Lời nói đầu
Trogng xu hướng hôi nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, các Ngân hàng thương mại hiện nay đang phải đương đầu với tình hình cạnh tranh hết sức gay gắt và sôi động trong hoạt động tín dụng. Các Ngân hàng thương mại quôc doanh không những phải chịu áp lực cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh mà còn có sự cạnh tranh của Chi nhánh các Ngân hàng nước ngoài. Hơn nữa, các Ngân hàng đang đứng trước một áp lực mạnh mẽ từ sự tăng trưởng chậm lại của nền kinh
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế và điều kiện tài chính cũng như tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước- là những khách hàng chủ yếu của Ngân hàng- ngày càng kém đi. Trong khi đó các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng chứng tỏ được vai trò quan trong trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đát nước. Các doanh nghiệp này được đánh giá là hình thức tổ chức kinh doanh thích hợp, có những ưu thế, năng động, linh hoạt,thích ứng nhanh vói của thị trường và là phương tiện hiệu quả giải quyết công ăn việc làm. Do đó việc việc mở rộng và khai thác các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là yếu tố quan trọng giúp Ngân hàng phát triển và tăng uy tín của mình.
Tuy nhiên, trong những năm vừa qua các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có những hạn chế, chưa thực sự tạo được lòng tin cho các ngân hàng, những rủi ro xảy ra trong khi cho vay các doanh nghiệp này là rất lớn.
Chương I
Tổng quan về kinh tế ngoài quốc doanh và công tác bảo đảm tiền vay của các Ngân hàng thương mại
I. Tín dụng Ngân hàng thương mại và công tác bảo đảm tiền vay:
Tín dụng Ngân hàng thương mại
Khái niệm:
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên của nó là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán .
Hoạt động cơ bản của một NHTM bao gồm: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng, hoạt động dịch vụ trung gian và các hoạt động khác. Trong hoạt động sử dụng vốn thì hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chính tạo ra lợi nhuận chủ yếu cho Ngân hàng.
Theo cách hiểu chung nhất, tín dụng Ngân hàng là quan hệ kinh tế giữa một bên là Ngân hàng và một bên là khách hàng của Ngân hàng, trong đó Ngân hàng chuyển giao tiền vay tài sản cho khách hàng sử dụng kèm theo thời hạn hoàn trả lại cho Ngân hàng toàn bộ số gốc và lãi do hai bên thoả thuận.
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng bao gồm: hoạt động cho vay, hoạt động chiết khấu, hoạt động bảo lãnh.
Nguyên tắc của nghiệp vụ tín dụng;
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh tế và là chức năng kinh tế hàng đầu của các NHTM, hoạt động này có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực mà Ngân hàng phục vụ, nó thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp và tạo sức sống cho nền kinh tế. Chính vì vậy trong quá trình cung ứng tín dụng cho nền kinh tế, các NHTM phải tuân thủ 3 nguyên tắc cơ bản:
Thứ 1, tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi
Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn của Ngân hàng là nguồn vốn huy động của khách hàng. Đó là một bộ phận tài sản của các sở chủ mà Ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng, Ngân hàng cũng có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu rút vốn khi mà họ yêu cầu. Nếu các khoản tín dụng không được hoàn trả đúng hạn thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của Ngân hàng.
Thứ hai, vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích:
Khi Ngân hàng cấp tín dụng cho khách vay, yêu cầu sử dụng vốn vay đúng mục đích không còn là nguyên tắc mà còn là phương châm kinh doanh của tín dụng. Đối với khách hàng đến xin vay, việc sử dụng vốn cũng phải đáp ứng các mục đích cụ thể trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh để thúc đẩy các đơn vị hoàn thành nhiệm vụ của mình. Hiệu quả của nó trước hết là đẩy nhanh nhịp độ phát triển của nền kinh tế.
Thứ ba, vốn vay phải có tài sản tương đương đảm bảo
Nguyên tắc này được thực hiện nhằm đáp ứng hai mục tiêu của Ngân hàng : nếu người vay không có khả năng hoàn trả thì Ngân hàng có quyền thu giữ và bán tài sản đó để thu hồi khoản tiền đã cho vay, việc sử dụng tài sản bảo đảm sẽ tạo lợi thế tâm lý cho người cho vay và nâng cao ý thức của người đi vay.
Rủi ro tín dụng:
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai cặp phạm trù luôn gắn liền với nhau. Rủi ro tuy là “sự bất trắc gây ra thiệt hại” song lại là sự tất yếu trong cơ chế thị trường, trong quá trình cạnh tranh. Ngày nay, hoạt động của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường cũng không nằm ngoài tác động trên, thậm chí Ngân hàng phải luôn ý thức được rằng hầu như không có loại nghiệp vụ nào là không có rủi ro. Hơn nữa, khác với các doanh nghiệp khác, Ngân hàng thương mại ngoài sự cạnh tranh với nhau trên nghiệp vụ thuần tuý còn cạnh tranh nhau trên cơ sở mối quan hệ với khách hàng của mình. Vì vậy, khả năng rủi ro của Ngân hàng trong kinh doanh tiền tệ là khả năng rủi ro nhân đôi.
Rủi ro tín dụng luôn gắn liền với hoạt động Ngân hàng, cho vay bao giờ cũng cũng bao gồm rủi ro và xảy ra mất mát. Rủi ro thường tạo cho Ngân hàng những tổn thất về tài chính, nhưng những thiệt hại về uy tín của Ngân hàng về lòng tin của xã hội là những tổn thất lớn hơn rất nhiều lần.
Rủi ro tín dụng được định nghĩa là khoản lỗ tiềm tàng được tạo ra khi Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng. Có nghĩa là khả năng khách hàng không trả được nợ theo hợp đồng gắn liền với mỗi khoản tín dụng Ngân hàng cấp cho họ. Hay nói một cách cụ thể hơn, luồng thu nhập dự tính thu được từ các tài sản sinh lời của Ngân hàng không được hoàn trả đầy đủ xét cả về mặt số lượng và thời hạn.
Rủi ro tín dụng không giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tín chất tín dụng khác như bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương mại, cho vay ở thị trường liên Ngân hàng, tín dụng thuê mua… Ngày nay, dù có rất nhiều hình thức kinh doanh mới trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trên nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn nhất của Ngân hàng. Chính vì vậy rủi ro tín dụng là vấn đề luôn được quan tâm đặc biệt tại các NHTM và đối với nền kinh tế.
Rủi ro ban đầu có thể chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của Ngân hàng nhưng nó cũng có nguy cơ gây ra phản ứng dây truyền, lúc đó có thể là đầu mối của những cuộc khủng hoảng tài chính hoặc khủng hoảng kinh tế xã hội
Rủi ro tín dụng có muôn màu muôn vẻ với nhiều hình thái, mầu sắc, cung bậc khác nhau, chúng luôn tiềm ẩn hay nói một cách khác chúng luôn rình rập trong suốt quá trình trước trong và sau khi cho vay, và biểu hiện ra bên ngoài là món vay không thu được nợ, nợ quá hạn, nợ khó đòi… Để xem xét thực trạng trạng rủi ro tín dụng của một Ngân hàng, người ta thường xét đến tỷ trọng nợ quá hạn cao hay thấp. Các NHTM không thể loại trừ khả năng rủi ro, song rủi ro tín dụng đòi hỏi Ngân hàng phải có những biện pháp đồng bộ hữu hiệu thì mới có thể ngăn ngừa rủi ro và hạn chế tối đa những thiệt hại có thể xảy ra.
Như đã đề cập ở trên, rủi ro rín dụng là rủi ro tiềm tàng nhất và cũng gây ra cho Ngân hàng những tổn thất lớn nhất do tỷ trọng đầu tư cho vay trong sử dụng vốn lớn nhất. Vì vậy việc nghiên cứu rủi ro trong tín dụng Ngân hàng sẽ cho thấy một cái nhìn toàn cục, từ đó có thể tìm được những biện pháp khắc phục rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Và một trong những biện pháp đó là hình thức bảo đảm tiền vay.
Hình thức bảo đảm tiền vay:
Sự cần thiết phải bảo đảm đối với các khoản cho vay của Ngân hàng thương mại :
Ngân hàng với chức năng là trung gian tài chính, là cầu nối vốn của nền kinh tế được các cá nhân, tổ chức hay Chính phủ gửi tiền vào Ngân hàng vì tin tưởng rằng khoản tiền gửi của mình không những an toàn mà còn sinh lời. Đồng thời, trong số họ cũng muốn nhận được các khoản vay để thoả mãn những nhu cầu về sản xuất, kinh doanh hay tiêu dùng. Xét về mặt kinh tế, Ngân hàng khi cấp tín dụng quan tâm đến khả năng trả nợ đầy dủ và đúng hạn của người vay. Các cán bộ tín dụng khi xem xét một đơn xin vay phải trả lời câu hỏi liệu khách hàng có khả năng trả nợ không thông qua việc nghiên cứu chi tiết sáu (06) khía cạnh của một đơn vị xin vay như: tính cách, năng lực, dòng tiền mặt, tài sản bảo đảm, điều kiện và sự kiểm soát. Đối với những khách hàng có chính sách quản lý hiệu quả, có sản phẩm và các dịch vụ được thị trường sẵn sàng chấp nhận, có lợi nhuận tương đối ổn định và với một tình hình tài chính vững mạnh, có uy tín trong thanh toán những khoản nợ cũ là những khách hàng mà Ngân hàng nào cũng mong muốn và cạnh tranh để thu hút. Đối với những khách hàng này, Ngân hàng sẵn sàng cho vay vốn mà không cần có sự bảo đảm bằng tài sản. Vì uy tín, tiềm lực tài chính và một dự án khả thi là sự bảo đảm chắc chắn nhất đối với khoản vay. Ngân hàng không những có khả năng thu hồi vốn và lãi vay mà còn có thể thiết lập được mối quan hệ lâu dài với khách hàng đó. Tuy nhiên không phải doanh nghiệp, cá nhân nào cũng đáp ứng được các điều kiện kể trên. Mà Ngân hàng lại là một tổ chức kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực dịch vụ, nó luôn phải đáp ứng tối đa nhu cầu vốn có thể của nền kinh tế. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt ngày nay, các Ngân hàng không được phép từ chối bất kỳ một khoản vay nào trừ khi độ rủi ro vượt quá khả năng cho phép.
Như đã đề cập ở trên rủi ro luôn thường trực trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự đổ vỡ của phần lớn Ngân hàng. Trong quá trình hoạt động Ngân hàng gặp phải năm (05) loại rủi ro chủ yếu: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường, rủi ro hối đoái. Trong đó rủi ro tín dụng được Ngân hàng quan tâm nhiều hơn cả. Các rủi ro này bắt nguồn từ sự không an toàn trong quá trình sử dụng vốn. Rủi ro tín dụng là loại rủi ro gắn liền với khách hàng vay – yếu tố khó kiểm soát đối với Ngân hàng. Thể hiện:
Mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng với rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh :
Rủi ro trong Ngân hàng có mối quan hệ nhân qủa với rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Kết quả kinh doanh không bao giờ chắc chắn như mong đợi và rủi ro cũng là một yếu tố khách quan trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, với tư cách là người cho vay, lợi ích của Ngân hàng chịu tác động rất lớn từ hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay.
Mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và rủi ro đạo đức của mỗi khách vay:
Quan hệ tín dụng là quan hệ hoàn trả và nó dựa trên cơ sở lòng tin, niềm tin mà Ngân hàng đặt vào mỗi khách vay chính là chính là uy tín, là khả năng trả nợ, là đạo đức của khách hàng vay. Khi khoản vay được chuyển cho người vay sử dụng, Ngân hàng khó có thể kiểm soát tuyệt đối với khoản vay đó. Những cam kết giữa Ngân hàng và khách hàng vay về sử dụng tiền đúng mục đích và theo đúng kế hoạch mà hai bên thoả thuận có được thực hiện hay không phần lớn phụ thuộc vào phẩm chất của người vay. Cho dù có quản lý chặt chẽ đến đâu Ngân hàng cũng không thể theo dõi tỷ mỉ việc sử dụng vốn của người vay. Như vậy Ngân hàng luôn mong chờ vào đạo đức của người vay. Nếu khách hàng sử dụng vốn vay vào dự án có khả năng sinh lời cao, nhưng lại kém an toàn dưới con mắt của nhà Ngân hàng thì chính sự phản trắc của người vay nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro tín dụng.
Như vậy rủi ro tín dụng luôn gắn liền với rủi ro từ phía khách hàng vay. Ngân hàng không thể nắm bắt được những rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như rủi ro xuất phát từ việc cố tình sử dụng vốn vay trái mục đích của người vay. Trên lý thuyết người ta thường nói, với tư cách là người cho vay Ngân hàng giữ thế chủ động trong lựa chọn khách hàng vay. Nhưng khi vốn vay nằm trong tay của người vay thì Ngân hàng không còn toàn quyền chủ động nữa. Ngược lại với tư cách là người đi vay để cho vay Ngân hàng luôn là người bị động. Do đó an toàn trong quá trình sử dụng vốn vay là tất yếu khách quan và không thể thiếu được đối với các Ngân hàng thương mại.
Lý do chính đòi hỏi một khoản vay có đảm bảo là nhằm tạo điều kiện để người cho vay có thể giảm bớt được rủi ro mất mát trong trường hợp người vay không muốn hoặc không có khả năng trả được nợ vay khi đến hạn. Nhưng bảo đảm không có nghĩa là khoản vay sẽ được hoàn trảvì Ngân hàng chỉ trở thành chủ nợ ưu tiên trong chi trả và có quyền ưu tiên so với tất cả các chủ nợ khác trong việc thanh lý các tài sản đảm bảo tiền vay.
Tại bất cứ lúc nào, với khách hàng nào thì bảo đảm tiền vay là nguyên tắc hoàn toàn hợp lý, cần thiết hợp lý và an toàn cho Ngân hàng đối phó với những tổn thất khi món nợ qúa hạn, nợ khó đòi hoặc khách hàng không có khả năng thanh toán .
Mặc dù hoàn trả tín dụng không phải là mục tiêu kinh doanh của Ngân hàng, không phải là điều kiện tiên quyết để đưa đến quyết định cho vay. Vì như thế, Ngân hàng lúc này không khác gì một “cửa tiện cầm đồ”. Mặc dù vậy, nếu Ngân hàng không thực hiện bảo đảm tiền vay thì sẽ không thể chống đỡ nổi nếu có rủi ro xảy ra, bảo đảm tiền vay là cơ sở quan trọng để Ngân hàng thực hiện các mục tiêu quan trọng của mình.
Nhiệm vụ đầu tiên của Ngân hàng là nhằm bảo vệ tiền gửi của khách hàng. Nếu có một nào đó bị thất thoát thì trước tiên làm cho Ngân hàng không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Hơn nữa, Ngân hàng cũng phải có trách nhiệm với các thành viên trong Ngân hàng, phải đảm bảo một mức lương nhất định đối với các nhân viên trong Ngân hàng, đó cũng chính là hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng và để đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Vì những lẽ đó, bảo đảm tiền vay được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu trong việc hạn chế rủi ro tín dụng và sự cần thiết trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Khái niệm bảo đảm tiền vay:
Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp để phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã cho khách hàng vay.
Trong hoạt động của Ngân hàng, cho vay kinh doanh có nguồn thu thứ nhất là doanh thu đối với cho vay vốn lưu động hoặc là khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay trung dài hạn để hình thành tài sản cố định. Trong cho vay tiêu dùng nguồn thu nợ thu nợ thứ nhất của Ngân hàng là thu nhập của khách hàng như: tiền lương, các khoản thu nhập chính ( lãi cho vay, lãi chiết khấu) và các khoản thu nhập khác.
Trong xem xét đánh giá hoạt động của khách hàng, nếu thấy nguồn thu nợ thứ nhất chưa có cơ sở vững chắc thì Ngân hàng thiết lập các cơ sở pháp lý để có nguồn thu nợ thứ hai. Nguồn thu nợ thứ hai bao gồm: giá trị tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Đây chính là nguồn dự phòng nếu như có bất trắc xảy ra.
Các hình thức bảo đảm tiền vay:
Hiện nay có nhiều hình thức bảo đảm tiền vay, nhưng nhìn chung người ta chia bảo đảm tiền vay thành hai hình thức: bảo đảm đối nhân và bảo đảm đối vật.
Bảo đảm đối nhân:
Bảo đảm đối nhân là hình thức bảo đảm tiền vay mà khi cho vay đối với một khách hàng, chủ yếu dựa trên uy tín của khách hàng hoặc sự bảo đảm của người thứ ba. Bảo đảm đối nhân bao gồm bảo lãnh và bảo đảm bằng uy tín của bên thứ ba.
Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản:
Hình thức này được áp dụng đối với những khách hàng có uy tín, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả hoặc theo chính sách của Chính phủ. Uy tín của khách hàng thường được đánh giá theo hai khía cạnh: uy tín tài chính và uy tín trong thanh toán. Những khách hàng có uy tín về tài chính thường là những khách hàng có tiếng tăm trên thị trường, thương hiệu của họ được biết đến rộng rãi, hàng hoá và sản phẩm dịch vụ của họ được người tiêu dùng dễ dàng chấp nhận. Tuy nhiên, yếu tố mà Ngân hàng quan tâm hơn cả là uy tín thanh toán của khách hàng đối với những chủ nợ trước đó hoặc tính khả thi của dự án mà khách hàng đang có ý định thực hiện bằng khoản tiền vay.
Bảo lãnh của bên thứ ba:
Bảo lãnh vay vốn Ngân hàng là việc bên thứ ba (là pháp nhân hoặc cá nhân– bên bảo lãnh ) cam kết với bên cho vay ( bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay vốn (bên được bảo lãnh ) nếu khi đến hạn mà bên được bảo lãnh không trả được một phần hạc toàn bộ nợ vay (bao gồm nợ gỗc, lãi và tiền phạt quá hạn ) cho bên nhận bảo lãnh. Đối với hình thức này, bên nhậm bảo lãnh dùng uy tín của mình để bảo lãnh.
Bảo đảm đối vật:
Bảo đảm đối vật là hình thức bảo đảm tiền vay mà trong đó Ngân hàng đóng vai trò là chủ nợ được thừa hưởng một số quyền hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng (con nợ ) là căn cứ để thu hồi nợ trong trường hợp con nợ không muốn trả hoặc không có khả năng trả nợ.
Bảo đảm đối vật bao gồm ba hình thức
Bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay
Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay
Bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba
II. Hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản
Tài sản bảo đảm và vai trò của tài sản bảo đảm:
Tài sản bảo đảm là những tài sản mà người đi vay (hoặc người bảo lãnh) dùng để đảm bảo cho những khoản vay của người vay tại tổ chức tín dụng bằng cách trao cho tổ chức tín dụng giấy tờ sở hữu hoặc xác nhận cho Ngân hàng có quyền phát mại tài sản khi không trả được nợ khi đến hạn.
Như vậy tài sản bảo đảm là những tài sản thuộc quyền sở hữu của khách hàng (hoặc sở hữu của người bảo lãnh). Quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Khi khách hàng dùng tài sản bảo đảm cho một khoản vay có nghĩa là khách hàng đã chuyển quyền sở hữu tài sản cho Ngân hàng về mặt pháp lý nếu khoản vay quá hạn. Nếu khoản vay được hoàn trả đúng hạn thì tài sản bảo đảm đó sẽ được trao lại cho khách hàng. Trong trường hợp khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc không muốn trả nợ thì tài sản bảo đảm sẽ được sử lý theo qui định của Toà án.
Qui định tài sản bảo đảm được thực hiện để đáp ứng hai mục tiêu của Ngân hàng: thứ nhất, tài sản bảo đảm là phương tiện để tạo cho Ngân hàng một sự bảo đảm rằng sẽ có một nguồn thu khác nữa dùng để hoàn trả cho khoản nợ, nó sẽ không chỉ mang lại cho Ngân hàng sự chứng thực rằng Ngân hàng không hoàn toàn mất trắng khoản cho vay mà còn đem lại cho Ngân hàng quyền ưu tiên trong việc phát mại tài sản. Ngân hàng được xếp thứ tự ưu tiên về quyền đối với tài sản so với các chủ nợ khác. Thứ hai, việc sử dụng tài sản để bảo đảm sẽ nâng cao ý thức của người vay vốn. Không một Ngân hàng nào muốn nắm trong tay quá nhiều tài sản phải phát mại, đối với Ngân hàng việc áp dụng bảo đảm tiền vay bằng tài sản như là một biện pháp phòng ngừa rủi ro, chứ không coi tài sản bảo đảm là nguồn trả nợ chính của khoản vay. Nếu Ngân hàng biết khách hàng sẽ dùng tài sản bảo đảm để trả nợ vay thì Ngân hàng sẽ từ chối cho vay ngay từ giai đoạn đầu. Vì vậy đòi hỏi Ngân hàng phải lựa chọn loại tài sản bảo đảm nào để bản thân khách hàng cũng không muốn dùng nó như một nguồn trả nợ. Có thể thấy rằng đối với nông dân, đất đai và ruộng vườn là sự sống của họ nên nếu khi đi vay nếu phải thế chấp đất đai, ruộng vườn thì họ sẽ thực sự mong muốn được trả nợ để thu hồi lại tài sản đó. Vì vậy việc sử dụng tài sản bảo đảm tiền vay là ruộng đất sẽ phù hợp trong cho vay nông nghiệp. Đối với cho vay các doanh nghiệp, việc lựa chọn tài sản bảo đảm lại là một điều khó khăn hơn. Tuỳ vào từng loại hình doanh nghiệp, tuỳ vào lĩnh vực kinh doanh của từng doanh nghiệp mà Ngân hàng yêu cầu phải có tài sản hợp lý mà qua đó thể hiện được vai trò của tài sản bảo đảm là thúc đẩy đơn vị xin vay vốn sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả để trả nợ vay cho Ngân hàng. Việc sử dụng tài sản bảo đảm là một yếu thiết yếu trong quá trình kinh doanh của người vay, nếu thiếu nó đơn vị xin vay không thể hoạt động được thì việc sử dụng tài sản đó để trả nợ chỉ là phương án cuối cùng trong mọi trường hợp (phá sản). Có như thế tài sản bảo đảm mới thực hiện được vai trò phòng ngừa rủi ro của mình và nâng cao ý thức của người đi vay.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản, khách hàng có thể lựa chọn một trong ba hình thức: bảo đảm bằng tài sản cầm cố , thế chấp của khách hàng; bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay; bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba.
Các hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản:
Bảo đảm bằng tài sản thế chấp:
Đây là hình thức bảo đảm mà khi vay vốn Ngân hàng, bên vay vốn phải dùng tài sản của mình là bất động sản và một số động sản khác thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ (bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt quá hạn) đối với bên cho vay.
Phương thức này nhất thiết phải bảo đảm trong cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cá thể, hộ gia đình. Tài sản được dùng để thế chấp là bất động sản và một số động sản nhất định được quy định rõ thời hạn bất kỳ (như: tàu biển, máy bay…). Người vay có thể dùng tài sản thế chấp để vay ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn. Đối với hình thức thứ chấp, Ngân hàng bao giờ cũng giữ các giấy tờ sở hữu gốc.
Trong đánh giá tài sản thế chấp, cán bộ tín dụng phải đặt câu hỏi: người vay có sở hữu một tài sản với giá trị tương ứng không? Cán bộ tín dụng phải đặc biệt nhạy cảm với những đặc điểm như: thời gian sử dụng, tình trạng hiện tại và mức độ chuyên môn hoá thể hiện ở tài sản của khách hàng. Đối với tài sản thế chấp, công nghệ có một vị trí quan trọng. Nếu tài sản quá lỗi thời về công nghệ thì giá trị thế chấp của tài sản sẽ bị suy giảm do Ngân hàng so thể gặp nhiều khó khăn trong trường hợp phải phát mại tài sản thế chấp để thu hồi lại nợ vay.
Những tài sản có thể được dùng để thế chấp vay vốn Ngân hàng bao gồm:
Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất và tài sản gắn liền với nhà ở.
Quyền sử dụng đất mà pháp luật về đất đai qui định được thế chấp
Tàu biển, máy bay theo quy định cuả pháp luật trong trường hợp được thế chấp.
Các loại tài sản khác
Bảo đảm bằng tài sản cầm cố của khách hàng:
Là hình thức bảo đảm tiền vay mà theo đó bên vay vốn có nghĩa vụ giao một phần hoặc nhiều động sản của mình cho bên vay nắm giữ để đến khi đến hạn thực nghĩa vụ mà bên cầm cố tài sản không hực hiện hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng thoả thuận thì tài sản cầm cố được sử lý theo phương thức do hai bên đã thoả thuận hoặc được bán để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Nếu tài sản được dùng để cầm cố mà phấp luật có qui định đăng ký quyền sở hữu hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu thì các bên có quyền thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố còn giao bản gốc giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu cho bên cho vay.
Trong hình thức này, bên nhận cầm cố (người cho vay) được ưu tiên thanh toán từ tiền bán tài sản cầm cố sau khi trừu chi phí bảo quản và bán đấu giá nếu trong trường hợp khách hàng không trả nợ. So với hình thức bảo đảm bằng tài sản thế chấp của khách vay thì hình thức này an toàn hơn vì bên nhận cầm cố nắm giữ tài sản của bên có nghĩa vụ (người vay vốn) và giá trị cũng có khẳ năng chuyển đổi thành tiền. Hơn nữa, khả năng bù trừ thiệt hại của tài sản cầm cố cũng dễ dàng thẩm định hơn so với việc đánh giá khả năng này ở tài sản thế chấp.
Những tài sản có thể dùng để cầm cố bao gồm:
Máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, kim đá quý.
Ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư bù trên tài khoản tiềm gửi tại tổ chức tín dụng bằng VNĐ, ngoại tệ
Trái phiếu, cổ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm, thương phiếu, các giấy tờ khác có giá được bằng tiền.
Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, các tài sản khác phát sinh từ các hợp đồng hoặc từ các văn bản pháp lý khác.
Quyền đối với vốn góp trong doanh nghiệp .
Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên theo quy định của pháp luật.
Tàu biển, máy bay theo quy định của pháp luật trong trường hợp được cầm cố.
Các tài sản khác theo quy định của pháp luật
Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay:
Tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của khách hàng mà giá trị tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của tổ chức tín dụng.
Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc khách hàng dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo thực hiẹn nghĩa vụ cho chính khoản vay đó đối với tổ chức tín dụng.
Thực chất đây cũng chỉ là hình thức đảm bảo bằng tài sản cầm cố hoặc thế chấp. Nhưng nó khác hai hình thức trên ở điểm: tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản chưa có thật mà phải qua quá trình sử dụng vốn vay, tài sản đó mới dần dần được hình thành, lúc đó những tài sản này mới bắt đầu trở thành hìn thức bảo đảm tiền vay.
Hình thức này chỉ áp dụng khi cho vay trung, dài hạn đối với những dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống; khi Chính phủ giao trong một số trường hợp cụ thể. Hơn nữa, khách hàng phải là khách hàng có tín nhiệm đối với tổ chức tín dụng, có khả năng tài chính và nguồn thu hợp pháp để trả nợ, có dự án khả thi, có khả năng hoàn trả nợ khả thi, có vốn tự có tham gia vào dự án và giá trị tài sản bảo đảm tối thiểu 50% tổng mức vốn đầu tư của dự án.
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba:
Bảo lãnh là việc bên thứ bao dùng tài sản thực quyền sở hữu của mình để cam kết với người cho vay (bên nhạn bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bên vay vốn, nếu người vay vốn (bên được bảo lãnh) không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó khi đến hạn.
Đây là hình thức bảo đảm gián tiếp nhưng được sử dụng khá phổ biến. Nó mang ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng và khuyến khích đầu tư. Khi bảo lãnh cho một khoản vay vốn, bên bảo lãnh phải ý thức được trách nhiệm của mình đối với khoản vay. Vì mặc dù, để chấp nhận một khoản vay, Ngân hàng phải xem xét nhiều khía cạnh khác nhau như: tính khả thi của dự án, khả năng hoàn trả nợ vay…, nhưng người chịu trách nhiệm trước Ngân hàng là bên bảo lãnh. Với Ngân hàng, bên bảo lãnh là người cùng chia sẻ mọi rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động của người vay. Vì vậy khi đứng ra bảo lãnh cho một khách hàng vay, bên bảo lãnh phải hiểu rõ năng lực và uy tín của người vay hoặc có quan hệ đặc biệt với khách hàng đó.
Đối với các tổ chức tín dụng khi cấp tín dụng dưới hình thức này cũng đòi hỏi phải lựa chọn nhà bảo lãnh có khả năng về vốn, tài sản để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Hoạt động bảo lãnh tại Việt Nam chủ yếu là do các Ngân hàng thương mại đảm nhận cho các khách hàng tham gia dự án hoặc xin vay ở các Ngân hàng khác.
Các điều kiện đối với tài sản bảo đảm tiền vay:
Tài sản dùng để bảo đảm tiền vay phải đáp ứng các điều kiện sau:
Tài sản bảo đảm phải có các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, thuộc quyền sở hữu hợp pháp của khách hàng vay (hoặc bên bảo lãnh), các tài sản mà pháp luật quy định đăng ký quyền sở hữu thì phải được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đối với quyền sử dụng đất, bên vay phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp, đất không có tranh chấp, có thể chuyển nhượng và thời hạn dùng để đảm bảo tối đa thời hạn bằng thời hạn được giao đất hoặc thuê đất còn lại.
Tài sản bảo đảm phải được pháp luật cho phép mua bán, chuyển nhượng trên thị trường.
Tài sản bảo đảm phải có khả năng phát mại.
Một tài sản chỉ được dùng để đảm bảo cho một nghĩa vụ trả nợ tại một tổ chức tín dụng. Trường hợp tài sản có đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật, thì một tài sản có thể được dùng để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ trả nợ tại một tổ chức tín dụng với điều kiện giá trị tài sản bảo đảm phải lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm.
Quy trình cho vay:
Định giá tài sản bảo đảm:
Sau khi cán bộ tín dụng đã phân tích và đánh giá hồ sơ vay vốn của khách hàng về mục đích vay vốn, khả năng hoạt động,… nếu tất cả đều phù hợp với chính sách kinh doanh của Nhà nước và mức độ rủi ro có thể chấp nhận được thì Ngân hàng sẽ tiến hành giám định về hồ sơ tài sản và định giá tài sản bảo đảm.
Giám định tính chất pháp lý của tài sản: Ngân hàng phải xem xét thông qua hồ sơ, giấy tờ có liên quan để xác định tài sản có quyền sở hữu của khách hàng vay vốn (hoặc bên bảo lãnh) hay không? Tài sản đó có vai trò như thế nào đối với đơn vị xin vay, có khả năng phát mại trong trường hợp người vay không có khả năng hoặc không muốn trả nợ.
Định giá tài sản bảo đảm: định giá tài sản phải sát với giá trên thị trường. Nếu định giá cao hơn giá trên thị trường thì sẽ có nguy cơ dẫn đến bán tài sản không thu hồi đủ nợ gốc, lãi và các chi phí khác có liên quan trong trường hợp không thanh toán nợ đúng hạn. Còn nếu định giá thấp hơn giá thị trường thì sẽ ảnh hưởng đén nhu cầu vay vốn của người vay, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách vay, qua đó ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Ngân hàng trong thu hút khách hàng, dẫn đến làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Việc định giá tài sản bảo đảm do các bên thoả thuân hoặc thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định.
Xác định mức cho vay dựa trên nhu cầu vốn và tài sản bảo đảm:
Sau khi xác định giá trị tài sản bảo đảm, Ngân hàng sẽ tiến hành cho vay dựa trên giá trị của tài sản và nhu cầu vốn của người vay để đảm bảo an toàn cho Ngân hàng và để cho khách hàng có khả năng hoàn trả nợ đúng hạn mà vẫn hoạt động kinh doanh có hiêu quả. Mức cho vay thường thấp hơn giá trị tài sản bảo đảm (thông thường là không quá 70% giá trị của tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh). Tuy nhiên do giá trị của tài sản thường xuyên biến động trên thị trường, vì vậy tuỳ vào từng mức biến động của tài sản trên thị trường mà Ngân hàng ấn định mức cho vay thích hợp nhưng cũng phải đáp úng nhu cầu vốn cho khách vay. Với những loại tài sản ít biến động giá, mức cho vay có thể lên đến 80% so với giá trị tài sản, nhưng với những tài sản biến động mạnh trên thị trường thì mức cho vay có khi chỉ khoảng 50% giá trị tài sản bảo đảm.
Xác định mức cho vay là một yếu tố rất quan trọng đối với cả Ngân hàng và khách hàng.
4.3 Ký kết hợp đồng, quản lý quá trình sử dụng vốn vay của khách vay và tài sản bảo đảm:
Sau khi hai bên đã thoả thuận được các điều kiện về tín dụng, bên vay vốn (hoặc bên bảo lãnh) phải lập giấy cầm cố, thế chấp tài sản đồng thời chuyển giao giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản cho Ngân hàng và tiến hành ký kết hợp đồng tín dụng.
III. ý nghĩa của bảo đảm tiền vay đối với các đối tượng tham gia vay vốn:
Đối với Ngân hàng:
Một Ngân hàng luôn mong muốn khách hàng có thể sử dụng tiền vay hiệu quả và trả Ngân hàng vốn và lãi đầy đủ và đúng hạn. Việc bảo đảm tiền vay bằng tài sản chỉ là một trong những biện pháp an toàn để bảo vệ số tiền cho vay. Trên thực tế khi đưa ra quyết định cho vay, để bảo đảm tiền vay thì việc đầu tiên là Ngân hàng phải xem xét thu nhập hay dòng tiền mặt để trả nợ cho khoản vay; thứ hai là xem xét kỹ sự lành mạnh trên bảng cân đối kế toán cũng như tính thanh khoản của khách hàng; thứ ba là sự bảo đảm bằng tài sản của khách hàng hoăc của bên thứ ba. Mục tiêu của việc nắm giữ tài sản đặc biệt là những tài sản là một bộ phận quan trọng và không thể thiếu trong quá trình sản xuất của khách hàng, sẽ là đảm bảo tốt để Ngân hàng có thể cho vay, hơn nữa với hình thức bảo đảm bằng tài sản Ngân hàng sẽ có thể xác đị._.nh rõ những tài sản mà Ngân hàng có quyền phong toả và bán , đồng thời thông báo cho các tổ chức khác biết Ngân hàng có quyền hợp pháp trong việc phát mại tài sản như một nguồn thu thứ hai nếu như khách hàng không có khả năng hoàn trả nợ vay.
Như dã đề cập, việc Ngân hàng không nên từ chối bất kỳ một khoản vay nào ngoại trừ những khoản vay có mức rủi ro mà Ngân hàng không thể chấp nhận được, điều đó đòi hỏi Ngân hàng phải phân tích tín dụng của chính mình. Xét từ góc độ này thì bảo đảm tiền vay vừa có tác dụng nâng cao chất lượng thẩm định dự án , đồng thời bảo vệ Ngân hàng tránh được những sai lầm trong quá trình thẩm định. Thẩm định dự án là công cụ hữu hiệu giúp Ngân hàng cạnh tranh thu hút khách hàng vay “chất lượng cao”. Kết quả thẩm định là cơ sở để cho vay đối với mỗi khách hàng. Đối với mỗi lỗi nhỏ trong khâu thẩm định cũng có thể là nguyên nhân làm thất thoát vốn của Ngân hàng .
Đối với khách hàng:
Nhu về sử dụng vốn xuất hiện ở mọi lúc, mọi nơi. Các tổ chức cần vốn để bổ xung cho kho hàng dự trữ, nguyên vật liệu nhằm đẩy nhanh tiến độ sản xuất, kinh doanh , mua sắm thiết bị, nhà xưởng và tài sản cố định để mở rộng sản xuất. Người tiêu dùng muốn có tiền để nâng cao chất lượng cuộc sống thông qua việc vay vốn để chi tiêu. Tất cả đều đến với Ngân hàng để tìm kiếm cơ hội nhận được khoản vay vốn kịp thời. Nhưng không phải mọi nhu cầu đều được đáp ứng kịp thời. Nếu khách hàng muốn nhu cầu về vốn được Ngân hàng tài trợ thì trước hết phải chứng minh được khả năng bảo đảm tiền vay của mình. Như vậy, với việc bảo đảm tiền vay, khách hàng sẽ có thể sớm nhận được vốn để đưa vào sản xuất kinh doanh hay thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình.
Mặt khác, qua quá trình thẩm định dự án, Ngân hàng đã phần nào giúp khách hàng hoạch định kế hoạch sử dụng vốn vay có hiệu quả hơn. Mọi nhu cầu vay vốn của khách hàng đều hình thành từ ý tưởng ban đầu về việc sử dụng vốn vay. Khi tiếp xúc với Ngân hàng, những ý tưởng này phải được xây dựng thành dự án vay vốn hoàn chỉnh với sự giúp đỡ của các cán bộ Ngân hàng.
Đối với nền kinh tế:
Ngân hàng và khách hàng của mình là một tập hợp các chủ thể của nền kinh tế. Với chức năng là trung gian tài chính, Ngân hàng giữ vai trò là người luân chuyển vốn từ nơi thừa vốn sang nơi có nhu cầu về vốn. Như vậy, hoạt động của Ngân hàng giúp nền kinh tế sử dụng vốn một cách có hiệu quả hơn. Còn với chức năng là các nhà sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, khách hàng của Ngân hàng làm gia tăng của cải xã hội, biến tiết kiệm của những người gửi tiền thành lợi nhuận của quá trình đầu tư. Nền kinh tế sẽ vận hành tốt nếu thiết lập được mối quan hệ tín dụng lành mạnh giữa Ngân hàng và khách hàng. Khi nguyên tắc tín dụng được tuân thủ, vốn sẽ được chuyển đến đúng địa chỉ, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng cường sức mạnh của nền kinh tế.
Hạn chế tổn thất trong những khoản cho vay là một trong những lý do Ngân hàng đòi hỏi phải có sự bảo đảm đối với các khoản tiền vay. Nguyên ký bảo đảm tiền vay được tuân thủ là cơ sở giúp Ngân hàng giảm thiểu những mất mát xuất phát từ những khoản cho vay xấu. Theo đó, nền kinh tế cũng tránh được những tổn thất do các vụ đổ bể tín dụng gây ra.
Hoạt động lành mạnh của Ngân hàng sẽ củng cố niềm tin của công chúng vào hệ thống tài chính, nhờ đó thu hút được nhiều nguồn vốn hơn để đầu tư phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế …
Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo đảm tiền vay tại các NHTM :
1. Những yếu tố liên quan đến bản thân Ngân hàng:
Khả năng đánh giá khách hàng:
Việc đánh giá khách hàng được thực hiện dựa trên khả năng thu thập và xử lý thông tin liên quan đến khách hàng vay. Những thông tin chính xác về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, về tư cách vay vốn của khách hàng, dự báo về xu hướng sử dụng vốn vay của khách hàng sẽ là nền tảng cho việc thẩm định khách hàng vay. Trên cơ sở đó, Ngân hàng sẽ có thể đưa ra quyết định cho vay có bảo đảm dưới hình thức nào cho phù hợp.
Khả năng đánh giá và theo rõi tài sản bảo đảm:
Thông thường, các văn bản thường qui định các tài sản mà khách hàng được phép sử dụng là tài sản bảo đảm. Nhưng trong điều kiện cụ thể của từng Ngân hàng, Ngân hàng có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận tài sản bảo đảm đó. Việc chấp nhận một tài sản bảo đảm hay không là tuỳ thuộc vao khả năng định giá chính xác giá trị của tài sản cũng như khả năng quản lý và kiểm soát tài sản đó.
Chiến lược cho vay của Ngân hàng:
Chiến lược cho vay cũng là yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn tài sản bảo đảm của Ngân hàng. Trong mỗi thời kỳ, Ngân hàng đều có chiến lược kinh doanh khác nhau như tập trung vốn hơn vào đối tượng khách hàng vay, hay mở rộng tín dụng hơn đối với những khách hàng khác. Những chiến lược này cũng góp phần quy định laọi tài sản nào được ưu tiên sử dụng.
Các yếu tố từ phía khách hàng vay:
Một trong những yếu tố quan trọng trong việc quyết định hình thức bảo đảm tiền vay và lại tài sản được bảo đảm là tình hình sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ của khách hàng, các loại tài sản mà khách hàng hiện có, cùng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Khách hàng hoạt động đạt hiệu quả, sản phẩm của khách hàng tiêu thụ tốt trên thị trường… mới có thể xây dựng niềm tin đối với Ngân hàng,
Mức độ an toàn của các tài sản đảm bảo:
Các Ngân hàng thường đưa ra những tiêu chí nhất định để đánh giá độ an toàn của tài sản bảo đảm như việc dựa trên mức độ thuận lợi trong việc xác định quyền sở hữu của tài sản bảo đảm, sự tồn tại và hoạt động của thị trường tài sản bảo đảm sự khác biệt trong khả năng thực thi quyền của người cho vay. Trong đó, sự phát triển của thị trường tài sản bảo đảm là yéu tố mà Ngân hàng quan tâm nhất, vì một trong những chức năng của tài sản bảo đảm là đảm bảo khả năng thu hồi nợ cho Ngân hàng khi rủi ro tín dụng phát sinh. Vì vậy, nếu có tài sản bảo đảm trên một thị trường phát triển thì có nghĩa là khả năng phát mại của tài sản cao, do đó khả năng chấp nhận tài sản đó để cho vay của Ngân hàng sẽ đẽ dàng hơn.
Quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng:
Mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn hình thức bảo đảm tiền vay. Trước khi cung ứng một khoản vay, Ngân hàng quan tâm nhiều đến việc liệu khách hàng có khả năng hoàn trả nợ thông qua việc sử dụng vốn vay hay không? Để trả lời cho câu hỏi đó, Ngân hàng phải tiến hành các bước trong quy trình nghiệp vụ tín dụng. Quá trình này đòi hỏi Ngân hàng phải chi ra một khoản chi phí giao dịch nhất định, và Ngân hàng luôn muốn giảm thiểu các chi phí này. Vì lẽ đó, một quan hệ lâu năm hoặc uy tín của khách hàng sẽ là cơ sở để Ngân hàng quyết định hình thức bảo đảm tiền vay đối với khách hàng.
Môi trường pháp lý:
Các khoản vay của Ngân hàng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế, vì vậy hoạt động cho vay của Ngân hàng chịu sự chi phối chặt chẽ của môi trường pháp lý. Khi bảo đảm tiền vay được đặt ra như một trong ba yếu tố của quy trình cho vay thì các văn bản pháp luật có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện công tác này.
Trước hết sự ra đời của các văn bản pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng trong việc lựa chọn hình thức bảo đảm tiền vay cũng như việc lựa chọn các tài sản bảo đảm. Tuỳ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia mà các văn bản quy định nới lỏng hay thắt chặt các điều kiện áp dụng các hình thức bảo đảm tiền vay đối với mỗi đối tượng vay vốn. Đồng thời, các yếu tố liên quan đến bảo đảm tiền vay như danh mục của tài sản được sử dụng làm tài sản bảo đảm, việc xác định mức cho vay dựa trên giá trị của tài sản bảo đảm đó… cũng được đề cập đến trong các văn bản. Mặc dù những quy định này không chi tiết, nhưng nó là định hướng mà Ngân hàng phải tuân thủ khi thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay.
Hơn nữa, trong quá trình thực hiện công tác bảo đảm tiền vay, Ngân hàng phải đối mặt với những vướng mắc phát sinh do các văn bản không phù hợp với điều kiện thực tế. Nhưng qua thời gian, các văn bản được chỉnh sửa theo hướng ngày càng hoàn thiện, giảm bớt các áp lực cho các Ngân hàng khi thực hiện bảo đảm tiền vay.
V. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Khái quát về kinh tế ngoài quốc doanh
Trong nền kinh tế Việt Nam, kinh tế ngoài quốc doanh là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân, là thành phần kinh tế khá phong phú bao gồm đủ mọi loại hình kinh doanh từ hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp, hợp tác xã đến công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hoạt động hầu hết trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Với sự tham gia rộng rãi vào các lĩnh vực như vậy, kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo ra một phần không nhỏ GDP đóng góp vào Ngân sách Nhà nước, thu hút tận dụng tài nguyên đát nước, tạo độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa…
Sự khẳng định “đường lối phát triển kinh tế Việt Nam theo hướng phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận đông theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” tại Đại hội Đảng VI khiến cho thành phần kinh tế quốc doanh không còn giữ vị trí độc tôn mà sở hữu tư nhân chính thức được thừa nhận, kinh tế ngoài quốc doanh bình đẳng tông tại và phát triển cùng các thành phần kinh tế khác.
Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay có nhiều thành phần kinh tế khác nha cùng tồn tại và phát triển. Phân loại theo loại hình sở hữu thì kinh tế ngoài quốc doanh bao gồm các hình thức sau:
Sở hữu tổ hợp, bao gồm: hợp tác xã và tổ hợp.
Sở hữu hỗn hợp, bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các công ty liên doanh, các công ty hợp danh, các liên doanh.
Sở hữu tư nhân, bao gồm: các doanh nghiệp tư nhân, các cơ sơ sản xuất cá thể, hộ gia đình.
Đặc điểm của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh :
Được Đảng và Nhà Nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi hơn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển về mọi mặt. Sau hơn 15 năm hình thành và phát triển, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã tỏ rõ vai trò của mình đối với sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Với những ưu điểm vốn có của mình, nó đã nhanh chóng chứng tỏ được vai trò và tác dụng của mình dối với sự phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có những đặc điẻm nổi bật sau:
Tự do hành động và dễ thích ứng:
Người quản lý thường là người chủ sở hữu hặc là người có vốn góp lớn nhất nên họ dược quyền ra tất cả cá quyết định có liên quan đến việc quản lý doanh nghiệp. Do hoạt động hẹp, nên người chủ sở hữu vùa là người quản lý nên các doanh nghiệp ngày được tự do hành động. Sự gắn bó sát sao quyền lợi của doanh nghiệp với quyền lợi của người lãnh đạo khiến họ tập trung hết trí lực cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì họ có khả năng tự quyết nên ho có thể chớp lấy những cơ hội kinh doanh thuận lợi, tạo điều kiện cho khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường và sự tiến bộ của khoa học.
Khả năng đáp ứng nhu cầu của địa phương:
Đối với hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, địa bàn hoạt động là trong một địa phương. Bởi vậy hầu hết các chủ sở hữu của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường chiếm ưu thế trong việc đánh giá và đáp ứng nhu cầu của địa phương mình. Các nhà kinh doanh địa phương đều có mối liên hệ mật thiết với khách hành và có thể đáp ứng được những nhu cầu và mong muốn của những khách hàng này. Khối lượng kinh doanh có thể nhỏ nhưng các doanh nhân thường kinh doanh có lãi trong một thị trường hạn hẹp xét về số lượng người tham gia cũng như phạm vi địa lý.
Cơ cấu tổ chức linh hoạt:
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường thích ứng với các cơ cấu tổ chức đơn giản. Số lượng nhân viên ít và các nhân viên này thường phải đảm nhận công việc theo kiểu đa năng. Vốn của thành phần kinh tế này là do những chủ thể kinh doanh tự nguyện đóng góp hay liên doanh liên kết bằng tiền hoặc tài sản. Vì thế họ có toàn quyền quyết định nghành nghề kinh doanh phù hợp với khả năng . Mặc dù có quy mô nhỏ bé nhưng đó cũng chính là lợi thế của các doanh nghiệp này trong việc tăng vòng quay vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn… Các doanh nghiệp quốc doanh có nguồn vốn lớn, ổn định từ Nhà nước nhưng không có quyền tự chủ kinh doanh nên không có được sự linh động, sáng tạo và phản ứng kịp thời trước sự biến động của thị trường…
Chi phí gián tiếp thấp:
Đặc điểm của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là có một số các nhân viên không thường xuyên, do đó đã giúp cho doanh nghiệp có chi phí thấp và tạo điều kiện cạnh tranh về giá cả của các sản phẩm cuối cùng. Lợi ích của chủ sở hữu gắn liền với doanh nghiệp, chính vì vậy họ luôn đòi hỏi nhân viên của mình phải làm việc nghiêm túc, hiệu quả, giảm thiểu sự lãng phí … Đồng thời khu vực này cũng tạo nên sức hút đối với phần đông dân cư trong việc cung ứng các đồng tiền nhàn rỗi trong dân cư vào sản suất kinh doanh tạo nên sức sống cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng có không ít những đặc điểm cho thấy những hạn chế mà các doanh nghiệp này đang gặp phải:
Qui mô sản xuất hạn hẹp
Phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là thuộc loại vừa và nhỏ biểu hiện ở vốn kinh doanh, lực lượng lao động ít và sản lượng sản xuất ra không nhiều. Nguồn vốn nhỏ bé đã hạn chế việc mở rộng sản xuất,hoạt động kinh doanh kém hiệu quả làm cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm do thị trường trong nước còn hạn hẹp, thu nhập của người dân còn thấp, hàng ngoại nhập lậu cạnh tranh, khả năng cạnh tranh tại thị trường nước ngoài rất thấp.
Khả năng tài chính nhìn chung là yếu kém:
Sự yếu kém thể hiện ở tổng nguồn vốn kinh doanh và vốn tự có trong tổng vốn của doanh nghiệp này đều thấp, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn chiếm một tỷ trọng rất lớn trong trong số những người xin vay vốn. Một thực tế cho thấy rằng sổ sách của các doanh nghiệp này thường không cập nhập, không đầy đủ. Do đó việc đánh giá doanh nghiệp thông qua phân tích tài chính để quyết định cho vay thực sự khó khăn đối với Ngân hàng nhất là trong điều kiện hiện nay hầu hết các sổ sách của các doanh nghiệp chưa được kiểm toán. Chính vì vậy việc cho vay đối vói các doanh nghiệp ngoài quốc doanh càng phải đòi hỏi phải có sự chú ý đặc biệt của các nhà phân tích tài chính.
Trình độ công nghệ lạc hậu:
Do hạn chế về vốn nên nhìn chung trìn độ kỹ thuật công nghệ của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn lạc hậu, chủ yếu là kỹ thuật công nghệ sử dụng nhiều lao động. Trình độ công nghệ lạc hậu dẫn đến sức cạnh tranh của hàng hoá ở nước ta kém, hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao.
Trình độ lao động thấp :
Hầu hết chất lượng lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất thấp, trình độ công nghệ lạc hậu, sử dụng nhiều lao động.
Vốn luôn là yếu tố khó khăn lớn nhất đối với sự tăng trưởng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các tổ chức tài chính thường e ngại khi tài trợ vốn cho các doanh nghiệp này vì họ chưa có quá trình kinh doanh uy tín và chưa tạo lập đợc khả năng tài trợ. Do vậy, các doanh nghiệp phần lớn phải dựa vào vốn từ các nguồn phi chính thức từ người thân, bạn bè, thu hút vốn qua hìnht hức mua bán chụi… Mở rộng doanh nghiệp luôn luôn bị ngăn chăn bởi sự hạn hẹp về nguồn vốn. Mặt khác, hạn chế về nguồn vôn lại là nguyên nhân cơ bản dẫn đến những khó khăn khác cho doanh nghiệp như: công nghệ lạc hậu, trình độ nhân công thấp, khả năng cạnh tranh trên thị trường thấp…
Vài trò của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh:
Trong những năm qua mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng được sự khuyến khích của Đảng và Nhà nước, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã dần khẳng định được vai trò và vị trí của mình trong nền kinh tế. Vai trò đó được thể hiện như sau:
Thứ nhất, sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo điều kiện để khai thác tốt hơn các nguồn lực đất nước.
Trước đây khi chưa chuyển sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn lạc hậu, trình độ sản xuất còn thấp, trong khi tiềm năng phát triển còn rất lớn. Sự độc chiếm trong hình thức sở hữu Nhà nước tập thể không thể khai thác hết những tiềm năng sẵn có, không những thế một lượng vốn rất lớn còn nằm trong dân chưa được sử dụng. Chính vì vậy, việc phát triển thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mới khai thác nguồn vốn ấy một cách có hiệu quả. Khi đó mỗi thành phần đều phải vươn lên để tồn tại và khẳng định mình, khai thác nguồn lực vì lợi ích của chính bản thân mình. Đây là động lực để thúc đẩy kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất , thúc đẩy xã hội phát triển. Do đó việc phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là một tất yếu khách quan đối với tình hình nước ta hiện nay.
Thứ hai, việc phát triển kinh tế ngoài quốc doanh đã thu hút một lượng lớn lao động, giảm sức ép về tình hình thất nghiệp hiện nay của đất nước:
Do sự đa dạng trong các loại hình của kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển về số lượng và quy mô, không những thế nó còn tham gia vào tất cả các ngành nghề như: nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ… nên có khả năng tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn cho người lao động so với khu vực kinh tế quốc doanh hiện nay với chủ trương giảm biên chế của Nhà nước thì kinh tế ngoài quốc doanh là nơi thu hút lao động dôi ra từ các đơn vị, cơ quan Nhà nước.
Thứ ba, trong giai đoạn hiện nay , khi nước ta thực hiện chính sách mở của, từng bước hoà nhập với khu vực và thế giới thế doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ là cầu nối cho sự hoà nhập đó.
Từ nay đến năm 2005, do có những thay đổi mạnh trong quan hệ kinh tế thế giới nên các doanh nghiệp sẽ phải đương đầu với những thách thức rất lớn. Nhà nước cần tạo cơ hội kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Thực hiện chính sách mở của tức là chấp nhận cho các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành đầu tư kinh doanh trong nước và như thế chắc chắn sẽ thu hút một lược vốn nước ngoài rất lớn. Để tận dụng cơ hội này cho phát triển kinh tế đòi hỏi phải chú trọng phát triển kinh tế ngoài quốc doanh.
Thứ tư, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có khả năng vốn, trí tuệ vào các ngành kinh tế phát tiển hay các ngành đòi hỏi lực lượng lao động trí tuệ cao như các nghành công nghệ thông tin cũng như có khả năng lấp đầy những khoảng trống trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh không cần nhiều vốn và có mức lợi nhuận thấp mà các nhà đầu tư lớn ít quan tâm tới.
Thứ năm, kinh tế ngoài quốc doanh vừa vừa là đối thủ cạnh tranh, vừa là đối tác kinh doanh của kinh tế quốc doanh trên thị trường.
Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm qua làm tăng sức cạnh tranh của thị trường. Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển ở nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề làm cho thị trường trở nên phong phú, đa dạng, sôi động. Người tiêu dùng nhờ vậy mà có nhiều sự lựa chọn hành hoá đáp ứng nhu cầu ngày càng cao. Điều này tạo ra sự cạnh tranh lớn đối với khu vực kinh tế nhà nước. Vì vậy sự tồn tại của kinh tế ngoài quốc doanh là nhân tố kích thích kinh tế quốc doanh phát triển. Trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp khu vực kinh tế quốc doanh chiếm vị trí độc tôn làm mất đi sự cạnh tranh trên thị trường, mất động lực quan trọng để thúc đẩy kinh tế phát triển. Chính vì vậy sự xuất hiện của kinh tế ngoài quốc doanh làm tăng sức cạnh tranh trên thị trường, buộc các doanh nghiệp quốc doanh phải có chính sách, biện pháp và phương hướng hoạt dộng kinh doanh nhằm nâng cao tính cạnh tranh của mình để có thể tồn tại và phát triển được.
Hơn nữa, sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh còn thúc đẩy và tăng cường mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế. Trong nhiều lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh có thể là nhà cung cấp yếu tố đầu vào, hoàn thiện sản phẩm hay tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp Nhà nước. Sự kết hợp này tạo ra dây truyền sản xuất lớn, có mối liên hệ chặt chẽ giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
Thứ sáu, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tồn tại và phát triển sẽ trở thành một bộ phận đóng góp rất lớn cho Ngân sách Nhà nước. Hiện nay, phần đóng góp của khu vực này trong tổng thu thuế của Nhà nước ngày càng lớn, làm tăng Ngân sách Nhà nước. Từ đó Nhà nứoc có thêm vốn để đầu tư, phát triểm các ngành mũi nhọn, xây dựng cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Thứ bảy, sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Bên cạnh sự phát triển của hợp tác xã, các tranh trại lớn ở nông thôn, kinh tế ngoài quốc doanh còn có sự phát triển mạnh mẽ ở các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh:
Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh:
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh là rất đa dạng và phong phú. Thời gian lưu chuyển vốn của từng lĩnh vực, từng ngành nghề là rất khác nhau, dẫn đến nhu cầu vốn của các doanh nghiệp cũng rất khác nhau. Để có thể phát triển nhanh và ổn định, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh rất cần sự hỗ trợ từ hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Vai trò của tín dụng Ngân hàng được thể hiện:
Một là, tín dụng Ngân hàng hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư theo chiều sâu, đổi mới thiết bị dây truyền công nghệ, nâng cao năng xuất lao động, tạo sức cạnh tranh trên thị trường.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, ngoại trừ những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì nhìn chung là có vốn đầu tư cũ kỹ lac hậu. Do đó sản phẩm làm ra có giá thành cao, số lượng và chất lượng hạn chế, không đủ khả năng để cạnh tranh với hàng hoá ngoại nhập, dẫn đến sản xuất kinh doanh bị thua lỗ. Ngân hàng với khả năng của mình hoàn toàn có thể hỗ trợ vốn giúp cho các doanh nghiệp này vay vốn đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Với lượng vốn vay được từ Ngân hàng, doanh nghiệp có thể đầu tư mua sắm tài sản cố định, lắp đặt công nghẹ mớinhằm tăng tính cạnh tranh của sản phẩm về chất lượng, giá cả, mẫu mã…Từ đó doanh nghiệp tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, tăng lợi nhuận, tăng tích luỹ và thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp.
Hiện nay một số công ty tài chính trực thuộc Ngân hàng ra đời đã giúp cho doanh nghiệp giải quyết những bức xúc về nhu cầu đổi mới công nghệ thông qua hình thức tín dụng thuê mua.
Hai là, tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
Trong thời hạn của khoản vay, Ngân hàng thực hiện chức năng giám sát các hoạt động sử dụng vốn với tư cách là người chủ sở hữu vốn vay đối với doanh nghiệp. Ngân hàng hàng căn cứ vào nguyên tắc tín dụng, hướng các doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, đôn đốc khách hàng vay vốn trả gốc và lãi đúng thời hạn và theo thỏa thuận đã cam kết. Mặt khác, trong quá trình kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay, Ngân hàng sẽ giúp doanh nghiệp phát hiện những nhược điểm, sai sót để từ đó có những biên pháp khắc phục và can thiệp kịp thời để hạn chế rủi ro có thể xảy ra đối với doanh nghiệp.
Hơn nữa, tín dụng Ngân hàng với yêu cầu hoàn trả gốc và lãi đầy đủ và đúng hạn, bắt buộc các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì mới đáp ứng được yêu cầu này. Đòi hỏi người vay phải tính toán chi phí sản xuất hợp lý, tốc độ quay vòng vốn sao cho khi đến hạn trả nợ có đủ tiền để trả Ngân hàng và có một phần lợi nhuận cho mình.
Có thể nói, tín dụng Ngân hàng đã ràng buộc trách nhiệm giữa người vay và người cho vay, từ đó nâng cao năng lực quản lý vốn và quá trình sản xuất kinh doanh, giúp cho nguồn vốn đầu tư đem lại hiệu quả cao nhất.
Ba là, tín dụng Ngân hàng tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp:
Trong quá trình sản xuất, doanh nghiệp cần vốn để mua nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, các công cụ lao động, chi phí trả lương nhân viên và một số chi phí cần thiết khác phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đa số là các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, hoạt động chủ yếu ở lĩnh vực thương mại, dịch vụ và các ngành nghề công nghiệp. Nhìn chung đó là những nghành nghề có chu kỳ sản xuất ngắn, đòi hỏi phải phải bổ xung vốn lưu động thường xuyên mà thông thường là nhu cầu lớn hơn vốn tự có của doanh nghiệp. Mặt khác, nền kinh tế thi trường với sự cạnh tranh gay gắt giữa những nhà cung cấp một loại hàng hoá với người mua đã làm nảy sinh quan hệ tín dụng thương mại, tức là mua bán chịu hàng hoá, do vậy không phải lúc nào cũng thu được tiền ngay, trong khi đó sản xuất kinh doanh không thể dừng lại được. Để quá trình sản xuất được diễn ra bình thường, liên tục thì doanh nghiệp chỉ dựa vào vốn tự có mà nhất thiết phải thông qua tín dụng Ngân hàng để bổ sung, tài trợ thêm cho nhu cầu vốn lưu động.
Tóm lại, vai trò của tín dụng Ngân hàng là vô cùng to lớn đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Nó góp phần đưa khu vực kinh tế này phát triển nhanh chóng và từng bước tiến kịp với các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế.
Những khó khăn của Ngân hàng khi thực hiện tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh:
Về vấn đề thông tin: hầu hết các thành phần kinh tế ở khu vực này nhỏ và còn non trẻ hơn so với các đối tượng thuộc thành phần kinh tế quốc doanh, và dưới con mắt của Ngân hàng thành phần này có rủi ro nhiều hơn. Hơn nữa, các Ngân hàng khó hoặc không thể thu thập xử lý các thông tin liên quan đến đối tượng khách hàng vay. Nên nhiều khi các Ngân hàng phải miễn cưỡng chấp nhận các báo cáo tài chính không đáng tin cậy.
Hiện nay, mối quan hệ giữa các tổ chức tài chính và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã không khuyến khích được khu vực này sử dụng các hệ thống kế toán và tài chính minh bạch. Họ có thể làm cho công tác kiểm toán khó khăn hoặc không thực hiện được bằng cách không thực hiện hệ thống kế toán chính thống hoặc sử dụng nhiều hệ thống sổ sách.
Về chi phí giao dịch và các yếu tố rủi ro: việc không có hoặc thiếu thông tin khiến khu vực kinh tế ngoài quốc doanh gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn, không chỉ vì họ có rủi ro và chi phí giao dịch cao mà còn vì chính sách của Nhà nước chưa thực sự tạo điều kiện cho khu vực này vay vốn. Khi một tổ chức Nhà nước đi vay vốn, nếu không có khả năng trả nợ thì gần như Nhà nước sẽ can thiệp để Ngân hàng không phải chịu mất mát toàn bộ trong bảng cân đối tài sản của mình. Ngược lại, khi một doanh nghiệp tư nhân đi vay mà không trả được nợ, Ngân hàng sẽ khó có thể trông cậy vào đau được mà buộc phải bù lỗ từ các khoản cho vay và lợi nhuận của mình.
Để khắc phục những vấn đề thiếu thông tin. Một tiêu chuẩn được sử dụng là bảo đảm bằng tài sản.
Chương II
Thực trạng về thực hiện công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản đối với tín dụng ngoài quốc doanh
tại Chi nhánhNgân hàng Công thương Ba Đình
Để có cái nhìn khách quan và đúng đắn về hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản đói với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánhNgân hàng Công thương khu vực Ba Đình, trước hết cần xem xét đến hoạt thực trạng hoạt động bảo đảm tiền vay bàng tài sản và thực trạng về vốn hiện nay của kinh tế ngoài quốc doanh tại Việt Nam
Thực trạng bảo đảm tiền vay tại Việt nam:
Hoạt động bảo đảm tiền vay đã ra đời hơn 10 năm, các Nghị định của Chính phủ đã kịp thời ban hành nhămg nhanh chóng áp dụng các điều luật giúp các Ngân hàng, tổ chức tín dụng (TCTD) và khách hàng cơ sở pháp lý để thực hiện các khoản vốn nhanh chóng và có hiệu quả. Đồng thời đã có sự đổi mới trong công tác làm luật và ban hành các văn bản pháp quy. Tuy nhiên, một vấn đề nổi lên về phía các cơ quan pháp luật ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín dụng là sự thiếu đồng bộ và nhất quán trong các văn bản. Chính sự thiếu nhất quán này là nguyên nhân dẫn đến tâm lý e ngại sẽ gặp nhiều bất lợi về mặt pháp lý khi đơn giản hoá các thu thục cho vay của các TCTD và khuyến khích làm thừa còn hơn thiếu. Hiện nay các văn bản pháp luật có tính chất nền tảng như bộ luật dân sự, luật tố tụng hình sự, … đã dần dần được hoàn thiện, thể hiện tính đúng đắn rõ ràng quan điểm của Nhà nước.
Một vấn đề thứ hai về bảo đảm tiền vay tại Việt Nam hiện nay là vấn đề xử lý tài sản bảo đảm. Mục đích của cầm cố, thế chấp tài sản khi vay vốn là khả năng phát mại tài sản khi bên vay không thực hiện trả nợ theo cam kết là để Ngân hàng, TCTD thu hồi vốn, tiếp tục phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế. Mặt khác, trong cơ cấu nguồn vốn hiện nay, các Ngân hàng đi vay của khách hàng để cho vay là 67-75% nguồn vốn. Không thu hồi vốn cho vay đúng hạn đối với nhiều khảon vay sẽ làm Ngân hàng lâm vào tình trọng khủng hoảng mất khả năng thanh toán. Quan hệ giữa bên vay (khách hàng) và bên cho vay (các Ngân hàng) là quan hệ dân sự, còn mang tính đạc thù của sự nghiệp Ngân hàng, theo đó thì bên bán tài sản bảo đảm để thu nợ. Thực tế hiện nay lại không diễn ra như thế, muốn phát mại tài sản để thu nợ, Ngân hàng phải được các cơ quan chức năng, ngành chức năng khác xử lý, tổ chức phát mại với nhiều thủ tục phức tạp, kéo dài, tăng tổn phí không đáng có. Về mặt phát mại tài sản trước đây, khi chưa có qui định khách hàng chỉ được dùng một tài sản để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ trả nợ tại một TCTD (nếu tài sản đó có giá trị lớn và có đủ điều kiện) thì đã có tình trạng khách hàng dùng một tài sản để bảo đảm cho các khoản vay tại nhiều TCTD. Khi không trả được nợ cho TCTD, họ sẽ đòi phát mại tài sản để thu hồi nợ về cho TCTD của mình. Nhưng nếu một TCTD chỉ muốn bán tài sản để thu hồi được số vốn riêng của mình thì sẽ bỏ qua lợi ích những TCTD khác cùng chung tài sản bảo đảm. Giá phát mại tài sản không tương xứng với giá trị thực của tài sản bảo đảm, do đó, chỉ có một TCTD có khả năng thu hồi được nợ còn các đơn vị khác cùng cho vay khó có thể lấy lại đủ số vốn đã cho vay. Đó chính là thực trạng hiện nay khi mà các TCTD không có quan hệ với nhau trong việc cho khách hàng vay vốn.
Hình thức cho vay bảo đảm bằng tài sản được các Ngân hàng áp dụng chủ yếu hiện nay là bảo đảm bằng tài sản thế chấp. Tuy nhiên, cho vay bằng tài sản thế chấp hiện nay còn nhiều vướng mắc. Nhìn lại vụ án EPCO-Minh Phụng được xét sử vào cuối năm 1999 và đầu năm 2000 đã làm chấn động dư luận trong cả nước với thiệt hại gần 5000 tỷ đồng. Tài sản trong vụ án EPC._.ay. Mặc dù với những dự án lớn, phòng tín dụng cũng thành lập một hội đồng thẩm định, nhưng số lượng những dựa án như thế trong cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh là không nhiều. Trong khi đó, các cán bộ tín dụng một mạt phải hoàn thành tất cả các giai đoạn của một món vay, mặt khác không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động của mình. Do vậy, việc thành lập một bộ phận thẩm định độc lập sẽ giảm bớt công việc mà một cán bộ tín dụng phải thực hiện. Hơn nữa, các nhân viên trong bộ phận thẩm định được đào tạo chuyên môn sẽ góp phần nâng cao chất lượng dự án.
Thành lập một tổ có nhiệm vụ nghiên cứu về thi trường bất động sản:
Tổ này có nhiệm vụ phân tích, đánh giá “cầu” của thị trường bất động; thực hiện thống kê và thành lập ra một bảng biểu về giá của các loại tài sản. Từ đây tạo cơ sở cho việc lựa chọn những tài sản đảm bảo diễn ra nhanh chóng vừa đảm bảo lợi ích cho Ngân hàng vừa đảm bảo quyền lợi cho khách hàng.
Thực hiện tốt công tác định giá tài sản bảo đảm:
Định giá tài sản bảo đảm là một khâu rát quan trọng, là một trong những điều kiện để khách hàng có thể được vay vốn và mức vay mà khách hàng có thể được vay. Khi xác định mức vốn vay, nếu cán bộ tín dụng xác định giá trị tài sản bảo đảm thấp hơn giá trị thực tế của tài sản trên thị trường, do đó mức vốn mà doanh nghiệp có thể được vay thấp hơn nhu cầu vốn. điều đó dẫn đến các trường hợp sau:
Khách hàng vì không đủ vốn thực hiện theo phương án kinh doanh ban đầu nên đã sử dụng tiền vay vào mục đích khác. Đây là một nguy cơ gây nỗi lo rất lớn cho Ngân hàng.
Khách hàng sẽ tìm cách vay thêm vốn từ bên ngoài Ngân hàng với lãi suất cao để tiếp tục thực hiện phương án kinh doanh ban đầu. Như vậy, khách hàng sẽ phải bỏ ra một khoản chi phí cao hơn nhiều so với vay ở Ngân hàng. Lúc đó khoản vay này và khoản vay tại Ngân hàng sẽ là gánh nặng cho khách hàng mà có khi không đem lại lưọi nhuận từ dự ans. Do đó, Ngân hàng cũng gánh chịu rủi ro dù chỉ cho vay một phần vốn của dự án.
Khách hàng vẫn vay vốn Ngân hàng nhưng sẽ điều chỉnh qui mô của dự án để phù hợp với số tiền có được. Điều này cũng dẫn đến kết quả kinh doanh thay đổi , và rủi ro mát vốn tại Ngân hàng là điều có thể xảy ra.
Đa dạng hoá và danh mục tài sản bảo đảm:
Các quy chế hiện nay cho phép các Ngân hàng có một danh mục tài sản bảo đảm tương đối đa dạng. Tuy nhiên trên thực tế tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Ba Đình các tài sản bảo đảm để vay vốn Ngân hàng còn rất ít, những tài sản nay đa phần là những tài sản thông dụng và có độ an toàn cao như: nhà ở, đất đai, ô tô, xe máy, sổ tiết kiệm, trái phiếu kho bạc…điều này đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến việc mở rộng hoạt động tín dụng của Chi nhánh đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và cũng làm ảnh hưởng đến việc thu hút khách hàng của Chi nhánh. Vì vậy, trong thời gian tới Chi nhánh có thể mở rộng danh mục tài sản bảo đảm của mình.
Đối với tài sản thế chấp là bất động sản (nhà ở, công xưởng) có chứng từ sở hữu gốc đầy đủ nằm ngoài địa giới hành chính của Ngân hàng thì Ngân hàng cũng nên taọ điều kiện cho doanh nghiệp được vay vốn.
Đối với những trường hợp phục vụ nhu cầu tiêu dùng như xây dựng nhà ở, mua sắm thiết bị thông dụng thì Ngân hàng có thể xem xét cho vay theo hình thức thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay.
Hay Ngân hàng có thể cho phép khách hàng sử dụng hợp đồng bán hàng như một tài sản bảo đảm. Các doanh nghiệp bán hàng nhưng chưa thu được tiền do khách hàng mua chịu làm cho các doanh nghiệp này bị thiếu vốn lưu động. Ngân hàng có thể giúp cho các doanh nghiệp vay một khoản tín dụng ngắn hạn dựa theo phần trăm so với các khoản thu và sử dụng hợp đồng bán hàng như một tài sản bảo đảm. Những hợp đồng này có thể là những hợp đồng bán cho những người mua có độ tin cậy cao, tình hình tài chính ổn định , sản phẩm của các doanh nghiệp đó được chấp nhận rộng rãi trên thị trường. Hoặc cho phép cầm cố chứng khoán, đây là một vấn đề hoàn toàn mới đối với Chi nhánh. Để thực hiện được điều này đòi cán bộ có trình độ nghiệp vụ và hiểu rõ thị trường chứng khoán. Mặc dù thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển và sôi động nhưng với xu hướng tiến tới việc cổ phần hoá thì lúc đó chứng khoán sẽ được sử dụng như một công cụ thông thạo trên thi trường.Chi nhánh cũng nên áp dụng hình thức cầm cố hàng hoá luân chuyển trong khả năng có thể quản lý. Trong trường hợp này, Chi nhánh cần có sự giúp đỡ của cơ quan quản lý chất lượng hàng hoá qua đó bảo đảm an toàn cho Chi nhánh.
Thành lập tổ bảo hiểm tài sản bảo đảm
Hiện nay tại một số Ngân hàng đã thành lập tổ bảo hiểm tài sản bảo đảm. Khi nhận tài sản bảo đảm của khách hàng vay, cán bộ tín dụng sẽ chuyển qua tổ bảo hiểm này. Tổ bảo hiểm sẽ tiến hành tái bảo hiểm tài sản bảo đảm đó tại một công ty bảo hiểm khác. Như vậy, tài sản bảo đảm đã được thẩm định hai lần ( lần thứ nhất là do cán bộ của Ngân hàng thẩm đinh, và lần thứ hai là do công ty bảo hiểm thảm định) điều này làm tăng độ tin cậy của tài sản bảo đảm .
Một số kiến nghị:
Kiến nghị với Chính phủ
1.1. Kiến nghị với chính phủ để hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay tại các NHTM
Cơ chế bảo đảm tiền vay tho Nghị định số 178 của Chính phủ đi vào hoạt động từ tháng 1/2000 đến nay đã gặp một số khó khăn vướng mắc chưa phù hợp với điều kiện thực tế nên không thực sự đạt được mục tiêu mở rộng tín dụng và phòng ngừa rủi ro tín dụng. Cần có một cơ chế đảm bảo tiền vay theo hướng không qui định thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh là điều kiện vay vốn mà khách hàng vay bắt buộc phải thực hiện hoặc được “ưu đãi” miễn thực hiện, mà chỉ nên qui định có tính khuôn khổ pháp luật tách bạch rõ ràng tín dụng theo hướng thương mại và theo chính sách. Đối với tín dụng thương mại thì đưa ra nhiều biện pháp đảm bảo tiền vay một cách phong phú, đa dạng, trên cơ sở đó các tổ chức tín dụng lựa chọn khách hàng, lựa chọn các dự án để tự quyết định cho vay cần có đảm bảo hoặc không cần có đảm bảo bằng tài sản. Việc thực hiện được tiến hành đối với khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế , không phân biệt đối xử. Đối với tín dụng theo chính sách tức tín dụng ưu đãi của Nhà nước đối với một số đối tượng khách hàng và dự án cần thiết thì do Chính phủ chỉ định cho vay và không cần biện pháp đảm bảo bằng tài sản, khi bị tổn thất do các nguyên nhân khách quan về các khoản vay thì được Chính phủ xử lý.
Cơ chế đảm bảo tiền vay như vậy sẽ khắc phục được một số vướng mắc:
- Nâng cao quyền tự quyết, tự chịu trách nhiệm của Ngân hàng và khách hàng trong việc quyết định cho vay và nghĩa vụ trả nợ; Nhà nước không can thiệp quá sâu vào quá trình quyết định cho vay và đi vay của Ngân hàng và khách hàng.
-Ngân hàng sẽ lựa chọn khách hàng có uy tín, hiệu quả, có khả năng trả nợ để cho vay, lựa chọn biện pháp đảm bảo tiền vay phù hợp cho cả hai bên, như vậy sẽ giảm bớt việc cho vay bị động phụ thuộc vào Ngân hàng, giảm bớt việc nhận bất cứ tài sản thế chấp, cầm cố để cho vay nên sẽ bớt tồn động nhiều tài sản cần xử lý.
Do vậy , cần phải có những chỉnh sửa, bổ xung đồng bộ, phù hợp giữa qui định của pháp luật với thực tế, cụ thể:
Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay
Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng, các chế định giao dịch bảo đảm được cụ thể hoá bằng các chế định bảo đảm tiền vay. Do đó nếu chế định bảo đảm tiền vay được quy định trong các văn bản pháp luật liên quan thống nhât vơí nhau và phù hợp với tực tế thì nó tạo cơ sở pháp lý thuận tiện cho Ngân hàng hoạt động tín dụng và bảo toàn được nguồn vốn cho vay, qua đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế ngoài quốc doanh phát triển. Chính vì vậy việc bảo đảm tính nhất quán và sự phù hợp với thực tiễn của những qui định về giao dịch bảo đảm trong hệ thông pháp luật hiện nay là rất cần thiết .
Thứ nhất, là về một tài sản được sử dụng để thực hiện nhiều nghĩa vụ tại các Ngân hàng khác nhau.
Theo quy định tại khoản 2-điều 329 và khoản 3-điều 346 Bộ luật Dân sự, thì một tài sản có quyền đăng ký sở hữu theo quy định của pháp luật , có thể được cầm cố, thế chấp để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ được bảo đảm trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy đinh khác. Điều 6 của Nghị đính số 165/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ cũng quy định một tài sản được dùng để đảm bảo cho một nghĩa vụ trong trường hợp tài sản đã được đăng ký quyền sở hữu. Cả Bộ luật dân sự và Nghị định số 165 đều quy định giá trị của tài sản bảo đảm phải lón hơn tổng giá trị của các tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, theo điều 11 của Nghị định số 178/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ quy định một tài sản chỉ được dùng để bảo đảm cho một nghĩa vụ trả nợ tại một tổ chức tín dụng; trường hợp tài sản có đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật thì một tài sản có thể thực hiện nhiều nghĩa vụ trả nợ tại một TCTD với điều kiện giá trị của tài sản bảo đảm phải lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm.
Trên thực tế, một tài sản có giá trị lớn thì pháp luật không nên qui định khách hàng chỉ được dùng tài sản đó để bảo đảm cho một khoản vay có giá trị nhỏ (chẳng hạn chỉ bằng 1/10 giá trị của tài sản bảo đảm) trong khi khách hàng đang có nhu cầu vau vốn để phát triển sản xuất kinh doanh và Ngân hàng đã nhận tài sản bảo đảm không còn đủ khả năng cấp thêm vốn tín dụng cho khách hàng đó nữa. Hiện nay các Ngân hàng trong nước chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý vốn cho vay khi cùng nhận một tài sản để bảo đảm cho nhiều khoản vay. Do đó, nếu cùng nhận một tài sản bảo đảm cho nhiều khoản vay khác nhau thì các Ngân hàng khó mà kiểm tra, giám sát được quá trình của bên bảo đảm quản lý, khai thác tài sản. Chính vì vậy khi vận dụng các văn bản pháp luật vào giao dich bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ , các Ngân hàng đã lựa chọn áp dụng văn bản chuyên nghành (Nghị định số 178) để tiến hành các thủ tục nhận tài sản bảo đảm chứ không vào Bộ luật Dân và Nghị định số 165. Điều đó có nghĩa là Ngân hàng chỉ nhận một tài sản cho một khoản vay tại một Ngân hàng. Chính vì vậy, Bộ luật Dân sự cần quy định cụ thể hơn nữa hoặc ban hành kịp, đồng bộ, nhất quán các văn bản hướng dẫn để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch bảo đảm phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế và cơ chế mới.
Thứ hai, bên bảo đảm định đoạt tài sản được sử dụng dể bảo đảm tiền vay
Theo khoản 2- Điều 332 và điểm 2- khoản 4- Điều 351 của Bộ luật Dân sự thì bên thế chấp, cầm cố tài sản không được bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, cho mượn tài sản đã được dùng để bảo đảm thực hiện nghiã vụ dân sự. Nhưng điểm d-khoản 2-điều 17 của Nghị định số 178 lại quy định khách hàng vay vốn (hoặc bên bảo lãnh) không được bán, chuyển nhượng, tặng cho, góp vốn liên doanh hoặc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác khi chưa trả hết nợ cho tổ chức tín dụng , trừ trường hợp tổ chức tín dụng đồng ý cho bán để trả nợ cho chính khoản vay được bảo đảm. Như vậy có thể thấy Nghị định 178 linh hoạt hơn và phù hợp với thực tế hơn quy định của Bộ luật Dân sự.
Thực tế cho thấy nhiều khách hàng chỉ có khả năng dùng tài sản bảo đảm chủ yếu là sản phẩm, hàng hoá cuả mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Do đó, nếu Ngân hàng đồng ý nhận tài sản bảo đảm là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh để bảo đảm tiền vay thì giá trị tài sản bảo đảm của khách hàng mới đủ bảo đảm cho số tiền định vay Ngân hàng.
Vì vậy, bộ luật Dân sự cần được sửa đổi bổ sung theo hướng quy định của Nghị định 178 nhằm tạo diều kiện thuận lợi hơn cho cả Ngân hàng và khách hàng vay vốn.
Thứ ba, tài sản hình thành từ vốn vay
Theo Điều 2 của Nghị định số 165, thì tài sản hình thành trong tương lai là động sản, bất động sản hình thành sau thưòi điểm ký kết giao dịch bảo đảm và sẽ thuộc quyền của bên sở hữu của bên bảo đảm như hoa lợi, lợi tức, tài sản hình thành từ vốn vay, công trình đang xây dựng, các tài sản bảo đảm khác mà bên bảo đảm có quyền nhận. Đièu 2 của Nghị định 178 cũng quy định tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của khách hàng vay mà giá trị của tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của tổ chức tín dụng. Song cả Nghị định số 165 vầ Nghị đinh số 178 đều chưa quy định phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hình thành trong tương lai.
Trên thực tế, nhiều chủ đầu tư muốn dùng bất động sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vị trả nợ cho chính khoản vay được đầu tư vào tài sản đó. Do vậy Ngân hàng rất khó định giá tài sản hình thành từ vốn vay để xác định số tiền vay cho phù hợp vói quy định số tiền vay phải nhỏ hơn tài sản bảo đảm. nguyên nhân là do tài sản chưa được hình thành tại thời điểm cho vay nên Ngân hàng chỉ có thể đưa ra mức cho vay căn cứ trên hồ sơ và các giấy tờ do bên vay cung cấp. Đến khi tài sản được hình thành và đưa vào sử dụng, theo Nghị định 178 thì bên nhận tài sản phải xác định rõ giá trị của tài sản bảo đảm. Lúc đó, giá trị của tài sản bảo đảm có thể cao hơn hoặc thấp hơn số tiền đã cho vay. Mặt khác những thủ tục như công chứng, chứng thực hợp đồng vẫn chưa được pháp luật cụ thể. Do đó khi nhận tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc về cơ sở pháp lý. Vì vậy, Bộ luật Dân sự cần bổ sung một chương quy định về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng tài sản hình thành từ vốn vay để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành hướng dẫn các Ngân hàng thủ tục, trình tự nhận tài sản hình thành từ vốn vay.
Theo nghị định 178, có quy định điều kiện khách hàng vay phải có tín nhiệm đối với Ngân hàng là không cần thiết vì điều này có nghĩa là Ngân hàng và khách hàng đã có quan hệ tín dụng, như thế sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận khách hàng mới của Ngân hàng. Hơn nữa, quy định khách hàng phải có vốn tự có tham gia vào dự án hoặc phải có tài sản cầm cố, thế chấp tối thiểu bằng 50% giá trị khoản vay. Quy định này tỷ lệ tối thiểu là hợp lý nhưng đê tỷ lệ như vậy là quá cao, thực tế rất khó thực hiện đặc biệt là đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vì vốn tự có của khu vực này rất thấp.
Thứ tư, việc giữ tài sản cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ
Theo điều 329 của Bộ luật Dân sự và theo điều 12-Nghị định 178/1999/NĐ-CP thì khi cầm cố tài sản nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố hoặc giao cho người thứ ba giữ. Trong khi đó, tại điều 15, Nghị định số 165/1999/NĐ-CP lại cho phép bên cầm cố có thể được giữ tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu (nhưng phải được đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm). Tuy nhiên, trên thự tế nhiều doanh nghiệp chỉ có thể dùng động sản không phải đăng ký quyền sở hữu như: máy móc, thiết bị, dây truyền…để thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với Ngân hàng. Trong trường hợp đó nếu doanh nghiệp phải giao lại tài sản bảo đảm cho Ngân hàng giữ theo quy định của Bộ luật Dân sự thì doanh nghiệp không những không sử dụng được vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả mà còn không thể tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh được nữa.
Qua đó đòi hỏi các nhà làm luật cần nhận thức rõ những nhân tố mới, những điều kiện mới đang phát triển để sửa đổi điều 329 của Bộ luật Dân sự hiện hành cho phù hợp với thực tế và tránh sự chông chéo, mâu thuẫn giữa các quy định.
Thứ năm, vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
Theo điều 327 của Bộ luật Dân sự thì tuền VNĐ, trái phiếu,cổ phiếu, kỳ phiếu và các giấy tờ có giá khác trị giá được bằng tiền được phép giao dịch và được dùng như một tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Nghị định 178 và Nghị định 165 đã cụ thể hoá điều 327 của Bộ luật dân sự theo hướng mở rộng các loaị hình cầm cố. Thực tế gần đây cho thấy một số tài sản mưói được hình thành nhưng Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn chưa được cập nhật để quy định chi tiết hoặc bổ xung. Do đó dẫn đến tình trạng cùng một lọai tài sản Ngân hàng này nhận nó làm tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vủ trả nợ nhưng Ngân hàng khác lại không chấp nhận loại giấy tờ đó làm bảo đảm vì họ cho rằng đó không phải là giấy tờ có giá. Chính vì thiếu quy định chi tiết của pháp luật về loại giấy tờ có giá mà trong những trường hợp cụ thể, các Ngân hàng đã vận dụng và áp dụng các quy định khác nhau để chấp nhận hay từ chối cùng một loại giấy tờ. Do đó, Bộ luật Dân sự cần bổ xung các loại giấy tờ có giá mới phát sinh để là cơ sở pháp lý cho các tổ chức, cá nhân thực hiện thống nhất trong phạm vi cả nước, góp phần làm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tuy Nghị định số 178/1999/NĐ-CP không ghi căn cứ ban hành Bộ luật dân sự, nhưng Chính phủ cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống văn bản pháp luật để Ngân hàng có cơ sở vững chắc cho hoạt động của mình.
Quy định rõ hơn về việc công chứng các giao dịch bảo đảm:
Theo quy định của Nghị định 165/1999/ NĐ-CP phải đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu và những tài sản không đăng ký quyền sở hữu trong trường hợp dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ trả nợ. Nhưng hiện nay chưa có một cơ quan nào đăng lý giao dịch bảo đảm đối với những tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu. Chỉ có cơ quan đăng ký việc cầm cố, thế chấp về tàu bay, tàu biển, quyền sử dụng đất. Còn nhiều loại tài sản khác mà pháp luật từ lâu thuộc loại phải đăng ký giao dịch bảo đảm. nhưng trên thực tế không biết đăng ký ở đâu, ví dụ như: nhà ở, một số phương tiện vận tải. Từ thực tế trên, Chính phủ cần sớm thành lập cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm nhằm giải quyết những bức xúc trên.
Việc đăng ký giao dịc bảo đảm là điều bắt buộc theo quy định tại điều 2- nghị định 08/2000/NĐ-CP. Trong khi đó một số quy dịnh trong Nghị định 165/1999/NĐ-CP lại yêu cầu phải công chứng giao dich bảo đảm. Việc thực hiện cả hai công việc công chứng và đăng ký giao dich bảo đảm là không cần thiết. Thực chất việc đăng ký cầm cố, thế chấp và bảo lãnh cũng có nghĩa như một chứng thực, một sự công thức về mặt pháp lý. Hơn nữa việc thực hiện cả hai việc công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm thì khách hàng phải chịu cả hai loại lệ phí. Hai loại lệ phí này hiện nay là khá cao. Do đó, việc quy định cụ thể công chứng và đăng ký giao dịch cho từng loại tài sản là việc cần làm ngay.
Cần quy định rõ ràng hơn về điều kiện tài sản bảo đảm:
Theo quy định tài sản thế chấp phải có chứng từ sở hữu gốc để giao nộp cho Ngân hàng nhưng trên thực tế hơn 80% tài sản của các pháp nhân khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và 100% kinh tế quốc doanh không có giấy chứng nhận sở hữu
Điều kiện về tài sản thế chấp đặc biệt phức tạp với thế chấp băng quyền sử dụng đất. Luật Đất đai hiện nay không công nhận quyền sở hữu đất của các cá nhân, hộ gia đình và các tổ chức kinh tế nhưng nhà nước bảo hộ quyền hợp pháp của người sử dụng đất, các cá nhân, tổ chức kinh tế được nhà nước giao đất có quyền chuyển nhượng, thế chấp quyền sử dụng. Các Ngân hàng luôn đòi hỏi các chứng thư xác nhận quyền sử dụng đất nhưng khách hàng khó đáp ứng. Nguyên nhân là do hệ thống pháp luật, sự quản lý đất dai còn lỏng lẻo. Thể hiện:
Giấy tờ và hồ sơ nhà đất hiện nay có rất nhiều loại. Có mhiều trường hợp có đủ quyền hợp pháp nhưng không có đủ iáy tờ hợp lệ, không xác định được giấy tờ có hợp lệ hay không. Vì vậy Nhà nước cần thông nhất hoá giấy tờ này.
Với loại tài sản do nhà nước quản lý, giao quyền sử dụng cho doanh nghiệp và hộ tư nhân thì Nhà nước có thể hoá giá chuyển từ sử dụng sang sở hữu hoàn thiện về mặt giấy tờ, giúp các thành phần kinh tế đảm bảo thủ tục vay vốn.
Đơn giản hoá thủ tục đăng ký sở hữu tài sản thế chấp:
Đối với tài sản đăng ký sở hữu thì phải thực hiện tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ( theo quy định của luật Dân sự) nhưng thực tế chưa có một văn bản nào nói rõ cơ quan nào và thủ tục ra sao. Trong khi giao kết hợp đồng tài sản thế chấp, các Ngân hàng gửi thông báo đến cơ quan hành chính và cơ quan này tiếp nhận có tính chất cập nhập và lưu giữ. Vì vậy biện pháp này thiếu cơ sở pháp ý để truy cứu trách nhiệm nếu phát sinh tranh chấp gây thiệt hại.
Với tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước so Tổng cục quản lý vốn, thế chấp cần có sự đồng ý của cơ quan này. Đây là thủ tục rườm rà và khó thực hiện được vì doanh nghiệp vay trong khi Ngân hàng có thể kiểm tra những thông tin này trong sổ sách hoặ chính tài sản đó. Thêm vào đó tổng cục quản lý vốn khó đưa ra về nguồn gốc và giá trị tài sản.
Nếu tài sản thuộc đồng sở hữu, thì Ngân hàng đòi hỏi phải có mặt tất cả những chủ sở hữu để đăng lý hợp đồng thế chấp. Điều này cũng gây khó khăn cho Ngân hàng và khách hàng. Nên để cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm về sự trung thực của chữ ký.
Đưa ra các giải pháp về định giá tài sản bảo đảm sao cho hợp lý cho cả Ngân hàng và người vay vốn
Thực tế cho thấy, sau khi phân loại tài sản. nếu Ngân hàng dựa vào khung giá của Chính phủ thì giá trị của tài sản sẽ bị đánh giá thấp hơn so với giá thị trường. Chính phủ nên đưa ra một khung giá “mỡ”, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng linh hoạt hơn trong việc định giá tài sản không đi quá xa so với giá qui định của Nhà nước, nhưng cũng không bị cố định vào khung giá đó, tránh được tình trạng giá theo khung giá của Nhà nước thấp hơn rất nhiều so với giá thị trường, đặc biệt là đối với thị trường bất động sản.
Việc định giá tài sản theo sổ sách là công việc mạo hiểm vì con số thường khác xa so với thực tế. Vì vậy Nhà nước cần qui định chặt chẽ công tác hạch toán của doanh nghiệp để tránh cho việc đánh giá tài sản theo sổ sách kế toán không đúng, các con số thường khác xa so với thực tế.
Hiện tượng cùng một loại tài sản được đánh giá khác nhau ở các Ngân hàng thường xuyên diễn ra vì không có một chuẩn mực giá trị tài sản nào. Giá trị thực của tài sản phụ thuộc vào thoả thuận của Ngân hàng và khách hàng. Nhà nước cần đưa ra những chỉ tiêu chung đồng thơi thông báo rộng rãi trên phương tiên thông tin đaị chúng.
Từng bước để thành lập một tổ chức chuyên môn về định giá tài sản thế chấp, cầm cố.
Kiến nghị với Chính phủ các giải pháp về tài chính tiền tệ để thúc đẩyphát triển kinh tế ngoài quốc doanh
Luật doanh nghiệp đã có hiệu lực thihành từngày 1/1/2000,vì vậy Chính phủ cần khẩn trương yêu cầu các Bộ, nghành có liên quan xây dựng các dự thảo Nghị dịnh triển khai Luật này, tạo điều kiện cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển đúng pháp luật, ổn định, vững chăc. Đặc biệt là cần cải cách hành chính, bãi bỏ các quy định cấp phép rường rà, trái pháp luật.
Các cơ quan Nhà nước cần tăng cường kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đảm bảo các doanh nghiệp này hoạt động dúng pháp luật.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước, không gây khó khăn cho sự phát triển ngoài quốc doanh.
Không hình sự hoá các quan hệ kinh tế – dân sự trong quan hệ vay vốn giữa các Ngân hàng với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi xảy ra tranh chấp trong những trường hợp doanh nghiệp không trả được nợ cho ngân hàng. Điều này sẽ tạo ra một tâm lý thoải mái cho cán bộ tín dụng của Ngân hàng khi thẩm định cũng như khi đưa ra quyết định cho vay.
Chính phủ cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động có hiệu quả, vay vốn Ngân hàng đến mức 100 triệu hoặc 200 triệu đồng mà không phải thế chấp tài sản miễn là đảm bảo ba điều kiện: dự án có hiệu quả, doanh nghiệp hoạt động 3 năm liền có lãi, tình hình tài chính lành mạnh và có uy tín trong quan hệ vay vốn với Ngân hàng
Nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tính dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước:
Thu thập và sắp xếp lại những văn bản liên quan đến bảo đảm tiền vay
Hiện nay có khoảng 61 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bảo đảm tiền vay. Số lượng các văn bản khá nhiều nhưng thiếu tính thông nhất trong nội bộ hệ thống. Một văn bản Chính phủ ban hành thường đi kèm với số lượng lớn các văn bản hướng dẫn của các cơ quan hữu quan khác nhau, nên không tránh được những quy định chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau. Hơn nữa, các Nghị định của Chính phủ thường đi kèm theo “trừ trường hợp pháp luật có quyđịnh khác”. chính điều này gây khó khăn cho cán bộ tín dụng khi áp dụng các quy định này trong thực tế, đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước nên có một bộ phận chuyên thu thập các văn bản có liên quan để hỗ trợ cho các NHTM khi cần thiết.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cung cấp thông tin tín dụng
Thông tin phải được cập nhập kịp thời và chính xác. Trung tâm này phải trở thành chỗ dựa vững chắc cho các NHTM. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm này, đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải:
Từng bước hoàn thiện mô hình hoạt động cuả trung tâm tín dụng, có quy chế hoạt động phù hợp. Thống nhất, đảm bảo thực hiện hiệu quả vai trò, chức năng của trung tâm.
Cho phép mở rộng thành viên của Trung tâm, bao gồm các doanh nghiệp, các tập đoàn kế toán từ đó có thể đa dạng hoá các thông tin trên các kĩnh vực của nền kinh tế.
Tăng cường sử dụng đòn bẩy kinh tế trong việc trao đổi thông tin, đánh giá đúng mức vai trò của thông tin trong thời đại hiện nay.
Xây dựng một công ty định giá tài sản
Việc thành lập một Chi nhánh bộ phận định giá tài sản sẽ giúp cán bộ tín dụng giảm bớt được gánh nặng, đồng thời nâng cao độ tịn cậy và tính chính xác của tài sản bảo đảm. Tuy nhiên số lượng của các khoản vay lớn nhưng giá trị của các khoản vay lại nhỏ ( đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ) điều này đòi hỏi Chi nhánh phải đầu tư một số vốn lớn. Đây là điều mà Ngân hàng Nhà nứơc có thể làm được. Yêu cầu định giá tài sản bảo đảm đòi hỏi các nhân viên có trình độ chuyên môn trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy Ngân hàng Nhà nước thiết lập một bộ phận đảm nhiệm chức năng này, thông qua đó NHNN có thể quản lý sát sao hơn các khoản vay về mật chất lượng, do vạy ngay từ đầu các khoản vay đã được đánh giá độ an toàn.
Đưa ra một mẫu hợp đồng tài sản thế chấp chung cho tất cả các tài chính tín dụng để tránh tình trạng không đồng nhất giữa các tổ chức và sự không công nhận của công chứng Nhà nước
Kiến nghị đối với các bộ nghành liên quan
Hoạt động của Ngân hàng trong cơ chế thị trường liên quan đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, rất cần thiết phải có sự hỗ trợ của các cấp, các ngành hữu quan, đặc biệt là các cơ quan hành pháp.
Với Tổng cục địa chính
Trong định giá tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất hoặc nhà ở hiện nay, Chi nhánh đang sử dụng khung giá nhà đất của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, nhưng khung giá này đã được xây dựng từ khá lâu không còn phù hợp với tình hình biến động lớn của giá nhà đất hiện nay, nên dẫn đến tình trạng tài sản bảo đảm bị đánh giá thấp hơn so với giá trị thực tế. Việc thu thập thông tin liên quan đến giá cả thị trường thường mất rất nhiều thời gian và công sức, cho nên dù cán bộ tín dụng rất linh hoạt trong việc kết hợp giữa giá được quy đinh, giá thị trường và biên độ giao động cũng không thể đánh giá đúng được giá trị của tài sản. Vì vậy, nên chăng Tổng cục địa chính và Ban vật giá chính phủ phối hợp đưa ra một khung giá nhà đất thị trường trên từng vùng để việc cho vay có căn cứ phù hợp với cơ chế thị trường, qua đó Ngân hàng có thể đưa ra một mức giá vừa đảm bảo an toàn cho Ngân hàng, vừa thoả mãn được nhu cầu vay của khách hàng.
Khi cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh bằng tài sản để vay vốn tại Ngân hàng, Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải chứng minh được quyền sở hữu của mình đối với tài sản bảo đảm đó. Tuy nhiên, trong thời gian qua tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Sở địa chính và Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền rất chậm, thậm chí còn gây khó khăn, điều này đã gây ảnh hưởng và làm hạn chế đến khả năng cung ứng vốn của Ngân hàng. Vì vậy, Tổng cục địa chính nên sớm có các biện pháp thúc đẩy tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở những khu đất đủ tiêu chuẩn.S
Với Bộ tư pháp
Cho đến hiện nay, trình tự, thủ tục về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với các tài sản là bất động sản, động sản vẫn chưa được hướng dẫn thống nhất vì vậy việc cầm cố, thế chấp vay vốn tại các Ngân hàng của khách hàng vẫn chưa thực hiện được. Để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay cũng như duy trì độ an toàn cho các khoản vay của Ngân hàng, Bộ Tư pháp nên nhanh chónh ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể những vấn đề liên quan đến giao dịch bảo đảm. Việc thành lập Cục quốc gia về giao dịch bảo đảm (ra đời theo quyết định số 104/2001/QĐ-TTg0 là nguồn thông tin chính xác về tài sản cầm cố, thế chấp đã được dùng để bảo đảm cho các nghĩa vụ nào hay chưa, cơ sở cho việc hạn chế, ngăn ngừa rủi ro khi nhân bảo đảm tiền vay băng các tài sản này.
Mục lục
Chương II:
Thực trạng về thực hiện công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản đối với tín dụng ngoài quốc doanh tại Chi nhánh NHCT Ba Đình
I. Thực trạng bảo đảm tiền vay tại Việt Nam 38
II. Thực trạng về vốn hiện nay của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay ở Việt Nam 40
III. Khái quát chung về tình hình hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình 43
1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng 43
2. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng 45
3. Những hoạt động chủ yếu của ngân hàng 45
4. Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng 47
IV. Thực trạng hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại CN NHCT Ba Đình 55
1. Kết quả hoạt động cho vay ngoài quốc doanh tại chi nhánh 55
1.1. Cho vay ngắn hạn 55
1.2. Cho vay trung, dài hạn 57
2. Thực trạng bảo đảm tiền vay đối với tín dụng ngoài quốc doanh 58
2.1. Các hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản được áp dụng tại chi nhánh 58
2.2. Hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp của khách hàng 60
2.3. Hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản cầm cố của khách hàng 63
2.4. Hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba 66
2.5. Hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay 67
3. Những kết quả mà chi nhánh đạt được trong việc thực hiện bảo đảm tiền vay đối với khu vực KT NQD 68
V. Những hạn chế và vướng mắc phát sinh trong quá trình bảo đảm tiền vay tại chi nhánh 70
VI. Nguyên nhân 74
Chương III:
Một số giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản đối với tín dụng KTNQD tại Chi nhánh NHCT Ba Đình 77
I. Định hướng phát triển trong thời gian tới của Chi nhánh 77
II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay tại chi nhánh 78
III. Một số kiến nghị 84
1. Kiến nghị với Chính phủ 84
2. Kiến nghị với NHNN 94
3. Kiến nghị với các bộ ngành liên quan 95
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH358.doc