Hoàn thiện cơ chế khoán chi ngân sách nhà nước tại trung tâm kỹ thuật sản xuất chương trình truyền hình Việt Nam

Lời nói đầu Đài truyền hình Việt Nam là đơn vị hành chính sự nghiệp được Ngân sách Nhà nước cấp kinh phí để thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao. Toàn bộ các khoản thu phát sinh từ hoạt động quảng cáo trên truyền hình và các khoản thu dịch vụ khác phải nộp Ngân sách Nhà nước theo quy định hiện hành. Đài truyền hình Việt Nam được thực thí điểm khoán thu, khoán chi Ngân sách Nhà nước trong 2 năm (2001-2002) theo quyết định số 87/2001/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ. Từ yêu cầu chung của Đài, bắ

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1367 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện cơ chế khoán chi ngân sách nhà nước tại trung tâm kỹ thuật sản xuất chương trình truyền hình Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t đầu năm 2001, Trung tâm kỹ thuật sản xuất chương trình truyền hình Việt Nam đã thực hiện thí điểm cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước. Trong thời gian qua,việc thực hiện thí điểm cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước đã giúp Trung tâm tăng quyền tự chủ đối với sử dụng kinh phí Ngân sách Nhà nước, nâng cao ý thức tiết kiệm. Tuy nhiên cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước vẫn đang là một phương thức quản lý mới đối với trung tâm,vẫn còn tồn tại những bất cập gây không ít khó khăn cho trung tâm trong quá trình hoạt động. Để tạo điều kiện cho trung tâm phát triển ổn định, hoàn thiện cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước là yêu cầu bức thiết đối với trung tâm. Trong thời gian thực tập tại trung tâm, nhận thức được tầm quan trọng đó em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước tại Trung tâm kỹ thuật sản xuất chương trình truyền hình Việt Nam” để nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp của mình.. Kết cấu đề tài gồm có 3 chương: Chương I: Lý luận chung về cơ chế khoán chi Ngân sách nhà nước tại các đơn vị hành chính sự nghiệp. Chương II: Thực trạng cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước tại Trung tâm kỹ thuật và sản xuất chương trình Đài truyền hình Việt Nam. Chương III: Giải pháp hoàn thiện cơ chế khoán chi Ngân sách nhà nước tại Trung tâm kỹ thuật sản xuất chương trình Đài truyền hình Việt Nam. Để hoàn thành chuyên đề này em xin chân thành cảm ơn cô giáo, PGS.TS. Lưu Thị Hương đã tận tình chỉ bảo em trong quá trình nghiên cứu. Hà nội, ngày 18 tháng 4 năm 2003 Sinh viên Nguyễn Thị Thanh Tú Chương I Lý luận chung về cơ chế khoán chi Ngân sách nhà nước tại các đơn vị hành chính sự nghiệp 1.1. Khái quát về các đơn vị hành chính sự nghiệp 1.1.1. Khái quát về các đơn vị hành chính sự nghiệp Đơn vị hành chính sự nghiệp là một loại hình đơn vị được Nhà nước ra quyết định thành lập, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước hay nhiệm vụ chuyên môn nhất định nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. Trong quá trình hoạt động đơn vị hành chính sự nghiệp được Nhà nước cấp kinh phí đáp ứng nhu cầu chi tiêu từ Ngân sách nhà nước hoặc được bổ sung từ nguồn tài trợ của các tổ chức trong và ngoài nước. Đơn vị hành chính sự nghiệp thường được thiết lập theo một hệ thống dọc từ trung ương đến địa phương trong cùng một ngành. Chúng hình thành nên các cấp dự toán khác nhau tuỳ theo trách nhiệm trong việc phân cấp quản lý tài chính. Mọi khoản chi tiêu của đơn vị hành chính sự nghiệp phải được bố trí trước trong kế hoạch và được duyệt trong dự toán chi Ngân sách nhà nước hàng năm. Vì thế đơn vị hành chính sự nghiệp còn được gọi là đơn vị dự toán. Theo luật Ngân sách các đơn vị dự toán trong cùng một ngành được phân thành 3 cấp: đơn vị dự toán cấp I, đơn vị dự toán cấp II, và đơn vị dự toán cấp III. Đơn vị hành chính sự nghiệp có rất nhiều loại hình hoạt động khác nhau như: các cơ quan chính quyền, cơ quan quyền lực Nhà nước (Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp), các cơ quan hành chính Nhà nước hay còn gọi là các cơ quan quản lý Nhà nước (Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp...), các tổ chức đoàn thể quần chúng, hiệp hội, các đơn vị sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp văn xã, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang... Tuy nhiên, chúng vẫn có những điểm chung nhất định và khác biệt với loại hình doanh nghiệp. Điều này được thể hiện qua các đặc điểm và vai trò của các đơn vị hành chính sự nghiệp. Các loại đơn vị hành chính sự nghiệp Tổ chức đoàn thể nghề nghiệp xã hội. -Đảng CSVN. -Đoàn TNCSHCM - Mặt trận TQVN. -Hội liên hiệp phụ nữ VN. -Hội cựu chiến binh VN. - Các tổ chức xã hội khác. Sự nghiệp kinh tế. -Khí tượng thuỷ văn. - Đo đạc bản đồ. -Quy hoạch đô thị. - Thiết kế trồng rừng. -Sự nghiệp kinh tế khác. Hành chính sự nghiệp có thu. - Sự nghiệp giáo dục đào tạo. - Sự nghiệp giáo dục văn hoá thông tin. - Sự nghiệp phát thanh thông tin. - Sự nghiệp y tế dân số KHHGĐ. - Sự nghiệp thể dục thể thao. - Sự nghiệp nghiên cứu khoa học CNMT Hành chính thuần tuý (Bộ máy quản lý Nhà nước) -Cơ quan lập pháp. -Cơ quan hành pháp. -Cơ quan tư pháp. Sơ đồ 1: Các loại đơn vị hành chính sự nghiệp. 1.1.2 . Đặc điểm của các đơn vị hành chính sự nghiệp Các đơn vị hành chính sự nghiệp có các đặc điểm chung sau: Một là: đơn vị hành chính sự nghiệp là đơn vị thụ hưởng Ngân quỹ Nhà nước trên cơ sở luật pháp và kinh phí đựơc cấp theo nguyên tắc không hoàn lại trực tiếp. Đơn vị hành chính sự nghiệp được đảm bảo toàn bộ hay một phần kinh phí cho hoạt động của mình nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao bằng ngân quỹ Nhà nước hoặc từ quỹ công theo nguyên tắc không bồi hoàn trực tiếp. Đơn vị hành chính sự nghiệp thuộc khu vực không sản xuất vật chất, sự chi tiêu của các đơn vị này là những khoản chi thuộc tiêu dùng xã hội, không mang lại lợi nhuận và cũng không vì mục đích lợi nhuận. Các khoản chi cho hoạt động của đơn vị hành chính sự nghiệp được Nhà nước bù đắp từ nguồn kinh phí thuộc Ngân sách nhà nước . Điều đó đòi hỏi phải quản lý chi tiêu đúng chế độ, đúng mục đích và trong phạm vi dự toán của từng nguồn kinh phí, từng nội dung chi tiêu theo tiêu chuẩn, định mức quy định của Nhà nước. Kinh phí cấp cho các đơn vị phải cân đối với nhiệm vụ thu của Ngân sách nhà nước hàng năm. Đơn vị hành chính sự nghiệp có những điểm khác với loại hình doanh nghiệp. Trong kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải tuân thủ nguyên tắc kinh doanh: bù đắp đủ chi phí đã bỏ ra và có lãi. Nếu không doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng phá sản. Doanh nghiệp phải tự trang trải chi phí bằng chính thu nhập của mình. Đơn vị hành chính sự nghiệp là đơn vị thụ hưởng ngân quỹ Nhà nước, điều này có nghĩa là khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ do Nhà nước giao đơn vị hành chính sự nghiệp được đảm bảo kinh phí hoạt động từ Ngân sách nhà nước. Kinh phí này được bù đắp theo nguyên tắc là không bồi hoàn trực tiếp và tương ứng với khối lượng công việc được giao đã hoàn thành. Chi phí chi ra cho lĩnh vực hành chính sự nghiệp không được trả lại trực tiếp bằng hiệu quả kinh tế nào đó mà được thể hiện bằng hiệu quả xã hội - đó là nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra của kinh tế vĩ mô. (ví dụ như chi cho bộ máy công quyền hành chính, cho cho quốc phòng an ninh là nhằm đảm bảo an toàn trật tự xã hội, ổn định chính trị, điều hành vĩ mô của nền kinh tế quốc dân; chi cho công tác văn hoá xã hội, chi cho giáo dục đào tạo nhằm nâng cao trình độ dân trí của một quốc gia, chi về y tế để đảm bảo sức khoẻ cho mọi người dân...). Hai là: kinh phí chỉ được sử dụng cho mục đích đã hoạch định trước. Có nghĩa là kinh phí được cấp và chi tiêu theo dự toán được duyệt theo từng mục đích chi cụ thể và được duyệt quyết toán chi ngân sách hàng năm. Đặc điểm nổi bật trong công tác quản lý các nguồn kinh phí của đơn vị hành chính sự nghiệp là công tác dự toán. Dự toán ngân sách của đơn vị hành chính sự nghiệp là cơ sở cho quá trình chấp hành và quyết toán ngân sách. Coii trọng việc so sánh giữa thực tế và dự toán để tăng cường kiểm tra đối với quá trình thu, sử dụng nguồn kinh phí Ngân sách nhà nước. Điều này được thể hiện qua việc thu Ngân sách nhà nước phải thực hiện theo pháp luật và các khoản chi Ngân sách nhà nước chỉ được thực hiện khi có trong dự toán được duyệt. Mọi khoản chi tiêu không được nằm ngoài các mục chi theo quy định của Mục lục Ngân sách nhà nước hiện hành. Mặt khác, đơn vị hành chính sự nghiệp có tổ chức kế toán mang tính công quyền rất cao. Nó được thể hiện qua các giai đoạn quyết toán Ngân sách nhà nước. Nhà nước không thể bỏ được trình tự duyệt quyết toán cho các đơn vị hành chính sự nghiệp: Bộ tài chính duyệt quyết toán cho các đơn vị, các ngành cụ thể. Chính phủ duyệt quyết toán cho Bộ tài chính. Quốc hội duyệt quyết toán cho cả nước. Trách nhiệm của đơn vị dự toán là phải tổ chức kế toán mang tính pháp lý cao như tính tự chủ của doanh nghiệp . Mọi khoản chi đều phải có dự toán chi cụ thể, phải tuân theo định mức chế độ quy định và phải được cấp có thẩm quyền duyệt trong dự toán chi Ngân sách hàng năm. Có như vậy mới đảm bảo chi tiêu đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả. Ba là: khoản thu của đơn vị hành chính sự nghiệp không vì mục đích lợi nhuận và được đưa vào quỹ tập trung của Ngân sách nhà nước. Tuỳ theo tính chất và đặc điểm hoạt động, Nhà nước cho phép đơn vị hành chính sự nghiệp ở một số lĩnh vực được thu một số khoản mang tính chất sự nghiệp như phí, lệ phí.... Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp là một nội dung thu của Ngân sách nhà nước và đựơc quy định trong luật ngân sách. Các khoản thu sự nghiệp mang tính chất bắt buộc, nó được đưa vào quỹ tập trung của Ngân sách nhà nước. Mục đích của các khoản thu này là nhằm xoá bỏ dần tình trạng bao cấp qua Ngân sách, giảm nguồn kinh phí cấp phát từ Ngân sách nhà nước, trang trải thêm cho hoạt động của đơn vị, huy động sự đóng góp của các tổ chức và dân cư, không phải xuất phát từ mục đích lợi nhuận như các khoản thu của doanh nghiệp. Thu sự nghiệp gồm các khoản thu trong các lĩnh vực sau đây: Thu sự nghiệp giáo dục đào tạo: thu hợp đồng giảng dạy nghiệp vụ chuyên môn khoa học kỹ thuật; thu từ kết quả hoạt động sản xuất và ứng dụng khoa học của các trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, các trường cao đẳng, đại học. Sự nghiệp y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình: thu viện phí, th dịch vụ khám chữa bệnh, thu bán các sản phẩm đơn vị ứng dụng khoa học sản xuất để phòng chữa bệnh (như các loại vắc xin phòng bệnh viêm gan, bại liệt...). Sự nghiệp văn hoá - thông tin: thu dịch vụ quảng cáo, thu bán sản phẩm văn hoá như bản tin, tạp chí.... ; thu từ hoạt động biểu diễn của các đoàn nghệ thuật. Thể dục - thể thao: thu tiền bán vé từ hoạt động thi đấu, biểu diễn thể dục thể thao, thu từ hợp đồng dịch vụ thể thao như thuê sân bãi, dụng cụ thể dục thể thao. Sự nghiệp nghiên cứu khoa học, công nghệ, môi trường: thu bán các sản phẩm từ kết quả hoạt động sản xuất, nghiên cứu, thử nghiệm thu dịch vụ khoa học, bảo vệ môi trường, thu hợp đồng nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước. - Sự nghiệp kinh tế: Thu dịch vụ đo đạc bản đồ, điều tra khảo sát, quy hoạch nông lâm, thiết kế trồng rừng, thu dịch vụ khí tượng thuỷ văn, dịch vụ kiến trúc, quy hoạch đô thị. Ngoài các khoản thu sự nghiệp của đơn vị hành chính sự nghiệp như đã nêu trên đây, còn có một số khoản thu khác không mang tính sự nghiệp. Những khoản này nhằm đảm bảo nguồn kinh phí cho hoạt động của các đoang thể, hiệp hội, tổ chức không phải vì mục tiêu lợi nhuận. Đó là: - Các khoản thu mang tính chất đóng góp tự nguyện của hội viên (đảng phí, đoàn phí, hội phí...). - Các khoản tu từ quyên góp, ủng hô, tài trợ của các tổ chức, cá nhân. - Thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của các đơn vị hành chính sự nghiệp thuộc loại hình tổ chức, đoàn thể, hiệp hội quần chúng. 1.1.3. Vai trò của các đơn vị hành chính sự nghiệp Đơn vị HCSN có chức năng cơ bản là thực hiện nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao trên các lĩnh vực quản lý Nhà nước, quản lý các hoạt động sự nghiệp. Hoạt động quản lý Nhà nước được thể hiện qua hoạt động của bộ máy Nhà nước. Đó là các cơ quan hành chính thuần tuý mang tính chất công quyền, bao gồm các cơ quan trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoạt động sự nghiệp bao trùm toàn bộ các hoạt động của xã hội, nó thuộc thượng tầng kiến trúc, có khả năng điều chỉnh hạ tầng cơ sở. Đó là các đơn vị hành chính sự nghiệp thuộc các lĩnh vực hoạt động như: giáo dục, đào tạo, văn hoá thông tin, nghiên cứu khoa học, y tế. Khu vực HCSN ngoài việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chuyên môn được giao, còn là nơi sáng tạo ra những sản phẩm đặc biệt ở dạng vật chất hoặc phi vật chất, phục vụ con người và xã hội. Những sản phẩm đó mang giá trị tinh thần, đạo đức, trình độ kiến thức, thẩm mỹ, phục vụ cộng đồng, đảm bảo sức khoẻ cho nhân dân. Những sản phẩm này mang tính đặc biệt, vừa phục vụ chính trị - xã hội, vừa đòi hỏi phải có sự bù đắp hao phí đã bỏ ra trong quá trình hoạt động, song chúng đều mang một nét chung là không xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận mà chỉ nhằm đáp ứng các yêu cầu của con người và xã hội. 1.2. Cơ chế khoán chi ngân sách Nhà nước - một nội dung của cơ chế quản lý tài chính tại các đơn vị hành chính sự nghiệp 1.2.1. Nội dung của cơ chế quản lý tài chính tại các đơn vị HCSN Hoạt động tài chính của các đơn vị HCSN là hoạt động thu chi tiền tệ của Nhà nước. Vì vậy nội dung cơ bản của cơ chế quản lý tài chính đơn vị HCSN là quản lý thu - chi của các đơn vị này. Bên cạnh các hoạt động quản lý thu - chi thì quản lý tài sản công cũng là một nội dung của cơ chế quản lý tài chính tại các đơn vị HCSN vì các tài sản công cũng được đầu tư từ Ngân sách Nhà nước để phục vụ cho hoạt động của các đơn vị này. a. Quản lý thu Các nguồn thu của đơn vị hành chính sự nghiệp bao gồm: Thứ nhất là từ nguồn kinh phí Ngân sách Nhà nước cấp để trang trải chi phí hoạt động nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao (bao gồm kinh phí chi thường xuyên và kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản). Thứ hai là nguồn kinh phí sự nghiệp: Đối với các đơn vị HCSN có thu được Nhà nước cho phép thực hiện một số khoản thu theo chế độ quy định, nhằm đảm bảo tính công bằng trong xã hội, đồng thời bù đắp thêm chi phí hoạt động của đơn vị. Về cơ bản thì những khoản thu này không vì mục đích lợi nhuận mà chủ yếu là phải bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ chính do Nhà nước giao. Thứ ba là các khoản thu thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị sự nghiệp kinh tế. Thứ tư là nguồn thu từ sự đóng góp của các hội viên đối với các tổ chức đoàn thể, hiệp hội quần chúng, các tổ chức xã hội. Thứ năm là nguồn tài trợ của các tổ chức trong và ngoài nước Thứ sáu là nguồn kinh phí cho các chương trình mục tiêu của Nhà nước. Quản lý thu của đơn vị HCSN: Nguồn thu quan trọng nhất của các đơn vị HCSN là kinh phí cấp phát từ NSNN. Đặc điểm của nguồn kinh phí này là cấp phát theo dự toán được duyệt cho những chương trình, mục tiêu cụ thể. Do đó để đảm bảo nguồn thu cho hoạt động của mình, đòi hỏi các đơn vị HCSN phải thực hiện tốt công tác lập kế hoạch, dự toán. Dự toán thu - chi phải đảm bảo tính khoa học, chính xác và kịp thời. Đối với các nguồn thu sự nghiệp từ phí, lệ phí...không đơn thuần là quản lý các hình thức thu mà phải tổ chức quản lý các yếu tố quyết định đến số thu. Trong quá trình quản lý thu phải coi trọng yêu cầu công bằng xã hội, đảm bảo thực hiện nghiêm túc đúng đắn các chính sách, chế độ thu do cơ quan cơ thẩm quyền ban hành. Để quản lý các nguồn thu này đòi hỏi phải có kế hoạch thu sát đúng để tổ chức tốt quá trình quản lý thu đồng thời đề ra các biện pháp tổ chức thu thích hợp. Đối với các đơn vị được sử dụng nhiều nguồn thu đồng thời: nguồn ngân sách, nguồn tài trợ v.v...đòi hỏi phải có biện pháp quản lý thống nhất nhằm sử dụng các nguồn thu một cách đúng mục đích trên cơ sở nguyên tắc quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn thu. b. Quản lý chi Các khoản chi của đơn vị hành chính sự nghiệp bao gồm: Thứ nhất là các khoản chi thường xuyên như chi lương và các khoản có tính chất lương,chi cho thanh toán dịch vụ công cộng, vật tư văn phòng, thông tin tuyên truyền, liên lạc, hội nghị phí, công tác phí, sửa chữa nhỏ thường xuyên, và một số các khoản chi nghiệp vụ như chi phí thuê . Thứ hai là các khoản chi không thường xuyên,mang tính đột xuất như chi cho việc thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, các chương trình mục tiêu quốc gia;chi cho việc khắc phục thiên tai;chi cho việc mua sắm sửa chữa lớn tài sản cố định và chi cho đầu tư xây dựng cơ bản. Quản lý các khoản chi của các đơn vị hành chính sự nghiệp được thực hiện theo các yêu cầu cơ bản sau: - Đảm bảo nguồn tài chính cần thiết để các cơ quan hành chính sự nghiệp thực hiện các nhiệm vụ được giao theo đúng đường lối chính sách, chế độ của Nhà nước. Để thực hiện được yêu cầu này đòi hỏi các đơn vị cần xác lập được thứ tự ưu tiên cho các khoản chi để bố trí nguồn kinh phí cho phù hợp. - Quản lý các khoản chi phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và có hiệu quả tiết kiệm và hiệu quả là yêu cầu sống còn trong mọi hoạt động kinh tế xã hội. Dặc biệt việc quản lý các khoản chi của các đơn vị HCSN lại càng phải coi việc tiết kiệm và hiệu quả là tiêu thức cơ bản khi xác lập các biện pháp quản lý, luận điểm này được xác lập dựa trên những căn cứ sau đây: Một là: Xuất phát từ tính chất các khoản chi của các đơn vị hành chính sự nghiệp có quy mô, mức độ rộng lớn, phức tạp, lợi ích của các khoản chi mang lại thường ít gắn liền với lợi ích cụ thể, cục bộ. Do đó sự quan tâm của người sử dụng nguồn kinh phí từ Ngân sách Nhà nước phần nào bị hạn chế. Hai là: So với các khoản chi ở các đơn vị khác trong hệ thống tài chính thì các khoản chi của các đơn vị HCSN có tỷ trọng lớn và có ảnh hưởng lớn đến các vấn đề kinh tế - xã hội, của đất nước. Vì vậy các khoản chi của các đơn vị HCSN không đúng mục đích, không tiết kiệm, hiệu quả kém sẽ gây tổn hại to lớn đến quá trình phát triển kinh tế xã hội. Nhằm đạt được các tiêu chuẩn tiết kiệm và hiệu quả trong quản lýcác khoản chi của các đơn vị HCSN cần thiết phải quản lý chặt chẽ từ khâu XD kế fhoạch, dự toán, xây dựng định mức, thường xuyên phân tích, đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện các khoản chi của các đơn vị HCSN. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp tăng cường quản lý các khoản chi của các đơn vị HCSN nói riêng cũng như công tác tài chính của các đơn vị HCSN nói chung. Đối với từng loại khoản chi có rất nhiều biện pháp quản lý khác nhau, song các biện pháp quản lý chung nhất đối với các khoản chi của các ĐVHCSN: Thiết lập các định mức chi: định mức chi vừa là cơ sở để xây dựng kế hoạch chi, vừa là căn cứ để thực hiện việc kiểm soát các khoản chi của ĐVHCSN. Nguyên tắc chung để thiết lập các định mức chi là vừa phải đảm bảo phù hợp với yêu cầu thực tiễn khách quan của các đơn vị vừa đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả. Xác lập thứ tự ưu tiên của các khoản chi theo mức độ cần thiết đối với từng khoản chi trong tình hình cụ thể về phát triển kinh tế xã hội, về thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị. Xây dựng quy trình cấp phát các khoản chi chặt chẽ, hợp lý nhằm hạn chế tối đa những tiêu cực nảy sinh trong quá trình cấp phát, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm soát chi của các cơ quan có thẩm quyền. Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm toán nhằm ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trong việc sử dụng nguồn kinh phí của Nhà nước. Đồng thời qua quá trình thực hiện thanh tra, kiểm tra và kiểm toán phát hiện những bất hợp lý trong chính sách, chế độ nhằm bổ sung hoàn thiện chính sách chế độ. Trong thực tiễn đối với các khoản chi thường xuyên thì tại các đơn vị HCSN thực hiện quản lý theo cơ chế khoán chi NSNN. Bên cạnh những khoản chi được thực hiện theo cơ chế khoán còn có những khoản chi khoản chi không thường xuyên thực hiện quản lý theo dự toán. Hàng năm, các đơn vị HCSN lập dự toán chi Ngân sách năm từ cơ sở trực tiếp chi tiêu, tổng hợp theo ngành và gửi về bộ tài chính để tổng hợp dự toán Ngân sách toàn quốc. Trên cơ sở dự toán chi ngân sách đã được Chính phủ xét duyệt, các Bộ, ngành tiến hành phân bổ dự toán cho các đơn vị HCSN trong ngành, giao nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc đảm bảo đúng với dự toán Ngân sách được phân bổ. Sở dĩ, các khoản chi này không thực hiện theo cơ chế khoán chi NSNN vì: Thứ nhất, việc thực hiện khoán có thể sẽ dẫn đến tình trạng các đơn vị nhận khoán sẽ hạn chế chi trong năm để tăng thu nhập cho cán bộ, công chức, ít quan tâm đến nâng cao tài sản, phương tiện làm việc, hạn chế việc đào tạo nâng cao năng lực cán bộ, làm ảnh hưởng đến chất lượng công việc những năm sau. Thứ hai, là tiêu thức để xác định các khoản chi này rất khó (vì kinh phí cấp cho nhu cầu các khoản chi này còn tuỳ vào khả năng nguồn vốn NSNN có được ở từng năm). c. Quản lý tài sản công Quản lý tài sản công cũng là một công việc rất hệ trọng trong công tác quản lý tài chính của các đơn vị HCSN. Tài sản công trong khu vực HCSN là một bộ phận quan trọng của tài sản quốc gia. NSNN chi cho các đơnvị HCSN ngoài việc đảm bảo cho các nhu cầu thường xuyên ra, một bộ phận khá lớn dùng để XD công sở và trang bị các phương tiện, thiết bị phục vụ cho hoạt động của các đơn vị này. Đó là những tài sản lớn, được dùng lâu dài từ năm này qua năm khác. Các tài sản công trong các ĐV HCSN gồm: + Đất đai. + Nhà, công trình XD khác gắn liền với đất đai. + Các tài sản khác gắn liền với đất đai. + Các phương tiện GTVT, trang thiết bị làm việc và các tài sản khác. Các tài sản côngtạo thành một nguồn kinh phí để duy trì hoạt động của các ĐVHCSN, việc quản lý nhằm đảm bảo sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài sản công tránh tình trạng sử dụng lãng phí, gây thất thoát tài sản công là một yêu cầu cấp thiết cần được đặt ra đối với công tác quản lý tài chính ở các đơn vị HCSN. Bên cạnh đó việc quản lý chặt chẽ tài sản công ở từng đơn vị dự toán cho phép các cơ quan chủ quản có những quyết định đúng dắn trong việc cấp phát kinh phí đầu tư XD, mua sắm tài sản nhằm đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và công bằng giữa các đơn vị. Quản lý tài sản công phải thực hiện theo những nguyên tắc sau: - Phải tuân thủ các định mức, qui định về mua sắm, sửa chữa tài sản công. - Phải tuân thủ các quy định về quản lý, sử dụng, điều chuyển thanh lý tài sản công. - Phải mở sổ sách theo dõi cả về hiện vật và giá trị đối với tài sản công, hạch toán đầy đủ nguyên giá tài sản công và trích khấu hao tài sản hàng năm theo quy định. - Báo cáo định kỳ hàng năm và báo cáo đột xuất về tài sản công theo quy định. 1.2.2. Cơ chế khoán chi NSNN tại các đơn vị HCSN 1.2.2.1. Khái niệm cơ chế khoán chi NSNN Cơ chế khoán chi NSNN là một cách thức quản lý sử dụng vốn NSNN trong đó Nhà nước (mà trực tiếp là đơn vị có thẩm quyền duyệt dự toán ngân sách) giao cho các cơ quan hành chính sự nghiệp nhận mức khoán kinh phí ổn định trong một thời kỳ (có thể là 1 năm hoặc một số năm) để có thể chủ động sử dụng một cách tiết kiệm hiệu quả trên cơ sở hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ được giao. Phần kinh phí tiết kiệm được cơ quan nhận khoán có thể được sử dụng vào các mục đích theo quy định mang tính chất định hướng và có hướng dẫn phương thức phân chia, còn việc sử dụng cụ thể như thế nào phải căn cứ vào quy chế phân phối do đơn vị xây dựng trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc công khai, dân chủ. 1.2.2.2. Nguyên tắc thực hiện cơ chế khoán chi NSNN Việc khoán chi NSNN chỉ được thực hiện đối với các đơn vị dự toán ngân sách nhà nước có đủ các điều kiện theo quy định và phải thực hiện khoán tới đơn vị dự toán cấp cơ sở. Việc lựa chọn các đơn vị thực hiện khoán chi NSNN cần đảm bảo thận trọng, đáp ứng được những điều kiện thực hiện khoán chi NSNN. Mặt khác trong các đơn vị dự toán cấp I và cấp II có thể có các đơn vị trực thuộc (đơn vị dự toán cấp III) không đảm bảo các điều kiện khoán, vì vậy phải thực hiện khoán chi tới đơn vị dự toán cấp cơ sở. Như vậy, mức kinh phí khoán cho các đơn vị dự toán cấp trung gian (đơn vị cấp I và cấp II) sẽ là số tổng hợp mức khoán cho các đơn vị cấp cơ sở trực thuộc Khoán chi NSNN cần được thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản sau: - Không làm tăng biên chế của đơn vị , không tăng kinh phí đối với những mục chi thực hiện khoán so với trước khi khoán chi NSNN. - Đảm bảo được chức năng, nhiệm vụ của đơn vị đã được cấp có thẩm quyền quyết định với chất lượng hiệu quả công việc không được thấp hơn trước khi thực hiện khoán chi. - Phải đảm bảo công khai, dân chủ, có sự bàn bạc nhất trí của đa số cán bộ, công chức trong việc xây dựng phương án thực hiện khoán ,xây dựng quy chế sử dụng kinh phí tiết kiệm do thực hiện khoán chi. - Bảo đảm quyền hợp pháp cho cán bộ, công chức. 1.2.2.3. Sự cần thiết của cơ chế KCNSNN tại các đơn vị HCSN Việc thực hiện cơ chế KCNSNN sẽ làm cho các đơn vị HCSN mở rộng quyền tự chủ trong sử dụng kinh phí ngân sách, một cách có hiệu quả , nâng cao ý thức tiết kiệm. Đối với tổ chức bộ máy, chất lượng công việc của các đơn vị HCSN: Khi thực hiện khoán chi NSNN sẽ được quyền sử dụng phần kinh phí tiết kiệm được vào các mục đích khác theo quy định. Chính vì vậy, các đơn vị HCSN tích cực sắp xếp lại biên chế, tổ chức bộ máy sao cho gọn nhẹ mà vẫn đảm bảo thực hiện tốt các chức nưng, nhiệm vụ được giao. Đồng thời, tâm lý muốn tăng biên chế khi công việc không đòi hỏi xoá bỏ, hiệu quả công việc đạt kết quả tốt. Về thu nhập, chất lượng cán bộ: khi thực hiện khoán chi thì tổng quỹ lương của đơnvị HCSN đó vẫn giữ nguyên trong khi đó thực hiện khoán chi sẽ dẫn đến giảm biên chế, tiết kiệm được các khoản chi. Do đó sẽ tạo ra một phần kinh phí tiết kiệm được để tăng thu nhập cho cán bộ, công chức và sử dụng theo quy định. Do thu nhập tăng, cơ cấu tổ chức hợp lý, cán bộ, công chức làm đúng chuyên môn buộc họ phải làm việc tích cực để đạt kết quả tốt. Vì vậy chất lượng cán bộ hiệu quả công việc ngày càng được nâng cao. Về việc thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí NSNN: với việc cho phép các đơn vị nhận khoán có quyền quyết định việc dùng phần kinh phí tiết kiệm được vào những mục đích khác nhau theo quy định sẽ tăng cường ý thức tiết kiệm trong sử dụng kinh phí của đơn vị nhận khoán, việc sử dụng kinh phí cũng sẽ phù hợp hơn với thực tế của mỗi đơn vị kinh phí NSNN cũng được dùng có hiệu quả hơn. 1.2.2.4. Nội dung của cơ chế khoán chi NSNN tại các đơn vị HCSN a. Các chỉ tiêu khoán chi NSNN * Chi lương và những khoản có tính chất lương (thanh toán cho cá nhân). Trong đó trừ các mục chi không phục vụ trực tiếp cho hoạt động của cơ quan, tổ chức thực hiện khoán chi như (học bổng học sinh, sinh viên). + Tiền lương: Lương HĐ dài hạn; lương tập sự; lương ngạch bậc theo quỹ lương được duyệt; lương cán bộ công nhân viên ngoài biên chế. + Tiền công: tiền công hợp đồng theo thời vụ, việc.... + Phụ cấp lương: Chức vụ, độc hại, làm đêm, thêm giờ, lưu động. + Tiền thưởng: Thưởng thường xuyên, thưởng đột xuất. + Phúc lợi tập thể: trợ cấp khó khăn, tiền tàu xe, nghỉ phép năm. + Các khoản đóng góp: BHXH, BHTT, kinh phí công đoàn. + Các khoản thanh toán khác cho cá nhân: tiền ăn, chi khám chữa bệnh cho cán bộ, công chức làm việc ở nước ngoài, chi chênh lệch thu nhập thực tế so với lương ngạch bậc, chức vụ, trợ cấp phụ cấp khác. * Chi về hàng hoá, dịch vụ bao gồm: + Thành toán dịch vụ công cộng: thanh toán tiền điện, tiền nước, tiền nhiên liệu, tiền vệ sinh môi trường. + Vật tư văn phòng: văn phòng phẩm, mua sắm công cụ, dụng cụ văn phòng, vật tư văn phòng khác. + Thông tin, tuyên truyền, liên lạc, cước phí điện thoại (cả trong nước và quốc tế), cước phí bưu chính, fax, thuê bao kênh vệ tinh, tuyên truyền, quảng cáo, phim ảnh, ấn phẩm, tuyểntuyền, sách báo, tạp chí thư viện, chi tuyên truyền, giáo dục pháp luật, chi thuê bao đường điện thoại, thuê bao cáp truyền hình. + Hội nghị: In, mua tài liệu, bồi dưỡng giảng viên, báo cáo viên, tiền vé máy bay, tiền thuê phòng ngủ, thuê hội trường, phương tiện vận chuyển, các khoản thuê mướn khác, chi bù tiền ăn. + Công tác phí: tiền vé máy bay, tàu xe, phụ cấp công tác phí,tiền thuê phòng ngủ, khoán công tác phí. + Chi phí thuê mướn: Thuê phương tiện vận chuyển, thuê nhà, đất, thuê thiết bị các loại, thuê lao động trong nước. + Chi đoàn ra: tiền vé máy bay, tàu xe, tiền ăn, tiền ở, phí, lệ phí liên quan. + Sửa chữa thường xuyên tài sản cố định phục vụ công tác chuyên môn và duy tu, bảo dưỡng các công trình cơ sở hạ tầng: môtô, ôtô con, máy tính, máy fax, máy điều hoà, trang thiết bị kỹ thuật chuyên dụng, bảo trì và hoàn thiện phần mềm máy tính, thiết bị phòng cháy, chữa cháy, đường điện, cấp thoát nước, các tài liệu cố định và công trình hạ tầng cơ sở khác. + Chi phí nghiệp vụ chuyên môn của từng ngành: chi phí mua hàng hoá, vật tư cho chuyên môn của từng ngành; trang thiết bị kỹ thuật chuyên dụng (không phải là tài sản cố định); chi mua in ấn chỉ dùng cho chuyên môn của ngành: trang phục, bảo hộ lao động; sách tài liệu, chế độ dùng cho công tác chuyên môn của ngành (không phải là tài sản cố định); chi mật phí, chi thanh toán hợp đồng với bên ngoài. b. Các căn cứ khoán chi NSNN tại các đơn vị HCSN Các khoản chi thực hiện theo cơ chế khoán chi NSNN là các khoản chi thường xuyên của NSNN. Đây là những khoản chi mà việc sử dụng có liên quan đến ý thức tiết kiệm của cán bộ công chức. Việc lập các chỉ tiêu khoán chi NSNN và định mức các khoản chi này được thực hiện dựa trên các căn cứ sau đây: * Căn cứ vào chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước như: + Chiến lược phát triển từng ngành: chẳng hạn trong năm kế hoạch Nhà nước muốn nâng cao chất lượng của ngành truyền hình để phủ sóng tới mọi miền đất nước thì mức khoán chi chung cho cả ngành cũng lớn hơn so với các ngành khác. + Mục tiêu thực hành tiết kiệm: chi đúng và chi đủ, chống lãng phí NSNN. * Căn cứ vào tình hình cụ thể tại các đơn vị HCSN. - Đối với khoản chi cho con người (chi lương và những khoản có tính chất lương). + Căn cứ định tính: Các khoản chi cho con người là các khoản chi thường xuyên và ổn định, các khoản chi lương được chi đều đặn theo từng tháng, còn các khoản chi mang tính chất lương thì được chi theo từng thời kỳ (có thể theo tháng, quý hoặc năm). Các khoản chi cho con người tác động trực tiếp đến người lao động trong đơn vị. Nó kích thích tinh thần làm việc hăng say, phát huy hết khả năng của mình đem lại hiệu quả cao trong công việc. Đây là khoản chi đảm bảo lợi ích tối thiểu cho người lao động trong đơn vị khiến họ yên tâm làm việc. Khoản chi này đảm bảo mức sống cần thiết cho người lao động trong điều kiện giá cả thị trường và mức sống trung bình của xã hội. + Căn cứ định lượng: các khoản chi cho con người được tính trên cơ sở tổng ngạch lương, bậc lương, hệ số lương cho cán bộ công chức trong đơn vị. Với số biên chế hiện có sau khi xem xét chức năng nhiệm vụ, thâm niên công tác để tính ra mức lương và các khoản có tính chất lương cho cán bộ công chức. + Đối với các khoản chi về hàng hoá, dịch vụ: - Căn cứ định tính: Đây là các khoản chi thường xuyên, ổn định. Hàng tháng, đơn vị luôn phải chi các khoản này để duy trì sự hoạt động của đơn vị. Các khoản chi này phụ thuộc vào giá cả thị trường, giá cả thị trường biến động thì dẫn đến mức chi này cũng thay đổi. - Căn cứ định lưọng: Dựa vào giá._. cả thị trường trong từng thời kỳ và số lượng các hàng hoá dịch vụ cung cấp cho đơn vị để tính ra mức tiền cần chi dựa vào số lượng vé tàu, xe đã mua, giá mỗi vé là bao nhiêu, hoá đơn chi tiền thuê phòng ngủ, tiền ăn trong thời gian đi công tác của các cán bộ công chức trong đơn vị. - Căn cứ khác: Dựa vào khối lượng và chất lượng sản phẩm đầu ra đơn vị có thể ước lượng giá trị các nguyên vật liệu đầu ra. Từ đó có thể ước lượng giá trị các nguyên vật liệu đầu vào. Từ đó, đơn vị xem xét chi cho nguyên vật liệu nào mang tính thường xuyên để đưa vào mục lục khoán chi. Ví dụ như đối với văn phòng phẩm: giấy, bút, mực...được sử dụng thường xuyên vào các hoạt động của các đơn vị HCSN, vì vậy các khoản này được đưa vào chỉ tiêu khoán chi NSNN. Dựa vào tình hình sử dụng kinh phí trong các năm trước đó để tính ra mức chi trung bình và xác định được các chỉ tiêu khoán thông qua việc thống kê số liệu, kinh nghiệm quản lý tài chính. Thực hiện quá trình này sẽ giúp cho đơn vị có thể ước lượng được mức chi trong năm thực hiện cơ chế khoán. Mức chi này dao động quanh mức chi trung bình. Tuy nhiên, căn cứ này chỉ để tham khảo, kiểm tra sau khi đã thực hiện các căn cứ tính mức chi và các chỉ tiêu khoán chi như trên. c. Quy trình thực hiện khoán chi NSNN tại các ĐVHCSN - Lập phương án khoán chi NSNN, xây dựng mức kinh phí khoán theo mục lục ngân sách cho cả năm có chia ra theoquý, theo tháng. Để thực hiện điều đó đơn vị phải rà soát lại chức năng, nhiệm vụ, xem xét và đánh giá lại tổ chức, phân loại cán bộ theo chức danh, theo công việc; phải cho cán bộ, công chức trao đổi thống nhất về chủ trương khoán chi và tự nguyện cùng tham gia các biện pháp thực hiện khoán chi NSNN.Tiếp theo đơn vị phải gửi phương án khoán chi NSNN cho cấp có thẩm quyền giao khoán kinh phí để xem xét, phê duyệt. Đối với các đơn vị dự toán cấp I, phương án khoán chi NSNN phải gửi đồng thời cho cơ quan tài chính cùng cấp để tổng hợp và xem xét và trình lên cấp có thẩm quyền giao khoán kinh phí quyết định. Đối với đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc sẽ gửi phương án khoán chi NSNN cho đơn vị dự toán cấp trên trực tiếp xem xét phê duyệt. - Nhận kinh phí khoán và giao cho các đơn vị dự toán trực thuộc (nếu có): Các đơn vị sẽ đề nghị kho bạc nhà nước cấp tạm căn cứ vào kế hoạch sử dụng kinh phí theo quý, có chia theo tháng đã được duyệt. Sau khi cơ quan tài chính kiểm soát chi nếu đủ điều kiện sẽ làm thủ tục thanh toán. Trong quá trình sử dụng, đơn vị được chủ động chuyển mục đích sử dụng kinh phí đã được cấp tạm ứng theo các mục lục chi đã được NSNN quy định. Căn cứ vào hoá đơn chứng từ, chi thực tế, KBNN làm thủ tục thanh toán cho đơn vị. Nếu đơn vị HCSN (đơn vị dự toán cấp I) có các đơn vị dự toán trực thuộc (đơn vị dự toán cấp II, đơn vị dự toán cấp III...) thì đơnvị dự toan cấp I sẽ thông báo cho KBNN nơi mình giao dịch về các mức kinh phí giao khoán cho các đơn vị trực thuộc. KBNN nơi đơn vị dự toán cấp I giao dịch thông báo cho KBNN nơi đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc giaodịch. - Quyết toán kinh phí chi NSNN: Trong phạm vi tổng mức kinh phí được giao khoán cho cả năm có chia theo quý, tháng, đơn vị được quyết toán theo nội dung sử dụng thực tế. Sau khi quyết toán được duyệt, đơn vị phải lập báo cáo về tình hình thực khoán chi NSNN, so sánh việc thực hiện thực tế với kinh phí được giao khoán. Quy trình thực hiện cơ chế khoán chi NSNN được thể hiện ở hai sơ đồ sau: Sơ đồ 2: Quy trình thực hiện khoán chi NSNN tại các đơn vị HCSN Kho bạc Nhà nước (nơi đơn vị giao dịch) Cơ quan tài chính các cấp (giúp chính quyền các cấp giao khoán chi NSNN cho các đơn vị HCSH) (2b) (4) Nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ (5) (7) (6a) (1) (2a) Đơn vị HCSN (3) (6c) Cán bộ, công chức (6b) 1. Lập phương án khoán chi NSNN và xây dựng mức kinh phí thực hiện khoán cho cả năm, có chia theo quý, tháng. 2a. Được phê duyệt và nhận kinh phí thực hiện khoán chi cho cả năm có chia theo quý, tháng. 2b. Cơ quan TC các cấp thông báo cho KBNN mức kinh phí khoán chi NSNN cả năm, có chia theo quý, tháng. 3. Nhận hàng hoá, dịch vụ. 4. Đề nghị KBNN cho rút tiền hoặc thanh toán trực tiếp cho nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ. 5. Rút tiền từ kho bạc nhà nước. 6a. Kho bạc thanh toán trực tiếp cho nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ. 6b. Đơn vị thanh toán cho nhà cung cấp hàng hoá dịch vụ. 6c. Thanh toán cho cán bộ, công chức. 7. Quyết toán kinh phí. Sơ đồ 2 được lập với giả thiết sau: Đơn vị HCSN này là cấp có quan hệ dự toán và quyết toán kinh phí trực tiếp với cơ quan tài chính và không có các đơn vị trực thuộc. Trường hợp quan hệ giữa các đơn vị dự toáncác cấp và cơ quan tài chính được thể hiện ở sơ đồ 3. Sơ đồ 3: Mối quan hệ giữa các đơn vị dự toán NSNN trong thực hiện cơ chế khoán chi NSNN. Cơ quan tài chính các cấp (giúp chính quyền các cấp giao khoán chi NSNN cho các đơn vị HCSH) Kho bạc Nhà nước (nơi đơn vị dự toán cấp I giao dịch) (3a) (1c) (2a) (3b) Đơn vị dự toán cấp I (3c) Kho bạc Nhà nước (nơi đơn vị dự toán cấp II giao dịch) (1b) (2b) (3d) Đơn vị dự toán cấp II (3e) (1a) (2c) Đơn vị dự toán cấp III Kho bạc Nhà nước (nơi đơn vị dự toán cấp III giao dịch) Ghi chú: - 1a; 1b; 1c; Lập hoặc tổng hợp phương án khoán chi NSNN dự kiến mức khoán gửi cơ quan có thẩm quyền. - 2a, 2b, 2c: Được phê duyệt và nhận kinh phí thực hiện khoán chi NSNN cho cả năm có chia theo quý, năm. - 3a, 3b; 3c; 3d; 3e: Thông báo mức kinh phí khoán chi NSNN cả năm có chia theo quý, tháng của các đơn vị HCSN được thực hiện cơ chế KCNSNN cho các KB nơi đơn vị dự toán cấp trên thông báo cho KBNN nơi mình giao dịch về phân bổ mức kinh phí khoán cho các đơn vị cấp dưới trực thuộc. Trên cơ sở KBNN gửi thông báo cho KBNN cấp dưới để cấp phát cho các đơn vị cấp phát dưới trực thuộc (3c; 3e). 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới cơ chế khoán chi NSNN tại các đơn vị HCSN 1.3.1. Đặc điểm hoạt động tại các đơn vị HCSN Mỗi loại hình đơn vị HCSN đều có những đặc điểm riêng.Đối với các đơn vị HCSN có thu thì các khoản thu này được phép giữ lại để trang trải các hoạt động của đơn vị, giảm nguồn kinh phí cấp phát từ NSNN do đó định mức khoán chi dành cho các đơn vị này sẽ khác so với các đơn vị đơn vị hành chính thuần tuý, tổ chức đoàn thể, nghề nghiệp xã hội, sự nghiệp kinh tế. Các đơn vị HCSN thường được thiết lập theo một hệ thống dọc từ TW đến địa phương trong cùng 1 ngành. Vị trí, vai trò của ngành đó đối với chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc càng cao thì Nhà nước sẽ dành phần lớn ngân sách cho ngành đó. Các định mức chi và chỉ tiêu khoán do đó cũng khác biệt so với các ngành khác. Thông thường, các chỉ tiêu khoán có thể được mở rộng và định mức chi được nâng cao hơn. Như vậy đặc điểm hoạt động của các đơn vị HCSN sẽ là căn cứ để xây dựng các chỉ tiêu khoán chi, các định mức chi sát thực và hợp lý hơn làm cho cơ chế khoán chi NSNN có ý nghĩa hơn đối với đơn vị. 1.3.2. Môi trường pháp lý cho việc thưc hiên cơ chế khoán chi NSNN Môi trường pháp lý được đề cập đến ở đây bao gồm các văn bản, chính sách, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về các vấn đề có liên quan tới các chỉ tiêu khoán chi, định mức khoán chi, thủ tục cấp phát kinh phí NSNN cho các đơn vị HCSN. Khoán chi NSNN là một chủ trương chung của Chính Phủ đối với các đơn vị HCSN, do đó các văn bản pháp quy là cơ sở để thực hiện và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và chất lượng của công tác này. Nếu các văn bản pháp quy ban hành phù hợp với tình hình thực tế, phản ánh được những biến động của các đơn vị thì chủ trương này chắc chắn sẽ được thực hiện tốt, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách. Ngược lại, nếu các văn bản ban hành chưa hợp lý và bất cập thì không những sẽ gây trở ngại đến tiến độ thực hiện mà thậm chí còn bóp méo những mục đích tốt đẹp của chủ trương này. Có thể khái quát một số loại văn bản pháp quy liên quan trực tiếp đến cơ chế khoán chi như sau: - Quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về mức khoán chi NSNN: Thực hiện khoán chi với phương án khoán là một thời kỳ xác định, nhưng trong thời gian đó có rất nhiều biến động về giá cả thị trường. Do đó, nó ảnh hưởng trực tiếp tới nhu cầu kinh phí mà những ảnh hưởng đó phát sinh không nằm trong điều chỉnh của Nhà nước. Vì vậy sẽ gây thiệt hại cho đơn vị khi thực hiện cơ chế khoán chi NSNN. - Chính sách tiền lương: Thực hiện cơ chế khoán chi NSNN với mục đích là tăng thu nhập cho cán bộ công chức trong đơn vị. Do đó, các chính sách cải cách tiền lương làm cho tiền lương thực sự khuyến khích cán bộ công chức làm việc hết khả năng nhằm đạt được hiệu quả cao theo kế hoạch đã đề ra. - Các quy định về thủ tục cấp phát kinh phí NSNN, quá trình kiểm soát, thanh toán, quyết toán thông qua KBNN. Điều này ảnh hưởng đến thời gian nhận kinh phí nhanh hay chậm đối với đơn vị. 1.3.3. Nhân tố con người Khoán chi ngân sách nói chung và khoán chi ngân sách đối với các đơn vị HCSN nói riêng là một vấn đề còn rất mới, đang trong giai đoạn thí điểm. Do đó, trình độ và đạo đức của cán bộ công chức trong đơn vị có ảnh hưởng lớn tới quy trình và hiệu quả của cơ chế: từ việc lập các phương án giao khoán, thực hiện cơ chế khoán chi NSNN đến việc báo cáo định kỳ, kiểm tra, kiểm soát. Khi lập phương án giao khoán đòi hỏi cán bộ công chức phải có khả năng dự báo các yếu tố ảnh hưởng đến định mức khoán chi đồng thời phải phân tích được tính chất, vai trò của từng khoản chi đưa vào thực hiện khoán. Tuy không phải là một quy trình quá phức tạp nhưng cơ chế khoán chi lại đòi hỏi tinh thần tự giác và trách nhiệm của những người thực hiện, ý thức của cán bộ công chức trong trường hợp này do đó cũng là một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả và chất lượng thực hiện cơ chế khoán chi. Chương II Thực trạng cơ chế khoán chi ngân sách nhà nước tại trung tâm kỹ thuật và sản xuất chương trình đài truyền hình Việt Nam 2.1.Tổng quan về trung tâm kỹ thuật sản xuất chương trình đài truyền hình Việt Nam 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Đài Truyền hình Việt Nam có tiền thân từ ban biên tập vô tuyến truyền hình trực thuộc đài tiếng nói Viêt Nam đến giữa năm 1976 chuyển thành đài truyền hình Trung ương. Nghị định 72/HĐBT ngày 30-4-1987 vâ Nghị định sửa đổi bổ sung số 52/CP do Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký ngày 16-8-1993 Đài truyền hình Trung ương chính thức được xác định là đài truyền hình quốc gia mang tên là đài truyền hình Việt Nam, là cơ quan trực thuộc Chính Phủ. Trung tâm kỹ thuật sản xuất chương trình là đơn vị trực thuộc Đài truyền hình Việt Nam. Xuất phát từ tổ nghiên cứu kỹ thuật truyền hình nằm trong đài tiếng nói Việt Nam(1969) đến phòng kỹ thuật(1970), Ban kỹ thuật(1976), Trung tâm kỹ thuật(1986) và nay là trung tâm kỹ thuật sản xuất chương trình(theo NĐ 52-CP-1993). Để đáp ứng nhiệm vụ sản xuất chương trình ngày càng cao về số lượng và chất lượng TTKtài sảnXCT đã củng cố và phát triển không ngừng về tổ chức, cơ sở kỹ thuật. Thiết bị kỹ thuật tai trung tâm đã đổi mới từ đen trắng sang màu, từ VHS sang UMATIC, từ UMATIC sang BETACAM và hiện nay đang trong giai đoạn số hoá. 2.1.2.Chức năng,nhiệm vụ Theo quyết định số 262 QĐ/TC-THVN của Tổng giám đốc Đài truyền hình Việt Nam quy định chức năng, nhiệm vụ của TTKtài sảnXCT như sau: -TTKtài sảnXCT có chức năng quản lý, khai thác toàn bộ hệ thống kỹ thuật chuyên ngành của Đài để phục vụ quá trình sản xuất chương trình của Đài truyền hình Việt Nam (khu vực Trung ương) và tham gia quản lý kỹ thuật sản xuất chương trình của ngành. -Xây dựng quy hoạch, kế hoạch hàng năm, các dự án đầu tư về công tác kỹ thuật sản xuất chương trình Đài Truyền hình Việt Nam gửi Ban kế hoạch tài vụ tổng hợp trình lãnh đạo đài quyết định. -Tổ chức khai thác, bảo dưỡng, sữa chữa, nâng cấp, lắp đặt các thiết bị chuyên dùng phục vụ cho yêu cầu kỹ thuật SXCT Truyền hình Việt Nam (khu vực Trung ương) và tham gia với cácĐài địa phương theo quyết định của lãnh đạo Đài. Cùng với ban kế hoạch tài vụ, Banquan hệ quốc tế giúp Lãnh đạo Đài (khi được Tổng giám đốc uỷ quyền) đàm phán, ký kết các hợp đồng kinh tế kỹ thuật với các tổ chức truyền hình Quốc tế phục vụ kỹ thuật sản xuất chương trình của Đài. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào lĩnh vực truyền hình để từng bước nâng cao chất lượng chương trình truyền hình. Tham gia vào các đề tài khoa học cấp Ngành, cấp Nhà nước và tham gia thẩm định các dự án phát triển kỹ thuật sản xuất chương trình truyền hình trong cả nước. Phối hợp với ban tổ chức cán bộ đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ, kỹ sư, kỹ thuât viên, xây dựng quy hoạch cán bộ trong đơn vị nhằm đáp ứng yêu cầu hiện tại và tương lai. Nghiên cứu soạn thảo điều lệ hoạt động, lề lối làm việc, mối quan hệ công tác của trung tâm với các cơ quan liên quan trình Lãnh đạo Đài quyết định. Quản lý tổ chức cán bộ (bao gồm thi đua, khen thưởng và kỷ luật), tài chính, tài sản của TTKtài sảnXCT theo quy định phân cấp của Đài. 2.1.3.Cơ cấu tổ chức Trung tâm kỹ thuật sản xuất chương trình bao gồm 8 phòng: Phòng tổng hợp Phòng truyền hình lưu động Phòng sản xuất 1 Phòng sản xuất 2 Phòng kỹ thuật vệ tinh Phòng sửa chữa lắp đặt thiết bị điện tử Phòng cơ điện lạnh Phòng kỹ thuật + Nhiệm vụ của phòng Tổng hợp Phòng tổng hợp có nhiệm vụ tham mưu giúp Giám đốc trung tâm quản lý các lĩnh vực:Kế hoạch;tài chính;hành chính;tổ chức cán bộ;quản lý tài sản,thiết bị. Cụ thể: - Về công tác tài chính -kế toán: Tham mưu cho Giám đốc trong việc quản lý tài chính theo đúng quy định của Nhà nước và của Đài. Giúp Giám đốc lập dự toán thu, chi ngân sách hàng năm, hàng quý gửi Ban chức năng theo quy định. Giải quyết kịp thời, đúng kế hoạch những nhu cầu về tài chính của các đơn vị trong trung tâm theo đúng quy định của Nhà nước, của Đài. Tổ chức hệ thống sổ sách, chứng từ kế toán khoa học và thực hiện báo cáo tài chính theo đúng quy định Tham mưu giúp Giám đốc đàm phán và ký kết hợp đồng kinh tế- kỹ thuật. - Công tác kế hoạch sản xuât: Hàng tuần, lập kế hoạch sử dụng thiết bị và theo dõi tình hình sử dụng thiết bị. Hàng tháng, thống kê số giờ sử dụng thiết bị của trung tâm, gửi các đơn vị chức năng nhằm phục vụ công tác quản lý. Hàng tháng tổng hợp và xây dựng kế hoạch công tác của trung tâm trình Giám đốc. Chủ động đề xuất phương án sử dụng thiết bị để nâng cao hiệu quả sản xuất. - Về công tác quản lý trang thiết bị, máy móc và tài sản khác. Tham mưu, đề xuất với Giám đốc các biên pháp quản lý tài sản phù hợp với thực tế. Cung ứng vật tư, thiết bị theo kế hoạch, đảm bảo quy cách, chất lượng để đáp ứng yêu cầu sản xuất chương trình. Theo dõi việc xuất, nhập, điều chuyển tài sản, vật tư, thiết bị giữa các đơn vị trong và ngoài Trung tâm. Phối hợp với các đơn vị chức năng để xây dựng phương án thanh lý tài sản không còn giá trị sử dụng. - Về công tác tổ chức cán bộ: Quản lý hồ sơ cán bộ, công chức và lao động hợp đồng của Trung tâm theo quy định của Đài. Hàng năm căn cứ vào nhu cầu của các đơn vị, tiến hành lập kế hoạch sử dụng lao động của các đơn vị trình Giám đốc giải quyết. Tham gia các Hội đồng thi tuyển công chức (khối kỹ thuật) và hợp đồng khi Giám đốc yêu cầu. Tham mưu, đề xuất với Giám đốc về kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và các chính sách, chế độ liên quan đến quyền lợi của người lao động. Thực hiện các thủ tục cần thiết về công tác cán bộ (như: bổ nhiệm, nghỉ hưu, khen thưởng, kỷ luật, trợ cấp... ) theo quy định phân cấp công tác quản lý cán bộ của Đài THVN. - Về công tác Hành chính, văn thư: Theo dõi tình hình thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị thuộc Trung tâm, giúp Giám đốc làm báo cáo định kỳ về tình hình hoạt động của trung tâm để trình Lãnh đạo Đài. Thực hiện việc tiếp nhận, chuyển giao, lưu trữ mọi công văn, tài liệu; Quản lý và sử dụng con dấu cảu Trung tâm theo đúng quy định; Soạn thảo các văn bản theo yêu cầu của Lãnh đạo Trung tâm. Đảm bảo vệ sinh công nghiệp, vệ sinh môi trường làm việc tại các khu vực do Trung tâm quản lý và một số khu vực khác (bao gồm: vệ sinh hành lang, nhà vệ sinh, cửa kính). + Nhiệm vụ của Phòng Sản xuất Quản lý và khai thác thiết bị ở giai đoạn sản xuất hậu kỳ trong dây chuyền công nghệ sản xuất sản phẩm truyền hình. Tổ chức khai thác có hiệu quả các thiết bị của Phòng thu thanh, Phòng đọc tiếng, Phòng pha âm, Phòng dựng băng, các trường quay ghi hình, phòng dựng, phòng đọc, telecine được giao. Trực tiếp quản lý và vận hành hệ thống lạnh tại khu vực trường quay S9. Lắp đặt, bảo dưỡng, sửa chữa toàn bộ hệ thống điện tại khu nhà H. Thực hiện tốt các chương trình phát trực tiếp từ các trường quay khi được phân công. Thực hiện phát sóng trực tiếp các chương trình thời sự tại các trường quay được phân công. + Nhiệm vụ của Phòng Truyền hình lưu động Quản lý và khai thác thiết bị ở giai đoạn tiền kỳ trong dây chuyền công nghệ sản xuất chương trình truyền hình. Quản lý và khai thác các thiết bị lưu động, gọn nhẹ. Quản lý, khai thác hiệu quả các xe Truyền hình lưu động chuyên dụng nhiều camera và một camera, các thiết bị viba để ghi hình hoặc tường thuật trực tiếp các chương trình truyền hình. Tổ chức bảo quản và thực hiện các sửa chữa nhỏ đối với máy móc, thiết bị mà đơn vị quản lý nhằm đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ. + Nhiệm vụ của Phòng Kỹ thuật vệ tinh Quản lý, khai thác, bảo dưỡng các thiết bị thu ghi tín hiệu qua vệ tinh. Ghi băng và tổ chức lưu trữ băng theo quy định. Đề xuất các phương án thiết lập đường truyền vệ tinh hiệu quả. Quản lý và khai thác hiệu quả các thiết bị phát vệ tinh lưu động. + Nhiệm vụ của Phòng Tổng khống chế Quản lý, khai thác hiệu quả các thiết bị, máy móc của phòng máy Tổng khống chế. Thực hiện việc phát sóng các băng chương trình của Đài và truyền tín hiệu hình, tiếng đi các nơi theo đúng quy định. Thu tín hiệu, ghi băng chương trình truyền qua đường cáp quang của các Đài truyền hình địa phương, Đài khu vực và các điểm trong nước, ngoài nước để phục vụ việc sản xuất chương trình hoặc truyền hình trực tiếp. Quản lý và khai thác hiệu quả các trường quay được giao. + Nhiệm vụ của Phòng Sửa chữa, lắp đặt thiết bị điện tử Sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ các thiết bị, máy móc kỹ thuật do Trung tâm quản lý, khai thác. Lắp đặt và hướng dẫn sử dụng các thiết bị kỹ thuật của Trung tâm theo đúng kế hoạch. Lắp đặt các thiết bị phục vụ chương trình cầu truyền hình và các chương trình đặc biệt theo chỉ đạo của Giám đốc. Nghiên cứu, đề xuất với Giám đốc Trung tâm các biện pháp cải tạo, lắp đặt máy móc, thiết bị để phát huy tối đa hiệu quả sử dụng. Tư vấn về thiết bị và tham gia thẩm định các dự án khi Giám đốc yêu cầu. Tham gia sửa chữa thiết bị của các Đài truyền hình địa phương, Đài khu vực và các đơn vị khác theo quyết định của Giám đốc Trung tâm. + Nhiệm vụ của Phòng Kỹ thuật Kiểm tra, phát hiện lỗi kỹ thuật các chương trình truyền hình trước khi phát sóng. Theo dõi các chương trình phát sóng theo quy định. Tổ chức việc nghiên cứu các đề tài khoa học. Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin và các thành tựu khoa học truyền hình vào sản xuất chương trình, công tác quản lý. Tham mưu cho Giám đốc về lĩnh vực kỹ thuật truyền hình. Sản xuất các sản phẩm hình hiệu, gạt tin nhằm nâng cao chất lượng chương trình. Chủ trì trong việc thực hiện các dự án đầu tư kỹ thuật của Trung tâm. Tư vấn về thiết bị và tham gia thẩm định các dự án khi Giám đốc yêu cầu. + Nhiệm vụ của Phòng cơ điện lạnh Đảm bảo nguồn điện ổ định, liên tục phục vụ sản xuất chương trình, phát sóng bằng nguồn điện lưới quốc gia, máy phát điện và UPS. Quản lý, khai thác hệ thống lạnh trung tâm để cấp cho các trường quay. Lắp đặt, sửa chữa, bảo dưỡng hệ thống điện tại nhà C, nhà G và hệ thống lạnh trung tâm, các máy điều hoà nhiệt độ cục bộ do Trung tâm quản lý. Tham mưu cho Giám đốc về lĩnh vực điện và lạnh. 2.1.3 Thực trạng cơ chế quản lý tài chính tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình Sơ đồ 4: Mô hình cơ chế quản lý tài chính tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình Bộ Tài Chính Ngân sách Nhà nước Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình (Đơn vị dự toán cấp II) Đài Truyền hình Việt Nam Ban Kế hoạch – Tài vụ (Đơn vị dự toán cấp I) Đây là mô hình cơ chế quản lý tài chính theo ngành dọc, trong đó, Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình chịu sự quản lý trực tiếp của Đài Truyền hình Việt nam và chịu sự quản lý gián tiếp của Bộ Tài chính. Nhiệm vụ bao trùm của quản lý tài chính tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình là phải quản lý và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực được đưa vào phục vụ cho hoạt động của trung tâm. Nhiệm vụ này bao gồm việc quản lý các nguồn thu, quản lý các khoản chi và quản lý tài sản công mà trung tâm đang sử dụng. Để tìm hiểu chi tiết về thực trạng quản lý tài chính tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình, sau đây sẽ đi sâu tìm hiểu thực trạng của quản lý thu, quản lý chi và quản lý tài sản công tại trung tâm. 2.1.3.1 Thực trạng quản lý thu Do đặc thù của một đơn vị hành chính sự nghiệp nên các nguồn thu của trung tâm rất hạn chế (cụ thể đã được phân tích ở trên), cơ chế quản lý các nguồn thu này cũng khá đơn giản. Các nguồn thu phục vụ cho hoạt động của trung tâm bao gồm: - Nguồn kinh phí Đài Truyền hình Việt Nam cấp. - Nguồn thu từ các dự án, từ sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế... Tuy nhiên, một thực tế có thể thấy rõ là, nguồn thu chủ yếu của trung tâm vẫn là nguồn thu từ Ngân sách Nhà nước; các nguồn thu khác chiếm vị trí thứ yếu chỉ khoảng 1-3% tổng nguồn thu của trung tâm. Điều này được minh hoạ trong bảng số liệu sau: Bảng 1: Nguồn thu của Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình (2000 -2002) Đơn vị: triệu đồng Năm Tổng số Ngân sách Nhà nước cấp Nguồn thu khác Số tiền Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng 2000 13.010 13.000 99,92% 10 0,08% 2001 13.203 13.000 98,46% 203 1,54% 2002 17.523 17.000 97,01% 523 2,9% (Nguồn: Báo cáo hoạt động của phòng tổng hợp Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình năm 2000-2002). Xuất pháp từ thực trạng trên, trong thời gian qua, Ban kế hoạch tài vụ Đài truyền hình Việt Nam mới chỉ tổ chức quản lý, điều hành tương đối có hệ thống và qui củ đối với nguồn kinh phí từ Ngân sách Nhà nước. Nguồn kinh phí này theo bảng số liệu thì chiếm 97 - 99% tổng nguồn thu của Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình, đồng thời đây cũng là nguồn thu được quản lý thống nhất trong suốt quá trình phân phối từ Bộ Tài chính đến Đài Truyền hình Việt Nam và sau đó là đến Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình thông qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Các nguồn thu khác mặc dù chếm tỷ trọng rất nhỏ nhưnng có vai trò khá quan trọng trong hoạt động cuả trung tâm. Các nguồn thu này phần lớn có nguồn gốc từ các hoạt động của trung tâm mang lại, ví dụ như; thu từ việc sản xuất các trương chình truyền hình theo hợp đồng, thu từ các nguồn hỗ trợ dự án..., đây là những nguồn thu góp phần giải quyết những khó khăn về tài chính của trung tâm trong quá trình hoạt động mà cơ quan chủ quản là Đài Truyền hình Việt Nam chưa thể giải quyết kịp thời. Việc quản lý các nguồn thu này là một khó khăn đối với trung tâm do tính chất của các nguồn này là không thường xuyên, đồng thời các qui định về quản lý các nguồn thu này cũng chưa thống nhất nên công tác quản lý còn tuỳ tiện, mang nặng tính hính thức. Trong hai năm gần đây, các nguồn thu khác của trung tâm có xu hướng tăng. Đây là biểu hiện tất yếu trong quá trình phát triển của trung tâm, cho thấy hoạt động của trung tâm có tiềm năng đem lại những khoản thu có giá trị lớn. Vì vậy, trong tương lai việc quản lý các nguồn thu này cần được chú ý một cách thích đáng. 2.1.3.2 Thực trạng quản lý chi Thời kỳ trước khi thực hiện cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước (trước năm 2001) thì việc quản lý các khoản chi của trung tâm được thực hiện trong từng khâu bắt đầu từ khâu lập dự toán Ngân sách, chấp hành Ngân sách cho đến khâu kế toán và quyết toán Ngân sách. Các bước thực hiện cụ thể như sau: - Lập dự toán Ngân sách: Sau khi có các hướng dẫn của Chính phủ và Bộ Tài chính về việc lập dự toán Ngân sách. Đài Truyền hình Việt Nam hướng dãn Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình lập dự toán năm gửi về Đài. Tiếp theo, Đài Truyền hình Việt Nam sẽ căn cứ vào dự toán này để tổng hợp trình Chính phủ. Sau khi được Chính phủ duyệt và thông báo dự toán năm, Đài Truyền hình Việt Nam thực hiện giao dự toán cho Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình. Nhìn chung, công tác lập dự toán hàng năm còn mang tính áp đặt và hình thức, không sát với thực tế, chưa được coi trọng đúng vị trí vốn có của nó. Vẫn còn tình trạng trung tâm chi tiêu nhưng lại không lập dự toán hàng năm, cơ quan chủ quản cấp trên là ban kế hoạch tài vụ phải lập dự toán thay cho trung tâm, vì thế mà chất lượng dự toán không cao, không đảm bảo quyền dân chủ của trung tâm và chưa sát với nhu cầu chi tiêu thực tế tại trung tâm. Hoặc vẫn còn tình trạng trong quá trình lập dự toán, trung tâm chưa căn cứ vào các định mức chi tiêu để lập dự toán, mà thường căn cứ và những ước lượng cảm tính để lập dự toán hoặc tìm mọi cách để hợp thức hoá các khoản chi không gắn với nhiệm vụ của trung tâm. - Chấp hành chi Ngân sách: Công tác chấp hành chi Ngân sách được bắt đầu từ việc lập dự toán chi và cấp phát hạn mức kinh phí hàng quý. Qui trình này được tiến hành như sau: + Căn cứ vào dự toán ngân sách năm được Chính phủ thông qua, Đài Truyền hình Việt Nam lập dự toán ngân sách quý gửi về Bộ Tài chính . + Sau khi nhận được thông báo hạn mức kinh phí của Bộ Tài chính, Đài Truyền hình Việt Nam tiến hành cấp phát kinh phí cho các đơn vị trực thuộc, trong đó có Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình. Bộ Tài chính uỷ quyền cho Đài Truyền hình Việt Nam cấp phát kinh phí cho Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình theo nguyên tắc: tổng số hạn mức kinh phí và chi tiết từng khoản mục chi trong tháng của trung tâm phải phù hợp với thông báo hạn mức quý của cơ quan tài chính. Bảng phân phối hạn mức kinh phí của Đài Truyền hình Việt Nam cho Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình phải gửi Bộ Tài chính và Kho bạc Nhà nước Hà Nội để làm cơ sở kiểm soát, thanh tra và chi trả. + Giám đốc Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình căn cứ vào thông báo hạn mức kinh phí của Đài Truyền hình Việt Nam làm “giấy rút hạn mức kinh phí ” gửi Kho bạc Nhà nước Hà nội kèm theo hồ sơ chứng từ thanh toán để rút hạn mức kinh phí chi trả cho các nhu cầu chi tiêu tại trung tâm ( như chi lương, phụ cấp…). + Kho bạc Nhà nước Hà nội căn cứ vào thông báo hạn mức kinh phí của Đài Truyền hình Việt Nam phân phối cho Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình, kiểm tra tính hợp pháp của hồ sơ thanh toán và các điều kiện sau để tiến hành kiểm soát và thực hiện chi ngân sách: ệ Đã có trong dự toán Ngân sách Nhà nước được cơ quan tài chính có thẩm quyền phê duyệt ệ Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền qui định. ệ Đã được giám đốc Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình hoặc người được uỷ quyền chuẩn chi. Ngoài các điều kiện qui định nói trên, trường hợp sử dụng kinh phí Ngân sách Nhà nước để đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc và các công việc khác phải đấu thầu thì phải tổ chức đấu thầu theo qui định của Chính phủ chứ không thực hiện chi theo qui trình đã trình bày ở trên. Trong công tác chấp hành chi Ngân sách của trung tâm, đối với các khoản chi cho con người, chi cho hàng hóa dịch vụ cần thiết… được cấp phát theo hạn mức kinh phí của từng khoản mục chi. Hết năm Ngân sách (năm Ngân sách tính theo dương lịch bắt đầu từ 1/1 đến 31/12 hàng năm) nếu không sử dụng hết hạn mức thì phần hạn mức dư thừa sẽ bị huỷ bỏ. Cơ chế huỷ bỏ hạn mức dư thừa cho phép cơ quan quản lý Ngân sách có thể tiết kiệm được mức chi hàng năm của Ngân sách, đồng thời hạn chế được nhược điểm kém chính xác của các dự toán chi ngân sách do các đơn vị dự toán lập và trình lên. Tuy nhiên, nó gây ra những khó khăn cho các đơn vị dự toán ngân sách, ví dụ như tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình, do dự toán lập không sát hay do những biến động mới chưa lường trước được cho nên bị thiếu hụt hạn mức ở khoản mục này song lại thừa hạn mức ở khoản mục khác. Trong khi đó, hạn mức thiếu hụt không được bù đắp còn hạn mức dư thừa thì lại bị huỷ bỏ làm cho trung tâm gặp khó khăn khi có những khoản chi cần thiết nhưng không thể chi được mặc dù tổng hạn mức có thể là đang dư thừa. Một thực trạng nữa của cơ chế này là việc chạy kinh phí cuối năm tại các đơn vị dự toán ngân sách, cũng tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình do tổng hạn mức cuối năm vẫn dư thừa cho nên phải cố gắng sử dụng hết trong năm bằng cách: hợp lý hoá các chứng từ bảng kê thanh toán để Kho bạc cho phép thanh toán, nhằm rút hết số tiền trong hạn mức. Chính tình trạng này đã làm giảm ý nghĩa tiết kiệm của cơ chế huỷ bỏ hạn mức dư thừa, đồng thời đó cũng là một nguyên nhân dấn đến tình trạng sử dụng lãng phí, khônghiệu quả kinh phí Ngân sách như mua sắm hoặc chi tiêu vào những việc không thiết thực, thậm chí gây thất thoát Ngân sách Nhà nước. - Kế toán, quyết toán chi Ngân sách Nhà nước: Đài Truyền hình Việt Nam quản lý trực tiếp kinh phí của Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình. Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình là đơn vị dự toán độc lập. Sự chỉ đạo của Đài đối với Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình không thể thực hiện trực tiếp mà gián tiếp thông qua các văn bản hướng dẫn quản lý tài chính ngành. Việc quản lý các khoản chi ngân sách ngành là nhiệm vụ chủ yếu của giám đốc và kế toán của trung tâm. Hàng năm Đài Truyền hình Việt Nam kiểm tra các báo cáo quyết toán của trung tâm trước khi tổng hợp quyết toán ngành gửi Bộ Tài chính. Qua quá trình kiểm tra quyết toán hàng năm cho thấy còn có một số khoản chi chưa được quản lý chặt chẽ nhưu: các khoản công tác phí, hội nghị phí, chi tiếp khách... Kể từ năm 2001 đến nay, Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình đang trong giai đoạn thực hiện thí điểm cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước. Để hiểu rõ hơn về thực trạng cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình chúng ta sẽ đi sâu phân tích ở mục 2.2 2.1.3.3 Thực trạng quản lý tài sản công Tài sản công của Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình có giá trị rất lớn, bao gồm:._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36777.doc
Tài liệu liên quan