Lời nói đầu
Nền kinh tế thế giới đã bước sang thế kỷ 21 với những thành tựu và tốc độ phát triển đầy ấn tượng. Với xu hướng khu vực hoá và dần dần tiến tới toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay đã và đang đặt ra cho kinh tế nước ta nhiều thử thách cũng như nhiều triển vọng tốt đẹp cho quá trình hội nhập.
Với đặc điểm của một nước đang phát triển, chúng ta cần phải huy động được một nguồn vốn nước đáp ứng cho tiến trình phát triển của đất nước, mà cụ thể là đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện cơ sở pháp lý về thành lập & hoạt động của Công ty cho thuê Tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Với cơ cấu doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 90% doanh nghiệp cả nước nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp này ngày càng tăng do nhu cầu đầu tư, đổi mới thiết bị, máy móc, công nghệ và còn do số lượng ngày càng lớn của các doanh nghiệp mới được thành lập. Nhận thức được nhu cầu cấp thiết này, từ năm 1995 chúng ta đã lựa chọn loại hình tín dụng thu mua (cho thuê tài chính) như một lối thoát cho cơn khát vốn đang trói buộc các doanh nghiệp. Với những ưu điểm của mình, CTTC tỏ ra đặc biệt thích hợp với những doanh nghiệp đang ở trong giai đoạn tái cấu trúc và cơ cấu lại dây chuyền sản xuất, và trên thực tế CTTC cũng đã mang lại cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội thuận lợi để tìm kiếm nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh v.v... Tuy vậy qua thực tiễn vài năm hoạt động nghiệp vụ cho thuê tài chính đã gặp phải một số khó khăn nhất định, mà khó khăn lớn nhất cần phải tháo gỡ ngay là những tồn tại của môi trường pháp lý đối với nghiệp vụ này.
Qua thời gian thực tập tại Công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam em chọn đề tài “Hoàn thiện cơ sở pháp lý về thành lập và hoạt động của Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”. Với đề tài này, em muốn trình bày những tồn tại của môi trường pháp lý đối với hoạt động cho thuê tài chính và từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi phát triển thị trường cho thuê tài chính ở nước ta, góp phần thúc đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và quá trình hội nhập với tốc độ phát triển chung của nền kinh tế thế giới.
Nội dung đề tài được chia thành 3 chương:
Chương I - Những vấn đề pháp lý cơ bản về hoạt động cho thuê tài chính
Chương II- Thực trạng hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Chương III - Hoàn thiện cơ chế pháp lý để phát triển thị trường CTTC ở nước ta.
Chương I
Những vấn đề pháp lý cơ bản về hoạt động cho thuê tài chính.
I-/ Khái quát về hoạt động cho thuê tài chính (CTTC).
1-/ Lịch sử phát triển của hoạt động CTTC.
a, ở các nước.
Cho thuê tài sản là một hoạt động được sáng tạo ra từ rất sớm trong lịch sử văn minh nhân loại. Các giao dịch thuê tài sản đã xuất hiện từ năm 2.800 trước Công nguyên tại thành phố Sumerian của người UR (là một thành phố phía Nam của thành phố Mesopotania - gần vịnh Ba tư, là một phần Iraq ngày nay). Trong các giao dịch đó, người cho thuê là các thầy tu, còn các nông dân tự do là người đi thuê. Tài sản thuê ở đây là các công cụ sản xuất nông nghiệp như súc vật kéo, nhà cửa, ruộng đất...
Những bộ luật quy định về cho thuê tài sản cũng ra đời từ rất sớm. Vào những năm 1700 trước Công nguyên, vua Babilon là Hamunarabi đã ban hành nhiều văn bản quan trọng tạo ra một bộ luật lớn trong đó có đưa ra những quy định về cho thuê tài sản.
Trong các nền văn minh cổ đại như Hy lạp - La mã, Ai cập cũng xuất hiện các hình thức cho thuê để tài trợ cho việc sử dụng đất đai, gia súc, công cụ sản xuất. Các giao dịch thuê mua dưới thời kỳ này thuộc loại thuê mua truyền thống (Traditional Lease), với phương thức giao dịch tương tự như phương thức thuê vận hành ngày nay.
Cho đến những năm 50 của thế kỷ 19, ở Mỹ xuất hiện hình thức tín dụng thuê mua thuần (Net Lease) do Công ty United States Leasing Corporation sáng tạo ra. Từ khi xuất hiện nghiệp vụ này hoạt động CTTC đã có một bước phát triển nhảy vọt, đã tạo ra một sự thay đổi về chất của hoạt động CTTC. Theo nghiệp vụ này thì các Công ty CTTC có thể cho thuê một tài sản như một nhà máy hoàn chỉnh theo kiểu chìa khoá trao tay. Về chủng loại tài sản cho thuê rất phong phú đáp ứng được hầu hết các nhu cầu thuê tài sản. Tài sản thuê có thể là máy móc, thiết bị, dụng cụ văn phòng và cả những toà nhà lớn, thậm chí cả tổ hợp nguyên tử...
Năm 1960 nghiệp vụ CTTC được phát triển sang Châu Âu, đánh dấu cho sự kiện này là việc nghiệp vụ CTTC được ghi vào Luật thuê mua của hai cường quốc kinh tế mạnh nhất Châu Âu là Anh và Pháp.
Trong những năm gần đây hoạt động CTTC đang phát triển rất nhanh ở các nước đang phát triển ở Châu á, Châu Phi. Năm 1994 giá trị máy móc thiết bị thông qua hoạt động CTTC lên tới 44 tỷ USD, tăng gần 3 lần so với năm 1988. Riêng ở Hàn quốc là một trong những nước mà hoạt động CTTC đạt được những bước tăng trưởng đầy ấn tượng. Năm 1994 nước này đã trở thành thị trường CTTC đứng thứ 5 trên thế giới.
Như vậy, hoạt động CTTC đã có nguồn gốc ra đời từ rất sớm và kể từ những năm 50 của thế kỷ 19 hoạt động này đã được sử dụng như một nghiệp vụ tài chính chuyên sâu và có hiệu quả trên phạm vi toàn cầu với sự ra đời của hàng loạt các Công ty CTTC độc lập, các Công ty này đã tạo ra những lợi ích kinh tế đáng kể cho nền kinh tế các nước.
b, ở Việt nam.
Sau 10 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá ổn định so với các nước trong khu vực Đông nam á. Một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên kết quả đó chính là chính sách đầu tư phát triển kinh tế đã được cởi mở. Các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng sản xuất kinh doanh: Bên cạnh các nguồn vốn đầu tư từ bên gnoài như ODA, WB, ADB, vốn liên doanh v.v... các doanh nghiệp còn được các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước cho vay hàng chục ngàn tỷ đồng để đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên việc vay vốn của các tổ chức tín dụng đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là vốn trung và dài hạn để trang bị, đổi mới máy móc trang thiết bị và công nghệ còn nhiều khó khăn, trở ngại. Do vậy, các doanh nghiệp rất khó khăn trong việc đầu tư máy móc, thiết bị sản xuất ra sản phẩm mới với số lượng, chất lượng và giá cả để cạnh tranh với hàng nhập khẩu và vươn tới xuất khẩu ra thị trường thế giới. Nhận thức được vấn đề cấp bách này, từ năm 1995 chính phủ đã có Nghị định 64 - CP ngày 9/ 10/ 1995, Ban hành quy chế tổ chức và điều hành của Công ty CTTC Việt nam. Với mục đích tạo ra một kênh tín dụng mới để hỗ trợ vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp đổi mới thiết bị công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tính đến cuối năm 1997, sau 2 năm Nghị định 64 có hiệu lực cả nước đã ra đời 7 Công ty CTTC. Các Công ty này được thành lập theo loại hình Công ty trực thuộc các ngân hàng thương mại quốc doanh hoặc các Công ty liên doanh. Ngoài ra cho đến nay đã xuất hiện trên 5 Công ty có hoạt động cho thuê máy móc thiết bị. Đến năm 1998 Ngân hàng Ngoại thương Việt nam thành lập Công ty CTTC nâng tổng số Công ty CTTC trong cả nước lên 8 Công ty, cùng với một thị trường gồm hơn 6000 doanh nghiệp Nhà nước và hàng chục ngàn doanh nghiệp cổ phần, trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã... đang đói vốn trầm trọng để đầu tư đổi mới công nghệ.
2-/ Khái niệm, đặc điểm của hoạt động cho thuê tài chính.
a, Một số khái niệm về hoạt động CTTC.
* Khái niệm cho thuê tài chính và đặc điểm của hoạt động CTTC.
Cho thuê tài chính là hoạt động còn hết sức mới mẻ ở Việt nam; vì vây vẫn còn nhiều người chưa hiểu được rõ khái niệm và các tiêu chuẩn để một giao dịch được coi là CTTC dẫn đến chưa có sự phân biệt giữa CTTC và các hình thức tín dụng khác. Việc làm rõ khái niệm này có ý nghĩa quan trọng.
Hiện nay trên thế giới, ở mỗi quốc gia khác nhau có khái niệm khác nhau về CTTC. Tuy nhiên để một giao dịch được coi là CTTC thì giao dịch đó phải thoả mãn 1 trong 4 điều kiện sau đây của Uỷ ban tiêu chuẩn Kế toán quốc tế (IASC):
- Quyền sở hữu tài sản thuê được chuyển giao khi kết thúc hợp đồng.
- Hợp đồng quy định quyền chọn mua tài sản thuê với giá tượng trưng tại thời điểm chấm dứt hợp đồng.
- Thời hạn của hợp đồng chiếm phần lớn thời hạn hữu dụng của tài sản.
- Hiện giá của toàn bộ các khoản tiền thuê do người thuê trả tương đương hoặc lớn hơn giá thị trường của tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng.
Dựa trên những cơ sở đó, tại mỗi quốc gia có hoạt động CTTC lại đưa ra những tiêu chuẩn phù hợp với môi trường kinh doanh của đất nước mình. ở nước ta trong Luật các tổ chức tín dụng (12/ 12/ 1997) và Nghị định 64 CP (9/ 10/ 1995) đều đưa ra khái niệm CTTC. Theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng thì “Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn cho thuê, các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng’.
Theo điều 3 Nghị định 64 CP ngày 9/ 10/ 1995 của chính phủ ban hành Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC tại Việt nam, một giao dịch CTTC phải thoả mãn một trong các điều kiện sau:
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên.
- Nội dung hợp đồng thuê có quy định: Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo gia danh nghĩa thấp hơn giá thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại.
- Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản.
- Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê, ít nhất phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng.
Như vậy về cơ bản những quy định của Nghị định 64 CP về tiêu chuẩn để một giao dịch được gọi là CTTC đã phù hợp với những điều kiện của Uỷ ban tiêu chuẩn Kế toán quốc tế (IASC)
* Khái niệm bên cho thuê:
Bên cho thuê là người nắm quyến sở hữu đối với tài sản cho thuê trong suốt thời hạn của hợp đồng. Theo quy định của pháp luật Việt nam thì bên cho thuê là Công ty CTTC có tư cách pháp nhân được cấp giấy phép hoạt động.
* Khái niệm bên thuê:
Trong một giao dịch CTTC thì bên đi thuê là khách hàng của các Công ty CTTC. Theo quy định của pháp luật Việt nam thì bên đi thuê chỉ có thể là các doanh nghiệp được cơ quan Nhà nước thành lập. Việc sử dụng tài sản thuê của bên thuê phải tuân theo những thoả thuận trong hợp đồng, không được chuyển quyền sử dụng tài sản thuê cho cá nhân, tổ chức khác nếu không được bên cho thuê đồng ý bằng văn bản. Do đặc trưng của hoạt động CTTC là bên đi thuê không được quyền sở hữu tài sản thuê, nên bên thuê không được dùng tài sản thuê để cầm cố, thế chấp hoặc để đảm bảo cho bất kỳ nghiệp vụ tài chính nào khác. Tuy nhiên bên thuê cũng phải có trách nhiệm bảo dưỡng, sửa chữa tài sản thuê và chịu mọi rủi ro đối với tài sản thuê và mọi rủi ro do tài sản thuê gây ra cho cá nhân tổ chức khác trong thời hạn thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê bên đi thuê có quyền mua lại tài sản hoặc thoả thuận tiếp tục thuê tài sản đó với bên cho thuê.
* Khái niệm tài sản thuê:
Tài sản thuê là đối tượng của giao dịch CTTC. Theo nghị định 64 CP thì tài sản thuê là máy móc thiết bị và các động sản khác đạt tiêu chuẩn kỹ thuật tiên tiến, có giá trị sử dụng hữu ích trên một năm, được sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu.
* Khái niệm thời hạn cho thuê:
Thời hạn cho thuê là thời gian bên thuê sử dụng tài sản thuê và trả tiền thuê, được bên cho thuê và bên thuê thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong hoạt động CTTC, thời hạn thuê có thể chia làm hai giai đoạn theo sự thoả thuận của hai bên:
+ Thời hạn thuê cơ bản: là thời hạn các bên không được quyền huỷ ngang hợp đồng nếu không có sự chấp thuận của bên kia. Trong suốt thời gian này, người cho thuê thường kỳ vọng thu hồi đủ vốn cộng với số tiền lãi trên số tiền vốn đã tài trợ.
+ Thời hạn gia hạn tuỳ chọn: là thời hạn người thuê có thể tiếp tục thuê thiết bị tuỳ theo ý muốn của họ. Tiền thuê trong giai đoạn này thường rất thấp so với tiền thuê trong thời hạn cơ bản, thường chiếm tỷ lệ 1- 2% tổng số tiền thuê ban đầu.
* Khái niệm tiền thuê:
Tiền thuê là khoản tiền bên đi thuê phải thanh toán cho bên cho thuê theo thoả thuận trong hợp đồng. Tổng số tiền thuê ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản thuê trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng. Mức tiền thuê tuỳ thuộc vào thời hạn và phương thức của hợp đồng.
b, Phân biệt hoạt động CTTC với các hoạt động tín dụng khác.
* Sự khác biệt giữa CTTC và cho thuê vận hành.
Thuê vận hành là hình thức cho thuê tài sản có từ lâu đời, nó còn được gọi là cho thuê hoạt động hay cho thuê kiểu truyền thống. Giữa CTTC và cho thuê vận hành có sự khác biệt như sau:
- Đối với hoạt động CTTC thì không được huỷ ngang hợp đồng còn cho thuê vận hành các bên có thể huỷ ngang hợp đồng.
- Trong hoạt động CTTC, những rủi ro và thiệt hại liên quan đến tài sản thuê thì do bên thuê chịu, còn trong hoạt động cho thuê vận hành thì bên đi thuê không phải chịu những rủi ro ấy khi những thiệt hại đối với tài sản không phải do lỗi của bên thuê.
- Đối với hoạt động CTTC, tài sản thuê trước khi ký hợp đồng có thể không thuộc sở hữu của người cho thuê mà do người đi thuê tìm, lựa chọn nhà cung cấp và yêu cầu các Công ty CTTC mua để cho bên thuê thuê tài sản đó. Còn đối với hoạt động cho thuê vận hành thì tài sản trước khi ký hợp đồng phải thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê.
- Bên CTTC chấp nhận chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên thuê khi hết hạn hợp đồng, còn bên cho thuê vận hành thì không có ý định đó.
- Thời hạn cho thuê trong CTTC chiếm phần lớn thời gian hữu ích của tài sản, trong khi đó thời gian cho thuê vận hành thường rất ngắn.
- Tổng số tiền mà bên đi thuê phải trả trong CTTC rất lớn, còn trong cho thuê vận hành thì số tiền này rất nhỏ so với giá trị tài sản lúc ký kết hợp đồng.
Phân biệt giữa hoạt động CTTC với hình thức mua trả góp.
- Trong CTTC bên cho thuê là các Công ty CTTC còn trong hoạt động mua trả góp thì bên cho thuê có thể là nhà cung cấp hoặc Công ty CTTC.
- Bên đi thuê trong giao dịch CTTC là các pháp nhân còn trong mua bán trả góp thì bên đi thuê là các pháp nhân hoặc cá nhân.
- Thời hạn của hợp đồng trong CTTC từ 1 đến 20 năm hoặc dài hơn, trong giao dịch mua trả góp có thời hạn từ 1 đến 5 năm.
- Giá trị còn lại của tài sản trong CTTC có thể chuyển giao cho bên thuê khi hết hạn hợp đồng. Còn trong mua bán trả góp thì giá trị còn lại của tài sản chuyển giao cho người thuê khi hết hạn hợp đồng.
- Quyền sở hữu trong giao dịch CTTC thuộc về bên thuê khi kết thúc hợp đồng nếu 2 bên có thoả thuận. Trong giao dịch mua trả góp thì quyền sở hữu tài sản đương nhiên thuộc về bên thuê khi kết thúc hợp đồng.
* Sự khác biệt giữa CTTC với hình thức cho vay bằng tiền.
- Tín dụng ngân hàng là hình thức cho vay bằng tiền dưới hình thức cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. CTTC cũng là hình thức cho vay nhưng là cho vay bằng tài sản. Chính vì vậy sau khi ký kết hợp đồng thì bên thuê là các doanh nghiệp đi thuê sẽ được bổ xung tài sản cố định như máy móc thiết bị... Còn đối với tín dụng ngân hàng doanh nghiệp sẽ được bổ xung vốn lưu động bằng tiền.
- Phí CTTC thường cao hơn lãi suất tín dụng trung và dài hạn trong tín dụng ngân hàng vì phí trong hoạt động CTTC được tính trên cơ sở lãi suất trung, dài hạn và phí quản lý Công ty CTTC.
- Hoạt động CTTC, bên cho thuê nắm giữ quyền sở hữu tài sản,bên đi thuê chỉ có quyền sử dụng, khai thác công dụng của tài sản, vì vậy bên cho thuê vẫn có quyền kiểm tra tài sản trong quá trình sử dụng của bên thuê. Trong tín dụng ngân hàng các tổ chức tín dụng chỉ cấp tiền cho bên đi vay, vì vậy nếu doanh nghiệp dùng tiền đó đầu tư vào tài sản thì họ có quyền sở hữu tài sản và khi doanh nghiệp đó bị phá sản thì bên đi vay tiền mặc nhiên thu hồi tài sản của mình còn trong CTTC thì quyền đó thuộc về các Công ty CTTC. Chính vì vậy tín dụng thông qua CTTC có mức độ an toàn cao hơn tín dụng vay bằng tiền.
- Trong hoạt động CTTC, bên đi thuê không phải thế chấp tài sản còn trong tín dụng ngân hàng bên đi vay bắt buộc phải có tài sản thế chấp khi vay vốn tại các tổ chức tín dụng.
3-/ Lợi ích của CTTC đối với nền kinh tế thị trường.
Kể từ khi ra đời cho đến nay, hoạt động CTTC đã phát triển hết sức mạnh mẽ ở nhiều quốc gia. Sở dĩ các quốc gia lựa chọn hình thức tín dụng này là do lợi ích to lớn mà nó mang lại cho nền kt nói chung và các chủ thể tham gia vào hoạt động CTTC.
a, Lợi ích đối với nền kinh tế.
* CTTC góp phần thu hút đầu tư nước ngoài cho nền kinh tế.
Do tính chất của CTTC có mức độ rủi ro thấp, phạm vi tài trợ rộng rãi hơn các hình thức tín dụng khác nên CTTC có thể huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư. Hơn nữa CTTC không làm tăng nợ nước ngoài, do đó thông qua hình thức tín dụng này các quốc gia vừa thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng các thiết bị máy móc, công nghệ, kinh nghiệm quản lý.. vừa tạo môi trường thuận lợi cho việc tiếp nhận vốn ODA. Đặc biệt đối với các nước kinh tế đang phát triển như nước ta thì CTTC đã và đang phát huy vai trò mạnh mẽ, bởi vì các nước đang phát triển việc tích luỹ vốn thường rất khó khăn, không đáp ứng được nhu cầu đổi mới thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chỉ có CTTC mới khắc phục được khó khăn này vì nó có vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn quốc tế, hiện đại hoá sản xuất, tăng hiệu quả, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
* CTTC góp phần thúc đẩy thị trường vốn phát triển.
Về mặt lý luận, CTTC là hoạt động tài trợ tín dụng trung, dài hạn, do đó có thể coi thị trường CTTC là một bộ phận cấu thành của thị trường vốn. Khi thị trường này phát triển sẽ tạo ra sự cạnh tranh trong hoạt động tín dụng từ đó thúc đẩy các hình thức tín dụng mới ra đời nâng cao hiệu quả hoạt động của các hình thức tín dụng hiện có.
* CTTC góp phần thúc đẩy đổi mới thiết bị công nghệ, cải tiến khoa học kỹ thuật.
Thông qua hoạt động CTTC, các loại máy móc thiết bị, công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến được ứng dụng, nâng cao trình độ sản xuất trong điều kiện thiếu vốn đầu tư. Trên cơ sở đó trình độ khoa học kỹ thuật của một quốc gia được phát triển.
b, Lợi ích đối với bên cho thuê.
* CTTC là một hoạt động kinh doanh tín dụng có mức độ an toàn cao.
Là hình thức tài trợ vốn trung, dài hạn thông qua việc cho thuê các máy móc thiết bị và công nghệ , do đó CTTC là một hình thức tài trợ có mức độ an toàn cao đối với bên cho thuê vì:
Thứ nhất, quyền sở hữu tài sản cho thuê thuộc người cho thuê, người cho thuê có quyền kiểm tra, giám sát việc sử dụng tài sản. Nếu có những dấu hiệu không an toàn, người cho thuê có thể thu hồi tài sản ngay, hạn chế rủi ro trong kinh doanh.
Thứ hai, tài trợ thông qua CTTC sẽ đảm bảo việc sử dụng vốn đúng mục đích, nhờ vậy đảm bảo khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh của người cho thuê và khả ngăng trả nợ của họ.
Thứ ba, tài trợ bằng hoạt động CTTC giúp người cho thuê không bị khó khăn về khả năng thanh khoản do tiền thuê và vốn được thu hồi dưạ trên hiệu quả hoạt động của tài sản.
* Hoạt động CTTC giúp người cho thuê linh hoạt trong kinh doanh :
+ Trong thời gian diễn ra giao dịch cho thuê, nguồn vốn tài trợ được thu hồi dần, cho phép người cho thuê có thể tái đầu tư.
+ Người cho thuê chỉ tập trung vào lĩnh vực hẹp nên có điều kiện đầu tư theo chiều sâu cả về kiến thức kinh tế kỹ thuật và kỹ năng nghiệp vụ tín dụng. Như vậy ngày càng có khả năng nâng cao hiệu quả kinh doanh.
c, Lợi ích đối với người đi thuê.
* Người thuê có khả năng tăng năng lực sản xuất khi không có khả năng về nguồn vốn để đầu tư.
Trong quá trình hoạt động sản xuất, mục đích tối cao của doanh nghiệp là lợi nhuận cao. Muốn vậy sản phẩm của mình phải có vị trí trên thị trường thông qua chất lượng sản phẩm, gia cả hợp lý và hợp thị hiếu người tiêu dùng. Trong kinh tế thị trường, luôn có nhiều đối thủ cạnh tranh, luôn có sự thay đổi về công nghệ. Vì vậy, doanh nghiệp phải luôn có sự thích ứng với môi trường kinh doanh, đảm bảo sản phẩm không bị lạc hậu so với đối thủ cạnh tranh. Nhưng trên thực tế, vốn của doanh nghiệp rất hạn chế, đặc biệt là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, thường gặp khó khăn về vốn trung và dài hạn. Các doanh nghiệp này có thể đi vay vốn ở các tổ chức tài chính nhưng với điều kiện họ phải có tài sản để thế chấp, hoặc phải có một pháp nhân đứng ra bảo lãnh, mà điều này lại quá khó khăn đối với doanh nghiệp đang đói vốn. Tuy nhiên, bằng con đường thuê tài chính, bên đi thuê không phải có tài sản thế chấp mà vẫn có máy móc thiết bị công nghệ tiên tiến nếu họ có uy tín và dự án kinh doanh khả thi.
* Hoạt động CTTC có thể giúp cho doanh nghiệp đi thuê không bị đọng vốn vào tài sản cố định.
Mặc dù, trên thực tế nếu các doanh nghiệp có khả năng tài chính để tự tài trợ để đổi mới máy móc thiết bị, nhưng để đáp ứng vốn lưu động trong các hoạt động khác. Các doanh nghiệp lựa chọn con đường đi thuê tài chính để có tài sản cố định mà nguồn vốn lưu động vẫn được đảm bảo.
* CTTC cho phép người đi thuê tiết kiệm được chi phí từ việc giảm thuế.
Trong hạch toán cuối năm của mỗi doanh nghiệp, các khoản tiền thuê phải trả được tính vào chi phí hợp lệ, hợp lý do đó chúng làm giảm thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Vì vậy tiết kiệm được một khoản tiền đáng kể do giảm được thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.
d, Lợi ích đối với người cung cấp tài sản thuê.
Hoạt động CTTC phát triển, tạo cho các bên đi thuê dễ dàng trong việc đổi mới máy móc, thiết bị vì vậy sẽ tạo ra một thị trường tiêu thụ máy móc thiết bị rộng lớn cho các nhà sản xuất, các nhà cung cấp. Hơn nữa trong CTTC các Công ty CTTC đóng vai trò là trung gian giữa người đi thuê (bên cầu) và người sản xuất, cung cấp máy móc, thiết bị công nghệ (bên cung) nên các Công ty CTTC đã trở thành một mạng lưới phân phối sản phẩm với số lượng lớn và có hiệu quả.
II-/ Cơ chế pháp lý trong việc thành lập và hoạt động của các Công ty CTTC tại Việt nam.
1-/ Quy chế thành lập của Công ty CTTC tại Việt nam.
a, Các loại Công ty CTTC được phép thành lập và hoạt động tại Việt Nam.
Theo quy định tại Thông tư số 03/ TT - NH5 hướng dẫn thự hiện Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC tại Việt nam. Các loại Công ty CTTC bao gồm:
- Công ty CTTC của Việt nam gồm:
+ Công ty CTTC do ngân hàng, Công ty tài chính của Việt nam thành lập.
+ Công ty CTTC do ngân hàng , Công ty tài chính cùng với các doanh nghiệp khác của Việt nam thành lập.
Các loại Công ty CTTC trên được thành lập dưới hình thức doanh nghiệp Nhà nước, Công ty TNHH, Công ty cổ phần, có quyền hạch toán kinh doanh độc lập và tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình.
- Các Công ty có yếu tố vốn nước ngoài bao gồm:
+ Công ty liên doanh giữa bên Việt nam là một hoặc nhiều ngân hàng, Công ty tài chính, doanh nghiệp (nhưng ít nhất phải có một ngân hàng hoặc một Công ty tài chính tham gia) với bên nước ngoài là một hoặc nhiều ngân hàng, Công ty tài chính, Công ty CTTC và tổ chức tài chính quốc tế trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
+ Công ty 100% Vốn nước ngoài do các ngân hàng, Công ty tài chính, Công ty CTTC nước ngoài thành lập tại Việt nam bằng 100% vốn 100% vốn của bên nước ngoài.
b, Điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho các Công ty CTTC.
Để đảm bảo điều kiện tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật và cũng để đảm bảo việc cấp giấy phép cho đúng đối tượng có khả năng kinh doanh. Nhà nước đưa ra các điều kiện cầu thiết, chỉ khi có đủ các điều kiện đó các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mới cấp (và phải cấp) giấy phép thành lập và hoạt động cho các tổ chức tín dụng (Công ty CTTC). Theo luật các tổ chức tín dụng thì các chủ thể thành lập phải đảm bảo các điều kiện sau đây:
1. Có nhu cầu hoạt động trên địa bàn.
Nói cách khác người xin cấp giấy phép hoạt động CTTC phải xác định được thị trường khách hàng của mình, hoạt động CTTC phải là hoạt động đang được sự quan tâm của các doanh nghiệp và cũng phải phù hợp với các chính sách phát triển kinh tế đất nước.
2. Có mức vốn pháp định theo quy định của pháp luật.
Đối với hoạt động CTTC - một hoạt động mới mẻ - là một hoạt động tín dụng, mà muốn hoạt động được bắt buộc các tổ chức tín dụng phải có một số vốn nhất định. Số vốn này cũng là yếu tố đảm bảo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng trong quan hệ với khách hàng, với bên cung cấp tài sản thuê. Theo quy định tại Nghị định 82/ 1998/ NĐ-CP ngày 03/ 10/ 1998 của chính phủ ban hành danh mục mức vốn pháp định đối với các tổ chức tín dụng. Mức vốn pháp định đối với các Công ty CTTC (tổ chức tín dụng phi ngân hàng) như sau:
- Đối với Công ty CTTC Việt nam mức vốn pháp định là 50 tỷ đồng Việt nam.
- Đối với Công ty CTTC liên doanh và Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài mức vốn pháp định là 5.000.000 USD.
3. Thành viên sáng lập phải có uy tín và năng lực tài chính.
Đối với Công ty CTTC Việt nam thì thành viên sáng lập phải là một hoặc nhiều ngân hàng, Công ty tài chính thành lập Công ty CTTC trực thuộc hoặc có thể cùng với các doanh nghiệp khác thành lập Công ty CTTC dưới hình thức Công ty TNHH, Công ty cổ phần.
Đối với Công ty CTTC liên doanh thì bên Việt nam bắt buộc phải có ít nhất một ngân hàng, Công ty tài chính tham gia và bên nước ngoài có thể là ngân hàng, Công ty tài chính, Công ty CTTC hoặc tổ chức tài chính quốc tế.
Đối với Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài thì chủ thể thành lập là các ngân hàng, Công ty tài chính hoặc các Công ty CTTC nước ngoài.
Quy định này làm nâng cao tính pháp lý của Công ty CTTC trong việc thành lập cũng như hoạt động. Vì các chủ thể thành lập hoặc tham gia thành lập Công ty CTTC chủ yếu là các ngân hàng, các Công ty tài chính... Đó là các chủ thể có uy tín và năng lực tài chính cũng như kinh nghiệm và nghiệp vụ hoạt động CTTC .
4. Người quản trị, điều hành có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và trình độ chuyên môn phù hợp.
Tổng giám đốc (giám đốc) Công ty CTTC phải là người có năng lực lãnh đạo, am hiểu kỹ thuật nghiệp vụ về kinh doanh tiền tệ; tốt nghiệp đại học về kinh tế, tài chính hoặc ngân hàng trở lên hoặc có trình độ tương đương; có thời gian công tác trong lĩnh vực tài chính ngân hàng từ 5 năm trở lên.
5. Có điều lệ tổ chức, hoạt động phù hợp với quy định của pháp luật.
Bao gồm những nội dung sau: Tên và nơi đặt trụ sở chính; Nội dung và phạm vi hoạt động; thời hạn hoạt động; Vốn điều lẹ và phương thức góp vốn; nhiệm vụ và quyền hạn của HĐQT , Tổng giám đốc và ban kiểm soát; Thể thức bầu và bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên HĐQT, ban GĐ ban kiểm soát; Quyền và nghĩa vụ của cổ đông; Các nguyên tắc tài chính’ kế toán kiểm toán nội bộ; các trường hợp giải thể và thủ tục giải thể; Thủ tục sửa đổi điều lệ.
6. Có phương án kinh doanh khả thi
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp. Không có lợi nhuận thì không những doanh nghiệp không thể tồn tại mà cũng không đóng góp được gì cho nền kinh tế. Đối với các Công ty CTTC cũng vậy, ngay từ khi bắt đầu hoạt động người kinh doanh phải dự định được khả năng thu lợi nhuận của mình dựa trên cơ sở thực lực và phương án kinh doanh khả thi. Trong hoạt động tín dụng, nếu doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến bị giải thể hoặc phá sản, sẽ kéo theo nhiều hệ quả xấu cho kinh tế - xã hội. Quy định người kinh doanh phải có phương án kinh doanh khả thi không chỉ có tác dụng hạn chế tính kém hiệu quả trong hoạt động tín dụng mà còn có tác dụng làm ổn định quá trình phát triển kinh tế đất nước.
c, Thủ tục thành lập Công ty CTTC.
Khi xét thấy có đủ các điều kiện nêu trên, các chủ thể thành lập Công ty CTTC phải tiến hành làm các thủ tục thành lập Công ty theo những quy định cụ thể của pháp luật.
Đối với Công ty CTTC do ngân hàng, Công ty tài chính hoặc ngân hàng, Công ty tài chính cùng với các doanh nghiệp khác của Việt nam thành lập.
Việc thành lập phải tuân theo Quyết đinh số 05/ NH5-QĐ ngày 7/ 1/ 1991 của Thống đốc NHNN về việc “Ban hành quy chế cấp giấy phép hoạt động cho các tổ chức tín dụng Việt nam” và Thông tư số 09-NH/ TT ngày 07/ 01/ 1991 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện Quyết định 05/ NH5-QĐ.
Theo quy định tại hai văn bản này thì để được cấp giấy phép hoạt động, các chủ thể thành lập Công ty CTTC phải làm đơn kèm theo các văn bản sau đây gửi Ngân hàng Nhà nước:
+ Phương án hoạt động của Công ty CTTC, trong đó xác định rõ những nội dung chủ yếu sau: Luận cứ về sự cần thiết thành lập, tổ chức và triển vọng phát triển hoạt động kinh doanh; mục tiêu và địa bàn hoạt động; nội dung kinh doanh; mức vốn điều lệ và vốn tự có tăng trưởng hàng năm; đồng thời Công ty cũng phải xác định phương án kinh doanh cụ thể và lập được “Bảng kế hoạch cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn” 3 năm đầu, chia ra từng năm.
+ Điều lệ của Công ty CTTC theo mẫu của Ngân hàng Nhà nước và đã được đại hội cổ đông thông qua.
+ Biên bản đại hội cổ đông bầu hội đồng quản trị và quyết định của HĐQT bổ nhiệm người điều hành.
+ Lý lịch tóm tắt của Chủ tịch và các thành viên khác của hội đồng và người điều hành.
+ Bản kê khai vốn điều lệ và tài sản hiện có.
+ Giấy chứng nhận của chi nhánh Ngân hàng Nhà nước về việc Công ty đã mở tài khoản phong toả và số vốn cổ phần đã gửi vào tài khoản đó.
+ Văn bản chấp thuận của chính quyền nơi Công ty đặt trụ sở.
+ Một số tài liệu khác nhằm làm rõ các vấn đề có liên quan đến hồ sơ nói trên.
* Mẫu đơn xin cấp giấy phép hoạt động:
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
....., ngày..... tháng..... năm.
Kính gửi:
Đơn xin cấp giấy phép hoạt động
Tại đại hội cổ đông ngày ..... đã thông qua điều lệ và bầu Hội đồng quản trị của tổ chức tín dụng có tên là: .....
Nay Hội đồng quản trị thay mặt cho cổ đông đề nghị Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động cho tổ chức tín dụng:
1. Tên của tổ chức tín dụng:
- Bằng tiếng Việt: (gọi tắt là).
- Bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp (nếu có) (gọi tắt là).
2. Trụ sở chính tại:
Trụ sở của các chi nhánh:
3. Địa bàn hoạt động.
4. Nội dung hoạt động.
5. Thời hạn hoạt động.
6. Vốn điều lệ:
- Đã có:
- Số còn thiếu phải nột tiếp.
7. Tài khoản phong toả đã mở tại Ngân hàng Nhà nước:
- Số hiệu:
- Số vốn đã gửi:
8. Giá trị bất động sản và các phương tiện hoạt động khác đã có:
Sau khi đã được cấp giấy phép hoạt động, chúng tôi sẽ thực hiện đủ các điều kiện còn thiếu, tiến hành thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký ngày khai trương trong thời hạn quy định.
Chúng tôi cam kết chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật Nhà nước và điều lệ tổ chức; nếu vi phạm xin chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Thay mặt Hội đồng quản trị.
Hồ sơ gửi kèm.
-
-
-
* Thời hạn Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động.
Theo điều 5 Quyết định 05/ NH-QĐ. Trong thời hạn 3 tháng kể từ khi nhận đượ._.c đơn xin cấp giấy phép hoạt động và các văn bản kèm theo như trên, Ngân hàng Nhà nước phải thẩm tra, xem xét để quyết định cấp hoặc từ chối cấp giấy phép hoạt động và báo cho tổ chức tín dụng biết. Nếu quyết định cấp giấy phép hoạt động thì phải tuân theo mẫu giấy phép hoạt động sau đây:
Ngân hàng Nhà nước
Việt nam
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Giấy phép hoạt động.........
(ghi rõ loại hình tổ chức tín dụng)
Số: NH/ GP
Ngày tháng năm .
Cấp tại:
Đơn vị cấp:
Ngân hàng Nhà nước
Việt nam
Số: NH/ GP
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Ngày tháng năm
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
- Căn cứ điều 2 Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày 24/ 5/ 1990.
- Xét đơn xin cấp giấy phép hoạt động và hồ sơ kèm theo.
Nay cấp giấy phép hoạt động cho tổ chức tín dụng sau đây:
1. Tên tổ chức tín dụng:
2. Trụ sở chính tại:
Trụ sở các chi nhánh:
3. Nhân sự:
- Chủ tịch HĐQT.
- Các thành viên khác của HĐQT.
- Người điều hành.
4. Vốn điều lệ:
Vốn điều lệ đã có:
5. Tài khoản phong toả đã mở tại Ngân hàng Nhà nước.
- Số hiệu:
- Số vốn đã gửi:
6. Giá trị bất động sản và các phương tiện hoạt động đã có.
7. Địa bàn hoạt động.
8. Nội dung hoạt động.
9. Thời hạn hoạt động.
Điều kiện còn thiếu, phải được thực hiện đủ trước khi khai trương:
- Vốn điều lệ còn thiếu.
- Điều kiện khác.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Đối với Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài, Công ty CTTC liên doanh.
Thủ tục xin cấp giấy phép hoạt động phải tuân thủ theo Thông tư 03/ TT-NH5 hướng dẫn thực hiện “Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC tại Việt nam” bao gồm hai bước sau:
Bước 1: Thủ tục xin giấy chấp thuận nguyên tắc.
Hồ sơ và thủ tục xin giấy chấp thuận nguyên tắc bao gồm:
1. Đơn xin cấp giấy chấp thuận nguyên tắc.
2. Các văn bản kèm theo đơn bao gồm:
- Dự thảo điều lệ Công ty liên doanh, Công ty 100% vốn nước ngoài.
- Phương án hoạt động kinh doanh tại Việt nam trong đó xác định kế hoạch 3 năm đầu.
- Bảng tóm tắt quá trình hợp tác giữa Ngân hàng, Công ty nguyên xứ với Ngân hàng và các doanh nghiệp Việt nam khác.
- Bản ghi nhớ về việc thành lập Công ty CTTC liên doanh (nếu có), dự thảo hợp đồng liên doanh giữa bên Việt nam với bên nước ngoài.
- Trong trường hợp cần thiết, Thống đốc NHNN yêu cầu bổ sung những tài liệu khác có liên quan.
Trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định cấp hoặc từ chối cấp giấy chấp thuận nguyên tắc cho phép thành lập Công ty CTTC liên doanh và Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài.
Nếu được cấp giấy chấp thuận nguyên tắc thì trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp. Công ty CTTC phải hoàn tất hồ sơ gửi Ngân hàng Nhà nước xin cấp giấy phép hoạt động theo thủ tục sau:
Bước 2: Thủ tục xin cấp giấy phép hoạt động.
Hồ sơ và thủ tục xin cấp giấy phép hoạt động gồm:
1. Đơn xin cấp giấy phép hoạt động Công ty CTTC liên doanh, Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài.
2. Văn bản kèm theo đơn gồm:
+ Các văn bản pháp lý về quyền sở hữu hoặc quyền được sử dụng trụ sở của Công ty CTTC tại Việt nam.
+ Các văn bản pháp lý về việc bổ nhiệm các chức danh thành viên HĐQT, Kiểm soát viên và Ban giám đốc Công ty CTTC liên doanh, Công ty CTTC 100% vốn đầu tư nước ngoài.
+ Lý lịch thành viên HĐQT, Kiểm soát viên, Ban giám đốc và các văn bằng của họ.
+ Điều lệ Công ty CTTC liên doanh, Công ty CTTC 100% vốn đầu tư nước ngoài.
+ Danh sách những người nước ngoài và số lượng người Việt nam.
Ngoài những văn bản trên đối với Công ty CTTC liên doanh phải nộp cho Ngân hàng Nhà nước Việt nam Hợp đồng liên doanh chính thức.
Trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày Công ty CTTC nộp đủ và đúng các yêu cầu văn bản nêu trên. Ngân hàng Nhà nước phải cấp hoặc từ chối cấp giấy phép hoạt động cho Công ty CTTC liên doanh, Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài.
d, Thủ tục đăng ký kinh doanh và khai trương hoạt động.
Theo quy định tại Thông tư 03/ TT-NH5; trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động, Công ty CTTC phải hoàn tất các thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký khai trương và tiến hành khai trương hoạt động.
Đăng ký kinh doanh là hoạt động của người kinh doanh nhằm khai trình với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Sở Kế hoạch và Đầu tư nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính) và giới kinh doanh về hoạt động của mình. Công ty CTTC chỉ có tư cách pháp nhân và chỉ được khai trương hoạt động khi đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Trước khi tiến hành khai trương hoạt động ít nhất 30 ngày, Công ty CTTC phải đăng báo địa phương nơi đặt trụ sở chính và báo hàng ngày của trung ương trong 5 số liên tiếp các nội dung chủ yếu sau đây để công chúng biết:
- Tên đầy đủ và tên viết tắt của Công ty CTTC.
- Địa chỉ trụ sở chính, số điện thoại, số fax.
- Địa bàn hoạt động.
- Nội dung hoạt động.
- Họ tên, quốc tịch của Chủ tịch và thành viên HĐQT, Kiểm soát viên, Tổng giám đốc (giám đốc) điều hành.
- Vốn điều lệ.
- Số và ngày cấp phép hoạt động do NHNN cấp
- Số và ngày của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tên cơ quan cấp.
- Các đặc điểm khác nếu thấy cần thiết.
- Ngày khai trương hoạt động.
e, Điều kiện và thủ tục để Công ty CTTC mở chi nhánh.
Điều kiện.
Công ty CTTC hoạt động tại Việt nam chỉ được mở chi nhánh nếu được NHNN cho phép, khi có đầy đủ các điều kiện sau:
+ Đã hoạt động được ít nhất 36 tháng kể từ ngày khai trương hoạt động, nếu chưa đủ 36 tháng thì phải do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép.
+ Hoạt động kinh doanh có hiệu quả và có lãi.
+ Không vi phạm quy định của Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC tại Việt nam và các quy định pháp luật khác có liên quan.
Khi hội tụ đầy đủ các điều kiện trên Công ty CTTC muốn thành lập chi nhánh phải tiến hành các thủ tục sau:
Thủ tục và hồ sơ xin mở chi nhánh bao gồm:
+ Tờ trình xin mở chi nhánh phải nêu rõ: Lý do, địa điểm và tóm tắt năng lực của người điều hành chi nhánh.
+ Báo cáo tình hình hoạt động của Công ty đến thời điểm gần nhất.
+ Phương án hoạt động của chi nhánh.
+ Bản sao Giấy phép hoạt động và Giấy đăng ký kinh doanh.
+ Văn bản chấp thuận của Uỷ ban nhân dân nơi đặt trụ sở của chi nhánh.
+ Quyết định bổ nhiệm và sơ yếu lý lịch của người điều hành chi nhánh.
Công ty CTTC chỉ được phép hoạt động khi được cấp Giấy chấp thuận cho mở chi nhánh và Giấy đăng ký kinh doanh.
2-/ Quy chế hoạt động của Công ty CTTC tại Việt nam.
Sau khi đã làm đầy đủ các thủ tục về thành lập, đăng ký kinh doanh, khai trương hoạt động. Công ty CTTC được phép hoạt động kinh doanh theo những nội dung được phép hoạt động ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, và những quy định khác của pháp luật.
a, Về các nội dung được phép hoạt động.
Theo điều 16 Nghị định 64/ CP ngày 9/10/ 1995 Công ty CTTC được thực hiện các nghiệp vụ sau đây:
- Cho thuê tài chính.
- Tư vấn, nhận bảo lãnh cho khách hàng về những nghiệp vụ có liên quan đến nghiệp vụ CTTC.
- Thực hiện các nghiệp vụ khác khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
Trong quá trình hoạt động, nếu có nhu cầu mở rộng phạm vi hoạt động, Công ty CTTC có thể làm đơn đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét để cho bổ sung.
b, Về thời hạn hoạt động.
Thời hạn hoạt động cuả Công ty CTTC tại Việt nam được quy định trong Giấy phép hoạt động, nhưng tối đa không quá 70 năm kể từ ngày được cấp Giấy phép hoạt động. Việc gia hạn thời hạn hoạt động phải được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản. Mỗi lần gia hạn không được quá thời hạn của Giấy phép hoạt động được cấp lần đầu.
c, Về nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn.
Vốn là yếu tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mọi doanh nghiệp. Không có vốn thì doanh nghiệp không thể hoạt động được. Vốn được ví như “dòng máu” đảm bảo cho doanh nghiệp “sống và hoạt động” có hiệu quả.
Do tầm quan trọng như vậy nên việc doanh nghiệp tạo lập và sử dụng vốn phải tuân theo những quy định cụ thể đối với từng nghiệp vụ kinh doanh, từng loại hình doanh nghiệp.Đối với nghiệp vụ CTTC, việc huy động, tạo lập và sử dụng nguồn vốn được quy định tại Nghị định 64/ CP và Thông tư 03 như sau:
Nguồn vốn của Công ty CTTC bao gồm vốn tự có và vốn vay.
+ Vốn tự có gồm vốn điều lệ và các quỹ, lợi nhuận chưa phân phối. Vốn điều lệ là khoản vốn góp của các chủ thể khi thành lập và được ghi vào điều lệ của Công ty. Vốn điều lệ phải được góp đầy đủ ngay từ khi thành lập và số vốn này phải được đảm bảo không được ít hơn số pháp định theo quy định đối với từng loại Công ty CTTC.
Các bên tham gia thành lập Công ty CTTC có thể góp vốn bằng tiền Việt nam, ngoại tệ hoặc bằng tài sản. Nếu góp vốn bằng tài sản thì giá trị của tài sản đó cũng không được vượt quá 25% tổng vốn pháp định.
+ Vốn vay: Trong quá trình hoạt động, ngoài vốn điều lệ do các thành viên góp, Công ty CTTC có thể tăng nguồn vốn của mình bằng cách đi vay, nguồn vốn vay có thể là vay từ các tổ chức tín dụng, tài chính trong và ngoài nước hoặc do phát hành trái phiếu và các giấy tờ có giá khác khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép. Pháp luật cũng quy định các Công ty CTTC tuyệt đối không được nhận tiền gửi dưới mọi hình thức. Vì nhận tiền gửi là một nghiệp vụ ngân hàng, mà Công ty CTTC là một loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng nên không được hoạt động ngân hàng.
Tổng nguồn vốn mà Công ty CTTC vay từ các nguồn không được vượt quá 20 lần vốn tự có.
Tổng giá trị tài sản cho thuê đối với một khách hàng không được vượt quá 30% vốn tự có, trường hợp vượt quá thì phải được Ngân hàng Nhà nước cho phép. Tuy nhiên nếu có tài sản có giá trị lớn hơn 30% vốn tự có của Công ty CTTC thì Công ty CTTC có thể áp dụng phương thức cho thuê hợp tác với một hoặc nhiều Công ty CTTC khác hoặc yêu cầu khách hàng (bên thuê) đóng góp một phần vốn để mua sắm tài sản đó.
Nếu doanh nghiệp dùng nguồn vốn để mua sắm tài sản cố định phục vụ cho hoạt động kinh doanh thì cũng không được sử dụng quá 25% vốn điều lệ để mua sắm tài sản cố định.
d, Những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên đối với tài sản thuê.
+ Theo quy định tại Nghị định 64/ CP điều 22.2 có quy định “ Bên cho thuê có quyền sở hữu và đính ký hiệu tài sản thuê trong suốt thời hạn cho thuê” và tài sản đó có thể được chuyển quyền sở hữu cho bên đi thuê nếu hai bên thoả thuận. Như vậy, trong trường hợp này cả bên cho thuê và bên thuê có nghĩa vụ phải nộp một khoản phí trước bạ để xác định quyền sở hữu đối với tài sản thuê.
+ Theo điều 1 Nghị định 64/ CP quy định “ CTTC là hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác”. Như vậy, tài sản thuê chỉ có thể là động sản mà không được là bất động sản như nhà xưởng, văn phòng... những yếu tố phục vụ trực tiếp cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Thời hạn cho thuê đối với một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê, ít nhất phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng.
+ Bên cho thuê có nghĩa vụ phải mua bảo hiểm, làm thủ tục nhập khẩu (đối với tài sản phải nhập khẩu), đối với tài sản thuê, nhưng mọi chi phí lại do bên thuê chịu.
+ Xử lý tài sản thuê: Về nguyên tắc, khi bên thuê không thực hiện đúng các nghĩa vụ quy định trong hợp đồng. Bên cho thuê có quyền thu hồi tài sản thuê để bán hay tiếp tiếp tục cho thuê.
3-/ Hợp đồng CTTC.
a, Khái niệm và đặc điểm.
Theo điều 18 Nghị định 64/ CP thì hợp đồng CTTC là một loại hợp đồng kinh tế. Hợp đồng kinh tế được định nghĩa tại điều 1 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/ 9/ 1989 như sau “Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận được ghi bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết có liên quan đến hoạt động sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình”.
Theo định nghĩa trên thì một hợp đồng kinh tế phải thoả mãn ba điều kiện sau:
+ Về hình thức, phải được lập thành văn bản;
+ Về chủ thể của hợp đồng, phải có ít nhất một bên là pháp nhân;
+ Về mục đích của các bên khi ký kết hợp đồng là kinh doanh.
Như vậy, một hợp đồng CTTC trước tiên phải thoả mãn các điều kiện của một hợp đồng kinh tế, nếu thiếu một trong ba điều kiện trên thì hợp đồng đó không phải là hợp đồng kinh tế và cũng không phải là hợp đồng CTTC.
Theo nghị định 64/ CP thì hợp đồng CTTC là một loại hợp đồng kinh tế được ký kết giữa bên cho thuê và bên thuê về việc cho thuê một hoặc một số máy móc thiết bị, động sản khác trong thời gian nhất định (thời hạn cho thuê). Khi hết thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo điều kiện đã được hai bên thoả thuận.
Một hợp đồng CTTC phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
- Được lập thành văn bản.
- Đăng ký tại Ngân hàng Nhà nước và cơ quan quản lý hợp đồng nơi Công ty CTTC đóng trụ sở theo quy định của pháp luật.
- Không được huỷ bỏ trước thời hạn (huỷ ngang) thời hạn cho thuê đã thoả thuận trong hợp đồng.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp các bên có thể chấm dứt hợp đồng trước thời hạn đã thoả thuận:
- Bên cho thuê có thể chấm dứt hợp đồng trước thời hạn nếu:
+ Bên thuê không trả tiền thuê theo quy định của hợp đồng.
+ Bên thuê vi phạm một trong những điều khoản của hợp đồng.
+ Bên thuê mất khả năng thanh toán, phá sản, giải thể.
- Bên thuê cũng có thể chấm dứt hợp đồng nếu:
+ Tài sản cho thuê không được giao đúng hạn do lỗi của Công ty CTTC.
+ Bên cho thuê vi phạm các điều khoản của hợp đồng.
Hợp đồng CTTC cũng đương nhiên được kết thúc khi tài sản thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi sửa chữa.
b, Những nội dung cơ bản của một hợp đồng CTTC :
Ngoài những đặc điểm ở trên, hợp đồng CTTC cũng phải đảm bảo đầy đủ về mặt nội dung chủ yếu và hình thức theo mẫu sau:
Hợp đồng cho thuê tài chính.
Số..................../ CTTC
- Căn cứ Luật tổ chức tín dụng ngày 12/ 12/ 1997.
- Căn cứ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/ 9/ 1989 của Hội đồng bộ trưởng.
- Căn cứ Nghị định 64/ CP ngày 9/ 10/ 1995 của chính phủ ban hành Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC tại Việt nam.
- Căn cứ Thông tư số 03/ TT-NH5 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện Nghị định 64/ CP ngày 9/ 10/ 1995 của chính phủ.
..................................................
Xét đơn xin thuê tài chính của ...........................
Hôm nay ngày ......... tháng ...........năm .............
Tại..............
Chúng tôi gồm.................
Bên cho thuê (bên A): Công ty CTTC ................
Địa chỉ:..................
Điện thoại:................./ Fax................
Tài khoản ngoại tệ số:.....................
Tài khoản đồng Việt nam số:......................, mở tại Ngân hàng................
Do ông (bà)................. Chức vụ: ..............làm đại diện.
Bên thuê (bên B):.........................
Địa chỉ:...................
Điện thoại:....................../ Fax..................
Tài khoản ngoại tệ số:..............................
Tài khoản đồng Việt nam số:......................., mở tại Ngân hàng...............
Do ông (bà).................. Chức vụ................. làm đại diện.
Cùng thống nhất thoả thuận ký hợp đồng và cam kết thực hiện đúng theo các điều khoản quy định dưới đây:
Điều 1: Tài sản cho thuê.
Điều 2: Mục đích sử dụng.
Điều 3: Tên địa chỉ người cung ứng.
Điều 4: Giá mua tài sản thuê.
Điều 5: Thời hạn thuê.
Điều 6: Thanh toán tiền thuê.
Điều 7: Tài sản thế chấp, cầm cố.
Điều 8: Sở hữu tài sản.
Điều 9: Bảo hiểm tài sản.
Điều 10: Quyền và trách nhiệm của bên A.
Điều 11: Quyền và trách nhiệm của bên B.
Điều 12: Điều khoản thi hành.
Đại diện bên A.
Đại diện bên B.
Chương II
Thực trạng hoạt động Cho Thuê Tài Chính tại công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
I-/ Giới thiệu về Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
1-/ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, được thành lập theo Nghị định số 115/CP ngày 30/12/1962, thành lập ngày 01/04/1963 với:
Tên Tiếng Anh: BANK FOR FOREIGN TRADE OF VIETNAM.
Tên gọi tắt là VietCombank.
Là Ngân hàng Thương mại Quốc doanh, có chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng đối với các thành phần kinh tế, chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
Kể từ khi được thành lập VietCombank luôn được biết đến như một ngân hàng thương mại Việt Nam có uy tín nhất, được Nhà nước xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt, là thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Châu á và uỷ ban buôn bán Việt - úc.
Với phương châm “Luôn luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt” Ngân hàng Ngoại thương trong những năm qua đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, đáp ứng kịp thời những yêu cầu của thị trường, phát triển mạng lưới chi nhánh tại tất cả các thành phố chính, các hải cảng quan trọng và các trung tâm thương mại phát triển. Tham gia cổ phần với 15 đơn vị, trong đó có 3 đơn vị liên doanh với nước ngoài. Ngoài ra còn có một công ty tài chính tại Hồng Kông và 3 văn phòng đại diện tại nước ngoài. Đến nay Ngân hàng Ngoại thương đã có quan hệ đại lý với hơn 1200 ngân hàng thương mại và các chi nhánh tại 85 nước trên thế giới.
Do đảm bảo được chất lượng phục vụ khách hàng, duy trì được chữ tín trong kinh doanh, Ngân hàng Ngoại thương đã thu hút được nguồn vốn lớn từ các khách hàng, góp phần đưa tổng nguồn vốn lên 35.096 tỷ đồng tại thời điểm đầu năm 1999. Năm 1999 doanh số kinh doanh trên thị trường trong nước là 6.096 triệu USD, trên thị trường quốc tế là 3.627 triệu USD. Do vậy dã đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ cho khách hàng và còn dư thừa ngoại tệ bán cho NHNN 28 triệu USD.
Đáp ứng nhu cầu phát triển không ngừng, Ngân hàng Ngoại thương luôn đi đầu trong lĩnh vực công nghệ, với hệ thống máy tính hiện đại trong ngành Ngân hàng, nối mạng SWIFT, mạng thẻ tín dụng quốc tế (VISA, Master Card, Amex...), trang bị máy rút tiền tự động (ATM) đầu tiên tại Việt Nam... Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam với đội ngũ cán bộ, nhân viên được đào tạo lành nghề và có nhiệt tình công tác, cùng với máy móc, trong thiết bị hiện đại có khả năng cung cấp cho khách hàng tất cả các loại sản phẩm dịch vụ ngành Ngân hàng với chất lượng cao nhất, tạo được uy tín đối với khách hàng cũng như các đối tác khác trong và ngoài nước.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thực hiện các nghiệp vụ chính sau đây:
- Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng đồng Việt Nam và bằng ngoại tệ.
- Chuyền tiền nhanh trong và ngoài nước.
- Nhận gửi tiết kiệm đồng Việt Nam và ngoại tệ.
- Phát hành kỳ phiếu.
- Thanh toán nhập khẩu (L/C, D/P, D/A).
- Nhận mua bán ngay, có kỳ hạn và hoán đổi các loại ngoại tệ mạnh.
- Bảo lãnh và tái bảo lãnh.
- Thực hiện nghiệp vụ hối đoái.
- Phát hành thẻ thanh toán VietCombank - Visacard, VietCombank - Mastercard (sử dụng trong và ngoài nước).
- Làm đại lý thanh toán cho các loại thẻ tín dụng Quốc tế như Visa, MasterCard, JCB, American Express.
- Tham gia hệ thống thanh toán toàn cầu qua hệ thống SWIFT, Money Gram...
- Thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính.
Riêng đối với nghiệp vụ cho thuê tài chính, được Ngân hàng Ngoại thương thực hiện như một hoạt động độc lập kể từ năm 1994, thông qua việc thành lập Công ty thuê mua và đầu tư (LINCO) giải thể. Sau đó Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thành lập 2 công ty: Công ty đầu tư và khai thác tài sản và Công ty CTTC, thực hiện tiếp chức năng của Công ty LINCO va đảm bảo cho hoạt động CTTC theo Nghị định 64/CP của Chính phù ngày 9/10/1995 và Thông tư 03/TT - NH5 của Thống đốc NHNN ngày 9/2/1996.
2-/ Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được thành lập theo quyết định số 108/1998/QĐ/NHNN5 ngày 25/3/1998 của NHNN Việt Nam, sau khi Công ty thuê mua và đầu tư LINCO giải thể.
Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một doanh nghiệp Nhà nước, hoạt động trong lĩnh vực CTTC theo luật doanh nghiệp Nhà nước, pháp luật về CTTC và các quy định khác của pháp luật, là một doanh nghiệp hạch toán kinh doanh độc lập của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, được công nhận là một pháp nhân Việt Nam, có con dấu riêng, có cơ cấu tổ chức và có quyền độc lập trong hoạt động kinh doanh.
Sau khi được Thống đốc NHNN Việt Nam cấp giấy phép thành lập, Công ty đã tiến hành đăng ký kinh doanh để chính thức đi vào hoạt động và được Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 112437 ngày 20/6/1998 với:
Tên gọi bằng tiếng Việt: Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Tên gọi bằng tiếng Anh: FINANCIAL LEASING COMPANY
Tên gọi tắt: VCB - LEA.CO
Trụ sở chính: số 10 - Thiền Quang - Hai Bà Trưng - Hà Nội.
Số điện thoại: 84.48221681.
Số FAX: 84 - 482221644.
Địa bàn hoạt động: các tỉnh, thành phố trong cả nước, thời gian hoạt động của Công ty là 70 năm kể từ khi được NHNN cấp giấy phép hoạt động. Do là một đơn vị trực thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, nên Công ty chịu sự quản lý toàn diện của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Về chiến lược phát triển, về quản lý và nhân sự, nội dung và phạm vi hoạt động. Chịu sự quản lý của Nhà nước của NHNN Việt Nam.
* Chức năng của Công ty.
Cũng như các Công ty CTTC khác, Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được thành lập với nhiệm vụ là tạo ra kênh tín dụng mới để hỗ trợ vốn trung hạn, dài hạn cho các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) nhằm giúp các doanh nghiệp này đổi mới máy móc, thiết bị đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Với chức năng đó Công ty CTTC được tiến hành các hoạt động sau:
1. Cho thuê tài chính các tài sản là máy móc, thiết bị và các động sản khác với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
2. Tư vấn, nhận bảo lãnh cho khách hàng về những dịch vụ có liên quan đến nghiệp vụ CTTC.
3. Thực hiện các nghiệp vụ khác khi được NHNN và cơ quan có thẩm quyền cho phép.
* Cơ cấu tổ chức của Công ty.
Với chức năng và các hoạt động như nêu trên, Công ty cũng phải có một cơ cấu tổ chức bộ máy phù hợp, cơ cấu tổ chức quản lý này có vai trò quyết định giúp cho Công ty thực hiện tốt chức năng của mình.
Do mới thành lập nên Công ty mới chỉ có 12 cán bộ, nhân viên với 4 phòng chức năng: Phòng Giám đốc, phòng kế toán, phòng tổng hợp, phòng kinh doanh.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty.
phòng giám đốc
Phòng kinh doanh
Phòng kế toán
Phòng tổng hợp
Người đứng đầu Công ty, trực tiếp điều hành mọi hoạt động kinh doanh là Giám đốc Công ty, Giám đốc là đại diện pháp nhân của Công ty và là người chịu trách nhiệm trước Hội đồng Quản trị và Tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam về mọi hoạt động của Công ty.
Các trưởng phòng ban, trong công ty, kế toán trưởng do Giám đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật sau khi được Tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chấp nhận.
Việc tổ chức và hoạt động củ Công ty chịu sự kiểm soát của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, chịu sự thanh tra của NHNN Việt Nam, của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Ngoài ra Công ty cũng có tổ kiểm tra, kiểm toán nội bộ dưới sự chỉ đạo của Giám đốc Công ty thực hiện việc kiểm tra, kiểm toán hoạt động của Công ty nhằm đảm bảo quy trình nghiệp vụ kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật.
Trong quá trình hoạt động Công ty cũng có những quyền và nghĩa vụ cơ bản sau đây:
* Quyền của Công ty:
- Quyền đối với bên thuê.
Đối với khách hàng (bên thuê) Công ty có các quyền sau đây:
1. Có quyền yêu cầu bên thuê cung cấp đầy đủ, toàn bộ báo cáo quý, năm về tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh và các vấn đề liên quan đến tài sản thuê.
2. Có quyền yêu cầu bên thuê bồi thường thiệt hại phát sinh do bên thuê không thực hiện hoặc thực hiện không đúng trách nhiệm ghi trong hợp đồng về bảo quản, sửa chữa, thanh toán tiền bảo hiểm tài sản thuê trong thời hạn thuê.
3. Có quyền yêu cầu bên thuê đặt tiền ký quỹ bảo đảm cho hợp đồng hoặc yêu cầu có người bảo lãnh đối với bên thuê, hoặc các biện pháp khác theo quy định của pháp luật.
4. Được quyền chuyển nhượng các quyền của mình trong hợp đồng cho một Công ty CTTC khác mà không cần sự đồng ý của bên thuê. Nhưng phải thông báo trước bằng văn bản cho bên thuê.
5. Có quyền từ chối cho thuê tài sản nếu dự án không có hiệu quả, trái pháp luật hoặc không có khả năng trả nợ đúng hạn.
6. Có quyền chấm dứt hợp đồng cho thuê trước thời hạn nếu bên thuê vi phạm hợp đồng và Công ty cũng có quyền thu hồi ngay tài sản cho thuê mà không cần đưa việc này ra bất kỳ cơ quan tư pháp hay toà án nào.
7. Có quyền sở hữu và đính ký hiệu sở hữu trên tài sản thuê trong suốt thời hạn cho thuê. Quyền sở hữu của Công ty không bị ảnh hưởng trong trường hợp bên thuê bị phá sản, giải thể, mất khả năng thanh toán. Tài sản thuê không được coi là tài sản của bên thuê khi xử lý tài sản để trả nợ cho các chủ nợ khác, hoặc để đảm bảo thi hành án.
8. Có quyền khởi kiện các tranh chấp kinh tế, dân sự và đề nghị khởi tố các vụ án hình sự liên quan đến hoạt động của Công ty.
- Quyền tổ chức bộ máy quản lý kinh doanh:
1. Công ty có quyền tổ chức bộ máy quản lý, kinh doanh phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ được giao.
2. Ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy trình nghiệp vụ cần thiết trong phạm vi hoạt động của Công ty.
3. Trên cơ sở chỉ tiêu lao động và đơn giá tiền lương được Tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phê duyệt, Công ty được tuyển chọn lao động, lựa chọn hình thức trả lương, thưởng căn cứ vào kết quả kinh doanh hàng năm.
4. Có quyền đặt chi nhánh, văn phòng đại diện khi cần tại các khu vực khi được Hội đồng quản trị Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đồng ý và được NHNN chấp thuận bằng văn bản.
- Quyền quản lý tài chính:
1. Công ty CTTC là đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập, tự chủ về mặt tài chính, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và những cam kết của mình.
2. Trích lập và sử dụng các quỹ theo quy định hiện hành của Nhà nước.
3. Sử dụng phần lợi nhuận còn lại sau khi đã làm đủ nghĩa vụ với Nhà nước theo quy chế tài chính của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
4. Hưởng các chế độ trợ cấp ưu đãi về vốn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
5. Xác định tỷ lệ hoa hồng, lệ phí thưởng trên cơ sở đóng góp có hiệu quả vào kết quả kinh doanh của Công ty phù hợp với chế độ tài chính hiện hành.
* Cùng với các quyền cơ bản trên, Công ty cũng phải đảm bảo những nghĩa vụ sau đây:
1. Thực hiện các quy định của pháp luật về nội dung và phạm vi hoạt động, về hệ số an toàn trong kinh doanh tiền tệ.
2. Bảo toàn sử dụng vốn được giao có hiệu quả, không ngừng tích luỹ vốn để đầu tư phát triển và chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của Công ty.
3. Nộp các loại thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật (49/CP).
4. Thực hiện đầy đủ các cam kết tài chính khác ghi trong hợp đồng với các đối tác và các nghĩa vụ có liên quan theo quy định của pháp luật hiện hành.
5. Hoàn trả các khoản tín dụng đã vay trong và ngoài nước.
6. Đăng ký kinh doanh và kinh doanh đúng ngành nghề đã được ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
7. Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với người lao động theo quy định của Bộ Luật lao động. Đảm bảo cho người lao động được tham gia quản lý Công ty.
8. Thực hiện các quy định của Nhà nước về bảo vệ tài nguyên, môi trường quốc phòng và an ninh quốc gia.
9. Thực hiện chế độ báo cáo thống kê, kế toán theo quy định của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và NHNN Việt Nam.
II-/ Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
1-/ Các hoạt động của Công ty.
Như đã trình bày ở trên, với phạm vi hoạt động trên toàn quốc Công ty CTTC được phép thực hiện các nghiệp vụ sau:
- Cho thuê tài chính các tài sản là máy móc thiết bị và các động sản khác đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Tư vấn, nhận bảo lãnh cho khách hàng về những dịch vụ có liên quan đến hoạt động CTTC.
- Thực hiện các nghiệp vụ khác khi được NHNN và cơ quan chức năng Nhà nước cho phép.
Những nghiệp vụ trên được quy định trong điều lệ của Công ty CTTC, cũng phù hợp với Nghị định 04/CP. Trong 3 nghiệp vụ đó thì cho đến nay ở Công ty CTTC thuộc Ngân hàng Ngoại thương, cũng như hầu hết các Công ty CTTC khác, mới chỉ thực hiện một nghiệp vụ quan trọng nhất, mang tính “bản chất” của hoạt động CTTC đó là “Cho thuê tài chính các tài sản và máy móc, thiết bị và các động sản khác đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế”. Đối với hai nghiệp vụ sau, cho đến nay NHNN và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể mà chỉ quy định chung mang tính “mở”. Bởi lẽ, hoạt động CTTC là hoạt động mới mẻ đang trong giai đoạn “xâm nhập thị trường” nên các Công ty cần tập trung vào việc phát triển hoạt động CTTC. Đến khi có đủ điều kiện và được khách hàng chấp nhận, coi CTTC là một hình thức tài trợ hiệu quả thì khi đó NHNN phải có ý kiến chỉ đạo để các Công ty CTTC có thể thực hiện nốt hai nghiệp vụ còn lại, vừa tạo điều kiện mở rộng nội dung hoạt động của các Công ty cho thuê, vừa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về hoạt động CTTC và các dịch vụ có liên quan.
2-/ Các bước tiến hành một hợp đồng CTTC tại Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Quy trình nghiệp vụ CTTC đòi hỏi phải có một sự tuân thủ chặt chẽ về thủ tục tiến hành. Tại mỗi giai đoạn trong quá trình giải quyết công việc, các chủ thể thực hiện đều phải ghi ý kiến, kết luận rõ ràng và chịu trách nhiệm về các ý kiến kết luận đó. Các công việc tiến hành trong một quy trình CTTC có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của một giao dịch CTTC.
Quy trình bắt buộc của một giao dịch CTTC tại Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được khái quát theo sơ đồ sau (Theo Quyết định số 51/CTTC/QĐ ngày 15/5/2000 của Giám đốc Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Ban hành Quy trình nghiệp vụ CTTC):
Sơ đồ quy trình nghiệp vụ CTTC.
Khách hàng
Cán bộ cho thuê
Trưởng phòng kinh doanh
Tái thẩm định
Hội đồng tín dụng
Giám đốc
(1)
(2)
(3)
(4)
(4)
(4)
(3)
(5)
(Nguồn: Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam).
Sơ đồ trên được giải thích như sau:
(1) Khách hàng có nhu cầu th._.nh tế thực. Nhưng khi bị thu hồi, tách riêng ra khỏi hệ thống hoặc cho vào kho bãi thì nó bị giảm cả về mặt giá trị cũng như giá trị sử dụng.
Khó khăn nêu trên tạo điều kiện cho bên thuê có thể chây ỳ trong quan hệ thanh toán nợ, gây khó xử cho các Công ty CTTC.
14. Về hợp đồng cho thuê tài chính.
Qua thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng CTTC tại Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và một số Công ty CTTC khác đã gặp phải một số vướng mắc nhất định, đặc biệt là tính pháp lý của hợp đồng CTTC đó là:
- Thứ nhất, là tính thiếu nhất quán của pháp luật về nội dung của hợp đồng: Theo điều 18 - Nghị định 64/CP thì hợp đồng CTTC là một loại hợp đồng kinh tế được ký kết giữa bên cho thuê và bên thuê về việc thuê một hoặc một số máy móc thiết bị, động sản khác trong một thời gian nhất định, theo những điều kiện quy định tại điều 3 của quy chế này (NĐ 64/CP). Tuy nhiên, Điều 3 của Quy chế cho thuê tài chính lại quy định:
“Một giao dịch CTTC phải thoả mãn một trong những điều kiện dưới đây:
1. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo thoả thuận của hai bên.
2. Nội dung của hợp đồng thuê có quy định: Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm mua lại.
3. Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất bằng 60% thời hạn cần thiết để khấu hao tài sản thuê.
4. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê, ít nhất phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng.”
Như vậy, quy định tại điều 18 và điều 3 của Quy chế cho thuê tài chính không nhất quán với nhau. Điều 18 yêu cầu hợp đồng CTTC phải thoả mãn những điều kiện quy định tại điều 3, nhưng điều 3 lại quy định Hợp đồng CTTC chỉ cần thoả mãn một trong bốn điều kiện nói trên. Chính vì thế, khi thương thoả hợp đồng, bên cho thuê và bên thuê không biết thoả thuận như thế nào để các điều khoản của hợp đồng phù hợp với điều 18 và điều 3 nói trên của Quy chế cho thuê tài chính.
- Thứ hai, về hiệu lực của hợp đồng CTTC.
Vì hợp đồng CTTC là một loại hợp đồng kinh tế, nên bên cho thuê và bên thuê có quyền thoả thuận thời hạn có hiệu lực của hiệu lực theo điều 18 của pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989. Trên thực tế các bên thường thoả thuận hợp đồng kinh tế có hiệu lực kể từ ngày ký, nên hợp đồng CTTC cũng nằm trong thông lệ đó. Ngoài những đặc điểm chung của Hợp đồng kinh tế thông thường, do tính đặc thù của hoạt động CTTC, hợp đồng CTTC còn phải được đăng ký tại NHNN và cơ quan quản lý hợp đồng, nơi Công ty CTTC đóng trụ sở chính theo quy định của pháp luật. Vì vậy có khi hợp đồng CTTC đã được ký kết và đang được thực hiện thì vì một lý do nào đó cơ quan đăng ký hợp đồng cho rằng một vài điểm trong hợp đồng CTTC chưa hợp lý hoặc không phù hợp với những quy định của pháp luật. Do đó, cơ quan nhận đăng ký hợp đồng yêu cầu các bên sửa đổi, bổ sung hợp đồng CTTC đã được ký kết. Như vậy, hiệu lực của hợp đồng CTTC lại phụ thuộc vào quyết định của cơ quan nhận đăng ký hợp đồng, chứ không như các hợp đồng kinh tế khác - hợp đồng đương nhiên có hiệu lực sau khi ký hoặc theo sự thoả thuận của hai bên. Điều này không những gây nhiều phiền toái cho hai bên trong quan hệ CTTC mà còn làm nảy sinh một số tiêu cực khác liên quan đến vấn đề đăng ký hợp đồng.
15. Quy định về thành lập Công ty CTTC.
Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/10/1998. Nhưng cho đến nay, mới chỉ có một Nghị định hướng dẫn thi hành (Nghị định 82/1998/NĐ - CP ngày 03/10/1998 của Chính phủ ban hành danh mục mức vốn pháp định đối với các tổ chức tín dụng). Còn các vấn đề khác như hướng dẫn thành lập và đăng ký kinh doanh đối với một số loại hình tổ chức tín dụng thì vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn chi tiết. Đối với các Công ty CTTC liên doanh, Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh tuân theo thông tư 03/TT - NH5 còn đối với Công ty CTTC Việt Nam thì thông tư này lại không hướng dẫn cụ thể mà việc thành lập các Công ty này tuân theo Quyết định số 05/NH5 - QĐ hướng dẫn thực hiện pháp lệnh ngân hàng hợp tác xã tín dụng, Công ty tài chính (23/05/1990) về việc ban hành “Quy định về thủ tục cấp giấy phép hoạt động cho các tổ chức tín dụng Việt Nam”. Theo quy định tại thông tư số 03/TT - NH5 thì việc thành lập Công ty CTTC 100% vốn Việt Nam cũng phải tuân theo “Luật Công ty”. Nay Luật Công ty được thay thế bằng Luật doanh nghiệp (12/6/1999). Tuy nhiên trong Nghị định số 03/2000/NĐ - CP ngày 03/2/2000 hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp lại quy định “Nếu có sự khác nhau giữa quy định về thành lập, tổ chức, quản lý... của Luật doanh nghiệp với luật chuyên ngành thì áp dụng theo luật chuyên ngành”. Như vậy việc thành lập Công ty CTTC vẫn không có gì thay đổi - vẫn áp dụng theo Luật các tổ chức tín dụng (12/12/1997) - mà Luật này hệ thốngì chưa có hướng dẫn chi tiết. Hơn nữa, Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, Công ty tài chính (23/05/1990) đã hết giá trị pháp lý kể từ khi Luật tổ chức tín dụng có hiệu lực (01/10/1998), vậy thì theo nguyên tắc các văn bản hướng dẫn pháp lệnh này cũng hết hiệu lực thi hành. Nhưng cho đến nay, thủ tục thành lập Công ty CTTC 100% vốn Việt Nam vẫn phải tuân theo Quyết định số 05/NH5 - QĐ - một văn bản hường dẫn pháp lệnh Ngân hàng. Điều này làm cho các chủ thể thành lập Công ty CTTC cũng như các cơ quan chức năng gặp phải khó khăn khi lựa chọn Luật áp dụng trong việc thành lập và cho phép thành lập Công ty CTTC.
II-/ Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý đối với hoạt động CTTC.
Như chúng ta đã biết, công nghệ CTTC đã phát triển mạnh mẽ từ lâu trên thế giới, thể hiện sức sống của nó và sự tồn tại của công nghệ này là tất yếu khách quan do yêu cầu phát triển kinh tế. CTTC là một mô hình đầu tư mới tại Việt Nam nhưng đã được sự quan tâm, hướng dẫn tạo dựng nghiệp vụ mới này ngay từ ngày đầu của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Đến nay, sau một thời gian thực hiện, chúng ta có thể đánh giá, về cơ bản cho thuê tài chính đã có thị trường và được chấp nhận như một giải pháp tín dụng mới cho các doanh nghiệp đổi mới máy móc, thiết bị nhằm công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các Công ty CTTC dù là 100% vốn nước ngoài, 100% vốn Việt Nam hay Công ty CTTC liên doanh (cho đến nay có tất cả 9 Công ty) ra đời sớm hay muộn đều đã tạo được chỗ đứng của mình trong nền kinh tế.
Đến nay, trừ ANZ - V - TRACT Leasing Company chưa hoạt động, còn hầu hết các Công ty đã triển khai việc cho thuê. Nếu như không kể thời gian 2 - 3 năm đầu bị lỗ (trong giới hạn cho phép) thì các Công ty chưa vấp phải những vấn đề gì lớn, nghiêm trọng đến mức phải ngừng hoạt động như các lĩnh vực khác. Nhưng để có thể tồn tại và phát triển, hoạt động CTTC cần có sự quan tâm, hỗ trợ tích cực và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa của Chính phủ của NHNN và các cơ quan chức năng khác cũng như các chủ thể thành lập Công ty CTTC trong việc tháo gỡ những khó khăn hiện nay. Căn cứ vào những khó khăn đối với hoạt động CTTC đã trình bày ở phần trên. Sau đây em xin trình bày một số ý kiến đề xuất đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, các chủ thể thành lập Công ty CTTC và một vài kiến nghị trực tiếp đối với Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng như các Công ty CTTC khác đang hoạt động tại nước ta.
1-/ Một số kiến nghị đối với các cơ quan quản lý hữu quan.
* Chính phủ sớm ban hành Nghị định mới thay cho Nghị định 64/CP và nhanh chóng hướng dẫn mục tiêu Nghị định mới này thay thế cho hướng dẫn số 03/TT - NH5. Nghị định mới này cần quy định rõ chức năng của các Bộ, các ngành liên quan như thương mại, hải quan, tài chính... có trách nhiệm ban hành những văn bản quy định hướng dẫn thực hiện đồng bộ Nghị định này, tạo cho hoạt động CTTC có một hành lang pháp lý thống nhất, không chồng chéo giữa các quy định của các cơ quan chức năng. Nghị định mới cần phải giải quyết nhanh chóng và triệt để những vấn đề còn tồn tại trong các văn bản pháp luật về hoạt động CTTC, cụ thể:
- Về lệ phí trước bạ đối với tài sản thuê. Việc nộp lệ phí trước bạ để xác lập quyền sở hữu tài sản đối với các chủ tài sản - những người muốn pháp luật công nhận quyền sở hữu hợp pháp của mình với tài sản là việc làm hoàn toàn hợp lý. Nhưng kể từ khi hoạt động CTTC được đưa vào và sử dụng ở nước ta thì việc nộp lệ phí trước bạ lại vô tình gây khó khăn cho các chủ thể tham gia quan hệ CTTC vì việc phải nộp lệ phí trước bạ 2 lần đối với một tài sản đã làm cho chi phí CTTC quá cao (như đã phân tích ở phần trên). Thiết nghĩ, trong Nghị định mới nên quy định cụ thể việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản từ hoạt động CTTC theo hợp đồng thuê khi hết hạn hợp đồng được miễn lệ phí trước bạ sang tên, Quy định được như vậy thì hoạt động CTTC sẽ sôi động hơn rất nhiều, đáp ứng được mục tiêu ban đầu của Nghị định 64/CP là tạo ra cho các doanh nghiệp Việt Nam một kênh dẫn vốn có hiệu quả thông qua hoạt động CTTC.
- Về đăng ký tài sản thuê.
Theo những quy định hiện hành thì đối với những tài sản thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu, các Công ty CTTC phải đăng ký quyền sở hữu tại địa phương nơi đống trụ sở chính của Công ty. Vì vậy trong Nghị định mới vấn đề này cần được sửa đổi, nên quy định: cho phép đối với những loại tài sản thuê phải đăng ký quyền sở hữu, các chủ thể có thể lựa chọn việc đăng ký tại nơi thích hợp nhất. Có thể nơi đóng trụ sở chính của bên cho thuê, của bên thuê hay tại nơi tài sản thuê được sử dụng. Hiện nay chúng ta đã có Trung tâm thông tin của các tổ chức tín dụng nên các Công ty CTTC hoàn toàn có thể kiểm soát được tài sản cho thuê đồng thời tài sản cho thuê cũng thường xuyên được kiểm tra tính an toàn với chi phí thấp nhất.
- Về tổng số tiền thuê:
Theo quy định tại Nghị định 64/CP “Tổng số tiền thuê mà bên thuê phải trả cho bên cho thuê ít nhất tương đương với giá thị trường của tài sản vào thời điểm ký kết hợp đồng. Nghị định mới nên quy định: Tổng số tiền thuê mà bên thuê phải trả cho bên cho thuê ít nhấp phải tương đương với giá trị đầu tư của công ty CTTC vào tài sản tại thời điểm chuyển giao tài sản cho bên thuê. Nếu quy định như vậy, nghĩa vụ trả tiền thuê của bên thuê luôn tương ứng với phần tín dụng được cung cấp bởi các Công ty CTTC.
- Quy định thời gian thuê hợp lý hơn:
Trong Nghị định 64/CP quy định thời gian thuê tối thiểu là 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê. Để quy định về thời gian thuê được “mềm dẻo” hơn, nên đưa ra một số khả năng cho các chủ thể lựa chọn. Trong trường hợp có nhiều bên thuê có nhu cầu về cùng loại tài sản những không có nhu cầu sử dụng thường xuyên, cho phép Công ty CTTC có thể đồng thời ký kết với nhiều bên thuê về tài sản đó và kèm theo đó là quy định các bên có thể thoả thuận bán lại tài sản cho một chủ thể thuê với giá danh nghĩa hoặc tài sản vẫn thuộc về bên cho thuê (để khắc phục khó khăn khi xử lý tài sản thuê).
Trường hợp không ký được hợp đồng theo phương thức nêu trên, bên cho thuê được phép cho thuê với thời gian ngắn đối với nhiều chủ thể có cùng nhu cầu nhưng số tiền thuê phải trả cao hơn so với quan hệ thuê mua thông thường (có thể cao hơn 200% so với quan hệ thuê thường). Biện pháp này vừa tạo điều kiện cho bên thuê có cơ hội tốt nhất trong kinh doanh đồng thời cũng giúp cho bên cho thuê nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư (thực hiện khấu hao nhanh) trong điều kiện chúng ta chưa thực hiện hoạt động cho thuê vận hành.
- Nghị định mới nên quy định thêm nghĩa vụ mua bảo hiểm đối với trách nhiệm chi trả, thanh toán để giải quyết khó khăn trong việc xử lý tài sản thuê. Biện pháp này có thể làm tăng chi phí kinh doanh của bên thuê nhưng là biện pháp an toàn cho Công ty cho thuê, phần phí bảo hiểm trách nhiệm chi trả có thể được san sẻ giữa bên cho thuê và bên thuê. Đây không phải là biện pháp hoàn toàn mới mẻ và cá biệt trong hoạt động tín dụng bởi lẽ nghĩa vụ mua bảo hiểm tiền gửi của quỹ tín dụng nhân dân đã được thực hiện trong nhiều năm nay.
- Nghị định mới cần khắc phục được tính thiếu nhất quán của pháp luật về nội dung của hợp CTTC bằng việc quy định cụ thể một giao dịch CTTC phải hội tụ cả 4 điều kiện quy định tại điều 3 của quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC tại Việt Nam. Bởi vì 4 điều kiện này là những điều khoản chủ yếu của hợp đồng mà theo pháp luật những điều khoản đó bắt buộc phải có trong hợp đồng mà theo pháp luật những điều khoản đó bắt buộc phải có trong hợp đồng, nếu thiếu chúng, thì hợp đồng CTTC không được hình thành và không có hiệu lực pháp luật. Hơn nữa cả 4 điều kiện nói trên đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, điều này ràng buộc với điều kia và ngược lại. Giả thiết rằng, hợp đồng CTTC chỉ thoả mãn một điều kiện (điều kiện cả về thời gian thuê) nhưng tổng số tiền thuê lại thấp hơn giá trị của tài sản đó trên thị trường tại thời điểm ký kết hợp đồng (hoặc ngược lại) thì bên cho thuê (hoặc bên thuê) ở vào tình thế bất lợi về quyền và lợi ích. Do đó cuộc thương lượng và đàm phán hợp đồng khó mà đi đến được việc ký kết hợp đồng. Vì lẽ đó, Hợp đồng CTTC cần phải thoả mãn đầy đủ 4 điều kiện quy định tại Điều 3, vừa phù hợp với thực tế giao kết hợp đồng kinh tế vừa phù hợp với Điều 18 của Quy chế cho thuê tài chính.
Về tính hiệu lực của hợp đồng cũng cần phải có quy định rõ ràng và nên bãi bỏ việc đăng ký hợp đồng CTTC như hiện nay.
- Nghị định mới cũng cần bổ sung thêm quy định về thủ tục thành lập Công ty CTTC 100% vốn Việt Nam, thay thế cho việc áp dụng Quyết định số 05/QĐ - NH5 (07/01/1991) ban hàng “Quy chế cấp giấy phép hoạt động cho các tổ chức tín dụng Việt Nam” tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan chức năng cũng như các chủ thể thành lập Công ty CTTC 100% vốn của Việt Nam khi lựa chọn luật áp dụng, khuyến khích các chủ thể có đủ điều kiện thành lập Công ty CTTC, thúc đẩy thị trường CTTC phát triển.
* Kiến nghị với NHNN Việt Nam .
- Về nguồn vốn hoạt động:
Đề nghị NHNN cho phép các Công ty CTTC được vay vốn trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng bao gồm vay tái chiết khấu từ NHNN bằng hồ sơ cho thuê tài chính hoặc vay trung dài hạn từ NHNN thế chấp bằng hồ sơ đang cho thuê tài chính và được vay vốn từ các nguồn tài trợ. Nói cách khác NHNN có chính sách ưu đãi các Công ty CTTC bằng các các Công ty CTTC được đưa vào danh sách, được xem như một kênh dẫn vốn từ các nguồn vay nợ, từ nguồn viện trợ của Chính phủ và từ các quỹ phát triển như FDI, ODA...
- Về việc thu tiền thuê bằng ngoại tệ:
Đến nay, NHNN đã cho phép các Công ty CTTC được mua lại ngoại tệ của Ngân hàng thương mại khi có nhu cầu nhập khẩu. Nhưng không phải lúc nào cũng có nhu cầu nhập khẩu ngay khi nhận được tiền thuê bằng đồng Việt Nam. Vì vậy Công ty bị lỗ khi tỷ giá biến đọng. Vậy đề nghị NHNN cho phép các Công ty CTTC được thu nợ bằng ngoại tệ nếu đầu tư bằng ngoại tệ (nhập khẩu tài sản để cho thuê) như các Ngân hàng thương mại và được mua ngoại tệ khi có yêu cầu thanh toán ra nước ngoài. Và ngoại tệ đã mua được đưa vào tài khoản hoạt động của Công ty mà không bị khống chế tại một tài khoản đặc biệt chờ thanh toán.
- Về hệ thống kế toán - tài chính:
Đề nghị NHNN sớm ban hành văn bản hướng dẫn hạch toán kế toán đối với các Công ty CTTC tạo điều kiện thuận lợi trong công tác kế toán doanh nghiệp. Làm tốt công tác kế toán thì sẽ giúp cho việc quản lý tài sản thuê được dễ dàng, tránh được những rủi ro tài chính, giúp cho việc đánh giá tình hình tài chính của bản thân doanh nghiệp cũng như của khách hàng được chính xác từ đó có thể đưa ra được những quyết định kinh doanh đúng đắn và có hiệu quả nhất (Đối với Công ty CTTC nên cho áp dụng hệ thống kế toán Quốc tế (IAS) có nhiều thuận lợi và phù hợp hơn).
- Quy định về việc gia hạn nợ:
NHNN nên sớm có quy định sửa đổi nội dung liên quan đến việc gia hạn nợ trong quan hệ cho thuê tài chính trong trường hợp do nguyên nhân khách quan dẫn đến việc chậm trả của bên thuê - hiện nay quy định bên cho thuê không được gia hạn quá một kỳ trả nợ - cần phải sửa đổi quy định này để tạo ra sự bình đẳng giữa cho thuê tài chính với các quan hệ tín dụng ngân hàng khác.
* Kiến nghị với Bộ Thương mại.
- Về thủ tục nhập khẩu máy móc, thiết bị:
Đề nghị Bộ Thương mại cho phép các Công ty CTTC được đăng ký mã số nhập khẩu. Khi có mã số, Công ty được quyền nhập khảu trực tiếp và thường xuyên tất cả các mặt hàng được phép nhập khẩu theo quy định của pháp luật trên cơ sở yêu cầu của bên thuê, không phải xin phép từng lần. Các Công ty CTTC cũng có thể uỷ thác nhập khẩu hoặc ký hợp đồng nhập khẩu có sự tham gia của ba bên: Bên cho thuê, bên thuê và bên cung cấp tài sản thuê.
* Kiến nghị với Bộ Tài chính.
Vừa qua, Cục thuế đã cho phép các Công ty đi thuê được khấu trừ thuế GTGT hàng tháng. Trong khi đó nếu đi vay ngân hàng thì họ sẽ được khấu trừ ngay. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các Công ty đi thuê tài chính, đề nghị Bộ Tài chính cho phép các doanh nghiệp đó được khấu trừ thuế GTGT một lần ngay khi ký hợp đồng thuê, tránh cho họ phải trả thêm lãi trên số tiền thuế giá trị gia tăng trong suốt thời gian thuê.
Đối với những tài sản thuê do Công ty CTTC nhập khẩu trực tiếp, đề nghị Bộ Tài Chính cho áp dụng mức thuế nhập khẩu (hoặc miễn thuế nhập khẩu) như khi bên đi thuê tự nhập khẩu tài sản này.
Về thuế thu nhập doanh nghiệp như quy định hiện nay của Bộ Tài chính thì các Công ty CTTC phải chịu mức thuế 32%. Với mức thuế này thì lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp (Công ty CTTC) luôn nhỏ hơn khoản lệ phí sử dụng vốn (với phí suất 6%/năm). Như vậy thì dù các Công ty CTTC có hoạt động hiệu quả đến mấy thì cũng luôn bị lỗ (Điều này được chứng minh từ thực tế nộp thuế của Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã được trình bày ở chương II). Để giải quyết khó khăn này, đề nghị Bộ Tài chính giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động CTTC và kết hợp với NHNN xem xét, điều chỉnh thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc phí suất sử dụng vốn, đảm bảo cho các Công ty CTTC kinh doanh có lãi sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước.
* Kiến nghị với Bộ Giao thông vận tỉa về giấy pháp lưu hành đối với tài sản thuê.
Theo quy định thì Công ty CTTC là người chủ sở hữu tài sản thuê những người sử dụng phương tiện đó lại là bên đi thuê. Vì vậy đề nghị Bộ Giao thông vận tải có quy định cụ thể đối với các tài sản thuê là các phương tiện giao thông, cho phép bên thuê được phép sử dụng tài sản thuê khi có bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu có công chứng Nhà nước của bên cho thuê.
2-/ Một số kiến nghị đối với các chủ thể thành lập Công ty CTTC tại Việt Nam
- Trước hết, các chủ thể thành lập Công ty CTTC, các Ngân hàng thương mại cần phải có các văn bản hướng dẫn cụ thể hơn nữa những quy định của Nhà nước cũng như của Thống đốc NHNN về hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động CTTC nói riêng. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thành lập và hoạt động của các Công ty CTTC.
- Để khắc phục vấn đề thiếu vốn hoạt động của các Công ty CTTC, các chủ thể khi thành lập Công ty CTTC nên xem xét và lựa chọn hình thức Công ty cổ phần để thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư hoặc hình thức Công ty liên doanh với nước ngoài vừa để thu hút đầu tư vừa để học tập kinh nghiệm quản lý kinh doanh từ phía đối tác. Giải quyết được vấn đề vốn, đáp ứng được nhu cầu đầu tư máy móc thiết bị của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm 90% tổng số các doanh nghiệp ở nước ta0 khi đó sẽ có điều kiện mở rộng thị phần, phân tán rủi ro bằng cách đa dạng đối tượng đi thuê, theo đó bên đi thuê không chỉ còn là các doanh nghiệp, các pháp nhân nữa mà bao gồm cả các cá nhân và tổ chức khác.
- Nhằm khuyến khích các khách hàng đang thiếu vốn lưu động có thể tham gia vào hoạt động CTTC và đa dạng các hình thức cho thuê. Các chủ thể thành lập Công ty CTTC nên có hướng dẫn, cho phép các Công ty CTTC có thể thực hiện nghiệp vụ “Bán rồi cho thuê lại” (Sales and LeaseBack). Đây là nghiệp vụ mà các Công ty CTTC trên thế giới đã thực hiện (ở nước ta, Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã thực hiện nghiệp vụ này, nhưng do không có hướng dẫn và sự cho phép chính thức của Ngân hàng Ngoại thương nên hiện nay Công ty tạm thời không thực hiện). Đây là một nghiệp vụ rất phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta, nhiều doanh nghiệp có cơ sở vật chất tốt, sản xuất kinh doanh có lãi nhưng lại thiếu vốn lưu động. Nếu áp dụng “Bán và cho thuê lại” thì các doanh nghiệp đó sẽ bán máy móc, thiết bị cho các Công ty CTTC để lấy vốn lưu động, sau đó lại thuê chính tài sản vừa bán đó để tiếp tục sản xuất kinh doanh. Như vậy các doanh nghiệp đi thuê sẽ có được một khoản vốn lưu động cần thiết mà vẫn không mất quyền sử dụng tài sản đó. Tài sản dùng để giao dịch trong hình thức này có thể là thiết bị mới hay đã qua sử dụng nhưng còn hữu ích. Bằng một hợp đồng loại “Bán và cho thuê lại” sẽ giúp cho nhiều doanh nghiệp có thể tìm được lối thoát cho tình trạng thiếu vốn lưu động của mình. Không chỉ có vậy, nó cũng có thể thúc đẩy việc tài trợ trung, dài hạn đối với những tài sản trước đó được mua bằng nguồn tiền vay hay được dùng để giảm chi phí huy động vốn nếu hình thức này có mức lãi thấp hơn các chi phí sử dụng vốn khác.
- CTTC là một hình thức tài trợ tín dụng mới được áp dụng ở nước ta được vài năm trở lại đây, cho nên các doanh nghiệp, thậm chí ngay cả các cán bộ trong ngành Ngân hàng cũng chưa hiểu rõ hết nội dung, ý nghĩa và tính ưu việt của hình thức tài trợ này. Do đó, cũng như các hoạt động dịch vụ tài chính - tiền tệ mới, trước hết các chủ thể thành lập doanh nghiệp CTTC cần có kế hoạch mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về hoạt động CTTC cho không chỉ cán bộ, nhân viên trong ngành mà còn mở rộng cho các đối tượng có quan tâm khác.
3-/ Một số kiến nghị đối với các Công ty CTTC đang hoạt động ở nước ta.
- Cho tới nay, ở nước ta đã có 9 Công ty CTTC thuộc các loại hình doanh nghiệp khác nhau được thành lập, trong đó có 8 Công ty đã đi vào hoạt động. Với số lượng như vậy thì thị trường CTTC ở nước ta còn khá mỏng và non yếu so với các loại hình tổ chức tín dụng khác. Trong quá trình hoạt động cũng không thể tránh khỏi những khó khăn. Vì vậy các Công ty CTTC nên có mối quan hệ giúp đỡ và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cùng đóng góp ý kiến với Nhà nước về những vấn đề còn tồn tại của hệ thống luật pháp, của những chính sách đối với hoạt động CTTC.
- Đối với những dự án số tiền tài trợ lớn hơn khả năng cho phép (15% vốn điều lệ) các Công ty CTTC nên áp dụng hình thức “cho thuê hợp vốn”. Khi đó hai hay nhiều Công ty cùng thoả thuận góp vốn mua một tài snả có giá trị lớn để đáp ứng nhu cầu thuê tài sản của khách hàng và cùng thoả thuanạ việc phân chia quyền thu lãi cũng như các nghĩa vụ khác theo tỷ lệ vốn góp của mỗi bên vào tài sản cho thuê.
- Để đảm bảo việc cho thuê có hiệu quả cao, khi tiến hành một giao dịch CTTC, Công ty cần tuân thủ theo đúng những quy định của pháp luật, đồng thời cũng phải có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng, cung cấp cho họ những thông tin cần thiết về tài sản thuê, về lãi suất... có các biện pháp hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất. Muốn vậy các Công ty CTTC cần phải nâng cao hơn nữa công thẩm định dự án, cho thuê đầy đủ và kịp thời đối với những dự án có tỉnh khả thi, mức độ an toàn cao.
- Các Công ty CTTC cũng phải xây dựng cho mình một kế hoạch kinh doanh phù hợp với quy mô của doanh nghiệp và cũng phải phù hợp với định hướng phát triển kinh tế đất nước trong từng giai đoạn. Đặc biệt, mỗi công ty CTTC cũng phải xây dựng một quy trình nghiệp vụ CTTC cụ thể, trong đó quy định và hướng dẫn từng bước phải làm của một giao dịch CTTC từ thẩm định dự án đến khi kết thúc hợp đồng. Việc làm này sẽ tạo thuận lợi cho các cán bộ, nhân viên trong quá trình làm việc và cũng qua đó gắn trách nhiệm đối với từng người (Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã làm được việc này, ngày 15/5/2000 Giám đốc Công ty đã có quyết định số 51/CTTC/QĐ ban hành quy tình nghiệp vụ CTTC).
- Các Công ty CTTC cũng nên xúc tiến nghiệp vụ “Cho thuê hợp tác” theo nghiệp vụ này bên cho thuê (Công ty CTTC) có thể yêu cầu bên đi thuê cùng góp vốn để đầu tư tài sản. Như vậy không những giải quyết được vấn đề tài sản có giá trị lớn vượt quá khả năng của Công ty cho thuê, mà đối với những tài sản nằm trong khả năng của Công ty cho thuê thì việc khách hàng góp vốn sẽ gắn trách nhiệm của họ với tài sản, hạn chế được rủi ro cho phía Công ty cho thuê.
- Để khắc phục được việc một số khách hàng chưa thực sự hiểu đúng được tiện ích mà hoạt động CTTC đem lại, một số khách hàng coi CTTC cũng tương tự như hình thức mua bán trả góp. Vì vậy muốn được thị trường chấp nhận một cách rộng rãi, các Công ty CTTC cũng cần phải mở rộng các hình thức tuyên truyền, quảng cáo nội dung hoạt động của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Đối với Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, ngoài các kiến nghị chung cho các Công ty CTTC nêu trên. Công ty cũng cần xây dựng cơ cấu tổ chức cán bộ theo hướng bổ sung các phòng ban sau đây: (Hiện tại Công ty mới chỉ có 12 cán bộ, nhân viên với 1 phòng Giám đốc và 3 phòng chức năng là phòng kinh doanh, phòng kế toán, phòng tổng hợp).
Sơ đồ cơ cấu tổ chức đề nghị bổ sung
phòng giám đốc
Phòng kinh doanh
Phòng Kế toán
Phòng Tổng hợp
Phòng Marketing
Phòng Kỹ thuật
Phòng Xuất nhập khẩu
Các phòng ban hiện tại
Các phòng ban đề nghị bổ sung
Chức năng của các phòng bổ sung như sau:
1. Phòng Marketing: Phòng này có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường cho thuê tài chính, nghiên cứu và tìm kiếm khách hàng, nghiên cứu các loại tài sản cho thuê. Bên cạnh đó phòng này cũng còn có chức năng tiếp xúc và tìm hiểu phản ứng của khách hàng, làm nhiệm vụ quảng cáo khuếch trương hoạt động của Công ty.
2. Phòng kỹ thuật: Phòng này bao gồm các chuyên gia có trình độ am hiểu về máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến và có khả năng đưa ra kết luận đúng đắn về trình độ công nghệ về chất lượng, chức năng và giá cả hợp lý của tài sản. Từ đó có điều kiện tư vấn cho khách hàng về tài sản cho thuê, có khả năng sửa chữa máy móc, thiết bị khi có rủi ro xảy ra. Phòng này cũng cần thiết lập mối quan hệ với nhà cung cấp để đảm bảo có được những thông tin chính xác về tài sản thuê.
3. Phòng xuất nhập khẩu.
Trong tương lai, khi Công ty được trực tiếp xuất khẩu máy móc, thiết bị để cho thuê, thì Công ty cũng nên có bộ phận chuyên môn về xuất nhập khẩu. Phòng xuất nhập khẩu sẽ thực hiện các hoạt động liên kết với nước ngoài, đảm bảo được kế hoạch nhập khẩu máy móc, thiết bị, phục vụ khách hàng.
Cùng với việc bổ sung các phòng ban chức năng, Công ty cũng cần phải có kế hoạch đào tạo và phát triển nguồn nhân lực theo hướng:
- Tuyển chọn những cán bộ trẻ, có tài năng, có tâm huyết với công việc.
- Sắp xếp cán bộ, nhân viên một cách hợp lý để họ có khả năng phát huy tính sáng tạo và năng lực vốn có của mình.
- Khuyến khích các cán bộ học thêm, thường xuyên mở các cuộc hội thảo chuyên môn về hoạt động CTTC nhằm nâng cao trình độ của cán bộ nhân viên Công ty.
kết luận
Cho thuê tài chính chỉ là một dạng kinh doanh tín dụng thuần tuý nhưng lại rất quan trọng đối với một nền kinh tế đang phát triển như nước ta. Nếu được sự quan tâm đúng mức thì những lợi ích mà nghiệp vụ này mang lại cho nền kinh tế không phải là nhỏ. Bởi lẽ, trong tất cả các hình thức tài trợ cho doanh nghiệp thì chỉ có ngành CTTC là có khả năng thu hút vốn, tài trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) nhằm đổi mới thiết bị, công nghệ, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh.
Tuy vậy, CTTC vẫn mang tính tài trợ là chủ yếu, nguồn thu đơn điệu, hệ số lợi tức không cao và là một nghiệp vụ còn khá mới mẻ ở nước ta. Vì vậy CTTC rất cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, cần có những ưu đãi như giảm thuế, hỗ trợ vốn... và đặc biệt là cần có một cơ chế quản lý phù hợp, với những điều kiện pháp lý đảm bảo tính đầy đủ, thống nhất và thông thoáng. Nếu có sự quan tâm đúng mức, cùng với xu hướng tất yếu là sự tương hợp giữa cung và cầu, sẽ thúc đẩy CTTC tìm được sự phát triển đúng tầm vóc của nó so với các nghiệp vụ tài chính khác, khẳng định được rằng “Cho thuê tài chính là nghiệp vụ không thể thiếu trong một nền kinh tế hiện đại”.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn: PTS. Nguyễn Hợp Toàn, các thầy cô giáo trong khoa Luật; chú Nguyễn Văn Tính - cán bộ hướng dẫn - cùng toàn thể cán bộ, nhân viên Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Tài liệu tham khảo
I-/ Các văn bản pháp quy.
1-/ Luật các tổ chức tín dụng (12/12/1997) - NXB Chính trị Quốc gia 1998.
2-/ Luật NHNN VN (12/12/1997) - NXB Chính trị Quốc gia 1998.
3-/ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (25/09/1989).
4-/ Nghị định 64/CP (9/10/1995) của CP ban hành “Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của các Công ty CTTC tại Việt Nam” - CB số 24 ngày 31/12/1995.
5-/ Nghị định số 82/1998/NĐ - CP ngày 03/10/1998 của CP ban hành “Danh mục mức vốn pháp định đối với các tổ chức tín dụng” - CB số 33 ngày 30/11/1998.
6-/ Nghị định số 03/2000/NĐ - CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp - CB số 9 ngày 8/3/2000.
7-/ Thông tư số 3/TT - NH5 ngày 9/2/1996 hướng dẫn thực hiện Nghị định 64/CP.
8-/ Thông tư số 49/TT - BTC ngày 06/05/1999 của Bộ Tài chính hướng dẫn áp dụng Luật thuế GTGT trong hoạt động CTTC - CB 24/99 ngày 6/5/1999.
9-/ Quyết định số 5/NH5 - QĐ ngày 7/1/1991 của Thống Đốc NHNN về việc “Ban hành Quy chế cấp giấy phép hoạt động cho các tổ chức tín dụng Việt Nam”.
10-/ Thông tư số 09/NH - TT ngày 7/1/1999 của NHNN hướng dẫn thực hiện Quyết định 5/NH5 - QĐ.
11-/ Quyết định số 95/1998/QĐ - NHNN5 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung thông tư số 3/TT - NH5 ngày 9/2/1996.
II-/ Các tài liệu khác.
1-/ Sách: - Trần Tô Tử, Nguyễn Hải Sản: Tìm hiểu và sử dụng tín dụng thuê mua - NXB Trẻ 1998.
- Nguyễn Thị Khế, Bùi Thị Khuyên - Tìm hiểu Luật kinh tế - NXB TP Hồ Chí Minh 1997
2-/ Tạp chí: Thời báo kinh tế, Ngân hàng, Đầu tư, Thị trường tài chính tiền tệ các số năm 1999 và năm 2000.
3-/ Các tài liệu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0011.doc