm đang chế dở. Trong trường hợp này, để tính được giá thành sản phẩm thì phải đánh giá sản phẩm làm dở. Và do vậy tính chính xác của giá thành sản phẩm không chỉ phụ thuộc vào việc tập hợp các chi phí sản xuất cấu thành mà còn phụ thuộc vào việc đánh giá sản phẩm làm dở có hợp lý hay không. Nguyên tắc nhất quán: Nguyên tắc này đòi hỏi các doanh nghiệp phải áp dụng các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán và tính toán trên cơ sở nhất quán trong các kỳ kế toán. Nguyên tắc này chi phối rất lớn đối với công tác kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm. Vì vậy, trong việc tính giá hàng tồn kho, trích khấu hao tài sản cố định, phân bổ các chi phí cần phân bổ, đánh giá sản phẩm làm dở... đã lựa chọn phương pháp nào thì áp dụng đảm bảo nhất quán giữa các kỳ. Nguyên tắc thận trọng: Nguyên tắc này đòi hỏi lựa chọn giải pháp ít ảnh hưởng nhất tới vốn chủ sở hữu. Doanh thu được ghi nhận khi có chứng cứ chắc chắn, còn chi phí được ghi nhận khi có chứng cứ có thể (chưa chắc chắn). Nguyên tắc phù hợp: Tất cả các giá phí phải gánh chịu trong việc tạo ra doanh thu, bất kể là giá phí xuất hiện ở kỳ nào nó phải phù hợp với kỳ mà trong đó doanh thu được ghi nhận. Tóm lại, để tính đúng giá thành sản phẩm thì chi phí sản xuất phải được hạch toán một cách khoa học và chính xác. Căn cứ trên các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận, việc hạch toán chi phí sản xuất phải tuân theo các nguyên tắc cụ thể sau: - Phải xác định chính xác, đầy đủ các chi phí sản xuất đã bỏ ra để sản xuất sản phẩm hay thực hiện lao vụ trong kỳ. Bao gồm: + Tính đúng: Là phản ánh trung thực, đúng nội dung kinh tế, đúng đối tượng chịu chi phí. + Tính đủ: Là hạch toán đầy đủ, chính xác các khoản chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. - Phản ánh đầy đủ, kịp thời các chi phí phát sinh trong kỳ lên hệ thống sổ chi tiết và sổ tổng hợp, đáp ứng được yêu cầu thông tin chi phí cho quản trị doanh nghiệp. II. Trình tự, nội dung hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Tài khoản sử dụng Đối với từng phương pháp hạch toán hàng tồn kho, các chi phí sản xuất được tổng hợp để tính giá thành sản phẩm trên những tài khoản khác nhau. Nếu doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên. Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi tình hình hiện có, biến động tăng, giảm vật tư, hàng hoá một cách liên tục trên sổ sách. Phương pháp này có ưu điểm là chính xác và có thể thông tin bất kể lúc nào về tình hình nhập, xuất, tồn vật tư, hàng hoá và tình hình biến động tăng, giảm chi phí sản xuất, hàng hóa, tình hình chênh lệch, thiếu hụt... và kịp thời có các biện pháp xử lý. Phương pháp kê khai thường xuyên áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất và các đơn vị thương nghiệp kinh doanh các mặt hàng có giá trị lớn. Tài khoản dùng để tổng hợp các chi phí sản xuất trong trường hợp này là TK 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. TK 154 được mở chi tiết theo từng ngành sản xuất, từng nơi phát sinh chi phí hay từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết sản phẩm, từng loại lao vụ, dịch vụ... của các bộ phận sản xuất kinh doanh chính, sản xuất kinh doanh phụ (kể cả thuê ngoài gia công chế biến). Nội dung phản ánh của TK 154: Bên Nợ: Tập hợp các chi phí sản xuất trong kỳ (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung). Bên Có: - Các khoản ghi giảm chi phí sản phẩm - Tổng giá thành sản xuất thực tế hay chi phí thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành. Dư Nợ: Chi phí thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ dở dang, chưa hoàn thành. Nếu doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp mà cuối kỳ doanh nghiệp tiến hành kiểm kê tất cả các loại nguyên vật liệu, thành phẩm trong kho và tại các phân xưởng cùng với bộ phận sản phẩm dở dang để xác định chi phí của sản phẩm hoàn thành, của sản phẩm đã tiêu thụ. Phương pháp này thường áp dụng ở các doanh nghiệp mà yêu cầu quản lý không đòi hỏi phải thường xuyên, doanh nghiệp có nhiều chủng loại vật tư, hàng hoá với quy cách, mẫu mã rất khác nhau, giá trị thấp và được xuất thường xuyên. Tài khoản dùng để tổng hợp các chi phí sản xuất trong trường hợp này là TK 631 - Giá thành sản xuất. TK 631 được hạch toán chi tiết theo địa điểm phát sinh chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất...) và theo loại, nhóm sản phẩm, chi tiết sản phẩm, lao vụ... của cả bộ phận sản xuất kinh doanh chính, sản xuất kinh doanh phụ, chi phí thuê ngoài gia công chế biến... Được hạch toán vào TK 631 bao gồm ba loại chi phí sau: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Nội dung phản ánh của TK 631: Bên Nợ: Giá trị của sản phẩm dở dang đầu kỳ Các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ liên quan đến sản xuất sản phẩm. Bên Có: Kết chuyển giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ vào TK 154. Tổng giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành. Giá trị thu hồi ghi giảm chi phí từ sản xuất. TK 631 cuối kỳ không có số dư. Hạch toán tổng hợp CPSX và tính giá thành sản phẩm Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp kê khai thường xuyên. Cuối kỳ, toàn bộ các chi phí sản xuất (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung) đều phải được tổng hợp vào bên nợ TK154 để phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm. Quy trình hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có thể được khái quát qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm (theo phương pháp kê khai thường xuyên) Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp Kết chuyển chi phí sản xuất chung Các khoản ghi giảm chi phí sản phẩm (4a) Phế liệu thu hồi (4b) Sản phẩm hỏng ngoài định mức không sửa chữa được (4c) Sản phẩm, vật tư thiếu hụt bất thường trong sản xuất Giá thành thực tế sản phẩm nhập kho (5a), gửi bán (5b), tiêu thụ ngay (5c). Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp kiểm kê định kỳ. Theo phương pháp kiểm kê định kỳ, để phục vụ cho việc tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, kế toán sử dụng TK 631. Quy trình hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có thể được khái quát qua sơ đồ sau: Sơ đồ 2: Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm (theo phương pháp kiểm kê định kỳ) , (6) Kết chuyển giá trị sản phẩm, dịch vụ dở dang đầu kỳ, cuối kỳ Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp Kết chuyển hoặc phân bổ chi phí sản xuất chung Các khoản thu hồi ghi giảm chi phí (nếu có) (7) Tổng giá thành sản xuất của sản phẩm, dịch vụ hoàn thành nhập kho, gửi bán hay tiêu thụ trực tiếp. Trình tự hạch toán và tổng hợp chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại với tính chất và nội dung khác nhau, phương pháp hạch toán và tính nhập chi phí vào giá thành cũng khác nhau. Khi phát sinh, trước hết chi phí sản xuất được biểu hiện theo yếu tố chi phí rồi mới được biểu hiện thành các khoản mục giá thành sản phẩm. Việc tập hợp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý, khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp thời được. Trình tự này phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành nghề, từng doanh nghiệp, vào mối quan hệ giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, vào trình độ công tác quản lý và hạch toán... Tuy nhiên, qua nội dung hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ta có thể khái quát trình tự đó qua các bước sau: Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng sử dụng. Bước 2: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các loại sản phẩm, dịch vụ có liên quan. Bước 3: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ. Bước 4: Tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm. III. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu... được xuất dùng trực tiếp ch việc chế tạo sản phẩm. Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất hoặc sản phẩm, loại sản phẩm, lao vụ...) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ chi phí cho các đối tượng có liên quan. Công thức phân bổ như sau: trong đó: Tiêu thức phân bổ nguyên vật liệu chính thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng lượng, số lượng sản phẩm... Ngoài các tiêu thức trên, khi phân bổ nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu có thể chọn thêm tiêu thức phân bổ là phân bổ theo nguyên vật liệu chính. Để tính toán tập hợp chính xác chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán cần chú ý kiểm tra xác định số nguyên vật liệu đã xuất ra nhưng cuối kỳ chưa sử dụng hết và trị giá của phế liệu thu hồi (nếu có), để loại ra khỏi chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp trong kỳ: Tài khoản sử dụng Để theo dõi các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng tài khoản 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất, sản phẩm, nhóm sản phẩm...). Bên Nợ: Trị giá thực tế nguyên liệu, vật liệu xuất dùng trực tiếp cho sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ. Bên Có: Trị giá nguyên liệu._. vật liệu sử dụng không hết được nhập lại kho. Kết chuyển hoặc tính phân bổ trị giá nguyên liệu, vật liệu thực sử dụng cho sản xuất, kinh doanh trong kỳ vào các tài khoản có liên quan để tính giá thành sản phẩm, dịch vụ, lao vụ. TK 621 không có số dư cuối kỳ. Trình tự hạch toán. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp theo phương pháp kê khai thường xuyên. Căn cứ vào các phiếu xuất kho, phiếu nhập kho, căn cứ vào các hoá đơn mua và các chứng từ trả tiền liên quan... Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có thể khái quát theo sơ đồ sau: Sơ đồ 3: Sơ đồ hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (theo phương pháp kê khai thường xuyên) Xuất kho nguyên vật liệu sử dụng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm Vật liệu nhận cấp phát, nhận liên doanh chưa nhập kho sử dụng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm. Vật liệu tự sản xuất hay thuê ngoài gia công sử dụng trực tiếp cho sản xuất sản xuất sản phẩm Vật liệu vay mượn không nhập kho mà sử dụng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm Vật liệu mua ngoài không nhập kho mà sử dụng trực tiếp sản xuất sản phẩm (5a) Giá không có thuế (5b) Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ (nếu có) Vật liệu dùng không hết nhập lại kho hay chuyển kỳ sau Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Lưu ý: - Bút toán (5) được ghi như trên nếu đơn vị tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Còn nếu đơn vị tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì bút toán này được ghi như sau: Nợ TK 621: Giá đã có thuế GTGT Có TK 111, 112, 331 - Nếu giá trị vật liệu còn lại kỳ trước không nhập kho mà để tại bộ phận sử dụng sẽ được kế toán ghi vào đầu kỳ sau bằng bút toán: Nợ TK 621 Có TK 152: giá thực tế xuất dùng không hết kỳ trước Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp theo phương pháp kiểm kê định kỳ. Theo phương pháp kiểm kê định kỳ, các chi phí được phản ánh trên TK 621 không ghi theo từng chứng từ xuất dùng nguyên vật liệu mà được ghi một lần vào cuối kỳ hạch toán, sau khi tiến hành kiểm kê và xác định được giá trị nguyên vật liệu tồn kho và đang đi đường. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có thể khái quát qua sơ đồ sau: Sơ đồ 4: Sơ đồ hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (theo phương pháp kiểm kê định kỳ) (1), (3) Kết chuyển giá trị vật liệu chưa sử dụng đầu kỳ, cuối kỳ. Giá trị vật liệu tăng trong kỳ (4) Giá trị nguyên vật liệu dùng chế tạo sản phẩm hay thực hiện dịch vụ (5) Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp IV. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản thù lao phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ như tiền lương chính, tiền lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương (phụ cấp khu vực, đắt đỏ, độc hại, phụ cấp làm đêm, thêm giờ...). Ngoài ra, chi phí nhân công trực tiếp còn bao gồm các khoản đóng góp cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ do chủ sử dụng lao động chịu và được tính vào chi phí kinh doanh theo một tỷ lệ nhất định với số tiền lương phát sinh của công nhân trực tiếp sản xuất. Tài khoản sử dụng Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng TK 622 - Chi phí nhân công trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí như TK 621. Bên Nợ: Chi phí nhân công trực tiếp thực tế phát sinh. Bên Có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản tính giá thành. TK 622 cuối kỳ không có số dư. Trình tự hạch toán Căn cứ vào các bảng chấm công, bảng thanh toán tiền lương, tiền thưởng, bảng thanh toán BHXH... kế toán tiến hành ghi sổ theo trình tự sau: Sơ đồ 5: Sơ đồ hạch toán chi phí nhân công trực tiếp Tiền lương và phụ cấp lương phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất Các khoản đóng góp theo tỷ lệ với tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất thực tế phát sinh tính vào chi phí. Trích trước lương phép, lương ngừng việc của công nhân sản xuất Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp V. Hạch toán chi phí sản xuất chung Chi phí sản xuất chung bao gồm các khoản chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. Tài khoản sử dụng Để theo dõi các khoản chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng TK 627-Chi phí sản xuất chung, mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất, dịch vụ. Bên Nợ: Chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kỳ. Bên Có: Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung Kết chuyển (hay phân bổ) chi phí sản xuất chung vào chi phí sản xuất. TK 627 cuối kỳ không có số dư do đã kết chuyển hay phân bổ hết cho các loại sản phẩm, dịch vụ, lao vụ và được chi tiết thành 6 tiểu khoản: + TK 6271: Chi phí nhân viên phân xưởng. + TK 6272: Chi phí vật liệu + TK 6273: Chi phí công cụ dụng cụ sản xuất + TK 6274: Chi phí khấu hao TSCĐ + TK 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài. + TK 6278: Chi phí bằng tiền khác Ngoài ra, tuỳ yêu cầu quản lý của từng doanh nghiệp, từng ngành, TK 627 có thể mở thêm một số tiểu khoản khác để phản ánh một số nội dung hoặc yếu tố chi phí. Trình tự hạch toán. Căn cứ vào các chứng từ liên quan, kế toán tiến hành tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung theo trình tự sau: Sơ đồ 6: Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất chung Chi phí nhân viên Chi phí vật liệu, dụng cụ Chi phí theo dự toán (chi phí trả trước, trích trước) Chi phí khấu hao TSCĐ Chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác (5a) Giá chưa có thuế (5b) Thuế GTGT (nếu có) Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung Phân bổ (hoặc kết chuyển) chi phí sản xuất chung Lưu ý: Bút toán (5) được ghi như trên nếu đơn vị tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Còn nếu đơn vị tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì bút toán này được ghi như sau: Nợ TK 627: Giá đã có thuế GTGT Có TK 111, 112, 331 Phương pháp phân bổ chi phí sản xuất chung Do chi phí sản xuất chung có liên quan đến nhiều loại sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trong phân xưởng mà ngay từ đầu không thể hạch toán cho từng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất, vì vậy cần thiết phải phân bổ khoản chi phí này cho từng đối tượng theo tiêu thức phù hợp. Doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong những tiêu thức phân bổ sau: + Phân bổ chi phí sản xuất chung theo chi phí nguyên vật liệu chính. + Phân bổ chi phí sản xuất chung theo tiền lương của công nhân sản xuất. + Phân bổ chi phí sản xuất chung theo giờ công của công nhân sản xuất + Phân bổ chi phí sản xuất chung theo số giờ máy chạy + Phân bổ chi phí sản xuất chung theo chi phí trực tiếp VI. Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang: Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn đang nằm trong quá trình sản xuất. Theo nghĩa rộng, sản phẩm dở dang bao gồm bán thành phẩm và sản phẩm đang chế tạo dở dang. Để tính được giá thành sản phẩm, tuỳ thuộc đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ và tính chất của sản phẩm mà doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang sau: Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu chính Theo phương pháp này, toàn bộ chi phí chế biến được tính hết cho thành phẩm. Do vậy, trong sản phẩm dở dang chỉ bao gồm giá trị vật liệu chính mà thôi. Phương pháp này chỉ áp dụng trong những doanh nghiệp mà chi phí nguyên vật liệu chính chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành. Đánh giá sản phẩm dở dang theo phương pháp ước lượng sản phẩm tương đương Dựa theo mức độ hoàn thành và số lượng sản phẩm dở dang để quy sản phẩm dở dang thành sản phẩm hoàn thành. Tiêu chuẩn quy đổi thường dựa vào giờ công hoặc tiền lương định mức. Để đảm bảo tính chính xác của việc đánh giá, phương pháp này chỉ nên áp dụng để tính các chi phí chế biến (gồm chi phí nguyên vật liệu phụ, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung), còn các chi phí nguyên vật liệu chính phải xác định theo số thực tế đã dùng. trong đó: Mức độ hoàn thành của sản phẩm do doanh nghiệp tự xác định thông qua các thông số kỹ thuật hoặc qua kinh nghiệm. Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo 50% chi phí chế biến. Để đơn giản cho việc tính toán, đối với những loại sản phẩm mà chi phí chế biến chiếm tỷ trọng thấp trong tổng chi phí, kế toán thường sử dụng phương pháp này. Thực chất đây là một dạng của phương pháp ước tính theo sản lượng tương đương, trong đó giả định sản phẩm dở dang đã hoàn thành ở mức độ 50% so với thành phẩm. Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí định mức hoặc kế hoạch Căn cứ vào định mức tiêu hao (hoặc chi phí kế hoạch) cho các khâu, các bước, các công việc trong quá trình chế tạo sản phẩm để xác định giá trị sản phẩm dở dang. Ngoài ra, trên thực tế, người ta còn áp dụng các phương pháp khác để xác định giá trị sản phẩm dở dang như phương pháp thống kê kinh nghiệm, phương pháp tính theo chi phí vật liệu chính và vật liệu phụ nằm trong sản phẩm dở dang... VII. Các phương pháp tính giá thành chủ yếu. Xét về mặt lý luận cũng như thực tế có rất nhiều phương pháp được sử dụng để tính giá thành. Tuỳ theo đặc điểm của quy trình công nghệ, loại hình sản xuất, tuỳ theo yêu cầu và trình độ của công tác quản lý, tuỳ theo đối tượng tính giá thành đã được xác lập của doanh nghiệp mà chọn phương pháp tính giá thành cho thích hợp. Nếu chia theo loại hình sản xuất thì có một số phương pháp tính giá thành chủ yếu sau: Tính giá thành theo phương pháp giản đơn (phương pháp trực tiếp). Phương pháp này thường được áp dụng trong các doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất giản đơn, chỉ sản xuất một hoặc một số ít hàng với số lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm dở dang không có hoặc có không đáng kể. Đối tượng tập hợp chi phí là đối tượng tính giá thành, đều là sản phẩm hoàn thành. Giá thành sản phẩm theo phương thức này được tính bằng công thức sau: Mỗi mặt hàng sản xuất sẽ được lập một thẻ tính giá thành. Thẻ tính giá thành có mẫu như sau: Thẻ tính giá thành sản phẩm, dịch vụ Tháng ... năm ... Tên sản phẩm, dịch vụ:... Khoản mục chi phí Giá trị SPDD đầu kỳ CPSX PS trong kỳ Giá trị SPDD cuối kỳ Tổng giá thành SP Giá thành đvsp 1.CPNVLTT 2.CPNCTT 3.CPSXC Cộng Tính giá thành theo phương pháp đơn đặt hàng Phương pháp này áp dụng trong những doanh nghiệp mà việc sản xuất sản phẩm theo các đơn đặt hàng của khách hàng. Đơn đặt hàng là yêu cầu của khách hàng về một loại sản phẩm cụ thể của doanh nghiệp, sau khi sản xuất và giao xong cho khách hàng thì sản phẩm đó không tiếp tục sản xuất nữa. Theo phương pháp này, kế toán tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo từng đơn. Đối tượng tính giá thành sản phẩm là sản phẩm của từng đơn đặt hàng. Đặc điểm của việc tập hợp chi phí trong các doanh nghiệp này là toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh đều được tập hợp theo từng đơn đặt hàng của khách hàng, không kể số lượng sản phẩm của đơn đặt hàng đó nhiều hay ít, quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm giản đơn hay phức tạp. Đối với các chi phí trực tiếp (nguyên vật liệu, nhân công trực tiếp) phát sinh trong kỳ liên quan trực tiếp đến đơn đặt hàng nào thì hạch toán trực tiếp cho đơn đặt hàng đó theo chứng từ gốc (hay bảng phân bổ chi phí). Đối với chi phí sản xuất chung, sau khi tập hợp xong sẽ phân bổ cho từng đơn theo tiêu chuẩn phù hợp (giờ công sản xuất, chi phí nhân công trực tiếp ...) Việc tính giá thành theo phương pháp đơn đặt hàng chỉ được tiến hành khi đơn đặt hàng hoàn thành nên kỳ tính giá thành thường không nhất trí với kỳ báo cáo. Đối với những đơn đặt hàng đến kỳ báo cáo chưa hoàn thành thì toàn bộ chi phí tập hợp được theo đơn đó đều coi là sản phẩm dở dang cuối kỳ chuyển kỳ sau. Đối với những đơn đặt hàng đã hoàn thành thì tổng chi phí đã tập hợp được theo đơn đó chính là tổng giá thành sản phẩm của đơn vị và giá thành đơn vị sẽ tính bằng cách lấy tổng giá thành sản phẩm của đơn chia cho số lượng sản phẩm trong đơn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của công tác quản lý, cần xác định khối lượng công việc hoàn thành trong kỳ thì đối với những đơn đặt hàng chỉ hoàn thành một phần, việc xác định sản phẩm dở dang của đơn đó có thể dựa vào giá thành kế hoạch (hay định mức) hoặc theo mức độ hoàn thành của đơn. Tính giá thành theo phương pháp phân bước Phương pháp này áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất phức tạp theo kiểu chế biến liên tục, quy trình công nghệ gồm nhiều bước (giai đoạn) nối tiếp nhau theo một trình tự nhất định, mỗi bước tạo ra một loại bán thành phẩm và bán thành phẩm của bước trước là đối tượng (hay nguyên liệu) chế biến của bước sau. Theo phương pháp này, chi phí sản xuất phát sinh thuộc giai đoạn nào sẽ được tập hợp theo giai đoạn đó. Riêng với chi phí sản xuất chung được tập hợp theo phân xưởng sẽ được phân bổ cho các bước theo tiêu thức phù hợp. Tuỳ theo tính chất hàng hóa của bán thành phẩm và yêu cầu công tác quản lý, chi phí sản xuất có thể được tập hợp theo phương án có bán thành phẩm và phương án không có bán thành phẩm. Tính giá thành phân bước theo phương án có tính giá thành bán thành phẩm. Phương án hạch toán này thường được áp dụng ở các doanh nghiệp có yêu cầu hạch toán kinh tế nội bộ cao hoặc bán thành phẩm sản xuất ở các bước có thể dùng làm thành phẩm bán ra ngoài. Đặc điểm của phương án hạch toán này là khi tập hợp chi phí sản xuất của các giai đoạn công nghệ, giá trị bán thành phẩm của các bước trước chuyển sang bước sau được tính theo giá thành thực tế và được phản ánh theo từng khoản mục chi phí và gọi là kết chuyển tuần tự. Trình tự tập hợp chi phí và tính giá thành theo phương pháp này có thể phản ánh qua sơ đồ sau: Sơ đồ 7: Sơ đồ trình tự tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành phân bước theo phương án hạch toán có bán thành phẩm. Tính giá thành theo phương pháp phân bước phương án không có bán thành phẩm Trong những doanh nghiệp mà yêu cầu hạch toán kinh tế nội bộ không cao hoặc bán thành phẩm chế biến ở từng bước không bán ra ngoài thì chi phí chế biến phát sinh trong các giai đoạn công nghệ được tính nhập vào giá thành thành phẩm một cách đồng thời, song song nên còn gọi là kết chuyển song song. Theo phương án này, kế toán không cần tính giá thành bán thành phẩm hoàn thành trong từng giai đoạn mà chỉ tính giá thành thành phẩm hoàn thành bằng cách tổng hợp chi phí nguyên vật liệu chính và các chi phí chế biến khác trong các giai đoạn công nghệ. Có thể phản ánh phương án này qua sơ đồ sau: Sơ đồ 8: Sơ đồ trình tự tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành phân bước theo phương án không có bán thành phẩm. Tính giá thành theo phương pháp định mức Phương pháp này thường được sử dụng trong các doanh nghiệp áp dụng hệ thống hạch toán định mức. Theo phương pháp này, kế toán xác định giá thành định mức của từng loại sản phẩm trên cơ sở hệ thống định mức tiêu hao lao động, vật tư hiện hành và dự toán về chi phí sản xuất chung. Đồng thời, hạch toán riêng các thay đổi, các chênh lệch so với định mức phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm và phân tích toàn bộ chi phí thực tế phát sinh trong kỳ thành ba loại: theo định mức, chênh lệch do thay đổi định mức và chênh lệch so với định mức. Từ đó tiến hành xác định giá thành thực tế của sản phẩm bằng cách: Việc tính toán giá thành định mức được tiến hành trên cơ sở các định mức tiên tiến hiện hành ngày đầu kỳ (thường là đầu tháng). Việc thay đổi định mức là sự tăng hay giảm các định mức chi phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm do kết quả của việc áp dụng các định mức mới kinh tế và tiết kiệm hơn để thay đổi các định mức cũ đã lỗi thời. Việc thay đổi định mức được tiến hành vào ngày đầu tháng để thuận lợi cho việc thực hiện định mức cũng như kiểm tra việc thi hành định mức. Trường hợp thay đổi định mức diễn ra vào ngày giữa tháng thì đầu tháng sau mới phát sinh ngoài phạm vi định mức và dự toán quy định được gọi là chênh lệch so với định mức hay thoát ly định mức. Ngoài các phương pháp kể trên, giá thành còn được tính theo phương pháp hệ số, phương pháp tỷ lệ và phương pháp liên hợp. VIII. Tổ chức sổ kế toán trong hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Hệ thống sổ kế toán trong doanh nghiệp bao gồm hệ thống sổ chi tiết và sổ tổng hợp. Đối với hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, việc mở sổ chi tiết phải được thực hiện theo hướng sau: - Đối với những tài khoản tập hợp chi phí thì mở sổ chi tiết cho đối tượng hạch toán chi phí theo từng loại chi phí (Sổ chi tiết TK 621, 622, 627) - Đối với tài khoản tổng hợp chi phí và tính giá (sản phẩm dở dang và sản phẩm hoàn thành) thì mở sổ chi tiết theo đối tượng tính giá thành. (Sổ chi tiết TK 154 - Nếu đơn vị hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên. Sổ chi tiết TK 154, 631- Nếu đơn vị hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ) Còn đối với sổ tổng hợp, tuỳ thuộc vào hình thức sổ kế toán mà doanh nghiệp đang áp dụng mà có hệ thống sổ tổng hợp khác nhau. Nhìn chung, hệ thống sổ sách để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong từng hình thức sổ kế toán như sau: Nếu đơn vị áp dụng hình thức sổ Nhật ký - Sổ cái: + Sổ chi phí sản xuất, kinh doanh + Thẻ tính giá thành + Nhật ký - Sổ cái Căn cứ để ghi sổ chi tiết và sổ tổng hợp là các chứng từ gốc hoặc bảng tổng hợp chứng từ gốc. Nếu đơn vị áp dụng hình thức sổ Nhật ký chung + Sổ chi phí sản xuất, kinh doanh + Thẻ tính giá thành + Nhật ký chung + Sổ cái tài khoản Căn cứ để ghi sổ chi tiết và sổ tổng hợp là các chứng từ chi phí. Nếu đơn vị áp dụng hình thức sổ Chứng từ - ghi sổ + Sổ chi phí sản xuất, kinh doanh + Thẻ tính giá thành + Sổ cái tài khoản + Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ. Các chứng từ gốc và bảng tổng hợp chứng từ gốc là căn cứ để kế toán vào sổ chi tiết và lập chứng từ ghi sổ. Chứng từ ghi sổ là căn cứ để kế toán ghi sổ cái. Nếu đơn vị áp dụng hình thức sổ Nhật ký chứng từ + Các bảng phân bổ + Bảng kê 4 + Thẻ tính giá thành + Nhật ký chứng từ số 7 + Sổ cái tài khoản Căn cứ để hạch toán là các bảng phân bổ và các chứng từ chi phí khác Tóm lại, tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý, yêu cầu hạch toán chi phí và các điều kiện khác của đơn vị mà đơn vị có thể lựa chọn cho mình một bộ sổ kế toán phù hợp nhất. Phần II Thực tế công tác hạch toán chi phí sản xuất vàtính giá thành sản phẩm tại công ty X49 - bộ quốc phòng I. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của công ty ảnh hưởng đến công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty X49 - bộ quốc phòng. 1. Quá trình hình thành và phát triển Công ty X49 có tiền thân là Xưởng công binh X49 ra đời ngày 28/9/1959 theo quyết định của Cục Công binh (nay là Bộ Tư lệnh Công binh), là một trung đội sửa chữa có nhiệm vụ bảo dưỡng, đại tu một số máy nén khí, máy dò mìn, sản xuất các dụng cụ cầm tay phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngày đầu thành lập, xưởng chỉ có 37 cán bộ chiến sỹ với trang bị ít ỏi, thô sơ. Trong quá trình hoạt động, với truyền thống của bộ đội công binh, xưởng X49 đã không ngừng khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Sau khi đất nước thống nhất, xưởng X49 tiếp tục được xây dựng và phát triển để đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của quân đội trong tình hình mới. Nhằm tạo điều kiện cho xưởng thực hiện nhiệm vụ và mở rộng quan hệ với các đơn vị, xí nghiệp khác, ngày 11/5/1987, Bộ Tư lệnh Công binh ký quyết định cho phép Xưởng Công binh X49 chuyển từ chế độ bao cấp sang chế độ hạch toán kinh tế và lấy tên là xí nghiệp X49. Ngày 6/8/1993, được phép của Bộ Quốc phòng, xí nghiệp trở thành doanh nghiệp Nhà nước, được thành lập theo quyết định số 529 và đổi tên thành “Công ty xây lắp, sửa chữa công trình X49 - Bộ Quốc phòng”, với một số cơ sở vật chất vững mạnh, được xây dựng trên diện tích gần 50.000 m2 cùng một đội ngũ cán bộ công nhân viên có chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề vững vàng, có trình độ trung cấp và đại học. Trong thời gian đầu thành lập, công ty đã đạt được những thành tựu to lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngày 15/7/1999, Công ty đổi tên thành Công ty X49 - Bộ Quốc phòng. Tên Công ty: Công ty X49 Tên giao dịch: Công ty X49 Giấy phép hoạt động kinh doanh: số 112685 ngày 20/8/1999 Trụ sở chính: Mễ Trì - Từ Liêm - Hà Nội Điện thoại: 048 390 056 Tài khoản giao dịch: 710A 80013 - Phòng giao dịch chi nhánh Cầu Diễn, ngân hàng Công thương - Ba Đình - Hà Nội. Công ty X49 - Bộ Quốc phòng được tổ chức sản xuất kinh doanh theo chế độ hạch toán độc lập và được sử dụng con dấu riêng theo quy định của Nhà nước. Mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty là hoàn thành tốt các chỉ tiêu pháp lệnh của Bộ Quốc phòng giao, đồng thời tìm kiếm thêm khách hàng ngoài quân đội nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền sản xuất và thoã mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Nhiệm vụ chủ yếu của Công ty là sửa chữa, đại tu các loại xe máy công binh, sản xuất gia công sản phẩm cơ khí, thiết bị thuỷ lực, sản xuất dây thép gai và các thiết bị quân sự khác, làm công trình phà vượt sông phục vụ cho chiến đấu, đồng thời tham gia sửa chữa, xây lắp các công trình phòng thủ ở Trường Sa. Ngoài ra, công ty còn kinh doanh một số loại vật liệu xây dựng, nhiên liệu và phụ tùng xe máy công binh. Là một doanh nghiệp Nhà nước nên vốn kinh doanh của công ty chủ yếu do ngân sách Quốc phòng cấp (bao gồm vốn lưu động và vốn cố định ). Vốn cố định thường là máy móc thiết bị, còn vốn lưu động chủ yếu là bằng tiền. Nhưng trong điều kiện hiện nay, nguồn vốn ngân sách ngày càng hạn hẹp nên Công ty X49 nói riêng và các doanh nghiệp Nhà nước nói chung gặp nhiều khó khăn về vốn, ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy, trong những năm gần đây, Công ty đã phải tự bổ sung vốn bằng nhiều hình thức huy động khác nhau mới đáp ứng được nhu cầu sản xuất (xem biểu 1). Hoạt động cùng với khó khăn chung của nền kinh tế nước nhà về các vấn đề như vốn, công nghệ kỹ thuật, trình độ tay nghề của công nhân viên, sự cạnh tranh về giá cả và chất lượng sản phẩm... nhưng công ty đã không ngừng phấn đấu vươn lên, đã đạt được những thành tích và kết quả đáng ghi nhận trong hoạt động sản xuất kinh doanh, ngày càng khẳng định vị trí của mình trên thương trường (xem biểu 2). Biểu 1: Tình hình tăng giảm vốn kinh doanh của công ty năm 2002 Vốn kinh doanh Ngân sách cấp Tự bổ sung Tổng - Số đầu năm 4.837.332.356 2.083.705.650 6.921.038.006 +Vốn cố định 3.917.266.866 2.083.705.650 6.000.972.516 +Vốn lưu động 920.065.490 0 920.065.490 - Số tăng trong năm 25.497.311.193 391.522.479 25.888.833.672 +Vốn cố định 25.497.311.193 391.522.479 25.888.833.672 +Vốn lưu động 0 0 0 -Số giảm trong năm 223.149.530 0 223.149.530 +Vốn cố định 223.149.530 0 223.149.530 +Vốn lưu động 0 0 0 -Số cuối năm 30.111.494.019 2.475.228.129 32.586.722.148 +Vốn cố định 29.191.428.529 2.475.228.129 31.666.656.658 +Vốn lưu động 920.065.490 0 920.065.490 ( Nguồn số liệu: Báo cáo tổng quyết toán năm 2002- Công ty X49 ) Biểu 2: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty năm 2001 và 2002. Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 1. Tổng doanh thu 8.967.789.010 15.295.444.809 - Doanh thu SPQP 5.503.901.356 8.547.919.696 - Doanh thu SPKT 3.463.887.654 6.747.525.113 2. Giá vốn hàng bán 7.220.727.780 13.025.455.526 - Giá vốn SPQP 4.100.991.972 6.572.521.545 - Giá vốn SPKT 3.119.735.808 6.452.933.981 3.Lợi nhuận gộp 1.747.061.230 2.269.989.283 4. Chi phí QLDN 1.239.575.829 1.365.260.519 5. Thu nhập hoạt động TC 185.841.532 63.011.392 6. Chi phí hoạt động TC 13.060.550 3.697.500 7. Tổng lợi nhuận trước thuế 680.266.383 964.042.656 8. Thuế TNDN phải nộp(25%) 170.066.596 241.010.664 9. Lợi nhuận sau thuế 510.199.787 723.031.992 (Nguồn số liệu: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001và 2002-Công ty X49) 2. Đặc điểm về tổ chức bộ máy quản lý Do đặc điểm của ngành sản xuất gia công và sửa chữa cơ khí hoạt động trong nền kinh tế thị trường diễn ra phức tạp và còn gặp nhiều khó khăn, yêu cầu trong vấn đề tổ chức bộ máy quản lý cũng đòi hỏi phải kịp thời, nhạy bén và phù hợp với trình độ, đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Hiện nay, bộ máy quản lý của Công ty được tổ chức theo hình thức trực tuyến - chức năng. Ban giám đốc điều hành và chỉ đạo trực tiếp đến từng phân xưởng, đội sản xuất. Giúp việc cho Ban giám đốc có 7 phòng ban thực hiện các chức năng nhất định. Sơ đồ 9 : Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Công ty X49 Ban giám đốc PhòngKế hoạch Phòng KTTC Phòng Kỹ thuật Phòng Vật tư Phòng Hành chính Phòng Chính trị Ban KCS Phân xưởng sửa chữa Phân xưởng Vỏ mỏng Phân xưởng Cơ khí Phân xưởng Cơ điện Đội sx đá Côn Đảo Đội sx đá Hoá An Đội vận tải thuỷ Ban giám đốc gồm Giám đốc và hai Phó Giám đốc. Trong đó: Giám đốc là người quản lý điều hành toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, chịu trách nhiệm trước Bộ Tư lệnh về mọi mặt hoạt động sản xuất, kỹ thuật và đời sống của Công ty. Giám đốc chỉ đạo trực tiếp các phòng ban thông qua hai phó giám đốc và các trưởng phòng, đồng thời chỉ đạo nhiệm vụ sản xuất của từng phân xưởng thông qua các quản đốc phân xưởng. Phó giám đốc chính trị là người tổ chức, chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác Đảng, chính trị, chịu trách nhiệm trực tiếp trước Đảng uỷ, ban giám đốc Công ty về các công việc mình phụ trách. Phó giám đốc sản xuất kinh doanh phụ trách, điều tiết kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty. Các phòng ban chức năng được tổ chức theo yêu cầu của việc quản lý sản xuất kinh doanh, đứng đầu các phòng ban là các trưởng phòng chịu sự chỉ đạo trực tiếp và tham mưu cho ban giám đốc Công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trưởng các phòng ban chức năng do Giám đốc và Đảng uỷ Công ty xem xét, đề nghị lên cơ quan Bộ Tư lệnh và ra quyết định bổ nhiệm. Nhiệm vụ cụ thể của các phòng ban chức năng: Phòng Kế hoạch: Lập kế hoạch sản xuất, đôn đốc, giám sát tiến độ sản xuất của các phân xưởng, tìm kiếm thêm khách hàng, đồng thời nghiên cứu chế độ định mức đơn giá lương sản phẩm và tính lương cho cán bộ công nhân viên chức. Phòng Kế toán tài chính: chịu trách nhiệm về việc quản lý vốn và tài sản, thực hiện công tác hạch toán trong sản xuất kinh doanh, phản ánh, phân tích và đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty qua việc ghi chép nhằm đưa ra những thông tin hữu ích cho ban Giám đốc đồng thời theo dõi tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước. Phòng Kỹ thuật: Có nhiệm vụ thiết kế mẫu sản phẩm, nghiên cứu quy trình sửa chữa, chỉ đạo kỹ thuật, kiểm tra chất lượng sản phẩm, giám sát thi công... Trên cơ sở đó xem xét, bổ sung những thiếu sót trong khâu quản lý kỹ thuật nhằm bảo đảm cho công trình thi công đạt chất lượng cao. Phòng Vật tư: Chịu trách nhiệm quản lý, bảo quản, cung ứng vật tư hàng hoá phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Phòng Hành chính: Có trách nhiệm theo dõi tình hình nhân sự của Công ty, căn cứ vào kế hoạch của cơ quan chủ quản cấp trên cũng như trong nội bộ Công ty để từ đó có kế hoạch đào tạo, tuyển dụng lao động một cách kịp thời, tổ chức phân công lao động phù hợp với tình hình sản xuất, thi công các công trình có hiệu quả đồng thời có trách nhiệm theo dõi quỹ tiền lương của Công ty. Phòng Chính trị: Giúp Ban GĐ điều hành tình hình chính trị Công ty Ban KCS: Cùng với phòng Kỹ thuật kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm. Dưới bộ máy quản lý của Công ty là bộ máy sản xuất kinh doanh bao gồm 4 phân xưởng và 2 đội sản xuất. 3. Đặc điểm công nghệ sản xuất và tổ chức sản xuất của Công ty Đặc điểm công nghệ sản xuất Công ty X49 với ngành nghề kinh doanh đa dạng như sửa chữa các loại xe máy công binh, sửa chữa, sản xuất phụ tùng và các dụng cụ cầm tay, thiết bị thuỷ lực, làm công trình phà vượt sông... Do vậy, không thể có một quy trình công nghệ chung cho việc sản xuất sản phẩm của Công ty. Hiện nay, sản phẩm chính của Công ty là sản phẩm từ sửa chữa xe máy công binh, nên trong luận văn này chỉ nêu ra một quy trình công nghệ điển hình tại Công ty, đó là quy trình công nghệ của phân xưởng sửa chữa. Đây là quy trình công nghệ giản đơn, tổ chức sản xuất đơn chiếc theo đơn đặt hàng. Sơ đồ 10 : Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm Phân xưởng sửa chữa - Công ty X49 Kiểm tra tình trạng kỹ thuật của xe Tháo rửa cụm chi tiết Lập phương án sửa chữa Sửa chữa, lắp ráp cụm chi tiết Chạy rà động cơ Lắp ráp cụm chạy rà Chạy thử Sơn vỏ nghiệm thu Nhập kho Thử tải Đặc điểm tổ chức sản xuất của Công ty Căn cứ vào đặc điểm sản xuất sản phẩm và đặc điểm quy trình công nghệ, để tiến hành sản xuất, Công ty tổ chức sản xuất theo phân xưởng, đội sản xuất. Công ty có 4 phân xưởng trực tiếp sản xuất. Ngoài việc sản xuất hàng theo chỉ tiêu của Bộ Quốc phòng, các phân xưởng còn sản xuất các sản phẩm kinh tế. Đây là nguồn hàng do Công ty tự tìm kiếm để tạo thêm công ăn việc làm cho công nhân. Việc sản xuất các sản phẩm kinh tế ngoài quốc phòng được thực hiện theo chỉ tiêu và sự chỉ đạo của Công ty. Phân xưởng sửa chữa: Có nhiệm vụ sửa chữa, đại tu các loại xe máy công binh như máy ủi, máy húc, máy xúc... Phân xưởng cơ khí: Có nhiệm vụ sản xuất, gia công các sản phẩm cơ khí, sản xuất chi tiết các sản phẩm theo hợp đồng của khách hàng đồng thời phục vụ cho các phân xưởng trong Công ty. Sản phẩm của phân xưởng cơ khí là các phụ tùng, dụng cụ như: bánh tỳ các loại, mặt bích, bu lông, lưỡi cắt... Phân xưởng vỏ mỏng: Sửa chữa, đại tu các loại máy canô, các loại xe có kết cấu vỏ mỏng. Phân xưởng cơ điện: Là phân xưởng sản xuất dây thép gai, các sản phẩm ống thép, đồng thời giúp Giám đốc kiểm tra chất lượng máy móc, thiết bị và kịp thời sửa chữa để phục vụ sản xuất. Ngoài ra, phân xưởng cơ điện còn phục vụ điện nước cho toàn Công ty. Ngoài 4 phân xưởng trên, Công ty còn tổ chức các đội sản xuất sau: Đội sản xuất đá Côn Đảo: Nhiệm vụ khai thác, xay nghiền đá làm đường. Đội sản xuất đá Hoá An: Xay nghiền đá tại Biên Hòa và làm các sản phẩm kinh tế khác. Đội vận tải thuỷ: Có nhiệm vụ vận tải hàng hoá thuê cho khách hàng. Các đội này thuộc khối sản xuất kinh tế, hoạt động theo hợp đồng kinh tế với tổ chức, cá nhân trong và ngoài quân đội. Nhìn chung, việc tổ chức sản xuất thành các phân xưởng và đội sản xuất của Công ty như trên là tương đối phù hợp với tình hình thực tế. Tuy nhiên, mô hình sản xuất của Công ty còn có sự phân tán đáng kể vì nhiều phân xưởng ở cách xa Công ty. Đặc biệt là các đội sản xuất ở Biên Hoà, Vũng Tàu ảnh hưởng không nhỏ đến quá trìn._.uy nhiên, chỉ có tiền lương chính của công nhân sản xuất chính mới phản ánh một cách chính xác độ phức tạp của sản phẩm từng đơn hàng vì tiền lương chính được tính toán chính xác dựa trên số giờ sản xuất thực tế mà người công nhân chính đã bỏ ra để sản xuất đơn hàng đó. Do vậy, Công ty nên lựa chọn và áp dụng thống nhất tiêu thức phân bổ chi phí sản xuất là phân bổ theo tiền lương chính của công nhân sản xuất chính. Theo đó, tỷ lệ phân bổ như sau: 6.Về hạch toán chi phí vận chuyển, bốc dỡ. Như đã trình bày ở trên, nguồn cung cấp vật liệu dùng sản xuất cho các phân xưởng ở Công ty bao gồm vật liệu xuất từ kho và vật liệu do các phân xưởng tự đảm bảo. Đối với vật liệu mua về nhập kho Công ty, chi phí vận chuyển, bốc dỡ được kế toán tính vào giá trị vật liệu nhập (TK 152). Nhưng đối với vật liệu do phân xưởng mua về không nhập kho mà sử dụng ngay để sản xuất thì chi phí vận chuyển, bốc dỡ lại được hạch toán vào khoản mục chi phí sản xuất chung (chi phí khác bằng tiền) của phân xưởng đó (TK 6278 - chi tiết theo từng phân xưởng sử dụng). Với cách hạch toán như trên thì giá thực tế của nguyên vật liệu mua ngoài do phân xưởng tự đảm bảo chưa được xác định chính xác, bởi giá thực tế của nguyên vật liệu phải bao gồm giá mua cộng chi phí vận chuyển, bốc dỡ, thu mua (nếu có). Điều này đã dẫn đến việc giá trị nguyên vật liệu dùng sản xuất bị giảm so với thực tế, từ đó làm giảm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Tuy tổng chi phí sản xuất không thay đổi nhưng tỷ trọng từng loại chi phí trong giá thành bị thay đổi (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp giảm, chi phí sản xuất chung tăng). Như vậy, việc hạch toán sai đối với chi phí vận chuyển, bốc dỡ sẽ dẫn đến sự sai lệch giữa các khoản mục chi phí trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh kỳ hạch toán. Để khắc phục tình trạng trên, theo em Công ty cần hạch toán chi phí vận chuyển, bốc dỡ nguyên vật liệu do phân xưởng tự mua ngoài vào giá trị thực tế của vật liệu. Chi phí này sẽ được kế toán tập hợp và phân bổ cho các loại vật liệu nếu chi phí đó liên quan đến nhiều loại vật liệu. Khi vật liệu này được dùng để sản xuất đơn đặt hàng nào thì giá trị vật liệu trực tiếp sản xuất tính vào đơn đặt hàng đó sẽ bao gồm giá mua và chi phí vận chuyển, bốc dỡ phân bổ cho vật liệu đó. Cách hạch toán này sẽ đảm bảo được tính chính xác trong việc hạch toán các khoản mục chi phí. Xét theo khả năng và trình độ của nhân viên kế toán trong Công ty thì Công ty hoàn toàn có thể thực hiện được. 7.Về hạch toán tiền ăn ca. Hiện nay, tiền ăn ca của doanh nghiệp được hạch toán vào chi phí sản xuất chung (chi phí khác bằng tiền). Khoản này được trả trực tiếp cho công nhân bằng tiền mặt mà không hạch toán qua TK 334. Trên thực tế, tiền ăn ca được coi như là một khoản thù lao mà doanh nghiệp phải trả cho người lao động, do đó nó phải được hạch toán vào chi phí tương ứng với vị trí công việc của người lao động. Cụ thể, tiền ăn ca của công nhân trực tiếp sản xuất sẽ được tính vào chi phí nhân công trực tiếp, tiền ăn ca của nhân viên quản lý phân xưởng sẽ được tính vào chi phí nhân viên quản lý phân xưởng (chi phí sản xuất chung). Như vậy, so sánh cách hạch toán tại doanh nghiệp hiện nay với cách hạch toán mới, tuy tổng chi phí sản xuất không thay đổi nhưng rõ ràng có sự thay đổi tỷ trọng các khoản mục và yếu tố chi phí (chi phí nhân công trực tiếp giảm, chi phí sản xuất chung tăng). ảnh hưởng của nó cũng tương tự như ảnh hưởng của sự thay đổi hạch toán chi phí vận chuyển, bốc dỡ nói trên. Để đảm bảo tính chính xác của thông tin kế toán nhằm phục vụ tốt cho việc quản lý chi phí, theo em Công ty nên hạch toán các khoản tiền ăn ca như sau: Dựa trên bảng chấm công từng phân xưởng, kế toán tính ra tiền ăn ca của từng công nhân trực tiếp sản xuất và nhân viên quản lý phân xưởng. Tổng tiền ăn ca của công nhân trực tiếp sản xuất sẽ được phân bổ cho từng đơn đặt hàng theo tiền lương chính của công nhân sản xuất chính đơn đặt hàng đó. Sau đó tiền ăn ca của công nhân trực tiếp sản xuất đã phân bổ sẽ được kế toán ghi vào chi phí nhân công trực tiếp cho từng đơn đặt hàng theo định khoản: Nợ TK 622 - Chi tiết theo từng đơn đặt hàng Có TK 334 Tổng tiền ăn ca của nhân viên quản lý từng phân xưởng được hạch toán vào chi phí nhân viên quản lý phân xưởng theo định khoản: Nợ TK 6271 Có TK 334 Cuối kỳ, khoản chi phí này cũng được phân bổ cho từng đơn đặt hàng theo tiền lương chính của công nhân sản xuất chính đơn đặt hàng đó. 8.Về hạch toán chi phí công cụ dụng cụ phục vụ sản xuất. Tại Công ty X49, CCDC có nhiều loại và có giá trị khác nhau, có những CCDC chỉ được sử dụng trong một kỳ hạch toán nhưng cũng có những CCDC có giá trị lớn có thể được sử dụng qua nhiều kỳ. Tuy nhiên, ở Công ty giá trị tất cả những CCDC xuất dùng trong kỳ hạch toán nào thì được phân bổ một lần vào chi phí sản xuất của kỳ hạch toán đó mà không tiến hành phân bổ cho các kỳ sau. Việc hạch toán và phân bổ như vậy làm cho giá thành của kỳ xuất dùng CCDC có giá trị lớn sẽ tăng lên không hợp lý. Vì vậy, theo em việc hạch toán CCDC xuất dùng phục vụ sản xuất phải được thực hiện như sau: - Đối với những CCDC chỉ có giá trị sử dụng trong một kỳ hạch toán, toàn bộ giá trị CCDC xuất dùng được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ, kế toán ghi: Nợ TK 6273 Có TK 153 - Đối với những CCDC lâu bền có giá trị lớn, khi xuất dùng cần áp dụng phương pháp hạch toán “chi phí trả trước” phân bổ dần. Mức phân bổ cho một kỳ sử dụng có thể được tính như sau: + Khi xuất dùng, kế toán căn cứ vào giá thực tế CCDC ghi: Nợ TK 142 Có TK 153 + Phản ánh mức phân bổ giá trị CCDC cho một kỳ sử dụng kế toán ghi: Nợ TK 6273 Có TK 142 9.Về hạch toán thiệt hại sản phẩm hỏng Tại Công ty X49, trên các phiếu nhập kho có cả các chi tiết sản phẩm hỏng được nhập lại kho (xy lanh thuỷ lực, ly hợp...), song lại chỉ được theo dõi về mặt số lượng, còn về giá trị của các chi tiết này, Công ty coi như bằng 0 mặc dù những chi tiết này vẫn được tái sử dụng. Như vậy, vô hình chung Công ty đã làm tăng chi phí cho những thành phẩm. Điều này gây ra việc đánh giá sai giá trị của thành phẩm làm chỉ tiêu giá thành không còn chính xác. Bởi vậy, Công ty không nên chỉ theo dõi về mặt số lượng mà cần đánh giá, theo dõi cả về mặt giá trị của các chi tiết, sản phẩm hỏng để xử lý. Trong sản xuất, việc có những sản phẩm hỏng là điều khó có thể tránh khỏi. Do vậy Công ty nên tính toán và xây dựng mức hỏng cho phép của từng loại sản phẩm. Khi có sản phẩm hỏng, Công ty cần đánh giá xem sản phẩm này hỏng trong hay ngoài định mức và có thể sửa chữa được hay không sửa chữa được để từ đó có cách thức hạch toán cho phù hợp. Trường hợp sản phẩm hỏng trong định mức thì toàn bộ chi phí sửa chữa những sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được và giá trị của những sản phẩm hỏng không sửa chữa được sau khi trừ đi phế liệu thu hồi được tính vào giá thành sản phẩm hoàn thành. - Chi phí sửa chữa của sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được được hạch toán vào các khoản mục sản xuất sản phẩm phù hợp với nội dung từng khoản chi phí sửa chữa (TK 621, 622, 627), cuối kỳ kết chuyển vào giá thành sản phẩm hoàn thành (TK 154). - Giá trị phế liệu thu hồi của sản phẩm hỏng không sửa chữa được được ghi giảm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Nợ TK 152, 111, 112... Có TK 621 Trường hợp sản phẩm hỏng ngoài định mức thì toàn bộ các khoản thiệt hại không được tính vào giá thành sản phẩm hoàn thành mà phải xử lý tương ứng với nguyên nhân gây ra: Nếu do nguyên nhân chủ quan thì bắt bồi thường còn nguyên nhân khách quan thì tính vào chi phí bất thường hoặc giảm vốn, quỹ. - Đối với sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được: + Tập hợp chi phí sửa chữa: - Nợ TK 621 Có TK 152,153 - Nợ TK 622 Có TK 334, 338 + Tổng hợp chi phí sửa chữa: Nợ TK 154 - Sửa chữa sản phẩm hỏng Có TK 621 Có TK 622 Có TK 627 - Nếu phân bổ chi phí sản xuất chung + Căn cứ vào kết quả xử lý: Nợ TK 1388 - Bắt bồi thường Nợ TK 821 - Coi như khoản tổn thất Có TK 154 - Sửa chữa sản phẩm hỏng - Đối với sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được: + Căn cứ vào việc xác định giá trị sản phẩm hỏng, kế toán ghi định khoản: Nợ TK 154 - Sản phẩm hỏng Có TK 154 - Sản phẩm đang chế tạo + Căn cứ vào kết quả xử lý: Nợ TK 152 - Phế liệu thu hồi Nợ TK 1388 - Bắt bồi thường Nợ Tk 821 - Coi như khoản tổn thất Có TK 154 - Sản phẩm hỏng 10.Về việc áp dụng máy vi tính trong công tác kế toán Cùng với sự phát triển của xã hội hiện nay, nền sản xuất cũng không ngừng phát triển để đáp ứng những yêu cầu mới. Để có thể phát triển được sản xuất thì yêu cầu về thông tin là hết sức quan trọng. Yêu cầu của công tác quản lý về khối lượng và chất lượng thông tin hạch toán ngày càng tăng. Đặc biệt, công tác quản trị trong cơ chế thị trường cạnh tranh đòi hỏi phải tính toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm chính xác, kịp thời hơn để có thể đưa ra được những quyết định nhanh nhạy, tạo được sự cạnh tranh trên thị trường. Tất cả những điều này khẳng định sự cần thiết phải áp dụng máy tính trong công tác kế toán nói chung và công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng. Sử dụng máy vi tính trong công tác kế toán sẽ giúp cho việc đưa ra những con số nhanh, chính xác, tự động hoá trong luân chuyển sổ sách giúp tránh được những nhầm lẫn, tiết kiệm thời gian, việc lưu trữ thông tin trở nên nhẹ nhàng và thuận tiện hơn. Hiện nay, tại Công ty X49-BQP, phòng kế toán được trang bị một máy vi tính nhưng như đã nêu ở trên, kế toán sử dụng máy vi tính chủ yếu để lập các bảng biểu, các báo cáo chi tiết số dư tài khoản. Công ty cũng đã áp dụng một phần mềm kế toán từ năm 1997, nhưng vào thời điểm hiện nay thì phần mềm này đã cũ, không đáp ứng được yêu cầu hạch toán và cung cấp thông tin cho quản trị. Do vậy, toàn bộ công tác hạch toán vẫn được các nhân viên kế toán thực hiện thủ công bằng tay và đối chiếu với kết quả của kế toán trên máy. Để có thể cải thiện công tác kế toán thủ công như hiện nay, theo em Công ty cần phải tổ chức ứng dụng máy vi tính trong công tác kế toán. Muốn vậy, trước hết Công ty phải tổ chức đào tạo đội ngũ nhân viên kế toán không những thành thạo về chuyên môn mà còn biết sử dụng thành thạo và phát huy các tính năng của máy vi tính. Bên cạnh đó, Công ty cũng có thể nghiên cứu áp dụng một phần mềm kế toán mới, phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh và yêu cầu cung cấp thông tin cho quản lý của doanh nghiệp. Nếu các công việc trên được Công ty lưu ý thực hiện thì với khối lượng nghiệp vụ như hiện nay, chỉ cần một máy vi tính và số nhân viên kế toán ít hơn hiện tại, mọi công việc kế toán vẫn được thực hiện một cách nhanh chóng mà vẫn đạt hiệu quả cao. Phương hướng hạ giá thành sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đánh giá hiệu quả kinh doanh. Hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào đều nhằm hướng tới mục tiêu là đạt được lợi nhuận cao nhất với chi phí bỏ ra là thấp nhất. Vì vậy, muốn biết một doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hay không, cần thiết phải đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đó, hay nói cách khác phải đánh giá những kết quả đạt được của doanh nghiệp trong mối quan hệ với chi phí sản xuất kinh doanh đã bỏ ra. Có rất nhiều chỉ tiêu có thể sử dụng để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Tuy nhiên, để có thể đánh giá khái quát hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty X49 - Bộ Quốc phòng, một số chỉ tiêu chủ yếu sau sẽ được sử dụng: Tổng chi phí sản xuất Chi phí /1000đ doanh thu CP/1000đ doanh thu 1000 x = Tổng doanh thu Tổng lợi nhuận Chỉ tiêu này cho biết để có được 1000 đồng doanh thu thì doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí. Tổng giá thành SP = Hiệu quả kinh doanh Tổng lợi nhuận Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tổng doanh thu - Hiệu quả kinh doanh = Chỉ tiêu này cho biết trong một đồng doanh thu có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Từ số liệu thực tế của Công ty X49 trong 2 năm 2001 và 2002, ta có bảng phân tích sau: Biểu 40: Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty X49-BQP STT Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2002 so với năm 2001 +/- % 1 Tổng doanh thu 8.967.789.010 15.295.444.809 +6.327.655.799 170,6% + DT SPQP 5.503.901.356 8.547.919.696 +3.044.018.340 155,3% + DT SPKT 3.463.887.654 6.747.525.113 +3.283.637.459 194,8% 2 Tổng giá thành SP 7.220.727.780 13.025.455.526 +5.804.727.746 180,4% + Tổng giá thành SPQP 4.100.991.972 6.572.521.545 +2.471.529.573 160,3% + Tổng giá thành SPKT 3.119.735.808 6.452.933.981 +3.333.198.173 206,8% 3 LN từ hoạt động SX 1.747.061.230 2.269.989.283 +522.928.053 129,9% 4 Chi phí / 1000đ DT 805,2 851,6 +46,4 105,8% 5 Lợi nhuận / giá thành 0,242 0,174 -0,068 71,9% 6 Lợi nhuận / DT 0,195 0,148 -0,047 75,9% 7 Giá thành mxúc E302 33.144.139 39.777.461 +6.636.322 120% (Nguồn số liệu: Báo cáo tổng quyết toán năm 2001 và 2002- Công ty X49-BQP) Nhìn vào bảng trên ta thấy có sự biến đổi đột ngột về doanh thu năm 2001 và 2002. Doanh thu năm 2002 tăng +6.327.655.799 đ hay đạt 170,6% so với năm 2001 và tăng mạnh ở sản phẩm kinh tế (194,8%). Sở dĩ có sự đột biến này là do đến cuối năm 2001 Công ty vẫn còn nhiều sản phẩm dở dang, nhiều đơn đặt hàng đã hoàn thành nhưng chưa được bàn giao cho khách hàng, sang năm 2002 mới được giải quyết. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, doanh thu tăng là dấu hiệu đáng mừng, đó là thành tích của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu xét trong sự thay đổi của các yếu tố khác, doanh thu tăng thì chưa chắc hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã tốt. Giá vốn hàng bán của Công ty năm 2002 tăng +5.804.727.746 đ hay đạt 180,4% so với năm 2001 (đặc biệt đối với giá vốn sản phẩm quốc phòng 206,8%). Như vậy, cùng với sự tăng mạnh của doanh thu thì giá vốn cũng tăng với tốc độ nhanh và tăng nhanh hơn tốc độ tăng của doanh thu. Chính vì vậy, tuy lợi nhuận gộp năm 2002 lớn hơn năm 2001 là +522.928.053 đ hay đạt 129,9% nhưng so với tốc độ tăng của doanh thu thì tốc độ tăng của lợi nhuận chậm hơn nhiều. Điều này chứng tỏ rằng, Công ty tuy có doanh thu lớn nhưng chi phí bỏ ra để có được doanh thu này cũng rất lớn. Để đánh giá chính xác hiệu quả sản xuất kinh doanh năm 2001 và 2002 ta cần phải phân tích thông qua các chỉ tiêu. Xét chỉ tiêu chi phí/1000 đ doanh thu Năm 2001, để có được 1000đ doanh thu thì Công ty phải bỏ ra 805,2 đ chi phí nhưng năm 2002 thì Công ty phải bỏ ra là 851,6 đ chi phí. Như vậy, so với năm 2001, chi phí/1000 đ doanh thu năm 2002 tăng +46,4 đ, hay đạt 105,8%, điều này đồng nghĩa với việc chi phí sản xuất tăng và giá thành sản phẩm tăng. Trong khi mục tiêu của doanh nghiệp là phải giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm thì việc tăng chi phí/1000đ doanh thu là dấu hiệu không tốt, phản ánh việc quản lý chi phí chưa thực sự hiệu quả. Xét chỉ tiêu lợi nhuận/ giá thành Với một đồng chi phí bỏ ra thì lợi nhuận thu được của Công ty năm 2001 là 0,242 đ, năm 2002 là 0,174 đ. Như vậy, chỉ tiêu này năm 2002 giảm - 0,068 đồng hay chỉ đạt 71,9% so với năm 2001, chứng tỏ rằng một đồng chi phí bỏ ra năm 2001 đem lại hiệu quả cao hơn năm 2002. Xét chỉ tiêu lợi nhuận/ doanh thu Theo số liệu trên bảng ta thấy, lợi nhuận có trong một đồng doanh thu năm 2002 giảm - 0,047 đ hay đạt 75,9% so với năm 2001. Cũng như các chỉ tiêu trên, chỉ tiêu này cũng thể hiện hiệu quả kinh doanh của năm 2002 giảm sút so với năm 2001. Tóm lại, qua những phân tích trên ta có thể kết luận rằng tuy doanh thu của Công ty tăng mạnh nhưng xét trong sự tăng, giảm của các yếu tố khác thì sự tăng doanh thu này không làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, thậm chí hiệu quả kinh doanh của Công ty năm 2002 còn thấp hơn so với năm 2001. Về lâu dài sẽ ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển của Công ty làm giảm tính cạnh tranh của sản phẩm. Tuy nhiên, năm 2002 Công ty X49 đã khá chủ động trong việc tìm kiếm, ký kết hợp đồng kinh tế với khách hàng bên ngoài. Tỷ trọng doanh thu sản phẩm kinh tế trong tổng doanh thu từ 38,6% năm 2001 lên 44,1% năm 2002. Như vậy, nếu công tác quản lý chi phí được quan tâm đúng mức thì trong thời gian tới hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty sẽ có những bước tiến rõ rệt. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty X49 năm 2002 giảm là do sự tăng mạnh của giá vốn. Có nhiều nguyên nhân làm giá vốn năm 2002 tăng mạnh nhưng chủ yếu vẫn là 2 nguyên nhân sau đây: Thứ nhất: Do sự thay đổi đơn giá giờ công. Đơn giá này phụ thuộc vào mức lương tối thiểu và bậc thợ bình quân trong Công ty. Năm 2002, mức lương tối thiểu được tăng từ 180.000 đ lên 210.000 đ, bậc thợ bình quân từ 6,01 lên 6,02. Do vậy, đơn giá giờ công cũng thay đổi từ 4.002,3 đ / giờ năm 2001 lên 4.679,5 đ/ giờ năm 2002, làm cho chi phí nhân công trực tiếp tăng theo. Thứ hai: Do sự biến động tăng về giá nguyên vật liệu trong năm 2002 làm cho chi phí nguyên vật liệu trực tiếp tăng. Bên cạnh đó còn có những nguyên nhân thuộc về quản lý. Việc hạch toán chi phí sản xuất nói riêng và chi phí phát sinh nói chung chưa chặt chẽ và kế hoạch dẫn tới nhiều chi phí phát sinh không hợp lý làm cho giá thành sản phẩm tăng. Với những nguyên nhân trên, giá thành sản phẩm năm 2002 đã tăng lên đáng kể so với năm 2001. Chẳng hạn, đối với máy xúc E302, giá thành của việc sửa chữa sản phẩm này năm 2001 là 33.141.139 đ nhưng năm 2002 lại là 39.777.461 đ, tăng +6.636.322 đ (120%). Đặc biệt, sản phẩm này là sản phẩm sửa chữa nên phụ tùng thay thế thường có giá trị lớn và chiếm đa số trong tổng chi phí, mỗi sự thay đổi về giá nguyên vật liệu đều ảnh hưởng trực tiếp tới giá thành sản phẩm. Do vậy, Công ty cần xem xét, phân tích biến động của các khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm để tìm ra phương hướng giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm có hiệu quả. Phương hướng hạ giá thành sản phẩm Có thể nói, hạ giá thành một cách có hệ thống là nguyên tắc quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, việc hạ giá thành cũng ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển bền vững của một doanh nghiệp, đặc biệt trong nền kinh tế cạnh tranh như hiện nay. Để giảm thiểu chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm, Công ty cần thực hiện phối hợp nhiều biện pháp với nhau và phải có sự kết hợp thực hiện giữa các phòng ban và toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty. Nhưng trên hết, Công ty cần thực sự quan tâm tới công tác phân tích và quản trị chi phí giá thành thông qua hạch toán kế toán. Có như vậy mới có thể biết được tình hình thực hiện kế hoạch như thế nào, những nguyên nhân cơ bản nào làm thay đổi chi phí, tăng giá thành để kịp thời sửa chữa, điều chỉnh trong kỳ tiếp theo. Sau đây là một số biện pháp cơ bản để hạ giá thành sản phẩm tại Công ty: - Tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu tiêu hao. Chi phí nguyên vật liệu chiếm một tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi phí sản xuất của Công ty nên việc tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu có ý nghĩa rất lớn đối với việc hạ giá thành sản phẩm của Công ty. Muốn tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu tiêu hao, Công ty cần phải xây dựng một hệ thống tiêu hao nguyên vật liệu hợp lý. ở Công ty X49, các định mức tiêu hao nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu được xây dựng khi nhận được đơn đặt hàng và các định mức này được tính toán dựa trên giá thành thực tế kỳ trước của các sản phẩm cùng loại. Công ty nên khuyến khích công nhân chấp hành nghiêm chỉnh các định mức tiêu hao đã đề ra. Đồng thời, giảm hao phí đến mức thấp nhất trong quá trình thu mua, vận chuyển, đảm bảo đúng quy cách, chất lượng vật tư, không để hao hụt, hư hỏng. Công ty cũng nên phát động phong trào cải tiến kỹ thuật sản xuất và thiết kế sản phẩm để giảm bớt nguyên vật liệu tiêu hao cho mỗi đơn vị sản phẩm, xây dựng chế độ thưởng phạt hợp lý khi công nhân tiết kiệm hay lãng phí nguyên vật liệu. Ngoài ra, cần tìm kiếm nguồn nguyên vật liệu thay thế với giá rẻ hơn, đặc biệt phải tận dụng những phế liệu, phế phẩm và công cụ dụng cụ phục hồi để tiết kiệm chi phí. - Nâng cao năng suất lao động Tăng năng suất lao động đồng nghĩa với việc làm giảm số giờ công tiêu hao để tạo ra một đơn vị sản phẩm, hoặc làm cho sản lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên. Kết quả của việc tăng năng suất lao động làm cho chi phí tiền lương cho mỗi đơn vị sản phẩm của công nhân sản xuất và một số khoản chi phí cố định khác trong giá thành sản phẩm được hạ thấp do việc tận dụng hết được công suất của máy móc thiết bị. Muốn không ngừng nâng cao năng suất để hạ giá thành sản phẩm, trước hết Công ty cần phải xây dựng định mức giờ công hợp lý, khuyến khích người lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, giảm bớt các thao tác thừa (nếu có). Đồng thời, phải cải tiến máy móc kỹ thuật, áp dụng những công nghệ hiện đại vào sản xuất, làm tốt công tác bảo hộ lao động, đề ra các biện pháp thưởng phạt hợp lý, phát động phong trào tiết kiệm trong toàn Công ty. - Tận dụng công suất máy móc thiết bị Hiện nay, công suất hoạt động bình quân của máy móc thiết bị của Công ty khoảng 91%, như vậy vẫn còn 9% công suất chưa được tận dụng. Muốn giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, Công ty cần phải tận dụng công suất máy móc thiết bị vì khi đó thời gian để sản xuất ra sản phẩm sẽ được rút ngắn, tiết kiệm được chi phí. Do đó, Công ty cần phải lập và chấp hành nghiêm chỉnh chế độ bảo quản, kiểm tra và sửa chữa, nâng cao chất lượng công tác sửa chữa lớn để có thể tăng thêm thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị. Đồng thời phải thường xuyên bồi dưỡng kiến thức kỹ thuật cho công nhân sản xuất. - Giảm bớt tổn thất, phí tổn trong quá trình sản xuất. Các phí tổn trong quá trình sản xuất là các khoản chi phí về thiệt hại do sản phẩm hỏng. Các khoản chi phí này không tạo nên giá trị sản phẩm nhưng lại cấu thành nên giá thành sản phẩm. Để hạn chế các sản phẩm hỏng, Công ty cần đảm bảo về chất lượng nguyên vật liệu cũng như phải quan tâm cải tiến máy móc thiết bị, đào tạo tay nghề cho người công nhân. Đồng thời, cần xây dựng và chấp hành nghiêm chỉnh chế độ kiểm tra chất lượng sản phẩm ở các công đoạn sản xuất và chế độ trách nhiệm khi xảy ra sản phẩm hỏng. Ngoài ra, trong quá trình sản xuất, Công ty phải sử dụng một cách tiết kiệm các chi phí về điện, nước... trên cơ sở các định mức chi phí đã đề ra. Muốn vậy, công tác tổ chức và quản lý sản xuất tại phân xưởng phải được thực hiện một cách khoa học và hiệu quả. Trên đây là một số ý kiến của em nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty X49 - BQP. Em mong rằng trong thời gian tới, công tác kế toán nói chung, công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng của Công ty X49 sẽ được củng cố và phát triển, ngày càng khẳng định vai trò chủ đạo của mình trong việc cung cấp thông tin cho quản lý. Kết luận Tóm lại, cả về mặt lý luận cũng như thực tế, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một phần công tác kế toán rất quan trọng, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của Công ty. Tuy nhiên, lý luận và thực tiễn nhiều khi lại khác nhau, do vậy để đảm bảo việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm vừa phù hợp với điều kiện thực tế của Công ty vừa đảm bảo đúng chế độ quy định thì đòi hỏi kế toán phải sáng tạo, vận dụng khéo léo lý luận vào thực tế. Trong thời gian thực tập tại Công ty X49 - Bộ Quốc phòng, em nhận thấy công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty đã đáp ứng được phần nào nhu cầu thông tin cho quản lý, tuy nhiên trong công tác vẫn không tránh khỏi những thiếu sót nhỏ. Những thiếu sót này được nêu cụ thể trong nội dung chuyên đề thực tập có kèm theo các biện pháp khắc phục. Với những biện pháp này, em mong rằng Công ty sẽ nghiên cứu vận dụng để công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm của Công ty ngày càng hoàn thiện hơn. Do giới hạn về trình độ và thời gian nên chuyên đề thực tập không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của cô giáo -TS Lê Thị Hồng Phương và các cô chú trong phòng Tài chính - Kế toán của Công ty X49 để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Một lần nữa, em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo hướng dẫn-cô Lê Thị Hồng Phương cùng các cô chú phòng Tài chính - Kế toán Công ty đã giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này. Tháng 5 năm 2003 Sinh viên Lê Thị Thuỳ Liên Tài liệu tham khảo Kế toán tài chính trong các doanh nghiệp - ĐH Kinh tế quốc dân Chủ biên: PTS. Đặng Thị Loan - Nhà xuất bản Tài chính 1998 Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính VAT - ĐH Kinh tế quốc dân Chủ biên: PTS. Nguyễn Văn Công - Nhà xuất bản Tài chính 1999 Phân tích hoạt động kinh doanh - ĐH Kinh tế quốc dân Chủ biên: PGS.TS Phạm Thị Gái - Nhà xuất bản Giáo dục 1997 Nguyên lý kế toán Mỹ - Ronal Thackied Dịch giả: Nguyễn Kim Cương - Nhà xuất bản Thống kê 1994 Hệ thống kế toán doanh nghiệp - Nhà xuất bản Tài chính 1995 Nghị định 59/CP (1996), Nghị định 27/CP (1999) Tạp chí kế toán Một số luận văn khoá 39 - Khoa Kế toán - ĐH Kinh tế quốc dân Tài liệu kế toán năm 2000 và 2001 của Công ty X49-BQP Mục lục Lời nói đầu Trang Phần I - Lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 1 I. ý nghĩa, nội dung của cpsx và giá thành sản phẩm 1 1. Chi phí sản xuất 1 2. Giá thành sản phẩm 4 3. Mối quan hệ giữa CPSX và giá thành sản phẩm 5 4. Đối tượng hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm 6 5. Nguyên tắc hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm 8 II. Trình tự, nội dung hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 9 1. Tài khoản sử dụng 9 2. Nội dung hạch toán tổng hợp CPSX và tính giá thành sản phẩm 11 3. Trình tự hạch toán và tổng hợp CPSX, tính giá thành sản phẩm 13 III. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 14 1. Tài khoản sử dụng 14 2. Trình tự hạch toán 15 IV. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp 17 1. Tài khoản sử dụng 17 2. Trình tự hạch toán 17 V. Hạch toán chi phí sản xuất chung 18 1. Tài khoản sử dụng 18 2. Trình tự hạch toán 19 3. Phương pháp phân bổ chi phí sản xuất chung 20 VI. Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang 20 VII. Các phương pháp tính giá thành chủ yếu 22 1. Tính giá thành theo phương pháp giản đơn 22 2. Tính giá thành theo phương pháp đơn đặt hàng 23 3. Tính giá thành theo phương pháp phân bước 23 4. Tính giá thành theo phương pháp định mức 25 VIII. Tổ chức sổ kế toán trong hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 26 IX. Đặc điểm hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của một số nước 27 1. Tại Mỹ 27 2. Tại Cộng hoà Pháp 29 Phần II - thực tế công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty X49 - Bộ quốc phòng 32 I. đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của công ty ảnh hưởng đến công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty X49-BQP 32 1. Quá trình hình thành và phát triển 32 2. Đặc điểm về tổ chức bộ máy quản lý 35 3. Đặc điểm công nghệ sản xuất và tổ chức sản xuất 36 4. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán và bộ sổ kế toán 38 II. Đặc điểm về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty x49-bqp 41 1. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất 41 2. Đối tượng tính giá thành, kỳ tính và phương pháp tính giá thành 42 3. Các khoản mục chi phí 42 III. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 43 IV. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp 49 V. Hạch toán chi phí sản xuất chung 55 1. Hạch toán chi phí nhân viên quản lý phân xưởng 55 2. Hạch toán chi phí vật liệu phục vụ sản xuất 57 3. Hạch toán chi phí công cụ dụng cụ phục vụ sản xuất 58 4. Hạch toán chi phí khấu hao tài sản cố định 59 5. Hạch toán chi phí khác bằng tiền 61 6. Tổng hợp chi phí sản xuất chung 63 VI. Tổng hợp chi phí sản xuất và đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ 64 1. Tổng hợp chi phí sản xuất 64 2. Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ 67 VII. Tính giá thành sản phẩm tại công ty x49-bqp 68 Phần III-một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty x49-bộ quốc phòng 72 I. nhận xét chung về công tác kế toán tại công ty x49-bqp 72 1. Những ưu điểm 72 2. Những tồn tại 74 II. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty X49-Bộ quốc phòng 75 1. Về việc mở thêm TK 6277- Chi phí dịch vụ mua ngoài 75 2. Về việc lập các bảng phân bổ 75 3. Về hệ thống sổ chi tiết 78 4. Về việc mở sổ cái TK 627- Chi phí sản xuất chung 82 5. Về tiêu thức phân bổ chi phí cho từng đơn đặt hàng 82 6. Về hạch toán chi phí vận chuyển, bốc dỡ 82 7. Về hạch toán tiền ăn ca 83 8. Về hạch toán chi phí công cụ dụng cụ phục vụ sản xuất 84 9. Về hạch toán sản phẩm hỏng 85 10. Về việc áp dụng máy vi tính trong công tác kế toán 86 III. Phương hướng hạ giá thành sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 88 1. Đánh giá hiệu quả kinh doanh 88 2. Phương hướng hạ giá thành sản phẩm 91 Kết luận 94 Tài liệu tham khảo Mục lục Lời nói đầu trang Phần i: lý luận chung về hạch toán 1 chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ý nghĩa, nội dung của chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Trình tự, nội dung hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp Hạch toán chi phí sản xuất chung Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang Các phương pháp tính giá thành chủ yếu Tổ chức sổ kế toán trong hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Phần II: thực tế công tác hạch toán chi phí sản xuất 19 Và tính giá thành fsản phẩm tại công ty x49 - bộ quốc phòng Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của công ty Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành tại công ty Phần III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện 43 Công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính Giá thành sản phẩm tại công ty x49 - bộ quốc phòng Nhận xét chung về công tác kế toán tại công ty Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác hạch toán Chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty iii . Phương hướng hạ giá thành sản phẩm Nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0033.doc
Tài liệu liên quan