Tài liệu Hoàn thiện công tác đánh giá tín nhiệm các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội: LỜI MỞ ĐẦU
Đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp còn khá mới mẻ đối với Việt Nam. Theo các tác giả trong và ngoài nước định mức tín nhiệm được hiểu là việc phân định mức độ tin tưởng trong khả năng chi trả của một doanh nghiệp hay nhà phát hành. Hay nói cách diễn đạt khác: Định mức tín nhiệm doanh nghiệp là mức độ tin cậy vào khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính của một doanh nghiệp hay nhà phát hành các tiêu chí được đưa vào đánh giá chủ yếu là tiêu chí tài chính, các tiêu chí phi tài chính rất mờ ... Ebook Hoàn thiện công tác đánh giá tín nhiệm các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1785 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác đánh giá tín nhiệm các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhạt. Hơn nữa các tiêu chí này không thống nhất và chủ yếu là do các tổ chức tài chính như ngân hàng đưa ra. Chưa có hệ thống tiêu chí riêng cho doanh nghiệp tự đánh giá, cho các cơ quan quản lý đánh giá các doanh nghiệp.
Như vậy khái niệm định mức tín nhiệm doanh nghiệp cần được hoàn thiện hơn để phản ánh được độ tin cậy của doanh nghiệp đối với các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà đầu tư như các tổ chức tài chính và người tiêu dụng. Rất cần thiết phải nghiên cứu thực trạng công tác đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp. Hiện nay từ góc độ doanh nghiệp cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức như ngân hàng, từ đó đề xuất hệ thống tiêu chí và phương thức chung đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Các doanh nghiệp tự đánh giá và xếp hạng đối với các doanh nghiệp khác cùng ngành và đối thủ cạnh tranh để từ đó đề ra các giải pháp khả thi nâng cao vị thế trên thường trường.
Việc nghiên cứu đề tài : "Hoàn thiện công tác đánh giá tín nhiệm các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội" đáp ứng được các yêu cầu trên. Việc nghiên cứu này cấp bách và cần thiết nhằm phục vụ cho quá trình đổi mới và phát triển kinh tế theo hướng thị trường trong bối cảnh khu vực hóa và toàn cầu hóa đang diễn ra ngày một mạnh mẽ.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung của chuyên đề gồm 4 chương :
Chương 1: Cơ sở lý luận về đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng công tác đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ TÍN NHIỆM
DOANH NGHIỆP
1.1 Khái niệm vai trò đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm đánh giá TNDN
a. Lịch sử hình thành và phát triển đánh giá TNDN
Vào thế kỉ 17, giao dịch thương mại rất phát triển, vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ. Do đó nhu cầu thông tin về đối tác làm ăn ngày càng trở nên cấp thiết. Họ muốn biết ít nhiều về đối tác để công việc được suôn sẻ hơn, ít rủi ro hơn. Những lá thư giới thiệu từ những người tiếng tăm hoặc từ những người mà cả hai bên đều biết là hình thức thông báo tín nhiệm sơ khai đầu tiên. Các tổ chức thông báo tín nhiệm mang tính chất dịch vụ thực sự xuất hiện vào đầu thế kỉ 19, khi khối lượng giao dịch phát triển mạnh, nhu cầu về thông tin đối tác đủ lớn để mang lại lợi nhuận cho dịch vụ. Các công ty định mức tín nhiệm đầu tiên xuất hiện tại Mỹ như Moody, S&P, Fitch và phát triển dần thành trao lưu.
Sau thế chiến thứ nhất, trong những năm 1920, các công ty định mức tín nhiệm hoạt động rất mạnh do thị trường nợ có quá nhiều hàng hóa. Từ trái phiếu liên bang, trái phiếu địa phương đến trái phiếu công ty đều phát triển theo cấp số nhân. Việc kiểm soát rủi ro vì thế càng trở nên quan trọng, liên quan đến sự tồn vong của nhiều tổ chức kinh tế.
Thời kì khó khăn nhất của các công ty định mức tín nhiệm kéo dài gần chục năm, từ 1929 đến 1937. Sự mất lòng tin vào các công ty định mức tín nhiệm lên đến đỉnh điểm khi 78% món nợ không có khă năng chi trả lại được xếp thứ hạng cao về mức tín nhiệm. Trong cuộc khủng hoảng 1929 – 1933 hàng loạt các doanh nghiệp bị phá sản, vỡ nợ.
Trong giai đoạn từ năm 1940 đến 1970, các công ty định mức tín nhiệm hoạt động tương đối ổn định, thị trường nợ hoạt động tương đối an toàn và không có những thay đổi đột biến. Thu nhập chủ yếu của các công ty định mức tín nhiệm xuất phát từ việc bán các ấn phẩm liên quan đến xếp hạng tín nhiệm.
Cuối những năm 1970, hoạt động định mức tín nhiệm đã có những bước tiến đáng kể. Trước 1970 số lượng chuyên viên làm nhiệm vụ phân tích không nhiều , ngay cả ở những công ty định mức tín nhiệm hàng đầu. Công ty S&P chỉ có 30 chuyên viên phân tích vào năm 1980, song đến năm 1995 thì con số này đã lên tới 800 trên tổng số 1200 nhân viên. Công ty Moody cũng có tới 560 chuyên viên phân tích trên tổng số 1700 nhân viên. Đồng nghĩa với việc đó là sự phát triển của chứng khoán được xếp hạng tăng lên rất nhiều. Năm 2000, Moody đã xếp hạng cho 20.000 nhà phát hành tại Mỹ và 1.200 nhà phát hành nước ngoài. S&P vào năm 1995 đã xếp hạng khoảng 30.000 trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi được phát hành bởi 4.000 công ty trên khắp thế giới và khoảng 15.000 loại trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu chính phủ, các tổ chức nước ngoài và các tổ chức xuyên quốc gia.
Ba công ty định mức tín nhiệm hàng đầu của Mỹ không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động, ra cả châu Âu, châu Á và Mỹ lating. Hoạt động định mức tín nhiệm không dừng ở việc xếp hạng các nhà phát hành chứng khoán, mà còn thực hiện xếp hạng tín nhiệm cho các quốc gia và các định chế tài chính xuyên quốc gia. Các công ty định mức tín nhiệm đã được thừa nhận rộng rãi ở thị trường quốc tế. Hoạt động có hiệu quả của họ giúp các nhà đầu tư có thông tin cần thiết, đáng tin cậy trước khi ra quyết định đầu tư trái phiếu quốc tế ở các thị trường phát triển. Số lượng các công ty định mức tín nhiệm đã gia tăng nhanh chóng tại New York, Tokyo, London và HongKong. Các công ty định mức tín nhiệm hàng đầu thế giới đã thành lập các chi nhánh tại các thị trường đang phát triển, nơi đang cần xếp hạng tín nhiệm đối với các nhà phát hành chứng khoán quốc tế của các công ty đang hoạt động tại các quốc gia đó.
Trong thời gian gần đây, các nhà hoạch định chính sách ở các quốc gia công nghiệp hóa mới và các nước đang phát triển ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng của định mức tín nhiệm đối với sự phát triển kinh tế, sự phát triển của thị trường chứng khoán và tiền tệ. Các quốc gia cũng bắt đầu thành lập các công ty định mức tín nhiệm của nước mình và thúc đẩy các hoạt động hợp tác trên lĩnh vực này.
Năm 1993, diễn đàn các tổ chức định mức tín nhiệm của ASEAN là AFCRA (Asean Forum of Credit Rating Agencies) được thành lập, tạo tiền đề cho việc thúc đẩy các tiêu chuẩn quốc tế của các tổ chức định mức tín nhiệm của ASEAN. Mục tiêu của AFCRA là xác định quy tắc hoạt động trong khu vực, chia sẻ thông tin và nghiệp vụ chuyên môn thông qua các chương trình huấn luyện và xử lý thông tin tài chính doanh nghiệp giữa các thành viên. Tổ chức định mức tín nhiệm doanh nghiệp đã được thành lập ở 4 nước là Philippin (1982), Malaysia(1991), Thái Lan(1993) và Indonesia(1995).
Ở Việt Nam, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc đánh giá TNDN lại càng trở nên cấp thiết hơn. Các doanh nghiệp có thể tự đánh giá và xếp hạng các doanh nghiệp khác cùng ngành và đối thủ cạnh tranh để từ đó đề ra các giải pháp khả thi, nâng cao vị thế trên thương trường. Các tổ chức tài chính ngân hàng sẽ có hệ thống tiêu chí cà phương thức chung đánh giá mức độ tín nhiệm doanh nghiệp và coi đó như một công cụ để quyết định đầu tư. Các cơ quan quản lý nhà nước cũng sẽ có công cụ để đánh giá các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh một cách chính xác, đầy đủ hơn, từ đó đề ra các quyết sách phù hợp.
Năm 2002, Việt Nam lần đầu tiên chính thức mời cả 3 công ty định mức tín nhiệm hàng đầu thế giới là Fitch, S&P và Moody vào Việt Nam để đánh giá hệ số tín nhiệm quốc gia trong thời gian qua. S&P đã quyết đinh dành cho Việt Nam mức tín nhiệm BB đối với các khoản nợ dài hạn bằng nội tệ và ngoại tệ. kết quả này củng cố lòng tin của các nhà đầu tư khi kựa chọn đầu tư vào Việt Nam. triển vọng hệ số tín nhiệm của Việt Nam trong tương lai phụ thuộc vào tiến trình cải cách và duy trì chiến lược quản lý nợ thận trọng.
Trên địa bàn Hà Nội đã có một số tổ chức ra đời chuẩn bị cung cấp dịch vụ đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp:
Trung tâm thông tin Tín dụng (CIC) thuộc ngân hàng nhà nước, ra đời năm 1993, với nhiệm vụ tích hợp thông tin trong lĩnh vực tín dụng và tiến hành xếp hạng tín nhiệm cho các doanh nghiệp có quan hê vay vốn với ngân hàng.
Công ty đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp C&R. Đây là một doanh nghiệp tư nhân chủ yếu hoạt động kinh doanh thông tin tín nhiệm. Do thị trường nhỏ lẻ và chưa có thói quen minh bạch và chi phí cho việc mua thông tin nên C&R hoạt động cầm chừng, tự trang trải chi phí.
Trung tâm đánh giá tín nhiệm Vietnamnet (CRV), thuộc công ty phần mềm và truyền thông VASC.
b. Sự cần thiết đánh giá TNDN
Đánh giá TNDN đã hình thành và phát triển trong thời gian dài do yêu cầu của nền kinh tế. Sự cần thiết phải tiến hành đánh giá TNDN có thể thấy qua một số lý do sau:
Sự phát triển của doanh nghiệp luôn gắn với việc huy động vốn từ trong và ngoài doanh nghiệp. Các tổ chức cho vay luôn muốn bảo toàn vốn và thu lãi từ đồng tiền đầu tư. Do vậy họ cần nhiều thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần đánh giá việc duy trì, ổn định và phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đánh giá TNDN, các tổ chức tài chính như ngân hàng sẽ có cơ chế tín dụng phù hợp đối với doanh nghiệp như hạn mức cho vay, mức lãi suất, điều kiện cho vay…
Trong quan hệ đối tác giữa các doanh nghiệp tồn tại nhiều hình thức khác nhau và họ không thể yên tâm hợp tác khi chưa có đủ thông tin cần thiết về đối tác. Hiểu biết đối tác là điều kiện đầu tiên để hợp tác có hiệu quả, nhanh chóng và thành công. Sự tin cậy lẫn nhau cả tren phương diện tài chính cũng nhe phi tài chính sẽ đảm bảo sự hợp tác bền vững lâu dai và có lợi cho các bên tham gia.
Cơ quan cấp trên của doanh nghiệp, cơ quan quản lý của nhà nước thường xuyên đánh giá doanh nghiệp về doanh thu, lợi nhuận, năng lực quản lý, việc chấp hành chính sách… để đề ra những cơ chế chính sách phù hợp giúp phát triển doanh nghiệp và đảm bảo lợi ích xã hội.
Bản thân doanh nghiệp cũng cần tự đánh giá bản thân theo những tiêu chí tín nhiệm chung để thấy rõ thực lực của mình. Qua tự đánh giá TNDN, doanh nghiệp sẽ thấy rõ hơn những mặt mạnh, những lợi thế, song cũng thấy rõ hơn những điểm yếu cần được khắc phục. Đặc biệt khi được tổ chức đánh giá tín nhiệm có uy tín đánh giá cao là lợi thế cho doanh nghiệp trong việc mở rộng quan hệ làm ăn, nâng cao uy tín với đối tác, thu hút đầu tư…
Trong qua trình hội nhập, thị trường vốn, thị trường chứng khoán ngày càng có điều kiện phát triển với nhiều công cụ thu hút đầu tư. Sự huy động vốn đã và đang mang tính quốc tế, không chỉ phạm vi quốc gia mà đã lan ra toàn cầu. Các nhà đầu tư vì thế càng quan tâm đến sự tin cậy của các nhà phát hành, trong đó có doanh nghiệp.
c. Khái niệm đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
Có rất nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm đánh giá TNDN.
Đánh giá tín nhiệm là thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Anh – Credit Rating.
Theo công ty Moody, đánh giá tín nhiệm là ý kiến về khả năng và sự sẵn sàng của một nhà phát hành trong việc thanh toán đúng hạn cho một khoản nợ nhất định trong suốt thời hạn tồn tại của khoản nợ đó.
Theo Bohn, Jonh A trong cuốn "Phân tích rủi ro trên các thị trường đang chuyển đổi" thì đánh giá tín nhiệm là sự đánh giá về khả năng một nhà phát hành có thể thanh toán đúng hạn cả gốc và lãi đối với một loại chứng khoán nợ trong suột thời gian nó tồn tại.
Về mặt nào đó, đánh giá tín nhiệm có thể được coi như là một hình thức tư vấn đầu tư chứng khoán, song đây không hoàn toàn là một lời khuyên nên mua hay bán bất kỳ một loại chứng khoán nào. Đánh giá tín nhiệm được ấn định cho nhà phát hành, song nó luôn gắn với một khoản nợ nhất định của nhà phát hành đó.
Đánh giá TNDN là đánh giá khả năng và mong muốn của doanh nghiệp trong việc thực hiện các cam kết tài chính khi chúng tới hạn. Đánh giá này không khẳng định thông tin về khả năng trả nợ của doanh nghiệp được xếp hạng với bất kỳ nghĩa vụ tài chính cụ thể nào. Tín nhiệm doanh nghiệp có thể tăng hoặc giảm theo khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính. Định mức TNDN dùng để đo lường mức độ rủi ro gắn liền với một khoản đầu tư nào đó. Do vậy, đối với các nhà đầu tư, TNDN là công cụ hữu ích giúp cho việc ra quyết định đầu tư. Đối với một nhà phát hành, nó được dùng như một chiến lược để huy động vốn. Đối với nhà quản lý, nó được dùng như một công cụ để giám sát thị trường tài chính, nhằm giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư và rủi ro hệ thống nói chung.
Các khái niệm về tín nhiệm trên đều có một chung: Định mức tín nhiệm là sự phân định mức độ tin tưởng trong khả năng chi trả của một doanh nghiệp hay nhà phát hành. Khái niệm về tín nhiệm này chưa đề cập đến việc doanh nghiệp tự đánh giá mức độ tín nhiệm của mình đối với các tổ chức tài chính, các đối tác làm ăn, các nhà quản lý cấp trên, quản lý nhà nước, đến khách hàng. Khái niệm mới dừng ở sự đánh giá khả năng trả nợ vay của doanh nghiệp, chưa đề cập một cách toàn diện đến chất lượng của doanh nghiệp với các yếu tố tài chính và phi tài chính.
Như vậy có thể định nghĩa: Đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp là xếp hạng doanh nghiệp về mức độ hoạt động kinh doanh thông qua các tiêu chí tài chính và phi tài chính từ phía doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các cơ quan quản lý.
Với cách tiếp cận này, đánh giá TNDN không chỉ được thực hiện riêng cho thị trường chứng khoán, mà được mở rộng hơn. Doanh nghiệp có thể tự xếp hạng mình một cách tương đối so với các doanh nghiệp khác cùng ngành, để từ đó có những điều chỉnh kế hoạch sao cho phù hợp. Họ cũng có thể tự thu thập thông tin để đánh giá đối tác trong quan hệ hợp tác, trong quan hệ cung cấp vật tư và tiêu thụ sản phẩm. Các ngân hàng thương mại, trong hoạt động cấp tín dụng hoặc đầu tư vào doanh nghiệp cũng sẻ đánh giá được mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp thông qua hệ thống tiêu chí và phương thức đánh giá chung. Các cơ quan quản lý nhà nước cũng có một công cụ hữu hiệu để đánh giá hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp để điều chỉnh các cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
1.1.2 Vai trò đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
Đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp mang lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia: nhà đầu tư, nhà quản lý, khách hàng của doanh nghiệp và bản thân doanh nghiệp.
Lợi ích đối với người đầu tư
Từ quan điểm của người đầu tư, lợi ích của đánh giá tín nhiệm rất ràng. Cho dù nó được sử dụng ở đâu trên thế giới, mục đích chính của nó vẫn là đánh giá những rủi ro tiềm năng đối với một loạt đầu tư thu nhập cố định để so sánh với những công cụ khác. Nếu đánh giá tín nhiệm hoàn thành được vai trò trọng tâm đó, nó có thể đáp ứng được những lợi ích liên quan khác đối với nhà đầu tư. Người đầu tư có thể sư dụng các kết quả đánh giá tín nhiệm để tạo ra một danh mục đầu tư dựa vào yếu tố rủi ro. người đầu tư sử dụng kết quả đánh giá tín nhiệm để xác định một loại đầu tư có đáp ứng được tiêu chuẩn đề ra hay không. Nếu có, việc đầu tư đó sẽ được tiến hành và duy trì cho đến lúc đáo hạn.
Với thị trường chứng khoán, đánh giá tín nhiệm được sử dụng để đánh giá giá trị thị trường hiện tại của chứng khoán trong danh mục. Theo quy tắc chung, chứng khoán đánh giá càng cao càng dễ bán trên thị trường kém thanh khoản. Việc lên xuống thứ hạng tín nhiệm của doanh nghiệp hay nhà phát hành sẽ lập tức ảnh hưởng đến việc điều chỉnh danh mục đầu tư của các nhà đầu tư.
Lợi ích đối với doanh nghiệp hay các tổ chức phát hành
Nếu việc đánh giá tín nhiệm được thị trường chấp nhận, có giá trị thiết thực đối với nhà đầu tư, thì chúng cũng có lợi ích nhất định đối với doanh nghiệp hay tổ chức phát hành.
Thứ nhất là doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn tốt hơn.
Thứ hai là tăng hiệu quả huy động vốn mới
Thứ ba là tín nhiệm doanh nghiệp được đánh giá tốt sẽ giảm chi phí vay.
Lợi ích đối với những nhà quản lý
Đánh giá TNDN mang lại nhiều lợi ích cho các nhà quản lý tài chính nói riêng và các nhà quản lý nhà nước nói chung. Các cơ quan tài chính sử dụng các kết quả đánh giá tín nhiệm để xem xét tư cách của một doanh nghiệp hay một tổ chức phát hành, hoặc để đánh giá, quản lý tài chính của các tổ chức mà họ chịu trách nhiệm. Một số nhà quản lý còn can thiệp trực tiếp vào hoạt động của các tổ chức đầu tư như yêu cầu phải báo cáo mực hạng của các chứng khoán đầu tư hoặc không được mua vào hay nắm giữ các chứng khoán có mức hạng bị hạ xuống một giới hạn nào đó. Đối với các nhà quản lý nhà nước, mức độ TNDN là cơ sở khách quan để đánh giá vị thế của doanh nghiệp, để dự báo sự phát triển của ngành, của địa phương. Nếu mức độ TNDN ở dưới mức cho phép, nhà quản lý sẽ vào cuộc can thiệp để phát hiện những sai lệch trong cơ chế chính sách của nhà nước hay những sai phạm của bản thân doanh nghiệp.
Nâng cao sự minh bạch của thị trường
Hệ thống đánh giá tín nhiệm nâng cao hiệu quả của thị trường bằng cách cung cấp một ngôn ngữ chung cho việc đánh giá các rủi ro tín dụng và đưa ra thị trường những thông tin đã được xử lý về chất lượng của các doanh nghiệp hay tổ chức phát hành nợ. Nhìn chung vệc này rất có lợi cho thị trường, sự minh bạch này giúp nhà đầu tư giảm bớt lo ngại rủi ro tín dụng của các chứng khoán lạ và tổ chức phát hành có thể tổ chức một kênh phân phối đến các thị trường khác. Sự tồn tại đánh giá TNDN giúp cho các doanh nghiệp hay tổ chức phát hành xác định những đảm bảo tài chính thích hợp đối với những khoản nợ cụ thể trước khi họ chào bán cho nhà đầu tư.
1.2 Hệ thống tiêu chí và phương thức đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
Chất lượng đánh giá TNDN phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhận thức về ý nghĩa của đánh giá TNDN, hành lang cho việc đánh giá, trình độ cán bộ đánh giá và hạ tầng cơ sở kĩ thuật phục vụ đánh giá… Có thể đưa ra khái niệm về hệ thống các tiêu chí đánh giá và phương thức đánh giá như sau:
Hệ thống tiêu chí đánh giá TNDN là một tập hợp các tiêu chí tài chính và phi tài chính dùng để đánh giá mức độ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Phương thức đánh giá TNDN là cách thức xếp hạng doanh nghiệp thông qua các công cụ toán và hệ thống các tiêu chí với quy trình chặt chẽ.
1.2.1 Hệ thống các tiêu chí đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
a. Hệ thống các tiêu chí tài chính dùng cho doanh nghiệp tự đánh giá
Các tiêu chí tài chính của doanh nghiệp được chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất gồm các tiêu chí về kết quả hoạt động kinh doanh và bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp .các tiêu chí nay chỉ phản ánh một cách tổng quát về tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ kế toán, chưa cho thấy hoạt động kinh doanh có thật sự hiệu quả hay không, tình hình tài chính có khả quan, ổn định hay không. Sau đây là 6 nhóm tiêu chí thuộc nhóm thứ nhất:
- Doanh thu: phản ánh toàn bộ doanh thu từ bán sản phẩm, dịch vụ chính của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo (bao gồm doanh thu đã và chưa thu tiền).
Doanh thu thuần : là số hiệu của doanh thu và các khoản giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế xuất khẩu. Tiêu chí này cho biết doanh thu thực sự của doanh nghiệp .
- Lãi gộp : là doanh thu trừ đi giá thành công xưởng. Tiêu chi này cho biết mức độ thu lợi của quá trình sản xuất trực tiếp tại doanh nghiệp.
Lợi nhuận gộp : là khoản chênh lệch giữa doanh thu thuần và giá bán hàng bán, cho biết mức độ thu lợi trên giá vốn hàng bán của của hoạt động kinh doanh chính của doanh nghiệp .
- Chi phí phân phối và hành chính bao gồm chi phí liên quan đến quá trình tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ và những chi phí có tính chất chung, liên quan đến việc quản lý quá trình sản xuất kinh doanh.
- Lợi nhuận: là phần lãi gộp trừ đi chi phí phân phối và hành chính, nó cho biết hoạt động của doanh nghiệp có lãi hay không.
Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh: là hiệu số của lợi nhuận gộp với chi phí phân phối và hành chính, cho thấy hoạt động kinh doanh chính của doanh nghiệp có lãi hay không.
- Công nợ là phần phải thu sau khi bán hàng, phản ánh mức độ rủi ro tiềm ẩn do không thu được
Khoản phải thu và khoản phải trả: phản số tiền bị chiếm dụng và số tiền đi chiếm dụng của doanh nghiệp khác.
- Tổng tồn kho là giá trị tồn kho tại doanh nghiệp quy ra tiền bao gồm thành phẩm và nguyên phụ liệu.
Hàng tồn kho là hàng được doanh nghiệp dự trữ để dùng vào sản xuất kinh doanh, để bán hoặc đang gửi bán bao gồm nguyên phụ liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm. Nó thể hiện mức độ chiếm vốn lưu động của doanh nghiệp ở dạng tồn.
Nhóm thứ hai bao gồm các chỉ tiêu mang tính so sánh thể hiện tình trạng của doanh nghiệp trong tương quan với các doanh nghiệp khác trong ngành và địa phương. Nhóm này giúp các nhà quản lý thấy được điểm mạnh của doanh nghiệp cũng như điểm yếu cần khắc phục bao gồm 8 tiêu chí chính
- Tỷ suất vốn lưu động doanh thu
- Tỷ suất đầu tư tài sản cố định doanh thu
- Tỷ suất lợi nhuận doanh thu
- Tỷ suất sinh lợi của tài sản
- Doanh thu theo đầu người
- Lợi nhuận/ đầu người
- Giá trị gia tăng/ quỹ lương
- Giá trị gia tăng/ đầu người
b. Hệ thống tiêu chí tài chính của ngân hàng để đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
Hệ thống này bao gồm 7 chỉ tiêu:
+ Tỉ lệ trang trải lợi nhuận trước thuế: đo khoảng lợi tức gấp mấy lần lợi nhuận chưa trừ thuế. Nó được tính bằng cách lấy thu nhập trước thuế cộng với lợi tức chia cho tổng lợi tức. Mức trang trải càng cao thì khả năng tín dụng càng an toàn. Nếu mức trang trải thấp hơn 1 lần, công ty phải vay mượn hoặc sử dụng khoản tiần mặt hoặc phải bán tài sản để trả khoản lãi vay.
- Đòn bẩy tài chính: là tỉ lệ của khoản nợ dài hạn trên tổng tài sản. Mức nợ càng cao thì tỉ lệ thu nhậo từ hoạt động càng phải đẩy cao, thường dùng để chi trả các nghĩa vụ cố định. Nếu một doanh nghiệp có mức đòn bẩy cao cũng nên xem xét khoản lợi nhuận an roàn.
- Dòng tiền mặt: tính theo tổng của thu nhập từ hoạt động kinh doanh và tiền được giảm thuế, tiền khấu hao và hoãn thuế.
- Tài sản ròng: bằng tổng tài sản trên tổng nợ. Khi xem xét khía cạnh chất lượng của trái phiếu nên để ý đến giá trị thanh khoản của tài sản vì nó rất khác biệt với giá trị ấn định.
- Tài sản vô hình: thường chiếm một phần nhỏ trong tài sản chung của doanh nghiệp. Đôi khi với một doanh nghiệp vừa sát nhập một cách tích cực thì giá trị của tài sản vô hình chiếm một phần đáng kể.
- Chất lượng thiết bị: tuổi của máy móc thiết bị của doanh nghiệp cũng nên được đánh giá. Độ tuôit thực sự của máy móc có thể là giá trị tài sản mà doanh nghiệp phải đầu tư trong tương lai, hơn nữa khấu hao không đúng sẽ lamg giảm đáng kể thu nhập đã điều chỉnh theo mức lạm phát.
- Vốn lưu động: được định nghĩa như là tích tài sản lưu động hơn là nghĩa vụ tạm thời, nó được xem là đơn vị chủ yếu để đo lường tính linh động về tài chính của công ty.
c. Hệ thống phi tài chính đánh giá tín nhiệm của doanh nghiệp
Các tiêu chí tài chính dễ dàng được xác định thông qua bộ phận kế toán của doanh nghiệp, nhưng với các tiêu chí tài chính lại không.các doanh nghiệp thuộc các nghành khác nhau, quy mô khác nhau, tại các khu vực địa phương khác nhau, thuộc quyền sở hữu khác nhau…không thể đồng nhất các quan điểm về một hệ thống chi phí tài chính giống nhau để đánh giá TNDN. Tuy nhiên một hệ thống tiêu chí phi tài chính có thể gồm các tiêu chí cơ bản sau :
- Triển vọng phát triển của ngành. Đó là các yếu tố khách quan tác động tích cực đến sự phát triển hoạt động kinh doanh sản phẩm chính của doanh nghiệp: nhu cầu sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp mang tính lâu dài, thị trường có nhiều khả năng được mở rộng. Triển vọng tăng trưởng của một ngành có liên hệ chặt chẽ với chu kì kinh tế.
- Vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở chất lượng sản phẩm, giá bán và dịch vụ hậu mãi.Tuy nhiên, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp chủ yếu diễn ra trên hai phương diện là giá cả và chất lượng sản phẩm. Tình hình cạnh tranh trong một ngành liên quan trực tiếp đến cơ cấu thị trường, số lượng các đối thủ cạnh tranh của ngành đó và chính sách định giá linh hoạt.
- Chất lượng quản lý: Dù rất khó để đánh giá chất lượng quản lý, song chất lượng quản lý lại là một yếu tố quan trọng nhất hỗ trợ cho chất lượng tín dụng của nhà phát hành. Chỉ có những tình huống bất ngờ xảy đến, đó là lúc mà khả năng của nhà quản lý được xem xét dưới góc độ đưa ra những chính sách hợp lý nhằm duy trì hoạt động của doanh nghiệp.
Việc đánh giá chất lượng quản lý dựa trên các tiêu chí sau:
Đánh giá cơ cấu tổ chức
Đánh giá về ban quản lý
Đánh giá về chính sách nhân sự
Đánh giá về khuynh hướng các chiến lược
Đánh giá về văn hóa và nét bản sắc doanh nghiệp
Đánh giá cơ cấu tổ chức
Đánh giá cơ cấu tổ chức của một doanh nghiệp dựa trên tính hữu hiệu của mô hình tổ chức và bộ máy quản trị được áp dụng cho doanh nghiệp và không có mô hình lý tưởng cho mọi doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có một đặc thù về ngành nghề, sản phẩm, chiến lược kinh doanh, trình độ nhân viên và nét bản sắc riêng. Do đó một mô hình tổ chức có thể là thành công của doanh nghiệp này nhưng lại là thất bại đối với một doanh nghiệp khác.
Đánh giá về ban quản lý doanh nghiệp
Ban quản lý doanh nghiệp giữ vai trò hết sức trọng yếu của doanh nghiệp. Người lãnh đạo là người có tiếng nói quan trọng, là người đưa ra các quyết địn ảnh hưởng đến sự phát triển và sự suy vong của doanh nghiệp. Trong khi đó trên phương diện của con người, người lãnh đạo có thể mắc sai lầm, có cá tính và tình cảm riêng… Do đó, khi đánh giá về lãnh đạo, tổ chức đánh giá tín nhiệm thường xét một loạt các yếu tố như uy tín, nâng lực, đạo đức, đảm nhiêm chức vụ, trình độ học vấn, sức khỏe và tuổi tác… Năng lực lãnh đạo còn thể hiện qua mối quan hệ với các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan chức năng quản lý quan trọng như ngân hàng, thuế… Kết quả cuối cùng thấy được về năng lực lãnh đạo doanh nghiệp là công việc điều hành trôi chảy, đạt hiệu quả cao.
Đánh giá về chính sách nhân sự
Chính sách nhân sự của doanh nghiệp được đánh giá dựa trên các phương diện như: chính sách tuyển dụng và tuyển chọn, chính sách sử dụng, chính sách động viên và đãi ngộ. Hệ quả của những chính sách này thể hiện ở khả năng thu hút, giữ nhân tài và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động của doanh nghiệp. Hệ quả thứ hai của các chính sách này thể hiện ở mức độ được thúc đẩy và thỏa mãn của nhân viên. Mức độ thỏa mãn và được thúc đẩy của nhân viên có thể được phản ánh qua những số liệu về : ngày nghỉ việc, số người rời bỏ doanh nghiệp hàng năm, số vụ lãn công hay đình công. Tiêu chuẩn đánh giá có thể từ mức tối ưu (không có nhân viên bỏ việc, không có ãn công hay đình công, số ngày nghỉ việc ngoài chế độ rất thấp), cho đến mức rất xấu (xảy ra đình công và lãn công phổ biến).
Đánh giá về khuynh hướng các chiến lược
Ngày nay do sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, của toàn cầu hóa thương mại cũng như thay đổi liên tục trong thị hiếu của người tiêu dùng, cũng như các chính sách bảo vệ môi trường, đã tạo ra những áp lực rất lớn đối với doanh nghiệp. Hơn thế nữa, do sản xuất phát triển nên cung thường cao hơn cầu. Do đó các doanh nghiệp phải xaay dựng được chiến lược phù hợp để tồn tại, phát triển vầ chiến thắng trong cạnh tranh. Chiến lược của doanh nghiệp đòi hỏi phải phù hợp với vị thế cạnh tranh của mình, phù hợp với tiềm năng cũng như các điều kiện nguồn lực có sẵn.
Đánh giá nét văn hóa, bản sắc của doanh nghiệp
Văn hóa công ty là hệ thống những giá trị chung, những niềm tin, những tập quán của doanh nghiệp. Chúng tác động qua lại với cơ cấu chính thức để hình thành những chuẩn mực hành động mà tất cả mọi thành viên công ty đều tự nguyện noi theo. Bản sắc của doanh nghiệp xuất phát từ triết lý kinh doanh và nền văn hóa của doanh nghiệp. Chúng là cơ sở để người ta có thể phân biệt thấm nhuần và thể hiện trong phong cách quản lý, trong thái độ và cách thức phục vụ khách hàng của nhân viên.
1.2.2 Phương thức đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
Tín nhiệm doanh nghiệp được đánh giá dựa vào các tiêu chí tài chính và phi tài chính. Tuy nhiên, để hạn chế tác động chủ quan củ cán bộ đánh giá, cần lượng hóa thông qua cho điểm từng tiêu chí.
a. Công cụ chấm điểm tín nhiệm
- Thang điểm xếp loại và tiêu thức cho điểm. Các tiêu chí được dánh giá theo nhiều cấp độ chất lượng khác nhau tương ứng với điểm số. Cần quy định điểm tối thiểu, tối đa cho mỗi loại tiêu chí và số cấp độ. Thông thường có 5 cấp độ, từ mức tốt nhất đến mức kém nhất. Tổng điểm một doanh nghiệp nhận được không hoàn toàn giống nhau, mà phụ thuộc vào tổ chức đánh giá là doanh nghiệp, cơ quan quản lý cấp trên hay ngân hàng với quy định về tổng điểm tối đa khác nhau. Cũng cần có điểm thưởng và điểm phạt, đặc biệt đối với các tiêu chí phi tài chinh.
- Bảng chấm điểm tiêu chí tài chính: Trong bảng thể hiện mối quan hệ giữa tiêu chí tài chính, mức độ đạt chất lượng củ tiêu chí đó và điểm chấm tương đương. Mức độ đạt chất lượng của tiêu chí được xác lập từ trước thông qua kinh nghiệp đánh giá của doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước hoặc ngân hàng.
Tính đặc thù ngành, quy mô của doanh nghiệp và trong số cũng phải được tính đến và đưa vào trong bảng chấm điểm. Quy mô của doanh nghiệp có thể tính đơn giản theo vốn chủ sở hữu hoặc số lao động. Điều này dễ áp dụng cho việc doanh nghiệp, hoặc cơ quan quản lý nhà nước đánh giá TNDN. Song với ngân hàng, quy mô của doanh nghiệp được đánh giá bằng tổng điểm của nguồn vốn kinh doanh, số lao động , doanh thu thuần và nộp ngân sách. Tùy theo số điểm đạt được mà một doanh nghiệp có thể được xếp vào loại có quy mô, vừa hoặc nhỏ.
- Bảng chấm điểm tiêu chí phi tài chính: Về cơ bản, bảng chấm điểm tiêu chí phi tài chính giống như bảng chấm điểm tiêu chí tài chính. Điểm khác nhau ở chỗ : Không cần phân biệt điểm khác nhau giữa các doanh nghiệp về ngành hay quy mô; Mức chất lượng các tiêu chí phi tài chính phần lớn không thể hiện bằng một con số như tiêu chí tài chính, mà cần sự diền đạt nhất định.
Cần lưu ý:
Điểm đánh giá chung cho một doanh nghiệp có thể bị ảnh hưởng do một vài tiêu chí được nhấn mạnh về mức đọ quan trọng.
Mức độ ý nghĩa của mỗi tiêu chí và ảnh hưởng của tiêu chí đó phụ thuộc vào kinh nghiệm cảu cán bộ đánh giá trong khuôn khổ của các thông tin khác.
Quan các bảng chấm điểm, tổng điểm đánh giá của một doanh nghiệp được tập hợp cho cả tiêu chí tài chính và phi tài chính.Bước tiếp theo là xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp.
b. Xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp
Tín nhiệm doanh nghiệp được chia ra làm nhiều hạng khác nhau, tùy thuộc vào tổng số điểm đánh giá. Số hạng phụ thuộc vào tổ chức đánh giá, có thể là 6,7,8 nhưng thông thường là 10 hạng. Khoảng cách giữa các hạng xác định bằng hiệu giữa tổng điểm tối đa và điểm tối thiểu doanh nghiệp có thể chia cho số hạng doanh nghiệp. Mức độ tín nhiệm doanh nghiệp của 10 hạng có thể được đánh giá như sau:
- Hạng 1 : Loại tối ưu. TÌnh hình ._.tài chính lành mạnh. Năng lực cao trong điều hành doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao, ổn định. Khả năng cạnh tranh cao, vững vàng trước tác động của môi trường kinh doanh
- Hạng 2 : Loại ưu. Tình hình tài chính lành mạnh. Quản trị tốt. Hoạt động kinh doanh hiệu quả và ổn định. Triển vọng phát triển lâu dài.
- Hạng 3 : Loại tốt. Tình hình tài chính ổn đinh nhưng có những hạn chế nhất định. Quản trih kinh doanh tốt. Hoạt động kinh doanh có hiểu quả nhưng không ổn định. Triển vọng phát triển tốt.
- Hạng 4 : Loại khá. Tình hình tài chính ổn định trong ngắn hạn. Năng lực lãnh đạo doanh nghiệp có hạn chế. Hoạt động kinh doanh có hiệu quả trong ngắn hạn. Chịu tác động mạnh của môi trường kinh doanh.
- Hạng 5: hạng trung bình khá. Tình hình tài chính trung bình, năng lực lãnh đạo của doanh nghiệp chấp nhận được, hoạt động kinh doanh tốt trong hiện tại. Dễ chịu tổn thất do sức cạnh tranh yếu và do sự biến đổi môi trường xung quanh.
- Hạng 6: Loại trung bình, mức độ tự chủ tài chính thấp, hiệu quả hoạt dộng kinh doanh không cao, dễ bị tác động lớn từ biến động nhỏ của môi trường kinh doanh.
- Hạng 7: Loại trung bình kém, năng lực tài chính yếu, năng lực quản lý kém, hiệu quả kinh doanh thấp, có thua lỗ trong một vài năm hoặc gần đây.
- Hạng 8: Loại yếu, năng lực tài chính yếu kém, năng lực quản lý thấp, hiệu quả kinh doanh kém, có nợ quá hạn.
- Hạng 9: Loại yếu kém, Năng lực tài chính và quản lý yếu kém, hoạt động kinh doanh thấp, bị thua lỗ, nợ quá hạn, không có khả năng phục hồi.
- Hạng 10: Loại rất yếu kém, năng lực tài chính yếu kém, quản lý kém, bị thua lỗ kéo dài, có nợ khó đòi, hầu như không thể trả vốn vay từ ngân hàng và đối tác.
1.3 Một số yếu tố ảnh hưởng đến đánh giá đến tín nhiệm doanh nghiệp
1.3.1. Một số nhận thức về đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
Về phía doanh nghiệp
Nếu hiểu biết đầy đủ về ý nghĩa, vai trò của đánh giá tín nhiệm, doanh nghiệp sẽ đầu tư công sức, tiền của và đánh giá một cách thường xuyên. Khi đó hệ thống tiêu chí sẽ đầy đủ hơn, cách đánh giá chính xác hơn, doanh nghiệp sẽ biết được thực chất vị thế trong mối tương quan so sánh với các doanh nghiệp khác cùng ngành, cùng địa phương. Tứ đó doanh nghiệp sẽ đề ra những giải pháp cần thiết để khắc phục những yếu kém, vươn lên trong cạnh tranh.
Ngược lại, nếu ban lãnh đạo doanh nghiệp xem nhẹ vấn đè đánh giá TNDN, họ sẽ không đầu tư cho việc sg nghiêm túc tại doanh nghiệp, sẽ không có cán bộ tập hợp, phân tích thông tin để từ đó đánh giá khách quan độ tin của doanh nghiệp đối với đối tác, đối với cơ quan quản lý nhà nước và với các tổ chức tài chính. Việc sản xuất kinh doanh có thể bị ảnh hưởng, những biến động của môi trường sẽ tác động mạnh đến doanh nghiệp.
Về phía cơ quan quản lý nhà nước
Trong qua trình hội nhập kinh tế thế giới, tại Việt Nam, các chức năng quản lý nhà nước đang tách dần khỏi chức năng quản lý sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động hơn trong sản xuất. Công việc quản lý giám sát chuyên ngành không còn bó hẹp trong các doanh nghiệp mà mang tính chất địa bàn. Việc theo dõi, giám sát phức tạp hơn do phải quản lý nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau.
Về phía ngân hàng
Chất lượng đánh giá TNDN phụ thuộc đầu tiên vào nhận thức của lãnh đạo ngân hàng. Nhìn nhận việc đánh giá TNDN dơn giản thì hệ thống đánh giá không đầy đủ, công cụ đánh giá không dược tạo lập chính xác và kết quả đánh giá TNDN có độ tin cậy thấp và ngược lại.
1.3.2 Hành lang pháp lý cho việc đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
Hành lang pháp lý chỉ rõ tổ chức nào được đánh giá: doanh nghiệp, nhà quản lý, ngân hàng hay một tổ chức độc lập; điều kiện để một tổ chức được phép đánh giá TNDN như năng lực kĩ thuật, chất lượng, số lượng nhân lực, điwuf kiện tiếp cận thông tin đáng tin cậy; mức độ bắt buộc về thông tin tín nhiệm
1.3.3. Nguồn lực cho việc đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
Yếu tố nhân lực trong đánh giá TNDN là rất quan trọng. Các chuyên gia đánh giá phải là những người am hiểu sâu sắc về doanh nghiệp, doanh nhân và quy trình quản lý kinh tế, các loại hình dịch vụ, xu thế vận động của chúng trong nền kinh tế toàn cầu. Đồng thời họ phải là những người có tư cách tốt, có ý kiến độc lập, khách quan, không bị chi phối bởi các tác động ngoài mong đợi.
1.4 Kinh nghiêm quốc tế về đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
1.4.1. Hệ thống chỉ tiêu quốc tế về đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
Có thể chia hệ thống tiêu chí đánh giá TNDN thành 11 nhóm với hàng trăm các tiêu chí khác nhau:
Thống kê về thu nhập: các loại chi phí, thu nhập trước và sau thuế, thu nhập ròng từ hoạt động kinh doanh…
Các khoản trang trải chi phí và thu nhập: đánh giá khả năng chịu đựng của công ty, trang trải trả các khoản lãi, các khoản trang trải toàn phần.
Hiệu quả sử dụng tài sản: tài sản trung bình, kim ngạch hàng tồn kho theo kiểu FIFO, khoản phải thu phải trả tính theo ngày…
Doanh thu trên tổng tài sản các khoản vốn hóa: các khoản vốn hóa, tổng nợ, cổ phần thường và thặng dư vốn cổ phần, chi phí nợ trung bình…
Phân tích lưu chuyển tiền tệ và đầu tư: chi phí vốn thuần, các yếu tố vốn hoạt động, các khoản tài chính phát sinh thuần theo yêu cầu, khoản thay đổi trong tiền mặt và chứng khoán khả mại…
Các tỉ số về lưu chuyển tiền tệ: tổng chi phí vốn dành cho khấu hao, khấu hao tích lũy, lưu chuyển toàn phần tính theo phần trăm trên tổng nợ…
Tổng các khoản vốn hóa: khoản vốn hóa, các khoản lãi được giảm trừ tính trên khoản vốn hóa, các khoản tính theo theo phần trăm trên khoản vốn hóa
Tổng các khoản vốn hóa đã được điều chỉnh: các khoản tính theo phần trăm trên các khoản vốn hóa đã được điều chỉnh
Phân tích các khoản nợ đã được điều chỉnh: tổng nợ ngắn hạn và dài hạn đã điều chỉnh, các khoản tính theo phần trăm trên nợ điều chỉnh
Các tỉ lệ đòn bẩy tài chính khác: chỉ số đòn bẩy tài sản, các khoản nợ phát sinh nhắm thúc đẩy phát triển của doanh nghiệp…
Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường: các hệ số thanh khoản, hệ số hoạt động, các hệ số về đòn cân nợ và các tỷ số lợi nhuận.
1.4.2. Kinh nghiệm quốc tế về phương thức đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
Đa số các tổ chức đánh giá tín nhiệm sử dụng phương pháp truyền thống trong việc đánh giá. Nguyên tắc cơ bản của phương pháp này là dự đoán khả năng vỡ nợ và dự đoán giá trị hợp đồng tại những thời điểm có khả năng vỡ nợ bằng việc phân tích các yếu tố định tính và định lượng.
S&P(Standard & Poors) chia lĩnh vực phân tích thành kiểu loại chính là rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.
Moody đánh giá khả năng trả nợ của công ty theo một số yếu tố chính như khuynh hướng của ngành và quốc gia, chất lượng quản lý và thái độ của các nhà quản lý đối với rủi ro, các hoạt động kinh doanh chủ yếu và vị thế cạnh tranh, tình hình tài chính và các nguồn tiền mặt…
Một số công ty khác phân tích ngành, phân tích tài chính đồng thời xem xét một số yếu tố phi tài chính như quản lý, ảnh hưởng từ nước ngoài và các ràng buộc khác.
1.4.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam, Hà Nội
Hệ thống tiêu chí đánh giá TNDN cần bao gồm cả tiêu chí tài chính để định lượng và kết hợp cả với các yếu tố phi tài chính như môi trường kinh doanh, năng lực và kinh nghiệm quản lý, uy tín với đối tác và ngân hàng.
Cần đưa ra những khung điểm nhất định để chấm các tiêu chí nhằm hạn chế bớt tác động chủ quan của cán bộ đánh giá tín nhiệm. Các khung điểm phải linh động theo ngành doanh nghiệp hoạt động. Bên cạnh đó sử dụng trọng số cho từng tiêu chí để tăng độ chính xác khi tập hợp điểm đánh giá.
Số hạng tín nhiệm doanh nghiệp không nên quá nhiều dễ trở thành vụn vặt, song quá ít sẽ không bao quát được hết các biến động về tài chính và phi tài chính của doanh nghiệp.
Các vụ việc pháp lý liên quan đến doanh nghiệp và thể nhân người lãnh đạo cần rất được chú ý khi đánh giá TNDN.
Tín nhiệm doanh nghiệp có thể đồng thời được đánh giá từ phía các nhà đầu tư và các tổ chức độc đánh giá tín nhiệm độc lập. Kết luận rút ra sẽ khách quan và chính xác hơn.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ TÍN NHIỆM DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
2.1 Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và ngân hàng trên địa bàn Hà Nội
2.1.1. Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
Doanh nghiệp đóng trên địa bàn Hà Nội góp phần quan trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu kinh tế thành phần cũng như cơ cấu nội bộ của các ngành kinh tế. Năm 2005, các doanh nghiệp Hà Nội đã tạo ra trên 8% GDP, trên 10% giá trị sản lượng công nghiệp, trên 8% kim ngạch xuất khẩu. Phần nộp ngân sách chiếm 13,8%, vốn đầu tư chiếm gần 11%, giá trị GDP/đàu người gấp gần 2,4 lần.
Số lượng doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn Hà Nội tăng nhanh trong những năm gần đây, chiếm khoảng 15% số doanh nghiệp cả nước, xấp xỉ 60% số doanh nghiệp đang hoạt động trên đồng băng sông Hồng, gấp 6 lần thành phố Hải Phòng, 6,6 lần thành phố Đà Nẵng nhưng chỉ bằng 0,7 lần thành phố Hồ Chí Minh.
Doanh nghiệp Hà Nội hoạt động trong hầu hết các ngành kinh tế quốc dân nhưng tập trung nhất là thương mại. Với khu vực FDI và doanh nghiệp nhà nước thí lĩnh vực lớn nhất là công ngiệp chế biến.
Giá trị tài sản của các doanh nghiệp nhà nươc vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất và tăng nhanh. Trong cơ cấu tài sản, giá trị TSCĐ và đầu tư dài hạn có xu hướng giảm dần tỷ trọng, tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn tăng tỷ trọng.
Các doanh nghiệp đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ với 78,56 số doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng, chỉ có 4,96% số doanh nghiệp có vốn trên 50 tỷ đồng. Cơ cấu hình thành vốn của các doanh nghiệp chủ yếu vẫn là vốn đi vay và chiếm dụng với tỉ lệ chiếm 69,63% tổng vốn, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm 30,37%.
Kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp:
Về doanh thu: nhìn chung các doanh nghiệp tăng đều đặn qua các năm, tuy nhiên ở loại hình doanh nghiệp ngoài nhà nước do số lượng doanh nghiệp mới ra đời tăng nhanh nên bình quân doanh thu một doanh nghiệp lại có xu hướng giảm. So với 2001 thì năm 2005 doanh thu bình quân một doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn chỉ bằng 99,4%. Ngành thương mại chiếm tỷ trọng trong doanh thu lớn nhất với 52,45%, tiếp đến là ngành công nghiệp chế biến 21,05%, ngành xây dựng 9,5%, ngành điện nước 2,8%, ngành vận tải 5,73%, ngành tài chính tín dụng 3,9%... Nguồn theo số liệu tổng cục thống kê.
Về lợi nhuận: so với 2001 thì đến năm 2005 lợi nhuận bình quân một doanh nghiệp tăng 189,41% trong đó doanh nghiệp nhà nước tăng 288,26%, doanh nghiệp thuộc khu vực FDI tăng 661,64%.
Về nộp ngân sách: các doanh nghiệp đóng góp phần lớn vào nguồn thu ngân sách của thành phố khoảng từ 80 đến 85% hàng năm.
Thu nhập của người lao động: thu nhập của người lao động cao, ổn định và tăng trưởng theo bình quân chung
Xuất khẩu: mấy năm qua kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp Hà Nội phát triển chậm, nhiều nhóm mặt hàng đang mất dần thị trường, thị trường mới không được tìm hiểu và khai thác
Nói chung kết quả sản xuất kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp tiếp tục phát triển thể hiện ở quy mô doanh thu, lợi nhuận và nộp ngân sách ngày càng tăng. Tuy nhiên, đối với mỗi loại hình doanh nghiệp lại có sự phát triển khác nhau. Đối với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI quy mô của các doanh nghiệp ngày càng được nâng cao trong khi các doanh nghiệp ngoài nhà nước có xu hướng giảm.
2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh ngân hàng
a. Tổng quan hoạt động ngân hàng Việt Nam
Với những nỗ lực toàn diện, kết quả hoạt động của toàn ngành ngân hàng Việt Nam từ những năm bước vào cao trào đổi mới(1990) đến nay được thể hiện một cách toàn diện trên một số nét tổng quát sau đây:
Thứ nhất: không chỉ đổi mới từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường một cách hình thức, mà một trong những hiệu ứng quan trọng của tiến trình đổi mới đó là ngành ngân hàng Việt Nam đã trực tiếp góp phần làm cho toàn nền kinh tế khắc phục được nạn khan hiếm phương tiện thanh toán trong khi vẫn giữ được giá trị sức mua của đồng Việt Nam.Chủ động kỉêm soát được lạm phát, kéo chỉ số lạm phát từ 774% trong năm 1986 xuống ở mức 2 chữ số và xuống 1 chữ số liên tục 14 năm từ 1992 đến nay.
Thứ hai, về tổ chức bộ máy:hệ thống ngân hàng Việt Nam đã thiết lập được mạng lưới cung cấp dịch vụ ngân hàng phong phú, phục vụ mọi thành phần kinh tế. Tính đến năm 2005 ngành ngân hàng Việt Nam ngoài hệ thống ngân hàng nhà nước có trụ sở chính tại Hà Nội và chi nhánh ở các tỉnh thành phố trong cả nước với hơn 5000 cán bộ công chức, viên chức, còn có hệ thống các định chế ngân hàng gồm có: 5 ngân hàng thương mại nhà nước, 1 ngân hàng chính sách xã hội, 25 ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, 11 ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, trong đó có 8 ngân hàng có chi nhánh phụ, 4 ngân hàng liên doanh, 44 văn phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam, 5 công ty tài chính, 9công ty cho thuê tài chính, 905 quỹ tín dụng nhân dân.
Thứ ba, chuyển cơ chế cung ứng tiền từ chổ căn cứ lượng tiền mặt cơ bản (MB) sang phương pháp phân tích và điều hành thông qua tổng phương tiện thanh toán (M2) trong lưu thông. Nhờ đó tỷ lệ tiền mặt chiếm trong cơ cấu của tổng phương tiện thanh toán đã giảm dần từ trên 40% năm 1990 xuống còn trên dưói 20% như hiện nay. Việc điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ được chuyển đổi từ việc sử dụng các công cụ trực tiếp hành chính sang việc sử dụng chủ yếu bằng công cụ gián tiếp.Thị trường nội tệ liên ngân hàng , thị trường ngoại tệ ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, nghiệp vụ thị trường mở cũng lần lượt ra đời, phát triển và trở thành những công cụ điều hành gián tiếp phổ biến của chính sách tiền tệ, ngày càng đáp ứng theo nhu cầu của một ngân hàng Trung ương.
Bắt đầu từ năm 1992, ngân hàng Việt Nam đổi mới chính sách lãi suất, đi từ lãi suất âm sang lãi suất thực dương; lãi suất dài hạn lớn hơn lãi suất ngắn hạn; thu hẹp khoảng cách giữa lãi suất ngoại tệ với lãi suất nội tệ; từng bước tự do hóa cơ chế lãi suẩt thích ứng với xác suất rủi ro cũng như quan hệ cung cầu vốn theo cơ chế thị trườngvà phù hợp với thông lệ quốc tế. Đến tháng 6/2002, với sự ra đời của chế lãi suẩt thỏa thuận, lãi suẩt cho vay trên thị trường tín dụng ở Việt Nam đã hoàn toàn được tự do.
Về chính sách tín dụng, ngân hàng Việt Nam trong 20 năm qua đã không ngừng mở rộng đối tượng phục vụ và các ngân hàng thương mại đã thực sự trở thành ngân hàng của toàn dân, không phân biệt thành phần kinh tế. Dư nợ tín dụng của các ngân hàng Việt Nam cấp cho các doanh nghiệp gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân các năm qua đều có xu hướng tăng lên. Mức tăng bình quân 10 năm gần đây đạt 21% /năm, đưa tổng dư nợ của ngân hàng Việt Nam đối với nền kinh tế lên tới trên 500.000 tỷ đồng (tính đến 30/9/2005 tổng dư nợ toàn ngành, không tính các tổ chức tín dụng phi ngân hàng là 534.611 tỷ đồng), chiếm trên 50% GDP. Trong đó ,riêng đầu tư cho khu vực nông thôn chiếm tới gần 40% so với dưới 10% vào năm 1990. Nếu năm 1990 khu vực tư nhân chỉ được vay hơn 10% tổng dư nợ thì đến nay con số này đã lên xấp xỉ 60%. Xu hướng tín dụng tăng và phân bố thích hợp với cơ cấu thành phần khách hàng trong cả nước đã phản ánh rõ vai trò của hệ thống ngân hàng Việt Nam ngày càng tham gia mạnh vào quá trình đổi mới cơ chế, đáp ứng các nhu cầu sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế, đặc biệt tham gia chuyển dịch rõ rệt cơ cấu kinh tế theo ngành, theo thành phần và theo vùng lãnh thổ ở Việt Nam. Ngân hàng Việt Nam 20 năm đổi mới.
Về chương trình hiện đại hóa công nghệ ngân hàng: ngành ngân hàng nước ta là một trong những ngành kinh tế đã đi tiên phong trong việc đưa công nghệ máy tính vào hoạt động có hiệu quả ngay từ năm 1971 và đặc biệt phát triển vào những năm cuối của thập kỷ 80 của thập kỷ 20cho đến nay.Hiện tại,hầu hết các đơn vị trong hệ thống ngân hàng nhà nước và ngân hàng thương mại đã nối mạng thanh toán, chuyển liền thông suốt từ trung ương đến các chi nhánh cơ sở, tốc độ thanh toán đã tăng mạnh (thanh toán khác tỉnh, Thành phố chỗ tính bằng đơn vị thời gian bằng ngày, giờ thì nay đo bằng đơn vị phút, giây), làm cho các dòng luân chuyển vốn không chỉ nhanh, nhạy mà còn tiết kiệm rất lớn cho khách hàng và ngân hàng.
Thứ tư, nếu lấy số liệu năm 1990 làm mốc so sánh thì tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, dư nợ tín dụng; tổng lũy kế doanh số huy động, tổng vốn tự có tăng trung bình hơn 10 lần. Trong đó doanh số huy động từ nền kinh tế từ chỗ không đáng kể đã lên tới mức tương đương với 56% GDP góp phần nâng mức dư nợ nền kinh tế tăng hơn 20 lần, và trở thành nguồn lực chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần nâng GDP bình quân đầu người tăng gấp 2,8 lần, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh không chỉ giữa các thành phần kinh tế mà còn giữa các ngành, các vùng theo hướng nền kinh tế Việt Nam ngày càng trở thành một nền kinh tế công nghiệp-dịch vụ-nông nghiệp.
Thứ năm, đã cơ bản phổ cập và trang bị mới kiến thức về hoạt động ngân hàng trong cơ chế thị trường trong toàn ngành. Đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt ngày càng được trưởng thành từ thử thách khắt khe của môi trường kinh tế thực tiễn và cơ chế hoạt động mới. Số cán bộ được đào tạo có trình độ từ đại học trở lên đã chiếm hơn 60% trong số hơn 70.000 cán bộ công nhân viên chức tòan ngành hôm nay so với mức xấp xỉ 20% của tổng số hơn 40.000 người làm ngân hàng năm 1990.
Thứ sáu, đẩy mạnh và coi trọng hoạt động nghiên cứu chiến lược. Sự ra đời của cơ quan nghiên cứu chiến lược phát triển ngân hàng từ năm 1999 cùng với những đóng góp thiết thực mà nó đã thể hiện trong 6 năm qua như: Tổng kết 10 năm đổi mới, hoạch định chiến lược phát triển toàn ngành đến năm 2010 và tầm nhìn năm 2020; cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước; cơ cấu lại hệ thống các doanh nghiệp trực thuộc ngân hàng nhà nước như đã diễn ra trong thực tiễn…đã chứng tỏ quyết tâm đổi mới rất mạnh mẽ của ngân hàng Việt Nam. Ngân hàng trong mối quan hệ gắn bó với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, đảm bảo tính đương đại và thích ứng với nhu cầu của nền kinh tế thị trường trong quá trình phát triển và hội nhập. Cơ quan nghiên cứu chiến lược của ngành đã và đang khẳng định tính chủ động và quan điểm đổi mới của ngân hàng Việt Nam.
Thứ bảy, trong những năm đổi mới vừa qua, ngân hàng Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ hoạt động đối ngoại hai chiều với hầu hết các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như WB, MIF, ADB,…quan hệ đa phương với hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Asean), Asean +3. Diễn đàn hợp tác Á _Âu (ASEM), quan hệ song phương với hơn 160 ngân hàng Trung ương các châu lục. Nhờ đó, đã thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài, nhiều dịch vụ và công nghệ tiên tiến của các ngân hàng hiện đại cho ngân hàng và cho đất nước.
b. Thực trạng phát triển ngân hàng tại Hà Nội
Kết thúc kế hoạch 5 năm 2001_2005, kinh tế cả nước nói chung và của thành phố Hà Nội nói riêng đạt được kết quả khả quan trên nhiều lĩnh vực:Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, môi trường kinh tế và pháp lý ngày càng được hoàn thiện, an ninh chính trị được giữ vững ,…tạo môi trường tốt cho phát triển dịch vụ ngân hàng. Từ năm 2001 đến nay,số lượng các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp tục tăng, mạng lưới (kênh phân phối dịch vụ) được mở rộng cả ở trong nội bộ và ngoại tỉnh, các dịch vụ ngân hàng truyền thống được hoàn thiện và nâng cao chất lượng, nhiều dịch vụ ngân hàng của các thành phần kinh tế.
Mạng lưới không ngừng được mở rộng
Tính đến tháng 12/2005, mạng lưới ngân hàng trên địa bàn Hà Nội phát triển rất nhanh với 109 tổ chức tín dụng đa hình thức sở hữu thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và cung cấp dịch vụ ngân hàng.
Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Thực hiện các nghiệp vụ ủy quyền của ngân hàng trung ương trong: thanh toán, điều hòa tiền mặt,… Đầu mối tổ chức triển khai các cơ chế, chính sách có liên quan đến tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đến các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Tham mưu cho thành phố các vấn đề liên quan đến tiền tệ và các hoạt động ngân hàng
Phát triển dịch vụ tín dụng
Về huy động vốn: Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001-2005 là 24%/năm. Tính đến 31/12/2005 vốn huy động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội đạt201.947 tỷ đồng Tạp chí Ngân hàng số 5 năm 2006
.
Về cho vay và đầu tư :Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn2001-2005 là 22,1%/năm. Tính đến 31/12/2005, vốn huy động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội đạt 100.704tỷ đồng
Về đầu tư: tính đến 31/12/2005, số dư góp vốn mua cổ phần của các doanh nghiệp là 1.087 tỷ đồng. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng còn đầu tư mua chứng khoán chính phủ 6.383 tỷ đồng
Kết quả hiện đại hóa ngân hàng và phát triển dịch vụ phi tín dụng
Về hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán: Các ngân hàng và tổ chức tín dụng đẩy mạnh trang thiết bị tin học, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động ngân hàng trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin. Chú trọng đào tạo kiến thức tin học, nghiệp vụ ngân hàng mới…cho cán bộ công nhân viên. Đến nay, hầu hết các nghiệp vụ ngân hàng được tin học hóa, các phần mềm hiện đại được đưa vào sử dụmg. Triển khai nối mạng hệ thống ngân hàng, nối mạng internet và nối mạng diện rộng giữa các ngân hàng trên địa bàn, phục vụ cho việc thực hiện công tác thanh toán, thông tin báo cáo, điều hành và giám sát hoạt động ngân hàng. Hà Nội là một trong 5 tỉnh thành phố được lựa chọn triển khai làm điểm chương trình hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán do ngân hàng thế giới tài trợ.
Tham gia hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng quốc tế: tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ, áp dụng công nghệ hiện đại vào quá trình giao dịch, mở rộng thanh toán bằng các loại hình thẻ khác nhau…
Có thể nói chiến lược đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ và phát triển dịch vụ ngân hàng mới đã hỗ trợ tích cực cho công tác huy động và đầu tư vốn, nâng cao hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
2.2 Nhận thức về đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
2.2.1 Nhận thức về sự cần thiết của đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
Thực tế có rất nhiều lãnh đạo doanh nghiệp không nhận thức rõ được lợi ích của việc đánh giá TNDN. Họ sợ phải công khai thông tin của mình và ít có nhu cầu thông tin về đối thủ cạnh tranh và đối tác làm ăn. Vẫn còn rất nhiều tồn tại vì định nghĩa của đánh giá TNDN chưa rõ ràng làm rất nhiều doanh nghiệp không nắm bắt được.
Đối với các doanh nghiệp, hơn một nửa các doanh nghiệp cho rằng đánh giá TNDN nhằm xác định vị thế để tiếp tục sản xuất kinh doanh, nửa còn lại cho rằng để khuyếch trương trong quan hệ hợp tác và một số ít muốn dùng đó làm cơ sở để vay vốn và thu hút đầu tư.
Các ý kiến của ngân hàng đối với mục đích của việc đánh giá TNDN là tương đối giống nhau vì đếu cho rằng việc đánh giá như để xay dựng chính sách tín dụn phù hợp với mức độ rủi ro. Các phương án khác như để xây dựng công cụ quản lý rủi ro và để thiết lập cơ sở dữ liệu rủi ro về khách hàng.
Với các nhà quản lý, cho rằng đánh giá TNDN dùng để làm cơ sở điều chỉnh các chính sách đối với doanh nghiệp và đánh giá hiệu quả hoạt động kinh tế của các cơ sở sản xuất kinh doanh.
2.2.2 Tình hình nhận thức về vai trò định mức tín nhiệm
Dường như các doanh nghiệp đánh giá cao mức độ tin cậy của người tiêu dùng trong viẹc xây dựng tín nhiệm. Họ cho rằng khả năng của doanh nghiệp trong việc thực hiện các ngiã vụ tài chính cũng cấu thành nên uy tín của họ.
Trong khi đó các ngân hàng khi bàn về TNDN có ý kiến đánh giá cao mức độ sẵn sàng và khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Đồng thời ngân hàng cũng coi khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp là một trong những yếu tố tạo nên tín nhiệm doanh nghiệp.
Các cơ quan quản lý nhấn mạnh hai yếu tố có thể tạo nên TNDN là mức độ tin cậy của các nhà đầu tư và cơ quan quản lý, và mức độ tin cậy của nhà đầu tư, cơ quan quản lý và người tiêu dùng đối với doanh nghiệp.
Tóm lại doanh nghiệp coi độ tin cậy của người tiêu dùng là chìa khóa để tạo nên uy tín, trong khi đó ngân hàng lại chú trọng đến khả năng chi trả. Điều này là hoàn toàn bình thường vì với tư cách là nơi cung cấp các nguồn vốn vay, ngân hàng phải tính đến các yếu tố này đầu tiên. Các cơ quan quản lý nhà nước không nhấn mạnh mô hình nào cả mà chỉ xác định tổng hợp độ tin cậy của nhà đầu tư, cơ quan quản lý và người tieu dùng đối với doanh nghiệp.
2.3 Hành lang pháp lý
2.3.1. Thẩm quyền đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
Khi được hỏi về tổ chức nào có thể đánh giá tín nhiệm cho mình, các doanh nghiệp không có sự lựa chọn rõ rệt. theo khảo sát thì 40,3% các doanh nghiệp cho rằng nên để các tổ chức độc lập đánh giá vad 32,1% trả lời doanh nghiệp tự đánh giá.
Về phía ngân hàng, chúng ta thấy có xu hướng khác khi các ngân hàng đều cho rằng các tổ chức thích hợp để đánh giá TNDN là ngân hàng, các tổ chức tại chính hay các tổ chức độc lập. 93,8% các ngân hàng cho rằng nên để họ hay một tổ chức tài chính đánh giá TNDN cà 87,5% là tỷ lệ ngân hàng ủng hộ ý kiến dành cho phương án để các tổ chức độc lập đánh giá.
Các cơ quan quản lý lại có xu hướng muốn để các doanh nghiệp tự đánh giá, một phần cũng tự cho rằmg mình có thể đảm đương vai trò này. Rất ít cơ quan quản lý đánh giá cao việc lựa chọn phương án chọn ngân hàng hay một tổ chức tài chính triển khai việc này.
2.3.2. Cơ sơ pháp lý thiết lập hệ thống đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
2.4 Các nguồn đánh giá tín nhiệm của doanh nghiệp
2.4.1 Đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp dưới góc độ doanh nghiệp
a. Đánh giá tín nhiệm qua kết quả khảo sát
Kết quả điều tra cho thấy phần lớn các doanh nghiệp đều có thực hiện tự đánh giá. Tuy nhiên việc thực hiện lại chưa mấy đều đặn mà chỉ khi nào cần thì mới tự đánh giá.
Điều tra này cho thấy mặc dù sử dụng nhiều loại tiêu chí khác nhau, nhưng doanh nghiệp sử dụng những tiêu chí thuộc hai nhóm lớn: tài chính và phi tài chính để đánh giá doanh nghiệp . Tuy nhiên, cách áp dụng có sự khác biệt tùy từng đơn vị, có nơi dùng cả tiêu chí tài chính và phi tài chính, trong khi có nơi chỉ dùng một trong hai loại tiêu chí trên.
Bảng 1: Tiêu chí doanh nghiệp sử dụng để tự đánh giá
Số doanh nghiệp
Tỷ lệ
Không
1
0,7
Cả tài chính và phi tài chính
87
57,6
Tiêu chí tài chính
54
35,8
Tiêu chí phi tài chính
9
6,0
Tổng cộng
151
100,0
Nguồn: Kết quả khảo sát nghiên cứu của trường Đh Kinh tế quốc dân
Như bảng số liệu cho thấy chỉ có duy nhất một doanh nghiệp không sử dụng các tiêu chí để đánh giá doanh nghiệp (chiếm 0,7%). Hơn một nửa số doanh nghiệp được điều tra(57,6%) sử dụng cả tiêu chí tài chính và phi tài chính. Tỷ lệ các doanh nghiệp sử dụng các tiêu chí đơn lẻ khác lần lượt là 35,8%(tiêu chí tài chính), 6% (tiêu chí phi tài chính).
Trong hệ thống các tiêu chí tài chính, các nội dung lợi nhuận, hiệu quả sản xuất, thu nhập người lao động và doanh thu là những yếu tố được doanh nghiệp thường sử dụng để đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp.Trong các nội dung đó tiêu chí lợi nhuận được sử dụng nhiều nhất với tỷ lệ 62,7%, tiếp theo là hiệu quả sản xuất kinh doanh 51,3%; thu nhập của người lao động 49,7% và doanh thu 42,2% Theo kết quả khảo sát nghiên cứu trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Thực tế đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
Các chỉ tiêu đánh giá
Các doanh nghiệp đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thường sử dụng các chỉ tiêu thể hiện trong báo cáo tài chính. Có 4 loại tài liệu được sử dụng: Bảng cân đối kế toán, kết quả hoạt động kinh doanh, thuyết minh báo cáo tài chính và báo lưu chuyển tiền tệ.
Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp phản ánh tình hình biến động từ đầu kì đến cuối kì về tài sản và nguồn vốn:
+ Tài sản gồm tài sản lưu động cà đầu tư ngắn hạn (tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, hàng tồn kho, tài sản lưu động khác, chi sự nghiệp) và TSCĐ đầu tư dài hạn (TSCĐ, các khoản đầu tư dài hạn, chi phí xay dựng cơ bản dở dang, các khoản kí quỹ kí cược dài hạn, chi phí trả trước dài hạn)
+ Nguồn vốn gồm nợ phải trả (Nợ ngắn hạn: vay ngắn hạn, vay dài hạn đến hạn trả, thuế và các khoản phải nộp, phải trả công nhân viên…và nợ dài hạn: vay dài hạn, trái phiếu phát hành) và nguồn vốn chủ sở hữu (Nguồn vốn kinh doanh, chênh lệch đánh giá lại tài sản, quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, lợi nhuận chưa phân phối, các quỹ khác).
Ngoài ra trong bảng cân đối kế toán còn có một số chỉ tiêu khác như: tài sản thuê ngoài, vật tư hàng hóa nhận gia công, giữ hộ, hàng hóa nhận bán hộ
Bảng kết quả hoạt động kinh doanh: thể hiện lãi, lỗ, thực hiện nghĩa vụ nhà nước và các vấn đề liên quan đến VAT:
+ Phần lãi, lỗ: bao gồm 14 mục chính liên quan đến các khoản thu và các khoản phải chi.
+ Phần tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước là thuế các loại với 10 khoản mục như VAT hàng bán nội địa, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp…và các khoản phải nộp khác.
+ Phần liên quan đến VAT gồm VAT được khấu trừ, VAT được hoàn lại, VAT được giảm, VAT hàng bán nội địa.
Thuyết minh tài chính: đề cập đến các vấn đề như:
+ Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp.
+ Chính sách kế toán áp dụng tại doanh nghiệp.
+ Chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính: chi phí sản xuất kinh doanh theo các yếu tố, chi tiết về hang tồn kho, tình hình tăng giảm TSCĐ…
+ Giải thích và thuyết minh một số tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh.
+ Các thông tin bổ sung về lưu chuyển tiền tệ: giao dịch không bằng tiền phát sinh trong kì, mua và thanh lý các công ty con…
+ Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát thực trạng tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
+ Các tiêu chí phi tài chính ít được quan tâm.
b. Cách thức tự đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp
Các doanh nghiệp tự đánh giá khá thường xuyên các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thông qua các cuộc họp giao ban hàng tuần, hàng quý, hàng năm với sự tham gia của các phòng ban. Các phòng ban chức năng nghiệp vụ trình bày tùnh hình hoạt động của mình và nêu những khó khăn, vướng mắc cần phối hợp của các phòng ban khác hoặc sự quyết định của ban lãnh đạo doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp chưa có khái niệm về tự đánh giá TNDN. Doanh nghiệp chưa thiết lập hệ thống tiêu chí riêng để tự đánh giá TNDN của mình cũng như đối tác và đối thủ cạnh tranh. Việc đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh chủ yếu dựa vào các báo cáo tài chính với sự tham gia của các phòng ban.
2.4.2. Đánh giá tín nhiệm doanh._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12293.doc