Hoàn thiện cơ chế huy động vốn tại Tổng Công ty Hàng không Việt Nam

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH ---o0o--- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP ---*--- Đề tài: Hoàn thiện cơ chế huy động vốn tại Tổng công ty Hàng không Việt Nam Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS. Vũ Duy Hào Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Bích Ngọc Lớp : Tài Chính 44D Hà nội – 4/2006 MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DNNN Doanh nghiệp nhà nước PGS-TS Phó giáo sư-Tiến sĩ NH-TC Ngân hàng-Tài chính TNHH Trách nhiệm hữu hạn XHCN Xã Hội Chủ Nghĩa HĐQT Hội

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1357 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện cơ chế huy động vốn tại Tổng Công ty Hàng không Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng quản trị ODA Oversea Deverlopment Aid HĐBT Hội đồng bộ trưởng IATA Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế WACC Chi phí vốn bình quân ICAO Tổ chức hàng không dân dụng thế giới KHĐT Kế hoạch đầu tư TSCĐ Tài sản cố định TSLĐ Tài sản lưu động DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ Trang Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty Hàng không Việt Nam 31 Bảng số 1: Cơ cấu vốn kinh doanh của Tổng công ty Hàng không Việt Nam 37 giai đoạn 2002 – 2004 37 Bảng số 2: Bảng đăng ký vốn điều lệ khi thành lập của một số Tổng công ty Nhà nước 38 Bảng số 3: Kế hoạch xây dựng đội bay giai đoạn năm 2000 – 2020 39 Biểu đồ 1: Cơ cấu vốn cố định / vốn lưu động 56 Biểu đồ 2: Cơ cấu theo nguồn hình thành 57 Biểu đồ 3: Cơ cấu nguồn vốn huy động đến năm 2020 58 Bảng số 4: Một số chỉ tiêu chiến lược về huy động vốn đến năm 2020 59 LỜI NÓI ĐẦU Bất cứ doanh nghiệp nào khi tiến hành một quá trình sản xuất kinh doanh cũng cần có vốn. Nhất là trong cơ chế thị trường, vốn là tiền đề, là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh, có ý nghĩa quyết định các bước tiếp theo của quá trình sản xuất kinh doanh. Kinh doanh được hiểu một cách khái quát là nghệ thuật sử dụng vốn, nhà kinh doanh có khoảng tự do càng rộng thì sức sáng tạo của họ càng lớn, khả năng thích nghi tự điều chỉnh càng nhiều, càng có điều kiện thích ứng với cơ chế thị trường. Vì vậy vốn là điều kiện không thể thiếu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với sự phát triển năng động, tốc độ cao của nền kinh tế thị trường, đã làm nảy sinh thường xuyên nhu cầu to lớn về vốn để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Từ khi thành lập đến nay các Tổng công ty Nhà nước đều đạt được nhiều thành tựu đáng kích lệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh góp phần to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước tuy nhiên những thành tựu đó chưa thực sự tương xứng với tiềm năng vốn có của các Tổng công ty. Một trong những nguyên nhân quan trọng là do hầu hết các Tổng công ty hoạt động trong tình trạng thiếu vốn. Vấn đề đặt ra là làm cách nào để giải quyết tình trạng này? Tổng công ty Hàng không Việt Nam cũng ở trong tình trạng đó. Trong chiến lược phát triển với phương châm “Tự cân đối, tự phát triển” Tổng công ty Hàng không Việt Nam từng bước giải quyết vốn cho nhu cầu đầu tư và phát triển như thế nào trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới? Cơ chế huy động vốn ra sao? Đó là những vấn đề đặt ra cần phải nghiên cứu một cách khoa học, có hệ thống nhằm rút ra những mặt mạnh, mặt yếu làm bài học kinh nghiệm cho Tổng công ty Hàng không nói riêng và các Tổng công ty Nhà nước nói chung. Từ thực tế đó em mạnh dạn lựa chọn đề tài : “Hoàn thiện cơ chế huy động vốn tại Tổng công ty Hàng không Việt Nam” Nội dung của chuyên đề được chia thành ba phần: Chương I : Cơ chế huy động vốn trong Tổng công ty Nhà nước. Chương II: Thực trạng cơ chế huy động vốn tại Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Chương III: Giải pháp hoàn thiện cơ chế huy động vốn tại Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Khi lựa chọn đề tài này em mong muốn có thể vận dụng được những kiến thức đã tích luỹ trong nhà trường, kết hợp với những kinh nghiệm thực tế của bản thân để có thể đưa ra những đề xuất có khả năng ứng dụng vào thực tiễn hoạt động của Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Tuy nhiên do kiến thức còn hạn hẹp và chưa có nhiều kinh nghiệm nên trong quá trình hoàn thiện chuyên đề không thể không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, các anh chị và các bạn để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Cuối cùng em xin chân thành gửi lời cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và sự đóng góp quý báu của thầy giáo: PGS – TS Vũ Duy Hào - Người trực tiếp hướng dẫn em, cùng các thầy cô giáo trong khoa NH – TC, Trưòng Đại học Kinh tế Quốc dân và các cô chú, các anh chị trong phòng Tài chính - Kế toán Trung tâm Thống kê tin học hàng không, Ban Tài chính - Kế toán Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên: Nguyễn Thị Bích Ngọc CHƯƠNG I : CƠ CHẾ HUY ĐỘNG VỐN TRONG TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC 1.1. Khái quát về Tổng công ty Nhà nước. 1.1.1. Một số đặc điểm cơ bản về Tổng công ty Nhà nước. Theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước hiện hành, Tổng công ty Nhà nước là hình thức liên kết giữa các đơn vị thành viên có mối liên hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác, hoạt động trong một ngành hoặc một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính nhằm tăng cường khả năng kinh doanh và thực hiện lợi ích của các đơn vị thành viên và toàn Tổng công ty. Có 3 loại hình Tổng công ty Nhà nước bao gồm: Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập; Tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập; Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước. Mô hình Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập là hình thức liên kết và tập hợp các công ty thành viên hoạch toán độc lập có tư cách pháp nhân, hoạt động trong cùng một ngành hoặc một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật. Các đơn vị thành viên của Tổng công ty có thể là các đơn vị do Tổng công ty đầu tư toàn bộ vốn điều lệ (gồm các công ty thành viên hạch toán độc lập hoặc phụ thuộc; các đơn vị sự nghiệp; công ty TNHH nhà nước một thành viên) hoặc công ty cổ phần, công ty TNHH có cổ phần, vốn góp chi phối của Tổng công ty. Đây là mô hình gần nhất với mô hình Tổng công ty hiện nay (theo Luật DNNN năm 1995) bởi vì nhà nước vẫn đầu tư và nắm giữ toàn bộ vốn điều lệ, song mối quan hệ giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên đã có sự thay đổi cơ bản. Các Tổng công ty theo mô hình này nếu đáp ứng đủ các điều kiện quy định có thể chuyển đổi thành mô hình Tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập. Mô hình Tổng công ty do các doanh nghiệp tự đầu tư và thành lập là hình thức liên kết kinh tế bằng việc đầu tư hay góp vốn của công ty nhà nước quy mô lớn vào các doanh nghiệp khác thuộc các thành phần kinh tế. Các đơn vị thành viên của nó bao gồm công ty mẹ (công ty nhà nước giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác), các công ty con (công ty TNHH nhà nước một thành viên; các công ty có cổ phần, vốn góp chi phối của công ty nhà nước), Công ty liên kết (công ty có cổ phần, vốn góp không chi phối của công ty nhà nước). Hoạt động của các công ty loại này sẽ theo mô hình công ty mẹ - công ty con như các tập đoàn kinh tế ở các nước có nền kinh tế thị trường. Việc hình thành các Tổng công ty theo mô hình này hoàn toàn phù hợp với điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, giữa các thành phần kinh tế có sự xâm nhập và đan xen lẫn nhau. Trong tương lai đây sẽ là mô hình tổ chức chủ yếu của các Tổng công ty ở Việt Nam. Mô hình Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước là mô hình Tổng công ty được thành lập để thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với các công ty TNHH một thành viên được chuyển từ công ty Nhà nước độc lập hoặc các công ty TNHH một thành viên do mình thành lập. Về thực chất đây cũng là Tổng công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Song điểm khác biệt với mô hình trên là ở chỗ bản thân công ty mẹ (Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn) không trực tiếp kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ thông thường như các công ty thành viên mà chỉ làm nhiệm vụ đầu tư vốn vào doanh nghiệp khác để thu lợi nhuận (kinh doanh vốn). Việc hình thành Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn là một bước đổi mới quan trọng để phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính Nhà nước, chức năng quản lý của chủ sở hữu Nhà nước với chức năng quản trị kinh doanh của các doanh nghiệp; từng bước xoá bỏ chế độ Bộ chủ quản và cấp hành chính chủ quản trong quản lý các doanh nghiệp. Nghĩa vụ của Tổng công ty đối với nền kinh tế quốc dân: Tổng công ty Nhà nước có nghĩa vụ quản lý vốn và tài sản. Sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, sử dụng vốn để thực hiện mục tiêu kinh doanh và nhiệm vụ đặc biệt do Nhà nước giao. Công tác tài chính kế toán, kiểm toán thực hiện theo luật định. Thực hiện các nghĩa vụ nộp thuế và các khoản nộp khác theo quy định của Nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ khác theo luật định. Quyền hạn của Tổng công ty Nhà nước: Tổng công ty Nhà nước có quyền quản lý, sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên và các nguồn lực khác do Nhà nước giao, theo quy định của luật pháp. Tổng công ty Nhà nước có quyền quản lý và tổ chức kinh doanh: Tự chọn cách thức tổ chức bộ máy quản lý; Chủ động đổi mới thiết bị công nghệ. Đặt chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp ở trong và ngoài nước theo quy định của Chính phủ. Kinh doanh ngành nghề phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ Nhà nước giao. Tổng công ty Nhà nước có quyền quản lý tài chính: Sử dụng các quỹ của doanh nghiệp để phục vụ kịp thời nhu cầu kinh doanh theo nguyên tắc bảo toàn có hoàn trả. Tự huy động vốn để kinh doanh, được phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật, được sử dụng quỹ khấu hao, sau khi làm nghĩa với ngân sách được chủ động lập quỹ đầu tư phát triển và các quỹ khác theo quy định… Được hưởng chế độ trợ cấp, trợ giá, các chế độ ưu đãi nếu có. 1.1.2. Cơ chế quản lý tài chính Tổng công ty Nhà nước: Tổng công ty Nhà nước là doanh nghiệp Nhà nước, có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế, được nhà nước đầu tư về vốn, tài nguyên, đất đai và các nguồn lực khác, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn Nhà nước do Tổng công ty quản lý. Tổng công ty có các đơn vị thành viên hạch toán độc lập, hạch toán phụ thuộc, các đơn vị sự nghiệp và các công ty liên doanh. Tổng công ty giao vốn và nguồn lực khác cho các đơn vị thành viên trên cơ sở vốn và nguồn lực Nhà nước đã giao cho Tổng công ty, phù hợp với nhiệm vụ kinh doanh của từng đơn vị thành viên và phương án sử dụng vốn được Hội đồng quản trị phê duyệt. Các đơn vị thành viên chịu trách nhiệm trước Nhà nước và Tổng công ty về hiệu quả sử dụng vốn và các nguồn lực được giao. Tổng công ty chịu sự kiểm tra, giám sát về mặt tài chính của Bộ Tài chính với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước và đại diện chủ sở hữu về vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp theo uỷ quyền của Chính phủ. Đơn vị thành viên chịu sự kiểm tra, giám sát của Tổng công ty theo nội dung đã quy định tại Điều lệ của Tổng công ty và của cơ quan tài chính về các hoạt động tài chính, quản lý vốn và tài sản Nhà nước. Về quản lý, sử dụng vốn và tài sản: Theo Nghị định 91/TTg ngày 07/03/1994 của Thủ tướng Chính phủ và Luật DNNN, Tổng công ty được Nhà nước cấp vốn điều lệ ban đầu khi thành lập. Tổng công ty có trách nhiệm, không ngừng bảo toàn, phát triển vốn đã được Nhà nước đầu tư và từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tổng công ty được cấp bổ sung vốn khi Nhà nước cần thiết phải đầu tư để hỗ trợ phát triển kinh doanh hoặc để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao bổ sung. Tổng công ty được sử dụng vốn, các quỹ của mình để phục vụ kịp thời nhu cầu kinh doanh, theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn. Tổng công ty được quyền thay đổi cơ cấu vốn, tài sản phục vụ cho kinh doanh, điều hoà vốn Nhà nước giữa doanh nghiệp thành viên thừa sang doanh nghiệp thành viên thiếu tương ứng với nhiệm vụ kinh doanh đã được Tổng công ty phê duyệt. Tổng công ty được quyền sử dụng vốn, tài sản, quyền sử dụng đất thuộc quyền quản lý của Tổng công ty để đầu tư ra ngoài, và thực hiện theo quy định của Luật đất đai. Tổng công ty có thể đầu tư ra ngoài theo các hình thức như: mua trái phiếu, cổ phiếu; liên doanh, góp vốn cổ phần với doanh nghiệp khác. Tổng công ty có quyền cho thuê, thế chấp, nhượng bán tài sản thuộc quyền quản lý của Tổng công ty để tái đầu tư, đổi mới công nghệ (trừ những tài sản đi thuê, đi mượn, giữ hộ, nhận thế chấp). Tổng công ty thực hiện đúng chế độ trích và sử dụng khấu hao tài sản cố định theo quy định của Bộ Tài chính. Về quản lý doanh thu và chi phí kinh doanh: Tổng công ty thực hiện chức năng quản lý doanh thu, chi phí của các doanh nghiệp thành viên Tổng công ty theo luật định. Kinh phí hoạt động của bộ máy quản lý và điều hành của Tổng công ty được huy động từ các doanh nghiệp thành viên. Việc phân cấp uỷ quyền cho các doanh nghiệp thành viên trong việc quản lý chi phí sản xuất được thể hiện trong Điều lệ cụ thể của Tổng công ty phù hợp với quy định hiện hành. Các Tổng công ty được xếp hạng doanh nghiệp đặc biệt phải đăng lý định mức lao động với Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội. Trên cơ sở định mức lao động đăng ký và chế độ tiền lương do Nhà nước quy định Tổng công ty xây dựng đơn giá tiền lương trên đơn vị sản phẩm và hoạt động dịch vụ trình cơ quan thẩm quyền phê duyệt. Về lợi nhuận và trích lập các quỹ: Lợi nhuận của Tổng công ty được trích lập và sử dụng các quỹ tập trung sau đây: + Quỹ dự phòng tài chính. + Qũy đầu tư phát triển. + Quỹ nghiên cứu khoa học và đào tạo. + Quỹ phúc lợi. + Quỹ khen thưởng. + Quỹ dự phòng mất việc. Về công tác kế toán – thông kê - kiểm toán: Tổng công ty có nghĩa vụ thực hiện đúng Pháp lệnh Kế toán - Thống kê, chế độ kế toán, kiểm toán, lập và gửi báo cáo quyết toán quý, năm đúng mẫu biểu, thời gian quy định. Tổng công ty và doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập thực hiện chế độ kiểm toán, công bố kết quả hoạt động tài chính hàng năm của mình theo hướng dẫn của Bộ Tài chính và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung đã công bố. Cơ quan tài chính thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra nội dung những công bố này của Tổng công ty và doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập. Tổng giám đốc Tổng công ty xây dựng kế hoạch tài chính hàng năm phù hợp với kế hoạch kinh doanh trình Hội đồng quản trị thông qua và đăng ký với Bộ Tài chính. Nhìn chung cơ chế quản lý tài chính Tổng công ty Nhà nước mặc dù có nhiều đổi mới và tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục: Tình trạng thất thoát vốn, tài sản còn rất lớn và nghiêm trọng gồm nhiều hình thức khác nhau như: + Đánh giá thấp giá trị vốn, tài sản tại doanh nghiệp. Tình trạng ép giá cố định là phổ biến. Một số ngành như điện, xi măng… tài sản cố định chỉ đánh giá bằng 1/2, 1/3 thời giá xây dựng mới. Đây là nơi tiêu hao “vô hình” nguồn vốn đầu tư ban đầu, đầu tư bổ sung của Nhà nước. + Quản lý tài chính lỏng lẻo dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp trốn doanh thu, lậu thuế, tăng chi phí, bóp méo kết quả kinh doanh. Tài sản, vốn giao cho doanh nghiệp được doanh nghiệp sử dụng tạo nguồn thu nhập nhưng không được hạch toán, dẫn đến thất thu cho Nhà nước như tiền thuê đất, mặt bằng của doanh nghiệp đem thuê nhưng không được phản ánh hoặc phản ánh không chính xác trong hạch toán. + Tình trạng lãng phí, hư hỏng, mất mát, gây thiệt hại không quy được trách nhiệm, hoặc xác định được nhưng chưa có chế tài thích hợp để xử lý. + Tình trạng tham ô, tham nhũng, kể cả cá nhân và tập thể, nhưng ít được phát hiện. + Chế độ trách nhiệm chưa rõ, chưa tạo động lực khuyến khích đội ngũ quản lý doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và bảo đảm quyền lợi của chủ sở hữu. Vì vậy dẫn đến tình trạng nhiều Giám đốc cho rằng “Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước giỏi là Giám đốc quản lý doanh nghiệp sao cho không có lãi, không lỗ nhưng thu nhập của cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp cao”. Việc cấp trên xét duyệt quyết toán trước đây làm doanh nghiệp không thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc hạch toán và quyết toán (sai thì đùn đẩy trách nhiệm cho cấp trên). Các yêu cầu trung thực, đầy đủ, chính xác kịp thời của công tác kế toán bị vi phạm. Chế độ kiểm toán chưa phát huy hiệu lực, Luật DNNN yêu cầu phải công khai báo cáo tài chính cuối năm, đến nay nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thực hiện hoặc báo cáo không chính xác. Việc xử lý các khoản công nợ khó đòi, lỗ, tốn thất kinh doanh chưa quy định rõ nên phần lớn đều treo trên sổ sách, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh kém hiệu quả vẫn tiếp tục hoạt động, tiếp tục được Nhà nước hỗ trợ từ nguồn ngân sách Nhà nước, được hỗ trợ của các doanh nghiệp khác trong Tổng công ty. Đây có thể là nguyên nhân làm thâm thủng ngân sách. Đối với Tổng công ty, việc hỗ trợ tài chính của các doanh nghiệp thành viên sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp thành viên khác. Nhiều doanh nghiệp thua lỗ kéo dài vẫn tiếp tục tồn tại mặc dù khả năng tài chính có hạn, vai trò kinh doanh không còn, ngay cả ý nghĩa giải quyết việc làm cũng không đáng kể. 1.1.3. Vai trò của Tổng công ty Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân: Các doanh nghiệp Nhà nước nói chung, Tổng công ty Nhà nước nói riêng có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Ở nước ta cũng như các nước trên thế giới, các doanh nghiệp Nhà nước là một công cụ cần thiết để Nhà nước thể hiện vai trò của mình trong quản lý vĩ mô và giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội. Từ mấy chục năm qua, các doanh nghiệp Nhà nước đã trở thành một bộ phận cốt lõi của nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo, có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế then chốt trong nền kinh tế quốc dân, các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ yếu trong sản xuất và cung ứng hầu hết các sản phẩm thiết yếu cho nền kinh tế và nhu cầu xã hội. Đối với Tổng công ty Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế ở các khía cạnh sau đây: Một là, làm nòng cốt trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở đường hỗ trợ cho các doanh nghiệp khác phát triển có hiệu quả; thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế. Hai là, cung ứng những hàng hoá dịch vụ cần thiết, nhất là lĩnh vực thiết yếu của nền kinh tế. Ba là, công cụ có sức mạnh vật chất để Nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, thực hiện chính sách xã hội. Việc tổ chức lại và thành lập các Tổng công ty theo mô hình tổ chức mới, có tác dụng tập trung hơn nguồn lực bị phân tán trước đây để chi phối những ngành quan trọng, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước với doanh nghiệp nước ngoài, giảm bớt số liên hiệp xí nghiệp, Tổng công ty trước đây. Việc quy định các tiêu chuẩn rõ ràng hơn về vốn, về số đơn vị thành viên, tính chất liên kết và ngành nghề, địa bàn và sự phân cấp quyết định thành lập các Tổng công ty có quy mô quốc gia (Tổng công ty 91/TTg) và Tổng công ty có quy mô nhỏ hơn (Tổng công ty 90/TTg) thể hiện rõ mục tiêu tập trung nguồn vốn và kỹ thuật để cạnh tranh với hàng ngoại và thể hiện sự định hướng của Nhà nước vào một số ngành mũi nhọn, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Các Tổng công ty Nhà nước thu hút khoảng 30% tổng số doanh nghiệp hiên nay và chiếm khoảng 80% sản lượng và vốn của khu vực doanh nghiệp Nhà nước, có khả năng chi phối không chỉ trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước mà cả nền kinh tế. Có thể thấy rằng, việc thành lập các Tổng công ty đã tạo ra những thuận lợi đối với công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nhưng đồng thời cũng nảy sinh nhiều nhân tố hạn chế cạnh tranh và độc quyền đang là thách thức đối với chính sách thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào quá trình công nghiệp hoá. Một mặt, các Tổng công ty với sự tập trung khoảng 80% vốn và giá trị sản lượng là lực lượng quan trọng để thực hiện các chương trình kinh tế, chương trình công nghiệp hoá. Những Tổng công ty này trở thành những doanh nghiệp đầu ngành trong các ngành công nghiệp then chốt, với sự tập trung vốn và các nguồn lực một cách nhanh chóng thông qua các quyết định hành chính. Mặt khác sự tập trung này có thể hạn chế sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty, tao sự dựa dẫm “bao cấp” ngay trong nội bộ Tổng công ty đối với các doanh nghiệp yếu kém. Đồng thời sự tích tụ tập trung cao ở các Tổng công ty hạch toán tập trung mang tính quy mô ngành có thể tạo nguy cơ độc quyền, khó đánh giá hiệu quả hoạt động của nó, và có thể làm hạn chế sự cạnh tranh của các doanh nghiệp. Về tổ chức quản lý các Tổng công ty có một số tồn tại sau: Chưa thật sự gắn bó, liên kết giữa các đơn vị trong Tổng công ty; đặc biệt chưa tạo ra sự liên kết chặt chẽ và rất cần thiết giữa các tổ chức ngân hàng (công ty tài chính) – các đơn vị sản xuất - xuất nhập khẩu – nghiên cứu – đào tạo bồi dưỡng, tạo ra sự đổi mới về chất cho Tổng công ty để hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh. Chưa xác định rõ quyền đại diện chủ sở hữu Nhà nước tại doanh nghiệp của Tổng Giám đốc, dẫn đến việc “vô hiệu hoá” HĐQT (ở nhiều Tổng công ty 90/TTg). HĐQT tuy được giao quyết định các vấn đề quản lý lớn (như quy định tại Nghị định 39/CP) nhưng thực tế không có thực quyền; thực quyền vẫn thuộc về Tổng giám đốc. Chưa xác định rõ chức năng quản lý Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu Nhà nước của các Bộ, Ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (Sở) vẫn can thiệp và quyết định các vấn đề quản lý cụ thể của Tổng công ty, đây cũng là nguyên nhân làm hạn chế tác dụng của HĐQT ở nhiều công ty. Chức năng Đảng lãnh đạo, HĐQT quản lý, Tổng Giám đốc điều hành trong mô hình cũng chưa được xác định rõ. Để phát huy được vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường, ngoài những điều kiện khác, các Tổng công ty cần phải có một cơ chế huy động vốn phù hợp với yêu cầu bức xúc của sản xuất kinh doanh nhằm tận dụng tối đa nguồn lực trong nội bộ Tổng công ty và các điều kiện từ bên ngoài hướng tới mục tiêu cơ bản của các Tổng công ty là: phát triển sản xuất kinh doanh ổn định, bền vững. 1.2. Cơ chế huy động vốn trong Tổng công ty Nhà nước: 1.2.1. Khái quát đặc điểm về nguồn vốn của Tổng công ty Nhà nước: Doanh nghiệp khi tiến hành bất kì một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần có vốn. Trong cơ chế thị trường, vốn là tiền đề, là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh, có ý nghĩa quyết định các bước tiếp theo của quá trình sản xuất kinh doanh. Kinh doanh được hiểu một cách khái quát là nghệ thuật sử dụng vốn, nhà kinh doanh có khoảng tự do càng rộng thì sức sáng tạo của họ càng lớn, khả năng thích nghi tự điều chỉnh càng nhiều, càng có điều kiện thích ứng với cơ chế thị trường. Vì vậy vốn là điều kiện không thể thiếu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với sự phát triển năng động, tốc độ cao của nền kinh tế thị trường, làm nảy sinh thường xuyên nhu cầu to lớn về vốn để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường, khái niệm về vốn được mở rộng về phạm vi và có những đặc trưng cơ bản sau đây: Vốn là biểu hiện bằng giá trị nghĩa là vốn phải đại diện cho một giá trị hàng hoá, dịch vụ, một loại tài sản nhất định. Vốn được biểu hiện bằng tiền, nhưng không phải tất cả mọi nguồn tiền đều là vốn. Tiền chỉ biến thành vốn khi sử dụng tiền vào đầu tư hay kinh doanh. Tiền sử dụng hàng ngày, tiền dự trữ không có khả năng sinh lời không phải là vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là một hàng hoá song nó là hàng hoá đặc biệt. Nó có điểm giống các loại hàng hoá khác là có chủ sở hữu nhất định về vốn, nhưng người sở hữu chỉ bán quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Chính nhờ có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn đã làm cho vốn có khả năng lưu thông và sinh lời. Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền mà còn biểu hiện dưới dạng tiềm năng và lợi thế vô hình. Tiềm năng và lợi thế vô hình chính là một nguồn vốn to lớn, cần phải được huy động tích cực hơn nữa vào chu trình vận động của nền kinh tế. Vốn đối với các doanh nghiệp: Vốn kinh doanh: Vốn kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình và vô hình được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích kiếm lời. Theo kết cấu, vốn kinh doanh được chia làm 3 loại: vốn cố định, vốn lưu động và vốn đầu tư tài chính. Theo hình thái biểu hiện, vốn được phân thành 2 loại: vốn hữu hình và vốn vô hình. Căn cứ vào phương thức luân chuyển giá trị vốn được chia làm 2 loại: vốn cố định và vốn lưu động và cuối cùng căn cứ vào thời gian luân chuyển, vốn được chia làm 3 loại: vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và vốn dài hạn. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ về hình thức tồn tại của vốn, sẽ có những biện pháp quản lý và khai thác triệt để vốn, cũng như giúp cho việc phát triển tiềm năng về vốn, đặc biệt là phát triển vốn vô hình, vì đây là lợi thế riêng giúp nâng cao lợi thế cạnh tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thờì giúp đánh giá chính xác giá trị về vốn làm cơ sở cho hoạt động góp vốn kinh doanh kêu gọi hợp tác đầu tư. Trong nền kinh tế thị trường, vốn của các doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: Nguồn vốn chủ sở hữu: Là số vốn thường trực ở doanh nghiệp, nó được cấu thành bởi vốn đóng góp của các cổ đông khi thành lập doanh nghiệp, vốn tích luỹ trong quá trình sản xuất kinh doanh qua các năm (vốn khấu hao, lợi nhuận không chia, tiền nhượng bán tài sản) và vốn do phát hành cổ phiếu mới… Nguồn vốn nợ: Doanh nghiệp có thể vay vốn ngân hàng, vay các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, vay Nhà nước, vay bằng cách phát hành trái phiếu, thuê mua, tín dụng thương mại… Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, vốn của các doanh nghiệp Nhà nước được hình thành từ các nguồn chính: Vốn ngân sách cấp: là số vốn do Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý và phát triển vốn Nhà nước cấp cho doanh nghiệp. Vốn này được xác định trên cơ sở biên bản giao nhận vốn giữa chủ thể sở hữu vốn và doanh nghiệp mà đại diện cho Nhà nước là Tổng cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp thuộc Bộ Tài chính, người đại diện. Doanh nghiệp có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Vốn tự bổ sung: là vốn trong nội bộ của doanh nghiệp, được hình thành và phát triển trên cơ sở kết quả sản xuất kinh doanh qua các năm bao gồm: vốn khấu hao cơ bản, lợi nhuận để lại, tiền nhượng bán tài sản… Vốn liên doanh liên kết: là vốn do các doanh nghiệp trong, ngoài nước đóng góp để cùng thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn vay: Doanh nghiệp vay nợ từ các tổ chức ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác… Cơ cấu vốn của các Tổng công ty Nhà nước: Tuỳ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, cơ cấu về nguồn vốn của từng Tổng công ty Nhà nước được hình thành trên cơ sở đặc điểm kinh doanh của từng Tổng công ty. Nhìn chung cơ cấu vốn của các Tổng công ty Nhà nước bao gồm vốn cố định và vốn lưu động. Tuy nhiên trong các Tổng công ty Nhà nước, vốn cố định chiếm tỷ trọng lớn nguyên nhân là do các Tổng công ty được tổ chức hoạt động theo cơ chế mới nằm ở hầu hết các ngành kinh tế kỹ thuật then chốt của nền kinh tế quốc dân. Vốn cố định trong các Tổng công ty hình thành cơ sở vật chất lỹ thuật, sức mạnh của các Tổng công ty phù hợp với mục tiêu mà Nhà nước đề ra. Nguồn hình thành: Là doanh nghiệp Nhà nước, vốn của Tổng công ty Nhà nước được hình thành do các nguồn sau đây: Vốn ngân sách Nhà nước cấp. Vốn tích lỹ qua các năm của Tổng công ty (Nguồn vốn tự bổ sung). Vốn vay. Vốn liên doanh, liên kết. Vốn khác. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp chiếm tỷ trọng lớn. Nguyên nhân là do các Tổng công ty thuộc sở hữu Nhà nước, Nhà nước giữ vai trò người chử sở hữu về vốn của các Tổng công ty. Sự thay đổi cơ cấu về vốn đều không được phép làm thay đổi hình thức sở hữu Nhà nước của các Tổng công ty. Hầu hết các Tổng công ty Nhà nước đều hoạt động trong điều kiện thiếu vốn trầm trọng, các Tổng công ty thông qua Nhà nước bằng nguồn vốn vay trực tiếp, vốn viện trợ ODA, vốn ngân sách cấp… hoặc gián tiếp thông qua các thị trường tài chính quốc tế nhằm tìm kiếm sự giúp đỡ về tài chính để đáp ứng nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất. Do vậy trong cơ cấu nguồn vốn của Tổng công ty vốn vay cũng chiếm một tỷ trọng không nhỏ. Quy mô nguồn vốn của Tổng công ty Nhà nước. Nguồn vốn của các Tổng công ty Nhà nước được hình thành từ ngân sách và vốn vay, hầu hết các Tổng công ty Nhà nước hiện nay được thành lập trên cơ sở sắp xếp lại các doanh nghiệp trong cùng một ngành (Hàng không, Bưu chính Viễn thông, Điện lực…). Vốn đăng lý kinh doanh ban đầu thành lập tối thiểu là 1.000 tỷ đồng, điều đó khẳng định các Tổng công ty Nhà nước đều có quy mô vốn rất lớn. Tuy nhiên các Tổng công ty Nhà nước mặc dù có quy mô vốn lớn như vậy nhưng thực chất nếu so sánh với các công ty nước ngoài cùng loại thì vốn của các Tổng công ty trong nước còn rất khiêm tốn, điều đó nói lên những khó khăn trở ngại trong kinh doanh. Nguồn hình thành vốn của Tổng công ty Nhà nước mang những đặc trưng riêng không giống những doanh nghiệp khác, nguồn vốn của Tổng công ty Nhà nước được hình thành ban đầu là do chính Nhà nước đầu tư cấp vốn, Nhà nước là người chủ sở hữu của doanh nghiệp, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước tham gia vào quá trình quản lý, tham gia vào quá trình ra quyết định chuyển giao, nhượng bán, thay đổi hình thức sở hữu đối với các Tổng công ty Nhà nước. Đối với các doanh nghiệp khác hoặc có sự tham gia góp vốn của Nhà nước, hoặc không có sự tham gia đóng góp vốn của Nhà nước nhưng hầu hết đều có quy mô vốn nhỏ hơn các Tổng công ty Nhà nước. Trong quá trình quản lý và điều hành doanh nghiệp mọi quyết định về thay đổi cơ cấu nguồn vốn, hình thức sở hữu tự bản thân doanh nghiệp quyết định, Nhà nước không khống chế tỷ lệ tham gia vốn góp của Nhà nước vào doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền chuyển đổi hình thức sở hữu mà không có sự can thiệp của Nhà nước trừ phi Nhà nước có góp vốn với tỷ lệ cổ phần khống chế. 1.2.2. Nội dung cơ chế huy động vốn trong các Tổng công ty Nhà nước. 1.2.2.1. Khái quát cơ chế huy động vốn: Cơ chế huy động vốn với đặc điểm vốn có của nó bao gồm các luật, các văn bản dưới luật, các chính sách, các quy định, các công cụ tài chính, kế hoạch và tổ chức bộ máy quản lý các hoạt động huy động vốn trong các doanh nghiệp. Trên cơ sở hành lang pháp lý về hoạt động huy động vốn của Nhà nước, các Tổng công ty Nhà nước tổ chức hoạt động huy động vốn dựa trên nền tảng pháp luật được Nhà nước cho phép. Đồng thời căn cứ vào thực tiễn sản xuất kinh doanh của mỗi Tổng công ty để tiến hành triển khai, cụ thể hoá các văn bản pháp luật, các chính sách tài chính của Nhà nước trong hoạt động huy động vốn cho phù hợp với thực tiễn sản xuất. Xây dựng cơ chế huy động vốn trong các Tổng công ty Nhà nước thực chất là cụ thể hoá nội dung cơ chế huy động vốn của Nhà nước đối với các doanh nghiệp bằng hệ thống các văn bản pháp quy, các chính sách, công cụ tài chính, kế hoạch và tổ chức bộ máy quản lý hoạt động huy động vốn tron._.g nội bộ Tổng công ty trên hành lang pháp lý của Nhà nước nhằm: thống nhất quản lý hoạt động huy động vốn trong toàn Tổng công ty trên cơ sở huy động tối đa nguồn lực, năng lực vốn của mọi thành viên trong Tổng công ty phục vụ cho nhu cầu phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Với tư cách là nguời chủ sở hữu vốn, Nhà nước ban hành hệ thống văn bản pháp lý quy định hành lang hoạt động huy động vốn đối với Tổng công ty Nhà nước. Các Tổng công ty Nhà nước có trách nhiệm thực hiện tổ chức triển khai, cụ thể hoá và quản lý mọi hoạt động huy động vốn. 1.2.2.2. Nội dung cơ chế huy động vốn trong các Tổng công ty Nhà nước: Nội dung cơ chế huy động vốn trong các Tổng công ty Nhà nước được xem xét dưới góc độ sau đây: Cơ sở pháp lý trong việc xây dựng cơ chế huy động vốn. Chính sách huy động vốn của các Tổng công ty. Phương thức huy động vốn. Các biện pháp tổ chức thực hiện công tác huy động vốn. Cơ sở pháp lý: Với mục tiêu huy động tối đa nguồn lực phục vụ sản xuất kinh doanh, định hướng chính sách huy động vốn của Tổng công ty nhằm khai thác tốt nhất vốn trong nội bộ và vốn từ bên ngoài. Việc xây dựng cơ chế huy động vốn của Tổng công ty phải vừa đáp ứng được mục tiêu của công tác huy động vốn, đồng thời phù hợp với cơ chế tài chính của Nhà nước. Mặc dù, trong những năm gần đây, Nhà nước đã tạo điều kiện thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các Tổng công ty Nhà nước (Tổng công ty 91). Nhà nước cho phép các Tổng công ty được thành lập công ty tài chính nhằm thực hiện chức năng huy động vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp có quyền chủ động hơn trong huy động vốn, doanh nghiệp có quyền huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh: vay vốn ngân hàng, các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, phát hành trái phiếu… Việc huy động vốn phải tuân thủ theo pháp luật và “không làm thay đổi hình thức sở hữu Nhà nước” của Tổng công ty. Tuy nhiên, cơ chế huy động vốn của Tổng công ty được chế tài bởi cơ chế quản lý tài chính và các quy định của Nhà nước. Đây chính là cơ sở pháp lý ràng buộc doanh nghiệp thực hiện công tác huy động vốn theo khuôn khổ nhất định nhằm hạn chế những rủi ro cho Nhà nước và cho doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp Nhà nước là văn bản có tính pháp lý cao nhất quy định quyền hạn và trách nhiệm của doanh nghiệp trong công tác huy động và sử dụng vốn huy động. Nhà nước giao cho Chính phủ thống nhất thực hiện các quyền của chủ sở hữu và quyền quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Nhà nước quyết định cấp vốn đầu tư ban đầu và vốn đầu tư bổ sung, giao vốn cho doanh nghiệp, kiểm tra, giám sát việc bảo toàn và phát triển vốn tại các doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài ra còn quy định chế độ khấu hao, tỷ lệ phân chia lợi nhuận vào các quỹ sau khi đã nộp thuế, phê chuẩn phương án chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố những thiết bị, nhà xưởng quan trọng, phê chuẩn phương án góp vốn, tài sản của Nhà nước vào liên doanh đối với các chủ sở hữu khác… Đối với Tổng công ty Nhà nước (Tổng công ty 91), Nhà nước cho phép các Tổng công ty được quyền điều chỉnh vốn và các nguồn lực của các đơn vị thành viên phù hợp với nhiệm vụ kinh doanh của từng doanh nghiệp trong Tổng công ty. Nghị định số 199/2004/NĐ – CP ban hành ngày 03 tháng 12 năm 2004, quy định “vốn huy động của doanh nghiệp” là số vốn doanh nghiệp Nhà nước huy động dưới hình thức: phát hành trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu doanh nghiệp; vay của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp, kể cả ở nước ngoài; vay vốn của người lao động và các hình thức huy động vốn khác để phục vụ kinh doanh nhưng không làm thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp tuy nhiên có sự phân cấp thẩm quyền quyết định hợp đồng vay vốn giữa đại diện chủ sở hữu và người điều hành doanh nghiệp, Giám đốc chỉ được quy định các hợp đồng vay vốn có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mức vốn điều lệ của doanh nghiệp. Đối với hợp đồng vay vốn có giá trị lớn hơn vốn điều lệ của doanh nghiệp thì Hội đồng quản trị hoặc đại diện chủ sở hữu quyết định, ngoài ra Nghị định cũng quy định rõ phần trích lập và sử dụng các quỹ của doanh nghiệp. Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định nhiệm vụ và quyền hạn trong việc quản lý việc vay, trả nợ ngân hàng của các doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ, quản lý hoạt động ngoại hối và quản lý kinh doanh vàng. Ngân hàng Nhà nước xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn, công bố yết giá tỷ giá hối đoái. Ngân hàng Nhà nước không bảo lãnh cho các tổ chức, cá nhân vay vốn trừ trường hợp có quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc bảo lãnh vay vốn nước ngoài. Ngân hàng Nhà nước cấp phép hoặc thu hồi giấp phép hoạt động ngoại hối. Ngoài ra các Tổng công ty xây dựng cơ chế huy động vốn còn bị ràng buộc bởi hàng loạt các vản bản dưới luật khác như: quy chế cho vay đối với các khách hàng; chế độ cầm cố; Nghị định về việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp Nhà nước; các quy định về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước… Ngoài số vốn Nhà nước đầu tư, Tổng công ty được huy động vốn dưới mọi hình thức theo pháp luật quy định như: Vay vốn ngân hàng, các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp, tổ chức cá nhân trong và ngoài nước, phát hành trái phiếu, vay khác để phục vụ nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc huy động vốn phải tuân theo pháp luật hiện hành và không làm thay đổi hình thức sở hữu Nhà nước của Tổng công ty. Khi phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn phải tuân theo các quy định của pháp luật hiện hành. Các Tổng công ty được tổ chức công ty tài chính để huy động vốn, điều hoà vốn, phục vụ cho yêu cầu phát triển của nội bộ Tổng công ty hoặc liên doanh với các đơn vị kinh tế khác. Chính sách huy động vốn: Với những đặc điểm riêng biệt của Tổng công ty Nhà nước trên cơ sở cân đối nguồn lực trong chiến lược phát triển của mình để đề ra những chính sách huy động vốn cho phù hợp với thực tế yêu cầu sản xuất kinh doanh. Từng thời kỳ chính sách huy động vốn phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây: Khai thác tối đa nguồn lực, nhân lực phục vụ cho mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp phát triển công ty. Định hướng huy động vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở kết hợp phát huy nội lực làm động lực chính cho sự nghiệp phát triển, hướng tới nguồn vốn bên ngoài nhằm hỗ trợ cho quá trình phát triển và xem đó là định hướng chiến lược huy động vốn trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể: Đối với nguồn từ nội bộ doanh nghiệp (Nguồn nội lực): Nguồn vốn từ nội bộ doanh nghiệp chiếm vị trí quan trọng trong chính sách huy động và sử dụng có hiệu quả vốn của Tổng công ty. Tổng công ty Nhà nước có rất nhiều các đơn vị thành viên hoạt động trong những lĩnh vực kinh doanh khác nhau do vậy nhu cầu sử dụng vốn của các đơn vị này cũng khác nhau. Mặt khác trong Tổng công ty, sản phẩm luân chuyển nội bộ giữa các đơn vị thành viên với nhau, giữa các đơn vị thành viên với công ty mẹ là rất lớn, từ đó hình thành nên nguồn vốn nhàn rỗi có thể huy động được. Chính sách huy dộng nguồn vốn nội bộ của Tổng công ty Nhà nước tập trung huy động từ các nguồn sau đây: Đối với Tổng công ty: + Nguồn vốn huy động từ các quỹ tập trung đóng góp của các đơn vị thành viên theo quy chế tài chính Tổng công ty Nhà nước. + Nguồn vốn tích luỹ qua các năm từ hoạt động sản xuất kinh doanh. + Nguồn vốn khác. Đối với các đơn vị thành viên: + Nguồn hình thành do lợi nhuận giữ lại. + Nguồn khác. Nguồn vốn từ nội bộ doanh nghiệp có vị trí rất quan trọng trong cơ chế huy động vốn của Tổng công ty. Xuất phát từ nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi thành viên trong Tổng công ty rất đa dạng và khác nhau về nhu cầu tại cung một thời điểm, làm xuất hiện sự thừa, thiếu vốn trong nội bộ doanh nghiệp, chính tại một thời điểm, nhu cầu vốn lưu động, vốn đầu tư xây dựng cơ bản, vốn trong thanh toán khác nhau, có đơn vị thừa, đơn vị thiếu đây chính là cơ sở để Tổng công ty thực hiện chính sách huy động vốn, điều hoà vốn giữa các đơn vị thành viên với nhau. Đối với nguồn vốn từ bên ngoài: Nguồn vốn từ bên ngoài được hình thành xuất phát từ nhu cầu sản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty. Nguồn vốn từ bên ngoài, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu bổ sung vốn lưu động và đầu tư phát triển. Vốn từ bên ngoài được hiểu là huy động từ mọi thành phần kinh tế ngoài Tổng công ty. Do tính chất sở hữu, các Tổng công ty Nhà nước là doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài số vốn được Nhà nước giao, vốn tích luỹ trong qua trình sản xuất kinh doanh qua các năm, Tổng công ty được huy động vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng không là thay đổi hình thức sở hữu của doanh theo quy định của luật pháp và phù hợp với sự phân cấp của Nhà nước, đồng thời tự chịu trách nhiệm về hiệu quả việc huy động vốn. Chính sách huy động vốn của Tổng công ty cần phải nghiêm chính chấp hành chế độ quản lý đầu tư và xây dựng của Nhà nước, hạn mức một lần vay và tổng dư nợ vay như đã quy định tại quy chế quản lý tài chính, do vậy các nguồn hình thành vốn của Tổng công ty Nhà nước dù dưới góc độ nào thì chủ yếu vẫn thuộc sở hữu Nhà nước. Ngoài định hướng trong chính sách huy động vốn cần chú trọng đến những nguồn sau: Đối với nguồn vốn do ngân sách Nhà nước cấp được hình thành do quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty, vốn của Tổng công ty là tổng số vốn ngân sách cấp cho Tổng công ty. Tổng công ty có quyền quyết định đầu tư hoặc không đầu tư vào doanh nghiệp thành viên hoạch toán độc lập. Đối với nguồn vốn tự có của doanh nghiệp thành viên, do quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp, sự hình thành vốn tự có của Tổng công ty Nhà nước là tổng số vốn tự có của các đơn vị thành viên. Bản chất của vốn tự có của Tổng công ty chính là vốn Nhà nước. Số vốn được hình thành từ hai nguồn trên chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu của các Tổng công ty Nhà nước hiện nay. Mặt khác do điều kiện khách quan, khi thành lập Tổng công ty, các đơn vị thành viên trong cùng một Tổng công ty lại không cùng có được một điều kiện về vốn như nhau, mỗi đơn vị thành viên được thừa hưởng nguồn vốn ngân sách và vốn tự bổ sung khác nhau, mặt khác như đã phân tích ở trên năng lực về vốn trong nội bộ Tổng công ty rất lớn. Chính vì lẽ đó, trong nội bộ Tổng công ty đã xuất hiện tình trạng chỗ thừa vốn, chỗ thiếu vốn. Đây chính là cơ sở để hình thành nguồn vốn được điều hoà và luân chuyển nội bộ theo cơ chế, điều tiết vốn nội bộ, hoặc thực hiện cơ chế có vay và có trả lãi suất nội bộ trong các đơn vị thành viên thuộc Tổng công ty Nhà nước. Đối với nguồn vốn huy động từ các thành phần kinh tế khác chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu vốn của các Tổng công ty. Hiện nay trong quá trình thay đổi chính sách quản lý tài chính của Nhà nước, các Tổng công ty xây dựng chính sách huy động vốn một cách linh hoạt, phù hợp với chiến lược phát triển của từng Tổng công ty, chính sách đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, đa phương hoá các quan hệ đối tác cung ứng vốn chính là định hướng đúng đắn trong việc thực hiện thành công cơ chế huy động vốn. Tuy nhiên các Tổng công ty huy động vốn và phương pháp huy động vốn tuỳ thuộc vào vị trí pháp lý và uy tín của Tổng công ty trên cơ sở hành lang pháp lý của Nhà nước, chính sách huy động vốn phải phù hợp với điều kiện thực, nhu cầu phát triển trên cơ sở đã phát huy tối đa nguồn lực trong nội bộ Tổng công ty mới thực hiện huy động vốn từ bên ngoài, trong đó chú trọng huy động vốn từ các tổ chức tín dụng trong nước trước hết, nếu trong nước không đủ tài trợ mới huy động từ nguồn vốn ngoài nước, có như vậy mới tận dụng nội lực từ nền kinh tế một cách triệt để, sử dụng nguồn vốn huy động đúng mục đích, thực hiện nghiêm chỉnh chính sách quản lý tài chính tiền tệ của Nhà nước. Hình thức tổ chức, phương thức huy động vốn: Xuất phát từ yêu cầu thực tế, trên cơ sở những định hướng chính trong cơ chế, chính sách huy động vốn của Nhà nước, các Tổng công ty Nhà nước có thể áp dụng các hình thức tổ chức huy động vốn một cách linh hoạt nhằm phục vụ cho chiến lược huy động vốn phù hợp cho chính Tổng công ty, Nhà nước khuyến khích các Tổng công ty linh hoạt trong tổ chức huy động vốn, đa dạng trong phương thức huy động nhằm tăng nhanh khả năng khai thác và sử dụng tốt nhất các nguồn vốn huy động, tránh lãng phí, thất thoát, hạn chế rủi ro cho Nhà nước và cho doanh nghiệp. Các biện pháp tổ chức thực hiện công tác huy động vốn: Đối với vốn trong nội bộ Tổng công ty: Trên cơ sở cân đối nhu cầu vốn của từng đơn vị thành viên trong Tổng công ty, căn cứ vào điều kiện thực tế của hoạt động sản xuất kinh doanh của từng đơn vị thành viên và toàn Tổng công ty, Tổng công ty Nhà nước xây dựng chính sách huy động vốn trong nội bộ cho phù hợp với mục tiêu đề ra, nhằm tận dụng tối da hiệu quả sử dụng vốn. Điều tiết vốn nội bộ thực chất là làm tăng khả năng luân chuyển trong nội bộ doanh nghiệp, khai thác tối đa những tiềm năng sẵn có trong các đơn vị thành viên trên cơ sở xác định nhu cầu vốn cho từng đơn vị thành viên, toàn Tổng công ty, tại từng thời điểm, từng kế hoạch chung Tổng công ty. Để thực hiện điều đó, mỗi nguồn vốn đều có chính sách huy động linh hoạt nhằm tối đa hoá lợi ích, hiệu quả của từng đồng vốn. Cụ thể: Vốn điều tiết giữa các đơn vị nội bộ không hoàn trả: Thực hiện chính sách điều tiết vốn trong nội bộ Tổng công ty, thực chất là điều chỉnh mức vốn giữa các đơn vị thành viên trên cở sở doanh nghiệp thừa vốn điều hoà cho doanh nghiệp thiếu vốn, cơ sở của chính sách này chủ yếu dựa vào nhu cầu sản xuất kinh doanh, phương án, kế hoạch sử dụng vốn của các đơn vị trong Tổng công ty, Giám đốc các đơn vị thành viên lập phương án nhu cầu về vốn của đơn vị mình trình Tổng giám đốc Tổng công ty. Chủ tịch hội đồng quản trị với tư cách là thay mặt chủ sở hữu vốn quyết định điều động vốn không hoàn trả cho một bên là đơn vị thành viên cần vốn, và một bên là đơn vị thành viên khác xét thấy chừng mực nào đó có thể dư vốn. Ví dụ: Điều chuyển tài sản cố định không cần dùng từ đơn vị A sang đơn vị B, cấp chuyển nợ phải thu của đơn vị A đối với đơn vị B sang cấp vốn lưu động cho đơn vị B…điều hoà vốn không hoàn trả cho những đơn vị kinh doanh có hiệu quả, hoặc có chính sách hỗ trợ vốn cho những đơn vị có khó khăn trước mắt nhưng lợi ích lâu dài… Đối với loại nguồn vốn này, chính sách của các Tổng công ty Nhà nước là thực hiện tập trung quản lý tại cơ quan Tổng công ty, trên cơ sở cân đối nhu cầu sử dụng vốn hàng năm của toàn Tổng công ty. Tổng công ty là người điều phối các hoạt động điều tiết, phân phối lại vốn trong toàn Tổng công ty. Vốn luân chuyển nội bộ dưới dạng vay có hoàn trả cới lãi suất nội bộ: Đây là hình thức huy động quan trọng nhất trong chính sách huy động nguồn vốn nội bộ của các Tổng công ty Nhà nước. Trên cơ sở cân đối chung trong toàn Tổng công ty và từng đơn vị thành viên, chính các đơn vị thành viên là chủ thể thực hiện các cam kết trong việc huy động vốn, Tổng công ty là người trọng tài quyết định cuối cùng các thoả thuận, cam kết vay vốn giữa các đơn vị thành viên trong nội bộ Tổng công ty. Đối với các quỹ tập trung tại Tổng công ty, Tổng công ty là người chủ cho các đơn vị thành viên trong Tổng công ty vay vốn từ các quỹ tập trung, đi vay rồi lại cho vay lại, nhưng với nguyên tắc có vay, có trả, lãi suất cho vay có thể chấp nhận được và thấp hơn lãi suất trên thị trường cùng thời điểm. Nguồn vốn huy động từ bên ngoài: Do thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của các Tổng công ty Nhà nước hoạt động trong điều kiện thiếu vốn. Trọng tâm của chính sách huy động vốn của các Tổng công ty Nhà nước là tận dụng tối đa cơ hội để Tổng công ty tham gia đầy đủ vào thị trường tài chính trong và ngoài nước, đặc biệt là thị trường trong nước, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất mọi thành viên trong Tổng công ty. Tuy nhiên chính sách huy động vốn từ bên ngoài hướng chủ yếu là huy động vào phục vụ cho những dự án lớn, phục vụ cho nhu cầu dài hạn và mục tiêu chiến lược của Tổng công ty. Các chính sách trên phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây: Khai thác có hiệu quả các nguồn vốn nhàn rỗi trong và ngoài Tổng công ty, lấy nội lực làm động lực chính, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong nội bộ Tổng công ty. Tận dụng tối đa vốn từ bên ngoài, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển, góp phần thực hiên các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Bảo toàn và tăng trưởng vốn, cung ứng kịp thời vốn theo yêu cầu của các thành viên trong Tổng công ty, vì mục tiêu chung của toàn Tổng công ty. Chấp hành các chính sách quản lý của Nhà nước về chế độ tài chính - kế toán, chế độ báo cáo thống kê, chính sách quản lý tiền tệ - tín dụng, các quy định của pháp luật. 1.3. Các nhân tố tác động tới cơ chế huy động vốn trong Tổng công ty Nhà nước. 1.3.1. Nguyên nhân khách quan: 1.3.1.1. Môi trường luật pháp: Môi trường luật pháp là chính giới hạn cho hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp, Hoạt động huy động vốn được giới hạn trong khuôn khổ pháp lý cho phép bắt buộc các chủ thể là doanh nghiệp hay các cá nhân trong xã hội chỉ được phép hoạt động theo pháp luật quy định. Cơ chế huy động vốn được Nhà nước mở ra nhưng cũng là do chính Nhà nước khép lại nhằm phục vụ cho những định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước điều tiết các hoạt động kinh tế trong đó có hoạt động huy động vốn cho phù hợp với tình hình thực tế. Trong giai đoạn hiện nay, với chiến lược phát triển tăng tốc, định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước là nền tảng cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, chống nguy cơ tụt hậu so với khu vực và thế giới, phát triển nền kinh tế theo hướng thị trường có sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Do xuất phát từ một nền kinh tế lạc hậu yếu kém chỉ có một con đường duy nhất là mở cửa ra thế giới bên ngoài, cơ chế tài chính, trong đó cơ chế huy động vốn của Nhà nước đã tạo mọi điều kiện cần thiết cho các doanh nghiệp. Môi trường luật pháp kinh doanh của Nhà nước đã thông thoáng hơn đây chính là tiền đề tạo cho các doanh nghiệp mở rộng hoạt động tạo đà phát triển. Tuy nhiên tính ổn định của hệ thống pháp luật ở nước ta chưa thực sự gắn với sự phát triển dài hạn của nền kinh tế, hay thay đổi, làm cản trở rất lớn cho việc hoạch định chiến lược huy động vốn cho đầu tư phát triển dài hạn của các doanh nghiệp. Mặt khác chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước chưa thực sự nhất quán, sự thay đổi đó nhằm điều chỉnh cho phù hợp với thực tế của nền kinh tế, một mặt có tác dụng điều chỉnh nền kinh tế theo hướng tích cực, nhưng một mặt tác động không tốt đến chính sách phát triển của các doanh nghiệp. Sự tách rời giữa môi trường pháp luật với quản lý điều hành của Nhà nước đang là một trở ngại rất lớn đối với các Tổng công ty Nhà nước. Điều này thể hiện rõ nét trong điều hành nền kinh tế. Nhà nước một mặt nhất quán tự do hoá các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng thực tế các cơ quan điều hành quản lý đôi khi can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ thống văn bản pháp luật quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các Tổng công ty Nhà nước trong việc tổ chức điều hành hoạt động huy động vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng thực tế không như vậy, nhiều trường hợp Nhà nước đẩy Tổng công ty vào thế bị động, tình trạng không thống nhất trong việc chỉ đạo điều hành của cơ quan Nhà nước cũng rất phổ biến. Hệ thống các văn bản thiếu nhất quán, chồng chéo, hiệu lực pháp lý của các văn bản không cao, nội dung văn bản thiếu rõ ràng gây tâm lý hoài nghi cho các doanh nghiệp. 1.3.1.2. Thị trường vốn: Đối với các doanh nghiệp ngoài việc sử dụng vốn tự có, các doanh nghiệp thường huy động nguồn vốn từ các nguồn bên ngoài doanh nghiệp, do đó sự phát triển của thị trường vốn ảnh hưởng rất nhiều đến chính sách huy động vốn của doanh nghiệp. Nói đến thị truờng vốn không thể không nhắc đến thị trường chứng khoán và các trung gian tài chính. Có thể nói huy động vốn qua thị trường chứng khoán là một phương thức huy động vốn quan trọng của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể áp dụng các hình thức huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán như phát hành trái phiếu doanh nghiệp,… Khi thị trường khoán phát triển sẽ làm tăng tính thanh khoản cho các chứng khoán của doanh nghiệp mặt khác doanh nghiệp cũng tận dụng được lợi thế từ hình thức phát hành này như: không phải chia quyền kiểm soát doanh nghiệp cho người mua trái phiếu, chi phí trả lãi trái phiếu là chi phí không phải chịu thuế…Tương tự như vậy, hệ thống trung gian tài chính với các nghiệp vụ tài trợ linh hoạt, đa dạng trên quy mô lớn sẽ càng tạo điều kiện cho doanh nghiệp tìm kiếm, khai thác các nguồn vốn và phương thức huy động khác nhau, giúp doanh nghiệp phân tán độ rủi ro và xây dựng chiến lược quản lý vốn tốt hơn trong giai đoạn phát triển tiếp theo. Ngoài ra doanh nghiệp cũng có thể huy động vốn từ các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. 1.3.1.3. Chi phí vốn: Chi phí vốn là yếu tố quan trọng nhất quyết định việc lựa chọn nguồn và phương thức huy động vốn của mỗi doanh nghiệp. Chi phí vốn là chi phí của việc sử dụng vốn, được tính bằng số lợi nhuận kỳ vọng đạt được trên vốn đầu tư vào dự án hoặc doanh nghiệp để giữ không là giảm số lợi nhuận dành cho chủ sở hữu. Thu nhập mà mỗi nhà đầu tư yêu cầu cũng không giống nhau đối với mỗi nguồn vốn và nó là căn cứ để tính chi phí vốn. Chi phí của mỗi loại vốn khác nhau là khác nhau và đối với một doanh nghiệp tại một thời điểm khác nhất định, chi phí vốn chủ sở hữu cao hơn chi phí nợ. Dựa trên việc so sánh lợi ích cũng như chi phí của mỗi nguồn vốn khác nhau mà doanh nghiệp lựa chọn cho mình nguồn vốn có chi phí thấp nhất hay một sự kết hợp các nguồn vốn nhằm giảm thiểu rủi ro và tiết kiệm chi phí huy động vốn. 1.3.2. Nhân tố chủ quan: 1.3.2.1. Môi trường bên trong doanh nghiệp: Điều lệ quy định về tổ chức, hoạt động của các Tổng công ty Nhà nước phân định rõ chức năng, quyền hạn của các đơn vị thành viên trong nội bộ Tổng công ty nằm trong một tổ chức thống nhất. Mỗi đơn vị thành viên là một mắt xích trong mối liên hệ ràng buộc về vốn, công nghệ, sản phẩm… tuy nhiên trong quá trình quản lý và điều hành mối quan hệ giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên hạch toán độc lập còn nhiều vướng mắc cần bổ sung. các đơn vị thành viên hạch toán độc lập tham gia vào mối liên kết Tổng công ty thực chất rất lỏng lẻo, các đơn vị hạc toán độc lập tổ chức điều hành sản xuất kinh doanh và tự chủ về tài chính, thực hiện theo Nghị định 388/HĐBT, mối liên kết về vốn, công nghệ hầu như không có, mỗi đơn vị theo một chức năng, ngành nghề kinh doanh khác nhau, mối liên kết có chăng cũng chỉ là trên giấy tờ hay các cuộc giao ban toàn Tổng công ty, khả năng trợ giúp về vốn giữa Tổng công ty, công ty mẹ với các đơn vị thành viên, giữa các đơn vị thành viên với nhau không thực sự đem lại hiệu quả kinh tế thiết thực, nẩy sinh mâu thuẫn giữa tích tụ và phân tán vốn và làm giảm tính khả thi của cơ chế huy động vốn trong nội bộ Tổng công ty. Trong quá trình thực hiện cơ chế huy động vốn trong các Tổng công ty Nhà nước, hầu hết các Tổng công ty hoạt động trong điều kiện thiếu vốn trầm trọng, nhu cầu về vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ cần một lượng rất lớn, trong khi nguồn vốn trong nội bộ Tổng công ty chỉ đủ đảm bảo cho những dự án vay vốn ngắn hạn hoặc tài trợ cho các dự án vốn có khả năng thu hồi nhanh, một trong những nhân tố quan trọng đó là quá trình làm phân tán vốn trong nội bộ Tổng công ty, do cơ chế tổ chức quản lý có nhiều mâu thuẫn, các đơn vị hạch toán độc lập được quyền tự chủ hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư sau ki đã hoàn thành nghĩa vụ ngân sách và Tổng công ty, dẫn đến các đơn vị đầu tư phân tán thiếu nguồn lực tập trung cho những dự án có tính chất chiến lược chung cho Tổng công ty, khả năng huy động trong các đơn vị nội bộ thiếu thực thi… Đây chính là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến cơ chế huy động vốn của các Tổng công ty, điều dó đòi hỏi các Tổng công ty có chính sách thích hợp trong cơ chế huy động vốn để đạt hiệu quả cao. 1.3.2.2. Cơ cấu vốn huy động: Cơ cấu vốn tối ưu là cơ cấu giữa nợ và vốn chủ sở hữu sao cho chi phí vốn bình quân (WACC) mà doanh nghiệp phải gánh chịu là thấp nhất và phải đạt được sự cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận. Mỗi nguồn vốn khi huy động đều có hai mặt nếu chi phí vốn chủ sở hữu là đắt hơn chi phí của nợ thì rủi ro từ việc sử dụng vốn chủ sở hữu là ít hơn, trong khi đó nợ lại có lợi thế là tạo ra một khoản tiết kiệm thuế nhờ lãi vay (đòn bẩy tài chính). Mặt khác tuỳ theo lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp có một kết cấu tài sản khác nhau qua đó tác động tới nguồn vốn – nguồn tài trợ cho tài sản của doanh nghiệp. Thông thường, các doanh nghiệp có tỷ trọng tài sản lưu động lớn thì cơ cấu vốn thường bao gồm chủ yếu là nợ ngắn hạn còn các doanh nghiệp có tỷ trọng tài sản cố định lớn thì thường bao gồm chủ yếu vốn chủ sở hữu và nợ dài hạn. Tóm lại tuỳ thuộc vào mục tiêu chính sách cũng như lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp xây dựng cho mình cơ cấu vốn tối ưu. 1.3.2.3. Hiệu quả sử dụng vốn: Hiệu quả sử dụng vốn thể hiện chỉ tiêu một đồng vốn tạo ra bao nhiêu doanh thu và lợi nhuận. Mỗi đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng đều mất chi phí vốn vì vậy khi sử dụng vốn doanh nghiệp luôn kỳ vọng phải đạt được một tỷ lệ hoàn vốn nhất định. Trước khi huy động vốn và sử dụng vốn doanh nghiệp đều phải xem xét tính khả thi của các dự án hay kế hoạch sản xuất kinh doanh tức là xem xét hiệu quả của việc sử dụng vốn nếu thấy thực sự có hiệu quả doanh nghiệp mới tiến hành theo đúng kế hoạch đã vạch ra. 1.3.2.4. Định mức tín nhiệm của doanh nghiệp: Định mức tín nhiệm của doanh nghiệp là chỉ tiêu đánh giá độ tin cậy của nhà đầu tư với doanh nghiệp đó. Định mức tín nhiệm của doanh nghiệp được xây dựng dựa trên cơ sở xem xét một số yếu tố sau: Những yếu tố chung về môi trường bên ngoài doanh nghiệp: Đây là những đánh giá về rủi ro chung của thế giới (trạng thái nền kinh tế thế giới), rủi ro khu vực (trạng thái phát triển của khu vực nơi có lãnh thổ quốc gia mà doanh nghiệp đang hoạt động), rủi ro quốc gia (gồm rủi ro chính trị được xem xét dưới góc độ thể chế chính trị đảm bảo quyền lợi cho người đầu tư và rủi ro kinh tế). Những yếu tố về bản thân doanh nghiệp: Đây là những đánh giá về quy mô doanh nghiệp, kết cấu và sự biến động lợi nhuận của doanh nghiệp, trình độ quản lý điều hành của bộ máy quản lý. Định mức tín nhiệm là yếu tố mà doanh nghiệp cần đánh giá, xem xét khi lựa chọn huy động vốn bên ngoài doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp có định mức tín nhiệm cao trên thị trường, việc huy động vốn từ nguồn bên ngoài (vay trung gian tài chính, phát hành trái phiếu, tín dụng thương mại) sẽ dễ dàng, thuận lợi hơn. Nếu doanh nghiệp có định mức tín nhiệm thấp, chứng tỏ việc đầu tư vào doanh nghiệp có rủi ro cao hơn đầu tư vào các nơi khác thì doanh nghiệp sẽ phải huy động vốn với chi phí lớn hơn, những đòi hỏi về bảo đảm an toàn cho các khoản tài trợ của nhà tài trợ sẽ cao hơn do đó có thể nói việc hướng tới nguồn vốn bên ngoài là không khả thi. Doanh nghiệp sẽ phải tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ cụ thể là từ nguồn lợi nhuận không chia hay quỹ khấu hao tài sản cố định. Định mức tín nhiệm còn phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt sẽ có định mức tín nhiệm cao. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ HUY ĐỘNG VỐN TẠI TỔNG CÔNG TY HÀNG KHÔNG VIỆT NAM 2.1. Khái quát đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của ngành Hàng không dân dụng Việt Nam. 2.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Ngành hàng không dân dụng Việt Nam được thành lập ngày 15 tháng 1 năm 1956 trực thuộc Bộ quốc phòng. Thời kì đầu mới thành lập, đội ngũ máy bay của Hàng không Việt Nam chỉ có 5 chiếc máy bay, đường bay quốc tế đầu tiên được mở tới Beijing (Trung Quốc), Vientiane (Lào), Bangkok (Thái Lan) và Phnom Penh (Campuchia). Nhưng những năm sau đó ngành hàng không dân dụng Việt Nam đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng: số lượng máy bay tăng dần qua các năm và nhiều dường bay mới được thiết lập giữa Việt Nam và các nước, chất lượng dịch vụ ngày càng tăng… Năm 1989 đánh dấu một bước thay đổi quan trọng trong ngành hàng không dân dụng Việt Nam nói chung, Vận tải hàng không nói riêng đó là Tổng cục hàng không tách khỏi Bộ quốc phòng. Từ khi tách khỏi Bộ quốc phòng, ngành hàng không dân dụng đã có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn, từng bước phấn đấu trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam. Tháng 12/1991 Luật hàng không dân dụng Việt Nam đã được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua, đồng thời hệ thống các văn bản dưới luật cũng đã được các cơ quan có trách nhiệm hoàn thiện và ban hành, tạo tiền đề pháp lý cho hoạt động vận tải hàng không. Đặc biệt, ngày 27 tháng 05 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 328/TTg về việc thành lập Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Tổng công ty Hàng không Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp và các đơn vị sự nghiệp của ngành hàng không dân dụng, lấy Hãng hàng không quốc gia Việt Nam làm nòng cốt. Từ đó đến nay, vận tải hàng không Việt Nam ngày càng vững mạnh trước những khó khăn, thử thách của cơ chế thị trường cả trong nước lẫn quốc tế. Tính đến 1998, hàng không dân dụng đã có 23 đường bay trong nước nối đến các trung tâm chính trị kinh tế lớn của Việt Nam và 24 đường bay quốc tế nối đến các khu vực trên thế giới. Mức tăng trưởng trong thời kỳ này bình quân đạt 36%/năm thời kỳ 1990 – 1995 và tăng trung bình trên dưới 20% trong những năm tiếp theo. Tỷ trong vận tải hàng không Việt Nam trên thị trường quốc tế đã tăng dần lên 40% dung lượng khách quốc tế vào Việt Nam. Đến cuối năm 1998, Hàng không Việt nam đã vận chuyển 2 triệu 480 nghìn lượt khách (có 1 triệu 566 nghìn lượt khách trong nước). Vận tải hàng hoá được: 42.726 tấn trong đó quốc tế được: 16.723 tấn. Tổng doanh thu toàn ngành đạt hơn 7.000 tỷ đồng, thu nộp ngân sách Nhà nước đạt: 1.343 tỷ đồng…Đặc biệt tại Đại hội Đảng bộ Tổng công ty HKVN ngày 23/9/2003 đã đọc báo cáo tổng kết thành tựu mà Hàng không Việt nam đạt được trong giai doạn năm 1998 – 2003. T._.ước 3: - Kiểm tra. - Tổng kết, đánh giá. - Giám sát quá trình huy động vốn. - Kiểm tra đánh giá hiệu quả sử dụng vốn huy động. - Giám sát việc hoàn trả vốn huy động. - Điều chỉnh mức vốn huy động. - Tổng kết, dánh giá. - Ban Tài chính - Kế toán. - Ban Tài chính - Kế toán – Lãnh đạo. - Ban Tài chính - Kế toán. - Ban Kế hoạch đầu tư. - Ban Tài chính - Kế toán. - Ban Kế hoạch đầu tư. - Ban Tài chính - Kế toán. - Ban Kế hoạch đầu tư. - Cơ quan Tổng công ty. - Tổ chức triển khai, phối hợp. - Tổ chức triển khai, phối hợp. - Tổ chức thực hiện. - Tổ chức thực hiện. Các chỉ tiêu đánh giá: Chỉ tiêu đánh giá mức độ tích luỹ vốn từ lợi nhuận năm nay so với năm trước. + Doanh lợi vốn chủ sở hữu: Chỉ tiêu này đánh giá khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu. Năm N - 1 = Lợi nhuận sau thuế Tổng vốn chủ sở hữu + Doanh lợi vốn: Phản ánh khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư, chỉ tiêu này còn gọi là tỷ lệ hoàn vốn đầu tư. Năm N - 1 = Lợi nhuận sau thuế Tổng vốn + Chỉ tiêu đánh giá tình hình huy động vốn trong nội bộ: N = Vốn huy động nội bộ năm N x 100% Vốn huy động nội bộ năm N - 1 + Chỉ tiêu đánh giá tình hình huy động vốn bên ngoài: N = Vốn huy động bên ngoài năm N x 100% Vốn huy động bên ngoài năm N - 1 Chỉ tiêu đánh giá tình hình thanh toán công nợ: Tỷ số đảm bảo nợ dài hạn = Giá trị TSCĐ và đầu tư dài hạn x 100% Nợ dài hạn Nhóm chỉ tiêu phản ánh kết cấu nguồn vốn: Tỷ lệ vốn vay/Nguồn vốn = Nợ phải trả x 100% Tổng nguồn vốn Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/Nguồn vốn = Nguồn vốn chủ sở hữu x 100% Tổng nguồn vốn Tỷ lệ nợ dài hạn = Nợ dài hạn x 100% Giá trị còn lại củaTSCĐ Các chỉ tiêu tài chính trung gian: + So sánh tốc độ tăng doanh thu với tốc độ tăng tỷ trọng tổng vốn huy động. + Sơ sánh tốc độ tăng doanh thu với tốc độ tăng tỷ trọng vốn huy động trong nội bộ. + So sánh tốc độ tăng doanh thu với tốc độ tăng tỷ trọng vốn huy động bên ngoài doanh nghiệp. Hệ thống kiểm tra, kiểm soát cơ chế huy động vốn tập trung chủ yếu từ bên ngoài cho những dự án dài hạn: Việc ra quyết định có chấp nhận cho các đơn vị thành viên trong Tổng công ty được thực hiện huy động vốn nội bộ hay nguồn vốn bên ngoài cho những dự án dài hạn hay không là thuộc trách nhiệm của các cơ quan tham mưu của Tổng công ty (Ban Tài chính - Kế toán, Ban Kế hoạch đầu tư). Chính các cơ quan này sẽ sử dụng các công cụ tài chính để phân tích đánh giá từng dự án của các đơn vị thành viên, đưa ra những kết luận chính xác khách quan, làm cơ sở để Hội đồng quản trị xem xét phê duyệt. Khi những dự án cần huuy động nguồn vốn đầu tư dài hạn, bất kể nguồn vốn huy động trong nội bộ hay nguồn vốn huy đông từ bên ngoài,Tổng công ty cần sử dụng hệ thống chỉ tiêu phân tích sau đây nhằm đánh giá đầy đủ các khía cạnh kinh tế, pháp lý của mỗi dự án. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá bao gồm: Chỉ tiêu về giá trị hiện tại ròng (NPV), chỉ tiêu tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), Thời gian hoàn vốn (PP), Chỉ số doanh lợi (PI)… 3.2.2. Xây dựng quy trình quản lý huy động vốn trong nội bộ Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Xây dựng quy trình quản lý công tác huy động vốn là nội dung cơ bản làm nâng cao quá trình kiểm soát các hoạt động huy động vốn của Tổng công ty. Quy trình quản lý công tác huy động vốn nội bộ là một nội dung trong việc phân cấp quản lý huy động vốn cho các đơn vị thành viên trong Tổng công ty, tăng cường tính chủ động, vai trò trách nhiệm của các đơn vị thành viên, nhằm khai thác triệt để mọi nguồn vốn có thể huy động đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, tránh rủi ro những rủi ro không cần thiết và nâng cao tính hiệu quả của quá trình huy động vốn. Xây dựng quy trình quản lý huy động vốn dựa vào đặc điểm của cơ chế tổ chức, cơ chế quản lý và tổ chức điều hành sản xuất của Tổng công ty. Nội dung quy trình quản lý huy động vốn trong nội bộ xác định mối quan hệ giữa các đơn vị thành viên, các bộ phận trong tổng thể tổ chức Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Quy trình quản lý huy động vốn trong nội bộ Tổng công ty Các bước nghiệp vụ Chức năng Nội dung Đầu ra 1.1 Các đơn vị thành viên. Ban Kế hoạch đầu tư Ban Tài chính - Kế toán Ban KH - ĐT Ban Tài chính - Kế toán Ban KH – ĐT Ban Tài chính - Kế toán Ban KH – ĐT Ban Tài chính - Kế toán Ban KH – ĐT Ban công nghệ thông tin Văn phòng Tổng công ty. Quý IV, các đơn vị lập kế hoạch nhu cầu vốn cho năm sau: - Vốn lưu động: + Vốn lưu động hiện có. + Nhu cầu vốn lưu động. + Cân đối (thừa, thiếu). - Vốn cố định: + Vốn cố định hiện có. + Nhu cầu vốn cố định. + Cân đối (thừa, thiếu). - Danh mục dự án đầu tư cần huy động vốn: + Danh mục đầu tư XDCB. + Dang mục trang thiết bị. - Nhu cầu đầu tư khối văn phòng Tổng công ty. + Danh mục đầu tư mua sắm trang thiết bị tin học, thông tin liên lạc. + Danh mục đầu tư khối văn phòng Tổng công ty. Kế hoạch tổng hợp nhu cầu vốn toàn Tổng công ty. Tổng công ty Tổng công ty 1.2 Các cơ quan có liên quan Ban Kế hoạch đầu tư. Ban Tài chính - Kế toán. - Tổng hợp nhu cầu vốn lưu động. - Tổng hợp nhu cầu vốn cố định. - Cân đối nguồn. - Xác định nguồn vốn đáp ứng. + Nguồn vốn nội bô: Quỹ phát triển kinh doanh Quỹ khấu hao cơ bản. Lợi nhuận để lại Các nguồn vốn nhàn rỗi nội bộ có thể huy động. + Nguồn vốn huy động bên ngoài. + Nguồn vốn huy động trong nước. Nguồn vốn Chính phủ Tín dụng ngân hàng Phát hành cổ phiếu, trái phiếu. + Nguồn vốn huy động ngoài nước. Vay các tổ chức tín dụng Viện trợ ODA Liên doanh – liên kết… - Các phương án huy động vốn. - Các cam kết tín dụng. 1.3 Tổng giám đốc Ban Tài chính - Kế toán Ban Kế hoạch đầu tư Tổng hợp nhu cầu và cân đối nguồn vốn được trình lên cơ quan có thẩm quyền phê duyệt Tổng giám đốc ký tờ trình. Hồ sơ 1.4 Chủ tịch hội đồng quản trị Tổng giám đốc Ban Tài chính - Kế toán Ban Kế hoạch đầu tư Hội đồng quản trị phê duyệt phương án huy động vốn. Chủ tịch hội đồng quản trị trực tiếp giao cho Tổng giám đốc. Tổng giám đốc trực tiếp giao cho các đơn vị. Triển khai điều hành Duyệt – Bác bỏ Kế hoạch đã được phê duyệt 1.5 Các đơn vị thành viên Ban Tài chính - Kế toán Ban Kế hoạch đầu tư Triển khai, điều chỉnh kế hoạch Đầu tư, kinh doanh. 1.6 Ban Tài chính - Kế toán Kiểm toán nội bộ Đối chiếu, kiểm tra, kiếm soát, đánh giá phân tích tình hình thực hiện. Báo cáo tổng hợp 1.7 Hội đồng quản trị - Tổng giám đốc Tổng kết – Đánh giá - Bổ sung. 3.2.3. Hoàn thiện cơ chế huy động vốn tại Tổng công ty Hàng không Việt Nam. 3.2.3.1. Xây dựng quy chế phân cấp huy động vốn đối với các đơn vị thành viên Tổng công ty: Phân cấp quản lý huy động vốn nằm trong giải pháp tổng thể nhằm hoàn thiện cơ chế huy động vốn. Quy chế phân cấp quản lý huy động vốn nhằm nâng cao vai trò trách nhiệm cho mỗi một đơn vị thành viên trong Tổng công ty, tăng cường tính chủ động sáng tạo của mọi thành viên nhằm khai thác triệt để mọi nguồn lực trong nội bộ và nguồn lực bên ngoài phục vụ cho mục tiêu phát triển của Tổng công ty. Quy chế phân cấp quản lý huy động vốn dực trên cơ sở quy chế quản lý tài chính của Nhà nước, cơ chế phân cấp tài chính của Tổng công ty. Quy chế phân cấp quản lý huy động vốn xác định rõ vai trò trách nhiệm của mỗi thành viên, mối quan hệ giữa các thành viên với nhau trong việc thực hiện huy động vốn, tăng cường vai trò liên kết giữa các thành viên trong nội bộ, giữa các thành viên với Tổng công ty, nâng cao khả năng hỗ trợ về vốn, kỹ thuật cho từng thành viên, phát huy hơn nữa thế mạnh nguồn lực tập trung để phục vụ cho chiến lược phát triển của Tổng công ty. Nội dung quy chế phân cấp huy động vốn đề cập đến những vấn đề sau đây: Xác định rõ phạm vi trách nhiệm của từng đơn vị thành viên trong cơ chế huy động vốn, bao gồm: Mỗi một đơn vị thành viên trong Tổng công ty (trừ đơn vị hạch toán phụ thuộc) được quyền huy động vốn dưới mọi hình thức, để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Các đơn vị thành viên được tự chủ trong việc khai thác các nguồn vốn trong nội bộ, nguồn vốn bên ngoài, tự chịu trách nhiệm của mình để phục vụ cho phát triển sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả kinh tế cao. Việc huy động vốn phải được tính toán, cân nhắc kỹ về hiệu quả kinh tế. Vốn huy đoọng chỉ được sử dụng vào mục đích kinh doanh không dùng cho mục đích khác. Trên cơ sở các phương án kinh doanh, nhu cầu vốn, phương án huy động vốn của các đơn vị thành viên, Tổng giám đốc Tổng công ty xét duyệt phương án huy động vốn của các doanh nghiệp thành viên và lập tờ trình Hội đồng quản trị phê duyệt. Đối với những dự án huy động vốn đầu tư dài hạn, vốn mua máy bay, thiết bị đồng bộ, những dự án thuộc danh mục quản lý tập trung tại Tổng công ty (quy định trong quy chế phân cấp quản lý dầu tư xây dựng cơ bản), Tổng giám đốc trực tiếp triển khai, chịu trách nhiệm thực hiện phương án huy động vốn trên cơ sở phương án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đối với những dự án đầu tư thuộc danh mục theo phân cấp cho các đơn vị trực tiếp quản lý (quy định trong quy chế phân cấp quản lý đầu tư xây dựng có bản) Tổng giám đốc Tổng công ty trực tiếp giao cho Giám đốc các đơn vị hạc toán độc lập, trên cơ sở các phương án huy động vốn đã được Hội đồng quản trị phê chuẩn, tổ chức triển khai thực hiện huy động vốn theo phân cấp. Đối với nguồn huy động từ bên ngoài Tổng công ty là người trực tiếp quản lý. Các đơn vị thành viên nếu có nhu cầu huy động vốn từ bên ngoài phải lập phương án báo cáo Tổng giám đốc Tổng công ty, sau khi được phê duyệt mới được phép thực hiện huy động vốn. Đối với những dự án thuộc thẩm quyền Chính phủ phê duyệt, Chủ tịch hội đồng quản trị lập tờ trình báo cáo Chính phủ, Tổng giám đốc chịu trách nhiệm triển khai thực hiện phương án sau khi đã được phê duyệt. Mức huy động vốn căn cứ vào tổng số vốn được Tổng công ty giao cho đơn vị thành viên. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào vị trí, tính chất của những dự án cần vốn huy động, khả năng dảm bảo hoàn trả vốn huy động, Tổng công ty có thể cho phép một số đơn vị thành viên được phép huy động trên mức vốn quy định nhưng không trái với tinh thần cơ chế huy động vốn của Tổng công ty. Đối với những dự án cần huy động vốn vượt quá quy định trong phân cấp Tổng công ty sẽ xem xét từng trường hợp cụ thể và sẽ quyết định cho phép hoặc không cho phép đơn vị triển khai huy động vốn. Quy chế phân cấp cần khuyến khích các đơn vị thành viên khai thác triệt để nguồn vốn trong nội bộ, đặc biệt là nguồn vốn nhàn rỗi, vật tư tồn kho, tài sản không cần hoặc chưa cần dùng, có chế độ thưởng phạt các đơn vị thành viên tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn vốn, nâng cao khả năng tự đầu tư phát triển cho chính đơn vị mình. Để thực hiện được điều đó khi xây dựng quy chế phân cấp huy động vốn Tổng công ty cần cụ thể hoá những vấn đề sau: Đối với phần lợi nhuận để lại của đơn vị: Khuyến khích các đơn vị tập trung đầu tư, bổ sung vốn kinh doanh, liên kết góp vốn với các đơn vị khác để phát triển sản xuất cùng chia lợi nhuận do đầu tư mang lại. Tổng công ty nên có chế độ khuyến khích nằng việc hạ thấp tỷ lệ thu nộp vào các quỹ tập trung từ phần lợi nhuận thu được do đơn vị thực hiện đầu tư bằng hình thức này. Đối với nguồn khấu hao cơ bản để lại đơn vị, quy chế phân cấp nên khuyến khích các đơn vị liên kết góp vốn vào các dự án tái sản xuất mở rộng, đầu tư đổi mới công nghệ, đầu tư các công trình trọng điểm trên cơ sở có vay có hoàn trả. Đối với những dự án khả năng thu hồi vốn nhanh, mang lợi nhuận cao, các đơn vị nên liên kết góp vốn cùng tổ chức khai thác, cùng chia lợi nhuận. Tổng công ty là cầu nối hoặc người bảo lãnh cho việc thực hiện huy động vốn giữa các đơn vị thành viên trên cơ sở kiểm soát chặt chẽ quá trình thực hiện dự án. Đối với những tài sản, vật tư… không dùng, chưa cần dùng hoặc dùng không có hiệu quả; Tổng công ty có quyền điều chuyển cho đơn vị khác có nhu cầu, với nguyên tắc ghi tăng, giảm vốn có tính đến lợi ích của các đơn vị. Đối với những hợp đồng cung ứng các sản phẩm, dịch vụ luân chuyển trong nội bộ giữa các đơn vị thành viên với nhau, giữa các đơn vị thanhg viên với Tổng công ty, khi thực hiện ký kết hợp đồng không cần phải đặt cọc, thế chấp tài sản, Tổng công ty là người thực hiện bảo lãnh việc thực hiện các cam kết trong hợp đồng đó. Lãi suất của các hợp đồng huy động vốn trong nội bộ hải thấp hơn lãi suất ngân hàng Nhà nước công bố cùng thời điểm. Trên đây là những nội dung cơ bản trong quy chế phân cấp quản lý huy động vốn đối với các dơn vị trong Tổng công ty, nhằm hoàn thiện cơ chế huy động vốn góp phần khai thác triệt để nguồn lực phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. 3.2.3.2. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện cơ chế huy động vốn: Trong thực tiễn sản xuất, cơ chế huy động vốn của Tổng công ty hàng không đã và đang phát huy tác dụng trong việc tập trung nguồn lực trong và ngoài để đáp ứng cho sản xuất kinh doanh. Cơ chế huy động vốn của Tổng công ty đã vận dụng linh hoạt cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước, điều kiện thực tiễn của Tổng công ty và kinh nghiệm của các Hãng hàng không thế giới. một trong những thành công lớn nhất trong việc thực hiện cơ chế huy động vốn, đặc biệt là huy động vốn từ bên ngoài là đáp ứng nhu cầu vốn đổi mới đội bay hiện nay thành một đội bay hiện đại nhất trong khu vực, thoả mãn nhu cầu vận chuyển hàng không trên thị trường Việt Nam và khu vực. Tuy nhiên nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện cơ chế huy động vốn, Tổng công ty cần áp dụng một số biện pháp sau: Thứ nhất là: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo lợi nhuận cao. Đó là tiền đề tích luỹ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh sau này; tích luỹ vốn từ hoạt động sản xuất kinh doanh là cơ sở cho việc thực hiện có hiệu quả cơ chế huy động vốn. Chỉ có thể nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách tăng cường, mở rộng nguồn thu, giảm chi phí khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư, giảm rủi ro chủ quan trong kinh doanh thì mới nâng cao lợi nhuận và từ đó là cơ sở để nâng cao khả năng tích luỹ từ chính nội bộ Tổng công ty, từ các đơn vị thành viên làm cơ sở cho việc thực hiện có hiệu quả cơ chế huy động vốn. Thứ hai là: Giải quyết hài hoà lợi ích giữa Nhà nước, Tổng công ty,người lao động trong khả năng cho phép làm tăng nhanh khả năng tích luỹ vốn và tập trung nguồn lực sản xuất. Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước quy định việc trích lập các quỹ từ phần lợi nhuận để lại. Về bản chất nguyên tắc trích lập quỹ từ lợi nhuận để lại thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng của cá nhân người lao động với tập thể Tổng công ty, giải quyết tốt mối quan hệ này trên cơ sở giải quyết hài hoà mối quan hệ vì lợi ích chung của Tổng công ty là tăng cường khả năng tích luỹ từ chính nội bộ Tổng công ty có sự tham gia của người lao động. Chính nguồn quỹ phúc lợi, khen thưởng sẽ được huy động tập trung cho sản xuất khi có chế độ thoả đáng về lợi ích cho người lao động. Đây cũng chính là một biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện cơ chế huy động vốn. Thứ ba là: Tăng nhanh khả năng huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển. Do tích luỹ vốn từ nội bộ Tổng công ty hàng không ở mức thấp và chưa dáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển. Nhà nước tuy không đầu tư trực tiếp nhưng bằng cơ chế quản lý tài chính Nhà nước đảm bảo rằng Nhà nước nắm giữ tỷ lệ cổ phần khống chế trong Tổng công ty hàng không và thông qua các chính sách về gíá, chính sách thuế… Nhà nước bảo hộ đầu tư cho Tổng công ty, đã đảm bao các nhà đầu tư khi tham gia vào quá trình tài trợ vốn cho Tổng công ty hàng không; đây chính là môi trường kinh doanh thuận lợi hấp dẫn các nhà đầu tư tài trợ cho những dự án cần huy động vốn của Tổng công ty. Nâng cao hiệu quả thực hiện cơ chế huy động vốn là khai thác tốt lợi thế kinh doanh mà Nhà nước đã tạo ra nhằm tranh thu nguồn vốn, công nghệ từ bên ngoài với những ưu đãi đặc biệt, chi phí thấp nhất, đem lại hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên huy động vốn bền ngoài cần đầu tư chủ yếu vào nhu cầu đổi mới đội bay, đào tạo phi công, mua sắm trang thiết bị đồng bộ, đổi mới công nghệ phải được xác định là chiến lược trong cơ chế huy động vốn của Tổng công ty hàng không trong giai đoạn hiện nay. Thứ năm là: Sử dụng linh hoạt các phương thức huy động vốn như tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng thuê mua… từ thị trường vốn trong cũng như ngoài nước; đa dạng hóa các hình thức huy động vốn như phát hành các loại trái phiếu, cổ phiếu, liên doanh liên kết… Tổ chức tốt việc huy động vốn chính là sự thu hút vốn bằng nhiều cách thức từ các thành phần kinh tế, các chủ thể khác nhau, các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế như vay mượn, tự nguyện đóng góp, để hình thành các quỹ tiền tệ nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh. Thứ sáu là: Cơ chế huy động vốn của Tổng công ty trên cơ sở đáp ứng lợi ích chung của Tổng công ty và lợi ích của các đơn vị thành viên, đồng thời phải gắn liền với lợi ích Nhà nước. Tổng công ty huy động vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, cho chiến lược phát triển, nhưng mặt khác phải gắn chặt với chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Khi huy động vốn, Tổng công ty không phải chỉ vì quyền lợi của mình mà không tính đến lợi ích quốc gia, lợi ích của toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt huy động vốn để đầu tư dài hạn cho các dự án lớn bằng nguồn vốn từ nước ngoài. Trong thực tế nếu chỉ tính đến hiệu quả bằng việc xác định lãi suất trong quá trình hoàn trả vốn thì các tổ chức tín dụng nước ngoài cho vay vốn luôn thấp hơn các tổ chức tín dụng trong nước nhưng xét dưới góc độ chung của nền kinh tế thì chưa hẳn là như vậy, tổng thể nền kinh tế phải mất lượng ngoại tệ để trả cho nước ngoài tương đương với việc Nhà nước mất một nguồn thu ngân sách. Nhưng đó mới chỉ là phép so sánh giản đơn, để cơ chế huy động vốn của Tổng công ty đr chiều sâu bám chặt vào thực tiễn phục vụ cho sản xuất kinh doanh, cho chiến lược phát triển, trước hết Nhà nước cần tạo mọi điều kiện cho doanhnghiệp hoạt động trên cơ sở nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, làm thước đo chính cho quá trình phát triển. Nhà nước bằng nhiều hình thức khác nhau tác động tích cực đến quá trình hội nhập hoạt động huy động vốn của các Tổng công ty Nhà nước trên thị trường vốn quốc tế đặc biệt là khai thông quan hệ trực tiếp với các đối tác cung ứng vốn trên thị trường thế giới, cho phéo Tổng công ty Nhà nước thực hiện đa dạng các hình thức huy động vốn, linh hoạt các hình thức hoàn trả bằng cách giảm thuế, tăng mức trích khấu hao cơ bản, giảm thuế thu nhập… có như vậy hiệu quả của cơ chế huy động vốn của Tổng công ty mới phát huy tác dụng tích cực trong việc khai thác tối đa nguồn lực trong và ngoài Tổng công ty cho sự nghiệp phát triển bền vững. 3.2.3.3. Sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn huy động: Cơ chế huy động vốn với mục tiêu cao nhất là huy động tối đa nguồn lực trong và ngoài để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn huy động là tiền đề để thực hiện thành công cơ chế huy động vốn, cơ chế huy động vốn có thực hiện hay không là phụ thuộc vào việc sử dụng các nguồn vốn huy động vào phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn huy động thực chất là giảm chi phí tới mức thấp nhất các loại chi phí vốn như giảm chi phí lãi vay, chi phí bảo lãnh thế chấp, các chi phí káhc liên quan đến quá trình đàm phán huy động vốn… đồng thời tổ chức tốt việc lựa chọn đối tác cung ứng vốn đảm bảo chi phí vốn thấp nhất. Hiệu quả sử dụng nguồn vốn huy động thực chất là khả năng mang lại lợi ích to lớn từ các dự án huy động vốn, đối với Tổng công ty hàng không điều đó lại càng quan trọng. Trong những năm vừa qua Tổng công ty đã có những bước đột phá trong việc khai thông tìm nguồn vốn từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu đầu tư xây dựng đội bay, từ chỗ đội bầym hầu hết các máy bay sản xuất ở Liên Xô cũ đến nay đã hình thành được đội bay với độ tuổi trung bình trẻ, hiện đại nhất khu vực, chính là sự tính toán kỹ lượng hiệu quả của từng dự án huy động vốn, lấy hiệu quả kinh doanh làm thước đo cho việc nâng cao hiệu quả nguồn vốn huy động. Tuy nhiên, nâng cao hiệu quả nguồn vốn huy động trước tiên phải định hướng chiến lược phát triển lâu dài, xác định mục tiêu chiến lược cho sự phát triển bền vững là yếu tố đảm bảo cho quá trình huy động và sử dụng có hiệu quản nguồn vốn huy động. Đối với những dự án huy động vốn trong nội bộ Tổng công ty phải tính toán kỹ lưỡng trên cơ sở cân đối chung nguồn lực có tính đến yếu tố phát triển của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty, những dự án huy động vốn ngắn hạn chủ yếu dựa vào nội lực đó chính là cơ sở để giảm chi phí vay vốn thấp nhất. Đối với những dự án huy động vốn dài hạn chủ yếu tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển đội bay trên cơ sở tính toán hiệu quả từng đường bay để có cơ sở chính xác trong việc huy động vốn, tuyệt đối không được sử dụng vốn huy động sai mục đích, sai đối tượng, giảm thiểu khả năng vay vốn ngắn hạn, tiến tới tự đầu tư, tự phát triển đó là hướng đi đúng đắn và bền vững nhất trong chiến lược phát triển Tổng công ty hàng không. 3.2.3.4. Nâng cao hiệu quả tổ chức bộ máy quản lý huy động vốn: Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý huy động vốn là một rong những giải pháp quan trọng trong việc hoàn thiện cơ chế huy động vốn của Tổng công ty Hàng không Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ tổ chức hệ thống kiểm tra, đánh giá, quy trình quản lý huy động vốn và việc phân cấp quản lý vốn huy động. Tổng công ty hàng không cần kiện toàn và tổ chức lại bộ máy quản lý huy động vốn cho phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng nhu cầu trong tương lai. Tổ chức bộ máy quản lý và điều hành huy động vốn xuất phát từ thực tế tổ chức bộ máy quản lý phù hợp với mục tiêu chiến lược chung của Tổng công ty, bộ máy quản lý đòi hỏi phải gọn nhẹ, tinh thông nghiệp vụ, thống nhất chỉ huy và điều hành từ trên xuống đến cơ sở, đồng thời nên có cán bộ chuyên trách theo dõi, kiểm tra giám sát tình hình thực hiện huy động vốn với kinh nghiệm và bản lĩnh trong việc tổ chức đàm phán ký kết hợp đồng huy động vốn. Mỗi một dự án đầu tư cần huy động vốn phải tổ chức các tổ chuyên sâu phân tích, đánh giá khoa học tính thực thi của dự án trên cơ sở đó tham mưu cho cấp trên những luận cứ khoa học chính xác nhằm đưa ra những quyết dịnh đứng đắn, tránh những rủi ro trong kinh doanh. 3.3. Kiến nghị. 3.3.1. Đối với Nhà nước: Nhà nước cần xây dựng được hành lang pháp lý tạo điều kiện đảm bảo cho các doanh nghiệp cạnh tranh công bằng, bình đẳng, thực sự tạo quyền tự chủ hoạt động cho doanh nghiệp trong các hoạt động tài chính nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Các doanh nghiệp Nhà nước trước đây thường được giao nhiệm vụ với những mục tiêu khác nhau, đôi khi những mục tiêu ấy mâu thuẫn với nhau và mâu thuận với lợi ích của doanh nghiệp. Chẳng hạn như mục tiêu thương mại của doanh nghiệp Nhà nước thể hiện ở kết quả kinh doanh nhằm đạt được lợi nhuận tối đa, đồng thời doanh nghiệp cũng phải thực hiện các mục tiêu phi thương mại như bảo đảm việc làm cho người lao động, thực hiện các nghã vụ xã hội. Việc giao cho doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu khác trong cùng một hoạt động dẫn tới tăng chi phí sản xuất, tăng chi phí hạch toán, làm giảm mức cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước cũng như làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Với phương châm không trong chờ ỉ lại vào Nhà nước tự cân đối, tự phát triển. Tuy nhiên, việc hạn chế tỷ lệ vốn chủ sở hữu trong tổng vốn đã hạn chế rất nhiều đến khả năng huy động vốn cho sản xuất kinh doanh của Tổng công ty hàng không. Để giúp Tổng công ty, Chính phủ cần phải làm những việc sau: Chính phủ áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng…) hơn nữa cho ngành hàng không do hàng không là lĩnh vực kinh doanh đặc thù để Tổng công ty có thể nâng cao khả năng tích luỹ vốn. Cho phép Tổng công ty thực hiện chính sách khấu hao hợp lý phù hợp với thông lệ quốc tế về máy bay và các tài sản chung dùng cho máy bay. Do tài sản cố định của Tổng công ty phần lớn là máy bay và các phượng tiện kỹ thuật thuộc vào loại hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, hao mòn vô hình cao, do đó cần được trích khấu hao nhanh để thu hút vốn đầu tư. Vì vậy Nhà nước cần nhanh chóng đưa ra những phương pháp khấu hao để có thể lựa chọn phương pháp phù hợp với mô hình đặc thù của ngành hàng không. Bên cạnh đó Chính phủ cũng cần tạo điều kiện thuận lợi để Tổng công ty có thể tiếp cận với các nguồn vốn ưu đãi trong và ngoài nước: Ưu tiên ngành hàng không trong việc thiết lập mối quan hệ với các tổ chức tín dụng xuất khẩu trong cũng như ngoài nước. Tích cực tranh thủ các nguồn vốn ODA và tạo điều kiện giải ngân các nguồn vốn này cho ngành hàng không, bổ sung thêm vốn cho ngành hàng không trong quá trình sản xuất và phát triển. Ưu tiên tạo điều kiện cho Tổng công ty hàng không tham gia vào nhiều thị trường đặc biệt là thị trường tài chính. Xây dựng quy chế bảo lãnh đặc biệt cho ngành hàng không. Ban hành luật thế chấp tài sản theo tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng một quy chế đầu tư và đấu thầu riêng cho ngành hàng không. 3.3.2. Đối với các ngành có liên quan: Đối với ngành ngân hàng: Đa dạng hoá các loại hình tín dụng, chú trọng tới các hình thức tín dụng với khối lượng lớn, thời hạn dài, áp dụng các hình thức ưu đãi nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Tổng công ty Hàng không tiệp cận với nguồn vốn của các ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng thương mại trong nước. Trong trường hợp khối lượng vốn lớn để đáp ứng nhu cầu tài trợ quá lớn, vượt quá khả năng của một ngân hàng thì cần phải xem xét khả năng hợp tác giữa nhiều ngân hàng. Tăng cường hợp tác với các Hãng hàng không trong lĩnh vực đào tạo các chuyên gia tài chính hàng không. Tích cực tìm hiều, nghiên cứu về hoạt động kinh doanh vận tải hàng không để có một sự đánh giá chính xác tầm quan trọng của hệ thống ngân hàng trong tài trợ hàng không. Đối với hệ thống giáo dục: Tăng cường đạo tạo về tài trợ quốc tế và thương mại quốc tế, đảm bảo chất lượng đào tạo ở mức có thể tiếp cận với các loại hình tài trợ đặc trưng của ngành hàng không. Tăng cường đào tạo về luật pháp quốc tế, nhất là các bộ phận liên quan tới tài trợ và huy động vốn quốc tế. 3.3.3. Đối với Tổng công ty Hàng không Việt Nam: Đầu tư thích đáng cho việc đào tạo cán bộ có khả năng tiếp cận thâm nhập thị trường vốn quốc tế. Hiện nay, Tổng công ty phải sử dụng nhiều dịch vụ tư vấn và hỗ trợ nước ngoài. Nếu có thể chủ động được về cán bộ thì sẽ tiết kiệm được chi phí và nâng cao chất lượng huy động. Xây dựng hệ thống thông tin đảm bảo liên tục cập nhật, bổ sung các thông tin, kiến thức mới về tài trợ hàng không, về tình hình thị trường tài chính nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động huy động vốn của Tổng công ty. Từng bước hoàn thiện cơ chế huy động vốn. Tổng công ty có thể thành lập các công ty tài chính, công ty thuê mua máy bay và các công ty bảo hiểm hàng không. Tích cực chuẩn bị các điều kiện để tham gia thị trường chứng khoán trong và ngoài nước. Tổng công ty cũng nên thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập cho phù hợp với xu thế phát triển chung. KẾT LUẬN Trong quá trình hội nhập và phát triển, Nhà nước đã không ngừng tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành viên trong nền kinh tế tham gia vào quá trình huy động vốn, liên kết vốn, nhằm tận dụng mọi cơ hội kinh doanh. Thông qua hệ thống pháp luật, Nhà nước đã tạo hành lang pháp lý làm cơ sở cho mọi thành viên tham gia vào quá trình huy động mọi nguồn lực trong xã hội phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh doanh của mỗi một doanh nghiệp trên cơ sở tôn trọng luật pháp và chính sách của Nhà nước. Với sự kết hợp hài hoà lợi ích của Nhà nước, lợi ích của các doanh nghiệp và lợi ích của người lao động là tiền đề thuận lợi tạo cho các doanh nghiệp khả năng tham gia quá trình huy động mọi nguồn lực phục vụ cho mục tiêu phát triển. Tuy nhiên thực tiễn sản xuất kinh doanh luôn đòi hỏi sự hoàn thiện hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế để phù hợp với xu thể phát triển. Sự đổ vỡ của nhiều công ty Nhà nước đã cho chúng ta bài học về sự buông lỏng quản lý hoạt động huy động vốn của Nhà nước, sự coi thường luật pháp của các công ty trong hoạt động huy động vốn dẫn đễn hậu quả khôn lường và đặt ra cho các nhà quản lý những kinh nghiệm xương máu trong quản lý và điều hành các hoạt động huy động vốn tại các doanh nghiệp. Tổng công ty Hàng không Việt Nam cũng là một doanh nghiệp Nhà nước do đó giải pháp hoàn thiện cơ chế huy động vốn tại Tổng công ty Hàng không là một vấn đề cấp thiết đòi hỏi cần phải đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện khoa học để tránh mắc phải những thiếu sót, sai lầm. Chuyên đề đã hệ thống lý luận về cơ chế huy động vốn của các Tổng công ty Nhà nước nói chung trên cơ sở đánh giá thực trạng cơ chế huy động vốn của Tổng công ty Hàng không Việt Nam nói riêng, tìm ra những mặt mạnh mặt yếu giúp ta có cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc, khoa học hơn về thực tiễn quá trình huy động vốn, liên kết vốn từ mọi thành viên trong xã hội phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế huy động vốn đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh, điều chỉnh những vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh hướng tới mục tiêu chiến lược là phát triển bền vững Tổng công ty Hàng không Việt Nam trong xu thế hội nhập khu vực và Quốc tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách: Giáo trình Tài chính doanh nghiệp - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Giáo trình quản trị tài chính doanh nghiệp – PTS. Vũ Duy Hào, Đàm Văn Nhuệ, Ths. Nguyễn Đăng Ninh. Giáo trình Ngân hàng thương mại - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Tạp chí: Kinh tế và phát triển : 128/2001, 130/2001. Tài chính : 4/2000, 5/2001, 5/2002, 3/2006 Ngân hàng : 1+2/2003. Kế toán : 31/2001. Thị trường Tài chính - Tiền tệ : 16/8/2005. Hàng không. : 5/2001. Tài chính doanh nghiệp : 5+6+7+9+10/2004. Các văn bản pháp luật hiện hành: Luật Doanh nghiệp Nhà nước ngày 26-11-2003 của Quốc hội. Luật Doanh nghiệp ngày 29-11-2005 của Quốc hội. Nghị định số 199/2004/NĐ-CP. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các trang web: www.galileo.com.vn www.mofa.gov.vn www.vneconomy.com.vn … Các tài liệu khác: Tài liệu tổ chức Hàng không Châu Á- Thái Bình Dương. Lịch sử hàng không dân dụng Việt Nam 50 năm chặng đường phát triển. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36453.doc
Tài liệu liên quan