Hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp

mục lục Nội dung Trang Phần mở đầu 4 Chương 1. Tài sản công và cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 6 1. Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 6 1.1. Khái niệm tài sản công 6 1.2. Phân loại tài sản công 8 1.3. Đơn vị sự nghiệp và tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 10 1.3.1 Đơn vị sự nghiệp 10 1.3.2 Tài sản công tại đơn vị sự nghiệp 11 1.3.3 Đặc điểm tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 11 1.3.4 Vai trò tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 12 2. Cơ chế

doc65 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1391 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 14 2.1. Cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 14 2.2. Chức năng, tác dụng của cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 15 2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 17 3. Quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp của một số nước và kinh nghiệm vận dụng cho Việt Nam 19 3.1. Quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp của một số nước 19 3.2. Kinh nghiệm vận dụng cho Việt Nam 25 Chương 2-Thực trạng cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 28 1. Hiện trạng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 28 1.1. Hiện trạng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 28 1.2. Thực trang sử dụng và kết quả trong sử dụng tài sản công tai các đơn vị sự nghiệp 30 2. Cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp hiện nay 35 2.1. Quá trình đổi mới cơ chế quản lý tài sản công tạ các đơn vị sự nghiệp từ 1998 đến nay 35 2.2. Quy định về tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản 38 2.3. Quy định trong quản lý sử dụng tài sản 39 3. Một số nhận xét đánh giá về cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 40 3.1. Những kết quả đạt được 40 3.2. Một số hạn chế trong cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 44 3.3. Nguyên nhân của những hạn chế và tồn tại 46 Chương 3. giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 49 1. Phương hướng và yêu cầu hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 49 1.1. Phương hướng hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 49 1.2. Yêu cầu nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 51 2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 53 2.1. Đa dạng hóa hình thức sở hữu và sử dụng tài sản công hiện có tại các đơn vị sự nghiệp phù hợp với chủ trương xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp 53 2.2. Mở rộng các phương thức trang cấp và nguồn vốn đầu tư, mua sắm tài sản cho các đơn vị hành chính sự nghiệp 55 2.3. Hoàn thiện, bổ sung một số tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp để làm căn cứ đầu tư, mua sắm cũng như quản lý, sử dụng tài sản công, với các giải pháp cụ thể 56 2.4. Thực hiện phân cấp thẩm quyền gắn với trách nhiệm thủ trưởng đơn vị sự nghiệp trong việc quyết định, định đoạt tài sản công tại đơn vị theo quy chế thống nhất về quản lý tài sản công của Nhà nước tại các đơn vị sự nghiệp 57 2.5. Cho phép các đơn vị sự nghiệp có thu được quyền quyết định sử dụng một phần tài sản công tại đơn vị vào mục đích sản xuất cung ứng dịch vụ, kể cả góp vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức khác 58 2.6. Các đơn vị sự nghiệp có thu được sử dụng tài sản công chuyển sang sản xuất, cung ứng dịch vụ để thế chấp vay tín dụng ngân hàng hoặc quĩ hỗ trợ phát triển để mở rộng nâng cao hoạt động sự nghiệp bằng giá trị tài sản công dùng vào sản xuất, cung ứng dịch vụ. 59 2.7. Hình thành tổ chức thống nhất đầu tư, mua sắm tài sản công cho các đơn vị sự nghiệp hoạt động theo cơ chế của đơn vị sự nghiệp hoặc công ty mua bán tài sản công của Nhà nước 59 2.8. Các đơn vị sự nghiệp được sử dụng nhà, đất của Nhà nước vào sản xuất kinh doanh hoặc cung ứng dịch vụ công phải chuyển sang thuê đất của Nhà nước hoặc Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất quy định tại Luật Đất đai 2003 60 Kết luận 63 Tài liệu tham khảo 64 phần mở đầu 1- Sự cấp thiết của Đề tài Tài sản công nói chung là nguồn lực nội sinh của đất nước, là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và quản lý xã hội, là nguồn tài chính tiềm năng cho đầu tư phát triển, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; như Bác Hồ kính yêu đã khẳng định: “Tài sản công là nền tảng, là vốn liếng để khôi phục và xây dựng kinh tế chung, để làm cho dân giàu, nước mạnh, để nâng cao đời sống nhân dân”. Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ tài sản công của đất nước, do các đơn vị sự nghiệp trực tiếp quản lý sử dụng để phát triển các hoạt động sự nghiệp cung cấp các dịch vụ công phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trước yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá, tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp ngày càng lớn và chiếm tỷ trọng quan trọng trong tài sản công thuộc khu vực hành chính sự nghiệp. Để quản lý tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp, thời gian qua, Nhà nước đã ban hành một hệ thống văn bản pháp luật về quản lý tài sản nhà nước; đồng thời hình thành bộ máy quản lý tài sản công từ Trung ương xuống địa phương. Công tác quản lý và sử dụng tài sản công từng bước theo chế độ và tiêu chuẩn định mức sử dụng tài sản công. Tuy nhiên, việc quản lý, sử dụng tài sản vẫn mang nặng tính hành chính bao cấp, quản lý thiếu chặt chẽ, sử dụng lãng phí.v.v... chưa hình thành cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp phù hợp với quá trình đổi mới và cải cách hành chính. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp” đang là vấn đề bức súc có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ những vấn đề cơ bản về tài sản công và tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp; cơ chế quản lý và thực trạng quản lý tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp ở nước ta. Trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp ở nước ta cho phù hợp với quá trình đổi mới công tác quản lý tài sản công và cải cách hành chính. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp có phạm vi rất rộng, bao gồm nhiều loại tài sản khác nhau. Tuy nhiên, đề tài này tập trung chủ yếu nghiên cứu tài sản công và cơ chế quản lý tài sản công đối với các tài sản phục vụ trực tiếp cho hoạt động sự nghiệp của các đơn vi, trong các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, văn hoá thể thao, .. là khâu đột phá của công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Đề tài kết hợp sử dụng phương pháp duy vật biện chứng với phương pháp tổng hợp và phân tích kết hợp lý luận với thực tiễn của Việt Nam cũng như đúc kết kinh nghiệm của một số nước để đánh giá thực trạng cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp và đưa ra các kiến nghị và giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp trong thời gian tới. 5. Bố cục của Đề tài Về bố cục của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình bày 3 chương: Chương I: Tài sản công và cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Chương II: Thực trạng cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Chương III: Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Chương I Tài sản công và cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 1. Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 1.1. Khái niệm tài sản công Bất cứ một quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển đều phải dựa vào một trong các nguồn nội lực của mình là tài sản quốc gia. Đó là tất cả những tài sản do các thế hệ thành viên của quốc gia tạo ra hoặc thu nạp được và các tài sản do thiên nhiên ban tặng cho con người. Trong phạm một quốc gia, nền kinh tế còn tồn tại nhiều thành phần và chế độ sở hữu khác nhau, thì tài sản quốc gia bao gồm tài sản thuộc sở hữu tư nhân, tài sản thuộc sở hữu cộng đồng và tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Tài sản thuộc sở hữu nhà nước trước hết là các tài sản được hình thành thông qua quốc hữu hóa hoặc do đầu tư, mua sắm bằng nguồn Ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc Ngân sách nhà nước, kế đến là những tài sản do thiên tạo và các tài sản nhân tạo khác được pháp luật qui định là tài sản của Nhà nước. Tài sản do pháp luật qui định là tài sản thuộc sở hữu Nhà nước tuỳ thuộc vào luật pháp của từng nước, ở nước ta Điều 181 Bộ luật Dân sự, đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá IX thông qua tại kỳ họp thứ 8 ngày 28/10/1995, quy định tài sản thuộc sở hữu toàn dân là “đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn do Nhà nước đầu tư vào xí nghiệp, công trình thuộc các ngành, lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước đều thuộc sở hữu toàn dân”. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, đại diện cho lợi ích của toàn dân, nên Nhà nước được dân giao thực hiện quyền chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân và đã được luật pháp qui định tại Điều 206 Bộ luật Dân sự 10/1995. Theo Điều này, “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân”. Theo qui định các Điều 181 và 206 của Bộ luật Dân sự 10/1995, tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm các loại tài sản sau: - Đất đai, các tài nguyên trên và trong lòng đất - Các tài sản được đầu tư mua sắm bằng nguồn vốn của Nhà nước trang cấp cho các doanh nghiệp nhà nước, các ngành lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học kỹ thuật, ngoại giao quốc phòng an ninh. - Các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước. Theo Bộ luật dân sự 10/1995, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và các văn bản qui phạm pháp luật, các tài sản này bao gồm các tài sản tịch thu sung quỹ Nhà nước, tài sản chôn dấu, chìm đắm tìm thấy, tài sản vắng chủ, vô chủ đã được xác lập quyền sở hữu Nhà nước và các tài sản do các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hiến tặng Chính phủ hoặc các tổ chức nhà nước. Tài sản của Nhà nước ngay từ chế độ phong kiến đã hiểu là tài sản công, như đất đai thuộc sở hữu của Nhà nước phong kiến được gọi là công điền, công thổ. Tài sản thuộc sở hữu toàn dân của nước ta hiện nay mà Nhà nước là người thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với các tài sản này được gọi là tài sản công. Nhà nước thực hiện chức năng sở hữu tài sản công, song Nhà nước không trực tiếp sử dụng các tài sản này mà Nhà nước giao quyền sử dụng tài sản công cho các tổ chức thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và tổ chức xã hội nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước trực tiếp quản lý, khai thác, sử dụng tài sản công phục vụ cho các hoạt động của mình và xã hội theo chế độ qui định của pháp luật; Các tổ chức cá nhân được Nhà nước giao sử dụng tài sản công đều phải chịu sự thống nhất quản lý của Chính phủ và Nhà nước kiểm tra giám sát tình hình quản lý sử dụng tài sản công của tổ chức, cá nhân. Như vậy, tài sản công được hiểu là tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, bao gồm toàn bộ tài sản được hình thành từ nguồn vốn Ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc Ngân sách nhà nước, các tài sản khác được xác lập quyền sở hữu của Nhà nước thông qua quốc hữu hóa hoặc quy định bằng pháp luật và đất đai, tài nguyên thiên nhiên khác gắn liền với đất đai, vùng trời, vùng biển của quốc gia được Nhà nước giao cho tổ chức, cá nhân trực tiếp quản lý, sử dụng theo qui định chung của Nhà nước và chịu sự kiểm tra giám sát của Nhà nước trong quá trình quản lý sử dụng tài sản. 1.2. Phân loại tài sản công Để nhận biết và từ đó định ra các biện pháp quản lý và sử dụng có hiệu quả với từng loại tài sản, tài sản công có thể được phân chia theo các tiêu thức chủ yếu sau: 1.2.1. Phân loại tài sản công theo nguồn gốc hình thành Theo cách phân loại này, tài sản công gồm: - Tài sản do thiên nhiên tạo ra ban tặng cho con người và thuộc chủ quyền của từng quốc gia như: đất đai, rừng tự nhiên, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước trong lòng đất, vùng trời, vùng biển, mặt nước, những danh lam thắng cảnh. Những tài sản này thường gọi chung là tài nguyên thiên nhiên. - Tài sản nhân tạo là tất cả các tài sản do con người tạo lập ra và được duy trì qua các thế hệ như: hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, các công trình văn hoá, các cổ vật, công sở, cơ sở sản xuất kinh doanh, phương tiện đi lại và thiết bị văn phòng, thiết bị máy móc sản xuất, tài sản tài chính… Tài sản nhân tạo được hình thành do đầu tư, mua sắm bằng kinh phí của Ngân sách nhà nước và những tài sản mà Nhà nước thu nạp được từ các tài sản tịch thu sung quỹ Nhà nước, tài sản hiến tặng của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. 1.2.2. Phân loại tài sản công theo thời hạn sử dụng Theo cách phân loại này, tài sản công bao gồm các loại tài sản có thể sử dụng vĩnh viễn không mất đi như tài nguyên đất, tài nguyên nước, không khí… và các tài sản có thời gian sử dụng nhất định như tài nguyên khoáng sản và các tài sản nhân tạo khác. Tuy nhiên, việc phân loại ra tài sản sử dụng vĩnh viên và tài sản sử dụng có hạn chỉ là tương đối, vì ngay tài nguyên đất nếu không có biện pháp quản lý, sử dụng và bảo vệ đất thì đất bị sói mòn, cằn cỗi không sử dụng được hoặc trong phạm vi một địa phương diện tích đất cũng bị giảm. 1.2.3. Phân loại tài sản công theo mục đích sử dụng tài sản Theo cách phân loại này tài sản công bao gồm: 1.2.3.1. Tài sản công thuộc khu vực hành chính sự nghiệp bao gồm những tài sản công là đất đai, nhà, công trình, vật kiến trúc trên đất, các phương tiện vận tải, máy móc, trang thiết bị làm việc, thiết bị chuyên dùng và các tài sản khác phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động sự nghiệp.mà Nhà nước giao cho các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp (gọi chung là đơn vị hành chính sự nghiệp) quản lý và sử dụng. 1.2.3.2. Tài sản công dùng cho mục đích công cộng bao gồm: những tài sản công là đất đai; Hệ thống giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường hàng không, bến cảng, bến phà, nhà ga…; Hệ thống thuỷ lợi: đê điều, hệ thống kênh mương, trạm bơm, hồ chứa nước, đập thuỷ lợi…; Hệ thống chiếu sáng, cấp, thoát nước, công viên…; Hệ thống các công trình văn hoá, di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng. 1.2.3.3. Tài sản công dùng vào sản xuất kinh doanh bao gồm đất đai giao cho các thành phần kinh tế khai thác sử dụng, tài nguyên thiên nhiên, nhà xưởng, trang thiết bị máy móc, phương tiện vận tải… vốn bằng tiền giao cho các doanh nghiệp nhà nước quản lý sử dụng vào sản xuất kinh doanh hoặc Nhà nước dùng các tài sản này góp vốn vào các công ty cổ phần và giao hoặc cho các tổ chức kinh tế khác, hộ gia đình và cá nhân thuê. 1.2.3.4. Tài sản công chưa sử dụng bao gồm các tài sản dự trữ Nhà nước, tài sản được xác lập sở hữu của Nhà nước đang trong quá trình xử lý và đất đai tài nguyên thiên nhiên chưa giao cho ai sử dụng. 1.2.4. Phân loại tài sản công theo đặc điểm và tính chất của tài sản Theo cách phân loại này, tài sản công bao gồm: 1.2.4.1. Bất động sản là các tài sản không di dời được như: Đất đai; Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng đó; Các tài sản khác gắn liền với đất đai và các tài sản khác do pháp luật quy định. 1.2.4.2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản như phương tiện giao thông vận tải, trang thiết bị làm việc và các tài sản khác. 1.3. Đơn vị sự nghiệp và tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 1.3.1. Đơn vị sự nghiệp Đơn vị sự nghiệp là những đơn vị hoạt động trong các lĩnh vực sự nghiệp giáo dục, khoa học công nghệ, môi trường, y tế, văn hoá nhệ thuật, thể dục thể thao, sự nghiệp kinh tế, dịch vụ, tư vấn, … do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập. Đơn vị sự nghiệp có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân vì các đơn vị này cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực chất lượng cao, quy trình công nghệ cao, công trình nghiên cứu khoa học cơ bản và thực hiện các hoạt động công ích phục vụ cho kinh tế – xã hội phát triển. Các đơn vị sự nghiệp này được Nhà nước đầu tư, mua sắm, trang cấp tài sản công (cơ sở vật chất), bảo đảm kinh phí hoạt động thường xuyên để thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn được giao như các cơ quan quản lý nhà nước; ngoài ra, đơn vị được phép thu một số khoản phí, lệ phí theo qui định của Nhà nước, thu thông qua hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ rất đa dạng ở hầu hết các lĩnh vực. Hiện nay, các đơn vị sự nghiệp được chia thành ba loại: - Đơn vị sự nghiệp có thu tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên: là đơn vị có nguồn thu sự nghiệp đủ bù đắp toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, Ngân sách nhà nước không phải cấp kinh phí hoạt động thường xuyên cho đơn vị; - Đơn vị sự nghiệp có thu tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên: là đơn vị có nguồn thu sự nghiệp chỉ đủ bù đắp một phần chi phí hoạt động thường xuyên, chưa tự trang trải toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, Ngân sách nhà nước phải cấp một phần kinh phí hoạt động thường xuyên cho đơn vị; - Đơn vị sự nghiệp có nguồn thu thấp hoặc không có thu do Ngân sách nhà nước đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên. 1.3.2. Tài sản công tại đơn vị sự nghiệp Tài sản công tại đơn vị sự nghiệp là một bộ phận tài sản công mà Nhà nước giao cho các đơn vị sự nghiệp trực tiếp quản lý và sử dụng, để thực hiện các hoạt động sự nghiệp phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, bao gồm: - Đất đai, nhà cửa, công trình, vật kiến trúc: là tài sản của đơn vị được giao và hình thành sau quá trình đầu tư xây dựng như trụ sở làm việc, trường học, bệnh viện, nhà thi đấu thể thao, nhà văn hóa, phòng thí nghiệm, nhà kho, hàng rào, tháp nước, sân bãi, các công trình trang trí cho nhà cửa, đường xá, cầu cống, đường sắt, cầu tầu, cầu cảng...; - Máy móc, thiết bị: là toàn bộ các loại máy móc, thiết bị trang bị cho cán bộ để làm việc và phục vụ hoạt động của đơn vị như máy móc chuyên dùng, thiết bị công tác, dây truyền công nghệ, những máy móc đơn lẻ...; - Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn như hệ thống thông tin, hệ thống điện, đường ống nước, băng tải...; - Thiết bị, dụng cụ quản lý: là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động của đơn vị như máy vi tính, thiết bị điện tử, thiết bị, dụng cụ đo lường, kiểm tra chất lượng, máy hút ẩm, hút bụi, chống mối mọt...; - Vườn cây lâu năm, súc vật nuôi để thí nghiệm hoặc nhân giống như vườn cà phê, vườn chè, vườn cao su, vườn cây ăn quả và đàn gia súc các loại. - Các loại tài sản khác: là toàn bộ các tài sản khác chưa liệt kê vào năm loại trên như tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật... 1.3.3. Đặc điển tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp có các đặc điểm sau: - Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp không chỉ được Nhà nước giao, được đầu tư, mua sắm bằng nguồn vốn Ngân sách nhà nước mà còn được đầu tư mua sắm từ nguồn vốn của các dự án, vốn vay của quỹ hỗ trợ phát triển hoặc Ngân hàng và quỹ phát triển sự nghiệp của đơn vị sự nghiệp có thu. - Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp trong qúa trình sử dụng một phần giá trị của tài sản là yếu tố chi phí tiêu dùng công, không trực tiếp thu hồi được phần giá trị hao mòn của các tài sản trong quá trình sử dụng, mà phần lớn thu hồi giám tiếp qua phí, lệ phí theo qui định của Nhà nước hoặc qua hiệu quả của các hoạt động sự nghiệp phục vụ cho sự phát triển kinh tế – xã hội; chỉ một số tài sản công trực tiếp sử dụng vào các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ, thì các tài sản đó là những tư liệu sản xuất để tạo ra các sản phẩm dịch vụ công được tính vào giá thành sản phẩm dịch vụ và thu hồi trực tiếp phần giá trị hao mòn của tài sản đó trong quá trình sử dụng. - Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp phần lớn mang tính chất đặc thù theo ngành, lĩnh vực sự nghiệp mà đơn vị đó hoạt động; cùng một loại tài sản nhưng có đặc điểm kỹ thuật và đặc tính riêng để phục vụ cho từng loại hoạt động sự nghiệp riêng theo ngành, lĩnh vực của đơn vị sự nghiệp thực hiện. 1.3.4. Vai trò của tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp Tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp là một bộ phận của tài sản quốc gia, là tiềm lực phát triển đất nước như Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã khẳng định: “ tài sản công là nền tảng, là vốn liếng để khôi phục và xây dựng kinh tế chung, để làm cho dân giàu, nước mạnh, để nâng cao đời sống nhân dân” ( Chủ tịch Hồ chí Minh với vấn đề tài chính. NXB Sự thật 1989, trang 79 ). Vai trò của tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp được thể hiện trên các mặt sau: - Tài sản công trước hết là điều kiện vật chất phục vụ cho hoạt động bộ máy quản lý điều hành các đơn vị sự nghiệp. Các tài sản này là nhà đất thuộc trụ sở làm việc, các phương tiện đi lại, máy móc thiết bị văn phòng trang bị cho bộ máy quản lý điều hành đơn vị sự nghiệp. Hoạt động của bộ máy này không thể thiếu được trong mỗi đơn vị sự nghiệp, vì bộ máy này không chỉ quyết định chương trình hoạt động của đơn vị mà còn tổ chức các hoạt động sự nghiệp của đơn vị. Muốn nâng cao hiệu suất hoạt động của bộ máy này theo hướng tinh giản biên chế thì phải tăng cường trang bị tài sản làm việc cho các bộ máy này cả về số lượng và chất lượng của tài sản. - Tài sản công trong đơn vị sự nghiệp là nhân tố quan trọng trong quá trình tổ chức thực hiện các hoạt động sự nghiệp, cung cấp các sản phẩm dịch vụ công với chất lượng cao cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nước ta là nước nông nghiệp tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước với yêu cầu phải rút ngắn thời gian, phải có bước nhảy vọt về công nghệ. Từ đó, tại Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII Đảng ta đã khẳng định, chiến lược phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là khâu đột phá để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Tài sản công trong đơn vị sự nghiệp là điều kiện vật chất để đào tạo con người có tri thức, có năng lực khoa học và công nghệ mạnh. Để có con người có tri thức, có năng lực khoa học để tiếp cận khoa học, công nghệ thế giới, đồng thời có lực lượng lao động có trình độ kỹ thuật, phải từ phát triển các sự nghiệp giáo dục - đào tạo; như năm 1994 UNESCO đã khẳng định: “không có một sự tiến bộ và thành đạt nào có thể tách khỏi sự tiến bộ và thành đạt trong lĩnh vực giáo dục của quốc gia đó”. - Tài sản công trong đơn vị sự nghiệp là điều kiện vật chất để nâng cao thể chất và tinh thần cho con người lao động. Con người lao động hiện nay không chỉ cần có tri thức, trình độ khoa học kỹ thuật mà còn phải có thể chất cường tráng, có hiểu biết về văn hoá, tinh thần yêu nước. Để tạo cho con người đạt các yêu cầu này phải bằng các hoạt động sự nghiệp phát triển trên cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động này được bảo đảm về số lượng và phù hợp với xu hướng phát triển khoa học công nghệ. - Tài sản công trong đơn vị sự nghiệp là điều kiện vật chất cần thiết để thực hiện các công trình khoa học công nghệ và áp dụng các thành tựu khoa vào phát triển kinh tế - xã hội. để thực hiện nghiên cứu và ứng dụng các công trình khoa học, ngoài các nhà khoa học thì điều kiện không thể thiếu là cơ sở vật chất; cơ sở vật chất này chính là yếu tố quan trọng đóng góp cho các hoạt động nghiên cứu, kết quả và sự thành công của các công trình nghiên cứu khoa học. 2. Cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 2.1. Cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp Cơ chế quản tài sản công được hiểu là phương thức mà qua đó bộ máy quản lý tác động vào khu vực tài sản công để kích thích, định hướng, hướng dẫn, tổ chức, điều tiết tài sản công vận động đến các mục tiêu đã xác định. Cơ chế quản lý tài sản công do chủ thể quản lý là Nhà nước hoạch định thông qua các quan hệ pháp lý, tổ chức theo luật định. Về nguyên tắc, cơ chế quản lý tài sản công do bộ máy quản lý soạn thảo và được quy chế hoá theo quy trình ban hành các văn bản qui phạm pháp luật, sau đó chính bộ máy quản lý sử dụng và hoàn thiện để tác động vào đối tượng quản lý là nền tài sản quốc gia. Cơ chế quản lý tài sản công là sản phẩm mang tính chủ quan, nhưng đòi hỏi phải phù hợp với những đòi hỏi khách quan trong điều kiện cụ thể; bản thân cơ chế quản lý tài sản công cũng là một hệ thống bao gồm hai bộ phận cơ bản sau đây: - Thứ nhất, là hệ thống các mục tiêu của quản lý tài sản công. Đây là bộ phận có tính quyết định sự vận hành của hệ thống hiệu qủa. Hệ thống các mục tiêu quản lý tài sản công được đề ra căn cứ vào sự phân tích tổng hợp quan hệ tương tác giữa mục tiêu và phương tiện, mục tiêu và nguồn lực. - Thứ hai, là các công cụ quản lý (bao gồm cả chính sách), phương pháp, phương tiện sử dụng để đạt mục tiêu đã đề ra, là bộ phận cốt yếu của cơ chế quản lý tài sản công. Cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp chỉ là một bộ phận trong cơ chế quản lý tài sản công nói chung. Hay nói khác đó chỉ là các phương thức mà qua đó bộ máy quản lý tác động vào tài sản tại các đơn vị sự nghiệp để kích thích, định hướng, hướng dẫn, tổ chức, điều tiết việc duy trì, phát triển, sử dụng, khai thác và xử lý tài sản công trong các đơn vị hành chính sự nghiệp vận động đến các mục tiêu đã xác định. Bộ phận cốt yếu của cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp là các công cụ quản lý (bao gồm cả chính sách), phương pháp, phương tiện sử dụng để đạt mục tiêu quản lý. 2.2. Chức năng, tác dụng của cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 2.2.1. Chức năng của cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp - Chức năng thông tin: Chức năng thông tin của cơ chế thể hiện ở chỗ nó chứa đựng thông tin về chiến lược, chính sách, các quy tắc, quy định, khuôn khổ, chuẩn mức,.. để cung cấp cho các đối tượng liên quan trong việc quản lý, sử dụng, xử lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. - Chức năng định hướng, hướng dẫn hành vi quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp: Chức năng này thể hiện ở chỗ thông qua những nguyên tắc, qui tắc, quy định, quy chế... thể hiện thông qua các văn bản qui phạm pháp luật được ban hành để định hướng, hướng dẫn các đơn vị sự nghiệp, các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện việc quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp; đồng thời để Nhà nước thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Tài sản công trong cơ quan sự nghiệp do Nhà nước trang cấp cho các đơn vị sự nghiệp sử dụng; các đơn vị sự nghiệp được Nhà nước giao tài sản công để trực tiếp quản lý sử dụng phục vụ cho hoạt động của đơn vị, chỉ có quyền và trách nhiệm thực hiện đầu tư xây dựng, mua sắm trang bị, bảo quản duy trì, sử dụng và xử lý bán, điều chuyển, thanh lý,.. theo đúng mục đích, hướng dẫn trong những nguyên tắc, qui tắc, quy định, quy chế của Nhà nước đã qui định đối với tài sản được Nhà nước giao. - Chức năng tổ chức, điều tiết việc quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp: Chức năng này thể hiện ở bằng các qui định, hướng dẫn thông qua văn bản qui phạm pháp luật và các biện pháp kinh tế kết hợp với biện pháp hành chính, Nhà nước qui định việc tổ chức thực hiện đầu tư, mua sắm tài sản công trong các đơn vị hành chính sự nghiệp, việc sử dụng, việc xử lý bán, điều chuyển, thanh lý tài sản để các đơn vị hành chính sự nghiệp, các tổ chức và cá nhân có liên quan tổ chức thực hiện. Đồng thời cũng điều tiết việc quản lý sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp cân đối, phù hợp với khả năng nguồn tài sản hiện có của Nhà nước, khả năng của Ngân sách nhà nước; cân đối, phù hợp với tài sản công tại các lĩnh vực khác, cũng như trong từng loại hình đơn vị sự nghiệp để bảo đảm phục vụ nhu cầu công tác hoạt động của các đơn vị sự nghiệp vừa duy trì phát triển có hiệu quả và tiết kiệm tài sản công. - Chức năng pháp lý làm căn cứ, cơ sở cho việc quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp: Thể hiện ở chỗ, cơ chế tạo lập các chuẩn mực, các quy phạm để làm căn cứ, cơ sở cho việc xây dựng qui chế, qui định quản lý sử dụng, kiểm tra giám sát và xử lý vi phạm trong quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Bằng thể chế quản lý bao gồm những quy tắc, qui định, quy chế,.. trong cơ chế quản lý, được ban hành thông qua các văn bản qui phạm pháp luật, thiết lập nên các căn cứ, cơ sở pháp lý cho việc huy động các nguồn tài sản, nguồn vốn để trang bị tài sản công phục vụ cho các hoạt động sự nghiệp; là căn cứ, cơ sở để thực hiện việc quản lý, sử dụng, xử lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp từ khi hình thành đến quá trình sử dụng và kết kết thúc; đồng thời đó cũng là công cụ pháp lý để các cơ quan chức năng của nhà nước, tổ chức và nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát việc quản lý sử dụng và xử lý những vi phạm trong việc quản lý sử dụng tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp. 2.2.2. Tác dụng của qui chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp - Củng cố vai trò của nhà nước trong việc thực hiện các chức năng phát triển văn hóa xã hội và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Với cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp để phục vụ tốt cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, môi trường, …, bảo đảm cơ sở vật chất cho không chỉ bộ máy của các đơn vị sự nghiệp hoạt động mà còn bảo đảm cho các hoạt động sự nghiệp do các đơn vị sự nghiệp đảm nhận thực hiện ngày càng được nâng cao phục vụ ngày càng tốt hơn cho xã hội và mọi người dân; từ đó khẳng định và thể hiện rõ vai trò của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do dân và vì dân, củng cố vững chắc vai trò của nhà nước không chỉ là bộ máy quản lý xã hội, mà còn là bộ máy phục vụ nhân dân, phục vụ lợi ích của toàn xã hội. - Góp phần nâng cao cả về chất lượng và số lượng của các hoạt động sự nghiệp phục vụ lợi ích chung của quốc gia, lợi ích công cộng. Với cơ chế quản lý tài sản tại các đơn vị sự nghiệp phù hợp, sẽ tạo điều kiện huy động tối đa các nguồn lực hiện có cho việc đầu tư tài sản tại các đơn vị sự nghiệp bảo đảm đáp ứng yêu cầu về cơ sở vật chất để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao, tạo lập nên hệ thống cơ sở vật chất hiện đại để phục vụ giáo dục, nghiên cứu khoa học, cải tạo môi trường, phát triển văn hóa, thể thao, … ;từ đó mở rộng các hoạt động sự nghiệp phục vụ cho xã hội, đồng thời từng bước nâng cao chất lượng và kết quả của các hoạt động sự nghiệp. - Phát huy và nâng cao hiệu quả của tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp nói riêng và tài sản công nói chung phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hộ._.i của đất nước. Cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp định ra những nguyên tắc, quy chế, qui định,.. trong việc sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp một cách phù hợp, tiết kiệm, hiệu quả, hạn chế những thất thoát, lãng phí; bảo đảm cho toàn bộ cơ sở vật chất trong các đơn vị sự nghiệp ngày càng phục vụ tốt cho công tác của các đơn vị sự nghiệp, phục vụ tốt các hoạt động sự nghiệp với mức cao nhất; từ đó góp phần phát huy và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản phục vụ cho các hoạt động sự nghiệp và sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội ngày càng cao. 2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 2.3.1. Cơ chế thị trường Hiện nay nước ta đang phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, tức nền kinh tế vận động và phát triển phải tuân theo các quy luật của thị trường, đồng thời có sự điều tiết, quản lý của Nhà nước. Các quy luật của thị trường không những chi phối tác động trong nền kinh tế, mà còn ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác, trong đó có lĩnh vực hoạt động sự nghiệp. Vì vậy, cơ chế thị trường cũng là nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động sự nghiệp và cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Nhân tố này ảnh hưởng đến các quy định trong cơ chế về trang bị, đầu tư, mua sắm đến theo dõi quản lý tài sản hay xử lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp cũng phải được thể chế phù hợp với các quy luật cung cầu, quy luật giá trị, ... . Điều này thể hiện ở quy định đấu thầu trong đầu tư, xây dựng, xác định giá trị tài sản tại đơn vị, định giá tài sản khi chuyển giao, đấu giá tài sản khi xử lý bán, thanh lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp đều phải bảo đảm thể hiện đúng giá trị của tài sản theo giá thị trường, hay nói khác là phải thực hiện theo quy luật cung cầu, quy luật giá trị,.. 2.3.2. Chủ trương, chính sách phát triển hoạt động sự nghiệp của Đảng và Chính phủ Đây là nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành, xây dựng, sửa đổi và hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Trên cơ sở chủ trương, chính sách phát triển hoạt động sự nghiệp của Đảng và Chính phủ, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển hoạt động sự nghiệp trong các lĩnh vực, khoa học, giáo dục, môi trường, văn hóa, thể thao, .. và các mục tiêu phát triển hoạt động sự nghiệp được xác định; từ đó cơ chế quản lý tài sản tại các đơn vị sự nghiệp sẽ phải xây dựng, sửa đổi, hoàn thiện cho phù hợp để bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ công tác của các đơn vị sự nghiệp, phục vụ cho các hoạt động sự nghiệp theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển hoạt động sự nghiệp và đạt được các mục tiêu đã đề ra. 2.3.3. Thể chế về quản lý kinh tế, quản lý tài chính và quản lý tài sản công Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến những nguyên tắc, quy chế, qui định,.. trong cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Thể chế quản lý về kinh tế, về tài chính và quản lý tài sản công qui định chuẩn mực hành vi của các chủ thể tham gia trong hệ thống kinh tế, qui định trách nhiệm và thẩm quyền của chủ thể quản lý về tài chính, tài sản và nghĩa vụ, trách nhiệm của đối tượng quản lý. Thể chế quản lý kinh tế, quản lý tài chính và quản lý tài sản công qui định cái gì được làm, cái gì không được làm, các gì làm phải có điều kiện; đồng thời cũng xác lập các công cụ cưỡng chế, chế tài hành vi của các tổ chức, của các đơn vị trong lĩnh vực kinh tế, tài chính, tài sản công. Thể chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp phải căn cứ các thể chế quản lý kinh tế, quản lý tài chính và quản lý tài sản công để sửa đổi và hoàn thiện cho phù hợp; đồng thời lấy các thể chế quản lý kinh tế, quản lý tài chính và quản lý tài sản công làm cơ sở để xây dựng, bổ sung và thể chế để quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. 2.3.4. ý thức, năng lực của cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý và các đơn vị sự nghiệp. Đây là nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của cơ chế. Do cơ chế quản lý do chủ thể quản lý hoạch định thông qua các quan hệ pháp lý, tổ chức theo luật định; Về nguyên tắc, cơ chế quản lý do bộ máy quản lý soạn thảo và được quy chế hoá theo quy trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để tác động vào đối tượng quản lý, cơ chế quản lý là sản phảm mang tính chủ quan, nhưng đòi hỏi phải phù hợp với các đòi hỏi khách quan trong điều kiện cụ thể. Việc thực hiện cơ chế cũng do các tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi chi phối của cơ chế và các đơn vị sự nghiệp tổ chức thực hiện. Vì vậy, ý thức trách nhiệm, trình độ năng lực chuyên môn, v.v.. của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý, cơ quan soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật để quy chế hoá cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp và trong các đơn vị được giao chức năng quản lý, trong các đơn vị sự nghiệp được giao tài sản trực tiếp quản lý sử dụng là nhân tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng của cơ chế và hiệu quả thực hiện cơ chế. 3. Quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp của một số nước và kinh nghiệm vận dụng cho Việt Nam 3.1. Quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp của một số nước ở Trung Quốc: Năm 2003 đã thành lập Bộ Quản lý tài sản quốc gia thuộc Chính phủ. Bộ này được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, trong đó có nhiệm vụ là đại diện quyền sở hữu tài sản nhà nước tại tất cả các cơ quan sự nghiệp, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của tài sản nhà nước tại các đơn vị sự nghiệp, ngăn chặn mọi trường hợp hư hao, tổn thất mất mát tài sản bằng các biện pháp theo qui định của pháp luật. ở Trung Quốc tài sản sự nghiệp là tổng hợp các nguồn kinh tế tính thành tiền, được pháp luật công nhận là sở hữu nhà nước và do đơn vị sự nghiệp được quyền chiếm hữu và sử dụng, gồm có tài sản của Nhà nước cấp cho đơn vị sự nghiệp, tài sản của đơn vị sự nghiệp được hình thành từ nguồn thu của tổ chức tài sản nhà nước sử dụng theo quy định của chính sách nhà nước, cũng như những tài sản quyên góp, biếu tặng và tài sản khác được pháp luật xác nhận là sở hữu nhà nước. Hình thức biểu hiện của tài sản sự nghiệp cụ thể là: tài sản lưu động, đầu tư dài hạn, tài sản cố định, tài sản vô hình và các loại tài sản khác. Nhiệm vụ chủ yếu của quản lý tài sản sự nghiệp là: xây dựng và hoàn thiện các loại điều lệ, chế độ, xác định rõ quan hệ về quyền sở hữu tài sản, thực hiện quản lý quyền sở hữu tài sản một cách hợp lý, sử dụng tài sản một cách tiết kiệm và có hiệu quả, thực hiện chế độ sử dụng có hoàn trả đối với tài sản kinh doanh, giám sát việc bảo toàn vốn và phát triển vốn đối với tài sản kinh doanh. Nội dung quản lý tài sản sự nghiệp gồm có: đăng ký, xác định giới hạn, thay đổi quyền sở hữu tài sản và xử lý tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; sử dụng, xử lý, đánh giá, thống kê báo cáo và giám sát về tài sản, thông báo cho cơ quan tài chính cùng cấp về tình hình tài sản. Nhà nước quản lý mọi tài sản sự nghiệp, giữ vững nguyên tắc tách biệt giữa quyền sở hữu với quyền sử dụng, thực hiện chế độ quản lý nhà nước do Nhà nước nắm quyền sở hữu thống nhất, chính quyền giám sát và quản lý theo từng cấp và đơn vị được quyền chiếm hữu và sử dụng tài sản này. Trong quá trình sử dụng tài sản công tại đơn vị sự nghiệp, một số đơn vị sự nghiệp được phép chuyển tài sản không kinh doanh sang kinh doanh với điều kiện các đơn vị này phải đảm bảo hoàn thành công tác bình thường được Nhà nước giao và phải thu hồi vốn đầu tư mua sắm tài sản. Cơ quan quản lý tài sản nhà nước các cấp có quyền giám sát, kiểm tra hiệu quả kinh tế, tình hình chia lời của tài sản không kinh doanh chuyển thành tài sản kinh doanh của đơn vị, kịp thời xử lý những vấn đề còn vướng mắc. ở Pháp: Tài sản công là toàn bộ các tài sản gồm động sản và bất động sản cấu thành tài sản của nhà nước trung ương và chính quyền địa phương các cấp. Tài sản nhà nước chia thành tài sản công của Nhà nước và tài sản tư của Nhà nước: - Tài sản công của Nhà nước là tất cả các tài sản dưới dạng động sản và bất động sản thuộc về Nhà nước và không thể chuyển quyền sở hữu tư nhân do tính chất của chúng hay chức năng sử dụng của chúng như: tài sản công có thuộc tính tự nhiên (tài nguyên thiên nhiên, sông hồ, vùng biển, vùng trời…); tài sản công có thuộc tính nhân tạo (cơ sở hạ tầng, đường xá, cầu cảng, hệ thống phân phối điện, nhà máy, điện nguyên tử, các công trình tôn giáo, văn hoá, công trình công cộng…) - Tài sản tư của Nhà nước là các tài sản được sử dụng cho cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng. Nhóm tài sản công này bao gồm các tài sản được đại diện của từng cơ quan, tổ chức nhà nước nắm giữ như một chủ sở hữu tư nhân và chịu trách nhiệm về tài sản cũng như hưởng lợi từ tài sản theo thẩm quyền quản lý của mình. Cơ quan quản lý công sản là cơ quan duy nhất được trao thẩm quyền bán tài sản từ các nguồn sau: - Tài sản không cần dùng, - Tài sản do cơ quan toà án chuyển sang để phát mãi sung công, - Tài sản vô thừa nhận, tài sản vô chủ, vắng chủ, được xác lập sở hữu Nhà nước, - Tài sản bị tịch thu sung quĩ Nhà nước. Ngoài ra các đơn vị cũng có thể yêu cầu cơ quan công sản bán các động sản không còn sử dụng cũng như các sản phẩm sản xuất thử… Việc bán tài sản nhà nước được tiến hành bằng nhiều phương thức khác nhau như bán theo thoả thuận, bán chỉ định hoặc bán theo hình thức gọi thầu, bán đấu giá công khai, trong đó bán đấu giá công khai là hình thức cơ bản nhất. ở Đức: Tài sản công được chia làm 2 loại: tài sản quản lý và tài sản tài chính. Tài sản quản lý là những tài sản được Liên bang, Bang sử dụng cho công tác của các cơ quan Nhà nước. Tài sản do cơ quan nào sử dụng thì cơ quan đó có quyền quản lý; song cũng có bang, cơ quan tài chính quản lý toàn bộ tài sản của các cơ quan được giao sử dụng. Mặc dù, cách giao quản lý khác nhau, nhưng đều thống nhất là: - Bộ Tài chính quyết định mua bán đất đai công, mua bán hoặc xây dựng công sở của mọi cơ quan Nhà nước (trừ xã). Riêng các trường hợp bán nhà thuộc trụ sở làm việc và đất có giá trị trên 3 triệu DM thì Bộ Tài chính phải trình Quốc hội quyết định (tất nhiên phải thông qua Chính phủ); quyết định thu hồi cơ sở nhà đất là trụ sở làm việc của các cơ quan nhà nước khi các cơ quan này không còn nhu cầu sử dụng tài sản hoặc cơ quan giải thể; - Các bộ, ngành muốn thay đổi mục đích diện tích đất và nhà (thuộc trụ sở) dư thừa phải xin ý kiến của Bộ Tài chính. Bộ Tài chính kiểm tra, xem xét và cho phép mới được sử dụng; - Đối với các động sản là tài sản quản lý thì giao cho các bộ, ngành quản lý theo chế độ, định mức, tiêu chuẩn do Bộ Tài chính qui định. - Toàn bộ việc bảo dưỡng, sửa chữa tài sản Nhà nước đều thực hiện theo định mức cố định và giao cho cơ quan quản lý sử dụng tự tổ chức thực hiện sau khi đã được Bộ Tài chính đồng ý và được Quốc hội phê chuẩn. Trường hợp tài sản bị hư hỏng đột xuất thì cơ quan sử dụng phải bàn bạc với Bộ Tài chính để xử lý, có thể cho sửa chữa tạm thời sau mới sửa chữa hoặc thay thế hoàn toàn. Tài sản tài chính bao gồm toàn bộ đất đai (bất động sản) không sử dụng xây dựng nhà, công trình được giữ lại phục vụ cho mục tiêu chung như: đất lâm nghiệp, đất nông nghiệp, đất bảo vệ môi trường, đất chưa sử dụng... trong đó, chủ yếu là đất rừng. Toàn bộ tài sản tài chính do Bộ Tài chính quản lý trực tiếp (Vụ Công sản): Quyết định mua, bán, cho thuê hoặc đi thuê và có trách nhiệm giữ vốn đất (khi bán hoặc đưa vào sử dụng thì phải tìm cách mua để bù vào). ở Hàn Quốc: Tài sản công được hiểu theo nghĩa rộng là tất cả các tài sản do Chính phủ sở hữu phục vụ cho các mục đích công cộng. Theo nghĩa hẹp là các tài sản được mô tả trong mỗi mục dưới đây và do Chính phủ sở hữu thông qua việc thu, mua hoặc chiếm dụng đã được quy định trong các Luật chung (Luật tài sản quốc gia, Luật quy hoạch đô thị) và Luật riêng (Luật đường sá, sông ngòi, đất đai…) như: + Bất động sản và các tài sản kèm theo; + Tàu lớn, cầu phao, máy bay và các phụ kiện; + Các máy móc và dụng cụ quan trọng cho các Công ty của Chính phủ hay cơ sở vật chất của Chính phủ; + Quyền khai thác mỏ và các quyền tương đương khác. Chính phủ Hàn Quốc thông qua cơ quan quản lý tài sản quốc hữu trực thuộc cơ quan tài chính để thực hiện vai trò chủ sở hữu và quản lý nhà nước đối với tài sản quốc hữu với các nội dung sau: - Xây dựng các văn bản pháp luật về quản lý tài sản quốc hữu như luật của Quốc hội, luật của Tổng thống và Nghị định của Chính phủ về tài sản quốc hữu; - Quyết định các khoản chi tiêu tài chính về xây dựng, mua sắm, sửa chữa tài sản quốc hữu tại các cơ quan; - Thực hiện điều động tài sản công hữu giữa các cơ quan, đơn vị, góp cổ phần bằng tài sản quốc hữu; - Xác định giá tài sản quốc hữu theo định kỳ 5 năm và thống kê tài sản quốc hữu báo cáo Chính phủ. ở các đơn vị sự nghiệp muốn mua sắm, xây dựng mới tài sản và trụ sở làm việc hàng năm phải căn cứ vào tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản và quy chế cung cấp tài sản công để lập kế hoạch trình phê duyệt. Khi kế hoạch đã được phê duyệt thì đơn vị chủ động ký hợp đồng với đơn vị xây dựng để xây dựng (đối với trụ sở làm việc) và đơn vị tổ chức cung cấp hàng hoá để mua và thanh toán trực tiếp. Trong quá trình quản lý và sử dụng tài sản công, các đơn vị sự nghiệp phải đảm bảo thực hiện nguyên tắc: không được cho thuê, nhượng bán, trao đổi và phải giao lại cho Chính phủ (Bộ Tài chính) những bất động sản các đơn vị xét thấy không cần dùng; nhưng được phép tổ chức chuyển đổi, nhượng bán các tài sản máy móc, dụng cụ mà đơn vị xét thấy không cần dùng hoặc cần thanh lý, sau khi được cơ quan điều hành chung về tài sản công đồng ý. Việc bán thanh lý thông qua tổ chức đấu giá, số tiền thu được nộp vào một tài khoản đặc biệt của Chính phủ. ở Quebéc - Canađa: Việc quản lý, sử dụng đối với bất động sản (nhà đất) và phương tiện vận tải, đi lại trong các cơ quan sự nghiệp, trước năm 1995 được giao trực tiếp cho các Bộ, ngành, cơ quan nhà nước trực tiếp quản lý, sử dụng. Từ cuối năm 1994, Chính phủ Quebéc thực hiện đổi mới công tác quản lý sử dụng trụ sở làm việc và phương tiện đi lại, không giao cho các cơ quan nhà nước trực tiếp quản lý tài sản, Chính phủ thành lập đơn vị chuyên quản lý tài sản là: + Công ty (Hãng) bất động sản Quebéc – là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Chính phủ để thực hiện quản lý toàn bộ nhà đất văn phòng và nhà chuyên dùng. + Trung tâm quản lý thiết bị vận tải để quản lý xe ôtô của các cơ quan Chính phủ và thực hiện cho các cơ quan Chính phủ thuê theo hợp đồng kinh tế. - Các bộ, ngành, cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp chỉ được thuê trụ sở làm việc, phương tiện đi lại theo tiêu chuẩn, định mức hoặc theo yêu cầu, nhiệm vụ được giao và phải sử dụng tài sản theo đúng mục đích. Quan hệ này được thực hiện theo hợp đồng thuê tài sản. Các đơn vị phải thuê trụ sở làm việc của Công ty quản lý bất động sản song không nhất thiết phải thuê phương tiện vận tải của Trung tâm để sử dụng. Khi các cơ quan có sự thay đổi về nhu cầu sử dụng diện tích làm việc, phương tiện đi lại hoặc không còn nhu cầu sử dụng sẽ ký lại hợp đồng thuê sử dụng (thuê tăng lên hay giảm đi) cho phù hợp với nhu cầu, tiêu chuẩn, định mức sử dụng hoặc chấm dứt hợp đồng thuê. Việc quản lý, sử dụng đối với máy móc, trang thiết bị phương tiện làm việc khi đầu tư mua sắm trong các cơ quan ở Quebéc, do bộ phận chuyên trách mua sắm tài sản thực hiện và mua sắm từng kỳ 3 năm để trang bị cho các cơ quan quản lý, sử dụng trên cơ sở nhu cầu, đề nghị của các đơn vị và ý kiến thẩm định của Bộ Tài chính. - Các đơn vị được giao tài sản có trách nhiệm bảo dưỡng, sửa chữa tài sản và bố trí sử dụng theo tiêu chuẩn, định mức Chính phủ quy định để bảo đảm phục vụ nhu cầu công tác và sử dụng tài sản có hiệu quả và tiết kiệm. Việc điều chuyển tài sản giữa các đơn vị hầu như không có, nếu có do các đơn vị tự thoả thuận với nhau. - Khi các đơn vị có nhu cầu bán tài sản (kể cả bán thanh lý), các đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản có văn bản đề nghị với bộ phận chuyên trách mua sắm tài sản để xem xét quyết định; căn cứ vào quyết định các đơn vị tổ chức thực hiện việc bán, thanh lý tài sản. 3.2. Hiệu quả trong quản lý tài sản ở các nước và kinh nghiệm vận dụng cho Việt Nam Từ nghiên cứu quản lý tài sản công của các nước, rút ra một số nhận xét về hiệu quả và kinh nghiệm vận dụng vào Việt Nam, như sau: - Việc thể chế cơ chế quản lý tài sản bằng văn bản quy phạm pháp luật ở cấp độ Luật và các qui định, quy chế được thể chế cụ thể bằng các văn bản dưới luật tạo thành hệ thống pháp luật về quản lý tài sản công đã bảo đảm cho việc quản lý và sử dụng tài sản công nói chung và tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp trong toàn quốc gia đi vào nề nếp, bảo đảm việc sử dụng tài sản tại các đơn vị đúng mục đích, ít xảy ra thất thoát hoặc sử dụng lãng phí tài sản. Từ đó rút ra kinh nghiệm có thể vận dụng vào nước ta là Nhà nước cần phải thực hiện quản lý tài sản công bằng pháp luật với mức cao là Luật chung về quản lý tài sản nhà nước, bên cạnh đó còn có các Luật khác quy định quản lý một số tài sản cụ thể như Luật đất đai, Luật tài nguyên khoáng sản, … ,cùng các văn bản quy phạm pháp luật dưới Luật hợp thành một hệ thống thống nhất về quản lý tài sản công của Nhà nước; và trong các lĩnh vực hoặc nhóm tổ chức, đơn vị thực hiện các chức năng nhiệm vụ khác nhau, cũng cần có cơ chế, qui định, quy chế cụ thể về quản lý tài sản khác nhau. - Với cơ chế quản lý tài sản được thể chế bằng các nguyên tắc, quy định, quy chế, chế độ,....càng đầy đủ, cụ thể, thì việc quản lý tài sản công vừa chặt chẽ, vừa thuận lợi, hạn chế được những sai phạm trong cả quản lý và sử dụg; đồng thời việc cho phép các cơ quan quản lý tài sản công được khai thác tài sản công dư thừa chưa bố trí cho các cơ quan, tổ chức của nhà nước sử dụng và cho các đơn vị sự nghiệp được Nhà nước giao quản lý sử dụng tài sản công phục vụ công tác, được phép chuyển tài sản hoặc sử dụng tài sản công vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, từ đó đã đem lại nguồn kinh tế không nhỏ để tái đầu tư tài sản hoặc sửa chữa, nâng cấp tài sản công. Từ đó rút ra kinh nghiệm để có thể vận dụng vào nước ta là cơ chế quản lý tài sản công nói chung và cơ chế quản lý tài sản công ở từng lĩnh vực, từng nhóm tổ chức, đơn vị cần được thể chế bằng các nguyên tắc, quy định, quy chế, chế độ,.... một cách đầy đủ, cụ thể sẽ bảo đảm hướng dẫn, điều tiết, tổ chức, .. việc quản lý tài sản công phục vụ cho các mục tiêu của nhà nước đã đề ra một cách hiệu quả. - Việc Chính phủ thành lập cơ quan ở trung ương và địa phương có chức năng, nhiệm vụ chuyên quản lý tài sản công và các tổ chức chuyên trách thực hiện việc mua sắm tài sản công để trang bị cho các đơn vị sử dụng hoặc quản lý tài sản công (nhà, xe ô tô) để bố trí, cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp thuê sử dụng đã bảo đảm cho việc sử dụng của các cơ quan phù hợp với nhu cầu, không có hiện tượng thiếu tài sản sử dụng hay sử dụng tài sản dư thừa; vừa tiết kiệm được trong sử dụng tài sản và vừa phát huy được hết công suất sử dụng của tài sản phục vụ cho công tác và các hoạt động sự nghiệp. Từ đó rút ra kinh nghiệm có thể vận dụng vào nước ta là cần xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý tài sản của Nhà nước và trong các đơn vị sử dụng tài sản thành hệ thống hoàn chỉnh; thành lập các tổ chức chuyên trách về quản lý và khai thác tài sản công sẽ làm cho tài sản công phát huy được hiệu quả cao trong phục vụ công tác, phục vụ hoạt động sự nghiệp cũng như đem lại nguồn thu cho Ngân sách nhà nước. Chương II Thực trạng cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 1. Thực trạng tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp. 1.1. Hiện trang tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 1.1.1. Quá trình vận động của tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp từ năm 1990 đến nay Tài sản công là cơ sở vật chất quan trọng để cho các đơn vị sự nghiệp hoạt động. Do vậy, trong những năm từ 1990 - đến 1998, tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp nói chung và các đơn vị sự nghiệp nói riêng được Nhà nước quan tâm trang bị bằng các phương thức giao, đầu tư, mua sắm; tính đến ngày 01/01/1998 tổng giá trị còn lại của tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp ước khoảng 280 nghìn tỷ đồng, trong đó tài sản công không phải là đất đạt 70.130 tỷ đồng tăng 13 lần so với giá trị tài sản công, không kể đất có đến năm 1990. Trong đó, giá trị tài sản công dùng trong các đơn vị sự nghiệp chiếm khoảng 45% tổng giá trị tài sản công của khu vực hành chính sự nghiệp. Tiếp đó, những năm (1998-2002) nhà nước tiếp tục ưu tiên đầu tư mua sắm tài sản công cho các hoạt động sự nghiệp từ Ngân sách nhà nước với tốc độ năm sau cao hơn năm trước. Tổng số Ngân sách nhà nước dành để đầu tư mua sắm tài sản công cho hoạt động sự nghiệp hàng năm chiếm từ 73-78% tổng vốn đầu tư cho khu vực hành chính sự nghiệp. Giá trị tài sản công dùng vào hoạt động sự nghiệp trong những năm (1998 – 2002) không ngừng tăng, năm sau cao hơn năm trước và chiếm khoảng 74% - 87% giá trị tài sản cố định tăng thêm của khu vực hành chính sự nghiệp. Điều này có thể chứng minh bằng tốc độ tăng vốn đầu tư và giá trị tài sản cố định tăng thêm của lĩnh vực sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ, y tế và văn hoá thể thao trong các năm (1998 – 2002) dưới đây: Vốn đầu tư phát triển và giá trị TSC tăng thêm trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, văn hoá trong các năm (1998 - 2002) Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 2002 1/ Vốn đầu tư phát triển cho giáo dục-đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, văn hoá - So với tổng số vốn đầu tư phát triển khu vực HCSN % 7346,1 74, 2 10.876,6 73, 6 13.101,4 77, 0 13.159,0 77, 3 14.200 76, 8 2/ Giá trị tài sản tăng thêm - So với giá trị TSCĐ tăng thêm khu vực HCSN % 3988,2 74, 2 5352,4 79, 0 3551,3 87, 3 6029,8 76, 1 6440,2 76, 5 1.1.2. Một số tài sản công chủ yếu các đơn vị sự nghiệp đang trực tiếp quản lý sử dụng 1.1.2.1. Tài sản là đất đai Đất đai là tài sản lớn nhất trong các đơn vị sự nghiệp. Tổng quỹ đất đai do các cơ quan hành chính sự nghiệp nói chung quản lý và sử dụng là 229.217 ha, chiếm 0,7 % tổng diện tích đất tự nhiên của cả nước. Tổng giá trị quỹ đất, tính theo giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định căn cứ khung giá các loại đất ban hành theo Nghị định 87/CP là 210.052 tỷ đồng, chiếm 65% tổng giá trị tài sản cố định nhà nước tại khu vực hành chính sự nghiệp nói chung. 1.1.2.2. Tài sản là nhà làm việc và công trình khác Quĩ nhà làm việc và công trình vật kiến trúc của khu vực hành chính sự nghiệp là một tài sản lớn thứ hai sau đất đai với tổng diện tích 65,878 triệu m2, với trị giá 81.482 tỷ đồng, chiếm 25,2% tổng giá trị tài sản cố định khu vực hành chính sự nghiệp và chiếm 72,3% tổng trị giá các tài sản cố định không kể đất. Chỗ làm việc của các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp từng bước được cải thiện nhiều so với thời kỳ trước đổi mới. 1.1.2.3. Tài sản là phương tiện vận tải Số phương tiện vận tải là xe ô tô trong các đơn vị sự nghiệp khoảng 15.0000 xe, với giá trị nguyên giá theo sổ sách kế toán gần 6.000 tỷ đồng. Tổng trị giá các phương tiện vận tải chiếm khoảng 2,2% tổng trị giá các tài sản cố định kể cả đất và bằng 6,2 % tổng giá trị tài sản cố định không bao gồm đất của các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp. Phương tiện vận tải trang bị cho các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp chủ yếu là xe ô tô con chiếm gần 62% và xe gắn máy chiếm khoảng 10,5% tổng giá trị các phương tiện vận tải trang bị cho các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp, còn lại là các phương tiện vận tải chuyên dùng cho hoạt động sự nghiệp như xe car, xe cứu thương, xe thông tin, ... 1.1.2.4. Tài sản là trang thiết bị làm việc Tổng giá trị máy móc thiết bị là 11.699 tỷ đồng, chiếm 3,3% tổng giá trị của các tài sản nhà nước khu vực hành chính sự nghiệp và bằng 10,37% tổng giá trị tài sản nhà nước không kể đất. Một số ngành như phát thanh, truyền hình, hàng không, địa chính, khoa học công nghệ được quan tâm đầu tư mua sắm máy móc thiết bị hơn các ngành khác. Tuy nhiên mức trang bị máy móc thiết bị cho các đơn vị sự nghiệp còn có chênh lệch giữa cấp Trung ương và địa phương, cụ thể ở cấp Trung ương đạt 44 triệu đồng/người, địa phương chỉ đạt 5,58 triệu đồng/người. 1.2. Thực trạng sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 1.2.1. Những ưu điểm và kết quả sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp đem lại - Hầu hết các bộ, ngành, địa phương và các đơn vị sự nghiệp đã quản lý kiểm tra, giám sát được việc đầu tư mua sắm các tài sản lớn như xây dựng trụ sở làm việc, mua ô tô và tài sản khác của các đơn vị sự nghiệp thuộc bộ, ngành. địa phương quản lý và tại đơn vị; Tài sản công là phương tiện đi lại, điện thoại đã được mua sắm, trang bị sử dụng theo đúng tiêu chuẩn, định mức đáp ứng đúng nhu cầu công tác, phục vụ hoạt động sự nghiệp của đơn vị. - Việc bố trí sử dụng tài sản tại các đơn vị sự nghiệp đã từng bước dược cân đối hài hoà, tài sản dư thừa, không có nhu cầu sử dụng tại các đơn vị đã được điều chuyển kịp thời cho các đơn vị còn thiếu hoặc có nhu cầu để sử dụng; Trong các đơn vị sự nghiệp đã thực hiện bố trí sử dụng tài sản đúng mục đích và khai thác sử dụng có hiệu quả hơn nguồn tài sản công hiện có phục vụ cho công tác và các hoạt động sự nghiệp của đơn vị. Từ đó bảo đảm sử dụng tài sản một các tiết kiệm và hiệu quả. - Các đơn vị sự nghiệp đã từng bước thực hiện sắp xếp các cơ sở nhà đất thuộc sở hữu Nhà nước tại đơn vị đang trực tiếp quản lý sử dụng, rút ra quĩ nhà đất dôi dư chuyển sang cho đơn vị khác sử dụng hoặc lập phương án chuyển nhượng để sử dụng tiền thu từ chuyển nhượng nhà đất phục vụ cho đầu tư mua sắm tài sản, tăng cường cơ sở vật chất tại đơn vị theo dự án được duyệt; Việc thanh lý tài sản hư hỏng, lạc hậu về kỹ thuật, tài sản không còn phù hợp đã được quan tâm hơn và thực hiện kip thời, để thu hồi tiền về Ngân sách nhà nước hoặc sử dụng phục vụ cho việc trang bị, nâng cấp, sửa chữa tài sản tại đơn vị. Từ đó hạn chế bớt sự lãng phí thất thoát tài sản. Với việc đầu tư phát triển tài sản công cho các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước trong những năm qua, cùng với kết quả quản lý sử dụng tài sản tại các đơn vị sự nghiệp ngày càng được nâng cao đã tạo cơ sở vật chất quan trọng và phát huy càng cao vai trò của tài sản công phục vụ cho các hoạt động sự nghiệp phát triển, cung cấp cho sự phát triển kinh tế-xã hội các sản phẩm công ích ngày càng tốt hơn. Kết quả này được thể hiện qua cơ sở vật chất và những thành quả của hoạt động sự nghiệp trong những năm qua, cụ thẻ như sau: - Tính đến năm học 2002 – 2003, cả nước đã có 87.400 lớp mẫu giáo, 25.825 trường phổ thông và 179 trường đại học, cao đẳng và 231 trường trung học chuyên nghiệp, bảo đảm cho các hoạt động sự nghiệp trong lĩnh vực đào tạo. Kết quả trong năm 2002 – 2003 cả nước đã có 2.143.900 trẻ em đến lớp mẫu giáo, 17.700.000 học sinh đến trường và 908.000 sinh viên học đại học, cao đẳng và tính đến 7/2003 số lao động được đào tạo có trình độ chuyên môn kỹ thuật tính từ sơ cấp hoặc có chứng chỉ nghề trở lên chiếm tới 20,1% tổng số lao động của cả nước. - Nhà nước đã đầu tư, mua sắm các tài sản công trang bị cho các hoạt động sự nghiệp y tế, thể thao tính đến năm 2002 cả nước đã có 13.095 cơ sở khám chữa bệnh, 192,3 ngàn giường bệnh, 156 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp, 108 rạp chiếu bóng, 653 thư viện các cấp từ Trung ương đến huyện. Với những cơ sở vật chất đã có để nâng cao thể chất và tinh thần cho con người lao động phù hợp với xu hướng phát triển khoa học công nghệ, đến năm 2000 nước ta, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt 0,688, xếp thứ 109/174 nước trên thế giới và xếp hàng thứ 6 trong khu vực Đông Nam á; trong đó năm 2000 Việt Nam đã hoàn thành chương trình xoá nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, nhiều học sinh đạt giải thưởng cao trong các kỳ thi quốc tế, về y tế cứ 10.000 dân có 5,6 bác sĩ. Tuổi thọ bình quân cả nước đến 2001 đạt 67,8 tuổi. - Với tài sản công Nhà nước đã trang bị tại 300 cơ quan nghiên cứu là điều kiện vật chất cần thiết để thực hiện các công trình khoa học công nghệ và áp dụng các thành tựu khoa vào phát triển kinh tế - xã hội, đã góp phần đem lại những kết quả lớn như: sản xuất nông nghiệp đã làm tăng năng suất từ 15 – 20%, góp phần đưa nước ta từ nước thiếu ăn trở thành nước xuất khẩu lương thực hàng thứ 2 trên thế giới; đưa tốc độ tăng trưởng các ngành chăn nuôi đạt trung bình từ 3,5 – 5%/năm; đã giải quyết các công nghệ cơ bản về hàn, đúc, chế tạo và lắp đặt tổ bơm công suất 36.000 m3/giờ thay thế sản phẩm cùng loại do các nước Nhật bản, Italia và Trung Quốc sản xuất với giá thành cao; tự sản xuất các phụ tùng chi tiết thay thế của các tổ máy thủy điện của Liên Xô trước đây với giá thành chỉ bằng 40% giá nhập của Cộng hoà liên bang Nga và các mô hình điện mặt trời công suất từ 30w đến 1.500w phục vụ cho vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo; áp dụng thành công việc kết nối và cung cấp thông tin hàng ngày qua các trang chủ của hơn 10 cơ quan thông tấn báo chí, các dịch vụ thông tin trên mạng internet, phương pháp bảo mật thông tin… 1.2.2. Một số hạn chế trong quản lý sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp Trong những năm qua, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác quản lý sử dụng tài sản trong các đơn vị sự nghiệp cũng còn hạn chế biểu hiện ở những mặt sau: 1.2.2.1. Việc quản lý và sử dụng đất đai trong các đơn vị sự nghiệp còn ảnh hưởng bởi cơ chế bao cấp trong quản lý đất đai, nên các đơn vị chưa tổ chức theo dõi về diện tích, chưa được tính giá trị tài sản khi Nhà nước giao đất và lập hồ sơ về đất theo qui định của Luật Đất đai, cụ thể là qua kiểm kê đã phát hiện 14.430 ha đất chưa theo dõi trên sổ sách, chiếm 6,3% tổng quĩ đất và mới có 173.822 ha đất, chiếm 75% tổng quĩ đất giao cho các cơ quan đơn vị sự nghiệp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đất cấp cho các đơn vị sự nghiệp không tính toán sát với nhu cầu sử dụng đất, dẫn đến đất đai chưa sử dụng và không có nhu cầu sử dụng của tất cả các cơ quan, đơn vị sự nghiệp lên tới 17.646 ha, chiếm 8% tổng quĩ đất được giao. Một số cơ quan, đơn vị sự nghiệp dùng quĩ đất được giao vào các mục đích sản xuất kinh doanh, cho thuê và làm nhà ở chiếm tới 26% tổng quỹ đất được giao; thậm chí đất trong khuôn viên trụ sở làm việc của các cơ quan đơn vị sự nghiệp vẫn dùng vào các mục đích khác. Đất trong khuôn viên trụ sở của 6.190 cơ quan, đơn vị sự nghiệp đem dùng._.i sự xuất hiện của quốc gia. Nhà nước là người đại diện cho mọi thành viên của cộng đồng, do đó Nhà nước có chủ quyền đối với tài sản quốc gia, đồng thời là người đại diện chủ sở hữu của tài sản công. Nhà nước là chủ sở hữu tài sản của mọi tài sản công nhưng không phải là người trực tiếp sử dụng tài sản công; Nói một cách khác quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng tài sản không hoàn toàn gắn với nhau. Nhà nước thực hiện quản lý bằng cơ chế, thông qua thể chế và giao tài sản công cho các cơ quan, đơn vị sử dụng tài sản công để thực hiện mục tiêu. Để thực hiện vai trò chủ sở hữu tài sản công của mình, Nhà nước phải nâng cao chức năng quản lý Nhà nước đối với tài sản công để buộc mọi đơn vị được giao quyền sử dụng tài sản công phải bảo tồn, phát triển nguồn tài sản công và sử dụng tài sản công tiết kiệm và có hiệu quả để phục vụ sự phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ được môi trường môi sinh. Đồng thời Nhà nước phải thực hiện vai trò kiểm tra, kiểm soát các quá trình hình thành, sử dụng, khai thác và xử lý tài sản công để bảo đảm việc quản lý sử dụng tài sản công trong từng đơn vị đúng với thể chế của Nhà nước đã định ra. Để bảo đảm thực hiện sự quản lý của Nhà nước đối với các quá trình hình thành phát triển, khai thác sử dụng và kết thúc của các tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp, trong quá trình xây dựng hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp được quán triệt theo các phương hướng sau đây: Thứ nhất: Xây dựng hoàn thiện thể chế về quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Đây là một hình thức quản lý Nhà nước và một biện pháp hàng đầu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Thông qua thể chế bao gồm các quy tắc, quy định, quy chế, ... , Nhà nước mới buộc mọi cơ quan, đơn vị sự nghiệp sử dụng tài sản công theo pháp luật, đúng ý chí của Nhà nước - người chủ sở hữu tài sản công. Bằng các văn bản quy phạm pháp luật quy định về trang cấp tài sản công, các quy tắc quản lý, sử dụng và chế độ xử lý tài sản công buộc mọi đối tượng quản lý cũng như đối tượng sử dụng tài sản công phải tuân thủ. Thứ hai: Tăng cường sử dụng các công cụ và biện pháp kinh tế để quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Công cụ kinh tế để quản lý tài sản công bao gồm hệ thống kế hoạch hoá và hệ thống đòn bẩy kinh tế như giá cả, tài chính, thuế, tín dụng... Trong đó các cơ chế tài chính có vai trò quan trọng góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển tài sản công, khai thác, sử dụng tài sản công tiết kiệm và có hiệu quả, đặc biệt là công cụ ngân sách, kế toán và thuế và các biện pháp kinh tế gắn với việc sử dụng và xử lý tài sản. Thứ ba: Phân định, xác định rõ phạm vi, nội dung và trách nhiệm quyền hạn quản lý, sử dụng giữa cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước với cơ quan trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản gắn với đẩy mạnh phân cấp thẩm quyền. Như chúng ta đều biết quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản công thường là tách khỏi nhau, nhưng lại dễ đan xen với nhau; do đó, cần phân định rõ trách nhiệm, thẩm quyền để bảo đảm việc quản lý, sử dụng tài sản công tránh lãng phí, thất thoát, đồng thời đẩy mạnh việc phân cấp thẩm quyền trong đầu tư, mua sắm, sử dụng, xử lý trong công tác quản lý sử dụng tài sản sẽ góp phần nâng cao được hiệu quả sử dụng tài sản để phục vụ các hoạt động sự nghiệp. Thứ tư: Đẩy mạnh và đa dạng các biện pháp, hình thức kiểm tra, giám sát và chế tài xử lý vi phạm trong việc quản lý, sử dụng tài sản tại các đơn vị sự nghiệp. Nhà nước không chỉ thực hiện quyền sở hữu tài sản công bằng pháp luật và cơ chế chính sách mà còn phải có cơ chế, biện pháp kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm để bảo đảm cho việc quản lý, sử dụng đúng với cơ chế chính sách đã qui định, từ đó thiết lập nguyên tắc quản lý, xử dụng và xử lý tài sản thống nhất trong tất cả các đơn vị sự nghiệp và bảo đảm cho việc sử dụng tài sản công phục vụ đúng các mục tiêu đã dề ra. Thứ năm: Hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Nói đến cơ cấu tổ chức để quản lý tài sản công trước hết phải nói đến hệ thống cơ quan quản lý tài sản công và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống cơ quan quản lý tài sản công. Để quản lý tài sản công trong một quốc gia thì cơ quan quản lý tài sản công phải được xây dựng thành một hệ thống từ Trung ương đến địa phương và trong từng đơn vị, với điều kiện vật chất, con người đầy đủ và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn hoàn thiện để đủ điều kiện và năng lực thực hiện quản lý. Mặt khác trong mỗi cơ quan sự nghiệp cũng cần có bộ phận quản lý tài sản công với cán bộ có năng lực chuyên môn và chức năng nhiệm vụ cụ thể để bảo đảm thực hiện tốt việc quản lý tài sản công tại đơn vị. 1.2. Yêu cầu nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp Trên cơ sở các phương hướng hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp nêu trên, việc hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp phải bảo đảm những yêu cầu nhiệm vụ sau: Một là, thực hiện đầu tư, duy trì và phát triển tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp là thiết thực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Như chúng ta đều biết, tài sản công là điều kiện vật chất không thể thiếu được phục vụ cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế – xã hội, trong đó có các hoạt động sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ, văn hoá thông tin. Sự phát triển các hoạt động sự nghiệp này là nền tảng và động lực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định: “cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế – xã hội, là điều kiện cần thiết giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bằng và dựa vào khoa học - công nghệ”. Một trong các giải pháp để phát triển các hoạt động sự nghiệp này là phải tăng đầu tư cho giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ và các hoạt động sự nghiệp khác, trong đó có đầu tư để duy trì và phát triển tài sản công cho các đơn vị sự nghiệp. Theo quan điểm này, cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp vừa phải bảo đảm giành vốn Ngân sách nhà nước để đầu tư, mua sắm tài sản công cho các đơn vị sự nghiệp, vừa phải quản lý chặt chẽ việc sử dụng các nguồn vốn cho đầu tư để duy trì, phát triển tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp có hiệu quả và tiết kiệm. Hai là, cơ chế quản lý tài sản công phải được thể chế đầy đủ các quy tắc, quy định, quy chế, ... bằng các văn bản quy phạm pháp luật để làm căn cứ pháp lý cho các tổ chức, đơn vị thực hiện việc quản lý, sử dụng, xử lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Ba là, xây dựng cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp gắn với quá trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp. Theo tinh thần Nghị quyết của đại hội lần thứ IX của Đảng, cải cách cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp là một trong các nội dung cụ thể trong tổng thể về cải cách tài chính. Đối với các đơn vị sự nghiệp từng bước phải chuyển từ chế độ tài chính của cơ quan hành chính sang cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu. Qui định về đổi mới cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu đã được quy định tại Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu. Do vậy, việc hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp phải đảm bảo yêu cầu vừa quản lý các tài sản công không dùng vào sản xuất kinh doanh, vừa quản lý các tài sản công của đơn vị sự nghiệp được dùng vào sản xuất kinh doanh hoặc cung ứng dịch vụ; đồng thời mở rộng quyền tự chủ của các đơn vị trong việc mua sắm tài sản, sử dụng tài sản. Năm là, lấy hiệu quả sử dụng tài sản phục vụ các hoạt động sự nghiệp làm thước đo của cơ cế quản lý. Tài sản công được hình thành chủ yếu từ việc đầu tư mua sắm tài sản bằng nguồn vốn Ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc từ Ngân sách nhà nước. Do vậy, trang cấp tài sản công cho các đơn vị sự nghiệp cũng có nghĩa là Ngân sách nhà nước giành kinh phí để đầu tư phát triển cho các hoạt động sự nghiệp. Nguồn vốn đầu tư này phải đảm bảo yêu cầu thiết thực và có hiệu quả hay nói cách khác là phải đầu tư mua sắm tài sản công đúng với yêu cầu, đúng với khả năng Ngân sách nhà nước và khi sử dụng tài sản phải có hiệu quả, tiết kiệm. Đặc biệt hiện nay nước ta đang thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thì yêu cầu đặt ra đối với cơ chế quản lý tài sản công nói chung và quản lý tài sản công tại các đơn vị hành chính sự nghiệp phải thực hiện quản lý cả về hiện vật, giá trị và lấy hiệu quả trong quản lý và sử dụng tài sản công là thước đo chủ yếu để đáng giá. 2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp 2.1. Đa dạng hoá các hình thức sở hữu và sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp phù hợp với quá trình xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp. Thứ nhất, là rà soát quĩ nhà đất thuộc sở hữu Nhà nước đang giao cho các đơn vị sự nghiệp để bố trí sử dụng hợp lý tài sản công là nhà đất và chuyển nhượng quỹ nhà đất dư thừa cho các tổ chức, cá nhân ngoài nhà nước có nhu cầu về đất để phát triển sự nghiệp công cộng có mục đích kinh doanh hoặc dùng vào sản xuất kinh doanh theo luật pháp qui định, nhằm: - Thực hiện chủ trương rà soát lại quỹ nhà đất của các cơ quan hành chính sự nghiệp được đề ra tại Nghị quyết Trung ương lần thứ 9 khoá IX của Đảng về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. - Mở rộng phạm vi áp dụng Quyết định số 80/2001/QĐ-CP ngày 24 tháng 5 năm 2001 về việc sắp xếp, bố trí lại toàn bộ quĩ nhà đất thuộc sở hữu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã giao cho tất cả cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước có quỹ nhà đất dôi dư chuyển cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố bán nhà kèm theo chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hình thức đấu giá. - Đưa dần công tác quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp vào nề nếp, chế độ, tránh lãng phí tài sản, khắc phục tình trạng sử dụng tài sản công không đúng mục đích như hiện nay. Thứ hai là chuyển một số đơn vị sự nghiệp công hoặc bán công sang các đơn vị sự nghiệp tư nhân hoặc doanh nghiệp kinh doanh tại những nơi các thành phần kinh tế ngoài nhà nước có khả năng đầu tư vào lĩnh vực sự nghiệp, nhằm: - Thực hiện chủ trương xã hội hoá các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ, y tế, văn hoá thể thao của Đảng và Nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất đặc biệt là mặt bằng cho tổ chức sự nghiệp của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, hiện có như giáo dục mầm non ngoài công lập có gần 6.000 cơ sở đảm bảo 62% số trẻ đến độ tuổi mầm non có nơi học, tổ chức hoạt động khoa học công nghệ ngoài khu vực nhà nước hiện có 395 tổ chức, chiếm gần 42%, y tế, thể thao hiện có 46 nhà tập thi đấu, 436 sân bóng đá lớn và 4167 sân bóng đá mini do tư nhân đầu tư và tiếp tục phát triển thêm. - Phân định rõ chủ thể sở hữu và sử dụng tài sản phục vụ cho hoạt động sự nghiệp, từ đó xác định rõ trách nhiệm của người quản lý tài sản, tránh tình trạng cha chung không ai khóc trong việc quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp bán công. - Ngân sách nhà nước tập trung đầu tư vào các lĩnh vực cần đầu tư như các lĩnh vực nghiên cứu khoa học cơ bản, các đề án về đổi mới chất lượng giáo dục - đào tạo, nâng cấp các bệnh viện cấp tỉnh, các cơ sở khám chữa bệnh cơ sở, duy tu và phát triển văn hoá, nghệ thuật dân tộc và các lĩnh vực khác, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước không đầu tư được. - Trong những năm gần đây Ngân sách nhà nước đã cố gắng tăng tỷ lệ chi cho đầu tư về giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ, y tế, thể thao văn hoá, song do đầu tư Ngân sách nhà nước phân tán cho nhiều lĩnh vực, nên chi cho các hoạt động dự nghiệp này vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực. Trong điều kiện này, chuyển hoạt động sự nghiệp công thành hoạt động sự nghiệp do các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đảm nhiệm thì mới huy động vốn đầu tư cho lĩnh vực hoạt động sự nghiệp. - Các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực hoạt động sự nghiệp, sẽ tạo ra sự cạnh tranh giữa các đơn vị sự nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng các dịch vụ sự nghiệp, đảm bảo quyền lợi cho mọi người trong xã hội được hưởng các dịch vụ công với chất lượng cao. 2.2. Mở rộng các phương thức trang cấp và nguồn vốn đầu tư, mua sắm tài sản cho các đơn vị hành chính sự nghiệp. Thứ nhất là bổ sung việc trang cấp tài sản tại các đơn vị sự nghiệp theo phuơng thức tiếp nhận tài sản từ nguồn tài sản tịch thu sung quỹ nhà nước, tài sản được xác lập sở hữu nhà nước và tài sản của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tặng cho. Thứ hai là bổ sung thêm nguồn vốn, tài sản để trang cấp tài sản cho các đơn vị sự nghiệp từ nguồn quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp và khấu hao tài sản từ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị sự nghiệp; từ nguồn thu sự nghiệp của đơn vị được phép sử dụng; từ nguồn tiền thu bán, chuyển nhượng, thanh lý tài sản công tại đơn vị. Giải pháp này sẽ huy động thêm được các nguồn tài sản, nguồn kinh phí bổ sung cho việc đầu tư, đổi mới, nâng cấp tài sản công hiện có trong các đơn vị sự nghiệp không những tăng thêm về số lượng, mà còn nâng cao về chất lượng theo hướng hiện đại hóa từng bước để bảo đảm phục vụ cho các hoạt động sự nghiệp ở mỗi đơn vị sự nghiệp nói riêng và lĩnh vực hoạt động sự nghiệp nói chung. 2.3. Hoàn thiện, bổ sung một số tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp để làm căn cứ đầu tư, mua sắm cũng như quản lý, sử dụng tài sản công, với các giải pháp cụ thể như sau: Thứ nhất là hoàn thiện tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công giao cho các đơn vị sự nghiệp trực tiếp quản lý, sử dụng, trước hết là tài sản là nhà đất, phương tiện vận tải đi lại và các tài sản thiết bị làm việc phục vụ cho công tác, các hoạt động sự nghiệp của đơn vị sự nghiệp đã được Nhà nước quy định cho phù hợp với yêu cầu công tác và sự phát triển của khoa học công nghệ cũng như mục tiêu phát triển hoạt động sự nghiệp của Đảng và Nhà nước đã đề ra. Tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp công là căn cứ để đầu tư, mua sắm và trang bị tài sản công cho các đơn vị sự nghiệp công; đồng thời là thước đo để đánh giá việc sử dụng tài sản công của từng đơn vị tiết kiệm hay lãng phí, vì theo pháp lệnh thực hành tiết kiệm chống lãng phí, “ tiết kiệm là sử dụng nguồn lực tài chính, lao động và nguồn lực khác ở thấp hơn định mức, tiêu chuẩn, chế độ qui định nhưng vẫn đạt được mục tiêu đã xác định hoặc sử dụng đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ qui định nhưng đạt hiệu quả cao hơn mục tiêu đã xác định. Lãng phí là sử dụng nguồn lực tài chính, lao động và các nguồn lực khác vượt quá định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền qui định hoặc sử dụng đúng mục đích, tiêu chuẩn, chế độ nhưng chất lượng đạt thấp hơn hoặc không đúng mục tiêu đã xác định. “. Ngoài ra tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công còn là công cụ để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc sử dụng tài sản công của các đơn vị, cá nhân trong các đơn vị sự nghiệp công. Thứ hai là xây dựng bổ sung những tiêu chuẩn, định mức sử dụng nhà, đất dùng cho các hoạt động sự nghiệp công chưa được qui định, như: trường học, bệnh viện, các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ, các nhà biểu diễn nghệ thuật, nhà tập hoặc thi đấu thể thao, nhà bảo tồn, thư viện ….; tiêu chuẩn, định mức trang bị các phương tiện vận tải chuyên dùng; một số trang thết bị làm việc cần thiết cho tất cả cán bộ như bàn ghế làm việc, máy vi tính, phương tiện thông tin, giá để hồ sơ làm việc… Tiêu chuẩn, định mức trang bị phương tiện làm việc này phải qui định cụ thể về chủng loại tài sản, qui cách và chất lượng của tài sản nhằm thống nhất trang bị tài sản trong tất cả các đơn vị sự nghiệp công, tránh tình trạng tuỳ tiện trong mua sắm tài sản gây lãng phí và bất công bằng giữa các ơn vị sự nghiệp cùng có chúc năng nhiệm vụ thực hiện như nhau và giữa cán bộ công chức làm việc ở các đơn vị khác nhau. Để tiêu chuẩn, định mức sử dụng nhà đất phù hợp với hoạt động sự nghiệp, cũng như có tính thống nhất, tính khả thi cao, việc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp cần được tập trung vào các tài sản có giá trị lớn và những tài sản công có thể qui định mức chung cho tất cả đối tượng sử dụng được. Khi xây dựng tiêu chuẩn định mức sử dụng phải căn cứ vào đặc điểm hoạt động và đối tượng phục vụ của từng lĩnh vực như trường học căn cứ cấp bậc của trường, số lượng học sinh để qui định qui mô, diện tích đất khuôn viên, diện tích sàn xây dựng và cơ cấu phòng học, phòng thực nghiệm, phòng thư viện, phòng giáo viên…, đối với bệnh viện đối tượng bệnh nhân phục vụ, số lượng bệnh nhân điều trị, khám chữa bệnh tại bệnh viện, cấp bệnh viện.; căn cứ vào khả năng của Ngân sách nhà nước; vào sự phát triển của khoa học công nghệ; vào đặc điểm của loại hình hoạt động sự nghiệp thực hiện, ,.v.vv 2.4. Thực hiện phân cấp thẩm quyền gắn với trách nhiệm thủ trưởng đơn vị sự nghiệp trong việc quyết định, định đoạt tài sản công tại đơn vị theo qui chế thống nhất về quản lý tài sản công của Nhà nước tại các đơn vị sự nghiệp. Giao quyền cho thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp có thu tự cân đối nguồn kinh phí và quyết định đầu tư, mua sắm tài sản phục vụ cho các hoạt động của đơn vị và được quyết định xử lý tài sản công tại đơn vị đối với một số loại tài sản. Thủ trưởng các Bộ, ngành và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ quyết định đầu tư, mua sắm trang bị tài sản lần đầu cho các đơn vị sự nghiệp khi mới thành lập hoặc chuyển từ đơn vị sự nghiệp không có nguồn thu sang đơn vị sự nghiệp có thu và quyết định xử lý đối với những tài sản là bất động sản tại đơn vị sự nghiệp. Giải pháp này để tạo tính chủ động trong việc đầu tư xây dựng, sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản công, nâng cao ý thức trách nhiệm của thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp thực hiện việc tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý sử dụng tài sản công. Đồng thời: - Tạo tiền đề cho các đơn vị sự nghiệp có thu chuyển sang các doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm công ích, trước hết là các tổ chức khoa học và công nghệ nghiên cứu phát triển. - Phù hợp với cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu, các đơn vị được dùng nguồn khấu hao tài sản cố định mà nhà nước để lại cho đơn vị, quĩ phát triển hoạt động sự nghiệp và nguồn thu từ thanh lý tài sản để đầu tư, mua sắm tài sản. - Các đơn vị sự nghiệp tự quyết định mua sắm tài sản buộc các đơn vị phải tính toán sát với nhu cầu sử dụng tài sản phục vụ cho hoạt động của đơn vị mình và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình, hạn chế tình trạng mua sắm tài sản không thật cần thiết do hậu quả từ cơ chế “xin cho” do Ngân sách Nhà nước trang cấp toàn bộ tài sản cho đơn vị sự nghiệp. - Khi các đơn vị sự nghiệp tự cân đối nguồn kinh phí để mua sắm tài sản, Ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ một phần (nếu có) sẽ buộc các đơn vị sự nghiệp phải sử dụng tài sản có hiệu quả và thực hiện nghiêm chế độ thanh lý tài sản đối với tài sản không còn sử dụng được để tận dụng các tài sản hiện có. 2.5. Cho phép các đơn vị sự nghiệp có thu được quyền quyết định sử dụng một phần tài sản công tại đơn vị vào mục đích sản xuất cung ứng dịch vụ, kể cả góp vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức khác Giải pháp này nhằm nâng cao tính tự chủ về sử dụng tài sản của đơn vị và thu hút các thành phần kinh tế, kể cả các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào các hoạt động sự nghiệp, đặc biệt là sự nghiệp đào tạo – giáo dục và khoa học – công nghệ, cụ thể là: - Thủ trưởng, đơn vị sự nghiệp có quyền quyết định điều động tài sản công không sản xuất cung cấp dịch vụ sang tài sản công dùng vào sản xuất, cung ứng dịch vụ hoặc góp vốn liên doanh, nhưng phải đăng ký với cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan quản lý tài sản công về số lượng, giá trị tài sản dùng vào sản xuất, cung ứng dịch vụ, góp vốn liên doanh và thực hiện trích khấu hao tài sản cố định theo chế độ quản lý, sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp. - Trường hợp sử dụng đất được giao không thu tiền sử dụng đất vào sản xuất, cung ứng dịch vụ, góp vốn liên doanh, đơn vị sự nghiệp phải thực hiện thuê đất của Nhà nước theo Luật đất đai. 2.6. Các đơn vị sự nghiệp có thu được sử dụng tài sản công chuyển sang sản xuất, cung ứng dịch vụ để thế chấp vay tín dụng ngân hàng hoặc quĩ hỗ trợ phát triển để mở rộng nâng cao hoạt động sự nghiệp bằng giá trị tài sản công dùng vào sản xuất, cung ứng dịch vụ. Giải pháp này nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp có tài sản thế chấp vay vốn của các tổ chức tín dụng để mở rộng để nâng cao hoạt động sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp bằng vốn vay tín dụng ngân hàng hoặc quĩ hỗ trợ phát triển đã được qui định tại Điều 3 Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16 tháng 01 năm 2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu. 2.7. Hình thành tổ chức thống nhất đầu tư, mua sắm tài sản công cho các đơn vị sự nghiệp hoạt động theo cơ chế của đơn vị sự nghiệp hoặc công ty mua bán tài sản công của Nhà nước, nhằm: - Thực hiện trang bị cho các đơn vị có nhu cầu sử dụng tài sản công theo tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản do Nhà nước quy định, trước mắt áp dụng hình thức cấp tài sản, về lâu dài cho thuê tài sản. - Tổ chức mua tài sản công theo hình thức đấu thầu hoặc ký hợp đồng cung cấp tài sản với các tổ chức kinh tế được giao nhiệm vụ sản xuất cung cấp hàng hoá cho các cơ quan nhà nước. - Tổ chức bán tài sản công đối với các tài sản không còn nhu cầu sử dụng hoặc không còn sử dụng được. Tập trung đầu tư, mua sắm tài sản cho các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp và một số tổ chức kinh tế nhà nước đã được một số nước áp dụng như Malaysia, Hàn Quốc, Pháp, Canada. Với mô hình này, việc trang bị tài sản công cho các cơ quan hành chính sự nghiệp đảm bảo tính thống nhất và tập trung, các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp không phải thực hiện công việc ngoài chức năng, nhiệm vụ của mình là đầu tư mua sắm tài sản. Mặt khác giao cho tổ chức kinh tế chuyên có chức năng kinh doanh để đầu tư, mua sắm và cung cấp tài sản cho tất cả các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp sẽ góp phần giảm chi phí đầu tư, mua sắm tài sản công cho Nhà nước nói chung và cho từng cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp nói riêng. 2.8. Các đơn vị sự nghiệp được sử dụng nhà, đất của Nhà nước vào sản xuất kinh doanh hoặc cung ứng dịch vụ công phải chuyển sang thuê đất của Nhà nước hoặc Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất quy định tại Luật Đất đai 2003, nhằm: - Thực hiện thống nhất chế độ sử dụng đất làm mặt bằng xây dựng trụ sở sản xuất quy định tại Điều 93 Luật Đất đai. Theo Điều này, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh được lựa chọn hình thức nhận đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất của Nhà nước. - Tạo điều kiện chủ động sử dụng đất cùng với tài sản trên đấy cho các đơn vị sự nghiệp, bởi vì nếu đơn vị sự nghiệp nhận đất có nộp tiền sử dụng đất sẽ có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thế chấp, góp vốn liên doanh; đồng thời buộc các đơn vị sự nghiệp sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm quỹ đất được giao hoặc được thuê. - Góp phần thực hiện chủ trương của đảng ta là chủ động phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất đã được đề ra tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khoá IX của Đảng và Luật Đất đai 2003. Tuy nhiên khi giao đất có thu tiền hoặc cho thuê đất dùng vào sản xuất kinh doanh hoặc cung ứng dịch vụ công, Nhà nước cũng có chế độ miễn giảm tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất theo chế độ miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất như trường hợp sử dụng đất vào mục đích sản xuất, kinh doanh thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư, bởi lẽ: Thứ nhất, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh hoặc cung ứng dịch vụ công của các đơn vị sự nghiệp đều phải gắn với các hoạt động sự nghiệp cần phải phát triển phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thứ hai, trong quá trình cải cách hành chính, chru trương của Nhà nước khuyến khích việc chuyển từ đơn vị sự nghiệp công sang đơn vị sự nghiệp có thu hoặc chuyển sang hoạt động doanh nghiệp. Giảm, miễn tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất cũng là chính sách ưu đãi về đất đai để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công sang đơn vị sự nghiệp có thu hoặc doanh nghiệp. Để đẩy nhanh qúa trình chuyển dịch các hoạt động sự nghiệp công sang các đơn vị sự nghiệp có thu và doanh nghiệp, công tác quản lý công sản của ngành Tài chính, cơ quan quản lý tài sản công cần phải thực hiện tốt một số biện pháp sau: Thứ nhất là khẩn trương nghiên cứu xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền ban hành Quy chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp, quy định, chế độ về chuyển dịch tài sản công sang lĩnh vực sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ cho phù hợp với yêu cầu đổi mới và thể chế các giải pháp thích hợp. Thứ hai là cơ quan quản lý tài sản công phải đảm nhận vai trò đại diện sở hữu nhà nước về số vốn là tài sản công chuyển sang sản xuất kinh doanh hoặc dịch vụ công trong việc theo dõi, kiểm tra số vốn cũng như thu nhập từ vốn tài sản công chuyển sang kinh doanh, chuyển giao cho cơ quan quản lý tài chính doanh nghiệp, số tài sản của các đơn vị sự nghiệp chuyển sang doanh nghiệp nhà nước và thực hiện chuyển nhượng tài sản công của đơn vị sự nghiệp khi chuyển thành doanh nghiệp tư nhân. Thứ ba là nghiên cứu và trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập Trung tâm Tư vấn, dịch vụ về tài sản và bất động sản thuộc cơ quan Tài chính hoặc ủy ban nhân dân cấp tỉnh để: - Định giá các tài sản công của các đơn vị sự nghiệp theo yêu cầu của Nhà nước, để xác định giá trị tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp hoặc khi thực hiện chuyển nhượng, chuyển dịch tài sản công. - Cung cấp thông tin về tài sản công của các đơn vị sự nghiệp dự kiến chuyển dịch sang doanh nghiệp tư nhân để các tổ chức, cá nhân nghiên cứu đầu tư. - Tổ chức duy trì bảo dưỡng các tài sản công chưa giao cho tổ chức nào sử dụng. - Tổ chức thực hiện bán đấu giá tài sản công tại các cơ quan sự nghiệp khi được phép bán hoặc thanh lý tài sản. kết luận Tài sản công – tài sản của một quốc gia – nguồn tài sản được hình thành và tích luỹ trong quá trình dựng nước và giữ nước của cả một dân tộc. Tài sản công vừa là nguồn tài sản thiêng liêng, vừa là sức mạnh tiềm năng của một quốc gia, tài sản công nói chung và tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp nói riêng giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế – xã hội của đất nước.Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp là một bộ phận quan trọng của tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp, là cơ sở vật chất quan trọng cho các hoạt động sự nghiệp nhằm cung cấp các dịch vụ công phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ khi đổi mới đất nước đến nay, Nhà nước luôn giành một phần Ngân sách nhà nước đầu tư, mua sắm tài sản cho các đơn vị sự nghiệp, nhờ đó tài sản công trong khu vực sự nghiệp không ngừng tăng lên. Từ đó công tác quản lý tài sản công trở thành một nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước về công sản và tài nguyên quốc gia thuộc sở hữu nhà nước. Đề tài này tập trung nghiên cứu những vấn đề chung về tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp, việc quản lý tài sản công ở một số nước nhằm rút ra một số kinh nghiệm vận dụng vào Việt Nam, đánh giá thực trạng việc quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp trong thời gian qua và nhìn nhận những kết quả đã đạt được, cũng như những hạn chế tồn tại trong cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp hiện đang thực hiện; Từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp phù hợp với quan điểm đổi mới, chủ trương cải cách của Đảng và Chính phủ đã đề ra, nhằm nâng cao và phát huy nguồn tài sản công là cơ sở vật chất tại các đơn vị sự nghiệp có hiệu quả cao nhất trong lĩnh vực hoạt động sự nghiệp nói riêng và đóng góp một phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước./. Tài liệu tham khảo 1- Bộ luật Dân sự 28/10/1995 của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2- Luật Đất đai 2003 3- Văn kiện Đại hội VIII, Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam 4- Nghị quyết Trung ương 2 và Nghị quyết Trung ương 5 Khoá VIII của Đảng 5- Nghị định 14/1998/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý tài sản nhà nước 6- Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu. 7- Quyết định 122/1999/ ngày 10/5/1999 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành tiêu chuẩn định mức sử dụng xe ô tô 8- Thông tư 25/2002/TT-BTC ngày 21/3/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu. 9- Quyết định số 106 về cải cách hành chính 10- Bộ Tài chính – Văn bản pháp quy về cơ chế tài chính áp dụng cho các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp. NXB Thống kê tháng 5/2003. 11- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học tổ chức Nhà nước “Dịch vụ công và xã hội hoá dịch vụ công. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. NXB Chính trị Quốc gia 2004 12- Báo cáo tình hình tài sản công tại các đơn vị hành chính sự nghiệp 13- Tổng cục Thống kê – Niên giám thống kê 2002 14- Chủ tịch Hồ Chí Minh vấn đề tài chính – NXB Sự thật 1989 15- Ngân hàng Thế giới – Các hệ thống tài chính và phát triển. NXB Giao thông 1998 16- Bộ Tài chính – Tổng kết 5 năm công tác quản lý tài sản nhà nước theo Nghị định số 14/1998/NĐ-CP về quản lý tài sản nhà nước (1998 – 2002). Tháng 5/2003 17- Bộ Tài chính – Báo cáo sơ kết tình hình thực hiện Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu. Tháng 6/2003 18- Cục Quản lý công sản – Các báo cáo kết quả khảo sát về công tác quản lý công sản tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Pháp, Canada và Đức. 19- Một số vấn đề về pháp luật, chính sách đất đai của Trung Quốc. Tháng 9/2002 20- TSKH Phan Xuân Trường “Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”. NXB Chính trị Quốc gia - 2004 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33932.doc
Tài liệu liên quan