Tài liệu Hoàn thiện công tác định giá doanh nghiệp tại Công ty kim khí Hà Nội: ... Ebook Hoàn thiện công tác định giá doanh nghiệp tại Công ty kim khí Hà Nội
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác định giá doanh nghiệp tại Công ty kim khí Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời mở đầu 4
Chương I. Cơ sở lý luận về định giá doanh nghiệp 5
1.1. Doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp 5
1.1.1. Lý thuyết chung về doanh nghiệp 5
1.1.2. Giá trị doanh nghiệp 5
1.2. Định giá doanh nghiệp là gì 6
1.3. Sự cần thiết phải định giá doanh nghiệp 7
1.4. Các nhân tố tác động đến giá trị doanh nghiệp 8
1.4.1. Yếu tố thuộc môi trường vĩ mô 9
1.4.2. Các yếu tố thuộc môi trường ngành 10
1.5. Các phương pháp định giá doanh nghiệp 12
1.5.1. Phương pháp định giá doanh nghiệp theo tài sản 13
1.5.1.1. Khái niệm 13
1.5.1.2. Đối tượng áp dụng 13
1.5.1.3. Quy trình định giá doanh nghiệp theo phương pháp tài sản 13
1.5.1.4. Xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản 16
1.5.1.5. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp tài sản 20
1.5.2. Phương pháp định giá doanh nghiệp theo dòng tiền chiết khấu 22
1.5.2.1. Khái niệm 22
1.5.2.2. Đối tượng áp dụng 22
1.5.2.3. Căn cứ xác định 22
1.5.2.4. Công thức xác định 22
1.5.2.5. Ưu điểm và nhược điểm phương pháp DCF 25
1.5.3. Các phương pháp khác 27
1.5.3.1. Phương pháp lợi nhuận 27
1.5.3.2. Phương pháp chiết khấu cổ tức trong tương lai 28
1.5.3.3. Phương pháp hệ số giá trên thu nhập (P/E) 28
Chương II. thực trạng công tác định giá doanh nghiệp tại công ty kim khí Hà Nội 30
2.1. Vài nét khái quát về công ty 30
2.1.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển 30
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm kinh doanh của công ty 30
2.1.2.1. Chức năng 30
2.1.2.2. Nhiệm vụ 31
2.1.2.3. Đặc điểm kinh doanh của công ty 31
2.1.2.4. Mạng lưới kinh doanh của công ty 32
2.1.3. Tổ chức quản lý của công ty 34
2.2. Thực trạng định giá tại công ty kim khí Hà Nội 36
2.2.1. Căn cứ xác định 36
2.2.2. Hồ sơ xác định giá trị doanh nghiệp 38
2.2.3. Xác định giá trị doanh nghiệp công ty kim khí Hà Nội 39
2.2.3.1. Nguyên tắc định giá 41
2.2.3.2. Phương pháp tính (Phương pháp tài sản) 43
2.2.4. Nhận xét công tác định giá doanh nghiệp tại công ty kim khí Hà nội 51
2.2.4.1. Nguyên nhân tăng giảm tài sản trong ĐGDN tại công ty kim khí Hà Nội
51
2.2.4.2. Kết quả đạt được 55
2.2.4.3. Một số hạn chế 56
2.2.5. Nhận xét chung về quy chế ĐGDN của Nhà nước 57
Chương III. Giải pháp hoàn thiện công tác ĐGDN tại công ty kim khí Hà Nội 60
3.1. Phương hướng phát triển của công ty 60
3.1.1. Mục tiêu, kế hoạch 60
3.1.1.1. Mục tiêu 60
3.1.1.2. Kế hoạch kinh doanh của công ty sau CPH 60
3.1.2. Phương hướng phát triển của công ty 61
3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác ĐGDN tại công ty kim khí Hà Nội 62
3.3. Kiến nghị với Nhà nước 66
Kết luận 69
Tài liệu tham khảo 70
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển hướng tới một nền kinh tế thị trường và từng bước CNH-HĐH. Quá trình này đã đặt ra những yêu cầu rất cấp bách đối với những DN trên nhiều lĩnh vực như vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, sức cạnh tranh.
Cũng trong xu thế vận động của nền KTTT, các hoạt động sáp nhập, mua lại, hợp nhất hay thành lập các liên doanh... thường diễn ra một cách thường xuyên. Cơ sở nền tảng của các hoạt động này đều dựa vào các kết quả đánh giá và xác định GTDN. Đồng thời, các kết quả đánh giá vể triển vọng của DN cũng là cơ sở cho các tổ chức, các cá nhân và công chúng đầu tư ra quyết định đầu tư vào các loại chứng khoán do DN phát hành trên các thị trường tài chính.Khi nền KTTT phát triển đến một trình độ nhất định, DN cũng trở thành một loại hàng hoá, và khi nhu cầu mua bán, đầu tư rộng rãi trên thị trường thì hoạt động Định giá DN cũng trở nên sôi nổi và ngày càng được chú trọng.
Tiến hành ĐGDN là đi xác định giá trị thực tế của DN. Gía trị thực tế của DN là giá trị của toàn bộ tài sản hiện có của DN mà có tính đến khả năng sinh lời của DN trong tương lai.
Không nằm ngoài xu thế vận động của nền KTTT, công ty Kim khí Hà Nội gần đây cũng tiến hành xác định GTDN khi CPH công ty. Trong quá trình định giá,công ty dã gặp một số khó khăn trong lựa chọn phương pháp định giá,kiểm kê phân loại tài sản, xác định nguyên giá, chất lượng còn lại của tài sản...Những khó khăn này khiến công tác định giá DN không được tiến hành nhanh chóng, kết quả tính thiếu chính xác. Vì vậy, trong quá trình thực tập tại công ty, em đã nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện công tác định giá DN tại công ty kim khí Hà Nội” mong được góp một phần nhỏ bé để nâng cao chất lượng ĐGDN cho công ty, từ đó tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các chủ thể quan tâm đến kết quả định giá.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về ĐGDN
Chương II: Thực trạng công tác ĐGDN tại công ty kim khí Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện công tác ĐGDN
Chương I : Cơ sở lý luận về định giá doanh nghiệp
1.1.Doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp.
1.1.1.Lý thuyết chung về doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một thuật ngữ chỉ các tổ chức kinh tế, một tổ chức kinh tế chỉ được gọi là doanh nghiệp nếu nó được thừa nhận về mặt pháp luật trên một số tiêu chuẩn nào đó. Pháp luật các quốc gia thường xây dựng tiêu chuẩn về : mức vốn tối thiểu, mục tiêu hoạt động, ngành nghề kinh doanh, địa điểm kinh doanh và tư cách công dân đứng ra kinh doanh, để từ đó Nhà nước có cơ sở trao cho những tổ chức kinh tế này những quyền lợi và nghĩa vụ trên một tư cách mới đó là doanh nghiệp.
Theo luật doanh nghiệp số 13/1999/QH10 ngày 12 tháng 6 năm 1999 của nước CHXHCN Việt Nam thì: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Xét theo mục tiêu hoạt động, người ta chia doanh nghiệp thành:DN kinh doanh và DN công ích.
DN kinh doanh là DN hoạt động chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận
DN công ích chủ yếu là DN Nhà nước, hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà Nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ Quốc phòng, an ninh.
Bản thân thuật ngữ DN khi ra đời đã hàm chứa một điều là nó lập ra để kinh doanh, để tìm kiếm thu nhập, tối đa hoá giá trị vốn chủ sở hữu. Chính vì vậy, trong chuyên đề này em chỉ nghiên cứu DN ở loại hình DN kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận.
1.1.2 Giá trị doanh nghiệp
DN là một tổ chức kinh tế chứ không giống như nhiều TS thông thường. Nó là một thực thể hoạt động, thông qua sự hoạt động đó mà người ta nhận ra DN. Mặt khác, DN không phải là tập hợp các loại TS vào với nhau, khi thực hiện phá sản, DN không còn tồn tại với tư cách của một tổ chức kinh doanh nữa. Do vậy, GTDN là một khái niệm chỉ được dùng cho những DN đang còn hoạt động và sẵn sàng hoạt động.
DN là một hệ thống của nhiều TS, mà trong số đó có TS hữu hình như: nhà xưởng, thiết bị vật tư, đồng thời cũng có các TSVH như: lợi thế thương mại, giá trị bản quyền,... Đây là một đặc điểm quan trọng cần phải lưu ý trong quá trình định giá do không thể nhận biết một cách trực quan, các TSVH có thể bị lãng quên hoặc bỏ qua. Ngoài ra, việc đánh giá giá trị tạo nên bởi các TSVH nói chung khó khăn hơn giá trị tạo nên bởi TSHH.
Bản thân các yếu tố tạo nên giá trị của một DN luôn có sự thay đổi, luôn có sự tăng hoặc giảm, có sự xuất hiện hoặc biến mất của một số yếu tố nào đó. Chính vì vậy, GTDN luôn thay đổi theo thời gian, giá trị của DN là một khái niệm động.
Hơn nữa, do hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực khác nhau, mỗi DN thường có những đặc thù riêng. Và do đó trên nhiều phương diện, giữa các DN thường có những sự khác biệt lớn đặc biệt là DN thuộc các ngành khác nhau. Vì thế, giá trị DN cần được xác định trên cơ sở xem xét các yếu tổ đặc thù của từng ngành.
Các nhà đầu tư thành lập ra DN không nhằm vào việc sở hữu các TSCĐ, TSLĐ mà nhằm vào mục tiêu chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận, tìm kiếm thu nhập. Vì vậy, tại các nước có nền KTTT, GTDN được xác định là các khoản thu nhập trong quá trình sản xuất kinh doanh, theo đó, GTDN được đo bằng lượng thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư.
Tóm lại, GTDN là sự biểu hiện bằng tiền về các khoản thu nhập mà DN mang lại cho các nhà đầu tư trong quá trình sản xuất kinh doanh.
1.2. Định giá doanh nghiệp là gì?
Mỗi một hàng hoá có một giá trị nhất định của nó. Giá trị này là kết tinh của hao phí sức lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Chất của giá trị là lao động. Vì vậy, sản phẩm nào không có sức lao động được kết tinh trong đó thì nó không có giá trị. Sản phẩm nào mà hao phí sức lao động sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
DN cũng là một loại hàng hoá, và nó cũng có giá trị nhất định bởi cũng phải mất rất nhiều hao phí lao động thì mới có thể tạo dựng được nên một DN.
GTDN là một khái niệm cơ bản khác với giá bán DN trên thị trường.GTDN được đo bằng độ lớn của các khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư. Giá bán thực tế DN là mức giá được hình thành trên thị trường,có thể có khoảng cách rất xa so với đánh giá của các chuyên gia kinh tế và các nhà đầu tư. Giá mua, bán DN còn chịu sự tác động của các yếu tố về cung cầu “hàng hoá DN”, cung cầu về chứng khoán và cung cầu về tiền tệ trên thị trường.
GTDN vẫn tồn tại ngay cả khi không có việc mua bán, chuyển nhượng. GTDN chỉ đơn giản là một khái niệm được các nhà đầu tư, các chuyên gia sử dụng trong việc đánh giá tổng thể các khoản thu nhập mà DN có thể đem lại. Để xác định GTDN thường đòi hỏi các chuyên gia về thẩm định giá trị có kiến thức, có kinh nghiệm, có tính trung thực cao trong nghề nghiệp, có như vậy mới đảm bảo được tính trung thực, vô tư, khách quan, hạn chế sự chi phối của yếu tố thị trường làm xuyên tạc GTDN.
ĐGDN tức là xác định giá trị thực tế của DN. Giá trị thực tế của DN là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của DN có tính đến khả năng sinh lời trong tương lai của DN. Giá trị thực tế này được xác định trên cơ sở giá thị trường và chất lượng của tài sản tại thời điểm định giá. Trong đó giá trị thị trường là giá cả được hình thành trên thị trường, được thị trường chấp nhận trên cơ sở cân bằng của quan hệ cung-cầu.
1.3. Sự cần thiết phải ĐGDN
Có thể nói, dường như mỗi quyết định ở tầm vĩ mô cũng như vi mô về phát triển sản xuất kinh doanh đều ít nhiều liên quan đến việc ĐGDN. Việc đề ra các quyết định này luôn là công việc thường nhật của từng DN, trong từng ngành và giữa các khu vực của nền kinh tế,trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Sự cần thiết của ĐGDN xuất phát từ những đòi hỏi sau:
Thứ nhất: Giá trị của DN là cơ sở đầu tiên và quan trọng để ra các quyết định có tính chiến lược cấp DN về:
Lựa chọn loại hình kinh doanh, lựa chọn sản phẩm hoặc dịch vụ mà DN có hoặc sẽ có thế mạnh
Lựa chọn công nghệ sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ đã chọn, tổ chức nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới.
Đầu tư hoặc giải tư như: góp vốn liên doanh, liên kết, cổ phần hoá DN, khoán, cho thuê, sáp nhập hay giải thể, chia tách DN và chuyển nhượng quyền sở hữu (bán DN).
Đối với hoạt động mua bán, sáp nhập, hợp nhất hoặc chia tách DN, đây là loại giao dịch diển ra có tính chất thường xuyên và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Nó phản ánh các nhu cầu đi tìm nguồn tài trợ cho sự tăng trưởng và phát triển bằng các yếu tố bên ngoài, làm gia tăng một cách nhanh chóng tiềm lực tài chính, nhằm tăng cường khả năng tồn tại trong môi trường tự do cạnh tranh đối với các DN. Để thực hiện các giao dịch đó, đòi hỏi phải có sự đánh giá trên một phạm vi rộng lớn các yếu tố tác động đến DN, trong đó, GTDN là yếu tố có tính chất quyết định, là căn cứ trực tiếp để người ta thương thuyết với nhau trong quá trình mua bán, sáp nhập, hợp nhất, chia nhỏ DN. Đồng thời, khi thị trường chứng khoán VN phát triển thì nhu cầu ĐGDN càng trở nên cấp thiết.
Thứ hai: Khi DN phát hành chứng khoán, nhằm thu hút vốn trên thị trường, người ta cần phải xác định GTDN, có như vậy mới tính toán được số lượng cần thiết cho mỗi lần phát hành chứng khoán. Mặt khác, giá cả của chứng khoán được quyết định bởi giá trị thực của DN có chứng khoán được giao dịch, trao đổi trên thị trường. Vì vậy, trên thị phương diện quản lý vĩ mô, thông tin về GTDN được coi là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức, các hiệp hội kinh doanh CK kịp thời nhận ra sự biến động không bình thường của giá chứng khoán, nhận ra những dấu hiệu của hoạt động đầu cơ, thao túng thị trường, động cơ thâu tóm quyền kiểm soát DN, để từ đó sớm có những biện pháp cần thiết để ngăn chặn mối nguy cơ xảy ra khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ hiện tượng của một nền “kinh tế ảo”.
Thứ ba: Đối với các chủ nợ, các nhà đầu tư tiềm năng, các ngân hàng cho vay vốn, ĐGDN làm cơ sở để đưa ra các quyết định đầu tư và các quyết định cho vay. Một DN có cơ sở tài chính vững mạnh, có những cơ hội phát triển trên thị trường sẽ tạo tiền đề cho việc thu hút vốn đầu tư mở rộng hoạt động công ty. Ngược lại, một DN được định giá thấp sẽ có thể bị nhà đầu tư bỏ qua khi không quyết định đầu tư vốn và sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc vay vốn để mở rộng sản xuất.
Thứ tư: Ở cấp vĩ mô, giá trị của DN là một thông tin quan trọng để Chính phủ có thể đánh giá năng lực sản xuất hiện tại và tương lai của một ngành và của toàn bộ nền kinh tế, nhờ đó để đưa ra các chiến lược phát triển phù hợp.
Tất cả những nhận định trên có thể kết luận ĐGDN là nhu cầu cấp bách và thường xuyên, do vậy cần phải xây dựng được một hệ thống các phương pháp và tiêu chuẩn để hỗ trợ cho công tác ĐGDN này.
1.4. Các nhân tố tác động đến GTDN
Mỗi DN đều hoạt động trong những điều kiện cụ thể nào đó của môi trường kinh doanh. Các yếu tố môi trường tạo thành những tác lực tác động và hình thành những điều kiện ràng buộc, cưỡng chế đối với DN. Bởi vậy, khi tiến hành ĐGDN cần phải đánh giá những hoạt động của DN trong sự tương tác với môi trường, giữa tình hình hiện tại và tương lai của môi trường. Trên cơ sở đó xác định những cơ hội và nguy cơ mà môi trường có thể đem lại cho DN. Xuất phát từ những ý nghĩa nêu trên ta nghiên cứu các nhân tố tác động đến GTDN trên hai phạm vi là: các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô và các yếu tố thuộc môi trường vi mô.
1.4.1. Yếu tố thuộc môi trường vĩ mô
- Môi trường kinh tế_xã hội
DN luôn tồn tại trong một bối cảnh kinh tế cụ thể. Bối cảnh kinh tế đó được nhìn nhận thông qua hàng loạt các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất, các chỉ số trên thị trường chứng khoán… Các chỉ tiêu này tác động trực tiếp vào DN hay GTDN. Mỗi sự thay đổi nhỏ của các yếu tố trên cũng ảnh hưởng tới sự đánh giá về DN. Nền kinh tế luôn tăng trưởng với tốc độ cao, phản ánh nhu cầu đầu tư và tiêu dùng ngày càng lớn, chỉ số giá chứng khoán phản ánh đúng quan hệ cung cầu, đồng tiền ổn định, tỷ giá và lãi suất có tính kích thích đầu tư sẽ trở thành cơ hội tốt cho DN mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguợc lại, sự suy thoái kinh tế, giá chứng khoán bị thổi phồng mang dấu hiệu “ kinh tế ảo”, lạm phát phi mã là những dấu hiệu xấu đối với DN. Mọi sự đánh giá về DN, trong đó có GTDN sẽ bị đảo lộn.
Những thay đổi trong môi trường xã hội có thể tạo ra những cơ hội và nguy cơ đối với DN. Chẳng hạn, sự thay đổi về phong cách tiêu dùng của người dân, sự thay đổi về cơ cấu dân cư, tuổi thọ,… có thể là cơ hội cho một số DN này, song có thể là nguy cơ đối với DN khác.Ví dụ, khi có quy định cấm hút thuốc lá ở nơi công cộng, có thể là nguy hại cho ngành sản xuất thuốc lá, ngược lại, khi đời sống của người dân được nâng cao, tuổi thọ trung bình tăng thì xuất hiện nhiều cơ hội cho các DN trong ngành chăm sóc sức khoẻ.
Bởi vậy, khi ĐGDN cần xem xét các yếu tố dân cư, tuổi thọ, mức sống, phong cách sống, phong cách tiêu dùng và những tác động của nền kinh tế đối với hoạt động kinh doanh DN. Thông qua nghiên cứu các tiêu thức này có thể xác định tiềm năng phát triển của DN.
- Môi trường chính trị_Pháp luật
Sản xuất kinh doanh chỉ có thể ổn định và phát triển trong một môi trường ổn định về chính trị ở một mức độ nhất định. Sự bất ổn về chính trị, những cuộc bạo động…đều là những nguy cơ gây ra rủi ro lớn cho DN.
Hơn nữa, chính sách phát triển của một quốc gia thường có vai trò định hướng, chi phối toàn bộ các hoạt động kinh tế xã hội, trong đó có các hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, nếu Chính phủ chú trọng phát triển các ngành công nghệ cao thì những DN trong ngành này sẽ có nhiều cơ hội phát triển.Ngược lại, nếu CP chú trọng bảo vệ môi trường tự nhiên thì ngành sản xuất có nhiều chất thải, ô nhiễm môi trường như ngành giấy, dệt,…sẽ chịu sự kiểm soát chặt chẽ của các cơ quan bảo vệ môi trường. Hay những rào cản pháp lý như: các đạo luật, chính sách bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi trường, bảo vệ sự cạnh tranh tự do, chống độc quyền… có thể tạo ra cơ hội cho một nhóm DN này, song cũng có thể tạo ra những đe doạ với nhiều DN khác.
Như vậy, khi đánh giá DN cần xem xét tác động của yếu tố chính trị _ pháp luật đối với đối tượng định giá ở thời điểm hiện tại và tương lai. Đồng thời, cũng cần phải xem xét những đối sách mà DN dự kiến sẽ áp dụng khi các yếu tố môi trường chính trị _pháp luật thay đổi.
- Môi trường công nghệ
Những tiến bộ về công nghệ có tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống, và trong DN, tiến bộ công nghệ đã diễn ra các khuynh hướng sau:
Chu kỳ đổi mới công nghệ ngày càng ngắn hơn, nên tốc độ biến các ý tưởng thành các sản phẩm thương mại ngày càng nhanh hơn.
Vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn hơn, do chu kỳ đổi mới công nghệ ngày càng ngắn nên các DN có thể liên tục tung ra thị trường những sản phẩm mới, sản phẩm cải tiến. Do đó, ngày nay các sản phẩm có thể bị lạc hậu rất nhanh chóng.
Trên bình diện xã hội, tiến bộ công nghệ là những bước tiến nhảy vọt của nền văn minh nhân loại. Song trên giác độ DN trong cơ chế thị trường, đó không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức đối với sự tồn tại của mỗi DN. Sự thiếu nhạy bén trong việc áp dụng những thành tựu khoa học mới có thể là nguyên nhân đưa DN mau chóng đến chỗ phá sản. Chính vì lẽ đó, ĐGDN đòi hỏi phải xem xét chúng trong môi trường khoa học công nghệ.
1.4.2. Yếu tố thuộc môi trường vi mô ( môi trường ngành)
Phân tích và đánh giá môi trường ngành nhằm xác định vị thế của DN trong ngành mà nó hoạt động. Vị thế cạnh tranh của DN sẽ không thấy rõ nếu chỉ dựa vào những kết quả đánh giá môi trường vĩ mô. Khi đánh giá môi trường ngành cần xem xét những nội dung sau:
- Chu kỳ kinh doanh và triển vọng tăng trưởng ngành
Chu kỳ kinh doanh của một ngành thường gắn liền với mức tăng trưởng GNP của quốc gia và một số biến số khác, tuỳ theo tính chất riêng của từng ngành
Triển vọng tăng trưởng ngành có liên hệ chặt chẽ với chu kỳ kinh tế. Một ngành có triển vọng tăng trưởng mạnh có thể đem lại cho các DN trong ngành những cơ hội thuận lợi, thể hiện ở: tiềm năng mở rộng thị trường, khả năng cải thiện vị thế tài chính.
- Cạnh tranh trong ngành
Tình hình cạnh tranh trong ngành phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và những yếu tố này cũng thay đổi tuỳ theo ngành. Đồng thời, sự cạnh tranh giữa các DN chủ yếu diễn ra trên ba phương diện: giá cả, chất lượng sản phẩm và dịch vụ hậu thương mại( Dịch vụ bảo hành, sửa chữa)
Được sự ủng hộ từ phía Nhà nước trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, mức độ cạnh tranh giữa các DN trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế ngày càng trở nên quyết liệt hơn trong môi trường cạnh tranh được coi là mối nguy cơ trực tiếp đến sự tồn tại của DN. Do đó, đánh giá năng lực cạnh tranh, ngoài việc xem xét ba phương diện nêu trên thì còn phải xác đinh được số lượng DN tham gia cạnh tranh, năng lực thực sự và thế mạnh của họ là gì? đồng thời, phải chỉ ra những yếu tố và mầm mống có thể làm xuất hiện đối thủ mới. Có như thế mới kết luận đúng đắn vị thế và khả năng cạnh tranh của DN trên thị trường.
- Các nguồn cung ứng trong ngành
Cơ cấu thị trường và áp lực cạnh tranh trong ngành chịu ảnh hưởng trực tiếp của số lượng các nhà cung cấp các loại nguyên liệu, bán thành phẩm chủ yếu cho ngành.
Nếu các DN trong một ngành có quyền lựa chọn giữa nhiều nhà cung ứng thì các DN sẽ có thể được lợi và ngược lại. Mặt khác, nếu DN có thể tự cung ứng đầy đủ các loại nguyên vật liệu và bán thành phẩm chủ yếu thì sẽ có một vị thế vững vàng khi thị trường có sự biến động về giá cả nguyên vật liệu.
Trong quan hệ với nhà cung cấp, DN đóng vai trò như một “thượng đế”. Tuy nhiên, theo Michael Porter, một DN khách hàng sẽ bị lệ thuộc vào nhà cung ứng trong các tình huống sau:
Khi sản phẩm mua bán có ít hay không có sản phẩm thay thế và nó có vai trò quan trọng đối với người mua.
Khi DN không phải là khách hàng quan trọng của nhà cung ứng.
Khi sản phẩm có tính chuyên biệt hoá cao và việc thay đổi nhà cung ứng sẽ gây tốn kém cho khách hàng.
Như vậy, khi đánh giá cần xem xét vị thế DN với tư cách là khách hàng để xác định lợi thế (hay bất lợi) của nó trong mối quan hệ với nhà cung cấp.
1.5. Các phương pháp định giá doanh nghiệp
Định giá doanh nghiệp là một vấn đề phức tạp, đã có khá nhiều phương pháp ĐGDN, các phương pháp này được xây dựng trên hai tầm nhìn cơ bản của nhà đầu tư và nhà quản trị.
Mục tiêu của nhà đầu tư là độ an toàn của đồng vốn đã ra khỏi tay và khả năng sinh lời của nó. Mỗi đồng vốn bỏ ra phải thu về càng nhanh càng tốt, phải không ngừng sinh lời và sinh lời càng nhiều càng tốt.Trong hoạt động mua bán DN, nhà đầu tư quan tâm là khoản thu nhập dưới các hình thức khấu hao, lợi nhuận ròng, lợi tức cổ phần, giá trị nhượng bán thanh lý sẽ là thế nào? Nhà đầu tư chỉ quyết định mua DN khi có thể nhìn thấy các dòng tiền đó trong tương lai với một độ tin cậy nhất định về số lượng và thời điểm phát sinh các khoản tiền. Vì thế, các phương pháp ĐGDN nhà đầu tư đưa ra là các phương pháp hiện tại hoá dòng thu nhập thuần có thể mang lại trong tương lai, bao gồm một hệ thống các phương pháp hiện tại hóa dòng lợi tức cổ phần, phương pháp lợi nhuận, phương pháp chiết khấu dòng tiền…
Nếu nhà đầu tư quan tâm đến đồng vốn của mình bỏ ra bao nhiêu và thu về được bao nhiêu, còn nhà quản trị ít quan tâm đến điều này mà chủ yếu quan tâm đến tổng nguồn vốn được cấp phát và tỷ lệ sinh lời tối thiểu của tổng nguồn vốn mà ông ta hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tức là, ông ta chỉ có bổn phận làm ra một “cái bánh” rồi các nhà đầu tư chia nhau cái bánh đó. Mục tiêu của nhà quản trị là làm cho DN tồn tại, cũng vì thế mà động cơ trong hoạt động là tối đa hoá giá trị DN nhằm làm tăng tiềm lực tài chính, gia tăng khả năng tồn tại của DN.
Giá trị của DN trong con mắt của nhà quản trị là khả năng trường tồn của DN đó. Họ có khuynh hướng thuyết phục các cổ đông giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư. Chính vì những động cơ đó, các nhà quản trị thường tư vấn cho nhà đầu tư về giá trị DN thường dựa trên lượng tài sản thực của DN. Tức là các phương pháp như giá trị nội tại, giá trị thay thế… là những phương pháp định lượng các khoản thu nhập có thể trông thấy một cách rõ ràng, có độ tin cậy. Các phương pháp này sẽ thuyết phục được các nhà đầu tư ngại mạo hiểm, những người mà chưa tin tưởng ở những khoản thu nhập tiềm tàng có thể phát sinh trong DN.
Việc xem xét quan điểm của nhà đầu tư và nhà quản trị trong việc xác định giá trị DN có ý nghĩa quan với việc giải thích cơ sở lý luận của nhiều phương pháp khác nhau.
Trong chuyên đề này em xin đưa ra 3 nhóm phương pháp xác định GTDN là:phương pháp xác định theo tài sản, phương pháp xác định theo dòng tiền chiết khấu (DCF) và các phương pháp khác.
1.5.1. Phương pháp định giá doanh nghiệp theo tài sản
1.5.1.1 Khái niệm
Phương pháp ĐGDN theo tài sản là phương pháp xác định giá trị của một DN trên cơ sở giá trị thực tế của toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình của DN tại thời điểm định giá.
1.5.1.2 Đối tượng áp dụng
Đối tượng áp dụng phương pháp tài sản là các DN CPH, trừ những DN thuộc đối tượng phải áp dụng phương pháp dòng tiền chiết khấu sẽ trình bày ở phương pháp dòng tiền chiết khấu sau.
1.5.1.3.Quy trình ĐGDN theo phương pháp tài sản
Bước 1: Kiểm kê, phân loại tài sản và công nợ
Việc này được thực hiện bởi một hội đồng gọi là “hội đồng kiểm kê” bao gồm: giám đốc, kế toán trưởng, trưởng phòng kế toán, và một số thành viên khác theo quyết định của giám đốc.Hội đồng kiểm kê có nhiệm vụ chính là phân chia các loại tài sản theo các tiêu thức khác nhau và đánh giá giá trị cho từng loại tài sản cụ thể của DN.
Tài sản kiểm kê được phân loại theo các nhóm sau:
-Tài sản DN có nhu cầu sử dụng
-Tài sản DN không cần dùng, tài sản ứ đọng, tài sản chờ thanh lý theo quyết định của chủ sở hữu vốn Nhà nước tại DN.
-Tài sản hình thành từ quỹ phúc lợi, khen thưởng (nếu có)
-Tài sản thuê ngoài, vật tư, hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công, nhận đại lý, nhận ký gửi.
Yêu cầu kiểm kê xác định đúng số lượng và chất lượng của tài sản thực tế hiện có do DN đang quản lý, sử dụng, kiểm quỹ tiền mặt, đối chiếu số dư tiền gửi ngân hàng tại thời điểm xác định GTDN, xác định tài sản, tiền mặt thừa thiếu so với sổ kế toán, phân tích rõ nguyên nhân thừa thiếu.
Đối với nợ phải trả: Phải phân tích rõ các khoản nợ trong hạn, nợ quá hạn, nợ lãi, nợ phải trả nhưng không phải thanh toán.
Đối với nợ phải thu:+ Phân tích rõ nợ phải thu có khả năng thu hồi, nợ phải thu không có khả năng thu hồi, các khoản trả trước cho người cung cấp hàng hoá dịch vụ nhưng đã hạch toán hết vào chi phí kinh doanh như: tiền thuê đất, thuê nhà, tiền mua hàng,...để tính vào GTDN.
Bước 2: Xử lý tài chính đối với tài sản và công nợ
Mục đích việc xử lý này nhằm giải quyết dứt điểm những tồn tại về mặt hạch toán kế toán, xác định chế độ, trách nhiệm một cách rõ ràng đối với tài sản và chỉ ra tài sản nào sẽ được giao lại công ty cổ phần.
Đối với tài sản
Căn cứ vào kết quả kiểm kê, phân loại tài sản ở trên, DN xử lý tài sản theo cách sau:
- Tài sản thừa, thiếu phải phân tích rõ nguyên nhân và xác định rõ trách nhiệm của tổ chức cá nhân, với tài sản thiếu thì xử lý để bồi thường trách nhiệm vật chất, hạch toán vào kết quả kinh doanh, với tài sản thừa, nếu không xác định được nguyên nhân và không tìm được chủ sở hữu thì xử lý tăng vốn nhà nước.
- Tài sản không cần dùng, tài sản ứ đọng, tài sản chờ thanh lý: Đến thời điểm xác định GTDN, những tài sản này không được xử lý thì không tính vào GTDN. DN tiếp tục xử lý số tài sản này trước khi có quyết định GTDN.
- Tài sản phúc lợi được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách hoặc có nguồn gốc từ ngân sách, nếu DN CPH tiếp tục sử dụng được tính vào GTDN CPH.
Đối với nợ phải thu
- Với nợ phải thu không có khả năng thu hồi theo quy định của nhà nước về xử lý tồn đọng thì xác định rõ nguyên nhân,trách nhiệm cá nhân, tổ chức để xử lý, bồi thường theo quy định của pháp luật hiện hành. Phần tổn thất sau khi xử lý DN dùng nguồn dự phòng nợ phải thu khó đòi để bù đắp, nếu thiếu thì hạch toán vào kết quả kinh doanh của DN.
- Đối với các khoản tiền DN đã trả trước cho người bán nếu đã hạch toán vào chi phí kinh doanh, DN đối chiếu, hạch toán giảm chi phí tương ứng với phần hàng hoá, dich vụ chưa được cung cấp.
Đối với nợ phải trả
DN phải huy động các nguồn để thanh toán các khoản nợ đến hạn trả trước khi CPH hoặc thoả thuận với các chủ nợ để xử lý hoặc chuyển thành vốn góp cổ phần.
-Trong quá trình CPH, nếu DN có khó khăn về khả năng thanh toán các khoản nợ quá hạn do kinh doanh thua lỗ thì xử lý nợ theo quy định hiện hành của nhà nước về xử lý nợ tồn đọng
Đối với các khoản dự phòng lỗ lãi
-Các khoản dự phòng: giảm giá hàng tồn kho, nợ phải thu khó đòi, giảm giá chứng khoán, chênh lệch tỷ giá hạch toán vào kết quả kinh doanh của DN
- Các khoản trợ cấp, mất việc làm: DN sử dụng để trợ cấp cho lao động dôi dư trong quá trình CPH, nếu còn thì hạch toán vào kết quả kinh doanh.
- Các quỹ dự phòng rủi ro, dự phòng nghiệp vụ của hệ thống ngân hàng, bảo hiểm, các tổ chức tài chính được chuyển sang công ty cổ phần tiếp tục quản lý.
Quỹ dự phòng tài chính để bù lỗ (nếu có), bù đắp các khoản tài sản tổn thất, nợ không thu hồi được, số còn lại tính vào giá trị phần vốn nhà nước tại DN
- Các khoản lãi phát sinh để bù lỗ năm trước (nếu có), bù đắp các khoản tổn thất về tài sản không cần dùng, chờ thanh lý, giảm giá tài sản, nợ không có khả năng thu hồi, số còn lại phân phối theo quy định hiện hành trước khi xác định GTDN
- Các khoản lỗ tính đến thời điểm DN CPH chuyển thành công ty cổ phần, DN dùng quỹ dự phòng tài chính và lợi nhuận trước thuế đến thời điểm CPH để bù đắp. Trường hợp thiếu thì thực hiện các biện pháp xoá nợ ngân sách nhà nước, nợ ngân hàng và nợ quỹ hỗ trợ phát triển theo quy định hiện hành của Nhà nước về xử lý nợ tồn đọng.
Sau khi áp dụng các giải pháp trên mà DN vẫn còn lỗ thì được giảm trừ vốn nhà nước.
Đối với vốn đầu tư dài hạn vào các DN khác như: góp vốn liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, góp vốn thành lập công ty TNHH và các hình thức đầu tư dài hạn khác.
-Trường hợp DN có kế thừa liên doanh, phải tính giá trị vốn góp liên doanh vào giá trị DN theo nguyên tắc sau:
Nếu giá trị vốn đầu tư dài hạn của công ty Nhà nước tại DN khác được xác định thấp hơn giá trị ghi trên sổ kế toán thì giá trị ghi trên sổ kế toán của công ty nhà nước là cơ sở để xác định GTDN CPH
Nếu giá trị vốn góp của công ty nhà nước vào công ty cổ phần đã niêm yết trên TTCK được xác định trên cơ sở giá cổ phần giao dịch trên TTCK tại thời điểm xác định GTDN.
- Trường hợp các DN CPH không kế thừa các khoản đầu tư dài hạn vào DN khác thì báo cáo cơ quan có thẩm quyền để xử lý như như sau:
Thoả thuận bán lại vốn đầu tư cho đối tác hoặc các nhà đầu tư khác,
Hay chuyển giao cho DN khác làm đối tác.
Số dư bằng tiền của các quỹ khen thưởng, phúc lợi
Số dư bằng tiền của quỹ khen thưởng, phúc lợi được chia cho người lao động đang làm việc tại DN để mua cổ phần mà không phải chịu thuế thu nhập đối với khoản thu nhập này
Xác định GTDN theo phương pháp tài sản.
Phương pháp tài sản cho rằng, giá trị của một công ty bằng tổng của từng loại tài sản riêng trừ (-) đi các khoản nợ của công ty, người ta quan tâm đến hai nội dung đó là: Giá trị thực của các tài sản mà DN đang quản lý và khả năng mang lại thu nhập từ các tài sản hiện có.Vì vậy, công thức xác định GTDN theo phương pháp này sẽ là:
GTDN= Giá trị tài sản thuần + Giá trị lợi thế (nếu có)
Vo = VT-VN
Trong đó:
Vo:Giá trị tài sản thuần thuộc về chủ sở hữu
VT: Tổng giá trị tài sản mà DN đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh
VN: Giá trị các khoản nợ
Có hai cách tính về Giá trị tài sản thuần như sau:
Cách 1: Dựa vào số liệu tài sản và cơ cấu nguồn tài trợ được phản ánh trên Bảng cân đối kế toán tại thời điểm định giá để xác định bằng cách:
Giá trị tài sản thuần = Tổng giá trị tài sản – Các khoản nợ dài hạn và ngắn hạn
Đây là một cách tính đơn giản, dễ dàng. Tuy nhiên, giá trị tài sản phản ánh trên Bảng cân đối kế toán chỉ được coi là tài liệu tham khảo trong quá trình đánh giá toàn bộ tài sản theo giá thị trường tại thời điểm xác định GTDN vì những lý do sau đây:
+ Số liệu trên Bảng cân đối kế toán được tập hợp từ các sổ kế toán, các bảng kê,… phản ánh trung thực ._.các chi phí phát sinh tại thời điểm xảy ra các nghiệp vụ kinh tế trong quá khứ của niên độ kế toán, những chi phí này mang tính lịch sử, không còn phù hợp ở thời điểm ĐGDN, ngay cả khi nền kinh tế không có lạm phát.
+ Giá trị Tài sản cố định phản ánh trên sổ kế toán thường không phù hợp với giá thị trường tại thời điểm xác định GTDN. Giá trị còn lại của Tài sản cố định phản ánh trên sổ kế toán cao hay thấp phụ thuộc vào việc DN sử dụng phương pháp khấu hao nào, phụ thuộc vào thời điêm mà DN xác định nguyên giá và lựa chọn tuổi thọ kinh tế của Tài sản cố định.
+ Trị giá hàng hoá, vật tư, công cụ, dụng cụ lao động…tồn kho hoặc đang dùng trong sản xuất, một mặt phụ thuộc vào cách sử dụng giá hạch toán là giá mua đầu kỳ, cuối kỳ hay giá thực tế bình quân. Mặt khác, còn phụ thuộc vào sự lựa chọn các tiêu thức phân bổ chi phí khác nhau cho số hàng hóa dự trữ. Do vậy, số liệu kế toán phản ánh giá trị của loại tài sản đó cũng được coi là không có đủ độ tin cậy ở thời điểm đánh giá DN.
Do vậy, người ta thường sử dụng giá thị trường để xác định giá trị tài sản thuần trong DN
Cách 2: Xác định GT tài sản thuần theo giá thị trường
Gía trị tài sản thuần = Tổng giá trị các tài sản đã được xác định– các khoản nợ phản ánh bên nguồn vốn và khoản tiền thuế tính trên giá trị tăng thêm của số tài sản được đánh giá lại tại thời điểm xác định GTDN
Xác định giá trị thực tế tài sản:
Giá trị thực tế của DN là giá trị thực tế của toàn bộ tài sản hiện có của DN tại thời điểm xác định GTDN có tính đến khả năng sinh lời của DN.
Giá trị thực tế tài sản được xác định trên cơ sở giá thị trường và chất lượng của tài sản tại thời điểm định giá:
Giá trị thực tế tài sản đựơc xác định bằng đồng Việt Nam. Tài sản đã hạch toán bằng đồng ngoại tệ được quy đổi thành đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xác định giá trị DN.
Đối với tài sản là hiện vật: chỉ đánh giá lại những tài sản mà DN tiếp tục sử dụng
Giá trị
Nguyên giá tính
Chất lượng còn lại của
thực tế
=
theo giá thị
×
tài sản tại thời điểm
của tài sản
trường
định giá
Trong đó, giá thị trường là:+ giá tài sản mới đang mua, bán trên thị trường bao gồm cả chi phí vận chuyển, lắp đặt (nếu có). Nếu là tài sản đặc thù không có trên thị trường thì tính theo giá mua mới của tài sản cùng loại, cùng nước sản xuất, có cùng công suất hoặc tính năng tương đương. Trường hợp không có tài sản tương đương thì tính theo giá tài sản ghi trên sổ kế toán.
+ Đơn giá xây dựng cơ bản,suất đầu tư do cơ quan có thẩm quyền quy định đối với tài sản là sản phẩm xây dựng cơ bản. Trường hợp chưa có quy định thì tính theo giá trị quyết toán của công trình được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Chất lượng của tài sản được xác định bằng tỷ lệ phần trăm so với chất lượng của tài sản cùng loại mua sắm mới hoặc đầu tư xây dựng mới, phù hợp với các quy định của Nhà nước về an toàn trong sử dụng, vận hành tài sản, chất lượng sản phẩm sản xuất, vệ sinh môi trường theo hướng dẫn của các Bộ quản lý ngành kinh tế kỹ thuật. Nếu chưa có quy định của Nhà nước thì chất lượng tài sản được đánh giá không thấp hơn 20%.
-Tài sản cố định đã khấu hao thu hồi đủ vốn: công cụ lao động, dụng cụ quản lý đã phân bổ hết giá trị vào chi phí kinh doanh nhưng công ty cổ phần tiếp tục sử dụng thì phải đánh giá lại để tính vào giá trị DN .
Tài sản bằng tiền gồm: tiền mặt, tiền gửi và các giấy tờ có giá (tín phiếu, trái phiếu) của DN được xác định: Tiền mặt được xác định theo biên bản kiểm quỹ, tiền gửi được xác định theo số dư đã đối chiếu xác nhận với ngân hàng, các giấy tờ có giá thì xác định theo giá giao dịch trên thị trường. Nếu không có giao dịch thì xác định theo mệnh giá của giấy tờ.
-Các khoản nợ phải thu tính vào giá trị DN được xác định theo số dư thực tế trên sổ kế toán sau khi xử lý
-Các khoản chi phí dở dang: đầu tư xây dựng cơ bản, sản xuất kinh doanh, sự nghiệp được xác định theo thực tế phát sinh hạch toán trên sổ kế toán.
-Giá trị tài sản ký cược, ký quỹ ngắn hạn và dài hạn được xác định theo số dư thực tế trên sổ kế toán đã được đối chiếu xác nhận.
-Giá trị tài sản vô hình (nếu có) được xác định theo giá trị còn lại đang hạch toán trên sổ kế toán. Riêng giá trị quyền sử dụng đất được xác định:
+Trường hợp DN thực hiện hình thức thuê đất:
Nếu đang thuê thì không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN, nếu diện tích đất đã được nhận giao,đã nộp tiền sử dụng đất vào ngân sách, mua quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân khác nay chuyển sang thuê đất thì chỉ tính vào giá trị DN các khoản chi phí làm tăng giá trị sử dụng đất và giá trị tài sản trên đất như: chi phí đền bù, giải toả, san lấp mặt bằng.
+Trường hợp DN thực hiện hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất để tính giá trị DN được thực hiện như sau: Đối với diện tích đất DN đang thuê: Giá trị quyền sử dụng đất tính vào giá trị DN theo giá do UBND tỉnh quy định nhưng không tính tăng vốn Nhà nước tại DN mà hạch toán là khoản phải nộp ngân sách nhà nước. Công ty cổ phần phải nộp số tiền này cho ngân sách nhà nước để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trình tự và thủ tục giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định tại Luật đất đai, đối với diện tích đất DN đã được giao, đã nộp tiền sử dụng đất cho ngân sách nhà nước: phải xác định lại giá trị quyền sử dụng đất theo giá do UBND tỉnh quy định. Khoản chênh lệch giữa giá trị quyền sử dụng đất xác định lại với giá trị hạch toán trên sổ kế toán được tính vào giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại DN.
= - -
Đối với DN có lợi thế kinh doanh, như vị trí địa lý, uy tín của DN, tính chất độc quyền về sản phẩm, mẫu mã, thương hiệu (nếu có) và có tỷ suất lợi nhuận sau thuế cao hơn lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất trước thời điểm định giá thì phải tính thêm giá trị lợi thế kinh doanh vào giá trị thực tế của DN cổ phần hóa theo quy định sau:
- Xác định giá trị lợi thế kinh doanh của DN theo tỷ suất lợi nhuận của DN trong 3 năm liền kề trước khi cổ phần hoá.
= x -
= x 100%
Trường hợp DN có giá trị thương hiệu đã được xác định hoặc đã được thị trường chấp nhận cao hơn giá trị lợi thế kinh doanh xác định theo quy định trên căn cứ vào giá thị trường đã phản ánh trên sổ kế toán hoặc giá trị đã được thị trường chấp nhận để tính vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Trường hợp thấp hơn thì tính thêm chênh lệch vào giá trị DN cổ phần hoá.
Giá trị thực tế của DN = tổng số các khoản tại mục nói trên.
1.5.1.5. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp tài sản.
Ưu điểm
Trước hết, đây là một phương pháp tính toán đơn giản, dễ áp dụng trong thực tế, đặc biệt là trong điều kiện cụ thể ở VN khi nhiều DN triển khai CPH có giá trị thực tế không quá lớn.Phương pháp này cũng đã đề cập đến cả hai bộ phận chính tạo nên giá trị DN là giá trị tài sản hữu hình hiện tại và giá trị tài sản vô hình, đồng thời phương pháp này cũng đã tính toán đến khả năng sinh lợi của ngành nói chung và của DN cụ thể nói riêng. Đặc biệt, phương pháp này có cơ sở là giá trị thực của tài sản được thiết lập thông qua quá trình kiểm kê đánh giá lại.
Tuy nhiên, phương pháp này có một số vấn đề cần phải xem xét lại, chủ yếu là khi áp dụng phương pháp này có thể làm “mất vốn” của Nhà nước (tức là đánh giá thấp giá trị của DN khi thực hiện CPH).
Nhược điểm
Khi áp dụng phương pháp này nhiều khi không không xác định được lợi thế kinh doanh của DN vì việc tính toán chỉ dựa trên các chỉ số này, sẽ không hoàn toàn đảm bảo tính chính xác của giá trị. Để xác định lợi thế kinh doanh, phương pháp này chỉ căn cứ trên tỷ suất lợi nhuận của 5 năm liền kề và lãi xuất trái phiếu chính phủ cho thời hạn 10 năm tại thời điểm xác định giá trị; vì biến động trên giá thị trường, hầu hết các tổ chức cung ứng dịch vụ đều thiếu thông tin về giá thị trường để xác định tỷ lệ còn lại của máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, tiêu chuẩn cụ thể để xác định giá trị thương hiệu chưa hoàn thiện, chưa tính hết được giá trị tiềm năng của DN.
Mặt khác, nếu 3 năm liền kề, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN thấp hoặc bị thua lỗ thì hiệu số (2) – (3) sẽ là số âm (-).Khi đó giá trị lợi thế kinh doanh sẽ là số âm và không còn là lợi thế kinh doanh.Trong thực tế, một số công ty có tình hình kinh doanh có lợi nhuận không cao hoăc bị thua lỗ do quản lý yếu, do lạc hậu về công nghệ, do tác động của cạnh tranh,…nhưng các công ty này vẫn có lợi thế thương mại và người mua cổ phần họ vẫn quyết định mua vì họ quan tâm đến tương lai của DN nhiều hơn hiện tại. Vì thế, việc xác định giá trị lợi thế kinh doanh như trên không phản ánh được bản chất của nó.
Áp dụng công thức định giá trên dẫn đến việc mất vốn lớn ở những DN mới thành lập và ở những DN tạm thời hiện đang hoạt động thua lỗ nhưng lại đang có nhiều tiềm năng trong tương lai, chẳng hạn đối với các DN có thị phần lớn. Những DN loại này có tỷ suất lợi nhuận trên vốn khá thấp ở thời điểm hiện tại, vì vậy, giá trị lợi thế của nó sẽ được đánh giá thấp.
Trên một khía cạnh khác, phương pháp tiếp cận hiện nay ở VN (chủ yếu là phương pháp tài sản) cũng có thể không thể phản ánh được các nguy cơ tiềm tàng đối với DN trong tương lai, và vì vậy có thể dẫn tới khả năng thổi phồng giá trị của DN. Điều này được minh chứng bởi hàng loạt các vụ vỡ nợ, phá sản của DN trên thực tế.
Cho đến nay, những căn cứ chủ yếu để xác định GTDN là bảng cân đối kế toán. Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính phản ánh tổng quát về tài sản, nguồn vốn của DN, song còn có một số hạn chế: nhiều thông tin tài chính của DN chưa được thể hiện như chỉ tiêu về giá trị dùng thước đo tiền tệ đối với lao động trí tuệ và lao động chân tay. Các chỉ tiêu trên Bảng cân đối kế toán được phản ánh ở một thời điểm trong quá khứ và hiện tại. Vấn đề đặt ra là nhà đầu tư và những người quan tâm tới DN muốn biết các chỉ tiêu đó được phản ánh ở một thời điểm nào đó trong tương lai. Thêm vào đó, các chỉ tiêu phản ánh trên bảng cân đối kế toán mang tính chủ quan của người làm công tác kế toán, ví dụ: kế toán viên lựa chọn phương pháp xác định giá trị hàng tồn kho khác nhau thì kết quả sẽ khác nhau.
Phương pháp này chưa phù hợp với một số loại hình DN. Về cơ bản mới xem xét GTDN ở một thời điểm trong quá khứ. Việc xác định giá trị DN có ít tài sản, nhưng có thu nhập cao như DN thương mại, dịch vụ… vẫn chưa hợp lý. Hơn nữa, những quy định về tính lợi thế doanh nghiệp là khó khăn.
1.5.2. Phương pháp định giá DN theo dòng tiền chiết khấu.
1.5.2.1. Khái niệm
Phương pháp dòng tiền chiết khấu (DCF) là phương pháp xác định giá trị DN trên cơ sở khả năng sinh lời của DN trong tương lai.
1.5.2.2 Đối tượng áp dụng
Phương pháp này được lựa chọn để xác định giá trị các DN Nhà nước hoạt động trong các ngành dịch vụ thương mại, dịch vụ tư vấn, thiết kế xây dựng, dịch vụ tài chính, kiểm toán, tin học và chuyển giao công nghệ: có tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân 5 năm liền kề của DN trước cổ phần hoá cao hơn lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất trước thời điểm xác định giá trị DN.
1.5.2.3. Căn cứ xác định.
- Báo cáo tài chính của DN trong 5 năm liền kề trước khi xác định giá trị DN.
- Phương án hoạt động sản xuất kinh doanh của DN trong 3-5 năm sau khi chuyển thành công ty cổ phần.
Lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất trước thời điểm xác định GTDN và hệ số chiết khấu dòng tiền của DN được định giá.
Giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích được giao.
1.5.2.4. Công thức xác định
Giá trị thực tế của DN tại thời điểm định giá theo phương pháp DCF được tính như sau:
Giá trị
Giá trị thực
Nợ thực
Số dư quỹ
Nguồn kinh
thực tế
=
tế phần vốn
+
tế phải
+
Khen thưởng
+
Phí sự
của DN
Nhà nước
trả
Phúc lợi
nghiệp
Trong đó
Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại DN ở thời điểm định giá được xác định theo công thức:
Giá trị thực tế Di Pn
vốn Nhà nước = ∑ +
(1+K)i (1+K)n
Trong đó:
Di
: Giá trị hiện tại của cổ tức năm thứ i
(1+K)i
Pn
(1+K)n : Giá trị hiện tại của vốn Nhà nước năm thứ n
i: thứ tự các năm kế tiếp kể từ năm xác định giá trị DN (i:1→n)
D: Khoản lợi nhuận sau thuế dung để chia cổ tức năm thứ i
n: Số năm tương lai được lựa chọn (từ 3 đến 5 năm)
Pn: Giá trị vốn Nhà nước năm thứ n và được xác định theo công thức:
Dn+1
Pn =
K- g
Dn+1: Khoản lợi nhuận sau thuế dùng để chia cổ tức của năm thứ n+1
K: Tỷ lệ chiết khấu hay tỷ lệ hoàn vốn cần thiết của các nhà đầu tư khi mua cổ phần và được xác định theo công thức:
K= Rf +Rp
Rf: Tỷ suất lợi nhuận thu được từ khoản đầu tư không rủi ro được tính bằng lãi suất của trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất trước thời điểm xác định giá trị DN.
Rp: Tỷ lệ phụ phí rủi ro khi đầu tư vào cổ phiếu của các công ty ở Việt Nam được xác định theo bảng chỉ số phụ phí rủi ro chứng khoán quốc tế tại niên giám định giá hoặc do các công ty địnhg giá xác định cho từng DN nhưng không vượt quá tỷ suất lợi nhuận thu được từ các khoản đầu tư không rủi ro (Rf)
Ví dụ phương pháp DCF
Số liệu quá khứ của công ty X từ năm 2001 đến năm 2005:
Đơn vị:triệu đồng
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
Lợi nhuận sau thuế
0
0
21818
21155
352727
Vốn nhà nước (không bao gồm số dư Quỹ khen thưởng, phúc lợi.
1139220
693636
706558
1374610
1727402
Công ty xây dựng kế hoạch chi tiêu lợi nhuận sau thuế 4 năm trong tương lai như sau: Đơn vị: triệu đồng
Năm
2006
2007
2008
2009
Lợi nhuận sau thuế
160000
240000
30100
402000
Bước 1: Ước tính lợi nhuận sau thuế để chia cổ tức hàng năm (theo thống kê đã áp dụng với DN khác là 50%)
Ký hiệu các khoản lợi nhuận sau thuế các năm tương lai từ 2006→2009 tương ứng là D6, D7, D8, D9
D6=50%*P6=50%*16000=80000tr
D7=50%*P7=50%*24000=120000tr
D8=50%*P8=50%*30100=150500tr
D9=50%*P9=50%*402000=201000tr
Bước 2: Dự kiến vốn nhà nước 4 năm tương lai
Công thức áp dụng:
Năm n= vốn nhà nước năm (n-1) + 30% lợi nhuận sau thuế năm n
Ta có:
Năm 2006 = 1727400+30%*16000=1732200tr
Năm 2007 = 1732200+30%*240000=1804200tr
Năm 2008 = 1804200+30%*301000=1894500tr
Năm 2009 = 1894500+30%*402000=2015100tr
Bước 3: Xác định tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước bình quân (2006-2009)
Ký hiệu tỷ suất này là R6, R7, R8, R9
R6=160000/1732200=0,092
R7=240000/1804200=0,133
R8=30100/1894500=0,159
R9=402000/2015100=0,199
4
R=∑Ri/4 =0,146
i=1
Bước 4: Xác định chỉ số g (tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của cổ tức):
g= b* R
b: tỷ lệ lợi nhuận sau thuế dùng để bổ sung vốn, trường hợp này được xác định là 30% lợi nhuận sau thuế.
g= 30%*0,146=0,0438
Bước 5:xác định tỷ lệ chiết khấu hay tỷ lệ hoàn vốn cần thiết:
K= Rf+Rp=8,3%+9,61%=17,91%
Rf: lãi suất trái phiếu chính phủ thời điểm xác định GTDN=8,3%
Rp: =9,61%: xác định theo bảng chỉ số phụ phí rủi ro chứng khoán quốc tế tại niên giám định giá hoặc do công ty định giá xác định cho từng DN.
Bước 6: Ước tính giá trị vốn nhà nước năm trong tương lai thứ 3 tức năm 2008
D2009 201000
P2008 = = = 1485587,583tr
K-g 0,1791-0,0438
Bước 7: Tính giá trị vốn nhà nước tại thời điểm định giá:
Di
Pn
GTDN =
∑
+
(1+k)i
(1+k)n
Thay số:
80000
120000
150500
1485587,583
GTDN
+
+
+
(1+0,1791)
(1+0,1791)2
(1+0,1791)3
(1+0,1791)3
= 1.176.414,823tr
Vậy:
Giá trị
Giá trị thực
Nợ thực
Số dư quỹ
Nguồn kinh
thực tế
=
tế phần vốn
+
tế phải
+
Khen thưởng
+
Phí sự
của DN
Nhà nước
trả
Phúc lợi
nghiệp
1.5.25.Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp DCF
Ưu điểm
Theo phương pháp này, việc xác định GTDN chính xác hơn, nó thể hiện được tình hình hoạt động và khả năng phát triển của DN trong tương lai, điều mà phương pháp tài sản không đề cập tới. Nếu như phương pháp tài sản mới thể hiện được giá sàn DN, đảm bảo việc không thất thoát vốn của Nhà nước mà chưa thể hiện được giá thực tế của DN, do phương pháp này không tính hết các tiềm năng của DN, và chỉ căn cứ trên cơ sở các tài sản thực có tại thời điểm xác định GTDN.Trong khi đó áp dụng phương pháp DCF giải quyết được hầu hết các vướng mắc trong xác định lợi thế thương mại và tiềm năng giá trần của DN. Việc hạn chế áp dụng phương pháp DCF như ở các DN Việt Nam hiện nay sẽ một phần ảnh hưởng đến độ chính xác của GTDN, đặc biệt là các DN đang làm ăn có lãi và có thương hiệu, thị phần trên thị trường.
DN không phải tiến hành kiểm kê, phân loại tài sản và xác định giá trị của từng loại tài sản riêng lẻ, do vậy giảm được khá nhiều rắc rối cho bản thân DN.
Nhược điểm
Công thức tính toán phức tạp hơn rất nhiều, hơn nữa các thông số để xác định GTDN mang tính ước đoán cao như dự tính lợi nhuận sau thuế các năm trong tưong lai của DN. Việc dự đoán quy mô khoản thu nhập hàng năm, đặc biệt là số lợi nhuận sau thuế cũng là một việc phức tạp và có thể mắc sai lầm. Vì vậy, nếu thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán không phát triển, việc sử dụng phương pháp này sẽ gây ra sai sót khá lớn.
Phương pháp này có sử dụng những giá trị trong tương lai, tức là có tính đến khả năng hoạt động của DN sau khi chuyển đổi sở hữu. Tuy nhiên, ở đây cũng nảy sinh một vấn đề khó khăn gây nhiều tranh cãi là khi tính các giá trị tương lai, DN sẽ giả định hoạt động trong mấy năm nữa để phản ánh đúng giá trị của DN?
Sử dụng phương pháp này tiềm ẩn hai mối quan ngại cho các nhà đầu tư:
+ Giá trị vốn Nhà nước dựa trên khả năng sinh lời trong tương lai, trong khi đó, thực tiễn cho thấy rất khó để xác định khả năng này trong điều kiện Việt Nam hiện nay, đặc biệt đối với DN cổ phần hoá từ DN Nhà nước.
+ Khi tính giá trị thực tế của DN lại bao hàm luôn cả các khoản nợ, số dư quỹ khen thưởng, phúc lợi và số dư nguồn kinh phí sự nghiệp (nếu có). Đây là nguyên nhân quan trọng khiến không ít các DN (dưới tác động của người quản lý và người lao động) và cơ quan nhà nước có thẩm quyền lựa chọn khi thực hiện cổ phần hoá, kể cả các DN thuộc diện bắt buộc phải áp dụng phương pháp dòng tiền chiết khấu.
Mặc dù vẫn còn một số hạn chế như trên khi áp dụng vào định giá DN ở VN trong điều kiện hiện nay, song đây là phương pháp tiến bộ và khắc phục được nhược điểm của phương pháp tài sản
1.5.3. Các phương pháp khác
1.5.3.1. Phương pháp lợi nhuận
Phương pháp này dựa trên cơ sở xem xét, đánh giá DN không phải đơn thuần là tổng số học các giá trị tài sản hiện có mà là một hệ thống phức tạp các giá trị kinh tế được đo bằng khả năng sinh lời của DN. Điều mà nhà đầu tư trông đợi là lợi nhuận, là khả năng sinh lợi của DN trong tương lai.
DN sẽ dự kiến lợi nhuận năm t và chiết khấu về hiện tại theo tỷ suất hiện tại hoá k.
n Pt Vn
GTDN = ∑ +
i=1 (1+k)t (1+k)n
Trong đó
Pt: lợi nhuận dự kiến năm t
k: hệ số hiện tại hoá (hay tỷ suất vốn hoá)
n: thời gian tính bằng năm phát sinh lợi nhuận theo tính toán
Vn: giá trị thanh lý năm n của tài sản
Khi cho n→∞ (chúng ta bỏ qua thời điểm thanh lý vì nó xuất hiện quá xa thời điểm tính toán) thì ta có:
Nếu Pt không thay đổi qua các năm
n 1 P
GTDN = P*∑ =
t=1 (1+k)t k
Nếu lợi nhuận DN tăng hàng năm đều theo tỷ lệ g<k thì
Po(1+g)
GTDN=
k-g
Nếu lợi nhuận DN tăng theo tỷ lệ g>k trong n năm đầu và g’<k trong n năm tiếp theo thì
Po(1+g) (1+g)n-(1+k)n (1+k)(n-1)(1+g’)
GTDN= x =
(1+k)n g-k 1-g’
Ngoài ra cũng có thể tính GTDN theo lợi nhuận bình quân và tỷ suất lợi nhuận bình quân như sau:
n Pt/n
GTDN = ∑
t=1 Tk
Trong đó:
Pt: lợi nhuận ròng dự tính thu được căn cứ vào số liệu thống kê các năm gần nhất với thời điểm định giá hay phương án kinh doanh dự tính DN sẽ đạt được.
∑Pt/n (t=1,n) : là lợi nhuận bình quân thu được hang năm
Tk: tỷ suất lợi nhuận bình quân của DN kinh doanh trong ngành (ta có thể lấy lãi suất trái phiếu kho bạc).
1.5.3.2. Phương pháp chiết khấu cổ tức trong tương lai
Phương pháp này thường được sử dụng để định giá vốn chủ sở hữu của các DN thanh toán cổ tức tương ứng cổ đông và được mong đợi là không có sự thay đổi quan trọng nào về vốn hoá trong tương lai. Thêm vào đó, phương pháp này thích hợp hơn đối với những cổ phiếu thứ yếu của DN.
Khi đó Giá cổ phiếu = Tổng giá trị hiện tại của các khoản cổ tức trong tương lai + Giá trị hiện tại của cổ phiếu tại thời điểm bán sau này (t)
Nếu cổ phiếu được người đầu tư nắm giữ vô thời hạn thì có nghĩa là t sẽ tiến tới ∞ (thông thường, quãng đời của cổ phiếu là vô hạn,vì nó không có thời gian đáo hạn. Một cổ phiếu thường được chuyển quyền sở hữu cho nhiều người thuộc nhiều thế hệ, song điều đó không ảnh hưởng tới giả định người đầu tư nắm giữ cổ phiếu đó vô thời hạn). Khi đó, giá trị hiện tại của vốn gốc sẽ tiến tới 0 và công thức trên trở thành:
Giá cổ phiếu= Tổng giá trị hiện tại của các khoản cổ tức trong tương lai.
1.5.3.3. Phương pháp hệ số giá trên thu nhập (P/E)
Hệ số giá trên thu nhập là quan hệ tỷ lệ giữa giá thị trường một cổ phiếu với thu nhập (lợi nhuận sau thuế) của một cổ phiếu. Nó phản ánh, để có được một đồng thu nhập người đầu tư phải bỏ ra bao nhiêu tiền. Hệ số này càng cao công ty càng kinh doanh có hiệu quả nên được thị trường trả giá cao, và ngược lại hệ số P/E thấp chứng tỏ DN kinh doanh không hiệu quả.
Đây là phương pháp thông dụng nhất trong các phương pháp dựa vào hệ số. Đối với một thị trường chứng khoán phát triển thỉ tỷ lệ P/E rất có ích cho việc định giá cổ phiếu. Giả sử, người đầu tư X chưa được giao dịch trên thị trường. Muốn tính giá hợp lý của cổ phiếu X trong các cách là chỉ cần nhìn vào giá trị P/E được công bố đối với các loại cổ phiếu có cùng độ rủi ro như cổ phiếu X nhân(*) với thu nhập ròng trên đầu cổ phiếu của công ty phát hành ra cổ phiếu X là có thể tìm ra được giá cổ phiếu X.
Tuy nhiên, thị trường chứng khoán còn non trẻ như ở nước ta thì việc sủ dụng phương pháp này nhiều khi không mang lại thông tin đáng tin cậy.
Chương II. Thực trạng công tác định giá DN
tại Công ty kim khí Hà Nội
2.1.Vài nét khái quát về công ty
2.1.1.Sơ lược quá trình hình thành và phát triển
Tên công ty
:
Công ty Kim khí Hà Nội
Địa chỉ
:
20 Tôn Thất Tùng-Đống Đa-Hà Nội
Mã số tài khoản
:
710A00251
Mã số thuế
:
0100100368
Công ty Kim khí Hà Nội ban đầu có tên là công ty thu hồi phế liệu kim khí, được thành lập từ năm 1972. Với chức năng thu mua thép, phế liệu trong nước tạo nguồn cung cấp nguyên liệu cho việc nấu thép tại nhà máy gang thép Thái Nguyên.Công ty thu hồi phế liệu Kim khí là đơn vị hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, trực thuộc tổng công ty kim khí Việt Nam-Bộ vật tư.
Tháng 10 năm 1985, Bộ vật tư đã ra quyết định số 628/QĐ-VT hợp nhất hai đơn vị:”Công ty thu hồi phế liệu kim khí” và trung tâm giao dịch vụ vật tư ứ đọng luân chuyển” thành công ty vật tư thứ liệu Hà Nội, trực thuộc Tổng công ty kim khí Việt Nam, hạch toán độc lập và có tư cách pháp nhân .Ngày 28/05/1993, Bộ Thương mại đã ra quyết định số 600/TM-TCCB thành lập công ty kim khí Hà Nội trực thuộc tổng công ty Thép Việt Nam
Ngày 15/04/1997, Bộ công nghiệp ra quyết định số 511/QĐ-TCCB sáp nhập xí nghiệp dịch vụ vật tư (là đơn vị trực thuộc tổng công ty thép Việt Nam) vào công ty thứ liệu Hà Nội
Ngày 05/06/1997, theo quyết định số 1022/QĐ-HĐQT của hội đồng quản trị Tổng công ty thép VN đổi tên Công ty vật tư thứ liệu Hà Nội thành công ty kinh doanh thép và vật tư Hà Nội.
Ngày 12/11/2003, Bộ công nghiệp ra quyết định số 1852/2003/QĐ-BCN về việc sáp nhập công ty Kinh doanh thép và vật tư Hà Nội vào công ty Kim khí Hà Nội. Hiện nay công ty có trụ sở chính tại 20 Tôn Thất Tùng-Hà Nội.
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm kinh doanh của công ty
2.1.2.1. Chức năng
Công ty Kim khí Hà Nội là một DN nhà nước trực thuộc tổng công ty Thép Việt Nam, chức năng chủ yếu của công ty là:
- Kinh doanh các loại sản phẩm thép, vật liệu xây dựng, nguyên vật liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất của ngành thép trong nước.
- Kinh doanh các mặt hàng thiết bị phụ tùng.
- Nhập khẩu các mặt hàng thép, vòng bi, phôi thép để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty.
- Sản xuất, nhận gia công các mặt hàng thép.
2.1.2.2.Nhiệm vụ
Theo sự phân cấp của Tổng công ty thép Việt Nam, công ty có nhiệm vụ cơ bản sau:
- Là đơn vị kinh doanh hạch toán kinh tế độc lập dưới sự chỉ đạo của cơ quan chủ quản là Tổng công ty thép Việt Nam. Do vậy, hàng năm Công ty phải tổ chức triển khai các kế hoạch sản xuất kinh doanh do công ty xây dựng và được tổng công ty phê duyệt.
-Công ty được Tổng công ty thép cấp vốn hoạt động. Ngoài ra, công ty có quyền chủ động huy động thêm các nguồn từ bên ngoài như vay vốn ngân hàng, các tổ chức tài chính,...
- Công ty phải chấp hành và thực hiện đầy đủ nghiêm túc chính sách, chế độ của Luật pháp Việt Nam về hoạt động sản xuất kinh doanh và có nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước.
- Trong mọi loại hình kinh tế, công ty luôn phải xem xét khả năng sản xuất kinh doanh của mình, nắm bắt nhu cầu tiêu dùng của thị trường để từ đó đưa ra những kế hoạch nhằm cải tiến tổ chức sản xuất kinh doanh đáp ứng đầy đủ nhu cầu cho khách hàng và đạt được lợi nhuận tối đa.
- Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công nhân viên nhằm đáp ứng được yêu cầu kinh doanh và quản lý của công ty. Thực hiện các chính sách, chế độ thưởng phạt đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
2.1.2.3. Đặc điểm kinh doanh của công ty
Hoạt động kinh tế cơ bản của công ty là lưu chuyển hàng hoá. Đó là sự tổng hợp của quá trình mua bán, trao đổi và dự trữ hàng hoá. Công ty tổ chức thu mua hàng hoá của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước sau đó cung cấp hàng hoá cho những khách hàng có nhu cầu. Quá trình lưu chuyển hàng hoá được thực hiện theo hai phương thức: bán buôn và bán lẻ.
Công ty kim khí Hà Nội là DN kinh doanh có quy mô lớn, chuyên bán buôn bán lẻ các mặt hàng thép, vật liệu xây dựng và kinh doanh các mặt hàng phụ tùng thông qua hệ thống các cửa hàng của công ty.Mặt hàng kinh doanh của công ty bao gồm:
Dây thép đen, thép mạ có kích thước nhỏ, thép thường (thép thanh), thép hình (thép L,U,I), thép lá (thép tấm, thép lá từ 0.1→0.3 ly)
Ngoài ra công ty còn kinh doanh các mặt hàng khác như ống Vinapipe, xi măng, phụ tùng, vòng bi, gang... phục vụ cho xây dựng. Hơn nữa công ty còn tổ chức các hoạt động dịch vụ như: cho thuê kho bãi, kiốt, cửa hàng, tài sản và còn có dịch vụ gửi hàng.
Nguồn hàng do công ty khai thác tương đối đa dạng nhưng chủ yếu là khai thác nguồn hàng sản xuất trong nước từ các nhà máy sản xuất (nhà máy thép liên doanh Việt úc, nhà máy gang thép Thái Nguyên, VPS...) như: mặt hàng kim khí, xi măng, phụ tùng, vòng bi... Ngoài ra, công ty còn khai thác nguồn hàng nhập khẩu từ các nước: Hàn Quốc, Nga... như các loại thép, vòng ống FKF, phôi thép, vòng bi...
Thị trường kinh doanh của công ty tương đối rộng và đa dạng. Các mặt hàng của công ty được tiêu thụ rộng rãi trên cả nước. Bên cạnh đó, công ty còn hợp tác kinh doanh với nhiều DN trong nước.
Trải qua chặng đường hơn 30 năm hoạt động, công ty kim khí Hà Nội đã phát triển không ngừng và ngày càng đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu khách hàng. Từ những ngày mới thành lập, mọi hoạt động của công ty đã gặp rất nhiều khó khăn về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật. Nhưng do có sự cải tiến không ngừng về phương thức kinh doanh và tổ chức cán bộ nên công ty càng ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường, quy mô công ty ngày càng mở rộng. Cơ sở vật chất của công ty ngày càng được nâng cao phù hợp với điều kiện kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Mặt hàng kinh doanh của công ty phong phú, đa dạng hơn. Mặc dù trong quá trình hoạt động,công ty gặp một số khó khăn nhất định nhưng công ty vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
2.1.2.4. Mạng lưới kinh doanh của công ty:
1. Cửa hàng kinh doanh thép và vật tư số 1: Tại số 9 Tràng Tiền, Hà Nội
2. Cửa hàng kinh doanh thép và vật tư số 2: Tại số 658 Trương Định, Hà Nội
3. Cửa hàng kinh doanh thép và vật tư số 3: Tại thị trấn Đông Anh, Hà Nội
4. Cửa hàng kinh doanh thép và vật tư số 4: Tại 75 Tam Trinh, Hà Nội
5. Cửa hàng kinh doanh thép và vật tư số 5: Thị trấn Đức Giang, Hà Nội
6. Xí nghiệp kinh doanh phụ tùng và thiết bị: Tại số 105 Trường Chinh, Hà Nội.
7. Xí nghiệp kinh doanh thép xây dựng: Tại H2-T2 Thanh Xuân Nam, Hà Nội
8.Cửa hàng kinh doanh thép và vật tư số 14: Tại số1154 đường Láng, Hà Nội
9.Xí nghiệp kinh doanh thép tấm lá: Tại số 120 đường Hoàng Quốc Việt, Hà Nội
10.Xí nghiệp kinh doanh thép hình: Tại Km 12 đường Tây Sơn, Hà Nội
11. Xí nghiệp kinh doanh kim khí và vật tư chuyên dùng: Tại số 198 Nguyễn Trãi, Hà Nội
12.Chi nhánh công ty kinh doanh thép và vật tư Hà Nội tại TP.HCM: Tại số 23 Nguyễn Thái Bình, quận Tân Bình,TP.HCM
13. Kho Đức Giang: Tại thị trấn Đức Giang, Hà Nội
14. Kho Mai Động: Tại Mai Động, Hà Nội
Sơ đồ mạng lưới kinh doanh của Công ty Kim khí Hà Nội:
Công ty Kim khí Hà Nội
Cửa hàng kinh doanh thép và vật tư số 1
Xí nghiệp kinh doanh phụ tùng và thiết bị
Xí nghiệp kinh doanh kim khí và vật tư chuyên dùng
Cửa hàng kinh doanh thép và vật tư số 2
Xí nghiệp kinh doanh thép xây dựng
Chi nhánh công ty kinh doanh thép và vật tư Hà Nội tại TP.HCM
Cửa hàng kinh doanh thép và vật tư số 3
Cửa hàng kinh doanh thép và vật tư số 14
Kho Đức Giang
Cửa hàng kinh doanh thép và vật tư số 4
Xí nghiệp kinh doanh thép tấm lá
Kho Mai Động
Cửa hàng kinh doanh thép và vật tư số 5
Xí nghiệp kinh doanh thép hình
2.1.3. Tổ chức quản lý của công ty
Công ty Kim khí Hà Nội hiện nay có 425 cán bộ công nhân viên, trong đó có 89 nhân viên quản lý trên văn phòng (chiếm 20,9%). Trình độ cán bộ công nhân viên của công ty đa số là tốt nghiệp đại học. Hiện nay, tại công ty có ban lãnh đạo gồm1 giám đốc công ty, 1 phó giám đốc, 1kế toán trưởng và 4 phòng ban giúp việc. Công ty có 6 cửa hàng, 9 xí nghiệp, và 1 chi nhánh, ở các đơn vị này đều có cửa hàng trưởng, giám đốc chi nhánh, xí nghiệp quản lý tình hình hoạt động của từng đơn vị.
Sơ đồ tổ chức bộ máy của công ty
Ban giám đốc
Phòng tổ chức hành chính
Ban thu hồi công nợ
Phòng kinh doanh
Phòng tài chính-kế toán
Các đơn vị trực thuộc (14 đơn vị)
Cơ cấu bộ máy của công ty được sắp xếp theo chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban, đảm bảo được sự thống nhất, tự chủ và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban.
Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban như sau:
- Ban giám đốc:
+ Giám đốc công ty: Do chủ tịch HĐQT Tổng công ty thép bổ nhiệm h._. sản của DN được tiến hành nhanh chóng, tạo điều kiện cho công ty hoàn thành việc xác định giá trị thực tế của DN và giá trị phần vốn góp của Nhà nước, là cơ sở để DN phát hành cổ phiếu, xác định giá bán của DN mình, hoàn thành công việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần.
-Kết quả xác định GTDN của Công ty tương đối chính xác, chênh lệch của GTDN do Hội đồng kiểm kê xác định lại và DN tự đánh giá là không lớn.DN sử dụng giá thị trường để tính giá trị tài sản trong DN.
- Phương pháp định giá mà DN sử dụng là phù hợp vì theo sổ liệu trên sổ sách kế toán của công ty DN có tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn nhà nước bình quân 3 năm trước thời điểm CPH nhỏ hơn lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm gần thời điểm xác định giá trị DN nên DN không có giá trị lợi thế kinh doanh.Mặt khác, công ty hoạt động sản xuất là chủ yếu, giá trị TSCĐ của DN là rất lớn, chiếm khoảng 89% trong tổng giá trị tài sản của công ty, giá trị khấu hao TSCĐ hàng năm cũng lớn, do đó DN lựa chọn phương pháp xác định GTDN theo phương pháp tài sản là phù hợp.
Bản thân công tác định giá DN là một việc làm phức tạp, gây nhiều tranh cãi trên thị trường. Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình định giá, công ty cũng có những khó khăn và hạn chế.
2.2.4.3.Một số hạn chế
- Phương pháp xác định GTDN sử dụng (phương pháp tài sản): Bản thân phương pháp này có nhiều hạn chế, do nó chỉ là sự cộng dồn giá trị của tất cả tài sản, chỉ xem xét DN trong trạng thái tĩnh, chưa xem xét nó trong trạng thái động,tức là chưa tính đến khả năng sinh lời trong tương lai của DN. Khi công ty lựa chọn phương pháp tài sản, kết quả tính giá trị thực tế của DN sẽ nhỏ hơn rất nhiều giá trị thực mà lẽ ra DN có được.Tuy nhiên, nhìn nhận từ góc độ DN, phương pháp này được lựa chọn vì nó mang lại giá trị DN nhỏ nhất so với các phương pháp khác. Mà những người mua cổ phiếu của công ty chủ yếu là công nhân viên trong DN.Kết quả định gía thấp, tức GTDN thấp, do đó giá trị cổ phiếu bán ra cho công nhân viên sẽ thấp.
- DN không tính giá trị lợi thế kinh doanh (siêu lợi nhuận) vào giá trị DN. Đó là do hạn chế trong phương pháp tài sản của DN đã tạo kẽ hở cho DN không tính mà bỏ qua giá trị lợi thế kinh doanh, điều mà khi xác định GTDN bắt buộc phải tính vào, khiến kết quả Định giá thiếu chính xác
- Công tác định giá còn mang nặng tính chủ quan, điều này không chỉ ở phía hội đồng ĐGDN của công ty, mà còn ở cả phía hội đồng thẩm định GTDN của cơ quan cấp trên. Sự chủ quan này cần được xem xét và khắc phục để kết quả xác định GTDN được chính xác và tin cậy cho những nguời quan tâm.
- Xác định chất lượng,tỷ lệ giá trị còn lại của tài sản (nhất là phương tiện vận tải, máy móc,thiết bị, vật kiến trúc còn mang tính ước định, thiếu chuyên gia của cơ quan chuyên môn.
- Việc tổ chức xác định GTDN chủ yếu căn cứ vào tài liệu tính toán của DN (báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo tài chính và các tài liệu kế toán khác), tổ chức thuê định giá phải thống nhất với DN các nội dung liên quan đến định giá. Theo quy định của nhà nước, chỉ có tối thiểu 30% số cổ phần còn lại (nếu có) sau khi trừ cổ phần Nhà nước mới được đưa ra bán cho đối tượng DN. Như vậy, chủ yếu cổ phần phát hành lần đầu của công ty được bán trong nội bộ của DN theo giá sàn. Trường hợp này, DN vừa là người định giá, vừa là người mua, nên kết quả định giá DN là thấp, dẫn đến mất nhiều thời gian (do cơ quan định giá và cơ quan công bố giá trị DN phải thẩm tra lại), nhưng GTDN vẫn thấp.
2.2.5.Nhận xét chung về quy chế ĐGDN của Nhà nước
Nước ta đã có thành công bước đầu khi tiến hành CPH DNNN. Tuy nhiên, tốc độ CPH DNNN nói chung còn chậm, chưa đạt theo kế hoạch đề ra. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tốc độ CPH chậm đó là vấn đề Định giá DN CPH.
Hiện nay, có 3 nhóm phương pháp xác định GTDN, đó là phương pháp xác định theo tài sản, phương pháp xác định theo dòng tiền chiết khấu, và các phương pháp khác đã được quy định cụ thể trong thông tư số 126/2004/BTC-TT về hướng dẫn thực hiện nghị định 187/2004 của Chính phủ về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần. Kết quả điều tra của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho thấy 97,9% số DN CPH áp dụng phương pháp tài sản khi định giá, trong khi đó, các phương pháp định giá hiện đại và mang tính thị trường hơn như phương pháp tính theo dòng tiền chiết khấu lại không được sử dụng hoặc sử dụng không đáng kể. Công tác định giá DN của Nhà nước có những ưu điểm và hạn chế sau:
Ưu điểm:
- Chính phủ đã ban hành các văn bản hướng dẫn công tác xác định GTDN một cách cụ thể và thường xuyên sửa đổi cho hoàn thiện, là cái khung pháp lý chung hướng dẫn các DN trong quá trình xác định GTDN.
- Xem xét GTDN trên quan điểm toàn diện, GTDN ở đây không chỉ bao gồm giá trị của Tài sản hữu hình mà còn bao gồm cả tài sản vô hình
- Phương pháp ĐGDN mà Chính phủ lựa chọn thực chất là phương pháp định lượng GW- là sự kết hợp 2 phương pháp định giá theo tài sản thuần và phương pháp lợi nhuận.Phương pháp này phù hợp với sự đòi hỏi của Nhà nước là phải định giá trên cơ sở pháp lý. Sai số cũng giảm bớt vì phần lớn các DN thuộc diện CPH không có nhiều giá trị lợi thế kinh doanh,còn những DN có nhiều lợi thế kinh doanh thì không thuộc diện phải CPH.
Hạn chế cơ bản
- Xử lý tài chính: Hầu hết các DN thuộc diện CPH thường có tồn tại về tài chính như: lỗ luỹ kế, tài sản vật tư ứ đọng,kém mất phẩm chất,...Tất cả các tồn tại tài chính trên đều có cơ chế xử lý như phần 1.3.2.2 đã nêu ở trên, nhưng các DN không chủ động xử lý các khoản tồn đọng trên, các chủ nợ, nhất là các ngân hàng thương mại cũng không tích cực vào cuộc mà chỉ chờ đến thời điểm xác định GTDN CPH mới làm, nên thời gian định giá thường bị kéo dài. Có trường hợp, DN sau khi xử lý xong các tồn tại về tài chính thì không còn vốn để cổ phần
Vấn đề xử lý nợ tồn đọng khi xác định giá trị DNNN trong quá trình cổ phần hoá cũng là một khó khăn, vướng mắc. Nhiều đơn vị của Tổng công ty hiện vẫn tồn đọng nhiều khoản nợ do cơ chế cũ, lịch sử để lại, khó có khả năng thu hồi và cũng không thể áp dụng các quy định về xử lý tài chính hiện hành trong quá trình cổ phần hoá xử lý giải quyết dứt điểm, có nhiều công nợ không thể đối chiếu hoặc cũng không thể thu thập đủ hồ sơ chứng minh là không có khả năng thu hồi. Đây là gánh nặng cho doanh nghiệp sau cổ phần hoá vẫn phải trả gốc, lãi cho các khoản nợ này.
- Hiện các công ty tiến hành định giá theo hai phương pháp: định giá tài sản (xác định giá trị doanh nghiệp trên cơ sở đánh giá giá trị thực tế toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp) và dòng tiền chiết khấu (xác định giá trị doanh nghiệp trên cơ sở khả năng sinh lời trong tương lai).
Tuy nhiên, theo nhận xét của ông Trương Hùng Long, Phó vụ trưởng Vụ Tài chính ngân hàng Bộ Tài chính, hai phương pháp này vẫn còn nhiều bất cập. Đối với phương pháp tài sản, hầu hết các tổ chức cung ứng dịch vụ đều thiếu thông tin về giá thị trường để xác định tỷ lệ phần trăm còn lại của nhà xưởng, máy móc; chưa có tiêu chuẩn cụ thể để xác định giá trị thương hiệu, chưa tính hết được giá trị tiềm năng của doanh nghiệp. Phương pháp dòng tiền chiết khấu áp dụng rất phức tạp, doanh nghiệp cũng không muốn giá trị được đánh giá quá cao, khó bán cổ phần, bất lợi trong việc chia cổ phần ưu đãi trong nội bộ.
- Phương pháp tính toán có nhiều kẽ hở để ĐG thấp
Công thức tính GTDN= Tài sản hữu hình + Tài sản vô hình (Siêu lợi nhuận)
Công thức trên đã cho DN 2 sự lựa chọn là:
ĐGDN theo phương pháp GW
Và ĐGDN theo giá trị tài sản thuần, tức bỏ qua lợi thế kinh doanh
Sở dĩ vậy, vì trong thông tư 104 quy định: Nếu DN chưa xác định được giá trị lợi thế kinh doanh thì căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận sau thuế bình quân của 3 năm liền kề để xác định.Như vậy, DN mới thành lập, DN với tư cách là một đơn vị trực thuộc được tách ra CPH thì không có 3 năm liền kề để xác định giá trị lợi thế kinh doanh nên họ sẽ chọn phương pháp tài sản thuần để định giá.
Ngoài ra, việc đánh giá giá trị tài sản hữu hình chứa đựng nguy cơ sai số rất cao.Vì tài sản đa dạng về chủng loại và nguồn gốc khác nhau, phần lớn chúng đã khấu hao hết, kỹ thuật lạc hậu qua nhiều thế hệ và không còn xuất hiện trên thị trường nữa, từ đó đòi hỏi về tính chính xác các giá trị của những tài sản này đã đặt ra nhiều vấn đề phức tạp không nhỏ cho sự định giá.Mức độ chính xác phụ thuộc nhiều vào trình độ chuyên môn của các nhà kinh tế chuyên ngành, phụ thuộc nhiều vào ước tính chủ quan của họ về tỷ lệ % công suất và các tính năng kỹ thuật khác.
Với những hạn chế trong quy định và hướng dẫn của Nhà nước về ĐGDN, Công ty Kim khí khi ĐGDN CPH cũng không tránh khỏi những hạn chế đã nêu ở trên. Để hoàn thiện hơn công tác định giá của Công ty Kim khí Hà Nội cũng như hoàn thiện hơn vấn đề định giá DN của Nhà nước em xin đưa ra một số giải pháp cho Công ty Kim khí Hà Nội và một số kiến nghị đối với Nhà nước như sau:
Chương III. Giải pháp hoàn thiện công tác ĐGDN
tại Công ty Kim khí Hà Nội
3.1Phương hướng phát triển của Công ty
3.1.1.Mục tiêu, kế hoạch
3.1.1.1. Mục tiêu
Để theo kịp đà phát triển chung của nền kinh tế, công ty đã xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh trong thời gian tới (các năm sau CPH) với mục tiêu là nâng cao doanh thu, mở rộng thị trường, giảm bớt các khoản phải thu, phải trả nhằm nâng cao lợi nhuận của công ty. Cụ thể, trong giai đoạn 2006-2008, công ty dự kiến phấn đấu mức doanh thu tăng trưởng bình quân năm sau cao hơn năm trước5-7%. Tương ứng với việc tăng doanh thu, lãi gộp các năm sau CPH tăng trên 10% so với các năm trước CPH và với mức tăng trưởng ổn định 6% của năm sau so với năm trước.Công ty tiếp tục mở rộng quy mô kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế, sức cạnh tranh, tiếp tục thực hiện mục tiêu giữ vững ổn định và phát triển bền vững.
3.1.1.2. Kế hoạch kinh doanh của Công ty sau CPH
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Thực hiện các năm trước CPH
Dự kiến sau cổ phần
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
6T/2005
Năm2006
Năm 2007
Năm2008
1. Doanh thu thuần về BH và CCDV
1.460.644
1.049.802
1.327.188
379.588
1.500.000
1.600.000
1.680.000
2. Giá vốn hàng bán
1.401.032
1.000.713
1.268.393
361.676
1.432.500
1.525.500
1.601.000
3. Lợi nhuận gộp
59.612
49.089
58.795
17.912
67.500
74.500
79.000
Tỷ lệ lợi nhuận gộp/doanh thu
4,1%
4,7%
4,4%
4,7%
4,5%
4,7%
4,7%
4.Doanh thu hoạt động tài chính
6.296
10.995
5.588
1.823
5.Chi phí hoạt động tài chính
19.663
24.195
18.345
6.243
24.300
27.000
28.300
-Trong đó lãi vay phải trả
18.462
23.467
16.680
5.598
21.100
23.700
24.900
6.Chi phí bán hàng
16.456
16.038
20.436
6.925
18.000
19.900
20.000
-Tỷ lệ % DT
1,1%
1,5%
1,5%
1,8%
1,2%
1,2%
1,2%
7. Chi phí quản lý
14.111
14.313
17.478
4.646
14.200
15.100
15.700
-Tỷ lệ % DT
1,0%
1,4%
1,3%
1,2%
0,9%
0,9%
0,9%
8. Lợi nhuận từ hoạt động SXKD
15.678
5.538
8.124
1.921
11.000
12.500
15.000
9. Thu nhập khác
1.280
6.085
1.272
438
10. Chi phí khác
585
1.325
4.366
456
11. Lợi nhuận khác
695
4.760
-3.094
-18
12.Tổng lợi nhuận trước thuế
16.373
10.298
5.030
1.903
11.000
12.500
15.000
13. Thuế TNDN (Theo thuế suất quy định)
4.911
3.089
1.078
2.100
14.Lợi nhuận sau thuế
11.462
7.209
3.952
1.903
11.000
12.500
12.900
15. Chi phí lưu thông (BH+QL)
30.567
30.351
37.914
11.571
32.200
35.000
35.700
Tỷ lệ % trên Doanh thu
2,1%
2,9%
2,9%
3,0%
2,1%
2,2%
2,1%
16. Tổng chi phí (không gồm giá vốn)
50.815
55.871
60.625
18.270
56.500
62.000
64.000
Tỷ lệ % trên doanh thu
3,5%
5,3%
4,6%
4,8%
3,8%
3,9%
3,8%
17. Nộp ngân sách
71.243
39.775
29.719
5.843
48.200
53.700
61.100
-Thuế VAT nhập khẩu
43.776
24.807
15.307
4.203
36.600
40.500
44.800
-Thuế nhập khẩu
24.630
12.064
11.803
777
8.000
9.600
10.600
-Thuế thu nhập DN
2.100
-Thuế đất, tiền thuê đất, thuế khác
2.837
2.904
2.609
863
3.600
3.600
3.600
Doanh thu xây dựng dự kiến sau CPH sẽ tăng hơn 10% so với các năm so với các năm trước CPH, tỷ lệ tăng doanh thu năm sau so với năm trước tăng từ 5-7%, lãi gộp tăng trên 10% so với các năm trước CPH.
Về chi phí: So sánh số tuyệt đối của chi phí dự kiến giữa các năm sau CPH với chi phí của các năm trước CPH thi chi phí kinh doanh sau CPH tăng khoảng 10 tỷ đồng. Điều này là phù hợp do việc dự kiến doanh số tăng trưởng hàng năm như đã nói trên, tỷ lệ chi phí doanh số các năm sau CPH dự kiến khoảng 3,7-4% thấp hơn hoặc bằng với tỷ lệ chi phí trên doanh số của các năm trước CPH.
So sánh một số chỉ tiêu khoản mục chi phí dự kiến năm đầu sau CPH (năm 2006) so với các năm trước CPH.
- Chi phí lãi vay: Năm 2006 dự kiến chỉ có khoảng 60 tỷ đồng vốn lưu động CSH tham gia hoạt động kinh doanh (với vốn điều lệ được xây dựng là 115 tỷ đồng), để đạt doanh thu 1500 tỷ đồng thì công ty phải vay vốn ngân hàng với mức dự kiến 320 tỷ đồng, do đó chi phí lãi vay phải trả tăng khoảng 10 tỷ đồng so với các năm trước cổ phần.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: Doanh thu tăng cũng dẫn đến các khoản chi phí dịch vụ mua ngoài liên quan tăng theo tương ứng (như chi phí vận chuyển, bốc xếp, lưu kho,...) với doanh thu và tăng khoảng 3-4 % so với các năm trước.
- Các khoản chi phí khác: Công ty tích cực sử dụng các biện pháp thực hành tiết kiệm để quyết tâm giảm các chi phí như xăng xe, điện nước, điện thoại và các khoản chi phí bằng tiền khác.
Về tình hình nộp ngân sách nhà nước: năm sau cao hơn năm trước và cao hơn các năm trước CPH. Công ty nhập khẩu các mặt hàng nhiều hơn, tăng thuế nhập khẩu và VAT nhập khẩu. Riêng thuế TNDN được miễn 2 năm đầu sau CPH tức là năm 2006 và 2007. Ba năm trước CPH, thuế TNDN nộp ngân sách là bằng 0, và đến năm 2008 công ty đã nộp ngân sách là 2100 triệu đồng.
Lợi nhuận trước thuế xây dựng năm sau tăng so với năm trước 11-12%
3.1.2Phương hướng phát triển của Công ty
Để đạt được mục tiêu đề ra, phương hướng phát triển của công ty trong thời gian tới là:
Về thị trường: Công ty tiếp tục mở rộng thị trường, tìm kiếm nhà cung cấp và đối tác làm ăn đáng tin cậy. Trong giai đoạn hiện nay, tốc độ xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng, các khu trung tâm vui chơi giải trí, các khu công nghiệp, các chung cư cao tầng... đang diễn ra sôi động, công ty nên chủ động ký hợp đồng cung cấp thép và vật tư cho các công trình xây dựng lớn. Đồng thời, công ty tập trung khai thác những thị trường hiện tại như Hà Nội, TP. HCM và tiếp cận những thị trường tiềm năng như Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Tây...
Về nguồn nhân lực: Công ty tiến hành đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên để đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe của thị trường. Thêm vào đó, công ty chủ trương trẻ hoá đội ngũ cán bộ, kết hợp sự năng nổ, nhiệt tình, sáng tạo của tuổi trẻ với kinh nghiệm của thế hệ đi trước nhằm tạo động lực mới cho sự phát triển bền vững của công ty.
3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác ĐGDN tại Công ty Kim khí Hà Nội
Từ thực trạng công tác ĐGDN tại công ty kim khí Hà Nội, cho thấy bên cạnh những kết quả đạt được công ty còn những hạn chế trong công tác định giá. Để hoàn thiện hơn công tác định giá tại công ty kim khí Hà Nội, em xin đưa ra một số giải pháp sau:
Thứ nhất: Đề xuất và áp dụng phương pháp định giá mới.
Phương pháp tính của công ty có hạn chế cơ bản là không tính đúng giá trị của DN, GTDN được định giá thấp hơn nhiều giá trị thực tế mà lẽ ra DN có được. Do vậy, trong chuyên đề này, em xin đề xuất một phương pháp mới cho công ty, đó là phương pháp kết hợp.Đây thực chất là phương pháp kết hợp của 2 phương pháp nêu trên đó là phương pháp tài sản và phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF).
Cơ sở xác định: Xem xét DN như một tổng thể các yếu tố kinh tế hợp thành bao gồm giá trị các tài sản sau kiểm kê đánh giá lại và phần giá trị khả năng sinh lời của DN có thể được tính theo hai cách là: dựa vào số liệu trong quá khứ và dựa vào các dự tính trong tương lai.
Phương pháp kết hợp là sự dung hoà của 2 phương pháp trên với cơ sở tính toán là tất cả giá trị tài sản và lợi nhuận của DN.
Căn cứ xác định: Bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập của DN trong những năm gần nhất và kế hoạch hoạt động của DN trong những năm tới.
Định giá DN:
Cách 1: Dựa vào số liệu trong quá khứ:
V=VA*(1+H)
Trong đó: H=Pd-Pn
Pd: tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn bình quân của DN trong những năm gần nhất.
Pn: Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn bình quân của các DN cùng ngành trong các năm tương ứng.
Cách 2: Dựa vào số liệu ước tính trong tương lai:
GTDN=(Giá trị tài sản thực tế + Giá trị khả năng sinh lời)/2
Lợi nhuận ròng hàng năm dự tính thu được của DN
Giá trị khả năng sinh lời =
Hệ số sinh lời
Giá trị khả năng sinh lời của công ty phụ thuộc vào lợi nhuận mà công ty tạo ra trong tương lai. Nói cách khác, nó phụ thuộc vào khả năng sinh lời của DN trong tương lai, tỷ lệ thuận với lợi nhuận có thể thu đựơc.
Lợi nhuận ròng bình quân hàng năm là lợi nhuận dự tính bình quân còn lại sau khi đã trừ thuế và các chi phí kể cả chi trả lãi vay. Các số liệu này được xác định trên cơ sở tốc độ tăng trưởng của DN trong những năm tới.
Công thức xác định:
n
∑LNi
i=1
LN=
n
LN: Lợi nhuận bình quân hàng năm dự tính thu được
LNi: Lợi nhuận ròng dự tính thu được năm i
N: Số năm dự tính (thường là 5 năm)
Trên thực tế, lợi nhuận ròng bình quân DN thu được có thể lớn hơn, nhỏ hơn, hay bằng mức lợi nhuận dự tính này. Khi tính toán chỉ số này cần xem xét để loại trừ các ảnh hưởng đột biến có liên quan đến lợi nhuận ròng bình quân của DN. Đồng thời cũng cần phải phân tích, dự đoán tình hình sắp tới để điều chỉnh lợi nhuận ròng bình quân dự tính thu được cho phù hợp.
Ví dụ.
DN X có giá trị tài sản sau khi kiểm kê đánh giá là 4.500 trđ. Theo thống kê, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn bình quân của DN trong 3 năm gần nhất như sau:
Năm
Chỉ tiêu
N-2
N-1
N
Cộng
Lợi nhuận sau thuế
770
831,6
881,2
2482,8
Vốn bình quân
3500
3600
3750
10850
Tỷ suất LNST
22
23,1
23,5
22,9
Tỷ suất LNST trên vốn bình quân của các DN trong cùng ngành như sau:
Năm
Chỉ tiêu
N-2
N-1
N
Cộng
Lợi nhuận sau thuế
1360
1476
1665
4501
Vốn bình quân
8000
8200
9000
25200
Tỷ suất LNST
17
18
18,5
17,9
Vậy hệ số điều chỉnh giá trị tài sản ròng: H=22,9%-17,9%=5%
GTDN tính theo công thức này là:
V=4500 ×(1+5%)=4725 trđ
Cũng cần thấy rằng, trong trường hợp DN ở trạng thái bất lợi so với các DN khác trong cùng ngành thì hệ số điều chỉnh giá trị tài sản sẽ là số âm.
Ở trong ví dụ này, chúng ta mặc nhiên chấp nhận việc sử dụng những số liệu quá khứ đối với phần lợi nhuận thặng dư để đưa vào GTDN
Ưu điểm phương pháp
Phương pháp này khắc phục được nhược điểm của 2 phương pháp trên là phương pháp tài sản và phương pháp chiết khấu dòng tiền vì nó cho phép định giá GTDN dưới cả hai góc độ giá trị tài sản và lợi nhuận của DN. Nó đồng thời xem xét đến cả hai khía cạnh lợi ích kinh tế của cả người mua và người bán
Phương pháp này cũng tạo ra khả năng bù trừ các sai sót có thể xảy ra khi xác định GTDN theo từng phương pháp đơn lẻ nêu trên:
+ Với phương pháp định giá theo tài sản: Khi đánh giá tài sản, khó khăn xảy ra khi có những thay đổi về công nghệ ảnh hưởng tới giá trị của tài sản, cũng như khi chúng ta đánh giá những tài sản đặc biệt, những tài sản chuyên dụng với những thông tin thị trường hết sức nghèo nàn về chúng. Thêm vào đó, giá trị thị trường hợp lý thể hiện ra ngoài của tài sản không phản ánh được khả năng tạo ra lợi nhuận của chúng, thậm chí có sự khác biệt đáng kể. Vì vậy, GTDN được xác định theo phương pháp này, nếu được công nhận là tương đối chính xác thì cũng chỉ là sự chính xác trên mức độ của những nhận định chủ quan mà thôi.
+ Với phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF): sẽ là một mức độ phỏng đoán cao những thông tin trong tương lai trong điều kiện mà yếu tố thị trường là không chắc chắn, ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của DN, và thêm những bất định nữa trong việc dự tính được một tỷ lệ chiết khấu hợp lý trong điều kiện những thay đổi của nền kinh tế. Trong thực tế hoàn cảnh như vậy, rõ ràng một mức giá DN đưa ra cũng mang tính chính xác tương đối mà thôi.
Hạn chế: Phương pháp này đòi hỏi phải tính toán nhiều hơn so với 2 phương pháp trên, mất nhiều thời gian và công sức hơn để đưa ra được cả giá trị tài sản cũng như tính toán được giá trị khả năng sinh lời. Hơn nữa, những số liệu để tính toán tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn bình quân của các DN cùng ngành không phải là điều dễ dàng. Một loạt các vấn đề sẽ xuất hiện khi còn có những DN ngoài khu vực, những DN kinh doanh đa dạng trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Đối tượng áp dụng: đặc biệt thích hợp với những DN có giá trị tài sản lớn cũng như khả năng thu lợi nhuận siêu ngạch (giá trị tài sản vô hình) cao, đó là những DN đang nằm trong định hướng phát triển của nhà nước, được hưởng những ưu đãi đặc biệt về giá, thuế... mà việc áp dụng phương pháp định giá dựa trên khả năng sinh lời đối với chúng còn có những hạn chế nhất định.
Thứ hai: Công ty phải tính giá trị tài sản vô hình vào giá trị của DN, có thể tiến hành tính giá trị tài sản vô hình theo cách tính goodwill. Phương pháp GW là một trong những phương pháp tính giá trị tài sản vô hình được công nhận như là phương pháp hoàn hảo nhất vì nó kết hợp các giá trị theo tài sản và theo giá trị năng suất,coi DN không chỉ về mặt công nghiệp hoặc kinh tế mà còn về mặt tài chính và có sự phân chia trong tương lai khi xác định giá bán DN
Công thức:
n Rt - rAt
GW = ∑
t=1 (1+i)t
Trong đó:
Tt: Khoản thu năm t
r: Tỷ suất lợi nhuận bình thường của tài sản
i: Tỷ suất hiện tại hoá
n: Số năm nhận được khoản thu
Tỷ suất hiện tại hoá phản ánh chi phí vốn, rủi ro trong kinh doanh, rủi ro tài chính và rủi ro thanh khoản của DN.
Tỷ suất hiện tại hoá = f(tỷ suất cơ bản, rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính, rủi ro thanh khoản, rủi ro gắn với thị trường...)
Thứ ba: Kiện toàn bộ máy kế toán DN: Khi ĐGDN, tổ chức định gía thường dựa vào số liệu trên sổ sách kế toán để làm cơ sở xác định giá trị tài sản DN, nên số liệu có chính xác thì kết quả xác định mới phản ánh chính xác. Kiện toàn bộ máy kế toán thể hiện ở việc nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên kế toán trong DN, chủ động xử lý các tồn tại tài chính chứ không chờ đến thời điểm CPH mới làm, gây mất thời gian cho công tác định giá.
3.3. Kiến nghị với Nhà nước
Thứ nhất: Thông tin cung cấp trong quá trình định giá phải có độ tin cậy nhất định
Các phương pháp định giá thường đòi hỏi phải có một khối lượng lớn thông tin được cung cấp. Do công việc định giá DN là một việc làm phức tạp, và khá mới mẻ ở nước ta nên thông tin cung cấp càng nhiều càng tốt, song thông tin đó phải có độ tin cậy ở một mức độ nhất định. Đối với các chuyên gia, thông tin có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau, đòi hỏi về mặt xử lý thông tin. Ở Việt Nam hiện nay, các thông tin quan trọng và cần thiết cho công tác xác định GTDN như hệ số tín nhiệm, các chỉ số tài chính trung bình ngành và các chỉ số chứng khoán thì Việt Nam chưa đáp ứng được. Loại thông tin này được công bố, trong nhiều trường hợp, sẽ giúp các chuyên gia định giá không phải sa vào một ma trận các loại thông tin, mà vẫn ước lượng được các tỷ lệ rủi ro và GTDN một cách nhanh chóng. Nó góp phần làm giảm đi tính “nghệ thuật”,tính chủ quan cũng như sự hạn chế về trình độ của người định giá. Chính vì vậy,để không phải mò mẫm với những mớ thông tin được cung cấp, trong chuyên đề này em có kiến nghị:
- Chính phủ cần cho phép thành lập các công ty chuyên xếp hạng và đánh giá hệ số tín nhiệm đối với các DN, hoặc cho phép loại công ty này của nước ngoài được hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam
- Cần phải gấp rút bổ sung thêm vào hệ thống số liệu thống kê của Nhà nước các chỉ tiêu tài chính trung bình ngành. Nó bao gồm khoảng 18 chỉ tiêu mà chuyên gia định giá có thể sử dụng khi chưa có hệ số tín nhiệm. Đòi hỏi này về cơ bản là có thể làm được ngay bằng cách dựa trên các Bảng cân đối kế toán, Báo cáo thu nhập và Báo cáo kiểm toán.
-Thúc đẩy nhanh sự phát triển của Thị trường chứng khoán
TTCK phát triển sẽ chỉ ra giá thị trường của DN hàng ngày trên bảng điện tử. Đó là một thông tin quan trọng để đối chiếu với sự đánh giá của chuyên gia về GTDN có chứng khoán niêm yết và giao dịch trên TTCK. Ngoài ra, giá cả của chứng khoán cũng là một cơ sở quan trọng để người ta định giá các DN có những điều kiện tương tự nhưng không có chứng khoán được niêm yết.
Thứ hai: Tổ chức định giá phải chuyên nghiệp và có trình độ
Trước đây, việc xác định GTDN chủ yếu do các hội đồng ĐGDN của các Bộ, ngành , địa phương, Tổng công ty thực hiện. Dần dần, các hội đồng này được thay thế bằng các tổ chức tài chính trung gian như công ty kiểm toán,công ty chứng khoán, trung tâm thẩm định giá...Việc sử dụng các tổ chức tài chính trung gian xác định GTDN có tác dụng hạn chế sự can thiệp của các cơ quan hành chính Nhà nước, nâng cao tính công khai, minh bạch và tính chuyên nghiệp trong hoạt động định giá, nâng cao trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại DN.
Trên thực tế, lĩnh vực định giá DN còn mới mẻ cả về lý thuyết và thực hành. .Một vấn đề đáng băn khoăn hiện nay là các tổ chức tài chính trung gian chưa đáp ứng đủ khả năng xác định GTDN. Việc xác định giá trị giữa công ty kiểm toán và tổng công ty vênh nhau khá lớn do các công ty kiểm toán chỉ căn cứ vào số liệu sổ sách trong khi DN còn rất nhiều lợi thế chưa được tính tới.Để lựa chọn các tổ chức định giá DN phù hợp, có năng lực thực sự và bảo đảm tính đúng đắn kết quả trong việc định giá DN là một vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc xác định GTDN Muốn vậy, cần có cơ chế quy định cụ thể tiêu chuẩn của một tổ chức được lựa chọn để thực hiện việc định giá DN. Tổ chức đó trước hết phải có đội ngũ cán bộ về số lượng chuyên gia,có trình độ chuyên môn nhất định,có kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp. Những tổ chức định giá phải đảm bảo đủ những tiêu chuẩn đó thì tổ chức định giá DN mới chất lượng và có độ tin cậy cao. Thực tế hiện nay việc lựa chọn và chỉ định các tổ chức vẫn chủ yếu dựa vào định tính, chưa dựa trên những tiêu chuẩn định lượng cụ thể để lựa chọn. Do đó,có nhiều tổ chức được chọn trong danh sách để thực hiện việc định giá DN chưa thực sự có đủ năng lực chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp để thực hiện một cách có hiệu quả và chuẩn xác kết quả định giá của DN. Đó là còn chưa kể đến cơ chế kiểm tra các đơn vị tham gia thực hiện việc xác định GTDN như quy trình hoạt động, chất lượng chuyên môn, nhân sự...chưa có. Vì những lý do nêu trên, Nhà nước cần thực hiện tốt vai trò của mình trên các mặt:
-Tổ chức đào tạo gấp một đội ngũ các nhà Thẩm định giá bao gồm các kiến thức về: Lý thuyết đầu tư, tài chính doanh nghiệp, kế toán, kiểm toán, phân tích tài chính, thị trường chứng khoán và toán xác suất thống kê.
- Cần có sự phân biệt các lớp đào tạo chuyên sâu về kiến thức chuyên ngành cho đội ngũ nói trên. Vì thực tế, nhà thẩm định giá không thể nắm vững các khía cạnh kỹ thuật phong phú của nhiều ngành.
Thứ ba:Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn về xác định GTDN, nhằm giúp công tác ĐGDN diễn ra nhanh chóng, thuận lợi và kết quả tính chính xác.
Thứ 4: Nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện cơ chế định giá và bán cổ phần theo hướng gắn với thị trường và đảm bảo khách quan, minh bạch. Trong đó cần bổ sung các quy định mang tính chuẩn mực trong công tác định giá (đặc biệt là đối với đất, tài sản đầu tư dài hạn và giá trị lợi thế kinh doanh trong DN, giá trị các tổng công ty), xoá bỏ cơ chế định giá theo hội đồng để chuyển sang thực hiện công tác định giá qua định chế trung gian (để nâng cao tính chuyên nghiệp và đảm bảo tính khách quan): đẩy mạnh phân cấp về thẩm quyền lựa chọn tổ chức định giá, thẩm tra và quyết định công bố, điều chỉnh giá trị DN cho các bộ;đồng thời khẳng định GTDN được xác định chỉ là cơ sở để xác định quy mô vốn điều lệ và giá khởi điểm để thực hiện đấu giá bán cổ phần, giá trị thực tế của DN CPH sẽ được xác định thông qua kết quả đấu giá. Về bán cổ phần, cần thực hiện cơ chế bán cổ phần qua đấu giá, xoá bỏ cơ chế bán cổ phần theo giá sàn và bán cổ phần lại trả chậm, thực hiện các giải pháp để thực hiện CPH với việc phát triển thị trường vốn, nâng cao tính khách quan, minh bạch trong hoạt động bán cổ phần để khắc phục tình trạng CPH khép kín trong nội bộ DN.
Kết luận
Quá trình CPH ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra nhanh chóng và sôi nổi, đã có nhiều văn bản hướng dẫn của Nhà nước về hướng dẫn xác định GTDN để tiến trình CPH được đẩy nhanh.Tuy nhiên, đến nay vướng mắc trong xác định giá trị DN là vấn đề lợi thế kinh doanh, lợi thế địa lý, giá trị thương hiệu và nhất là vấn đề đất đai. Khó khăn ở chỗ, các yếu tố này rất khác nhau giữa các địa phương, giữa các DN thuộc lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, nên không thể có một văn bản chung để hướng dẫn.Vì vậy, trong triển khai thực hiện thường là không thống nhất giữa các nơi,các thời điểm. Đã có tình trạng giá trị quyền sử đụng đất, giá trị trang thiết bị, giá trị lợi thế bị đánh giá quá cao,hoặc quá thấp, dẫn đến những khó khăn không đáng có sau chuyển đổi.
Trong thời gian thực tập tại công ty Kim khí Hà Nội, với những kiến thức đã được học trên ghế nhà trường cùng với sự quan tâm giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn - Tiến sĩ: Đặng Ngọc Đức, Ban lãnh đạo cùng các cô chú phòng Tài chính- kế toán, em đã mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác định giá doanh nghiệp tại Công ty Kim khí Hà Nội
Do trình độ và thời gian thực tập có hạn, chắc chắn cuốn chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cô giáo, các cán bộ phòng Tài chính_kế toán và các bạn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo-Tiến sĩ: Đặng Ngọc Đức đã giúp em hoàn thành cuốn chuyên đề này.
Tài liệu tham khảo
1. Đánh giá doanh nghiệp: Nguyễn Hải Sản, NXB Tài chính, 1999.
2. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp: PGS.TS Lưu Thị Hương,trường Đại học KTQD, NXB thống kê
3.Thông tư 126/2004/TT-BTC ngày24/12/2004, thông tư 79/2004/TT-BTC
4. Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004
5. Tạp chí tài chính doanh nghiệp, tạp chí thị trường chứng khoán, công báo, kinh tế phát triển
6. Website: vinaseek.com, google.com
7. Luận án tiến sĩ: Hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, Nguyễn Minh Tuấn.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9716.doc