Lời nói đầu
Ngày nay, nhu cầu về xây dựng mới, cải tạo lại các công trình công cộng, cơ sở hạ tầng ngày càng tăng để phù hợp với sự phát triển của đất nước. Công ty sứ Thanh Trì là một đơn vị chuyên sản xuất và kinh doanh sứ vệ sinh, vật liệu xây dựng. Do đó, để đáp ứng được nhu cầu sản phẩm ngày càng tăng của thị trường Công ty sứ Thanh Trì đã phải đầu tư xây dựng mới và cải tạo lại hai dây chuyền sản xuất sứ vệ sinh. Sau mỗi lần cải tạo thì Công ty lại phải xây dựng, tổ chức lại lao động, tổ
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác định mức lao động khoa học tại Công ty sứ Thanh Trì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chức lại công tác quản lý sản xuất. Năm 2000 Công ty đã đầu tư mới dây chuyền sản xuất số 2 với công nghệ hiện đại nhưng công tác tổ chức lao động khoa học vẫn chưa được thực hiện triệt để đặc biệt là công tác định mức lao động khoa học. Đó cũng là một thực trạng chung đối với các doanh nghiệp hiện nay ở Việt Nam.
Công tác định mức lao động phải được xây dựng từ khi doanh nghiệp bắt đầu khởi sự hay khi thay đổi lĩnh vực kinh doanh, dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị. Có một định mức lao động khoa học thì mới có đủ điều kiện để tổ chức hoạt động sản xuất, để tính năng suất lao động và đó chính là cơ sở để biết được năng suất lao động của doanh nghiệp tăng hay giảm.
Hơn thế nữa, định mức lao động khoa học (ĐMLĐKH) là cơ sở để xây dựng đơn giá tiền lương, giảm hoặc thậm chí loại trừ sự lãng phí thời gian lao động. Với ý nghĩa đó nên công tác ĐMLĐKH là một vấn đề rất quan trọng đối với mọi Công ty và đặc biệt đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh của Công ty sứ Thanh Trì . Nhưng từ nhiều năm nay Công ty vẫn sử dụng một hệ thống định mức lao động được xây dựng từ năm 1997 và điều chỉnh theo hàng năm.
Em thiết nghĩ, từ năm 2000 trở lại đây Công ty đã liên tục cải tạo và đổi mới dây chuyền công nghệ sản xuất mà vẫn sử dụng định mức lao động cũ thì có còn phù hợp nữa chăng ? Việc xây dựng đơn giá tiền lương, tính năng suất lao động có còn chính xác không ? Xuất phát từ thực trạng của Công ty và được sự động viên nhiệt tình của các cô chú trong phòng Tổ chức lao động, em đã chọn đề tài nghiên cứu là: “Hoàn thiện công tác định mức lao động khoa học tại Công ty sứ Thanh Trì ” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Trọng tâm của đề tài này là nghiên cứu thời gian lao động của công nhân trong Công ty nhằm mục đích tìm ra những nguyên nhân gây lãng phí thời gian và đề xuất biện pháp khắc phục. Nhằm nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất và an toàn lao động, đảm bảo sức khoẻ cho người lao động. Thúc đẩy sản xuất phát triển, hoàn thiện kỹ thuật và công nghệ sản xuất, nâng cao trình độ kỹ thuật hoá quá trình lao động. Cuối cùng là có thể đưa ra được một mức mới phù hợp với Công ty.
Do thời gian và trình độ có hạn nên phạm vi nghiên cứu chỉ trong giới hạn của Công ty sứ Thanh Trì nơi em đã thực tập trong suốt 4 tháng qua. Vì thế, đối tượng nghiên cứu của chuyên đề chỉ bao gồm :
-Hoạt động lao động sản xuất của người lao động trong Công ty sứ Thanh Trì .
-Một số nội dung của tổ chức lao động khoa học như: Điều kiện lao động, tổ chức phục vụ nơi làm việc, định mức lao động, hợp lý hóa các thao tác của qui trình sản xuất sản phẩm.
-Tình hình lao động, tiền lương, cơ cấu tổ chức của Công ty .
Để đưa ra được các mức mới có căn cứ khoa học em đã sử dụng nghiên cứu chính là:
Phương pháp tiêu chuẩn: Sử dụng các tiêu chuẩn, qui định của Nhà nước như các qui định về chế độ làm việc nghỉ ngơi, qui định về vệ sinh an toàn lao động, tiêu chuẩn định mức mẫu, điều lệ của Công ty...
Phương pháp phân tích khảo sát tại nơi làm việc bằng cách chụp ảnh và bấm giờ để phân tích nhằm tìm ra thời gian lãng phí, những ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài.
Phương pháp toán học và thống kê toán: sử dụng để phân tích, xử lý tài liệu và xây dựng các phương án, biện pháp cụ thể.
Từ những nội dung trên em đã thực hiện bài báo cáo của mình với kết cấu như sau: Ngoài phần mở đầu và kết luận kết cấu của bài viết gồm có 3 chương:
Chương I: Tổng quan về định mức lao động khoa học
Nêu lên những khái niệm có liên quan tới mức lao động, định mức lao động, và sự cần thiết của việc xây dựng mức lao động. Cũng như các phương pháp tiến hành và nội dung của vấn đề xây dựng và quản lý mức.
Chương II: Thực trạng công tác thực hiện định mức lao động tại Công ty sứ Thanh Trì.
Phân tích đặc điểm của Công ty có ảnh hưởng tới công tác định mức lao động và đánh giá thực trạng thực hiện định mức lao động tại bộ phận đổ rót phân xưởng gia công tạo hình của Công ty .
Chương III: Giải pháp hoàn thiện xây dựng định mức .
Chương này đề xuất các mức lao động mới xây dựng được từ thực trạng của Công ty và một số biện pháp hoàn thiện việc thực hiện được các mức đó.
Đây là một đề tài hay và có giá trị thực tế rất lớn nên những kết quả nghiên cứu này có thể giúp ích cho công tác xây dựng và quản lý định mức lao động của Công ty sứ Thanh Trì trong thời gian tới, cũng như có ích cho các công ty khác để xây dựng cho mình một định mức lao động mới.
Do thời gian thực tập ngắn và mức độ hiểu biết về vấn đề còn hạn chế nên bài viết vẫn còn có những thiếu sót. Rất mong được thầy cô giáo chỉ bảo góp ý thêm để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Em xin trân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 20/4/2003
Sinh viên thực hiện
Trương Thị Thuỳ Vân
Chương I: tổng quan về định mức lao động khoa học
Định mức lao động khoa học (ĐMLĐKH) và sự cần thiết
phải xây dựng ĐMLĐKH.
Các khái niệm có liên quan.
1.1.Mức lao động.
Lao động là hoạt động có ý thức, có mục đích của con người. Dưới bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào, quá trình lao động cũng đều diễn ra trong sự kết hợp của ba yếu tố: công cụ lao động, đối tượng lao động và sức lao động .
Con người luôn tìm mọi biện pháp để làm cho quá trình lao động, quá trình sản xuất đạt hiệu quả cao hơn cũng tức là làm tăng năng suất lao động. Để đạt được mục đích này, một mặt không ngừng cải tiến kỹ thuật, đổi mới máy móc thiết bị. Mặt khác, phải tổ chức lao động chặt chẽ, khoa học, hợp lý. Muốn tổ chức lao động khoa học, hợp lý thì điều cần thiết trước hết là phải biết được số lượng và chất lượng lao động cần phải có để hoàn thành một sản phẩm hay một khối lượng công việc.
Theo C.Mác "bản thân số lượng lao động thì đo bằng thời gian lao động và thời gian lao động lại đo bằng những phần của thời gian như: ngày, giờ, phút..."(C.Mác, Tư bản quyển 1 tập I). Như vậy, bản thân của những thước đo thời gian (ngày, giờ, phút) không nói lên được số lượng lao động và không thể trở thành thước đo lao đông được. Thời gian muốn trở thành thước đo lao động, nó phải thể hiện số lượng lao động sống tất yếu phải hao phí để sản xuất ra sản phẩm. Thời gian tất yếu để sản xuất ra lản phẩm là thời gian cần thiết cho bất cứ lao động nào được tiến hành với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ làm việc trung bình trong những điều kiện bình thường so với hoàn cảnh kinh tế nhất định. Trong điều kiện đó ta có khái niệm về mức lao động như sau:
Mức lao động là lượng lao động hoa phí được qui định để hoàn thành một đơn vị sản phẩm (hoặc một khối lượng công việc) đúng tiêu chuẩn chất lượng, trong những điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định.
1.2.Định mức lao động.
Để có được mức lao động giao cho người lao động thực hiện phải dựa trên cơ sở, quá trình xây dựng, xét duyệt, ban hành, áp dụng, quản lý thức hiện,sửa đổi mức phù hợp với thực tiễn và dự tính áp dụng vào sản xuất những biện pháp tổ chức - kỹ thuật có năng suất cao. Quá trình đó gọi là công tác định mức lao động.
Vậy, định mức lao động là môn khoa học kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu trong việc quản lý lao động, đồng thời là một công tác khá phức tạp đòi hỏi người cán bộ định mức phải có trình độ nghiệp vụ vững chắc. Mặt khác, công tác định mức lao động có quan hệ trực tiếp đến quyền lợi của người lao động, đặc biệt người lao động trực tiếp sản xuất .
Các loại mức.
Để có thể sử dụng các thành tựu khoa học và kinh nghiệm tiên tiến trong ĐMLĐ thì phải hiểu rõ và nắm chắc bản chất các loại mức được áp dụng trong thực tiễn. Mức lao động có nhiều dạng và mỗi dạng thể hiện một nội dung, điều kiện tổ chức sản xuất nhất định. Tuỳ vào từng loại công việc sản xuất và điều kiện sản xuất mà mức lao động có thể xây dựng dưới các dạng khác nhau.
2.1.Mức thời gian (Mtg)
Mức thời gian là lượng thời gian hoa phí cần thiết được quy định cho một hay một nhóm người lao động có trình độ nghiệp vụ thích hợp để hoàn thành một đơn vị sản phẩm (hoặc một khối lượng công việc) đúng tiêu chuẩn chất lượng trong những điều kiện tổ chức - kỹ thuật nhất định.
Đơn vị đo Mtg là giây, phút, giờ trên đơn vị sản phẩm
2.2.Mức sản lượng (Msl)
Mức sản lượng là số lượng đơn vị sản phẩm (hoặc khối lượng công việc) quy định cho một hay một nhóm người lao động có trình độ nghiệp vụ thích hợp phải hoàn thành trong một đơn vị thời gian đúng tiêu chuẩn chất lượng trong những điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định.
Đơn vị đo mức sản lượng là đơn vị sản phẩm trên đơn vị thời gian (phút, giờ, ca).
Mức sản lượng thường được xây dựng trên cơ sở mức thời gian và dùng công thức:
tg
Ca
sl
M
T
M
=
Trong đó : Msl: Mức sản lượng.
Mtg: Mức thời gian.
TCa : Thời gian ca.
Như vậy, Mtg và Msl là hai đại lượng tỷ lệ nghịch với nhau. Tuỳ theo từng điều kiện và đặc điểm của sản xuất mà người ta tính Mtg hay Msl
2.3.Mức phục vụ (Mpv)
Mức phục vụ là số lượng nơi làm việc, đưon vị thiết bị, diện tích sản xuất ...trong doanh nghiệp quy định cho một hay một nhóm người lao động có trình độ nghiệp vụ thích hợp phải phục vụ trong những điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định, công việc ổn định và lặp lại có chu kỳ.
2.4.Mức quản lý (Mql)
Mức quản lý là số lượng người hay số bộ phận do một người lãnh đạo phụ trách với trình độ thành thạo phù hợp với điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định.
Trong thực tế, Mtg là cơ sở để tính các loại mức khác. Nó được xây dựng trong điều kiện tổ chức sản phẩm làm ra có lượng hao phí lớn. Mức sản lượng thường xây dựng, áp dụng trong điều kiện sản phẩm làm ra có lượng hao phí ít. Mức phục vụ áp dụng trong điều kiện kết quả sản xuất không được đo bằng những số đo tự nhiên (chiếc, cái...) và đối với công nhân phục vụ.
Sự cần thiết phải xây dựng mức.
Định mức lao động là một trong những nội dung quan trọng của tổ chức lao động, tổ chức sản xuất và quản lý lao động trong xí nghiệp. Định mức lao động hợp lý sẽ tạo khả năng kế hoạch hoá tốt hơn quá trình sản xuất, xác định đúng số lượng lao động cần thiết trong năm, khuyến khích sử dụng nguồn dự trữ trong sản xuất, là cơ sở để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của công nhân viên.
3.1.ĐMLĐ là cơ sở để phân phối theo lao động.
Định mức lao động là thước đo hao phí lao động để hoàn thành một khối lượng công việc nhất định. Vì vậy, mức lao động là căn cứ để tiến hành trả công theo hao phí lao động trong sản xuất. Đơn giá tiền lương được tính theo công thức sau:
Đối với hình thức trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân:
Trong đó:
ĐG: Đơn giá tiền lương .
L : Mức lương cấp bậc công việc
Q : Mức sản lượng
T : Mức thời gian
Tiền lương thực lĩnh là :
LT = ĐG ´ Qtt
Qtt : Sản lượng thực tế
Đối với hình thức trả lương theo sản phẩm của tổ nhóm:
Tiền lương của tổ nhóm tính theo công thức : L = ĐG ´ Q0tt
Trong đó :
Q0tt : Mức sản lượng thực tế của cả tổ
Ti : Mức thời gian.
Q0 : Mức sản lượng của tổ
: Tổng mức lương cấp bậc công việc của cả tổ.
Điều kiện để thực hiện tốt việc phân phối theo lao động thì điều kiện cơ bản là phải định mức lao động theo phương pháp có căn cứ khoa học mới đánh giá đúng kết quả của người lao động, đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động, theo số lượng, chất lượng sản phẩm làm ra của mỗi người lao động. Mức lao động hợp lý chỉ có thể được xây dựng trong điều kiện tổ chức kỹ thuật hợp lý. Đó là điều kiện không cho phép công nhân lao động tuỳ tiện vừa không tuân theo quy trình công nghệ, quy trình lao động vừa gây lãng phí thời gian. Làm việc trong điều kiện đó buộc người công nhân phải nêu cao tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật để trước hết đảm bảo ktiền lương cho bản thân và sau đó là đảm bảo lợi ích chung cho xí nghiệp.
3.2.ĐMLĐ là cơ sở để tăng năng suất lao động.
Tăng năng suất lao động là quy luật kinh tế chung cho mọi hình thái kinh tế xã hội. Nó là một động lực cho sự phát triển của từng người, từng đơn vị, doanh nghiệp tồn tại và phát triển, đồng thời cũng làm tăng sản phẩm xã hội và tăng thu nhập quốc dân.
Định mức lao động là công cụ có hiệu lực để khai thác khả năng tiềm tàng trong sản xuất, công tác. Quá trình xây dựng và áp dụng mức lao động vào sản xuất là quá trình nghiên cứu tính toán và giải quyết các yêu cầu về kỹ thuật, về sắp xếp nơi làm việc cũng như các yếu tố đảm bảo sức khoẻ cho người lao động. Đó là điều kiện thuận lợi để người lao động sử dụng các thiết bị máy móc, vật tư kỹ thuật và thời gian lao động, nhằm áp dụng các kinh nghiệm và phương pháp lao động tiên tiến để tăng năng suất và hiệu quả lao động, tămg sản phẩm cho xã hội.
3.3.ĐMLĐ là cơ sở lập kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Trong cơ chế thị trường để hoạt động có hiệu quả, doanh nghiệp phải dựa vào nhu cầu thị trường để xác định số lượng sản phẩm và giá cả trong năm kế hoạch, sau đó dựa vào mức lao động tính ra số lượng và chất lượng lao động cần thiết ở năm kế hoạch theo công thức sau:
Trong đó : CNsp: Số công nhân làm theo sản phẩm.
SLi : Số lượng sản phẩm loại i.
Ti :Lượng lao động hao phí để làm ra một đơn vị sản phẩm loại i.
Tn :Quỹ thời gian làm việc bình quân của một công nhân làm theo sản phẩm ở kỳ kế hoạch.
Km:Hệ số hoàn thành mức .
Ngoài các yếu tố về sản lượng phải có định mức lao động có căn cứ khoa học mới xác định đúng số lượng và chất lượng lao động cần thiết - tức là kế hoạch hoá số lượng người làm việc. Từ đó doanh nghiệp sẽ xây dựng một loạt các kế hoạch quỹ lương, kế hoạch giá thành, giá cả...
3.4.ĐMLĐ đối với tổ chức lao động khoa học.
Tổ chức lao động trong các tổ chức, doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất tiến hành được cân đối, liên tục, nhịp nhàng đạt năng suất cao. Mà muốn đạt hiệu quả kinh tế cao thì phải tổ chức sản xuất, tổ chức lao động trong từng bộ phận cho tốt. Điều kiện đáp ứng yêu cầu trên là phải tính được các mức tiêu hao cho mỗi công việc trong từng bộ phận. Trên cơ sở đó giải quyết tốt vấn đề phân công và hiệp tác lao động, tổ chức nơi làm việc, nghiên cứu lựa chọn những phương pháp những thao tác lao động tiên tiến. Nói cách khác, định mức lao động cho phép xây dựng và áp dụng vào sản xuất công tác những hình thức tổ chức lao động hợp lý nhất.
Mức lao động là căn cứ để tính nhu cầu lao động của từng nghề, tạo điều kiện phân phối tỷ lệ người làm việc ở từng bộ phận hợp lý và tiết kiệm.
Định mức lao động còn nghiên cứu tỷ mỉ khả năng sản xuất, công tác của nơi làm việc. Thông qua đó khắc phục những luộm thuộm trong sản xuất tạo điều kiện cho người lao động hoàn thành tốt nhiệm vụ .
ý nghĩa của việc xây dựng định mức.
Định mức lao động là cơ sở để trả lương trả thưởng đúng với hao phí lao động mà người lao động đã bỏ ra. Đối với mọi quá trình sản xuất của bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần phải có định mức. Mức xây dựng có căn cứ khoa học là yêu cầu đối với mọi quá trình xây dựng mức. Bởi chỉ xây dựng mức có căn cứ khoa học thì mới đảm bảo mức đúng, phù hợp với doanh nghiệp. Bằng phương pháp chụp ảnh thời gian làm việc và bấm giờ bước công việc giúp cho cán bộ định mức tìm ra nguyên nhân gây lãng phí thời gian từ đó có biện pháp khắc phục.
Nếu quá trình lao động mà không tiến hành định mức thì sẽ không có căn cứ để tính năng suất lao động, sẽ không tìm ra được biện pháp để hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Định mức lao động còn là yếu tố để tiết kiệm nhiên liệu thông qua việc định biên nhiên liệu cho mỗi sản phẩm. Giảm chi phí về tiền lương bởi từ định mức ta có thể tính định biên nhân lực cần thiết cho mỗi bước công việc, mỗi sản phẩm, mỗi quá trình sản xuất.
Công ty thực hiện tốt việc quản lý và thực hiện mức sẽ làm cho quá trình sản xuất diễn ra thường xuyên liên tục và có hiệu quả hơn.
II. Các phương pháp tiến hành ĐMLĐKH.
Trong thực tế sản xuất, công tác định mức lao động rất cần thiết để đưa ra các mức yêu cầu người lao động thực hiện. Người ta thường sử dụng nhiều phương pháp để định mức lao động. Tuỳ theo quy mô và loại hình sản xuất để lựa chọn phương pháp hợp lý nhất, có hiệu quả nhất. Các phương pháp định mức lao động thường được áp dụng có thể phân thành hai nhóm: nhóm phương pháp tổng hợp và nhóm phương pháp phân tích.
Nhóm các phương pháp tổng hợp.
Nhóm phương pháp tổng hợp là nhóm phương pháp xây dựng mức lao động không dựa trên cơ sở nghên cứu, phân tích các bộ phận bước công việc và điều kiện tổ chức - kỹ thuật hoàn thành nó, mà chủ yếu dựa vào kết quả nghiệm thu sản phẩm hoặc kinh nghiệm để xác định mức lao động cho toàn bộ bước công việc.
Nhóm phương pháp tổng hợp có 3 phương pháp :
-Phương pháp thống kê.
-Phương pháp kinh nghiệm.
-Phương pháp dân chủ bình nghị.
a. Phương pháp thống kê: Là phương pháp xây dựng định mức dựa vào các tài liệu thống kê về thời gian hao phí thực tế để hoàn thành bước công việc (giống hoặc tương tự) ở thời kỳ trước. Lượng thời gian (sản lượng) được xác định là mức lao động thường lấy giá trị trung bình.
b. Phương pháp kinh nghiệm: Là phương pháp xây dựng định mức dựa vào kinh nghiệm chủ quan đã tích luỹ được của cán bộ định mức, quản đốc phân xưởng hoặc những công nhân có thâm niên trong sản xuất.
c. Phương pháp dân chủ bình nghị: `Là phương pháp xác định bằng cách cán bộ định mức dự tính bằng thống kê hoặc kinh nghiệm rồi đưa cho công nhân cùng thảo luận quyết định.
Phương pháp định mức tổng hợp có những ưu - nhược điểm sau:
* Ưu điểm: Đơn giản, tốn ít thời gian, công sức và trong thời gian ngắn cũng có thể xây dựng được mức.
* Nhược điểm: Không phân tích được tỷ mỉ năng lực sản xuất, các điều kiện tổ chức - kỹ thuật cụ thể, không nghiên cứu và sử dụng được tốt những phương pháp sản xuất tiên tiến của người lao động; không xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý ; không khai thác được các khả năng tiềm tàng trong sản xuất, công tác mà ngược lại nó còn hợp pháp hoá những thiếu xót đó, kìm hãm nâng cao năng suất lao động, khiến mức đặt ra thường thấp hơn so với khả năng thực hiện của người lao động .
Nhóm các phương pháp phân tích (Các phương pháp ĐMKTLĐ):
Nhóm các phương pháp phân tích là các phương pháp định mức lao động dựa trên cơ sở phân tích quá trình sản xuất, quá trình lao động, các bước công việc cần định mức, các nhân tố ảnh hưởng đến thời gian hao phí để xác định hao phí thời gian cần thiết cho mỗi yếu tố và xác định mức lao động cho cả bước công việc.
Nhóm này có 3 phương pháp :
-Phương pháp tính toán.
-Phương pháp phân tích khảo sát.
-Phương pháp so sánh điển hình.
2.1.Phương pháp tính toán.
Phương pháp phân tích tính toán là phương pháp định mức lao động dựa trên cơ sở phân tích kết cấu bước công việc, các nhân tố ảnh hưởng đến hao phí thời gian, các tài liệu kỹ thuật và tiêu chuẩn các loại thời gian để tính mức thời gian cho từng bước công việc.
* Ưu điểm : Mức xác định được nhanh và chính xác.
* Nhược điểm : Phải có đầy đủ tài liệu tiêu chuẩn thời gian và cán bộ định mức phải nắm vững nghiệp vụ, thành thạo về kỹ thuật. Phương pháp này áp dụng cho những bước công việc thuộc loại hình sản xuất hàng loạt lớn và vừa.
2.2.Phương pháp so sánh điển hình.
Phương pháp phân tích khảo sát là phương pháp định mức lao động dựa trên cơ sở phân tích kết cấu bước công việc, các nhân tố ảnh hưởng đến hao phí thời gian, các tài liệu kỹ thuật và tài liệu khảo sát việc sử dụng thời gian của người lao động ngay tại nơi làm việc để tính mức lao động cho từng bước công việc. Căn cứ vào các tài liệu khảo sát sẽ tính được thời gian tác nghiệp trong ca (Ttn ca)
Mức lao động được tính bằng công thức :
Trong đó : MTg:Mức thời gian
MSL:Mức sản lượng
Tca :Thời gian ca làm việc.
TTnca:Thời gian tác nghiệp trong ca làm việc.
TTN:Thời gian tác nghiệp một đơn vị sản phẩm.
* Ưu điểm : Mức lao động được xây dựng chính xác, đồng thời còn tổng kết được kinh nghiệm sản xuất tiên tiến của người lao động, cung cấp được tài liệu để cải tiến tổ chức lao động và xây dựng các tiêu chuẩn định mức lao động kỹ thuật đúng đắn.
* Nhược điểm : Tốn thời gian, cán bộ định mức phải thành thạo nghiệp vụ, am hiểu kỹ thuật. Chỉ áp dụng cho những công việc trong sản xuất hàng loạt lớn và hàng khối.
2.3.Phương pháp so sánh điển hình.
Phương pháp so sánh điển hình là phương pháp xây dựng mức dựa trên những hao phí của mức điển hình và những nhân tố ảnh hưởng, quy đổi xác định mức.
Mức lao động cho mỗi bước công việc trong nhóm được xác định theo công thức sau:
Trong đó : Mtgi : Mức thời gian của bước công việc i.
Msli: Mức sản lượng của bước công việc i.
Mtg1: Mức thời gian bước công việc điển hình.
Msl1: Mức sản lượng bước công việc điển hình.
Ki : Hệ số đổi.
*Ưu điểm :Mức được xây dựng nhanh, tốn ít công sức.
*Nhược điểm : Độ chính xác không cao, chỉ áp dụng xây dựng cho bước công việc thuộc loại hình sản xuất hàng loạt nhỏ và đơn chiếc.
III. Nội dung của công tác định mức.
Yêu cầu đối với công tác định mức lao động.
Định mức lao động chịu tác động của nhiều nhân tố nhất là những thành tựu khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó định mức lao động còn chịu tác độngcủa các yêú tố sau:
-Các điều kiện lao động khi tiến hành công việc.
-Các yếu tố liên quan đến vấn đề tổ chức.
-Các yếu tố liên quan đến phương pháp lao động tiên tiến trong sản xuất.
Khi định mức lao động được tính toán đầy đủ các yếu tố trên thì được gọi là định mức có căn cứ khoa học và các mức được xây dựng là các mức có căn cứ khoa học. Những mức như vậy sẽ thúc đẩy công nhân vươn tới những kết quả lao động cao nhất, trong điều kiện sản xuất nhất định. Do đó, yêu cầu của công tác định mức lao động là :
+Định mức lao động phải được xây dựng có căn cứ khoa học, tức là phải phân tích các yếu tố có ảnh hưởng tới sản xuất và phải tổ chức chụp ảnh ngày làm việc, bấm giờ thời gian tác nghiệp.
+Trong quá trình tính toán xây dựng định mức lao động phải că cứ vào các thông số kỹ thuật quy định cho sản phẩm, quá trình công nghệ sản xuất sản phẩm, tổ chức sản xuất, tổ chức lao động và tổ chức nơi làm việc hợp lý.
+Khi xây dựng mức phải xác định độ phức tạp lao động và cấp bậc công việc, bố trí lao động hợp lý, phương pháp lao động tiên tiến.
+Công nhân phải chấp hành tốt, tích cực thực hiện định mức lao động tham gia cải tiến tổ chức lao động và xây dựng mức.
+Khi thay đổi kỹ thuật, công nghệ sản xuất, kinh doanh thì phải điều chỉnh mức lao động, đưa ra mức mới.
Xây dựng các mức lao động.
Xây dựng các mức lao động gồm các quy trình sau:
2.1.Xác định quá trình sản xuất ra sản phẩm và quá trình lao động để thực hiện bước công việc.
Quá trình sản xuất là quá trình làm ra một loại sản phẩm nào đó cần thiết cho tiêu dùng xã hội thường được thực hiện khép kín trong doanh nghiệp. Tuỳ theo công nghệ sản xuất, quá trình sản xuất thường chia ra các quá trình bộ phận.
Quá trình sản xuất bao gồm :
-Quá trình chuẩn bị sản xuất (thiết kế sản phẩm, xây dựng quá trình công nghệ, chuẩn bị máy móc thiết bị, nhà xưởng nguyên nhiên vật liệu, năng lượng...).
-Quá trình công nghệ.
-Quá trình kiểm tra kỹ thuật, chất lượng sản phẩm.
-Quá trình phục vụ sản xuất (vận chuyển, sửa chữa, phục vụ năng lượng,dụng cụ, nguyên vật liệu...).
Quá trình công nghệ là quá trình quan trọng nhất của quá trình sản xuất, là quá trình làm thay đổi chất lượng của đối tượng lao động (thay đổi hình dáng kích thước tính chất lý hoá...) để trở thành sản phẩm nhất định.
Tuỳ sự phát triển sản xuất (công nghệ sản xuất, tổ chức sản xuất) quá trình sản xuất bộ phận được phân chia thành các bước công việc .
Bước công việc là một bộ phận của qúa trình sản xuất được thực hiện trên một đối tượng lao động nhất định (cùng loại nguyên vật liệu, một chi tiết máy) tại nơi làm việc nhất định do một hoặc một nhóm người thực hiện.
Đặc trưng cơ bản của bước công việc là sự cố định về đối tượng lao động, người công nhân và nơi làm việc.
Sự phân chia quá trình sản xuất thành các bước công việc là cơ sở để phân phối hợp lý công việc giữa những người thực hiện, để tổ chức và lập kế hoạch hoá lao động đúng đắn, để tính kết quả hoạt động của công nhân. Nhờ có sự phân chia quá trình sản xuất thành các bước công việc, trên mỗi bước công việc xác định được hao phí lao động do đó có thể tính được lao động hao phí của toàn bộ quá trình sản xuất.
Bước công việc là đối tượng của định mức, khi tiến hành định mức thường căn cứ vào bước công việc để định mức.
*Về mặt công nghệ :
Về mặt công nghệ lại chia ra :
-Giai đoạn chuyển tiếp : là bộ phận đồng nhất về công nghệ của bước công việc, nó được biểu thị bằng sự có định của bề mặt gia công, dụng cụ và chế độ gia công.
Trong loại hình sản xuất hàng khối, mỗi bước công việc thường chỉ có một giai đoạn chuyển tiếp, còn trong loại hình sản xuất hàng loạt nhỏ và đơn chiếc mỗi bước công việc thường bao gồm một số giai đoạn chuyển tiếp.
-Bước chuyển tiếp: là một phần việc như nhau lặp đi lặp lại trong giai đoạn chuyển tiếp .
*Về mặt lao động:
Bước công việc được phân chia thành các thao tác,rồi chia thành các động tác và cuối cùng chia thành các cử động.
Thao tác lao động.
Thao tác là tổ hợp các hoạt động của công nhân nhằm thực hiện một mục đích nhất định về công nghệ.
Nhờ việc xác định thao tác ta có thể phân tích xác định hợp lý quá trình làm việc của công nhân, đảm bảo không có thao tác thừa, trùng lặp gây tổn thất tăng thêm thời gian hoàn thành công việc.
b. Động tác.
Động tác là một bộ phận của thao tác biểu thị bằng những cử động chân tay và thân thể người công nhân nhằm mục đích lấy hay di chuyển một vật nào đó. Sự phân chia thao tác thành các động tác nhằm mục đích hợp lý hoá hơn nữa quá trình lao động của công nhân.
Cử động.
Cử động là một phần của động tác được biểu thị bằng sự thay đổi một lần vị trí các bộ phận cơ thể của công nhân.
Như vây, sự phân chia nhỏ các quá trình sản xuất thành các bộ phận hợp thành tạo điều kiện nghiên cứu độ dài chu kỳ sản xuất, đề ra biện pháp rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm, dự kiến kết cấu hợp lý các bước công việc, các thao tác làm việc tiên tiến, để tổ chức sản xuất, tổ chức lao động xây dựng mức lao động có căn cứ khoa học.
Sơ đồ 1 : Sự phân chia quá trình sản xuất thành các bộ phận hợp thành:
Quá trình sản xuất
Quá trình bộ phận
Bước công việc
Giai đoạn chuyển tiếp
Bước chuyển tiếp
Thao tác
Động tác
Cử động
Mặt công nghệ
Mặt lao động
2.2.Phân loại hao phí thời gian làm việc của người lao động.
Để định mức lao động có căn cứ khoa học cần phải nghiên cứu có hệ thống việc sử dụng thời gian trong quá trình làm việc. Qua nghiên cứu thời gian hao phí sẽ tìm thấy thời gian làm việc có ích cần thiết và thời gian lãng phí trong ca sản xuất, tìm nguyên nhân của những thời gian làm việc lãng phí đề ra biện pháp nhằm xoá bỏ hoặc hạn chế đến mức thấp nhất những lãng phí nâng cao tỷ trọng thời gian làm việc có ích trong ngày.
Thời gian làm việc trong ngày của người lao động được ký hiệu là Tca được chia ra:
Thời gian cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ sản xuất - gọi là thời gian được định mức - ký hiệu là Tđm
Thời gian lãng phí còn gọi là thời gian không được định mức - ký hiệu là Tkđm.
a. Thời gian được tính trong mức (Tđm).
Là thời gian người công nhân làm những công việc để hoàn thành sản phẩm. Thời gian được tính trong mức bao gồm các loại thời gian sau:
- Thời gian chuẩn kết (Tck): là thời gian người lao động dùng và việc chuẩn bị phương tiện sản xuất, công tác để thực hiện khối lượng công việc được giao và tiến hành mọi hoạt động có liên quan đến việc hòan thành khối lượng công việc đó. Gồm có: thời gian nhận nhiệm vụ, bản vẽ, nhận dụng cụ, dọn vệ sinh, thời gian chuẩn bị và kết thúc công việc.Thời gian này chỉ hao phí một lần cho cả loạt sản phẩm, không phụ thuộc vào khối lượng sản phẩm và độ dài thời gian làm việc trong công tác.
-Thời gian tác ngiệp (Ttn): là thời gian trực tiếp hoàn thành bước công việc. Nó được lặp đi lặp lại qua từng đơn vị sản phẩm.
Trong thời gian tác nghiệp bao gồm:
+Thời gian chính: là thời gian làm cho đối tượng lao động thay đổi về mặt chất lượng (hình dáng, kích thước,tính chất lý hoá…)
+Thời gian phụ: là thời gian công nhân hao phí vào các hoạt động cần thiết để tạo khả năng làm thay đổi chất lượng, đối tượng lao động.
-Thời gian phục vụ nơi làm việc (Tpv) là thời gian hao phí để người công nhân trông coi và đảm bảo cho nơi làm việc hoạt động liên tục trong suốt ca làm việc.
Thời gian phục vụ nơi làm việc gồm:
+Thời gian phục vụ tổ chức (Tpvt): là thời gian hao phí để làm các công việc phục vụ có tính chất tổ chức như giao nhận ca sắp xếp nơi làm việc.
+Thời gian phục vụ kỹ thuật (Tpvk): là thời gian hao phí để làm các công việc có tính lỹ thuật như điều chỉnh máy sửa chữa các dụng cụ.
-Thời gian nghỉ ngơi và nhu cầu cần thiết (Tnn): bao gồm thời gian nghỉ ngơi để phục hồi sức khoẻ và thời gian nghỉ ngơi vì nhu cầu cần thiết của công nhân .
Thời gian không được tính trong mức (TKĐM).
Thời gian ngoài định mức là thời gian người công nhân không làm cho các công việc phục vụ cho việc hoàn thành sản phẩm
Bao gồm các loại sau:
-Thời gian lãng phí công nhân (TLPCN): bao gồm thời gian người công nhân đi muộn, về sớm, nói chuyện riêng trong khi làm việc.
-Thời gian lãng phí do tổ chức (TLPTC): là thời gian lãng phí của công nhân do tổ chức gây nên như chờ dụng cụ, chờ nguyên vật liệu, chờ sửa chữa...
-Thời gian lãng phí không sản xuất (TLPK): là thời gian lãng phí làm những việc không trong nhiệm vụ quy định. Thí dụ theo quy định tổ cơ điện phải sửa chữa khi có trục trặc về điện nhưng do không túc trực thường xuyên nên công nhân phải tự sửa chữa lấy.
-Thời gian lãng phí kỹ thuật (TLPKT): là thời gian lãng phí do bị tác động của các yếu tố khách quan như mất điện, nước.
Sơ đồ 2 : phân loại thời gian làm việc
Thời gian trong ca
Thời gian lãng phí
Thời gian làm việc cần thiết
Thời gian chuẩn kết
Thời gian tác nghiệp
Thời gian phục vụ
Thời gian nghỉ ngơi và nhu cầu
Lãng phí do công nhân
Lãng phí do kỹ thuật
Lãng phí do tổ chức
Thời gian chính
Thời gian phụ
Thời gian phục vụ tổ chức
Thời gian phục vụ kỹ thuật
Thời gian được tính trong mức
Lãng phí không sản xuất
Thời gian không được tính trong mức
2.3.Phương pháp xác định mức kỹ thuật lao động .
2.3.1.Mức thời gian .
Công thức chung để tính mức lao động:
MTG = TCK+TTN+TPV+TNC
Trong đó : MTG:Mức thời gian đầy đủ của một sản phẩm.
TCK:Mức thời gian chuẩn kết.
TTN:Mức thời gi._.an tác nghiệp.
TNC:Mức thời gian nhu cầu và nghỉ ngơi.
TPV:Mức thời gian phục vụ .
Tuỳ theo từng loại hình sản xuất mà người ta tính mức thời gian ở các dạng khác nhau:
+Đối với loại hình sản xuất đơn chiếc :
Trong đó: a, b là % của thời gian phục vụ và nhu cầu so với thời gian tác nghiệp.
TCK :Thời gian chuẩn kết cho một sản phẩm .
+Đối với loại hình sản xuất hàng loạt :
Trong đó : TCK:Thời gian chuẩn kết cho cả loạt sản phẩm .
N : Số sản phẩm sản xuất trong loạt.
2.3.2.Mức sản lượng .
Khi biết mức thời gian, mức sản lượng được tính theo công thức sau:
T
=
TN
M
=
M
Tca
M
hay
t
SL
TG
SL
tn
Trong đó: MSL: Mức sản lượng .
Tca :Thời gian ca làm việc
TTN : Tổng thời gian tác nghiệp.
ttn: Thời gian tác nghiệp của một đơn vị sản phẩm.
Đối với loại hình sản xuất hàng khối :
TGK
CK
ca
SL
M
T
T
M
-
=
Trong đó : MTGKlà mức thời gian không đầy đủ cho một đơn vị sản phẩm tức là mức thời gian không có TCK..
áp dụng và quản lý các mức lao động.
Hiệu quả của công tác định mức không chỉ dừng lại ở công tác xây dựng mức mà còn phải áp dụng mức vào sản xuất thường xuyên và tạo điều kiện cho người lao động đạt và vượt mức. Do đó, việc quản lý và áp dụng mức thường xuyên ở doanh nghiệp là một yếu tố rất quan trọng.
3.1.Đưa mức vào sản xuất .
Việc đưa mức vào sản xuất thường xuyên nhằm:
-Phát huy hiệu quả của mức vừa xây dựng.
-Phát huy đầy đủ tác dụng của công tác định mức lao động .
Nhưng khi đưa mức vào sản xuất cần phải phổ biến mức đó tới mọi cán bộ công nhân viên trong công ty biết và hiểu về những mức mà công ty sẽ áp dụng. Mức đưa vào phải là mức trung bình tiên tiến -là những mức mà trong điều kiện sản xuất bình thường, những người lao động nào nắm vững kỹ thuật, cố gắng lao động, tận dụng thời gian làm việc thì đều đạt và vượt mức.
Cán bộ định mức và cán bộ lãnh đạo phải bảo đảm các điều kiện tổ chức kỹ thuật đúng như đã qui định khi tiến hành định mức. Nếu những mức mới xây dựng cho những công việc mới đưa vào sản xuất công nhân chưa có kinh nghiệm thì thường để ở dạng "mức tạm thời" trong một thời gian để công nhân quen dần với công việc mới. Cán bộ kỹ thuật hay đốc công, tổ trưởng hướng dẫn cho công nhân cách có thể đạt và vượt mức với chất lượng cao.
3.2.Phân tích tình hình thực hiện mức.
Phân tích tình hình thực hiện mức thường xuyên, có hệ thống là một nọi dung quan trọng của công tác định mức lao động. Phân tích tình hình thực hịên mức nhằm kiểm tra sự chính xác của mức, phát hiện những mức sai, mức lạc hậu, rút kinh nghiệm để cho những lần thực hiện tiếp sau.
Dựa vào các số liệu đã thống kê được tiến hành phân tích mức theo các chỉ tiêu sau:
+Chỉ tiêu đánh giá công tác xây dựng mức gồm:
-Tỉ lệ công việc có mức so với tổng số công việc có thể định mức.
-Tỉ lệ mức có căn cứ kỹ thuật so với tổng số mức.
+Chỉ tiêu phản ánh việc áp dụng mức trong sản xuất gồm:
-Tỉ lệ người lao động làm việc có mức so với tổng số người lao động .
-Tỉ lệ người lao động làm việc theo mức có căn cứ kỹ thuật so với tổng số người lao động làm việc có mức.
Sau khi phân tính toán, phân tích các số liệu thì cán bộ định mức có thể biết được mức nào cần được sửa đổi, mức nào sẽ tiếp tục duy trì, mức nào cần loại bỏ.
3.3.Xem xét và điều chỉnh mức.
Các mức dù được xây dựng chính xác, có căn cứ khoa học nhưng trong quá trình thực hiện nhiều phương tiện, công nghệ sản xuất mới được áp dụng, trình độ thành thạo kỹ năng sản xuất được nâng cao, các mức sai (nhữngmức khi xây dựng không tính đủ, đúng các điều kiện tổ chức kỹ thuật - thực tế công nhân thực hiện thường cao hay thấp hơn so với mức), mức lạc hậu (là mức không còn phù hợp với điều kiện thực tế để thực hiện nó, do có sự thay đổi kỹ thuật, công nghệ,trình độ công nhân) xuất hiện kìm hãm tăng năng suất lao động, dẫn đến những sai sót nhỏ trong việc đánh giá thi đua khen thưởng và trả lương cho công nhân. Vì vậy, việc định kỳ thường xuyên xem lại mức và điều chỉnh mức là một nội dung không thể thiếu của công tác định mức lao động .
Điều kiện đưa mưc vào sản xuất thường xuyên.
Để đưa mức vào sản xuất thường xuyên cần phải thực hiện những điều kiện sau:
-Hội đồng định mức của cơ sở, doanh nghiệp thông qua sau đó giám đốc doanh nghiệp ký quyết định trước khi ban hành.
-Bảo đảm các điều kiện tổ chức kỹ thuật đúng như đã quy định khi tiến hành xây dựng mức để tạo điều kiện cho người lao động đạt và vượt mức.
-Định mức luôn gắn với các điều kiện tổ chức kỹ thuật, máy móc thiết bị, qui trình công nghệ sản xuất của doanh nghiệp.
-Hướng dẫn sản xuất cho công nhân: giới thiệu và chỉ dẫn cho họ phương pháp làm việc đạt và vượt mức với chất lượng cao. Nội dung hướng dẫn gồm: giới thiệu qui trình công nghệ hợp lý, giới thiệu phương pháp và kinh nghiệm để tránh làm ra hàng xấu, hàng kém chất lượng, giới thiệu các biện pháp an toàn thiết bị và an toàn lao động khi thao tác.
Tổ chức quản lý sản xuất:
Tổ chức sản xuất là một yếu tố tác động rất lớn đến việc xây dựng và thực hiện mức. Tổ chức nơi làm việc gồm có tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý.
Về tổ chức sản xuất : Yêu cầu phải có kế hoạch cung cấp nguyên vật liệu đầy đủ, bộ phận sửa chữa phải thường xuyên kiểm tra máy móc có chu kỳ và phải túc trực liên tục tại nơi sản xuất tránh tình trạng máy hỏng công nhân phải chờ lâu. Khi có đơn đặt hàng thì phải có kế hoạch sản xuất hợp lý tránh việc sản xuất thêm giờ quá nhiều do không kịp thời gian giao hàng. Hàng tháng có kế hoạch sản xuất cụ thể.
Về tổ chức quản lý: Trách nhiệm thuộc về phòng Tổ chức lao động. Cần phải quản lý chặt chẽ các vấn đề sau:
-Quản lý chặt chẽ giờ giấc làm việc của công nhân. Không cho phép công nhân tự do đi lại trong phân xưởng, không ra ngoài uống nước, không đến muộn về sớm.
-Tạo mọi điều kiện thuận lợi để người lao động làm việc với hiệu quả cao nhất về cách tổ chức sản xuất, tổ chức phục vụ nơi làm việc .
-Quan tâm đến nhu cầu vật chất, văn hoá, tinh thần cho công nhân .
-Quan tâm đến các quyền lợi của người lao động về các chế độ bảo hiểm xã hộ, y tế, trợ cấp thai sản...
-Đẩy mạnh vai trò của Đảng Đoàn, Hội phụ nữ động viên thăm hỏi công nhân khi ốm đau, khó khăn .
Điều kiện làm việc:
Điều kiện làm việc có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoàn thành mức. Để công nhân hoàn thành và vượt mức đề ra thì công ty phải tạo điều kiện làm việc tốt nhất. Đó là công ty phải khắc phục các vấn đề sau :
-Tính đơn điệu của công việc: Cần có sự luân chuyển công việc sau một thời gian làm một công việc, một bước công việc nào đó.
-Nhiệt độ tại nơi làm việc : đảm bảo nhiệt độ thích hợp từ 20-250C.
-Chế độ làm việc nghỉ ngơi hợp lý : bố trí thời gian làm việc giữa các ca để thuận tiện cho công nhân và cho công ty trong việc quản lý giờ giấc làm việc. Thời gian nghỉ giữa ca nên từ 10 - 15 phút, thời gian nghỉ ăn cơm nên từ 30 - 45 phút để đảm bảo cho công nhân có thời gian hồi phục sức khoẻ.
-Nơi làm việc phải bố trí rộng rãi, thoáng mát, màu sắc phù hợp như sử dụng các màu nhạt, sáng vào mùa hè sẽ không gây cảm giác mệt mỏi hay mùa đông có thể sử dụng màu đậm tạo cảm giác ấm áp...Cùng với đó phải chú ý ánh sáng tại nơi làm việc tốt nhất nên tận dụng tối đa nguồn ánh sáng tự nhiên.
Thực hiện phân công và hiệp tác lao động phù hợp:
Mỗi công nhân khác nhau có một trình độ khác nhau nên cần phải phân công cho họ các công việc có cấp bậc công việc phù hợp với cấp bậc công nhân. Phân chia ra các tổ và quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm, công việc phải hoàn thành của mỗi tổ, mỗi công nhân trong tổ tránh tình trạng để công việc chồng chéo nhau. Việc phân công này đảm bảo vừa có tính chuyên môn hoá vừa có tính hiệp tác trong lao động. Lựa chọn được hình thức phân công và hiệp tác lao động hợp lý là điều kiện để nâng cao khả năng thực hiện mức của cong nhân cũng như nâng cao năng suất lao động.
Ngoài ra, còn có điều kiện về trình độ tay nghề chuyên môn nghiệp vụ của công nhân, trình độ của bộ phận làm công tác định mức.
Tất cả những điều kiện trên phải đảm bảo đầy đủ, tốt nhất giúp cho quá trình làm việc của công nhân được liên tục và đạt kết quả tốt nhất nhằm hoàn thành và vượt mức đề ra. Các điều kiện đó phải phù hợp với đặc điểm lao động và tổ chức sản xuất cũng như quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty.
Kết luận chương I.
Như vậy, định mức lao động là yếu tố không thể thiếu đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào dù đó là doanh nghiệp sản xuất hay phi sản xuất. Bởi lẽ, khi đã tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh thì mục tiêu đầu tiên đều là lợi nhuận (trừ doanh nghiệp hoạt động công ích), mà để đạt lợi nhuận cao thì phải tìm mọi biện pháp để giảm chi phí, hạ giá thành, tăng năng suất lao động. Điều cốt lõi là phải tổ chức quản lý và sản xuất sao cho khoa học nhất. Vì thế, các doanh nghiệp cần phải xây dựng cho mình các mức lao động như: mức thời gian, mức sản lượng, mức phục vụ, mức quản lý. Dựa vào các mức được đưa ra là cơ sở để phân phối theo lao động, để tăng năng suất lao động và là cơ sở để lập kế hoạch sản xuất kinh doanh trong giai đoạn tiếp theo.
Trong doanh nghiệp tất cả các nhân tố như: tổ chức sản xuất, điều kiện lao động, trình độ hiện đại của máy móc thiết bị, tổ chức phục vụ nơi làm việc và chất lượng lao động đều ảnh hưởng lớn đến các mức lao động. Các nhân tố này có tốt có hợp lý thì mới tạo điều kiện để xây dựng và thức hiện mức có hiệu quả. Vì vậy phải đề xuất ra các biện pháp hoàn thiện hơn nữa các nhân tố ảnh hưởng trên. Như vậy, giữa chúng có mỗi quan hệ qua lại khăng khít với nhau mà cán bộ định mức cần nắm được để có thể vận dụng phương pháp tiến hành định mức lao động thích hợp phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp mình, xây dựng được các mức lao động chính xác nhất, có hiệu quả nhất.
Công ty sứ Thanh Trì đã được thành lập từ rất lâu đời nhưng công tác định mức lao động vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn. Đặc biệt là cách xây dựng mức hiện nay của Công ty (Công ty sử dụng phương pháp thống kê kinh nghiệm để xây dựng mức). Các nhân tố ảnh hưởng như điều kiện lao động, tổ chức phục vụ nơi làm việc, tổ chức sản xuất vẫn còn nhiều nhược điểm cần khắc phục kịp thời.
áp dụng những lý thuyết về định mức lao động đối với Công ty sứ Thanh Trì để phân tích thực trạng tình hình quản lý và thực hiện định mức lao động nhằm đưa ra các biện pháp và đề xuất những mức mới.
Chương II: Thực trạng công tác tổ chức thực hiện ĐMLĐ tại công ty sứ thanh trì
I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
Công ty sứ Thanh Trì có nguồn gốc sơ khai từ một cơ sở sản xuất nhỏ chuyên sản xuất bát của tư nhân. Sau khi được tiếp quản thành xí nghiệp quốc doanh, Công ty đã tồn tại và phát triển trên những giai đoạn sau:
ăGiai đoạn từ 1961-1987.
Tháng 3/1961 xưởng gạch Thanh Trì được thành lập (sau đổi tên thành xí nghiệp gạch Thanh Trì). Tới năm 1980 Xí nghiệp được đổi tên thành Nhà máy sành sứ xây dựng Thanh Trì và bắt đầu đi vào sản xuất các sản phẩm gốm sứ có tráng men. Sản lượng sản phẩm trong năm 1980 như sau:
-Gạch chịu axit :100.000-470.000 viên /năm.
-Gạch men sứ : 11.000-111.000 viên /năm.
-ống sành : 41.000-42.000 chiếc /năm.
-Sứ vệ sinh : 200-500 chiếc /năm.
Tổng khối lượng hàng năm khoảng 80 tấn, với số lượng cán bộ công nhân viên là 250 người .
Trong giai đoạn này, do sản xuất dàn trải ra nhiều mặt hàng, công nghệ và thiết bị chắp vá, nên hầu hết các sản phẩm có phẩm cấp thấp (ở dạng sành độ hút nước lớn hơn 12%), chất lượng kém và mẫu mã đơn điệu. Tuy nhiên, do có cơ chế bao cấp và sản lượng rất nhỏ bé nên vẫn tiêu thụ hết sản phẩm.
ăGiai đoạn 1988-1991
Thời gian này, Nhà nước bắt đầu chuyển đổi cơ chế quản lý, trong khi đó Nhà máy vẫn còn làm ăn theo lối cũ nên sản phẩm làm ra không cạnh tranh nổi với các sản phẩm cùng loại trong và ngoài nước. Chi phí sản xuất quá lớn và chất lượng kém đã làm tồn đọng các sản phẩm trong kho, dẫn đến chỗ Nhà máy không thể tiếp tục sản xuất và hơn một nửa công nhân không có việc làm. Nhà máy ở bên bờ phá sản.
ă Giai đoạn 1992 đến nay.
Lãnh đạo Bộ xây dựng và Liên hiệp các Xí nghiệp thuỷ tinh và gốm sứ xây dựng(nay là Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng ) đã kịp thời nhận thấy vấn đề và có hướng giải quyết nhằm đưa Nhà máy thoát khỏi tình trạng bế tắc. Xuất phát từ quan điểm “công nghệ quyết định chất lượng sản phẩm “, Tổng giám đốc đã chỉ đạo Nhà máy cho ngừng sản xuất để tập trung vào nghiên cứu công nghệ mới, đổi mới thiết bị và điều kiện làm việc, sắp xếp lại bằng và dây chuyền sản xuất. Trong 11 tháng ngừng sản xuất (từ 12/1991-11/1992) các công việc được tiến hành với tinh thần hết sức khẩn trương. Kết quả, tháng 11/1992 Nhà máy đã ở tư thế sẵn sàng đi vào sản xuất lại với hàng loạt yếu tố mới:
Nguyên liệu mới .
Bài phối liệu xương men mới.
Công nghệ mới.
Máy móc thiết bị mới
Sau khi được phép hoạt động trở lại, trong vòng 46 ngày cuối năm 1992, Nhà máy đã sản xuất được 20.4000 sản phẩm với chất lượng cao hơn hẳn các năm trước gấp 3-4 lần sản lượng của cả năm 1990, 1991 ( mỗi năm khoảng 6.000 sản phẩm ) và từ đó đến nay sản lượng cũng như doanh thu của Nhà máy đã tăng trưởng không ngừng qua mỗi năm .
Từ chỗ hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình đốn, bế tắc, đã có thời điểm ngân hàng ngừng giao dịch, nguy cơ phá sản đã cận kề . Nhưng bằng những cố gắng hết mình, dưới sự chỉ đạo cương quyết, sát sao của Tổng công ty Thuỷ tinh và gốm xây dựng, tập thể CBCNV trong Công ty đã từng bước vượt qua khó khăn, thử thách để trụ vững và phát triển.
Nhìn thấy trước nhu cầu ngày càng tăng về sứ vệ sinh, năm 1994 Công ty đã thực hiện dự án đầu tư dây chuyền sản xuất sứ vệ sinh với công nghệ và thiết bị hiện đại đồng bộ cuả Italia với công suất thiết kế là 75.000 sản phẩm / năm với tổng vốn đầu tư trên 34 tỷ đồng Việt Nam. Dây chuyền này đi vào hoạt động đã cho ra đời các sản phẩm sứ vệ sinh đạt tiêu chuẩn Châu Âu. Với ý thức tiết kiệm, tận dụng hết nằng lực của từng công đoạn, kết hợp với sự sáng tạo trên cơ sở khoa học của tập thể CBCNV trong Công ty đã nâng công suất lên 100.000 sản phẩm / năm bằng 133% công suất thiết kế.
Phát huy những kết quả đã đạt được trong thời gian từ tháng 5/1996 đến năm 1997, Công ty đã thực hiện việc đầu tư lần hai cải tạo và mở rộng dây truyền sản xuất số 1 là dây chuyền được xây dựng năm 1992 nâng công suất từ 100.000 sản phẩm / năm lên 400.000 sản phẩm/năm với các thiết bị chủ yếu được nhập từ Italia, Mỹ, Anh. Tổng vốn đầu tư trên 90 tỷ đồng Việt Nam.
Hiện nay dây chuyền này đã đi vào hoạt động nâng năng lực sản xuất của Công ty lên 500.000-600.000 sản phẩm/năm đứng đầu về sản lượng so với các nhà máy sản xuất sứ vệ sinh trong nước.
Ngoài ra, bằng một số máy móc thiết bị của dây chuyền sản xuất số 1 không sử dụng tốt sau lần đầu tư cải tạo mở rộng, Công ty đã liên kết với xí nghiêp VLXD Việt Trì xây dựng và đưa vào sản xuất thành một dây chuyền sản xuất sứ vệ sinh. Sản phẩm được làm ra mang nhãn hiệu Viglacera. Đến nay Công ty đã phát huy và củng cố vị trí hàng đầu của mình trong lĩnh vực sản xuất sứ vệ sinh trong nước.
II. Đặc điểm của Công ty có ảnh hưởng tới thực hiện công tác ĐMLĐKH.
1. Nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu dùng sản xuất sứ vệ sinh bao gồm nguyên liệu để sản xuất hồ và nguyên vật liệu để chế tạo men. Nguyên vật liệu để chế tạo hồ bao gồm các loại : Đất sét, đất cao lanh, Feldspar, Quartz. Các nguyên vật liệu này chủ yếu được khai thác trong nước do một số nhà cung cấp cung ứng cho Công ty. Hiện nay, Công ty đang sử dụng đất sét ở Hải Dương, Cao lanh và Quartz ở Yên Bái, Feltspar ở Yên Bái và Phú Thọ.
Nguyên vật liệu để chế tạo men gồm các loại : Cao lanh, Feldspar, Quartz,ZnSiO4, CaCO3, ZnO, thuỷ tinh lỏng,chất chống vữa , bột màu , thạch cao. Nguyên vật liệu chế tạo men vừa nhập ngoại vừa dùng ở trong nước .
Trước khi nhập vào kho các của Công ty các nguyên vật liệu đều phải qua sự kiểm tra của phòng kỹ thuật -KCS theo các thông số kỹ thuật đã được thông qua trước giữa nhà cung cấp và Công ty. Nhờ đó mà sản phẩm của Công ty luôn đạt tiêu chuẩn quốc tế. Với các nguồn nguyên liệu dồi dào nên Công ty chưa bao giờ phải ngừng sản xuất vì lý do thiếu nguyên liệu. Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất của công nhân được diễn ra liên tục.
2. Máy móc thiết bị.
Định mức lao động chịu tác động của các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật. Chiến lược sản xuất kinh doanh của Công ty sứ Thanh Trì là sản xuất các sản phẩm sứ vệ sinh cao cấp phục vụ nhu cầu dân dụng và công nghiệp. Nâng cao chất lượng sản phẩm là một trong những mục tiêu chủ yếu của Công ty để nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường.
Vì vậy, Công ty đã đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ bằng cách nhập khẩu từ nước ngoài với công suất thiết kế hàng trăm nghìn sản phẩm một năm. Dây chuyền này đi vào hoạt động đã cho ra đời các sản phẩm sứ vệ sinh đạt tiêu chuẩn Châu Âu. Với ý thức tiết kiệm, tận dụng hết năng lực sản xuất của từng công đoạn, kết hợp với sự sáng tạo có cơ sở khoa học của tập thể CBCNV trong Công ty đã nâng công suất lên 100.000 sản phẩm / năm = 133% công suất thiết kế.
Hiện tại, Công ty có hai dây chuyền sản xuất hiện đại có khả năng đáp ứng nhu cầu sản phẩm của thị trường. Từ công đoạn kiểm tra nguyên vật liệu đến đóng gói đều sử dụng bằng máy với những tiêu chuẩn kỹ thuật đã qui định cho mỗi loại sản phẩm. Các phân xưởng sản xuất của Công ty đã được trang bị máy móc hiện đại hơn trước đây rất nhiều lần, nâng năng lực sản xuất của Công ty lên 500.000-600.000 sản phẩm / năm đứng đầu về sản lượng so với các nhà máy sản xuất sứ vệ sinh trong nước.
Hàng năm, Công ty vẫn đầu tư xây dựng mới và cải tiến máy móc cho hiện đại hơn. Vì thế, công tác định mức lao động cũng phải thường xuyên thay đổi, xây dựng lại cho phù hợp với trình độ hiện đại của máy móc và thiết bị.
3. Đặc điểm lao động.
Nếu so với các ngành nghề khác như dệt may, giầy da...thì số lượng lao động của Công ty chưa phải là nhiều. Tuy nhiên, so sánh với các Công ty khác cùng nghành thì Công ty sứ Thanh Trì có một đội ngũ công nhân khá lớn .
3.1.Về số lượng.
Tính đến cuối năm 2002 tổng số cán bộ công nhân viên của Công ty là 467 người (không tính lao động thời vụ) trong đó:
Bảng 1: Số lượng cán bộ công nhân viên Công ty sứ Thanh Trì.
Loại lao động
Số người
Tỷ lệ (%)
-Lao động nam
-Lao động nữ
372
95
79.66%
20.34%
-Lao động gián tiếp
+ Đại học
+ Cao đẳng
+Trung cấp
-Lao động trực tiếp
+LĐ sản xuất sứ vệ sinh.
+LĐ cơ khí, cơ giới.
96
68
8
20
286
270
16
20.56%
61.24%
-Lao động phục vụ
85
18.2%
Nguồn: Phòng TCLĐ
Nhìn vào bảng ta thấy, tỷ lệ lao động nữ của Công ty chiếm tỷ lệ 20.34%, tỷ lệ này là thấp tuy nhiên đây là do đặc điểm nghành nghề sản xuất kinh doanh của Công ty. Với nguồn lao động đông đảo là một điều kiện thuận lợi cho Công ty trong việc chọn lựa những người có năng lực thật sự, nhưng cũng là một thách thức nếu Công ty không có chính sách quản lý lao động hợp lý.
3.2.Về chất lượng.
Để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của Công ty chúng ta có thể căn cứ vào một số tiêu thức sau:
*Trình độ văn hoá : Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng và thực hiện mức lao động. Công ty sứ Thanh Trì có nguồn nhân lực có trình độ văn hoá tương đối cao được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2: Bảng cơ cấu trình độ lao động theo trình độ văn hoá.
Stt
Đơn vị
Chưa tốt nghiệp PTCS
Tốt nghiệp PTCS
Tốt nghiệp PTTH-BăNG TảI
Tổng
Người
%
Người
%
Người
%
1
Văn phòng
9
1.93
29
6.21
38
2
Phòng TC-KT
8
1.71
8
3
Phòng kinh doanh
5
1.07
44
9.42
49
4
Phòng KT-KCS
10
2.14
10
5
Phòng KH-ĐTư
10
2.14
10
6
Phòng XNK
3
0.64
3
7
Phòng TCLĐ
4
0.85
4
8
Nhà máy sứ TT
3
0.64
68
14.56
231
49.46
302
9
Xí nghiệp sản xuất khuôn mẫu
3
0.64
29
6.21
32
10
Văn phòng đại diện
1
0.21
1
11
Chi nhánh Đà Nẵng
10
2.14
10
12
Tổng
3
0.64
85
18.2
379
81.15
467
Nguồn : Phòng TCLĐ
Nhìn vào bảng trên ta thấy Công ty có nguồn nhân lực có trình độ văn hoá tương đối cao: 100% người lao động biết chữ, tỷ lệ tốt nghiệp PTTH và bổ túc văn hoá là 81.15%, tỷ lệ tốt nghiệp PTCS là 18.2%, chỉ có 0.64% lao động chưa tốt nghiệp THCS. Với mặt bằng văn hoá tương đối cao này chứng tỏ Công ty có nguồn nhân lực tốt. Trình độ văn hoá cao giúp người lao động có thể tiếp thu và vận dụng thành công những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Mặt khác, trình độ văn hoá cao giúp cho người lao động nhận thức tôt hơn về chiến lược sản xuất kinh doanh của Công ty và có thái độ, tinh thần lao động đúng đắn, có khả năng phá huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật hoàn thành và vượt mức ĐMLĐ đề ra, nâng cao năng xuất lao động, mang lại hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh của Công ty .
Tóm lại, đây là một điều kiện thuận lợi mà Công ty cần khai thác phát huy nhằm mục tiêu mang lại hiệu quả cao nhất trong sản xuất kinh doanh.
*Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động :
Cùng với trình độ văn hoá thì trình độ chuyên môn kỹ thuật là tiêu trí để phản ánh mặt chất, phản ánh khả năng làm việc thực tế của người lao động. Trình độ lao động của Công ty sứ Thanh Trì xét theo chỉ tiêu này được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 3: Bảng cơ cấu trình độ lao động theo trình độ đào tạo
Stt
Đơn vị
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
Sơ cấp
Chưa qua đào tạo
1
Văn phòng
3
4
14
17
2
Phòng TC-KT
5
3
3
Phòng kinh doanh
15
5
15
4
10
4
Phòng KT-KCS
10
5
Phòng KH-ĐTư
7
1
2
6
Phòng XNK
3
7
Phòng TCLĐ
4
8
Nhà máy sứ TT
13
5
8
225
51
9
Xí nghiệp sx khuôn mẫu
5
22
5
10
Văn phòng đại diện
1
11
Chi nhánh Đà Nẵng
5
2
2
1
12
Tổng
71
11
34
267
84
Nguồn : Phòng TCLĐ.
Công ty sứ Thanh Trì hiện tại có có một đội ngũ lao động có trình độ tương đối cao. Tỷ lệ người có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 17.56%, tỷ lệ người có trình độ trung cấp 7.28%, sơ cấp là 57.17% và lao động chưa qua đào tạo là 17.9%. Đây là một tỷ lệ rất cao so với tỷ lệ đại học được tính chung cho các Công ty liên doanh là 7.02%; các doanh nghiệp quốc doanh là 4.38%; các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 12.9%. Xét về cơ cấu nhìn chung cơ cấu lao động của Công ty chưa hợp lý, tỷ lệ đại học quá cao trong khi đó tỷ lệ cao đẳng, trung cấp và sơ cấp rất thấp. Theo tiêu chuẩn của các nước phát triển thì tỷ lệ hợp lý là 1/4/10, tức là cứ 1 đại học thì cần 4 kỹ thuật viên và 10 công nhân kỹ thuật. Mặt khác, tỷ lệ người lao động chưa qua đào tạo của Công ty còn khá cao (chiếm 17,9%). Điều này cho thấy trong thời gian tới Công ty cần phải chú trọng đào tạo đội ngũ trung cấp và sơ cấp, nhất là nên đào tạo kỹ thuật viên trung cấp sẽ giúp ích rất lớn cho quá trình sản xuất của Công ty.
Cùng với đó, trình độ tay nghề của công nhân toàn Công ty cũng là một vấn đề được quan tâm trong chiến lược sản xuất kinh doanh của Công ty. Hiện nay, Công ty có 100% công nhân từ bậc 3 trở lên trong đó tỷ lệ công nhân bậc 3,4 là 68.56%, tỷ lệ công nhân bậc 5 là 16.76%, bậc 6 là 13.47% và chỉ có 1 công nhân bặc 7. Hằng năm Công ty đều có kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân và tổ chức thi nâng bậc. Đó chính là một yếu tố tác động lớn đến việc thực hiện ĐMLĐ bởi lẽ ĐMLĐ được xây dựng nên từ hao phí thời gian làm việc thực tế của công nhân mà những công nhân có trình độ tay nghề cao thì thời gian hao phí trên một đơn vị sản phẩm giảm, tỷ lệ phế phẩm ít và thường hoàn thành vượt mức.
Về độ tuổi: Nhìn chung lao động của Công ty có độ tuổi tương đối trẻ. Số lao động <30 tuổi chiếm 44.13%, số lao động từ 30 - 40 tuổi chiếm 38.04%, từ 40-50 tuổi là 25.65% và chỉ có 10 người trên 50 tuổi. Với một nguồn lao động mà độ tuổi đang sung mãn cả về thể chất và tinh thần, Công ty cần phải có nhiều biện pháp khuyến khích để người lao động làm việc, phát huy hết năng lực tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy còn có những điểm hạn chế nhưng để có một nguồn lao động như hiện nay Công ty sứ Thanh Trì đã trải qua một chặng đường cố gắng rất dài, gian khổ. Với sự phát triển như hiện nay của Công ty thì trong những năm tới, đội ngũ lao động của Công ty sẽ ngày càng được phát triển cả về số lượng và về chất lượng.
4. Tổ chức sản xuất .
4.1.Về tổ chức quản lý.
Do đặc điểm của Công ty là một tổ chức có quy mô lớn. Công tác quản lý trong toàn Công ty được quán triệt khá nghiêm ngặt. Với công nhân sản xuất khi vào Công ty là phải mặc quần áo bảo hộ, giày dép, mũ theo quy định và phải có thể công nhân. Vì thế, không có hiện tượng người ngoài tự do vào trong Công ty nhất là vào khu vực sản xuất.
Trong thời gian làm việc không thể quy định bắt buộc người lao động không được dời vị trí, không được nói nên tình trạng đi lại và nói chuyện vẫn xảy ra thường xuyên mà không có hình thức xử lý hay kỷ luật nào. Trong mỗi phân xưởng Công ty lại chia ra thành các tổ, mỗi tổ từ 5-7 người và có một tổ trưởng. Tuy nhiên, tổ trưởng chỉ làm công tác chấm công và phát bảo hộ lao động cho từng tổ viên của tổ chứ không kiểm tra đôn đốc và quản lý thời gian làm việc của họ. Nhiều công nhân vẫn đi muộn về sớm mà vẫn không bị nhắc nhở.
Do đó nếu không thực hiện việc quản lý lao động nghiêm ngay trong phân xưởng thì sẽ không thể giảm thiểu thời gian lãng phí để tăng năng suất lao động cho người công nhân .
4.2. Về tổ chức sản xuất .
Điều đầu tiên mà bất kỳ ai khi xuống phân xưởng sản xuất đều có chung một nhận xét là nơi sản xuất quá chật hẹp. Điều này một phần là do việc tổ chức sản xuất chưa hợp lý. Riêng bộ phận đổ rót đã chiếm diện tích sản xuất gần 1/2 tổng diện tích sản xuất của nhà máy. Công nhân đổ rót chiếm tới 37,5% trong tổng số công nhân sản xuất trực tiếp, do đó sản phẩm mộc được sản xuất ra quá nhiều. Trong khi đó các bộ phận khác ít công nhân nên không làm kịp số sản phẩm đẫ đổ rót ra. Vì thế, toàn bộ khu vực sản xuất của phân xưởng tạo hình hay bộ phận đổ rót các sản phẩm mộc chờ đến công đoạn tiếp theo được chất đầy trên các giá và được để ở mọi chỗ trong phân xưởng không theo một quy củ nào làm cho khu vực này nhìn rất ngổn ngang, bừa bãi, mất thẩm mỹ của nơi làm việc .
Quản lý về kỹ thuật là một khâu vô cùng quan trọng cần được chỉ đạo và quản lý thường xuyên trong suốt quá trình làm việc. Nhưng trong mỗi phân xưởng chỉ có một quản đốc, một phó quản đốc và có 1-2 người phụ trách kỹ thuật nên không kiểm tra, quản lý hết được cả trăm công nhân. Việc thực hiện không đúng qui trình công nghệ sản xuất yêu cầu cũng không được chấn chỉnh kịp thời làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm làm cho tỷ lệ phế phẩm lớn dẫn tới công nhân không hoàn thành mức đề ra. Không những thế nó còn ảnh hưởng đến sản lượng của các công đoạn sản xuất trước và sau nó.
Ví dụ: Công đoạn phun men mà người công nhân phun men quá mỏng hay quá dày đều không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật làm cho bề mặt sản phẩm chưa đủ độ bóng hay nứt men dẫn tới sản phẩm đó sẽ hỏng. Việc khắc phục cũng không đơn giản có thể loại bỏ và như thế vừa không đảm bảo mức đề ra vừa không tiết kiệm nguyên liệu.
Qua đó ta thấy tác động của việc tổ chức quản lý sản xuất còn nhiều nhược điểm cần phải hoàn thiện, tạo điều kiện tốt nhất cho người công nhân tiến hành sản xuất sản phẩm nhằm đạt và vượt mức .
Điều kiện lao động .
Điều kiện lao động là một yếu tố tác động trực tiếp tới sức khoẻ, sự hứng thú, khả năng làm việc của người lao động có nghĩa là nó có vai trò quyết định một phần việc hoàn thành hay không hoàn thành mức.
Do Công ty sản xuất vẫn còn thủ công là chính nên nhịp độ sản xuất không cao, không căng thẳng về thần kinh. Nhưng trong suốt thời gian làm việc người công nhân luôn luôn phải trong tư thế đứng gây nên sự mệt mỏi và nhu cầu ngồi nghỉ nhiều hơn.
Một số điều kiện lao động ảnh hưởng trực tiếp tới việc xây dựng và thực hiện mức là:
Thứ nhất, môi trường sản xuất. Môi trường sản xuất của Công ty không được trong lành do bụi bặm từ nguyên liệu sản xuất sứ. Việc công nhân phải tiếp xúc với bụi cát thường xuyên nên hầu hết sau một thời gian làm việc ở Công ty thì công nhân đều bị mắc các bệnh về hô hấp và mắt. Tuy Công ty đã bố trí cách 3m2 có 2 quạt trần và có ống hút bụi nhưng cứ mỗi lần công nhân dọn vệ sinh là cả phân xưởng lại bụi mù mịt. Công ty đã phát đầy đủ bảo hộ lao động cho tất cả công nhân nhưng còn nhiều người không đeo khẩu trang làm cho mức độ độc hại càng cao.
Thứ hai, thời gian làm việc phân chia ngày làm việc ra 3 ca, mỗi ca 8 giờ là phù hợp với tình hình hiện nay của các doanh nghiệp. Công ty quy định nghỉ giữa ca 10 phút và nghỉ ăn cơm trưa là 45 phút. Tuy nhiên, thời gian nghỉ này vẫn bị kéo dài hơn qui định gây nên lãng phí thời gian rất nhiều. Việc bố trí căng tin gần nơi làm việc đáp ứng được nhu cầu ăn uống của công nhân, nhưng lại không có nơi nghỉ trưa nên công nhân thường ra các quán xá gần Công ty uống nước làm cho công nhân không trở lại Công ty làm việc đúng thời gian qui định.
Thứ ba, các dịch vụ phục vụ nhu cầu của người lao động chưa được trang bị đầy đủ và thuận tiện. Trong phân xưởng không có bình uống nước công nhân muốn uống phải xuống nhà bếp hoặc đến các bộ phận khác nhà vệ sinh xây cách xa nơi làm việc. Mỗi lần công nhân nghỉ do nhu cầu thì rất mất thời gian .
Thứ tư, điều kiện về ánh sáng. Trong toàn Công ty nói chung và bộ phận đổ rót nói riêng kể cả ngày và đêm đều sử dụng ánh sáng điện. Trung bình 10m2 được trang bị 2 bóng tuýp loại 1,2m. Do đặc điểm của ánh sáng này là độ sáng trắng cao, không toả nhiều nhiệt trong quá trình sử dụng nhưng nhanh gây mỏi mắt và loá.
Thứ năm, tính đơn điệu trong sản xuất vẫn còn tồn tại. Do đặc điểm sản xuất là sản xuất hàng loạt và mỗi công nhân đảm nhận một loại sản phẩm. Nếu không có sự thay đổi nhu cầu, thị hiếu của thị trường hay hết hạn đơn đặt hàng thì một công nhân cứ sản xuất một loại sản phẩm hết tháng này qua tháng khác tại một nơi làm việc cố định. Mức lương được hưởng cũng chênh lệch không nhiều giữa các tháng làm cho công nhân có cảm giác mệt mỏi, nhàm chán, không hứng thú với công việc, không có động lực làm việc.
Tất cả những điều kiện trên ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng và thực hiện mức.
Tổ chức phục vụ nơi làm việc .
Tổ chức phục vụ nơi làm việc là cung cấp cho nơi làm việc các phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết và tạo điều kiện thuận lợi để tiến hành quá trình lao động. Thực tế đã chỉ ra rằng gần 2/3 số thờ._.
2.71
73.14
15.34
5.55
3.26
Tổng
480
100%
Khi nhịp độ sản xuất đã ổn định thì tiến hành bấm giờ thời gian tác nghiệp của sản phẩm chi tiết trên cơ sở áp dụng các biện pháp hoàn thiện tổ chức lao động, tổ chức sản xuất. Do loại hình sản xuất của Công ty là sản xuất hàng loạt nhỏ nên để đảm bảo độ chính xác thì phải tiến hành bấm giờ nhiều lần (10-15 lần). Sau đó tính các chỉ tiêu sau:
Tính hệ số ổn định:
HOĐ = Tmax / Tmin
Trong đó: Tmax: Giá trị lớn nhất của dãy số.
Tmin: Giá trị nhỏ nhất của dãy số.
So sánh HOĐ tính toán với HOĐ tiêu chuẩn trong bảng xác định hệ số ổn định (giáo trình Tổ chức lao động khoa hoc Trường ĐHKTQD). Với công việc đổ rót thì hệ số ổn định qui định là Hođtổ chức = 1,7.
-Xác định thời gian trung bình để hoàn thành thao tác (Ttb).
Ttb = Giá trị của từng số hạng trong dãy số bấm giờ / tổng số hạng trong dãy số.
Qua chụp ảnh ngày làm việc và bấm giờ bước công việc ta tính được mức thời gian và mức sản lượng của mỗi bước công việc.
Bước 3 : Tính định mức sản lượng / 1 ca làm việc dựa vào thời gian hao phí của 1 đơn vị sản phẩm và thời gian ca làm việc. Mức sản lượng được xây dựng dựa vào công thức:
MSL = Ttnca / Ttnsp
Trong đó: Ttnca (chụp ảnh xác định)
Ttnsp (bấm giờ xác định).
MSL: Mức sản lượng ca.
Ttnsp: Thời gian tác nghiệp một sản phẩm.
Ví dụ: Với sản phẩm két VI15:
Thời gian tác nghiệp / 1 đvsp = 351 / 30 = 11.7 phút / 1 đvsp.
Thời gian tác nghiệp trong ngày dự tính là :396 phút.
MSL =396 / 11,7 = 34 sản phẩm (khuôn)/ngày.
Bước 4 : Dựa vào kết quả tính thời gian hao phí để xây dựng đơn giá tiền lương cho từng công đoạn và cho từng sản phẩm.
Do đặc điểm sản xuất của Công ty là sản xuất hàng loạt theo dây chuyền từng công đoạn liên quan tới nhau rất chặt chẽ. Chỉ một công đoạn bị lỗi thì coi như sản phẩm đó bị bỏ đi và các công đoạn khác cũng không được tính.
Đơn giá tiền lương tính cho cả sản phẩm hoàn chỉnh dựa vào giá bán sau khi trừ đi các khoản chi phí khác. Và tính đơn giá tiền lương cho từng công đoạn trong qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm.
ĐGi = ĐGgc / T ´ Mtgi
TLcni = ĐGi ´ Qtti
Trong đó : ĐGgc : Đơn giá gia công mà khách hàng đặt. ĐGi : Đơn giá tiền lương ở bước công việc i.
T : Tổng thời gian hao phí.
Mtgi : Mức thời gian ở bước công việc i.
Qtti : Sản phẩm thực tế của công nhân làm ở bước công việc i.
Bước 5: Cán bộ định mức sẽ báo cáo lên lãnh đạo và trình Tổng Công ty về công tác xây dựng định mức để quyết định, ký duyệt.
Bước 6 : Đưa mức có đơn giá tiền lương xuống tổ sản xuất để áp dụng thực hiện. Khi có sự thay đổi bất kỳ một yếu tố nào đó có ảnh hưởng tới mức cần phải nghiên cứu điều chỉnh mức ngay.
Xây dựng mức theo qui trình trên ta thấy có một số ưu điểm sau:
-Mức xây dựng được đảm bảo độ chính xác và phù hợp với người lao động bởi vì mức được xây dựng dựa vào kết quả thực tế của công nhân, giảm bớt sự chênh lệch của mức với khả năng thực hiện của công nhân.
-Bằng việc phân tích thời gian thực tế sẽ phát hiện được thời gian hao phí không sản xuất của công nhân từ đó có biện pháp khắc phục.
-Mức được xây dựng đúng quy trình yêu cầu, chính xác về thời gian tác nghiệp tạo nên độ chính xác trong việc xây dựng mức thời gian .
Tuy nhiên dùng phương pháp này mất nhiều thời gian tiến hành khảo sát chụp ảnh, bấm giờ. Việc khảo sát này phải đối với công nhân có sức khoẻ, năng suất lao động bình thường, người có ý thức tự giác làm việc đảm bảo mức xây dựng được không quá cao, không quá thấp.
Các chỉ tiêu định mức xây dựng được.
Các chỉ tiêu mức mới xây dựng được dựa vào kết quả chụp ảnh thời gian làm việc và bấm giờ bước công việc. Các số liệu thức tế thu được như sau:
4.1.Kết quả chụp ảnh thời gian làm việc của công nhân bộ phận đổ rót:
* Tình hình thực hiện của công nhân Nguyễn Thị Thảo.
Phân xưởng : Gia công tạo hình.
Người quan sát: Trương Thị Thuỳ Vân.
Tên công nhân :Nguyễn Thị Thảo CBCN : III
Ngày quan sát : 10, 11, 12 /3/2003
Công việc : Đổ rót sản phẩm két VI15 .
Tổ chức phục vụ nơi làm việc : Bảo đảm có đủ dụng cụ ,bảo hộ lao động, nguyên liệu, phảI tự đi lấy giá và giao nộp sản phẩm ,tự vệ sinh nơi làm việc.
Định biên : 30 khuôn / ngày
Ngày 10/3/2003
Kí hiệu
Thời gian hao phí thực tế
Lượng thời gian
% so với thời gian quan sát
TCK
TTN
TPV
TNN
TLP
16
307
100
29
28
3.33
63.96
20.83
6.04
5.84
Tổng
480
100%
Ngày 11/3/2003
Kí hiệu
Thời gian hao phí
Lượng thời gian
% so với thời gian hao phí
TCK
TTN
TPV
TNN
TLP
13
403
44
8
12
2.71
83.96
9.17
1.66
2.5
Tổng
480
100%
Ngày 12/3/2003
Kí hiệu
Thời gian hao phí
Lượng thời gian
% so với thời gian hao phí
TCK
TTN
TPV
TNN
TLP
10
343
77
7
43
2.08
71.46
16.04
1.46
8.96
Tổng
480
100%
Qua 3 ngày chụp ảnh ta có bảng cân đối thời gian tiêu hao trung bình cùng loại.
Kí hiệu
Thời gian hao phí
Lượng thời gian
% so với thời gian hao phí
TCK
TTN
TPV
TNN
TLP
13
351
73.67
26.66
15.67
2.71
73.14
15.34
5.55
3.26
Tổng
480
100%
Đánh giá tình hình thực hiện đối với công nhân Thảo đổ rót sản phẩm Két VI15 .
Thực hiện ngày 10/3/2003 : 30 khuôn / ngày.
Tổng thời gian tác nghiệp trong ngày 307 phút.
% thời gian tác nghiệp trong ngày = 307/480 ´ 100 = 63,96%
Tổng thời gian hao phí = TN + CK + NN + PV =452 phút
Hao phí thời gian / 1 đvsp = 452 / 30 = 15,07 phút / 1 đvsp.
Thời gian tác nghiệp / 1đvsp : TTN = 307 / 30 = 10,23 phút / 1 đvsp
Thực hiện ngày 11/3/2003 : 30 khuôn / ngày.
Tổng thời gian tác nghiệp trong ngày 403 phút.
% thời gian tác nghiệp trong ngày = 403/480 ´ 100 = 83,96%
Tổng thời gian hao phí = TN + CK + NN + PV = 468 phút
Hao phí thời gian / 1 đvsp = 468 / 30 = 15,6 phút / 1 đvsp.
Thời gian tác nghiệp / 1đvsp : TTN = 403 / 30 = 13,43 phút / 1 đvsp
Thực hiện ngày 12/3/2003 : 30 khuôn / ngày.
Tổng thời gian tác nghiệp trong ngày 343 phút.
% thời gian tác nghiệp trong ngày = 343/480 ´ 100 = 71,46%
Tổng thời gian hao phí = TN + CK + NN + PV = 463 phút
Hao phí thời gian / 1 đvsp = 463 / 30 = 15,43 phút / 1 đvsp.
Thời gian tác nghiệp / 1đvsp : TTN = 343 / 30 = 11,43 phút / 1 đvsp
Vậy qua 3 ngày thực hiện ta có thời gian tiêu hao trung bình là:
Tổng thời gian tác nghiệp trung bình trong ngày 351 phút.
% thời gian tác nghiệp trong ngày = 351/480 ´ 100 = 73,13%
Tổng thời gian hao phí = TN + CK + NN + PV = 464,33 phút
Hao phí thời gian / 1 đvsp = 464,33 / 30 = 15,48 phút / 1 đvsp.
Thời gian tác nghiệp / 1đvsp : TTN = 351 / 30 = 10,23 phút / 1 đvsp
% hao phí thời gian /1đvsp khảo sát so với hao phí thời gian /1đvsp thực tế
12,84/ 15,48 ´ 100 =82,94%
Nhận xét : Đối với công việc đổ rót sản phẩm két VI15 % hao phí thời gian /1đvsp khảo sát so với hao phí thời gian /1đvsp thực tế là 82,94%
* Tình hình thực hiện của công nhân Nguyễn Khắc Đãng.
Phân xưởng : Gia công tạo hình.
Người quan sát: Trương Thị Thuỳ Vân.
Tên công nhân : Nguyễn Khắc Đãng CBCN : III
Ngày quan sát : 13,14 ,15 /3/2003
Công việc : Đổ rót sản phẩm xí xổm ST4 .
Tổ chức phục vụ nơi làm việc : Bảo đảm có đủ dụng cụ ,bảo hộ lao động, nguyên liệu, phảI tự đi lấy giá và giao nộp sản phẩm ,tự vệ sinh nơi làm việc.
Định biên : 24 khuôn / ngày
Ngày 13/3/2003
Kí hiệu
Thời gian hao phí
Lượng thời gian
% so với thời gian hao phí
TCK
TTN
TPV
TNN
TLP
20
393
55
0
12
4.17
81.88
11.45
0
2.5
Tổng
480
100%
Ngày 14/3/2003
Kí hiệu
Thời gian hao phí
Lượng thời gian
% so với thời gian hao phí
TCK
TTN
TPV
TNN
TLP
14
326
103
2
35
2.92
67.91
21.46
0.42
7.29
Tổng
480
100%
Ngày 15/3/2003
Kí hiệu
Thời gian hao phí
Lượng thời gian
% so với thời gian hao phí
TCK
TTN
TPV
TNN
TLP
13
361
59
7
40
2.71
75.21
12.29
1.46
8.33
Tổng
480
100%
Qua 3 ngày thực hiện ta có bảng cân đối thời gian tiêu hao trung bình cùng loại
Kí hiệu
Thời gian hao phí
Lượng thời gian
% so với thời gian hao phí
TCK
TTN
TPV
TNN
TLP
15.7
360
72.3
3
29
3.27
75
15.06
0.63
6.04
Tổng
480
100%
Đánh giá tình hình thực hiện của công nhân Đãng - đổ rót sản phẩm ST4:
Thực hiện ngày 13/3/2003 : 24 khuôn / ngày.
Tổng thời gian tác nghiệp trong ngày 393 phút.
% thời gian tác nghiệp trong ngày = 393/480 ´ 100 = 81,88%
Tổng thời gian hao phí = TN + CK + NN + PV =468 phút
Hao phí thời gian / 1 đvsp = 468 / 24 = 19,5 phút / 1 đvsp.
Thời gian tác nghiệp / 1đvsp : TTN = 393 / 24 = 13,1 phút / 1 đvsp
Thực hiện ngày 14/3/2003 : 24 khuôn / ngày.
Tổng thời gian tác nghiệp trong ngày 326 phút.
% thời gian tác nghiệp trong ngày = 326/480 ´ 100 = 67,92%
Tổng thời gian hao phí = TN + CK + NN + PV = 445 phút
Hao phí thời gian / 1 đvsp = 445 / 24 = 18,54 phút / 1 đvsp.
Thời gian tác nghiệp / 1đvsp : TTN = 326 / 24 = 13,58 phút / 1 đvsp
Thực hiện ngày 15/3/2003 : 24 khuôn / ngày.
Tổng thời gian tác nghiệp trong ngày 361 phút.
% thời gian tác nghiệp trong ngày = 361/480 ´ 100 = 63,96%
Tổng thời gian hao phí = TN + CK + NN + PV =440 phút
Hao phí thời gian / 1 đvsp = 440 / 24 = 18,33 phút / 1 đvsp.
Thời gian tác nghiệp / 1đvsp : TTN = 361 / 24 = 15,04 phút / 1 đvsp
Vậy qua 3 ngày thực hiện ta có thời gian tiêu hao trung bình là:
Tổng thời gian tác nghiệp trong ngày 360 phút.
% thời gian tác nghiệp trong ngày = 360/ 480 ´ 100 = 75%
Tổng thời gian hao phí = TN + CK + NN + PV =440 phút
Hao phí thời gian / 1 đvsp = 440 / 24 = 18,79 phút / 1 đvsp.
Thời gian tác nghiệp / 1đvsp : TTN = 360 / 24 = 15phút / 1 đvsp
% thời gian hao phí khảo sát so với thời gian hao phí thực tế là :
15,66 / 18,79 = 83,34%
Nhận xét : Đối với công việc đổ rót sản phẩm xí xổm ST4 % hao phí thời gian /1đvsp khảo sát so với hao phí thời gian /1đvsp thực tế là 83,34%
* Tình hình thực hiện của công nhân Tuyên.
Phân xưởng : Gia công tạo hình.
Người quan sát: Trương Thị Thuỳ Vân.
Tên công nhân : Hàng Thái Tuyên CBCN : III
Ngày quan sát : 16,17 ,18 /3/2003
Công việc : Đổ rót sản phẩm xí bệt VI1T
Tổ chức phục vụ nơi làm việc : Bảo đảm có đủ dụng cụ, bảo hộ lao động, nguyên liệu, phải tự đi lấy giá và giao nộp sản phẩm, tự vệ sinh nơi làm việc.
Định biên : 12 khuôn / ngày
Ngày 16 /3/2003
Kí hiệu
Thời gian hao phí
Lượng thời gian
% so với thời gian hao phí
TCK
TTN
TPV
TNN
TLP
14
390
24
0
52
2.92
81.25
5.0
0
10.83
Tổng
480
100%
Ngày 17 /3/2003
Kí hiệu
Thời gian hao phí
Lượng thời gian
% so với thời gian hao phí
TCK
TTN
TPV
TNN
TLP
16
374
44
12
34
3.33
77.92
9.17
2.5
7.08
Tổng
480
100%
Ngày 18 /3/2003.
Kí hiệu
Thời gian hao phí
Lượng thời gian
% so với thời gian hao phí
TCK
TTN
TPV
TNN
TLP
35
373
41
13
18
7.29
77.71
8.54
2.71
3.75
Tổng
480
100%
Qua 3 ngày thực hiện ta có bảng tiêu hao thời gian trung bình cùng loại :
Kí hiệu
Thời gian hao phí
Lượng thời gian
% so với thời gian hao phí
TCK
TTN
TPV
TNN
TLP
21.67
379
36.33
8.33
34.67
4.51
78.96
7.57
1.74
7.22
Tổng
480
100%
Đánh giá tình hình thực hiện của công nhân Hoàng Thái Tuyên - đổ rót sản phẩm xí bệt VI1T:
Thực hiện ngày 16/3/2003 : 12 khuôn / ngày.
Tổng thời gian tác nghiệp trong ngày 390 phút.
% thời gian tác nghiệp trong ngày = 390/480 ´ 100 = 81,25%
Tổng thời gian hao phí = TN + CK + NN + PV =428 phút
Hao phí thời gian / 1 đvsp = 428 / 12 = 35,67 phút / 1 đvsp.
Thời gian tác nghiệp / 1đvsp : TTN = 390 / 12 = 32.5 phút / 1 đvsp
Thực hiện ngày 17/3/2003 : 12 khuôn / ngày.
Tổng thời gian tác nghiệp trong ngày 374 phút.
% thời gian tác nghiệp trong ngày = 374/ 480 ´ 100 = 77,92%
Tổng thời gian hao phí = TN + CK + NN + PV =446 phút
Hao phí thời gian / 1 đvsp = 446 / 12 = 37,16 phút / 1 đvsp.
Thời gian tác nghiệp / 1đvsp : TTN = 374 / 12 = 31,17 phút / 1 đvsp
Thực hiện ngày 18/3/2003 : 12 khuôn / ngày.
Tổng thời gian tác nghiệp trong ngày 373 phút.
% thời gian tác nghiệp trong ngày = 373/480 ´ 100 = 77,71%
Tổng thời gian hao phí = TN + CK + NN + PV =462 phút
Hao phí thời gian / 1 đvsp = 462 / 12 = 38,5 phút / 1 đvsp.
Thời gian tác nghiệp / 1đvsp : TTN = 373 / 12 = 31,08 phút / 1 đvsp
Qua 3 ngày thực hiện ta có thời gian tiêu hao trung bình cùng loại là:
Tổng thời gian tác nghiệp trung bình trong ngày 379 phút.
% thời gian tác nghiệp trong ngày = 379/480 ´ 100 = 78,96%
Tổng thời gian hao phí = TN + CK + NN + PV =445,33 phút
Hao phí thời gian / 1 đvsp = 445,33 / 12 = 37,11 phút / 1 đvsp.
Thời gian tác nghiệp / 1đvsp : TTN = 379 / 12 = 31,58 phút / 1 đvsp
% thời gian hao phí khảo sát so với thời gian thực tế:
30,18 / 37,11 =81,33%
Nhận xét : Đối với công việc đổ rót sản phẩm xí bệt VI1T % hao phí thời gian /1đvsp khảo sát so với hao phí thời gian /1đvsp thực tế là 81,33%
Qua tình hình khảo sát thời gian làm việc của 3 công nhân của phân xưởng đổ rót Công ty sứ Thanh Trì thì thấy % hao phí thời gian khảo sát thấp hơn so với thời gian thực tế và chỉ đạt trên 80%. Do đó ta thấy mức thời gian để tính đơn giá trả lương cho công nhân chênh lệch so với thực hiện, không phản ánh đúng thực tế. Nên vấn đề trả lương chưa dúng với tình hình thực hiện của công nhân.
*Nguyên nhân
-Chất lượng đội ngũ công nhân chưa ca, tỷ lệ sai hỏng trong sản xuất còn nhiều.
-Do khâu tổ chức quản lý còn chưa nghiêm nên công nhân tự do đi lại trong thời gian làm việc, nói chuyện, ra ngoài uống nước.
-Diện tích sản xuất chật hẹp nên mất thời gian để sắp xếp chỗ xếp mộc.
-ý thức trách nhiệm của người công nhân chưa cao.
-Công tác tổ chức phục vụ nơi làm việc chưa tốt, công nhân mất nhiều thời gian để dọn vệ sinh tạo điều kiện nói chuyện gây nên thời gian lãng phí, do đó rút ngắn thời gian tác nghiệp trong ca.
4.2.Các chỉ tiêu định mức xây dựng được:
Xây dựng mức cho 3 sản phẩm đã khảo sát ở công đoạn đổ rót.
*Dự tính định mức thời gian:
Qua khảo sát 3 ngày làm việc của sản phẩm két VI15 ta có :
Bảng 8: Bảng cân đối thời gian tiêu hao trung bình cùng loại sản phẩm két VI15
Kí hiệu
Thời gian hao phí thực tế
Lượng thời gian tăng(+), giảm(-)
Thời gian dự tính định mức
Lượng TG
% so với TG quan sát
Lượng TG
% so với TG quan sát
CK
TN
PV
NN-NC
LP
13
351
73,67
14,67
27,66
2,71
73,14
15,34
3,06
5,75
+1
+45
-18,67
+0,33
14
396
55
15
2,92
82,5
11,46
3,12
Tổng
480
100%
480
100%
Qua bảng xác định thời gian tiêu hao trung bình cùng loại thực tế, từ khảo sát thực tế tại nơi làm việc em dự tính thời gian tiêu hao định mức dự tính như sau:
-Thời gian chuẩn kết (CK) là 15 phút. Thời gian này gồm: Thời gian chuẩn bị dụng cụ, đổ hồ thừa vào bể , chuyển sản phẩm sau khi sửa mộc,và các công việc chuẩn bị khác.
-Thời gian phục vụ (PV) là 55 phút, gồm có thời gian lắp phễu đổ hồ, vệ sinh nơi làm việc và dụng cụ, thu hồ thừa, chuyển dây khí. Thời gian phục vụ giảm đi 18,67 phút vì qua khảo sát thấy thời gian dọn vệ sinh nơi làm việc và dụng cụ mất rất nhiều thời gian chiếm phần lớn thời gian phục vụ. Công ty để người công nhân tự dọn vệ sinh lấy nên làm cho nơi làm việc rất bụi gây mất vệ sinh. Do đó Công ty nên có một bộ phận phục vụ sẽ dọn vệ sinh sau khi công nhân đã về.
Thời gian nghỉ ngơi nhu cầu cần thiết là 15 phút. Qua khảo sát thấy thời gian nhu cầu chủ yếu là ngồi nghỉ sau khi đổ rót 2-3 phút, sau khi hoàn thiện mộc là 3-4 phút, sau khi tháo khuôn là 2-3 phút. Mùa hè cần 4-5 phút uống nước. Vì đặc điểm của công đoạn đổ rót này phải cần thời gian chờ cho sản phẩm khô và đổ rót thủ công nên cường độ lao động không cao. Hơn nữa, bộ phận này làm theo gì hành chính nên có thời gian nghỉ trưa 90 phút phục hồi được sức khoẻ sau một thời gian làm việc .
Trong kết cấu thời gian không tính thời gian lãng phí (LP), Công ty cần phải có biện pháp khắc phục thời gian lãng phí này như: đi muộn, về sớm, bỏ ra ngoài uống nước, nói chuyện, tự do đi lại trong phân xưởng, máy móc hỏng...Cần phải giáo dục kỷ luật lao động cho công nhân các tổ trưởng theo dõi giám sát xếp loại công nhân trong tổ hàng ngày và có hình thức khen thưởng, kỷ luật đối với các vi phạm nêu trên. Công ty cần phải có kế hoạch sửa chữa máy móc, dụng cụ, lắp thêm thiết bị phục vụ sản xuất (như ống đổ hồ, dây khí) tránh tình trạng máy hỏng công nhân phải ngồi chờ lâu.
Thời gian tác nghiệp trong ngày là 396 phút.
Đối với sản phẩm xí xổm ST4
Bảng 9: Bảng cân đối thời gian tiêu hao trung bình cùng loại sản phẩm xí xổm ST4.
Kí hiệu
Thời gian hao phí thực tế
Lượng thời gian tăng(+), giảm(-)
Thời gian dự tính định mức
Lượng TG
% so với TG quan sát
Lượng TG
% so với TG quan sát
CK
TN
PV
NN-NC
LP
17,5
360
72,3
3
29
3,27
75
15,06
0,63
6,04
-3,5
+26
-7,3
+12
14
386
65
15
2,92
80,42
13,54
3,12
Tổng
480
100%
480
100%
Thời gian chuẩn kết (CK) là 14 phút, gồm thời gian chuẩn bị dụng cụ đổ hồ thừa vào bể , chuyển sản phẩm sau khi sửa mộc, và các công việc chuẩn bị khác.
Thời gian phục vụ là 65 phút . Bởi sản phẩm xí xổm ST4 phải có thêm công đoạn tháo hồ thừa nên thời gian phục vụ sẽ tăng do hao phí thời gian để vệ sinh xô, thu hồ thừa.
Thời gian nghỉ ngơi giống như sản phẩm két là 15 phút.
Thời gian tác nghiệp còn lại trong ngày là 386 phút.
Đối với sản phẩm xí bệt VI1T
Bảng 10: Bảng cân đối thời gian tiêu hao trung bình cùng loại
sản phẩm xí bệt VI1T.
Kí hiệu
Thời gian hao phí thực tế
Lượng thời gian tăng(+), giảm(-)
Thời gian dự tính định mức
Lượng TG
% so với TG quan sát
Lượng TG
% so với TG quan sát
CK
TN
PV
NN-NC
LP
21,67
379
36,33
8,33
34,67
4,51
78,96
7,57
1,74
7,22
-1,67
+26
+3,67
+6,67
20
405
40
15
4,17
84,38
8,33
3,12
Tổng
480
100%
480
100%
Thời gian chuẩn kết (CK) là 20 phút, gồm thời gian chuẩn bị dụng cụ đổ hồ thừa vào bể , chuyển sản phẩm sau khi sửa mộc, và các công việc chuẩn bị khác.
Thời gian phục vụ là 40 phút . Bởi sản phẩm xí bệt VI1T phải có thêm công đoạn tháo hồ thừa nên thời gian phục vụ sẽ tăng do hao phí thời gian để vệ sinh xô, thu hồ thừa. Nhưng do sản phẩm định biên ít nên thời gian phục vụ ít hơn các sản phẩm khác.
Thời gian nghỉ ngơi giống như sản phẩm két là 15 phút.
Thời gian tác nghiệp còn lại trong ngày là 405 phút.
*Dự tính định mức sản lượng :
Qua bấm giờ xác định được thời gian tác nghiệp một sản phẩm chi tiết (ttn) và qua chụp ảnh thời gian ngày làm việc dự tính được thời gian tác nghiệp trong ngày(TTN). Từ đó, ta xây dựng được mức sản lượng (MSL).
MSL = TTN / ttn
Trong đó : MSL : Mức sản lượng .
TTN : Thời gian tác nghiệp ca.
ttn : Thời gian tác nghiệp một sản phẩm
Đối với sản phẩm két VI15:
Thời gian tác nghiệp một sản phẩm là : 11,7 phút/1đvsp.
Thời gian tác nghiệp trong ngày dự tính là :396 phút.
MSL =396 / 11,7 = 34 sản phẩm (khuôn)/ngày
ị MTG = 480 / 34 = 14,12 phút / 1đvsp.
Vậy xây dựng được mức sản lượng cho sản phẩm két là 34 khuôn /ngày và mức thời gian mới là 14,12 phút/ 1đvsp
Đối với sản phẩm xí xổm ST4:
Thời gian tác nghiệp một sản phẩm là : 15 phút/1đvsp.
Thời gian tác nghiệp trong ngày dự tính là :386 phút.
MSL =386 / 15 = 26 sản phẩm (khuôn)/ngày
ị MTG = 480 / 26 = 18,46 phút / 1đvsp.
Vậy xây dựng được mức sản lượng cho sản phẩm két là 26 khuôn /ngày và mức thời gian mới là 18,46 phút/ 1đvsp
Đối với sản phẩm két VI15:
Thời gian tác nghiệp một sản phẩm là : 31,58 phút/1đvsp.
Thời gian tác nghiệp trong ngày dự tính là : 405 phút.
MSL =405 / 31,58 = 13 sản phẩm (khuôn)/ngày
ị MTG = 480 / 13 = 36,92 phút / 1đvsp.
Vậy xây dựng được mức sản lượng cho sản phẩm két là 13 khuôn /ngày và mức thời gian mới là 36,92 phút/ 1đvsp
Bảng 11: Bảng tổng hợp kết quả xây dựng mức.
Stt
Sản phẩm
MTG dự tính
MSL dự tính
1
2
3
Két VI15
Xí xổm ST4
Xí bệt VI1T
396
386
405
34
26
13
Điều kiện tổ chức thực hiện định mức mới.
Tổ chức quản lý sản xuất.
*Tổ chức sản xuất.
Với những sản phẩm sản xuất thường xuyên cung cấp cho thị trường trong nước thì dựa vào kế hoạch sản xuất đưa ra mức sản lượng sản xuất mỗi tháng. Còn với sản phẩm đặt hàng trong thời gian ngắn thì phải xác định thời gian giao hàng phù hợp với điều kiện sản xuất của Công ty. Tránh tình trạng thời gian quá ngắn dẫn đến phải bố trí kéo dài thời gian sản xuất và phải bố trí làm thêm giờ. Điều này sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ và khả năng làm việc của công nhân từ đó mà không hoàn thành mức đề ra.
Phải có biện pháp cung cấp đầy đủ nguyên vật liệu nhằm ổn định sản xuất. Bộ phận sửa chữa luôn phải đi kiểm tra máy và có mặt kịp thời để sửa chữa khi có sự cố xảy ra.
*Tổ chức quản lý
Công tác quản lý trước tiên thuộc về trách nhiệm của phòng Tổ chức lao động . Để người lao động thực hiện đầy đủ yêu cầu thì cần phải đề ra nội quy yêu cầu đối với công nhân. Cần phải quản lý chặt hơn các công việc vấn đề như:
-Quản lý chặt chẽ giờ giấc làm việc của công nhân. Không cho phép công nhân tự do đi lại trong phân xưởng, không ra ngoài uống nước, không đến muộn về sớm.
-Tạo mọi điều kiện thuận lợi để người lao động làm việc với hiệu quả cao nhất về cách tổ chức sản xuất, tổ chức phục vụ nơi làm việc .
-Quan tâm đến nhu cầu vật chất, văn hoá, tinh thần cho công nhân .
-Quan tâm đến các quyền lợi của người lao động về các chế độ bảo hiểm xã hộ, y tế, trợ cấp thai sản...
-Đẩy mạnh vai trò của Đảng Đoàn, Hội phụ nữ động viên thăm hỏi công nhân khi ốm đau, khó khăn .
Tất cả những hoạt động đó tạo động lực rất mạnh mẽ đối với người lao động, làm cho họ hứng thú làm việc góp phần hoàn thành và vượt mức
Điều kiện làm việc.
- Điều kiện lao động có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoàn thành mức. Cần phải khắc phục những tác động của điều kiện lao động đến việc hoàn thành mức.
- Tính đơn điệu:
Cần có sự luân chuyển trong sản xuất giữa các sản phẩm có qui trình công nghệ tương tự nhau. Chẳng hạn, một thời gian làm sản phẩm két VI15, một thời gian sau làm sản phẩm VI14... nhằm tạo sự hứng khởi mới cho công nhân trong sản xuất, làm giảm sự nhàm chán đơn điệu trong sản xuất.
- Nhiệt độ tại nơi làm việc:
Trong phân xưởng vì mật độ công nhân đông, nhiệt toả ra từ các loại máy móc nên nhiệt độ trong phân xưởng luôn cao hơn nhiệt độ bên ngoài từ 3 - 50C. Công việc sản xuất thì nặng nhọc nên nhiệt độ cao làm cho công nhân rất nhanh bị mệt mỏi. Cần phải lắp đặt thêm các quạt thông gió để giảm bớt sự nóng bức và giảm độ bụi. Nên sử dụng máy hút bụi để giảm độ bụi, tránh các bệnh về mắt, hô hấp.
- Chế độ làm việc, nghỉ ngơi:
Với thời gian làm việc như hiện nay ở Công ty là hợp lí. Tuy nhiên, công ty cần bố trí nơi nghỉ trưa cho công nhân giúp họ có khả năng hồi phục sức khoẻ sau giờ làm việc buổi sáng để tiếp tục làm buổi chiều và còn tránh tình trạng ra quán ngồi uống nước hoặc về nhà nghỉ là nguyên nhân đi muộn vào buổi chiều.
Công ty phải sắp xếp để một tuần mỗi công nhân được nghỉ một ngày(có thể nghỉ luân phiên nhau trong tuần), tránh tình trạng như hiện nay công nhân làm việc cả ngày nghỉ và ngày lễ không có thời gian nghỉ ngơi để phục hồi sức khoẻ.
Bồi dưỡng trình độ tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ của người lao động.
Chiến lược sản xuất của công ty ngày càng mở rộng sản xuất cùng với tăng cả về số lượng và chất lượng lao động. Để đáp ứng yêu cầu đó, công ty sứ Thanh Trì đã thường xuyên tổ chức thi tay nghề, thi thợ giỏi, nâng bậc. Tuy nhiên, yêu cầu về chất lượng sản phẩm ngày càng cao nên tay nghề và ý thức hiện nay của công nhân trong công ty vẫn chưa đáp ứng. Bởi vẫn còn tình trạng lãng phí thời gian rất lớn, tỷ lệ sản phẩm hỏng nhiều.
Một yêu cầu đặt ra là phải nâng cao chất lượng đào tạo công nhân. Từ khâu tuyển chọn phải chú ý đảm bảo yêu cầu sức khoẻ và trình độ văn hoá. Ngoài ra việc đào tạo về trình độ còn cần phải đào tạo về ý thức và tác phong công nghiệp của người lao động cụ thể.
- Có ý thức năng lực tự chủ trong sản xuất, biết vận hành hoàn hảo máy móc thiết bị, hiểu được quy trình sản xuất ra sản phẩm.
- Biết tự tổ chức nơi làm việc của mình ngăn nắp, an toàn, khoa học.
- Làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, thực hiện đúng các điều lệ, chế độ làm việc và quy trình kỹ thuật.
- Làm việc một cách khoa học, bất kỳ một việc gì dù lớn hay nhỏ đều có sự chuẩn bị chu đáo. Đồng thời biết phân tích có cơ sở khoa học các chỉ tiêu định mức cho sản phầm đang làm để tìm ra biện pháp thực hiện và cải tiến kỹ thuật tốt.
Phân công và hiệp tác lao động.
Trong công ty trình độ chuyên môn, tay nghề của mỗi công nhân là khác nhau nên khả năng hoàn thành mức của mỗi người cũg khác nhau. Để cho người lao động hoàn thành và vượt mức để ra thì cần phải phân công và hiệp tác lao động . Việc phân công tiến hành như sau:
- Bố trí sắp xếp người lao động làm các sản phẩm có cấp bậc công việc phù hợp với cấp bậc công nhân.
- Quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm, công việc phải làm của mỗi tổ, mỗi bộ phận sản xuất. Tránh tình trạng để chồng chéo công việc mà không có bộ phận nào có trách nhiệm giải quyết.
- Đối với mỗi loại sản phẩm cần có bản mô tả chi tiết các thao tác phải thực hiện và yêu cầu kỹ thuật của các thao tác đó nhằm mục đích giảm bớt sản phẩm sai, hỏng.
- Cùng với việc phân công lao động thì cần phải chú ý hiệp tác lao động giữa các cá nhân, các tổ sản xuất trong phân xưởng. Trong quá trình đổ rót thì việc tháo và lắp khuôn yêu cầu phải có sự hiệp tác của các cá nhân trong tổ. Với những công nhân có trình độ tay nghề kém hay mới vào làm thì bố trí họ gần những công nhân có tay nghề giỏi.
- Lựa chọn hình thức phân công và hiệp tác lao động hợp lý là điều kiện để nâng cao khả năng thực hiện mức của công nhân cũng như nâng cao năng suất lao động của công ty.
Tổ chức phục vụ nơi làm việc.
Tổ chức phục vụ nơi làm việc phải tốt, cung cấp đầy đủ nguyên vật liệu, bố trí sắp xếp thuận tiện để người công nhân không bị mất nhiều thời gian lãng phí trong sản xuất.
- Có bộ phận phục vụ đảm nhận các bộ phận phụ như dọn vệ sinh nơi làm việc.
- Bộ phận sửa chữa luôn có mặt kịp thời sửa chữa nhanh những sự cố để công nhân không phải chờ lâu.
- Mở rộng diện tích sản xuất, đảm bảo nơi xếp sản phẩm mộc, không mất thời gian vào việc tìm chỗ để giá xếp mộc. Nên tách phân xưởng chế tạo khuôn ra thành một phân xưởng sản xuất riêng, như vậy sẽ mở rộng được khu vực sản xuất của các phân xưởng khác thêm khoảng 1000 m2. Nhất là cần có khu để mộc sau khi hoàn thiện và sau khi sấy.
Trình độ bộ phận làm công tác định mức.
Muốn cho công tác định mức lao động được tốt thì trước tiên cần phải hoàn thiện bộ máy làm công tác định mức. Trong đó khâu quan trọng nhất là việc ngày càng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ định mức, phù hợp với điều kiện, yêu cầu của công tác định mức tại công ty và phù hợp với sự tiến bộ, phát triển nói chung của công tác định mức lao động trong quá trình tổ chức lao động của xã hội.
Vấn đề cán bộ định mức tại công ty sứ Thanh Trì cần có một số biện pháp sau:
- Thứ nhất: Cần có chính sách đào tạo bồi dưỡng về trình độ chuyên môn cho cán bộ làm công tác định mức bởi trình độ chuyên môn của cán bộ làm công tác định mức quyết định đến sự tân tiến hay lạc hậu và mức độ chính xác của mức xây dựng được. Cụ thể là cán bộ làm công tác định mức thì phải có bằng tốt nghiệp (hay chứng chỉ) chuyên ngành kinh tế lao động hoặc qua lớp đào tạo về kinh tế lao động, quản trị nhân lực.
- Thứ hai: Cần bố trí thêm 1-2 người có am hiểu về định mức để hỗ trợ cho cán bộ định mức trong quá trình xây dựng mức, bởi khối lượng công việc khá lớn thì một người khó có thể hoàn thành tốt được. Bởi lẽ, công việc định mức cần nhiều thời gian và sức lực, mà Công ty sứ Thanh Trì có quy mô khá lớn (hơn 40 sản phẩm các loại) việc tiến hành định mức cho cả công nhân sản xuất và bộ phận quản lý thì một cán bộ chuyên trách như hiện nay không thể hoàn thành nhiệm vụ tốt được.
Kết luận
Như vậy, công tác định mức là một yếu tố không thể thiếu trong việc tổ chức lao động, tổ chức sản suất của bất kỳ một doanh nghiệp nào - cũng như ở công ty sứ Thanh Trì. Nó là cơ sở, là nền tảng để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả. Giúp doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và đồng thời nó là cơ sở để phân phối theo lao động công bằng và bố trí sử dụng lao động hợp lý.
Từ nguồn vốn kiến thức về định mức lao động đã học được ở trường trong 4 năm qua em đã vận dụng vào phân tích thực trạng thực hiện định mức lao động tại công ty sứ Thanh Trì. Trong thời gian 4 tháng thực tập tại Công ty sứ Thanh Trì với tinh thần làm việc nghiêm túc để nghiên cứu về định mức lao động tại Công ty. Từ đó, em đã xây dựng được các mức sản lượng, mức thời gian mới và mạnh dạn đề xuất một số giải pháp hy vọng sẽ góp phần vào việc hoàn thiện công tác định mức lao động tại công ty sứ Thanh Trì. Giúp cho công tác định mức của Công ty sẽ được xây dựng trên cơ sở khoa học và đưa ra được các mức có căn cứ khoa học.
Bài báo cáo này mới chỉ nghiên cứu xây dựng định mức tại bộ phận đổ rót cho một số sản phẩm là két VI15, bệt VI1T và xí xổm ST4. Với hướng nghiên cứu này cán bộ định mức tại Công ty có thể vận dụng nghiên cứu tiếp cho các sản phẩm khác tại các phân xưởng và bộ phận khác nhau trong Công ty và có thể vận dụng vào việc xây dựng định mức lao động đối với các Công ty khác.
Đây là một đề tài hay nhưng thực hiện rất khó khăn bởi cần nhiều thời gian và sự chính xác. Hơn nữa, nó lại đáp ứng yêu cầu xây dựng lại định mức lao động tại Công ty sứ Thanh Trì hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo Tiến sĩ Nguyễn thị Thiềng cũng như toàn thể cán bộ công nhân viên tại Công ty sứ Thanh Trì đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ, chỉ bảo tận tình cho em trong thời gian qua để em có thể hoàn thành được đề tài nghiên cứu cho bài báo cáo thực tập tốt nghiệp này.
Bởi thời gian thực tập nghiên cứu và khả năng hiểu biết có hạn nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo chân thành của các thầy cô để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
Tài liệu phòng Tổ chức lao động Công ty sứ Thanh Trì.
Giáo trình định mức lao động - NXB LĐ- XH - Trường Cao đẳng LĐXH - 2000
Giáo trình Tổ chức lao động khoa học trong xí nghiệp Tập 1 - NXB Giáo dục - Trường ĐHKTQD - 1994.
Tổ chức lao động khoa học Tập 2 - NXB Giáo dục - Trường ĐHKTQD - năm 1994
Bộ luật lao động Nước cộng hoà XHCN Việt Nam - NXB Chính trị quốc gia - Năm 2003.
Tạp trí lao động - xã hội .
Luận văn các khoá 39, 40 khoa Kinh tế Lao động.
Các tài liệu tham khảo khác.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0096.doc