MỤC LỤC
KẾT LUẬN 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1:
Kết quả sản xuất trong 25 năm
45
Bảng 2.2:
Vốn của Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng
46
Bảng 2.3:
Vốn chủ sở hữu của Công ty
47
Bảng 2.4:
Vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác
48
Bảng 2.5:
Kết quả huy động vốn tín dụng thương mạiguNHH mo
50
Bảng 2.6:
Hệ số nợ dài
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1503 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tại Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hạn trên vốn chủ sở hữu
51
Bảng 2.7:
Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trên tổng vốn
52
Bảng 2.8:
Hệ số nợ phải trả trên tổng vốn
53
Bảng 2.9:
Kết quả huy dộng vốn chủ sở hữu
56
Sơ đồ 2.1:
Quy trình công nghệ sản xuất của Công ty
36
Sơ đồ 2.2:
Quy trình công nghệ sửa chữa tàu của Công ty
37
Sơ đồ 2.3:
Tổ chức điều hành sản xuất của Công ty
38
Sơ đồ 2.4:
Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty
41
Sơ đồ 2.5:
Mô hình đầu tư vốn của Công ty
43
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng trực thuộc Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam, tiền thân là Nhà máy sửa chữa tàu biển Phà Rừng – công trình hợp tác giữa hai chính phủ Phần Lan và Việt Nam.
Là đơn vị được tổ chức hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - công ty con, để thúc đẩy và hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính của mình là đóng mới tàu thuyền tải trọng tới 100.000 DWT, Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng (Công ty mẹ) đã tiến hành đầu tư vốn vào các công ty con (đa hình thức, đa sở hữu) hoạt động trong các ngành phụ trợ cho đóng tàu.
Thực hiện đề án phát triển ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010 và định hướng đến năm 2015 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam tổ chức sắp xếp lại các đơn vị thành viên trong đó chuyển giao một số công ty trực thuộc về cho Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng quản lý và hình thành Tổng Công ty công nghiệp tàu thuỷ Phà Rừng.
Thực tế cho thấy, cơ chế quản lý vốn hiện nay của Công ty chưa hoàn thiện, còn nhiều vấn đề bất cập. Trước yêu cầu đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý vốn là một đòi hỏi cấp bách của Công ty. Trong bối cảnh đó, đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tại Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng” được lựa chọn nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp.
- Đánh giá cơ chế quản lý vốn hiện nay tại Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tại Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu: Cơ chế quản lý vốn của Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng trong thời gian từ năm 2005 đến năm 2008.
Vấn đề được nghiên cứu trên giác độ doanh nghiệp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, trong quá trình thực hiện luận văn, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, điều tra.
5. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá vấn đề lý luận cơ bản về cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp, phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp.
- Đánh giá thực trạng cơ chế quản lý vốn tại Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng. Trên cơ sở đó, Tác giả phân tích, luận giải về nguyên nhân dẫn đến cơ chế quản lý vốn của Công ty chưa hoàn thiện.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tại công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng.
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các bảng biểu, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận văn chia thành 3 chương được tóm tắt như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng cơ chế quản lý vốn tại Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tại Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ VỐN
TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về vốn của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và phân loại doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tế bào, bộ phận cấu thành của nền kinh tế, có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ phận khác. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, cách thức tổ chức của doanh cũng phát triển theo. Để nghiên cứu về cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp trước tiên cần có cách nhìn toàn diện, sâu sắc về doanh nghiệp.
Theo luật doanh nghiệp Việt Nam ban hành năm 1999 thì doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định. Được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Theo Luật doanh nghiệp Việt Nam ban hành năm 2005 trên cơ sở thống nhất giữa luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 và luật doanh nghiệp 1999, các quy định về tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp tại Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 thì doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hoặc không, thực hiện các hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm đạt được những mục tiêu đã định.
Luật doanh nghiệp 2005 ra đời đánh dấu một sự thay đổi lớn trong pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, hình thành một khung pháp lý chung, bình đẳng áp dụng cho mọi doanh nghiệp.
Các loại hình tổ chức của doanh nghiệp: Nghiên cứu các loại hình tổ chức của doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu về cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp đặc biệt trong nội dung huy động vốn. Theo Luật doanh nghiệp được ban hành năm 2005, doanh nghiệp được tổ chức dưới các loại hình sau:
Công ty TNHH hai thành viên trở lên: Là doanh nghiệp trong đó thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá năm mươi. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp. Công ty TNHH không được quyền phát hành cổ phần.
Phần vốn góp của tất cả các thành viên dưới bất kỳ hình thức nào đều phải đóng đủ ngay khi thành lập công ty. Phần vốn góp của các thành viên không được thể hiện dưới hình thức chứng khoán (như cổ phiếu trong công ty cổ phần) và được ghi rõ trong điều lệ của công ty. Việc chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người ngoài công ty bị hạn chế gắt gao. Việc chuyển nhượng vốn chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của nhóm thành viên đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty.
Cơ cấu quản lý thường gọn nhẹ phụ thuộc vào số lượng thành viên. Nếu công ty có từ 11 thành viên trở xuống cơ cấu tổ chức quản trị gồm có hội đồng thành viên là cơ quan quyết định cao nhất, Chủ tịch công ty và giám đốc (hoặc Tổng giám đốc) điều hành.
Công ty TNHH một thành viên: là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu, chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Công ty TNHH một thành viên không được quyền phát hành cổ phần.
Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác. Đối với loại công ty này thì không thành lập hội đồng thành viên. Tùy thuộc quy mô, ngành, nghề kinh doanh cơ cấu tổ chức quản lý bao gồm: Hội đồng quản trị và giám đốc (Tổng giám đốc) hoặc Chủ tịch công ty và Giám đốc (Tổng giám đốc), trong đó Chủ tịch là chủ sở hữu công ty và là người đại diện theo pháp luật của công ty, có toàn quyền quyết định việc quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của công ty.
Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân không được quyền phát hành bất cứ loại chứng khoán nào.
Thông thường, chủ doanh nghiệp là giám đốc trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng cũng có trường hợp vì lý do cần thiết, chủ doanh nghiệp không trực tiếp điều hành hoạt động kinh doanh mà thuê người khác làm giám đốc. Nhưng dù trực tiếp hay gián tiếp điều hành hoạt động sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động đó. Do tính chất một chủ doanh nghiệp tư nhân quản lý và chịu trách nhiệm không có sự phân chia rủi ro với ai.
Đặc điểm này cho phép phân biệt doanh nghiệp tư nhân với công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn là những loại hình doanh nghiệp do nhiều người cùng chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của công ty tương ứng với phần góp vốn của mình.
Doanh nghiệp tư nhân phải có mức vốn không thấp hơn mức vốn đăng ký. Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu tránh nhiệm vô hạn về các khoản nợ trong kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là điểm khác nhau giữa doanh nghiệp tư nhân với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần là những cơ sở kinh doanh mà những người chủ chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn góp của mình.
Công ty cổ phần: Là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức hoặc cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế tối đa. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
Công ty cổ phần được phát hành cổ phiếu và trái phiếu ra ngoài công chúng, do đó khả năng tăng vốn của công ty rất lớn. Khả năng chuyển nhượng vốn của các cổ đông dễ dàng. Họ có thể bán cổ phiếu của mình một cách tự do.
Công ty cổ phần là loại công ty thông thường có rất nhiều thành viên và việc tổ chức quản lý rất phức tạp, do đó phải có một cơ chế quản lý chặt chẽ. Việc quản lý điều hành công ty cổ phần được đặt dưới quyền của 3 cơ quan: - Đại hội đồng cổ đông; - Hội đồng quản trị; - Ban kiểm soát .
Công ty hợp danh: Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có các thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh không được phép phát hành bất cứ loại chứng khoán nào.
Hội đồng thành viên gồm tất cả các thành viên hợp danh: là cơ quan quyết định cao nhất của công ty. Trong quá trình hoạt động, các thành viên hợp danh phân công nhau đảm nhận các chức trách quản trị và kiểm soát hoạt động của công ty, trong đó cử một người làm giám đốc công ty. Thành viên góp vốn của công ty có quyền tham gia thảo luận và biểu quyết những vấn đề quan trọng trong điều lệ công ty.
Phân loại doanh nghiệp
Có nhiều cách phân loại doanh nghiệp tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là cơ chế quản lý vốn do đó Tác giả phân loại doanh nghiệp dựa trên sự khác biệt về tính chất sở hữu của các doanh nghiệp. Việc phân loại dựa trên tính chất sở hữu có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu về cơ cấu vốn và điều hoà vốn nội bộ. Các cách phân loại khác sẽ bổ trợ cho những nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý vốn.
Theo tính chất sở hữu thì doanh nghiệp được phân loại thành doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp nhà nước: Theo luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 thì doanh nghiệp nhà nước là các tổ chức kinh tế do Nhà nước nắm giữ vốn điều lệ hay có cổ phần, vốn góp chi phối hay được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn.
Theo luật này, nếu doanh nghiệp nắm giữ cổ phần chi phối, từ 51% cổ phần trở lên thì doanh nghiệp đó là doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên Luật cũng quy định: doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước, gọi là công ty nhà nước. Doanh nghiệp có 100 % vốn nhà nước được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn thì hoạt động theo luật doanh nghiệp. Công ty cổ phần hay trách nhiệm hữu hạn có cổ phần chi phối của Nhà nước thì tuỳ theo loại hình đối tác mà hoạt động theo Luật doanh nghiệp hay Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Có thể thấy chỉ có công ty nhà nước mới hoạt động theo Luật này, còn các loại hình doanh nghiệp khác hoạt động theo Luật doanh nghiệp, Nhà nước chỉ tham gia với tư cách là một chủ sở hữu của doanh nghiệp, chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp của mình.
Theo Luật doanh nghiệp ban hành năm 2005, doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Trong đó phần vớn góp của sở hữu Nhà nước là phần vốn góp từ ngân sách Nhà nước và nguồn vốn khác của Nhà nước, do một cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức kinh tế làm đại diện chủ sở hữu. Như vây, những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp nhà nước là: Doanh nghiệp nhà nước là một pháp nhân mà Nhà nước nắm 51% vốn chủ sở hữu trở lên. Doanh nghiệp nhà nước có thẩm quyền kinh tế bình đẳng với các doanh nghiệp khác và hạch toán độc lập trong phạm vi vốn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, thực hiện hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động kinh ích.
Doanh nghiệp tư nhân: Doanh nghiệp tư nhân, được hiểu trong Luận văn này là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, hay nói cách khác đó là các doanh nghiệp không thuộc sở hữu Nhà nước.
Như vậy, các doanh nghiệp tư nhân hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên vốn tự có hoặc vốn vay và được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau: hộ kinh doanh các thể, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh.
Có thể thấy sự phân định doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân dựa phần vốn do Nhà nước nắm giữ. Nếu công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn mà nhà nước góp vốn từ 51% trở lên thì đó là doanh nghiệp nhà nước. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do doanh nghiệp nhà nước góp vốn thì đó vẫn là doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, tuỳ thuộc vào tỷ trọng vốn của nhà nước trong doanh nghiệp thì doanh nghiệp được gọi là doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân.
Theo lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế quốc dân: Việc nghiên cứu doanh nghiệp theo lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế quốc dân có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý vốn đặc biệt là rủi ro trong kinh doanh do doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, chi phí vốn doanh nghiệp phải bỏ ra để huy động vốn.
Theo tiêu thức này, doanh nghiệp được phân loại thành:
Doanh nghiệp nông nghiệp - thuỷ sản: là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, thuỷ sản; hướng vào việc sản xuất ra những sản phẩm là cây, con. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên.
Doanh nghiệp công nghiệp: là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, nhằm tạo ra những sản phẩm bằng cách sử dụng máy móc, thiết bị để chế biến nguyên vật liệu thành thành phẩm. Trong công nghiệp có thể chia ra: Công nghiệp chế tạo, công nghiệp xây dựng, công nghiệp điện tử. . .
Doanh nghiệp thương mại: là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, hướng vào việc khai thác các dịch vụ trong khâu phân phối hàng hoá cho người tiêu dùng tức là thực hiện những dịch vụ mua vào và bán ra để kiếm lợi. Doanh nghiệp thương mại có thể tổ chức dưới hình thức bán buôn, bản lẻ và hoạt động của nó có thể hướng vào xuất nhập khẩu.
Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, lĩnh vực dịch vụ càng được phát triển đa dạng, những doanh nghiệp trong ngành dịch vụ phát triển không ngừng nhanh chóng và đa dạng: ngân hàng, bảo hiểm, tài chính, bưu chính viễn thông . . .
Theo quy mô của doanh nghiệp, có thể phân loại doanh nghiệp thành:
Doanh nghiệp quy mô lớn
Doanh nghiệp quy mô vừa
Doanh nghiệp quy mô nhỏ
Để phân biệt các doanh nghiệp theo quy mô như trên, dựa vào các tiêu chuẩn như: Tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp; Số lượng lao động trong doanh nghiệp; Doanh thu của doanh nghiệp; lợi nhuận hàng năm. Trong đó tiêu chuẩn tổng số vốn và tổng số lao động được trú trọng nhiều hơn, còn doanh thu và lợi nhuận được dùng kết hợp để phân loại.
Việc nghiên cứu doanh nghiệp theo quy mô doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu cách thức huy động vốn - một nội dung trong cơ chế quản lý vốn, đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi mà Nhà nước đang có những chính sách kinh tế xã hội thiết thực để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ vượt qua thời kỳ khó khăn của nền kinh tế.
1.1.2. Vốn và vai trò của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Vốn là một trong những điều kiện không thể thiếu để một doanh nghiệp có thể được thành lập và tiến hành hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn được dùng để để mua sắm các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh như sức lao động, đối tượng lao động, tư liệu lao động. Do sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động mà hàng hoá dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trên thị trường. Cuối cùng các hình thái tiền tệ khác nhau đó được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, số tiền thu được từ việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ phải đảm bảo bù đắp đầy đủ các chi phí đã bỏ ra và có lãi. Như vậy, số tiền ứng ra ban đầu không những chỉ được bảo tồn mà nó còn được tăng thêm do hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại. Toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình tiếp theo cho sản xuất kinh doanh được gọi là vốn. Vốn được biểu hiện bằng tiền lẫn cả bằng giá trị vật tư tài sản, hàng hoá của doanh nghiệp. Từ đó có thể hiểu, vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Phân loại vốn: Có nhiều cách khác nhau để phân loại vốn tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Để phục vụ cho công tác nghiên cứu về các phương thức huy động vốn và cơ cấu vốn, Tác giả phân loại vốn theo tính chất kinh tế và theo thời gian tài trợ.
Theo tính chất kinh tế, vốn của doanh nghiệp bao gồm:
Vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu là số vốn của các chủ sở hữu, các nhà đầu tư góp vốn và doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán.
Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp mà vốn này được tạo lập theo các cơ chế khác nhau. Tuy nhiên, với mọi loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận chủ yếu:
Vốn góp ban đầu và đóng góp bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư: Đây là vốn chủ sở hữu chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Về thực chất, nguồn này do các chủ đầu tư đóng góp tại thời điểm thành lập doanh nghiệp và đóng góp bổ sung thêm trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Vốn bổ sung trong từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Thực chất nguồn này là số lợi nhuận không chia, doanh nghiệp giữ lại để bổ sung vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu khác: Đây là các khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản, do chênh lệch tỷ giá ngoại tệ, do các đơn vị phụ thuộc nộp kinh phí quản lý.
Nợ phải trả: Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các nguồn: vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, tín dụng thương mại, phát hành trái phiếu và các nguồn chiếm dụng khác.
Theo thời gian tài trợ, vốn của doanh nghiệp bao gồm:
Vốn ngắn hạn: bao gồm vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, tín dụng thương mại, các khoản chiếm dụng về tiền lương, tiền thuế, thuê ngắn hạn tài sản.
Vốn dài hạn: bao gồm vốn chủ sở hữu, vay dài hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, phát hành trái phiếu, thuê dài hạn tài sản.
1.2. Cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp
Do vốn có đặc trưng và tầm quan trọng nêu trên nên cần phải có một cơ chế quản lý vốn để đảm bảo cho vốn được huy động, quản lý một cách có hiệu quả cao nhất.
Quản lý vốn là việc sử dụng các công cụ và biện pháp nhằm kiểm soát quá trình huy động vốn, thiết lập cơ cấu vốn mục tiêu và điều hoà vốn nội bộ giúp doanh nghiệp thực hiện được mục tiêu nhất định trong từng thời kỳ.
Cơ chế là hệ thống các cách thức, phương thức và công cụ qua đó người ta thực hiện quá trình hoạt động của mình.
Cơ chế quản lý vốn là một hệ thống các phương pháp, các hình thức và công cụ được sử dụng để kiểm soát quá trình huy động vốn, thiết lập cơ cấu vốn mục tiêu và điều hoà vốn nội bộ giúp doanh nghiệp thực hiện được mục tiêu nhất định trong từng thời kỳ.
Cơ chế quản lý vốn cần đạt được các mục tiêu sau:
Tạo điều kiện tài chính thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Huy động và quản lý có hiệu quả các nguồn vốn.
Đảm bảo an toàn về vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2. Nội dung cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp
Cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp gồm 3 nội dung: Huy động vốn; thiết lập cơ cấu vốn; điều hoà vốn nội bộ.
Huy động vốn
Để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, doanh nghiệp có thể huy động vốn chủ sở hữu hay nợ. Đặc điểm và phương thức huy động các loại vốn này sẽ là cơ sở để doanh nghiệp xây dựng cơ cấu vốn mục tiêu.
Huy động vốn chủ sở hữu
Đây là phương thức tài trợ vốn dài hạn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào loại hình doanh nghiệp của mình, các doanh nghiệp có thể huy động vốn chủ sở hữu bằng nhiều cách: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu.
Vốn góp ban đầu: Là một bộ phận quan trọng của vốn chủ sở hữu, do các thành viên sáng lập đóng góp, được huy động khi doanh nghiệp mới được thành lập. Khi nói đến vốn góp ban đầu, bao giờ cũng phải xem xét đến hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định đến tính chất và hình thức tạo vốn góp ban đầu.
Đối với doanh nghiệp nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của nhà nước. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước là nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp, theo luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp cần phải có một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Chẳng hạn, đối với công ty cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên số cổ phần mà họ nắm giữ. Trong các loại hình doanh nghiệp khác, các nguồn vốn cũng tương tự như trên; tức là vốn có thể do chủ đầu tư bỏ ra, do các bên tham gia các đối tác góp. . . Tỷ lệ và quy mô góp vốn của các bên tham gia công ty phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nha như luật pháp, đặc điểm ngành kinh tế - kỹ thuật, cơ cấu liên doanh.
Quy mô của số vốn góp ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, tuy nhiên, thông thường, số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của doanh nghiệp.
Lợi nhuận không chia: Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu hoạt động có hiệu quả, các doanh nghiệp sẽ thu được một khoản lợi nhuận nhất định. Một phần lợi nhuận các doanh nghiệp thường giữ lại để tái đầu tư, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đây là hình thức bổ sung vốn chủ sở hữu có nhiều ưu điểm, nó giúp cho doanh nghiệp giảm được chi phí, ít bị phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Nguồn vốn tài đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì việc tái đầu tư không chỉ phụ thuộc vào khả năng sinh lời của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến kích tái đầu tư của nhà nước. Tuy nhiên đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm để tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia cổ tức, các cổ đông không được nhận cổ tức nhưng bù lại họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty. Như vậy, giá trị ghi sổ của cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này, một mặt khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ trước mắt do cổ đông chỉ nhận được phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp, hoặc số lãi dòng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị giảm sút.
Khi giải quyết vấn đề chia cổ tức và tái đầu tư, chính sách phân phối cổ tức của công ty cổ phần phải lưu ý đến một số yếu tố liên quan như:
+ Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ.
+ Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước.
+ Sự xếp hạng của cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của công ty, tâm lý và đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó.
+ Hiệu quả của việc tái đầu tư.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, một nguồn tài chính rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp.
Phát hành cổ phiếu: Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu hoặc một số cổ phần của công ty đó. Huy động vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu là quá trình bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán sơ cấp để thu hút vốn đầu tư.
Phát hành cổ phiếu là một phương thức huy động vốn dài hạn, có những ưu điểm đối với doanh nghiệp:
Doanh nghiệp được chủ động trong đầu tư lâu dài, không bị áp lực về thời gian trả nợ.
Tạo ra năng lực tài chính, mang lại an toàn, uy tín trong kinh doanh.
Tạo ra khả năng để huy động các nguồn vốn khác.
Điều kiện để doanh nghiệp có thể phát hành được cổ phiếu: Việc huy động vốn bằng cổ phiếu chỉ được áp dụng cho các công ty cổ phần khi đáp ứng đủ các điều kiện quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán như:
+ Phải có mức vốn điều lệ tối thiểu theo quy định.
+ Phải có đủ số năm hoạt động kinh doanh liên tục và có lãi theo quy định.
+ Thành viên hội đồng quản trị và giám đốc phải có kinh nghiệm quản lý kinh doanh.
+ Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ phát hành cổ phiếu.
Cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành có nhiều loại khác nhau: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu thường: Là loại cổ phiếu không có thời hạn xác định, tồn tại trong suốt thời gian tồn tại của công ty. Thu nhập của cổ phiếu thường phụ thuộc vào lợi nhuận sau thuế sau khi đã trừ đi cổ tức của cổ phiếu ưu đãi. Sự chi trả cổ tức hàng năm phụ thuộc vào chính sách phân phối cổ tức được quy định trong điều lệ của công ty và được công bố bởi hội đồng quản trị. Cổ đông sở hữu cổ phiếu thường chỉ có quyền yêu cầu về tài sản sau cùng. Thậm chí trong trường hợp công ty phá sản hoặc giải thể, cổ đông sở hữu cổ phiếu thường không thể thực hiện được quyền đòi hỏi về tài sản trước người cho vay và cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu thường có thể có hoặc không có mệnh giá.
Cổ phiếu ưu đãi: cổ phiếu ưu đãi được xem là một loại chứng khoán lai ghép, do có nhiều đặc điểm giống với cổ phiếu thường và trái phiếu.
Huy động nợ
Vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác: có thể nói rằng vay vốn ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn.
Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất – kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
Vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác có những ưu điểm:
+ Làm tăng vốn kinh doanh, đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư.
+ Lãi suất đi vay được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh nên có sự chia sẻ về lợi ích giữa các nhà đầu tư và Nhà nước.
+ Các ngân hàng không chi phối trực tiếp việc điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Bên cạnh những ưu điểm, nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn (lãi suất).
Điều kiện tín dụng: Các doanh nghiệp muốn vay tại các ngân hàng thương mại cần đáp ứng được các yêu cầu đảm bảo an toàn tín dụng của ngân hàng. Doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần thiết mà ngân hàng yêu cầu. Trước tiên ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh giá các thông tin liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn, các đảm bảo tiền vay.
Sự kiểm soát của ngân hàng: một khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng, doanh nghiệp cũng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay. Nói chung, sự kiểm soát này không gây khó khăn cho doanh nghiệp, tuy nhiên, trong một số trường hợp, điều đó cũng làm cho doanh nghiệp có cảm giác bị kiểm soát.
Lãi suất vay vốn: lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất vay vốn phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp.
Các khoản vay ngân hàng của doanh nghiệp, về mặt thời hạn, bao gồm: vay dài hạn (thông thường từ 5 năm trở lên), vay trung hạn (từ 1 đến 5 năm), vay ngắn hạn (dưới 1 năm). Tiêu chuẩn và quan niệm về thời gian để phân loại trong thực tế không giống nhau giữa các nước, và có thể khác nhau giữa các ngân hàng thương mại.
Tín dụng thương mại: Các doanh nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay còn gọi là tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu hàng hoá, dịch vụ. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong một số doanh nghiệp, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả chiếm tới 20% tổng vốn, thậm chí 40% tổng nguồn vốn.
Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ vốn ngắn hạn và có những ưu điểm như: là phương thức tài trợ rẻ, dụng và linh hoạt trong kinh doanh; hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách bền lâu.
Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên cần nhận thấy tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ quá lớn.
Chi phí của việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất của khoản vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Kh._.i mua bán hàng hoá trả chậm, chi phí này có thể ẩn dưới hình thức thay đổi mức giá, tuỳ thuộc quan hệ và thoả thuận giữa các bên. Trong xu hướng hiện nay ở Việt Nam và trên thế giới, các hình thức tín dụng ngày càng được đa dạng hoá và linh hoạt hơn, với tính chất cạnh tranh hơn, do đó các doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp.
Phát hành trái phiếu: Trái phiếu là một tờ giấy mà với nó, nhà phát hành (người đi vay) cam kết hoàn trả cho trái chủ (người sở hữu trái phiếu - người cho vay) toàn bộ tiền gốc và lãi theo các điều khoản ghi trên trái phiếu. Như vậy, thực chất là với trái phiếu, trái chủ là người cho nhà phát hành vay và họ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của người vay. Nhà phát hành có nghĩa vụ phải thanh toán theo các cam kết nợ được xác định trong hợp đồng vay. Nếu một công ty không hoàn trả được lãi cho trái phiếu, người ta sẽ xem xét vấn đề phá sản đối với công ty.
Ưu điểm của hình thức huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu đối với doanh nghiệp:
+ Thứ nhất, phát hành trái phiếu đảm bảo cho doanh nghiệp được sử dụng một nguồn vốn ổn định và dài hạn, trong khi vay ngân hàng thường là ngắn hạn hơn. Mặc dù trong một số dự án đặc biệt, ngân hàng thương mại cũng có thể cho doanh nghiệp vay với thời hạn dài hơn, nhưng với các dự án lớn ngân hàng lại bị giới hạn đầu tư. Cụ thể, khi doanh nghiệp tài trợ vốn bằng phát hành trái phiếu không bị hạn chế về quy mô miễn là doanh nghiệp có phương án sử dụng số vốn huy động một cách hợp lý, có tính khả thi và có khả năng hoàn trả lãi và gốc cho những người đi vay. Trái lại, phương thức vay ngân hàng, số vốn tối đa doanh nghiệp được vay lại phụ thuộc vào vốn tự có của ngân hàng cho vay, nếu số vốn doanh nghiệp cần huy động quá lớn, việc cho vay phải được tiến hành qua phương thức đồng tài trợ phức tạp hơn nhiều. Mặt khác, doanh nghiệp phát hành trái phiếu còn có ưu điểm về thời hạn vay hơn các khoản vay ngân hàng, các doanh nghiệp hoàn toàn tự do trong việc xác định thời hạn vay. Nếu các doanh nghiệp chú tâm đến kênh huy động vốn này thì sẽ có lợi thế lớn cho các doanh nghiệp trong nước đủ sức cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài trong tương lai.
+ Thứ hai, trong trường hợp doanh nghiệp cần vốn nhưng ngại phát hành cổ phiếu rộng rãi vì sợ phát hành thêm cổ phiếu sẽ làm pha loãng quyền sở hữu trong doanh nghiệp, hoặc doanh nghiệp có dự án tốt, nhưng không muốn phát hành cổ phiếu, vì không muốn lợi nhuận của mình bị chia đều cho các nhà đầu tư khi phải trả cổ tức cao theo hiệu quả kinh doanh… thì phát hành trái phiếu là một giải pháp tối ưu. Vì thế, doanh nghiệp không sợ bị thao túng mà lợi tức chia sẻ cũng chỉ hạn chế trong phạm vi lãi suất trái phiếu khi phát hành. Ngoài ra, trái phiếu là công cụ huy động vốn có thời hạn nên trách nhiệm của doanh nghiệp đối với trái chủ sẽ kết thúc khi trái phiếu đáo hạn, trong khi doanh nghiệp phải có trách nhiệm đối với cổ đổng nắm giữ cổ phiếu trong suốt thời gian nó tồn tại.
+ Thứ ba, chi phí sử dụng vốn khi phát hành trái phiếu thấp hơn phát hành cổ phiếu, do đặc điểm của trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu. Việc đầu tư vào cổ phiếu có mức độ rủi ro cao hơn so với đầu tư vào trái phiếu, do đó mức bù rủi ro mà nhà đầu tư đòi hỏi đối với trái phiếu thấp hơn cổ phiếu. Công ty phát hành trái phiếu trả lãi cho trái chủ không phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của công ty, trong khi đó công ty chỉ trả cổ tức cho cổ đông khi kinh doanh có lãi. Hơn nữa, trong trường hợp công ty giải thể hoặc bị phá sản thì trái chủ được ưu tiên trả nợ trước rồi mới đến các cổ đông. Chính vì thế, nhà đầu tư luôn đánh giá mức độ rủi ro của trái phiếu thấp hơn cổ phiếu và tương ứng họ đưa ra mức bù rủi ro đối với trái phiếu thấp hơn đối với cổ phiếu.
Để tham gia thị trường trái phiếu với tư cách là nhà phát hành, các doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu về độ tin cậy đối với nhà đầu tư như quy mô hoạt động, hệ thống kế toán – kiểm toán, định mức tín nhiệm… Điều này đặc biệt quan trọng và không thể thiếu khi doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu ra công chúng một cách rộng rãi và niêm yết trái phiếu của mình trên sở giao dịch chứng khoán. Trái phiếu của doanh nghiệp phát hành càng chất lượng thì càng thu hút được nhiều nhà đầu tư và ngược lại. Chính những yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn củng cố bộ máy tổ chức và quản lý, nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh, nâng cao mức độ tín nhiệm đối với những người đầu tư.
Trên thị trường tài chính hiện nay, có nhiều loại trái phiếu được lưu hành:
Trái phiếu có lãi suất cố định: Loại trái phiếu này thường được sử dụng nhiều nhất, phổ biến nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Như vậy cả doanh nghiệp (người đi vay) và người giữ trái phiếu (người cho vay) đều biết rõ mức lãi suất của khoản nợ trong suốt thời gian tồn tại của trái phiếu. Việc thanh toán lãi trái phiếu cũng thường được quy định rõ, ví dụ trả 1 lầm trong năm vào ngày 31/12.
Trái phiếu có lãi suất thay đổi: Tuy gọi là lãi suất thay đổi nhưng thực ra loại này có lãi suất phụ thuộc vào một số lãi suất khác, chẳng hạn lãi suất cơ bản.
Doanh nghiệp thường phát hành loại trái phiếu này trong điều kiện nền kinh tế có mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định. Do các biến động của lạm phát kéo theo dự giao động của lãi suất thực, các nhà đầu tư mong muốn được hưởng một lãi suất thoả đáng khi so sánh với tình hình thị trường. vì vậy, một số người ưu thích loại trái phiếu này, tuy nhiên nó cũng có một vài nhược điểm: Doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều này gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính. Việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất.
Trái phiếu có thể thu hồi: Một số doanh nghiệp lựa chọn cách phát hành những trái phiếu có thể thu hồi, tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Trái phiếu như vậy phải được quy định ngay khi phát hành để người mua được biết. Doanh nghiệp phải quy định rõ về thời hạn và giá cả khi doanh nghiệp mua lại trái phiếu. Thông thường người ta quy định thời hạn tối thiểu trái phiếu không bị thu hồi.
Loại trái phiếu có thể thu hồi có những ưu điểm sau: Có thể được sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng. Khi không cần thiết, doanh nghiệp có thể mua lại các trái phiếu, tức là giảm số vốn vay. Doanh nghiệp có thể thay nguồn tài chính do phát hành trái phiếu loại này bằng một nguồn tài chính khác thông qua mua lại các trái phiếu đó. Tuy nhiên không có những hấp dẫn nào đó thì trái phiếu này không được ưa thích.
Trái phiếu chuyển đổi: là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành một số lượng cổ phiếu thường nhất định. Nếu thị giá của cổ phiếu tăng lên thì người giữ trái phiếu có cơ may nhận được lợi nhuận cao.
Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành là lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và tình hình trên thị trường tài chính.
Việc lựa chọn trái phiếu phù hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Tính hấp dẫn của trái phiếu phụ thuộc vào những yếu tố sau:
Lãi suất của trái phiếu: người đầu tư muốn hưởng mức lãi suất cao nhưng doanh nghiệp phát hành phải cân nhắc lãi suất có thể chấp nhận được đối với trái phiếu của họ, chứ không thể trả thật cao cho nhà đầu tư. Lãi suất trái phiếu được đặt tron tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn, đặc biệt là phải tính đến sự cạnh tranh với trái phiếu của các công ty khác và trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên, nếu đưa thêm các yếu tố khuyến khích vào trái phiếu thì có thể không cần nâng cao mức lãi suất.
Kỳ hạn của trái phiếu: đây là yếu tố quan trong không chỉ đối với công ty phát hành mà cả đối với nhà đầu tư. Khi phát hành, doanh nghiệp cần phải căn cứ vào tình hình thị trường vốn và tâm lý dân cư mới có thể xác định kỳ hạn hợp lý.
Uy tín của doanh nghiệp: Không phải doanh nghiệp nào cũng có thể thu hút được công chúng mua trái phiếu vì nhà đầu tư phải đánh giá uy tín của doanh nghiệp thì mới quyết định mua hay không mua. Các doanh nghiệp có uy tín và vững mạnh thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động vốn.
Thuê hoạt động: Đây là hình thức thuê ngắn hạn tài sản. Người cho thuê chịu mọi chi phí liên quan đến tài sản cho thuê như bảo dưỡng, bảo hiểm, thuế . . và được hưởng những quyền lợi do sở hữu tài sản mang lại như ưu đãi thuế do chính sách của nhà nước. Người thuê được sử dụng tài sản thuê và trả tiền thuê hàng kỳ theo thoả thuận.
Thuê hoạt động giúp cho doanh nghiệp có thể đổi mới nhanh chóng máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ mà không cần phải huy động nguồn vốn lớn, thủ tục thuê đơn giản và có thể thương lượng để trả tiền thuê hàng kỳ phù hợp với khả năng tài chính của doanh nghiệp. Bên đi thuê không phải chịu thiệt hại do sự lạc hậu về kỹ thuật của tài sản gây ra vì có quyền đơn phương huỷ hợp đồng thuê trước thời hạn.
Thuê tài chính: Đây là phương pháp tín dụng trung và dài hạn theo đó người cho thuê cam kết sẽ đầu tư mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Người thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê theo quy định và không được huỷ bỏ hợp đồng trước hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền chuyển nhượng quyền sở hữu, mua lại hoặc thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê.
Ưu thế lớn nhất của thuê tài chính so với các hình thức tín dụng thông thường là nó giúp cho các doanh nghiệp có thể có được nguồn vốn vay lớn tương ứng với giá trị tài sản đi thuê mà không phải thế chấp.
Thuê tài chính giúp cho doanh nghiệp có thêm nguồn vốn trung và dài hạn để mở rộng sản xuất kinh doanh mà không phải huy động ngay một lượng vốn lớn để mua tài sản. Tuy nhiên, chi phí sử dụng vốn trong hình thức thuê tài chính tương đối lớn hơn các hình thức tín dụng khác.
Thiết lập cơ cấu vốn mục tiêu
Một doanh nghiệp có thể sử dụng một hay nhiều nguồn vốn khác nhau để tài trợ cho hoạt động của mình, có thể là vốn chủ sở hữu hay nợ, điều đó tuỷ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có chủ quan và khách quan.
Khái niệm cơ cấu vốn
Cơ cấu vốn của doanh nghiệp là mối tương quan tỷ lệ giữa nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu.
Để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, Doanh nghiệp có thể sử dụng vốn huy động từ một hoặc nhiều nguồn khác nhau, có thể dùng vốn dài hạn, vốn ngắn hạn; dùng nợ hay vốn chủ sở hữu.
Nợ ngắn hạn chỉ mang tính chất tạm thời, không ảnh hưởng đến sự chia sẻ quyền quản lý hay sự giám sát hoạt động của doanh nghiệp. Các khoản nợ ngắn hạn hầu như chỉ được dùng để đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp, không bị tác động nhiều bởi các nhân tố bên trong hay bên ngoài doanh nghiệp. Do đó, khi thiết lập cơ cấu vốn, người ta không xem xét đến vốn ngắn hạn.
Đặc trưng cơ bản của cơ cấu vốn
Được cấu thành bởi vốn dài hạn, có tính chất ổn định, thường xuyên trong doanh nghiệp.
Đây là số vốn được dùng để tài trợ cho các quyết định đầu tư dài hạn của doanh nghiệp. Việc lựa chọn một cơ cấu hợp lý có tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Không có một cơ cấu vốn tối ưu cho mọi doanh nghiệp, cơ cấu vốn thay đổi theo mọi chu kỳ sản xuất kinh doanh do sự tác động của nhiều yếu tố trong và ngoài doanh nghiệp. Do đó khi nghiên cứu cơ cấu vốn phải đặt trong trạng thái động, không thể đặt trong trạng thái tĩnh.
Thiết lập cơ cấu vốn mục tiêu
Doanh nghiệp có thể căn cứ vào các nhân tố tác động trong và ngoài doanh nghiệp để xây dựng cho mình một cơ cấu vốn tối ưu. Một cơ cấu vốn được coi là tối ưu khi mà chi phí vốn là thấp nhất, đồng thời khi đó, giá trị thị trường của cổ phiếu của doanh nghiệp là cao nhất.
Như vậy có hai căn cứ để xác định cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp, đó là chi phí vốn và giá thị trường của cổ phiếu. Tuy nhiên, giá thị trường của cổ phiếu là nhân tố khách quan không chỉ do cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp quyết định. Do vậy, xác định cơ cấu vốn tối ưu dựa trên chi phí vốn, chi phí vốn thấp nhất sẽ đạt được cơ cấu vốn tối ưu. Tuy nhiên, không thể đạt được cơ cấu vốn tối ưu mà chỉ có thể tiến gần đến điểm tối ưu đó.
Có thể thấy việc xác định cơ cấu vốn mục tiêu là một nội dung quan trọng trong cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp, cùng với việc huy động vốn với quy mô tối đa, điều hoà vốn nội bộ hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp đầu tư, mở rộng sản xuất và sử dụng vốn có hiệu quả.
Khi thiết lập cơ cấu vốn mục tiêu, doanh nghiệp cần quan tâm tới
Sự ảnh hưởng của doanh thu và lợi nhuận: Có ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô của vốn huy động. Khi doanh thu ổn định sẽ có nguồn để lập quỹ trả nợ đến hạn, khi kết quả kinh doanh có lãi sẽ có nguồn trả nợ lãi vay. Trong trường hợp tỷ trọng của vốn chủ sở hữu trong tổng số vốn sẽ cao và ngược lại.
Rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính: trong kinh doanh, các doanh nghiệp thường thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi ích của mình trên cơ sở mức độ rủi ro cho phép. Có hai loại rủi ro trong kinh doanh mà các doanh nghiệp cần phải xem xét là rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.
Rủi ro kinh doanh xuất phát từ việc lựa chọn lĩnh vực kinh doanh và các nhân tố tiềm ẩn trong ngành nghề như tỷ lệ tăng trưởng của ngành, thị phần, khả năng cạnh tranh.
Rủi ro tài chính phụ thuộc vào chính sách tài chính của doanh nghiệp. Nếu các nhà quản lý doanh nghiệp quyết định tăng tỷ lệ vốn nợ trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp nhằm mưu cầu một mức thu nhập cao hơn, song điều đó cũng làm tăng rủi ro tài chính, nhất là trong điều kiện kinh tế xã hội không ổn định.
Đặc điểm kinh tế kỹ thuật ngành: Những doanh nghiệp nào có chu kỳ sản xuất dài, vòng quay của vốn chậm thì cơ cấu vốn sẽ nghiêng về vốn chủ sở hữu. Ngược lại những ngành có vòng quay của vốn nhanh, nhu cầu sản phẩm tương đối ổn định thì vốn được tài trợ từ các khoản nợ sẽ chiếm tỷ trọng lớn.
Doanh lợi vốn và lãi suất huy động vốn: Khi doanh lợi vốn lớn hơn lãi xuất vốn vay sẽ là cơ hội tốt nhất gia tăng lợi nhuận doanh nghiệp, do đó khi có nhu cầu tăng vốn người ta thường lựa chọn hình thức tài trợ từ vốn vay, từ thị trường vốn. Ngược lại khi doanh lợi nhỏ hơn lãi xuất vay thì cấu trúc vốn lại nghiêng về vốn chủ sở hữu.
Mức độ chấp nhận rủi ro của người lãnh đạo: Trong kinh doanh phải chấp nhận mạo hiểm, nghĩa là phải chấp nhận rủi ro, nhưng điều đó lại đồng nghĩa với cơ hội gia tăng lợi nhuận. Tăng tỷ trọng của vốn vay nợ sẽ tăng mức độ mạo hiểm, bởi lẽ chỉ cần một sự thay đổi nhỏ về doanh thu và lợi nhuận theo chiều hướng giảm sút sẽ làm cho cán cân thanh toán mất thăng bằng, nguy cơ phá sản cao.
Điều hoà vốn nội bộ
Điều hoà vốn là một nội dung quan trọng của cơ chế quản lý vốn, đặc biệt là với các doanh nghiệp thuộc các tập đoàn kinh tế hiện nay. Là đơn vị thành viên của một tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp sẽ được hưởng các lợi ích từ cơ chế điều hoà vốn trong nội bộ tập đoàn: doanh nghiệp có được những thuận lợi trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các đơn vị thành viên khác của tập đoàn để đầu tư vào các dự án, lĩnh vực hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Việc điều hoà vốn nội bộ của các tập đoàn kinh tế thường được thực hiện thông qua Công ty tài chính, đây là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện việc huy động các nguồn vốn trong và ngoài tập đoàn để tài trợ cho các dự án sản xuất kinh doanh của tập đoàn.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp
Cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, bao gồm những nhân tố chủ quan và khách quan.
1.3.1. Nhân tố chủ quan
Các yếu tố quản lý: nhận thức, năng lực, sự mạo hiểm của nhà quản lý doanh nghiệp.
Năng lực quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp. Để có thể nghiên cứu, xây dựng được một cơ chế quản lý vốn tối ưu đòi hỏi nhà lãnh đạo doanh nghiệp phải am hiểu về các nhân tố tác động tới cơ chế quản lý vốn, hơn thế nữa nhà lãnh đạo phải có khả năng dự báo trước những thay đổi của các nhân tố này.
Sự bảo thủ hay chấp nhận mạo hiểm của nhà lãnh đạo cũng ảnh hưởng đến việc quản lý vốn của doanh nghiệp khi phải cân nhắc giữa vốn chủ sở hữu và nợ. Nếu nhà lãnh đạo doanh nghiệp mạo hiểm, dám chấp nhận rủi ro thì sẽ ưa thích sử dụng nợ và ngược lại sẽ sử dụng vốn chủ sở hữu nhiều hơn.
Để hỗ trợ cho lãnh đạo doanh nghiệp trong việc xây dựng cơ chế quản lý vốn, cần phải có một hệ thống phần mềm với các công cụ toán học để xây dựng cơ cấu vốn tối ưu do đó đòi hỏi nhà lãnh đạo phải am hiểu về chúng.
1.3.2. Nhân tố khách quan
Chính sách kinh tế - xã hội: Nhà nước với vai trò quản lý nhà nước về kinh tế, sẽ tác động tới hoạt động của các doanh nghiệp thông qua các chính sách kinh tế xã hội. Nhà nước giữ vai trò là người hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế xã hội, tạo lập hành lang pháp lý cho sự hoạt động của các doanh nghiệp và hướng hoạt động của các doanh nghiệp theo kế hoạch vĩ mô của Nhà nước. Do đó, khi xây dựng cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp cần nghiên cứu, đánh giá kỹ các chính sách kinh tế xã hội của nhà nước trong đó nổi bật là một số chính sách: quy hoạch phát triển ngành, chính sách thuế, chính sách lãi suất . .
Sự phát triển của thị trường tài chính
Sự phát triển của thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán quy định việc lựa chọn các kênh tạo lập vốn ban đầu, huy động vốn đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh; quy định mức độ, phạm vi sử dụng các công cụ huy động vốn trong nền kinh tế thị trường cũng như khả năng lựa chọn để đầu tư vốn vào đâu, lĩnh vực nào. . . của các doanh nghiệp.
Ở các nước đang phát triển, các doanh nghiệp chủ yếu huy động vốn bằng cách vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Các hình thức thuê tài chính hay huy động vốn qua thị thị trường chứng khoán còn ít được sử dụng do các thị trường này mới bước đầu hình thành.
Trái lại, ở các nước phát triển, hình thức thuê tài chính hay mua bán cổ phiếu trên thị trường tài chính được các doanh nghiệp sử dụng mạnh mẽ, phần lớn vốn được lưu chuyển trên thị trường chứng khoán.
Ngoài các nhân tố kể trên, các nhân tố khác cũng tác động tới cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp như: loại hình doanh nghiệp, cơ chế quản lý tài sản của doanh nghiệp, cơ chế quản lý doanh thu – chi phí - lợi nhuận của doanh nghiệp, . . . Chính vì vậy, khi xây dựng cơ chế quản lý vốn cần phải tính đến cả những yếu tố đó.
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VỐN TẠI CÔNG TY TNHH
MỘT THÀNH VIÊN ĐÓNG TÀU PHÀ RỪNG
2.1. Khái quát về Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đóng tàu Phà Rừng (gọi tắt là Công ty Đóng tàu Phà Rừng) trực thuộc Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam.
Tiền thân, Công ty Đóng tàu Phà Rừng là Nhà máy Sửa chữa tàu biển Phà Rừng. Đây là công trình hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Cộng hoà Phần Lan, được xây dựng từ 1979 và đi vào vận hành từ năm 1984. Ban đầu Công ty được thiết kế để sửa chữa các loại tàu biển trọng tải đến 15.000 tấn.
Kể từ khi thành lập Nhà máy đến nay, quá trình hình thành và phát triển của Công ty đóng tàu Phà Rừng được chia làm 4 giai đoạn chính sau:
Giai đoạn xây dựng
Ngày 14/7/1977: Hiệp định về việc viện trợ xây dựng Nhà máy Sửa chữa tàu biển Phà Rừng giữa 2 chính phủ Cộng hoà Phần Lan và Việt Nam được ký kết tại Hà Nội.
Tháng 4/1979: Khởi công xây dựng Nhà máy Sửa chữa tàu biển Phà Rừng tại thị trấn Minh Đức, Huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng.
Ngày 5/4/1983: Bộ Giao thông vận tải quyết định định thành lập Nhà máy Sửa chữa tàu biển Phà Rừng.
Ngày 25/3/1984: Khánh thành giai đoạn I Nhà máy SCTB Phà Rừng.
Giai đoạn từ năm 1984 đến năm 1989
Đây là thời kỳ sản xuất trong cơ chế bao cấp. Công ty đã tiến hành sửa chữa các loại tàu trong đó chủ yếu là tàu của khách hàng trong nước. Tỷ lệ tàu nước ngoài sửa chữa tại Công ty chưa nhiều và chủ yếu là các tàu của các nước trong khối xã hội chủ nghĩa. Ở giai đoạn này, các chuyên gia Phần Lan giữ vai trò cố vấn và cung cấp phụ tùng thay thế cho các loại thiết bị. Các chuyên gia Phần Lan có mặt tại Phà Rừng đến tháng 4 năm 1991.
Có thể xem giai đoạn này là giai đoạn chuyển giao, đào tạo, hướng dẫn vận hành khai thác nhà máy với sự giúp đỡ, cố vấn của các chuyên gia Phần Lan. Vào thời điểm năm 1984, Phà Rừng là nhà máy có quy mô lớn nhất và hiện đại nhất Việt Nam. Ụ khô ở đây có đủ điều kiện để sửa chữa tàu biển đến 15.000 tấn. Với dây chuyền thiết bị hiện đại, đồng bộ, mô hình tổ chức sản xuất tiên tiến của Bắc Âu; Phà Rừng là nhà máy duy nhất của Việt Nam có thể sửa chữa các loại tàu đa trọng tải và đa chức năng của Việt Nam mà trước kia phải đưa đi sửa ở nước ngoài. Phà Rừng là địa chỉ duy nhất về sửa chữa tàu biển của Việt Nam được tổ chức Hàng hải quốc tế công nhận.
Trong giai đoạn này, Phà Rừng đã sửa chữa được 153 tàu biển, trong đó có 37 tàu nước ngoài. Mặc dù công tác chỉ đạo sản xuất còn nặng về kế hoạch tập trung bao cấp, nhưng trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1984-1988, doanh thu, nộp ngân sách và lãi của Phà Rừng đã vượt hơn 30 % dự kiến.
Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 1995
Đây là thời kỳ nền kinh tế Việt Nam đổi mới theo cơ chế thị trường, Nhà máy do đội ngũ cán bộ, công nhân Việt Nam hoàn toàn quản lý, khai thác, vận hành. Giai đoạn này, Công ty đã không ngừng đổi mới công nghệ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các chủ tàu, trở thành một địa chỉ đáng tin cậy của các chủ tàu trong và ngoài nước. Nhiều chủ tàu của các nước trước đây chưa biết tới Phà Rừng thì nay cũng tìm đến. Phà Rừng đã có bước nhảy vọt trong sửa chữa tàu đặc biệt là tàu nước ngoài. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai này doanh thu tăng tới 73 lần so với 5 năm trước. Lợi nhuận và trích nộp ngân sách nhà nước cũng tăng lên hàng chục lần.
Ngoài nhiệm vụ sửa chữa trong giai đoạn này, Phà Rừng cũng đã mở rộng năng lực phá dỡ tàu cũ lên một bước nhằm tận dụng tối đa sức lao động còn dư, góp phần ổn định đời sống cán bộ công nhân viên nhà máy.
Năm 1995, với tầm nhìn chiến lược, Giám đốc nhà máy đã ký hợp đồng để đưa lao động sang Nhật Bản tu nghiệp sinh, đào tạo nghề với lưu lượng mỗi năm từ 50 đến 100 người. Đến nay, Phà Rừng đã có hơn 400 lao động được đào tạo công nghệ đóng mới tàu thuỷ tại Nhật Bản. Đây chính là lực lượng nòng cốt giúp Phà Rừng chuyển nhanh sang lĩnh vực đóng mới. Hợp đồng tu nghiệp sinh này cũng là cơ sở tiếp nối để toàn Tổng Công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (nay là Tập đoàn) duy trì và phát triển việc đưa lao động sang đào tạo tại Nhật Bản cho đến ngày hôm nay.
Giai đoạn từ năm 1996 đến nay
Thực hiện chủ trương của Chính phủ về thành lập các Tổng Công ty 90 và 91, Phà Rừng được chuyển sang là đơn vị thành viên của Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin), đây là giai đoạn hội nhập quốc tế và phát triển vượt bậc của Phà Rừng.
Để khẳng định thương hiệu trên trường quốc tế, Phà Rừng bắt tay vào xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002-1994.
Tháng 2/2001, Phà Rừng vinh dự là đơn vị thứ 2 ngành giao thông vận tải được đón nhận chứng chỉ do tổ chức DET NORSK VERITAS (DNV) cấp.
Khi mở rộng sản xuất sang mô hình đóng mới, năm 2003 Phà Rừng lại bắt tay vào xây dựng chuyển đổi phiên bản ISO 9001 – 2000. Năm 2004, Phà Rừng lại vinh dự được cấp chứng chỉ ISO 9001-2000.
Thực hiện chiến lược phát triển của Vinashin được Chính phủ phê duyệt. Từ năm 2002 Phà Rừng đã mở rộng sang đóng mới tàu biển. Với 4 lợi thế là: năng lực, kinh nghiệm, tay nghề và quản lý, Phà Rừng đã nhanh chóng tiếp cận và hoà nhập vào thị trường đóng mới tàu biển cùng với các đơn vị trong Vinashin.
Công ty đóng tàu Phà Rừng đã thực hiện các dự án nâng cấp mở rộng xây dựng các hạng mục công trình thủy công, nhà xưởng, trang thiết bị để đóng mới tàu biển. Bao gồm các hạng mục công trình chính sau đây:
Xây dựng đà trượt để đóng tàu đến 40.000DWT.
Xây dựng thêm các nhà xưởng: gồm Phân xưởng vỏ 2, Phân xởng vỏ 3, Phân xưởng ống, Phân xưởng điện, Phân xưởng mộc, nhà phun cát sơn tổng đoạn, cầu tàu…
Đầu tư các thiết bị nâng cao sức nâng: Cẩu giàn 200T, cẩu bánh lốp, bánh xích 100T, cẩu 50T, 40T, 16T… Xe nâng tự hành 100T, 200T.
Đầu tư các dây chuyền thiết bị phục vụ đóng tàu xuất khẩu: Dây chuyền sơ chế tôn, Dây chuyền làm sạch và sơn tổng đoạn, và các hạng mục công trình phụ trợ khác…
2.1.2. Chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Công ty
Kết cấu sản xuất kinh doanh của Công ty
Công ty đóng tàu Phà Rừng là một đơn vị hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Theo mô hình, Công ty đóng tàu Phà Rừng (công ty mẹ) là Công ty TNHH một thành viên do nhà nước đầu tư 100% vốn, trực thuộc Tập đoàn kinh tế Vinashin; có tư cách pháp nhân, hoạt động theo luật doanh nghiệp, theo điều lệ tổ chức và hoạt động, Công ty có quyền đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp.
Theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mới nhất số 0204000031 ngày 12/09/2005 do Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hải phòng cấp với chức năng sản xuất kinh doanh của Công ty bao gồm:
Sửa chữa tàu biển; dịch vụ hàng hải; tổ chức kinh doanh vận tải đường bộ; gia công lắp đặt cấu kiện thép; phá dỡ tàu cũ; kinh doanh vật tư, máy móc, thiết bị phụ tùng, phụ kiện công nghiệp tàu thuỷ và dân dụng; đóng mới các phương tiện thuỷ; bốc xếp hàng hoá tại cầu tàu; kinh doanh sắt thép phế liệu; vận tải biển và các ngành, nghề khác theo quy định của pháp luật. Chế tạo kết cấu thép dàn khoan; Thi công công trình thuỷ, nhà máy đóng tàu; Sản xuất các loại vật liệu, thiết bị cơ khí, điện, điện lạnh, điện tử phục vụ công nghiệp tàu thuỷ; Lập dự án, chế thử, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm công nghiệp tàu thuỷ; Tư vấn đầu tư, chuyển giao công nghệ; Đào tạo và cung ứng lao động trong ngành công nghiệp tàu thuỷ; Dịch vụ khách sạn (không bao gồm kinh doanh vũ trường, quán bar, phòng hát karaoke); Dịch vụ logistic, tàu mẫu, quảng cáo; Mua bán, vận tải dầu thô, sản phẩm dầu khí; Mua bán thép đóng tàu, thép cường độ cao; Mua bán, sản xuất và lắp ráp trang thiết bị nội thất thuỷ; Lắp ráp, phục hồi, sửa chữa, xuất nhập khẩu và kinh doanh vật tư, thiết bị giao thông vận tải; Khảo sát, thiết kế, lắp đặt các hệ thống tự động, thông tin liên lạc viễn thông, phòng chống cháy nổ; Đầu tư, kinh doanh nhà, xây dựng công nghiệp, dân dụng, khu đô thị và nhà ở; Kinh doanh nạo vét luồng lạch, san lấp, tạo bãi, mặt bằng xây dựng; Kinh doanh vật liệu xây dựng; Kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp; Dịch vụ hoa tiêu hàng hải; Dịch vụ hàng hải; Đại lý, cung ứng, lai dắt, vệ sinh tàu biển, môi giới hàng hải; Dịch vụ cảng, bến cảng, kho bãi và các hoạt động hỗ trợ vận tải; Đại lý hàng hoá và môi giới mua bán tàu biển, đại lý vận tải; Lữ hành nội địa, lữ hành quốc tế, kinh doanh dịch vụ phục vụ khách du lịch; Vận tải hành khách và hàng hoá bằng phương tiện đường bộ, đường thuỷ nội địa và quốc tế; Thực hiện kiểm tra không phá huỷ các công trình công nghiệp, dân dụng, giao thông và an toàn; Đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật trong lĩnh vực chế tạo cơ khí, xây lắp, kiểm tra, thử nghiệm cơ khí, hàn điện, không phá huỷ.
Sơ đồ 2.1: Quy trình công nghệ sản xuất của Công ty
Giai đoạn đấu đà (nối các tổng đoạn thành phân tổng đoạn)
Gia công các đường ống vào các thiết bị
Chuẩn bị SX: máy móc thiết, vật tư, nhân lực, vốn…
Làm sạch, son tôn mới, thép hình. Gia công chi tiết và lắp ráp các tổng đoạn
Lắp ráp máy chính và các thiết bị vào vị trí
Giai đoạn hoàn thiện, thử hoạt động và thử tải các thiết bị
Bàn giao cho chủ tàu
Bản vẽ thiết kế công nghệ
Các Phân xưởng nhận hạng mục thi công.
Chuẩn bị: vật tư, thiết bị, công nhân
Gia công chi tiết các tổng đoạn theo bản vẽ công nghệ đã được phân công cho từng phân xưởng.
Sơ đồ 2.2: Quy trình công nghệ sửa chữa tàu của Công ty
Tàu nằm dock
10 - 12 ngày
Hoàn thiện công việc sửa chữa tại cầu
Hạ thuỷ
Đưa tàu vào dock chìm
Bộ phận Làm sạch, sơn và sửa chữa nội thất tàu
Bộ phậnửâ chữa điện và nghi khí hàng hải
Bộ phận Sửa chữa van ống và bơm
Bộ phận Sửa chữa phần máy tàu
Bộ phận
Sửa chữa phần vỏ tàu
Kho vật tư phụ tùng
Chuẩn bị nguyên vật liệu, thiết bị phụ tùng
Khảo sát, lập khối lượng sửa chữa
Thử nghiệm, nghiệm thu, bàn giao
Sơ đồ 2.3: Tổ chức điều hành sản xuất của công ty
Tổng Giám đốc
Phó Tổng Giám đốc sản xuất
Phòng Sản xuất
Chủ nhiệm công trình
Các phân xưởng
Quản đốc PX Máy
Quản đốc PX Ụ - đà
Quản đốc PX Bài trí
Quản đốc PX Vỏ 1
Quản đốc PX Vỏ 2
Quản đốc PX Vỏ 3
Quản đóc PX Vỏ 4
Quản đốc PX Ống
Quản đốc PX Điện
Đội
trưởng
Đội cơ giới
Đốc công
Đốc công
Đốc công
Đốc công
Đốc công
Đốc công
Đốc công
Đốc công
Đốc công
Đốc công
Các tổ sản xuất
Các tổ sản xuất
Các tổ sản xuất
Các tổ sản xuất
Các tổ sản xuất
Các tổ sản xuất
Các tổ sản xuất
Các tổ sản xuất
Các tổ phục vụ
Các tổ phục vụ
Sản phẩm của Công ty là con tàu có kích thước lớn không thể di chuyển trong quá trình sản xuất nên tổ chức sản xuất tại Công ty được bố trí theo hình thức chuyên môn hoá, tức là sau khi làm xong công việc của bộ phận nào thì bộ phận tiếp theo vào thi công cho đến khi hoàn thiện tàu.
Các bộ phận sản xuất chính của Công ty bao gồm:
Phân xưởng Bài Trí: Bộ phận làm sạch và sơn vỏ tàu.
Phân xưởng ụ Đà: Cô dây, cởi dây buộc tàu, tháo kê căn phục vụ đấu đà, hạ thuỷ tàu...
Phân xưởng Vỏ 2: Phun sơn, phun bi, Phóng dạng, làm dưỡng, Gia công chi tiêt.
Phân xưởng Vỏ 1: Hàn đắp, hàn mòn, gia công cầu thang, gia công chi tiết, lắp ráp phân đoạn, nắn sửa thượng tầng.....
Phân xưởng Vỏ 3: Phóng dạng, gia công chi tiết, lắp ráp – hàn phân đoạn phẳng và phân đoạn khối....
Phân xưởng Vỏ 4: Đấu đà, sắt hàn trên boong....
Phân xưởng Máy: Hệ động lực, máy chính, máy phụ và thiết bị boong....
Phân xưởng ống: Gia công lắp đăt hệ thống van, hệ thống ống, thử áp lực ống, các công việc về két, nồi hơi, máy nén gió, các loại bơm....
Phân xưởng Cơ điện: Các máy phát, các động cơ điện, hệ thống cứu sinh, cứu hoả trên tàu....
Các bộ phận sản xuất phụ bao gồm:
Phân xưởng Bài Trí: Bộ phận t._.h hướng 2015 của Công ty đóng tàu Phà Rừng như sau:
Thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh
Thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh được Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam giao, Công ty luôn tăng cường đầu tư nhân lực, thiết bị hiện đại một cách phù hợp, thích đáng cho các bộ phận trong sản xuất nhằm nâng cao năng xuất lao động, kết hợp chặt chẽ giữa các bộ phận, phòng ban trong Công ty phấn đấu hoàn thành bàn giao các sản phẩm đóng mới đúng tiến độ theo hợp đồng và rút ngắn thời gian hoàn thiện sản phẩm một cách nhanh nhất nhưng vẫn đảm bảo chất lượng.
Triển khai và thực hiện các dự án
Trên nguyên tắc phù hợp với mục tiêu, chiến lược phát triển trong từng thời kỳ, đầu tư có trọng tâm, có bước đi hợp lý, bảo đảm hiệu quả, phát triển nhanh và bền vững, Công ty đang triển khai thực hiện các dự án: Nâng cấp mở rộng công ty đóng tàu Phà Rừng; Xây dựng Cảng tổng hợp và cụm công nghiệp Vinashin - Đình Vũ; Xây dựng Nhà máy chế tạo động cơ Vinashin – Man – Phà Rừng; Dự án phân phối đất ở của cán bộ công nhân viên và các công trình của Công ty ở khu An Trì - An Dương - Hải Phòng; Dự án đầu tư một số thiết bị nâng cao năng lực đóng tàu; và một số dự án khác dự kiến sẽ triển khai.
Dự án nâng cấp mở rộng Công ty đóng tàu Phà Rừng với tổng mức đầu tư 4.900 tỷ đồng, nằm trên diện tích 99 ha thuộc thị trấn Minh Đức, Huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Dự án bao gồm khu vực Nhà máy, Khu vực trung tâm giao dịch và điều hành công nghiệp tàu thuỷ, khu vực phục vụ chuyên gia và chủ tàu. Nhà máy khi đi vào hoạt động sẽ đóng mới các seri tàu có trọng tải từ 50.000 DWT – 70.000 DWT với công suất dự kiến đạt 16 chiếc/năm.
Dự án xây dựng Cảng tổng hợp và cụm công nghiệp Vinashin Đình Vũ nằm trong khu kinh tế tổng hợp Đình Vũ thuộc phường Đông Hải, Quận Hải An, thành phố Hải Phòng với tổng mức đầu tư dự kiến 2.500 tỷ đồng, tổng diện tích xây dựng 260,3ha.
Cảng tổng hợp Vinashin Đình Vũ dự kiến khai thác tàu container, tàu hàng tổng hợp. Tàu container 20.000 DWT đầy tải và 45.000 DWT giảm tải, tàu hàng tổng hợp 25.000 DWT đầy tải và 45.000 DWT giảm tải. Tổng công suất của Cảng đạt 7.000.000 tấn/năm. Công nghệ khai thác tại Cảng được trang bị hệ thống quản lý điều hành khai thác Cảng bao gồm phần mềm và mạng thông tin điện tử kết nối không dây toàn Cảng nhằm nâng cao năng suất giải phóng tàu, quản lý giao nhận hàng ngày một tốt hơn và hiệu quả.
Cụm công nghiệp Vinashin Đình Vũ gồm kho bãi ngoại quan, khu văn phòng điều hành và trung tâm cấp nước, khu các nhà máy công nghiệp và các công trình kỹ thuật cấp điện, cấp thoát nước và xử lý nước thải, thông tin liên lạc và các công trình phụ trợ khác.
Dự án xây dựng Nhà máy chế tạo động cơ Vinashin – Man – Phà Rừng trên diện tích 57 ha thuộc xã Sông Khoai, Huyện Yên Hưng, Quảng Ninh. Nhà máy sẽ sản xuất và lắp đặt động cơ diezen cho các tàu hàng trọng tải đến 175 ngàn tấn với công suất 40 động cơ/năm, tổng mức đầu tư 1.491 tỷ đồng. Việc xây dựng Nhà máy này sẽ đưa nước ta thành quốc gia thứ 4 của Châu Á tự sản xuất được động cơ tàu biển.
Cùng với việc thực hiện các dự án đầu tư mới, Công ty sẽ nhận chuyển giao một số đơn vị Tập đoàn đang trực tiếp quản lý như: Công ty TNHH một thành viên lắp máy và xây dựng Vinashin, Công ty TNHH một thành viên Công nghiệp tàu thuỷ và xây dựng Sông Hồng, Công ty CP xây dựng và ứng dụng công nghệ mới, Công ty CP công nghiệp tàu thuỷ Sông Đào, Công ty CP công nghiệp tàu thuỷ Nam Hà, Công ty CP công nghiệp tàu thuỷ Sông Lô, Công ty CP công nghiệp tàu thuỷ Trường Xuân, Công ty CP công nghiệp tàu thuỷ Thái Bình từ đó làm cơ sở hình thành Tổng Công ty công nghiệp tàu thuỷ Phà Rừng.
Thực hiện chương trình phát triển Khoa học và công nghệ
Duy trì và cải tiến liên tục tính hiệu quả của hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000 đối với hoạt động sửa chữa và đóng mới tàu thuỷ.
Phát huy công tác sáng kiến tiết kiệm trong các lĩnh vực nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Các công tác khác
Đẩy mạnh công tác thị trường để đảm bảo Công ty có việc làm thường xuyên, tìm sản phẩm đóng mới có tính truyền thống của Công ty và tính năng kỹ thuật cao để nâng cao sản lượng và thu nhập.
Tìm kiếm huy động các nguồn vốn để mở rộng sản xuất hơn nữa.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý các vi phạm về tệ nạn xã hội tại Công ty…
3.1.2. Định hướng hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tại Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng
Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng là một đơn vị trực thuộc Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam và hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - công ty con. Cơ chế quản lý vốn của Công ty cần phải được hoàn thiện theo hướng phù hợp với mô hình hoạt động chung của Tập đoàn và của đơn vị. Muốn vậy, cơ chế quản lý vốn được xây dựng cần phải thoả mãn các yêu cầu sau:
+ Tạo điều kiện tài chính thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty và các đơn vị thành viên.
+ Huy động và quản lý tốt các nguồn vốn. Trong đó, huy động triệt để các nguồn vốn của các đơn vị thành viên và vốn đầu tư bên ngoài phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty thực hiện việc điều hoà, phân phối có hiệu quả các nguồn vốn.
+ Đảm bảo an toàn về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty và các đơn vị thành viên.
Xuất phát từ những yêu cầu nêu trên, cơ chế quản lý vốn của Công ty cần phải hoàn thiện theo hướng sau:
+ Nâng cao hiệu quả của các hình thức huy động vốn truyền thống và thực hiện các hình thức huy động vốn khác đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng cao cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Điều chỉnh cơ cấu vốn phù hợp để nâng cao năng lực tài chính và mức độ an toàn về vốn.
+ Thiết lập cơ chế điều hoà vốn hiệu quả.
3.2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tại Công ty
3.2.1. Hoàn thiện các hình thức huy động vốn
Nâng cao hiệu quả các hình thức huy động vốn truyền thống
Vốn chủ sổ hữu: Hiện nay, vốn ngân sách nhà nước tại Công ty rất thấp. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc huy động vốn từ bên ngoài do vốn đối ứng thấp. Chính vì vậy, Công ty cần tìm mọi biện pháp tăng cường vốn ngân sách nhà nước. Thực tế cho thấy, vốn ngân sách cấp bổ sung cho Công ty là rất khó khăn, không còn cách nào khác, Công ty phải tăng cường vốn tự bổ sung từ kết quả hoạt động kinh doanh bằng cách tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, sử dụng vốn hợp lý để có lợi nhuận cao.
Vốn tín dụng ngân hàng: Trong điều kiện nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển của Công ty và các đơn vị thành viên hiện nay rất lớn, để đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh, Công ty cần phải coi trọng vốn tín dụng ngân hàng, đảm bảo vốn này được sử dụng có hiệu quả để trả lãi và mang lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên, Công ty phải có sự phân cấp trong quyền quyết định việc huy động vốn vay ngân hàng, sự phân cấp này phải được thể hiện rõ ràng trong quy chế quản lý tài chính của Công ty. Các đơn vị thành viên trước khi vay vốn cần tính toán kỹ đến hiệu quả kinh tế của từng lần vay, với các dự án có hiệu quả kinh tế cao, Công ty cần có sự hỗ trợ các đơn vị trong việc bảo lãnh, thế chấp tài sản để vay vốn cũng như trong việc hỗ trợ các đơn vị thành viên trong việc thu xếp nguồn vay. Nói cách khác, Công ty cần đứng ở vai trò trung tâm, điều phối và trợ giúp các đơn vị thành viên đồng thời đưa ra các quy định xử lý đối với những thiệt hại do chủ quan của các doanh nghiệp thành viên gây ra.
Tăng cường huy động vốn tín dụng thương mại: Đây là vốn đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực đóng mới và sửa chữa tàu biển. Để có được vốn này, Công ty phải không ngừng nâng cao uy tín của mình trên thị trường để có thể nhập được nhiều hơn khoản vốn ứng trước của các chủ tàu cũng như giữ chữ tín với khách hàng trong thanh toán để có thể tận dụng được vốn tín dụng của khách hàng trong một thời gian nhất định. Có như vậy, Công ty mới có thể giảm được chi phí sử dụng vốn, giảm được các khoản vay ngân hàng.
Tiếp tục huy động vốn theo từng dự án: đặc biệt là các dự án xây dựng cụm cảng công nghiệp Đình Vũ – Vinashin, Dự án Cụm công nghiệp Yên Hưng, Dự án xây dựng cơ sở 2 Công ty đóng tàu Phà Rừng. Đối với các dự án nêu trên, Công ty có thể huy động vốn bằng cách liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh để vừa có thể giảm áp lực vốn vừa sử dụng được trình độ quản lý, khai thác vận hành của các đối tác trong và ngoài nước.
Mở rộng các hình thức huy động vốn mới đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh việc nâng cao hiệu quả các hình thức huy động vốn truyền thống. Công ty cần phải thực hiện các hình thức huy động vốn mới đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh ngày càng lớn mạnh của Công ty.
Huy động vốn bằng cách thuê tài sản: Với dặc thù là một doanh nghiệp hoạt động trong ngành cơ khí và để đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của các chủ tàu đòi hỏi Công ty phải không ngừng đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất hiện có. Để đứng vững và phát triển trong môi trường cạnh tranh gay gắt hiện nay, trong thời gian tới Công ty nên tiếp cận và sử dụng có hiệu quả hình thức thuê tài sản: thuê hoạt động và thuê tài chính. Trước khi tiến hành thuê tài sản, Công ty và các đơn vị thành viên cần lập phương án sản xuất kinh doanh và phương án sử dụng tài sản trong đó có tính tới chỉ tiêu hiệu quả kinh tế sau đó lựa chọn hình thức thuê tài sản hợp lý. Ưu điểm lớn nhất của hình thức thuê tài sản là giúp cho Công ty có thể đổi mới nhanh chóng máy móc thiết bị đáp ứng kịp thời yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu: Hiện nay, trong các đơn vị thành viên của Công ty bao gồm cả công ty cổ phần và công ty TNHH một thành viên, trong tương lai cần phải đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá các đơn vị này. Công ty có thể tăng số lượng cổ phiếu phát hành để huy động vốn góp của cán bộ công nhân viên, vốn góp của đối tác chiến lược và của công chúng. Việc phát hành thêm cổ phiếu có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó sẽ giúp cho các công ty cổ phần có thêm vốn chủ sở hữu, đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh, công ty cổ phần có quyền lựa chọn hình thức phát hành cổ phiếu như:
Phát hành cổ phiếu mới với việc giành quyền ưu tiên đặt mua cho cổ đông: Đây là hình thức phổ biến được các công ty cổ phần áp dụng khi quyết định tăng thêm vốn chủ sở hữu để mở rộng hoạt động kinh doanh. Việc áp dụng quyền ưu tiên đặt mua cho cổ đông là nhằm bảo vệ quyền lợi cổ đông hiện tại và công ty cổ phần không phải chia sẻ quyền kiểm soát công ty cho người khác.
Phát hành cổ phiếu mới cho người thứ ba: Công ty cổ phần có thể tăng vốn chủ sở hữu để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách phát hành cổ phiếu mới và giành quyền mua cổ phiếu mới cho người thứ ba là người có quan hệ mật thiết với công ty như người lao đông, các đối tác kinh doanh. Việc phát hành cổ phiếu như vậy một mặt giúp cho công ty tăng được vốn kinh doanh, mặt khác tăng cường được mối quan hệ lợi ích và tạo ra sự gắn bó chặt chẽ giữa Công ty và những người có quan hệ thường xuyên với Công ty.
Phát hành cổ phiếu mới ra công chúng: Để tăng thêm vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty cổ phần có thể phát hành rộng rãi cổ phiếu mới ra công chúng bằng cách chào bán công khai trên thị trường.
Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu công ty: Sự phát triển của thị trường chứng khoán trong giai đoạn hiện nay cho phép Công ty có thể huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thông qua phát hành trái phiếu công ty.
Trái phiếu công ty là chứng chỉ vay vốn do doanh nghiệp phát hành thể hiện nghĩa vụ và sự cam kết thanh toán số lợi tức và tiền vay vào những thời hạn đã xác định cho người nắm giữ trái phiếu. Công ty là người phát hành trái phiếu với tư cách là người đi vay. Thông qua việc sử dụng trái phiếu, Công ty có thể huy động được vốn trung và dài hạn với khối lượng lớn.
Khi sử dụng hình thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, Công ty cần phải lựa chọn loại trái phiếu phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của Công ty. Sở dĩ như vậy vì mỗi loại trái phiếu khác nhau sẽ có chi phí lãi vay và cách thức trả lãi khác nhau. Trong điều kiện thị trường tài chính hiện nay, Công ty có thể phát hành các loại trái phiếu sau:
Trái phiếu có lãi suất cố định: Đây là loại trái phiếu mà lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Trái phiếu có lãi suất cố định cũng quy định rõ kỳ hạn của nó. Khi phát hành trái phiếu, Công ty cần tính đến mức hấp dẫn của trái phiếu để tăng khả năng thu hút vốn đầu tư thông qua lãi suất trái phiếu trong mối tương quan với lãi suất thị trường và tình hình tài chính Công ty. Ngoài ra kỳ hạn của trái phiếu cũng phải được Công ty xem xét kỹ trước khi phát hành. Tuỳ theo từng dự án mà Công ty quyết dịnh kỳ hạn, mệnh giá trái phiếu phù hợp với thị trường.
Trái phiếu có thể thu hồi: Công ty phát hành trái phiếu có thể thu hồi với mục đích có thể mua lại trái phiếu vào một thời gian nào đó. Loại trái phiếu này giúp Công ty có thể điều chỉnh lượng vốn phù hợp với tình hình tài chính. Khi phát hành trái phiếu loại này, Công ty cần xác định mức lãi suất và kỳ hạn thích hợp hấp dẫn người mua, phải ghi rõ điều kiện thanh toán của trái phiếu khi được mua lại để người mua trái phiếu được biết.
Trái phiếu chuyển đổi: Với các công ty con – công ty cổ phần, Công ty có thể phát hành trái phiếu có thể chuyển đổi thành một số lượng nhất định cổ phiếu thường để huy động vốn cho các đơn vị thành viên. Trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu luôn hấp dẫn người mua do tính linh hoạt và khả năng nhận được lãi cao của nó.
Để tăng tính hấp dẫn và tính thanh khoản của trái phiếu, Công ty có thể phát hành trong nội bộ Tập đoàn, hay thông qua công ty tài chính Công nghiệp tàu thuỷ, rồi sau đó mới phát hành rộng rãi ra công chúng. Bên cạnh đó, có thể phát hành trái phiếu dài hạn đảm bảo giá trị tương đương bằng ngoại tệ, ví dụ như đô la Mỹ. Khi đó, những người đầu tư trái phiếu với số lượng lớn có thể an tâm đầu tư, cũng có nghĩa là việc huy động nợ bằng phát hành trái phiếu của doanh nghiệp mới phát triển được. Hơn nữa, các doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu có đảm bảo bởi bên thứ ba. Người dân Việt Nam vẫn có tâm lý gửi tiền vào ngân hàng thì yên tâm hơn nắm giữ trái phiếu của doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu có đảm bảo của bên thứ ba, như các công ty chứng khoán hay công ty tài chính. Đây cũng là điều kiện để tăng tính hấp dẫn và khả năng thanh khoản cho các trái phiếu doanh nghiệp.
Huy động vốn đầu tư nước ngoài: Thực hiện chiến lược nâng cao tỷ lệ nội địa hoá ngành đóng tàu, Công ty dự kiến đầu tư vào các ngành phụ trợ cho công nghiệp đóng tàu như: xây dựng Nhà máy chế tạo và lắp đặt động cơ Diezen S30MC đến S80MC, lắp đặt cho các tàu trọng tải đến 175.000 DWT. Xây dựng Cảng tổng hợp Vinashin Đình Vũ, Cụm công nghiệp Vinashin Đình Vũ. Để thực hiện thành công các dự án nêu trên, Công ty cần có lượng vốn đầu tư lớn, công nghệ sản xuất hiện đại và kinh nghiệm trong quản lý điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Với việc huy động vốn đầu tư nước ngoài, Công ty không những huy động được vốn chủ sở hữu cho các dự án trên mà còn có được công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến của đối tác.
Huy động vốn đầu tư nước ngoài có thể được thực hiện thông qua một trong hai hình thức: thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc thành lập liên doanh.
Huy động vốn thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh: Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì “Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành hoạt động đầu tư mà không cần thành lập pháp nhân”, “Hai hoặc nhiều bên được hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh như hợp tác sản xuất phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm và các hình thức hợp tác khác. Đối tượng, nội dung, thời hạn kinh doanh, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi bên, quan hệ giữa các bên do các bên thoả thuận và ghi trong hợp đồng hợp tác kinh doanh”. Như vậy, Công ty có thể ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh với hai hoặc nhiều bên nước ngoài để thực hiện các dự án cụ thể của Công ty. Trên cơ sở đó, công ty có thể huy động vốn đầu tư nước ngoài thông qua việc góp vốn, đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến của phía nước ngoài. Như vậy, Công ty vừa huy động được vốn thực hiện các dự án lại vừa nâng cao năng lực sản xuất của mình.
Huy động vốn thông qua thành lập doanh nghiệp liên doanh: Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam “Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh”. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Phần vốn góp của bên nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh không bị hạn chế về mức độ cao nhất theo sự thoả thuận của các bên. Giá trị phần vốn mà mỗi bên trong doanh nghiệp liên doanh xác định trên cơ sở thị trường tại thời điểm góp. Doanh nghiệp liên doanh được phát hành chứng khoán để huy động vốn nhưng không phải là cổ phiếu. Như vậy, Công ty có thể ký hợp đồng liên doanh với một hoặc nhiều bên nước ngoài để thành lập doanh nghiệp liên doanh là công ty con của Công ty. Công ty có thể góp vốn với tỷ lệ chi phối để có quyền điều hành doanh nghiệp đó.
3.2.2. Đổi mới nhận thức của Ban lãnh đạo về cơ cấu vốn
Trên cơ sở phân tích cơ cấu vốn của Công ty, có thể thấy một trong những nguyên nhân dẫn đến cơ cấu vốn bất hợp lý hiện nay là Ban lãnh đạo Công ty chưa nhận thức đúng và đầy đủ về vai trò của cơ cấu vốn cũng như phương pháp thiết lập một cơ cấu vốn tối ưu. Do đó, muốn điều chỉnh cơ cấu vốn phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty theo hướng đảm bảo an toàn tài chính cần phải đổi mới nhận thức của Ban lãnh đạo Công ty về cơ cấu vốn và thiết lập cơ cấu vốn tối ưu là một trong những nội dung cơ bản trong kế hoạch tài chính của Công ty. Có xây dựng được một cơ cấu vốn mục tiêu thì các doanh nghiệp mới chủ động trong cách thức huy động vốn và lựa chọn dự án đầu tư. Cần giúp Ban lãnh đạo Công ty hiểu việc chủ động xây dựng kế hoạch huy động vốn cũng quan trọng như việc tìm kiếm các dự án khả thi.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, các quy luật của nền kinh tế sẽ điều chỉnh các quan hệ kinh tế trong đó có quan hệ vay, trả. Giám đốc Công ty là người đứng mũi chịu sào, chủ động xây dựng kế hoạch tài chính, xây dựng cơ cấu vốn hợp lý, tìm kiếm dự án, kế hoạch sản xuất kinh doanh khả thi. Nếu các giám đốc chưa nhận thức được tầm quan trọng của một cơ cấu vốn hợp lý với các phương pháp xác định chi phí vốn theo nguyên tắc thị trường, tất yếu sẽ bị đào thải.
3.2.3. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý
Trình độ cán bộ quản lý là một trong những nhân tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện thành công cơ chế quản lý vốn khi Công ty mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh và thực hiện đầu tư ra ngoài doanh nghiệp. Chính vì vậy Công ty cần phải thường xuyên đánh giá, phân loại đội ngũ cán bộ quản lý của Công ty và các đơn vị thành viên để từ đó tiến hành xây dựng quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ một cách chủ động.
Giám đốc Công ty là người được Tập đoàn bổ nhiệm, trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất của Công ty, chịu trách nhiệm trước Tập đoàn về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, do vậy, đòi hỏi giám đốc phải có trình độ và khả năng nhanh nhạy trong việc ra các quyết định của mình.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, áp lực đối giám đốc ngày càng lớn, việc đảm đương trách nhiệm giám đốc không phải đơn giản, với những ràng buộc về quyền lợi và trách nhiệm. Một trong những giải pháp cho vấn đề này là thuê tổng giám đốc. Mô hình thuê tổng giám đốc điều hành có điểm ưu việt nổi trội là chống được căn bệnh ỷ lại, thiếu năng động của một bộ phận trong đội ngũ lãnh đạo, kéo theo sự trì trệ của các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay. Như vậy, khi tổng giám đốc là người ký kết hợp đồng lao động thì sẽ tạo thành một cơ chế gắn chặt quyền lợi và trách nhiệm của lãnh đạo doanh nghiệp với quyền lợi chung của doanh nghiệp và của chủ sở hữu. Hiện nay, Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ đã xây dựng đề án thuê tổng giám đốc, tuy nhiên việc triển khai thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế. Để thực hiện thành công đề án trên, trước hết Tập đoàn nên thực hiện với các đơn vị thành viên của mình trong đó có Công ty đóng tàu Phà Rừng.
3.2.4. Thiết lập tài khoản trung tâm thực hiện vai trò điều hoà vốn
Hiện nay, việc điều hoà vốn nội bộ trong Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam được thực hiện thông qua Công ty Tài chính công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam. Đây là một trung gian tài chính thực hiện việc huy động vốn cho Tập đoàn và các đơn vị thành viên: thực hiện việc phát hành trái phiếu để thực hiện các dự án đầu tư của Tập đoàn, huy động tiền gửi, bảo lãnh, uỷ thác vay vốn của các tổ chức tài chính khác cho các đơn vị thành viên của Tập đoàn. Cùng với việc huy động vốn bên ngoài Tập đoàn, Công ty tài chính công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam còn thực hiện việc điều hoà vốn nội bộ thông qua hoạt động tín dụng: huy động vốn tạm thời nhàn rỗi của các đơn vị thành viên trong Tập đoàn và cho các đơn vị có nhu cầu về vốn vay lại, tài trợ cho các dự án của Tập đoàn.
Tuy nhiên hoạt động điều hoà vốn nội bộ của Công ty tài chính công nghiệp tàu thuỷ còn những hạn chế nhất định. Quan hệ tín dụng nội bộ mới chỉ được thực hiện giữa các công ty con do Tập đoàn trực tiếp quản lý. Với lượng vốn tạm thời nhàn rỗi của các đơn vị thành viên của công ty con, của các công ty mẹ - con trong Tập đoàn, Công ty tài chính công nghiệp tàu thuỷ vẫn chưa thực hiện việc điều hoà để đạt được hiệu quả cao nhất.
Với mục tiêu khai thác triệt để nguồn lực tài chính trong nội bộ Công ty và các đơn vị thành viên. Điều hoà vốn một cách linh hoạt từ nơi thừa vốn tạm thời nhàn rỗi sang đơn vị thiếu vốn dựa trên nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng. Đảm bảo quá trình thực hiện luân chuyển vốn được nhanh và hiệu quả. Công ty cần phải thiết lập tài khoản trung tâm để thực hiện mục tiêu trên.
Cách thức xây dựng tài khoản trung tâm: Với đặc trưng đa phần các đơn vị thành viên nằm ở khu vực miền Bắc, Công ty mẹ đạt tại thành phố Hải Phòng, Công ty có thể đặt vấn đề xây dựng tài khoản trung tâm với một trong các ngân hàng nằm trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
Xây dựng một phòng điều khiển trung tâm của hệ thống đặt tại cơ quan Công ty mẹ giữ vai trò trung tâm thường xuyên theo dõi tình hình biến động số dư tài khoản tiền gửi ngân hàng và vốn phát sinh của các đơn vị thành viên, làm trung tâm giao dịch giữa các đơn vị thành viên và giao dịch với ngân hàng.
Hoạt động điều hoà vốn của tài khoản trung tâm: Các đơn vị thành viên tự nguyện tham gia tài khoản trung tâm sẽ đăng ký mở tài khoản tiền gửi và tiền vay của mình tại ngân hàng mà công ty mẹ đăng ký mở tài khoản trung tâm. Vì vậy, mọi khoản thu và nhu cầu vay của đơn vị sẽ được chuyển tới phòng điều khiển trung tâm để xử lý. Việc các đơn vị tham gia tài khoản trung tâm cùng mở tài khoản tại một ngân hàng sẽ giúp cho phòng điều khiển trung tâm nhận được thông tin nhanh, đầy đủ, chính xác, tiết kiệm tời gian giao dịch và chi phí giao dịch cho các đơn vị.
Trong cùng một thời điểm phòng điều khiển trung tâm sẽ giữ vai trò khớp nối giữa nhu cầu vay của đơn vị thiếu vốn tạm thời nhàn rỗi với đơn vị thừa vốn tạm thời nhàn rỗi. Lãi suất áp dụng đối với các giao dịch tại tài khoản trung tâm là lãi suất nội bộ. Lãi suất nội bộ thấp hơn lãi suất tiền vay ngân hàng sẽ mang lại lợi ích cho đơn vị tạm thời thiếu vốn vì chỉ phải trả chi phí vốn thấp hơn so với vay vốn bên ngoài hệ thống. Các đơn vị cho vay sẽ được hưởng lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng.
Có thể nói, xây dựng tài khoản trung tâm là một cách tốt nhất để Công ty điều hoà vốn tạm thời nhàn rỗi trong nội bộ các đơn vị thành viên, tạo mối quan hệ về vốn giữa các đơn vị bằng quan hệ tín dụng thực sự và đảm bảo được lợi ích của các đơn vị tham gia, lợi ích chung của toàn Công ty.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Tập đoàn cần tạo điều kiện tăng vốn điều lệ cho Công ty
Hoạt động trong lĩnh vực đóng mới tàu biển, đặc biệt là các tàu có trọng tải lớn đòi hỏi Công ty phải có vốn tương ứng mới có thể đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh. Hiện nay vốn chủ sở hữu tại Công ty quá thấp, để bổ sung vốn Công ty phải huy động vốn bên ngoài với số lượng lớn điều này tạo lên sự phụ thuộc của Công ty vào các ngân hàng và có nguy cơ phát triển không bền vững. Để ổn định tình hình tài chính của Công ty, Nhà nước mà trước hết là Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam cần có chính sách, cơ chế để bổ sung vốn chủ sở hữu cho công ty cũng như đầu tư vốn mới vào các dự án đã được Tập đoàn và Chính phủ phê duyệt.
3.3.2. Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá Công ty và các đơn vị thành viên
Để có thể thực hiện thành công giải pháp huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, cần phải xây dựng đề án cổ phần hoá Công ty và các đơn vị thành viên. Việc cổ phần hoá có thể được thực hiện theo hướng Nhà nước sẽ nắm cổ phần chi phối. Với phần vốn còn lại, Công ty có thể chào bán cho các nhà đầu tư chiến lược, đối tác kinh doanh truyền thống hoặc chào bán ra công chúng. Sau khi chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, Công ty có thể phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn chủ sở hữu.
3.3.3. Thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển
Thị trường chứng khoán là một bộ phận rất quan trọng của thị trường tài chính. Sự phát triển của thị trường chứng khoán là điều kiện tiên quyết để thị trường tài chính phát triển. Để các giải pháp đề xuất ở trên có thể thành hiện thực, đặc biệt là các giải pháp huy động vốn dài hạn của doanh nghiệp bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu, chắc chắn phải có nền tảng hỗ trợ là một thị trường chứng khoán phát triển.
Nếu như các doanh nghiệp huy động vốn ban đầu trên thị trường sơ cấp thì trên thị trường thứ cấp, nơi các chứng khoán được mua bán lại, sẽ tạo ra tính thanh khoản của chứng khoán. Thị trường thứ cấp sôi động sẽ thúc đẩy sự phát triển của thị trường sơ cấp, do đó, các doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn.
3.3.4. Hoàn thiện chính sách quản lý tài chính của doanh nghiệp Nhà nước
Là đơn vị thành viên của Vinashin, các hợp đồng đóng mới của Công ty có được là dựa trên thương hiệu, uy tín của Tập đoàn. Các lượt tàu sửa chữa trong và ngoài nước đến với Công ty do uy tín của Phà Rừng có được trong hơn 20 năm xây dựng và trưởng thành. Giá trị thương hiệu là tài sản vô hình của doanh nghiệp, xác định đúng giá trị thương hiệu có ý nghĩa quan trọng trong việc huy động vốn cũng như đầu tư ra ngoài doanh nghiệp, đặc biệt là góp vốn bằng giá trị thương hiệu. Giá trị thương hiệu của Vinashin cần phải được coi là một loại tài sản vô hình trong kết cấu tài sản của Công ty và giá trị thương hiệu của Phà Rừng là một bộ phận tài sản được Công ty góp vào vốn điều lệ của công ty con. Để có thể xác định đúng giá trị thương hiệu cũng như cơ sở pháp lý cho việc đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp bằng giá trị thương hiệu, hệ thống chính sách quản lý tài chính của Nhà nước cần phải được hoàn thiện hơn nữa, có những hướng dẫn cụ thể về cách thức xác định giá trị thương hiệu, hướng dẫn cụ thể về việc đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp bằng giá trị thương hiệu.
KẾT LUẬN
Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng cho tới nay vẫn được đánh giá là một đơn vị mạnh của Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam, đã có những đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam và sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hải Phòng. Cơ chế quản lý của Công ty trong đó có cơ chế quản lý vốn đang từng bước được hoàn thiện, có những tác động tích cực đối với quá trình phát triển của của Công ty, đặc biệt là từ khi chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con.
Trong điều kiện suy thoái kinh tế hiện nay, với mục tiêu phát triển bền vững, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, cơ chế quản lý vốn của Công ty đang còn những vấn đề bất cập cần phải được hoàn thiện hơn nữa.
Tác giả đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về cơ chế quản lý vốn cũng như thực trang cơ chế quản lý vốn tại Công ty. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tại Công ty phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh và định hướng phát triển chung của Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam.
Luận văn đã đạt được những kết quả chủ yếu sau:
Hệ thống hoá vấn đề lý luận cơ bản về cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp.
Đánh giá thực trạng cơ chế quản lý vốn tại Công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng. Trên cơ sở đó, Tác giả phân tích, luận giải về nguyên nhân dẫn đến cơ chế quản lý vốn của Công ty chưa hoàn thiện.
Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tại công ty TNHH một thành viên đóng tàu Phà Rừng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Lưu Thị Hương, PGS.TS. Vũ Duy Hào (2007), “Tài chính doanh nghiệp”, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
2. PGS.TS. Phan Thị Thu Hà (2007), “Ngân hàng Thương mại”, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
3. TS. Trần Đăng Khâm (2007), “Thị trường chứng khoán – Phân tích cơ bản”, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội
4. Bộ Tài chính (2007), Thông tư 24/2007/TT-BTC ngày 27 tháng 3 năm 2007 - Hướng dẫn quy chế tài chính của công ty TNHH một thành viên thuộc sở hữu Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
5. Thủ tướng Chính phủ (2004), Nghị định 199/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 Ban hành quy chế quản lý tài chính của Công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác.
6. Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định 1106/QĐ-TTg ngày 18 tháng 10 năm 2005 về việc phê duyệt đề án điều chỉnh phát triển Tổng Công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam giai đoạn 2005-2010 và định hướng đến năm 2015, Hà Nội.
7. Công ty đóng tàu Phà Rừng (2009), Báo cáo tổng kết 25 năm xây dựng và phát triển của Công ty đóng tàu Phà Rừng, Hải Phòng.
8. Công ty đóng tàu Phà Rừng (2009), Báo cáo tài chính năm 2005-2008, Hải Phòng.
9. www.pharungyard.com.vn www.vinashin.com.vn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2498.doc