LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Bùi Vinh Quang
Sinh viên lớp: Kế Hoạch-46A
Mã số sinh viên: CQ462213
Trường đại học Kinh tế Quốc dân.
Tôi xin cam đoan rằng bài thực tập tốt nghiệp này là một công trình khoa học do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn tận tình của Thầy giáo- Th.s Bùi Đức Tuân. Trong thời gian thực tập tại Sở Kế hoạch & Đầu tư, nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú, anh chị ở đây tôi đã thu thập số liệu và các tài liệu cần thiết để hoàn thành luận văn này. Nội dung của bài thực tập t
92 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1515 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa ( Doanh nghiệp vừa và nhỏ) trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốt nghiệp này hoàn toàn chân thực nó phản ánh đúng sự cố gắng của tôi và sự hướng dẫn tận tình của Thầy giáo hướng dẫn, không sao chép trùng lặp với những luận văn khác. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những lời cam đoan của mình.
Sinh viên
Bùi Vinh Quang
Mục lục
Lời nói đầu
Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới chuyển đổi nền kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tạo ra những cơ sở pháp lý trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường với sự tham gia của thành phần kinh tế tư nhân đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã phát triển nhanh chóng.
Thực tế trong hơn 20 năm đổi mới và phát triển, doanh nghiệp nhỏ và vừa đã trở thành một bộ phận quan trọng, có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước.
Cùng với cả nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ có bước phát triển nhanh chóng cả về số lượng, đặc biệt kể từ khi có luật doanh nghiệp (năm 2000) và nghị định 90 của chính phủ nhằm khuyến kích và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đã làm nên sự khác biệt từ chỗ doanh nghiệp chỉ thành lập và hoạt động kinh doanh đối những ngành nghề, lĩnh vực nhà nước chỉ định, cho phép sang hoạt động trên tất cả các lĩnh vực mà nhà nước không cấm, từ đó đã giải phóng tư duy và sức sáng tạo về ý tưởng kinh doanh và phương thức tổ chức kinh doanh, số lượng doanh nghiệp và quy mô vốn đầu tư trực tiếp phát triển kinh doanh đã tiếp tục tăng nhanh, tạo thêm được hàng vạn chỗ làm và ổn định xã hội, bước đầu khẳng định vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế nhiều thành phần, đóng góp nhiều hơn vào quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Tuy nhiên, doanh nghiệp nhỏ và vừa còn phát triển chưa đồng bộ, còn nhỏ lẻ, làm ăn manh mún, công nghệ còn lặc hậu. Các doanh nghiệp phát triển chưa đồng bộ cả về vùng lãnh thổ, ngành nghề kinh doanh; đóng góp vào ngân sách nhà nước còn chiếm tỷ trọng thấp, phát triển chưa đồng đều giữa các vùng, mới tập trung vào các khu vực đô thị, các khu, các cụm công nghiệp. Ỏ nông thôn, các huyện miền núi số doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 30%. Đầu tư các ngành sản xuất đạt thấp( Chiếm khoảng 25%), chủ yếu hoạt động thương mại- du lịch và xây dựng. Hầu hết các doanh nghiệp chưa có thương hiệu, sản xuất kinh doanh có hiệu quả thấp(35%), thu nhập của người lao động và việc làm chưa ổn định. Kiến thức quản lý kinh tế của các chủ doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể, các chủ trang trại chưa đồng đều, chưa gắn được sản xuất kinh doanh với thị trường, khả năng nắm bắt thông tin thị trường còn nhiều hạn chế, chưa đủ mạnh để cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường.
Về công tác quản lý Nhà nước cũng bộc lộ không ít những khó khăn vướng mắc nảy sinh, thiếu sự phối hợp giữa các cấp, các ngành đối với các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể sau đăng ký kinh doanh, làm cho quản lý Nhà nước bị buông lỏng, từ đó dẫn tới sự phối hợp kém nhiệt tình, sự trì trệ trong quản lý, hỗ trợ doanh nghiệp
Đặc biệt năm 2006 Việt Nam gia nhập WTO ngoài những thuận lợi do mở cử thị trường đem lại thì doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp nhiều khó khăn như phải đối mặt với những đối thủ lớn từ bên ngoài, Sức ép cạnh tranh từ bên ngoài là rất lớn, các doanh nghiệp phải chịu sức ép về giá cả, thương hiệu, mẫu mã…
Chính vì vậy để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể hội nhập kinh tế quốc tế tốt, có thể cạnh tranh được với các đối thủ bên ngoài, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường; phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động thì chúng ta phải có một định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa để từ đó chúng ta có được một số biện pháp chính sách để phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chính vì lý do đó tôi đã chọn đề tài “Hoàn thiện cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ”.
Nội dung đề tài gồm có:
Chương I: Doanh nghiệp nhỏ và vừa – sự cần thiết có chính sách, cơ chế hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chương II: Đánh giá tình hình phát triển và công tác quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.
Chương III: Các định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh.
Tôi xin trân thành cảm ơn Th.S Bùi Đức Tuân, cùng các cô chú, anh chị trong Sở Kế hoạch & Đầu tư Phú Thọ đã tạo điều kiện và nhiệt tình hướng dẫn tôi hoàn thành bài viết này.
Do khả năng còn có hạn nên bài viết vẫn còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong sự góp ý và bổ sung của thầy cô và bạn đọc để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn.
Chương I: Doanh nghiệp nhỏ và vừa và sự cần thiết có chính sách, cơ chế hỗ trợ phát triển DNNVV.
1. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển kinh tế
1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Trước hết chúng ta phải hiểu doanh nghiệp là gì? Theo định nghĩa tại Luật Doanh Nghiệp 2005, “Doanh nghiệp” là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Hiện nay, khái niệm doanh nghiệp thường được dùng để chỉ các loại hình: Công ty trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, Công ty hợp doanh thưộc các thành phần kinh tế.
Như vậy, Doanh nghiệp nhỏ và vừa là một bộ phận của doanh nghiệp, là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể chia thành ba loại cũng căn cứ vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ (micro), doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động. Ở mỗi nước, người ta có tiêu chí riêng để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa của nước mình. Việc đưa ra khái niệm “doanh nghiệp nhỏ và vừa” phụ thục vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của mỗi nước và các chính sách của Chính Phủ. Các tiêu chí đưa ra để xác định doanh nghiệp có khác nhau và thường thay đổi theo thời gian. Vì vậy việc đưa ra tiêu chí xác định về doanh nghiệp nhỏ và vừa để Chính Phủ thực hiện thành công các chính sách hỗ trợ, quản lý đối với loại hình doanh nghiệp này, phát huy thế mạnh và giảm thiểu các hạn chế của nó là một việc làm được Chính Phủ các nước đặc biệt quan tâm.
Tiêu chí phổ biến thường được các nước sử dụng để xác định DNNVV là tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng.
Tiêu chí định tính: Tiêu chí này dựa trên những đặc trưng cơ bản của các DNNVV như mức độ chuyên môn hóa thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý còn ở thấp…
Tiêu chí định lượng: Đây là tiêu chí quan trọng nhằm lượng hóa các tiêu thức định tính nói trên. Tuy nhiên ở mỗi nước tùy vào hoàn cảnh, tính chất làng nghề, trình độ sản xuất, đường lối chính sách và chiến lược phát triển đất nước của nước đó mà có các tiêu thức định tính riêng.
Bảng 1: Tiêu thức phân loại DNNVV của một số nước APEC
Tên nước
Tiêu chí phân loại
Australia
Số lao động
Canada
Số lao động, doanh thu
Indonesia
Số lao động, tổng giá trị tài sản, doanh thu
Nhật Bản
Số lao động, vốn đầu tư
Malaysia
Doanh thu, tỷ lệ góp vốn
Mexico
Số lao động
Mỹ
Số lao động
Phillippines
Số lao động, tổng giá trị tài sản, doanh thu
Đài loan
Vốn đầu tư, tổng giá trị tài sản, doanh thu
Singapore
Số lao động, tổng giá trị tài sản
Nguồn: Cục Doanh nghiệp nhỏ và vừa- Bộ Kế hoạch & Đầu tư.
Bảng 2: Tiêu chí định lượng DNNVV ở một số nước
Nước
Loại hình DN
Số lao động
(người)
Tổng số vốn
Hoặc GTTS
Doanh số năm
CHLB Đức
DNNVV
<500
<100 triệu DM
Trong đó DN nhỏ
<= 9
<1 triệu DM
Australia
DNNVV
<500
Canada
DNNVV
<20 triệuUSD
Nhật Bản
DNNVV trong công nghiệp
<300
<300 triệu yên
DNNVV trong bán buôn
<100
<100 triệu yên
DNNVV trong bán lẻ
<50
<50 triệu yên
Hàn Quốc
DNNVV trong công nghiệp
<100
DNNVV trong dịch vụ
<20
Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư.
Ở Việt Nam, không phân biệt lĩnh vực kinh doanh, các doanh nghiệp có số vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng hoặc số lượng lao động trung bình hàng năm dưới 300 người được coi là doanh nghiệp nhỏ và vừa (không có tiêu chí xác định cụ thể đâu là doanh nghiệp siêu nhỏ, đâu là nhỏ, và đâu là vừa).
Như vậy, định nghĩa hiện tại về DNNVV không thể hiện thực sự phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp khác nhau khi đề cập đến một cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc khu vực DNNVV. Nói cách khác, một cơ sở sản xuất kinh doanh được coi là một doanh nghiệp dù cơ sở đó như một hộ kinh doanh cá thể hay đăng ký theo Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp và Luật Doanh nghiệp Nhà nước. Tất cả các thực thể kinh doanh này được coi là một “doanh nghiệp”. Điều này cũng phù hợp với định nghĩa quốc tế về Doanh nghiệp nhỏ và vừa.
DNNVV như được định nghĩa ở trên không phải là một khối doanh nghiệp thuần nhất. Các doanh nghiệp này khá khác biệt về số lượng lao động cũng như khả năng tài chính, công nghệ và quản lý. Các DNNVV Việt Nam sử dụng cách phân loại doanh nghiệp dựa trên số lượng nhân công như sau:
Doanh nghiệp siêu nhỏ
< 10 lao động
Doanh nghiệp nhỏ
10-49 lao động
Doanh nghiệp vừa
50-299 lao động
Doanh nghiệp lớn
>300 lao động
1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta hiện nay.
1.2.1 Ưu thế:
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhưng ưu thế chủ yếu sau:
Nhạy cảm, thích ứng nhanh với sự biến động của thị trường.
Thông thường, các doanh nghiệp nhỏ và vừa năng động và linh hoạt hơn so với các doanh nghiệp lớn trong sản xuất kinh doanh. Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng đổi mới trang thiết bị kỹ thuật nhanh hơn, có khả năng thích ứng nhanh hơn với nhu cầu của thị trường. Khi thị trường biến động thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng dễ dàng thay đổi mặt hàng hoặc chuyển hướng kinh doanh.
- Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường sử dụng các loại máy móc công nghệ trung bình, đòi hỏi sử dụng nhiều lao động, đặc biệt trong lĩnh vực dệt, giầy da… Tuy nhiên, doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô nhỏ nhưng vẫn có điều kiện sử dụng các máy móc trang thiết bị hiện đại, năng suất cao đảm bảo chất lượng sản phẩm
- Doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập dễ dàng vì vốn đầu tư ít: Do đó chúng tạo ra cơ hội đầu tư đối với nhiều người, tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân trong nước dù ở điều kiện văn hóa giáo dục khác nhau đều có thể tìm kiếm được cơ hội lập nghiệp. Chính vì thế mà ở các nước phát triển, số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng rất nhanh và chiếm tỷ lệ tuyệt đối trong tổng số các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
- Sau khi thành lập, Doanh nghiệp nhỏ và vừa sớm đi vào hoạt động và có khả năng thu hồi vốn nhanh. Ở các nước phát triển( Mỹ, Anh, Singgapo) cho thấy các doanh nghiệp nhỏ và vừa hàng năm có khấu hao đến 50% giá trị tài sản cố định và thời gian hoàn vốn không quá 2 năm. Ở các nước đang phát triển, việc thu hồi vốn cũng tương đối nhanh, tùy thuộc vào khả năng điều hành của chủ doanh nghiệp và đặc điểm từng lĩnh vực kinh doanh cũng như chính sách khấu hao tài sản cố định của Nhà nước…
- Doanh nghiệp nhỏ và vừa có diện tích nhỏ, đòi hỏi về cơ sở hạ tầng không quá cao. Vì thế nó có thể được đặt nhiều ở nhiều nơi trong nước, từ thành thị cho tới nông thôn, miền núi và hải đảo… Đó chính là đặc điểm quan trọng nhất của doanh nghiệp nhỏ và vừa để có thể giảm bớt luồng chảy lao động tập trung vào các thành phố, để tiến hành công nghiệp hóa nông thôn.
- Doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ dàng thu hút lao động với chi phí thấp do đó tăng hiệu suất sử dụng vốn. Đồng thời do tính chất dễ dàng thu hút lao động nên các doanh nghiệp nhỏ và vừa góp phần đáng kể tạo công ăn việc làm, giảm bớt thấp nghiệp cho xã hội.
Ngoài ra, các DNNVV còn có ưu thế ở chỗ quan hệ giữa người sử dụng và người lao động gần gũi, than thiện hơn so với các doanh nghiệp lớn. Sự trì trệ, thua lỗ, phá sản của các DNNVV có ảnh hưởng rất ít hoặc không gây nên khủng hoảng kinh tế- xã hội, đồng thời các DNNVV ít bị ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng kinh tế.
1.2.2 Hạn chế:
Doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô nhỏ nên có các hạn chế sau:
Chủ doanh nghiệp thường thiếu kiến thức, kinh nghiệm kinh doanh và rất bỡ ngỡ trước thị trường, nhất là thị trường ngoài nước, khả năng tiếp thị yếu kém, có quy mô nhỏ bé phân tán, vì lẽ đó năng suất lao động thường thấp hơn các doanh nghiệp có quy mô lớn và so với các doanh nghiêpj nhỏ và vừa của thế giới và khu vực, sự hình thành và ra đời phần lớn theo tính tự phát, khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế hạn chế, khả năng tích tụ không đáng kể. Do không đủ sức cạnh tranh, khả năng điều hành, kinh nghiệm và trình độ kinh doanh của chủ doanh nghiệp yếu kém, nhiều doanh nghiệp mới thành lập nhưng không tìm kiếm được thị trường hoặc phương hướng trong sản xuất kinh doanh nên đã rơi vào tình trạng phá sản hoặc tuyên bố chấm dứt hoạt động.
Trình độ phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa thấp cả về công nghệ, kỹ năng lao động và quản lý, chưa đủ trình độ vươn ra các địa bàn khác cả trong nước và ngoài. Các doanh nghiệp này thường đầu tư manh mún lại rất dàn trải, tình trạng phổ biến là một doanh nghiệp kinh doanh nhiều ngành nghề, dẫn đến không chuyên sâu một ngành nghề nào, ít có nhiều ngành nghề, dẫn đến không chuyên sâu một ngành nghề nào, ít có sản phẩm truyền thống, gây được ấn tượng mạnh trên thị trường. Trình độ chuyên môn hóa sản xuất chưa cao, thể hiện rõ nhất là loại hình một chủ chiếm ưu thế. Sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa với nhau và với các doanh nghiệp lớn khác còn hạn chế.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa phân bố không đều, chủ yếu tập trung vào những vùng mà cơ sở hạ tầng thuận lợi, dân cư đông đúc, thành phố, thị xã, các khu công nghiệp. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường quan tâm đến lợi ích cá nhân, lợi ích trước mắt, ít chú ý đến lợi ích cộng đồng, thường tập trung kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ- thương mại, xây dựng, đầu tư vào sản xuất chỉ có 20-25% đầu tư vào sản xuất, ngoài lý do sản xuất kinh doanh tự phát, còn thiếu sự hỗ trợ định hướng của Nhà nước nên nhiều doanh nghiệp tuy có khả năng vốn, chất xám… nhưng chưa biết sản xuất cái gì, tiêu thụ sản phẩm ở đâu nên không dám đầu tư.
Doanh nghiệp thường khó có khả năng tìm kiếm được các nguồn vốn ngân hàng vì bản thân nó thiếu tài sản thế chấp, khó xây dựng được các phương án kinh doanh…
Kiến thức pháp luật của phần lớn các chủ doanh nghiệp còn hạn chế, dẫn tới tình trạng có nhiều doanh nghiệp vi phạm pháp luật trong kinh doanh, chấp hành nghĩa vụ với Nhà nước chưa nghiêm, hiện tượng trốn thuế khá phổ biến và có xu hướng gia tăng. Các thủ đoạn trốn thuế dưới nhiều hình thức như: Không đăng ký kinh doanh, không đăng ký và kê khai nộp thuế, hoặc xin nghỉ kinh doanh nhưng vẫn hoạt động, khai giảm doanh số, để ngoài sổ sách nhiều khoản thu, lập hệ thống sổ sách, chứng từ giả; Khai tăng chi phí và giảm giá bán, thông đồng với các cơ quan có liên quan ( thuế, hải quan) để chậm nộp thuế, kéo dài thời gian để nộp thuế để chiếm dụng tiền thuế. Tình trạng làm hàng giả, nhái kiểu dáng nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, vi phạm bản quyền, vi phạm chế độ sử dụng lao động, kinh doanh không đúng nội dung đăng ký diễn ra khá phổ biến. Tình trạng kinh doanh “Chộp giật”, lừa đảo, kinh doanh hàng cấm, cho thuê, cho mượn giấy chứng nhận ĐKKD ở các doanh nghiệp này vần thường xảy ra, làm mất lòng tin trong cộng đồng doanh nghiệp và xã hội.
2. Sự cần thiết phải phát triển và quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
2.1. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển kinh tế.
DNNVV có vị trí vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước, kể cả các nước có trình độ phát triển cao. Trong bối cảnh toàn cầu hóa gay gắt như hiện nay, các nước đều chú ý hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm huy động tối đa các nguồn lực và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm. Về mặt lý luận và thực tiễn đều cho thấy vị trí, vai trò của DNNVV đã được khẳng định. Về số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm ưu thế tuyệt đối: khoảng 98% ở Nhật, Đức… Ở Việt Nam, Doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng chiếm tới khoảng 95% trong tổng số các doanh nghiệp. Hơn nữa, nó lại liên kết trong các ngành nghề, lĩnh vực và tồn tại như một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế mỗi nước, là một bộ phận gắn bó chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, có tác dụng hỗ trợ, bổ trợ, bổ sung, thúc đẩy các doanh nghiệp lớn phát triển.
Mặc dù còn có các quy định khác về doanh nghiệp về DNNVV nhưng sự phát triển của DNNVV ở nhiều nước trên thế giới đã khiến cho các nhà kinh tế và Chính phủ các nước nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của DNNVV trong nền kinh tế. Hiện nay ở hầu hết các nước, DNNVV đóng vai trò quan trọng chi phối rất lớn đến phát triển kinh tế xã hội, thể hiện trên một số mặt sau:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) có vai trò lớn trong sự tăng trưởng kinh tế của rất nhiều quốc gia, kể cả các nước phát triển và đang phát triển. Trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang đóng vai trò quan trọng về nhiều mặt: Đảm bảo nền tảng ổn định và bền vững của nền kinh tế; huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển; đáp ứng một cách linh hoạt nhu cầu của các ngành kinh tế quốc dân; cải thiện thu nhập và giải quyết việc làm cho một bộ phận đông đảo dân cư; góp phần xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì giá trị gia tăng hoặc GDP do các doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo ra hàng năm chiếm tỷ trọng khá lớn, đảm bảo thực hiện những chỉ tiêu cơ bản của nền kinh tế.
Bảng 3: Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế quốc dân ở một số nước
Đơn vị tính: %
Số TT
Tên nước
DNNVV trong tổng
số doanh nghiệp
GT Sản lượng của
DNNVV trong tổng
GTSL nền kinh tế
Lao động trong DNNVV
trong LĐ
1
Đức
97,6
45,5
75
2
Pháp
98,2
52
73,5
3
Mỹ
98
50
78
4
Thái Lan
80
52
80
5
Hàn Quốc
93,2
52
71
6
Đài Loan
98
50,2
77,8
7
Việt Nam
96
51,3
89,7
Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư
Sự phát triển nhanh chóng của Doanh nghiệp nhỏ và vừa đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng có nghĩa là phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn, xóa dần tình trạng thuần nông và độc canh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Hơn nữa, sự phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ làm:
- Cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi, các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên nhanh chóng, các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp và củng cố lại, kinh doanh có hiệu quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
- Cơ cấu ngành: phát triển nhiều ngành nghề đa dạng, phong phú (cả ngành nghề hiện đại và truyền thống) theo hướng lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm thước đo.
- Cơ cấu lãnh thổ: Các doanh nghiệp được phân bố đều hơn về lãnh thổ (cả nông thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng). Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn. Đây là vấn đề cần lưu tâm trong việc hoạch định chính sách.
Sự ra đời của các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã làm cho nền kinh tế năng động hiệu quả hơn, số doanh nghiệp tăng lên rất nhanh, về mặt số lượng doanh nghiệp. Phú Thọ có hơn 2213 doanh nghiệp nhỏ và vừa( có khoảng 1700 doanh nghiệp thành lập mới giai đoạn từ 2000-2006). Việc ra đời số lượng lớn doanh nghiệp đã huy động, khai thác mạnh mẽ các nguồn lực xã hội còn tiềm ẩn, lượng vốn lớn được huy động vào sản xuất kinh doanh thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, sản xuất khối lượng sản phẩm lớn, đa dạng, phong phú đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội (Tỷ trọng đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tổng vốn đầu tư xã hội của cả nước năm 2004 ước đạt 32-37%, Phú Thọ đạt khoảng 27-30%). Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã cung cấp cho xã hội khối lượng hàng hóa đáng kể, đáp ứng tốt các nhu cầu nhỏ bé của thị trường. Năm 2006, DNNVV ở nước ta tạo ra hơn 45% giá trị sản lượng công nghiệp và chiếm 73% giá trị của công nghiệp địa phương, chiếm 81% tổng mức bán lẻ, 61% tổng lượng vận chuyển hàng hóa…
Mặt khác, doanh nghiệp nhỏ và vừa cùng với các doanh nghiệp lớn tạo nên hệ thống doanh nghiệp đồng bộ. Một bộ phận doanh nghiệp nhỏ và vừa đã thay thế xứng đáng một số vị trí của các doanh nghiệp lớn, ở những lĩnh vực mà doanh nghiệp lớn chưa vươn tới, hoặc kinh doanh không hiệu quả, doanh nghiệp nhỏ và vừa còn đóng vai trò là các xí nghiệp vệ tinh cung cấp nguyên liệu và tiêu dùng sản phẩm cho doanh nghiệp lớn, góp phần từng bước đưa nền kinh tế phát triển cân đối, đồng bộ, nhất là trên lĩnh vực thương mai, tiêu thụ nông lâm sản, hàng hóa, ăn uống, sơ chế nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, góp phần tạo sức mạnh tổng lực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, theo hướng tăng trưởng công nghiệp dịch vụ (Theo nguồn số liệu của bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2006 cả nước có khoảng 83% doanh nghiệp nhỏ và vừa kinh doanh lĩnh vực thương mại, sửa chữa; ở Phú Thọ khoảng 84-86%). Các DNNVV với đặc trưng tinh gọn, nhỏ lẻ, năng động, hoạt động trong các phân đoạn thị trường nhỏ lẻ riêng biệt và đặc biệt là rất am hiểu thị trường đã hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp lớn trong việc tiếp cận thị trường, cân đối khả năng cung cầu cho thị trường. DNNVV là những đối tác vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn cung cấp cho các doanh nghiệp lớn các sản phẩm đầu vào hay tham gia chế tác, gia công các sản phẩm trong chu kỳ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp lớn, làm tăng tính chuyên môn hóa sản xuất, tăng khả năng hoạt động của các doanh nghiệp trên thị trường.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo môi trường cạnh tranh thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển có hiệu quả hơn. Sự tham gia của rất nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa vào sản xuất kinh doanh làm cho số lượng chủng loại hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế tăng lên rất nhanh chóng. Kết quả là làm tăng tính chất cạnh tranh trên thị trường, tạo ra sức ép lớn buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên tự đổi mới, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường mới. Những yếu tố đó tác động lớn làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn.
Với đặc điểm nhạy bén, biết tận dụng thời cơ, bộ máy tổ chức gọn nhẹ, tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả, hoạt động hoàn toàn vì mục tiêu lợi nhuận, doanh nghiệp nhỏ và vừa đã khắc phục được các nhược điểm của các doanh nghiệp lớn. Việc tiếp nhận, chuyển tải thông tin, xử lý thông tin, đưa ra quyết định cuối cùng được giải quyết nhanh chóng, không phải qua nhiều khâu, nhiều tầng nấc, đã giúp họ điều tiết linh hoạt, thích ứng nhanh qua với yêu cầu của thị trường, nên các cơ hội sản xuất kinh doanh của họ đã được tận dụng khá triệt để và mang lại hiệu quả cao.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa khai thác và phát huy tốt các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ của các địa phương, các nguồn tài chính của dân cư các vùng. Hiện nay, theo đánh giá: Tiềm năng trong dân còn rất lớn chưa được khai thác như tiềm năng về trí tuệ, tay nghề tinh xảo, lao động, vốn, điều kiện tự nhiên, bí quyết nghề, quan hệ huyết thống, làng nghề với những hương ước nghề nghiệp (Hiện cả nước có khoảng 1800 làng nghề, trong đó 2/3 là làng nghề truyền thống). Việc phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các ngành nghề truyền thống trong nông nghiệp hiện nay là một trong những hướng quan trọng để sử dụng tay nghề tinh xảo của các nghệ nhân mà hiện nay đang có xu hướng mai một dần, đồng thời thu hút lao động nông nghiệp phát huy lợi thế từng vùng, nhằm phát triển KT-XH.
Sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa đã giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động xã hội, nhất là trong lĩnh vực sản xuất các ngành nghề thủ công, ngành nghề truyền thống, đóng vai trò không nhỏ trong việc khắc phục tình trạng thiếu việc làm, nhất là ở khu vực nông thôn, các khu công nghiệp, đô thị, lao động dôi dư, có tác dụng làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển tỷ trọng công nghiệp- dịch vụ ngày càng tăng. Với đặc tính của mình, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã giải quyết được nhiều việc làm với chi phí thấp (Chi phí trung bình để tạo ra một chỗ việc làm chỉ băng 1/5-1/7 so với doanh nghiệp lớn). Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng thu hút thêm đông đảo lực lượng lao động xã hội, tiêu thụ khối lượng nguyên liệu lớn trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thu về khối lượng ngoại tệ đáng kể cho đất nước, nhiều vùng nguyên liệu, nhiều ngành nghề, làng nghề truyền thống trước đây bị lãng quên nay được vực dậy và phát triển( Phú Thọ là các ngành cơ khí nhỏ, đan lát, màng tre trúc xuất khẩu), thu nhập cho người lao động đã tăng lên rõ rệt, tỷ lệ GDP đóng góp cho kinh tế ngày một tăng, điều đó càng khẳng định vai trò, vị trí không thể thiếu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các địa phương. Về số lượng doanh nghiệp, DNNVV chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh (theo tiêu chí xác định DNNVV thì số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chiếm tỷ lệ từ 90-97% tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế). DNNVV thu hút lượng lao động lớn của toàn xã hội, thường chiếm tỷ trọng lớn 60-85% tổng lao động toàn xã hội.
Giải quyết vấn đề việc làm luôn là vấn đề bức xúc đối với hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam với dân số đông và tốc độ tăng trưởng dân số cao. Sự tồn tại và phát triển DNNVV như là một phương thức có hiệu quả để giải quyết vấn đề thất nghiệp nan giải này, là nguồn tạo ra việc làm chủ yếu. Với đặc điểm là DNNVV thường được hình thành dễ dàng với số vốn không nhiều, mặt khác thường xuyên đáp ứng tốt sự thay đổi của thị trường. Vì vậy, mặc dù số lao động trong một doanh nghiệp không lớn nhưng với số lượng lớn DNNVV trong nền kinh tế đã tạo ra phần lớn công ăn việc làm cho xã hội. Xét trên góc độ giải quyết công ăn việc làm thì DNNVV đóng vai trò quan trọng hơn các doanh nghiệp lớn, nhất là trong thời kỳ kinh tế suy thoái và đối với các nước đang phát triển với số vốn không nhiều và trình độ quản lý còn hạn chế. Thực tế đã kiểm chứng, khi kinh tế rơi vào suy thoái thì các doanh nghiệp lớn thường phải cắt giảm số lượng lao động lớn do nhu cầu của thị trường bị thu hẹp. Tuy nhiên, với đặc điểm nhạy bén với thị trường, linh hoạt, uyển chuyển dễ thích nghi với thay đổi của thị trường nên các doanh nghiệp này vẫn có thể duy trì hoạt động nên số lượng lao động thường không thay đổi nhiều. Ở Việt Nam, theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, thì lao động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các khu vực phi nông nghiệp hiện có khoảng 18,2 triệu người, chiếm 83,1% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm 75% lực lượng lao động của cả nước.
Bảng 4: Vai trò của DNNVV qua kết quả điều tra
Vai trò
Tỷ lệ ý kiến(%)
1. Góp phần tăng trưởng kinh tế
52,3
2. Tạo việc làm, thu hút vốn, tăng thu nhập
89,8
3. Làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn
84,9
4. Góp phần phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh Việt Nam
63,5
Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư.
Sự có mặt của các doanh nghiệp nhỏ và vừa làm tăng khả năng cạnh tranh trong cộng đồng doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp lớn, tạo nên sự hấp dẫn trong môi trường kinh doanh, trong chừng mực nào đó nó có tác động làm cho các doanh nghiệp lớn bớt độc quyền trong kinh doanh và tạo môi trường bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa còn có tác dụng thúc đẩy tư duy nhậy bén, linh hoạt trong phương thức quản lý của các cơ quan nhà nước, đòi hỏi các cơ quan, công chức, viên chức nhà nước phải đổi mới tư duy và phương pháp quản lý trong cơ chế thị trường, khắc phục tình trạng tư duy quản lý nhà nước cứng nhắc, chạy theo, cơ chế chính sách bất cập với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay. Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa là sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn các nhà kinh doanh. Đây là lực lượng rất cần thiết để góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh ở Việt Nam phát triển. Hiện đội ngũ các nhà kinh doanh ở nước ta còn kiêm tốn cả về số lượng và chất lượng do ảnh hưởng của các cơ chế cũ để lại. Do đó, sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa có tác dụng đào tạo, thử thách, chọn lọc qua thực tế đội ngũ các nhà sản xuất kinh doanh. Qua kết quả điều tra của Cục thống kê cho thấy 69,3% ý kiến cho rằng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò trong việc phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh Việt Nam.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa đã góp phần đa dạng hóa và tăng thu nhập của dân cư một cách ổn định, thường xuyên. Theo kết quả điều tra của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho thấy, thu nhập của dân cư vùng có doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển gấp 6-8 lần thu nhập của vùng thuần nông. Như vậy sự phát triển mạnh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân cư, tạo ra sự phát triển tương đối đồng đều giữa các vùng và cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau.
Nói tóm lại, ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể giữ những vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số vai trò tương đồng như sau:
Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp (Ở Việt Nam chỉ xét các doanh nghiệp có đăng ký thì tỷ lệ này là trên 95%). Thực tế trong những năm qua, sự phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng của các DNNVV đã góp phần quan trọng vào mục tiêu tăng trưởng cũng như vào ngân sách, tạo việc làm, tăng thu nhập cá nhân, góp phần đáng kể trong việc huy động vốn đầu tư trong dân cho phát triển kinh tế- xã hội.
Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế, các doanh nghiệp nhỏ và vừa là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa được ví là thanh ._.giảm sốc cho nền kinh tế.
Làm cho nền kinh tế năng động: vì doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động.
Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh.
Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì doanh nghiệp nhỏ và vừa lại có mặt ở khắp các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào thu ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.
Tạo nguồn thu ngân sách cho quốc gia: Với số lượng lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa xuất khẩu đã tạo ra nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước. Với 70,5% các công ty xuất khẩu tại Việt Nam là các công ty Nhỏ và vừa.
2.2 Sự cần thiết phải phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chiếm tới 96% số doanh nghiệp đăng ký và hoạt động theo luật doanh nghiệp và 99% tổng số cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước. Nếu xét riêng từng doanh nghiệp, các DNVVN không có lợi thế về mặt kinh tế so với các doanh nghiệp lớn, song về tổng thể, các DNNVV đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển, và có ý nghĩa then chốt trong quá trình giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển đồng đều giữa các khu vực trong cả nước…Thông thường, các doanh nghiệp lớn tập trung ở các vùng trung tâm đô thị, nơi có cơ sở hạ tầng phát triển nhưng không đáp ứng được tất cả yêu cầu của nền kinh tế như lưu thông hàng hóa, dịch vụ, phát triển các làng nghề truyền thống, tiểu thủ công nghiệp…Với chiều hướng đó sẽ gây ra tình trạng mất cân đối lớn trong nền kinh tế và gây ra chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng từ đó gây ra nhiều tệ nạn xã hội. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự cân đối trong phát triển giữa các vùng. DNNVV giúp cho các vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn và các nơi các cơ sở hạ tầng chưa tốt có thể khai thác tốt các tiềm năng của vùng để phát các ngành sản xuất và dịch vụ, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng, lãnh thổ. Với quy mô nhỏ và vừa, lại được phân bố ở hầu hết các địa phương nên DNNVV có khả năng tận dụng tiềm năng lao động, nguyên vật liệu sẵn có của địa phương hoăc tận dụng các sản phẩm, phế liệu, phế phẩm của các doanh nghiệp lớn để phát triển. Chúng ta phát triển các DNNVV để khai thác tốt các ngành nghề truyền thống ở địa phương, đồng thời với các sản phẩm đa dạng về chủng loại, mẫu mã sẽ góp phần tăng nguồn thu nhập cho địa phương nhờ thông qua xuất khẩu. Từ đó có thể nâng cao đời sống của địa phương, giải quyết công ăn việc làm của địa phương, góp phần giảm bớt sự giàu nghèo giữa các vùng.
Ngay tại các nước phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản (nơi tập trung nhiều tập đoàn kinh tế lớn, nổi tiếng thế giới)…, Chính phủ các nước này cũng xác định vai trò quan trọng, lâu dài của DNNVV trong nền kinh tế, vì nó là một bộ phận cấu thành không thể thiếu được của nền kinh tế, có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời với các tập đoàn kinh tế, đặc biệt trong việc tạo dựng công nghiệp bổ trợ và mạng lưới phân phối sản phẩm. Với tính năng động cao, các DNNVV là trường học khởi nghiệp cho các doanh nhân và là môi trường tạo mối liên kết, tích tụ vốn để từng bước hình thành và phát triển các doanh nghiệp lớn. Thực tế ở các nước, đặc biệt ở các nền kinh tế mới phát triển, các doanh nghiệp lớn, kể cả các tập đoàn xuyên quốc gia (TNC) hay các Chaebon đều hình thành từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa cách đây 30,40 năm. Tuy nhiên, đặc điểm chung của các DNNVV ở tất cả các nước, nhất là trong giai đoạn hình thành và phát triển, là còn thiếu năng lực về vốn và công nghệ, và kỹ năng quản lý còn kém khiến họ khó có khả năng cạnh tranh trong các thị trường mới phát triển. Chính vì vậy các nước đều xác định việc phát triển DNNVV là một chính sách lâu dài, chứ không phải tạm thời.
Hiện nay chúng ta đang trong quá trình hội nhập cao vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi phải biết tận dụng các lợi thế so sánh để hội nhập, mà các DNNVV là cơ hội sử dụng tốt các lợi thế này, do đó việc phát triển các DNNVV một cách mạnh mẽ, đúng hướng sẽ góp phần đẩy mạnh nhanh thực hiện quá trình này.
Tóm lại, tuy mỗi nước đều có đặc điểm và trình độ phát triển kinh tế khác nhau nhưng các DNNVV vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, tạo ra nhiều việc làm góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, ổn định xã hội, duy trì các làng nghề truyền thống, tăng kim ngạch xuất khẩu cho đất nước, thu hẹp các khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng. Chính vì vậy, sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa là một tất yếu khách quan và cần thiết trong quá trình phát triển của đất nước.
2.3. Vai trò quản lý nhà nước đối với sự phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Như đã phân tích ở trên, doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội của các nước. Trong khi đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa lại thường yếu kém về nhiều mặt như vốn, trình độ tổ chức quản lý, thị trường, công nghệ … cho nên nếu không được hỗ trợ thì nó khó có thể tồn tại và phát triển được, gây gánh nặng và khó khăn cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Sự hỗ trợ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa chính là để phát huy các thế mạnh của nó, đảm bảo sự bình đẳng với doanh nghiệp lớn trong hoạt động kinh doanh, hạn chế sự độc quyền trong kinh doanh của doanh nghiệp lớn, giảm thiểu các nhược điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa chính là để tạo ra sự cạnh tranh cần thiết trong nền kinh tế, tránh những méo mó do sự độc quyền của các doanh nghiệp lớn gây ra, phát huy tính năng động và linh hoạt của các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng hóa sản phẩm trong hoạt động của nền kinh tế.
Hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là phương thức để huy động mọi nguồn vốn, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Nước ta đang cần nhiều vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong khi đó ngân sách nhà nước lại có hạn, Nhà nước không thể đầu tư lớn vào tất cả các ngành sản xuất kinh doanh mà nó cần được đầu tư từ các nguồn vốn khác. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để huy động nguồn vốn đầu tư trong dân vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Mặt khác, nước ta đang có hiện tượng dư thừa lao động trong khi các doanh nghiệp nhỏ và vừa lại có ưu thế trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Theo tính toán chi phí bình quân để tạo ra một chỗ làm mới của doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ bằng 5% so với các doanh nghiệp lớn, khả năng tạo việc làm nhanh, chỗ làm mới nhanh hơn so với doanh nghiệp lớn và có thể phát triển ở mọi nơi để thu hút lao động một cách dễ dàng, yêu cầu về tay nghề và trình độ không quá cao… Do đó, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa rất thích hợp với hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay.
Một trong những yếu tố ảnh hưởng không tốt đến phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian qua là chính sách trợ giúp phát triển đối với loại hình doanh nghiệp này còn nhiều điểm không nhất quán và thiếu đồng bộ. Mặc dù chủ trương của Nhà nước đã khẳng định chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhưng trên thực tế quá trình vận dụng vẫn có những phân biệt đối xử nhất định giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau của một số cán bộ trong cơ quan quản lý Nhà nước, nhất là trong các quan hệ giao dịch về đất đai, mặt bằng sản xuất, tín dụng…
Hệ thống pháp luật và môi trường kinh doanh đang được hoàn thiện dần để phù hợp với xu thế và bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, nhưng vì thế mà thiếu tính ổn định, còn nhiều điểm chồng chéo giữa các văn bản,... làm cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp rất nhiều khó khăn khi áp dụng. Bên cạnh đó, quá trình cải cách hành chính ở nước ta diễn ra chậm chạp, đã gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp khi giao dịch với các cơ quan hành chính. Nhiều doanh nghiệp cho rằng : Điểm yếu nhất hiện nay trong công tác hỗ trợ doanh nghiệp là ở khâu phối hợp giữa các cơ quan Trung ương và địa phương, các vấn đề liên ngành, liên lĩnh vực, xử lý chậm chạp, kém hiệu quả. Chính vì vậy cần phải hoàn thiện các cơ chế, chính sách để hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa một cách minh bạch và công bằng hơn.
Phát triển doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cả về số lượng và chất lượng là yếu tố và điều kiện quan trọng mang tính chất sống còn trong phát triển kinh tế-xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Doanh nghiệp vừa và nhỏ đang ngày càng đóng vai trò quan trọng và trở thành động lực tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cũng như các quốc gia khác. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, doanh nghiệp nhỏ và vừa đang ngày đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển, đáp ứng một cách linh hoạt nhu cầu của nền kinh tế, cải thiện thu nhập và giải quyết việc làm cho đông đảo tầng lớp dân cư, góp phần xoá đói, giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng đất nước. Chính vì vậy, Chính phủ phải có cơ chế, các giải pháp trong việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua việc cải thiện môi trường pháp lý, xây dựng các chính sách, chương trình và biện pháp hỗ trợ nhằm giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển được thuận lợi, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại thị trường trong nước và vươn tới thị trường quốc tế. Tuy nhiên những cố gắng đó vẫn chưa tạo được một khung thể chế hoàn thiện. Hệ thống các tổ chức hỗ trợ vẫn còn tản mạn, lúng túng trong phương thức hoạt động và phối hợp hoạt động trợ giúp các DNN&V (kể các khu vực nhà nước lẫn khu vực tư nhân). Điều này dẫn đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa của ta vẫn chưa được hưởng những ưu đãi của nhà nước một cách dễ dàng đơn giản để phát triển. Chính vì lẽ đó cần phải có sự định hướng hỗ trợ của nhà nước trong việc phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Từ căn cứ chủ yếu trên đây, có thể khẳng định rằng cần phải hỗ trợ và phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay.
Chương II: Đánh giá tình hình phát triển và công tác quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.
Quá trình hình thành phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.
Theo các tài liệu lịch sử, quá trình hình thành và phát triển của DNNVV trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đã được hình thành cùng với quá trình ra đời các làng nghề truyền thống của địa phương. Các nghề và làng nghề thủ công truyền thống quan trọng và nổi tiếng của Tỉnh phần lớn ra đời từ rất lâu. Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của các làng nghề thủ công và làng nghề truyền thống của Tỉnh trước kia cũng chủ yếu là kinh tế hộ gia đình hoặc liên gia đình trong từng làng xã, vừa mang tính chất sản xuất hàng hóa, vừa mang tính chất sáng tạo nghệ thuật. Quá trình hình thành và phát triển DNNVV trên địa bàn tỉnh Phú Thọ có thể chia thành các giai đoạn:
1.1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty (21/12/1990)
Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1988, DNNVV ở Phú Thọ thường chỉ là các hộ sản xuất kinh doanh thủ công, công nghệ sản xuất đơn sơ, sản xuất chủ yếu là các mặt hàng thiết yếu giá trị thấp. Trong thời kỳ này, quản lý điều hành nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp, kinh tế nhà nước chiếm lĩnh chủ đạo và điều tiết hoàn toàn sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Nên trong giai đoạn này bên cạnh sự ra đời của các xí nghiệp quốc doanh có quy mô lớn(như giấy Bãi Bằng, SUPER hóa chất Lâm Thao) thì các xí nghiệp quốc doanh cấp huyện được phát triển nên doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc khu vực nhà nước cũng tăng lên, cùng với các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp được khuyến kích phát triển, các DNNVV của tư nhân tiến hành cải tạo, chuyển đổi hình thức sở hữu hoặc xóa bỏ. Nhiều loại hình hợp tác xã được hình thành và được pháp luật công nhận, có đủ tư cách pháp nhân được tham gia các quan hệ kinh tế theo kế hoạch của nhà nước. Các thành phần tiểu thương, tiểu chủ chỉ được sản xuất - kinh doanh nhỏ, hạn chế ở quy mô và bị giới hạn ở những lĩnh vực nhất định .
Trải qua 2 cuộc kháng chiến trường kỳ, kinh tế Phú Thọ gặp vô vàn khó khăn, thử thách, các doanh nghiệp đều rất yếu kém cả về số lượng lẫn chất lượng. Phần lớn các doanh nghiệp đều là các xí nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc sở hữu nhà nước nhỏ lẻ, manh mún, phân tán, hoạt động theo kế hoạch đề ra nên không có động lực phát triển.
Với hơn 80% dân số làm nông nghiệp, là tỉnh nghèo, kinh tế phát triển chậm, tích luỹ vốn trong dân hạn chế. Trước năm 1988, các doanh nghiệp, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, cơ khí nhỏ, dệt may, hoá chất, mộc dân dụng, vận tải. Đa số các sản phẩm sản xuất ra theo đơn đặt hàng của Nhà nước. Hoạt động của các doanh nghiệp, hợp tác xã chỉ nhằm giải quyết việc làm cho một số lao động và thực hiện một phần kế hoạch kế hoạch (bao cấp) của nhà nước, các HTX này không có điều kiện để tích luỹ, mở rộng phát triển.
Các doanh nghiệp trên địa bàn phần lớn tập trung ở Việt trì, thị xã Phú Thọ và một số huyện trọng điểm; số vốn kinh doanh nhỏ, luân chuyển chậm. Ngoài ra, có một số doanh nghiệp sản xuất bằng phương pháp thủ công các mặt hàng mỹ nghệ, như: gốm, sứ, đan lát, mộc, cơ khí, các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp với công nghệ lạc hậu, số lượng sản phẩm ít, nhìn chung chất lượng sản phẩm, tính chất hàng hoá không cao.
Đến tháng 3/1988 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ) ban hành Nghị định số 28/HĐBT cho phép những cá nhân có đủ năng lực hành vi được thành lập các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các lĩnh vực, mặt hàng theo quy định thì sự ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa mới có điều kiện phát triển. Trong vòng gần 3 năm từ tháng 3/1988 đến tháng 12/1990 trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đã có hơn 80 doanh nghiệp được thành lập và đăng ký hoạt động với nhiều ngành nghề, tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng. Việc ra đời và sự hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên có nhiều mặt tích cực, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, bước đầu làm thay đổi cơ cấu của nền kinh tế, kích thích kinh tế xã hội của tỉnh phát triển.
Ngoài những kết quả tích cực, các doanh nghiệp trong giai đoạn này cũng đã bộc lộ, biểu hiện những tiêu cực gây ảnh hưởng, hậu quả xấu đối với tình hình kinh tế - xã hội. Nhiều doanh nghiệp do năng lực sản xuất kinh doanh yếu, thiếu vốn, hạn chế cả thị trường nên đã bị thua lỗ. Một số doanh nghiệp lợi dụng những sơ hở trong cơ chế quản lý của nhà nước để lừa đảo, chiếm đoạt vốn tài sản của các doanh nghiệp nhà nước, của các tổ hợp, cá nhân khác..., đến cuối năm 1989 có 22/76 doanh nghiệp hoạt động bị thua lỗ, trong đó có 12 doanh nghiệp phải chấm dứt hoạt động. Chỉ có 20 doanh nghiệp hoạt động ổn định (chủ yếu là các doanh nghiệp gia công sản xuất các mặt hàng may dệt thủ công cho các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng đồ mộc) .
1.2. Từ khi ban hành Luật DNTN và Luật Công ty, đến khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực (1/1/2000)
Đứng trước thực trạng là các doanh nghiệp nhà nước không đủ điều kiện và năng lực đảm bảo sự phát triển của nền kinh tế. Đảng và Nhà nước đã chủ trương phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nội dung quan trọng của quyết sách này là mở rộng, khuyến kích phát triển các loại hình kinh tế quốc doanh song song với cải cách kinh tế Nhà nước, đảm bảo phát triển cân đối của các loại hình kinh tế trong xã hội.
Đặc biệt từ khi Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty được ban hành ngày 20/12/1990. Năm 1991 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành các nghị định 221/HĐBT và 222/HĐBT quy định chi tiết thi hành 2 luật trên đã tạo hành lang pháp lý cần thiết để khuyến khích, thúc đẩy các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển bình đẳng trong cơ chế đổi mới nền kinh tế.
Phú Thọ là tỉnh miền núi, cách thủ đô Hà Nội khoảng 80 km, dân số sấp xỉ 1,3 triệu nhu cầu tiêu dùng lớn. Trên địa bàn tỉnh có hơn 100 doanh nghiệp nhà nước và một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động. Phú Thọ có một số doanh nghiệp nhà nước lớn có tiềm năng và uy tín như Công ty giấy Bãi bằng, Công ty supe hoá chất Lâm thao..., đó là những yếu tố, điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Thực tế cho thấy từ năm 1992 đến năm 1999 các đối tượng có đủ điều kiện được cấp phép thành lập doanh nghiệp để hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng tăng cả về số lượng, quy mô, ngành nghề.
+ Về đối tượng xin thành lập doanh nghiệp ban đầu chủ yếu là các tiểu thương các cá nhân trong các tổ hợp đã và đang hoạt động sản xuất kinh doanh và chủ yếu ở khu vực thành phố, thị xã. Về sau đối tượng thành lập doanh nghiệp thường là những người có vốn, có tư duy kinh tế, là những công nhân, cán bộ đã nghỉ theo chế độ có khả năng chuyên môn cao về các lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt trong những năm gần đây đã xuất hiện nhiều nông dân làm kinh tế giỏi thành lập doanh nghiệp để mở rộng, phát triển sản xuất.
+ Về ngành nghề kinh doanh trong thời gian những năm 1992, 1993 chủ yếu các doanh nghiệp xin phép hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực thương mại dịch vụ và xây dựng. Về sau các doanh nghiệp có xu hướng chuyển sang đầu tư phát triển sản xuất, vốn đầu tư ban đầu, vốn điều lệ của các doanh nghiệp không ngừng tăng, trước đây doanh nghiệp tư nhân vốn bình quân khoảng 150 triệu đồng, Công ty TNHH khoảng 300 triệu đồng, những năm gần đây vốn bình quân của DNTN tăng lên 300 triệu đồng, Công ty TNHH khoảng 600 triệu đồng.
+ Về loại hình doanh nghiệp: Thời gian mới triển khai thi hành luật DNTN và Luật Công ty thì các đối tượng có nhu cầu thành lập doanh nghiệp chủ yếu đăng ký xin thành lập doanh nghiệp (năm 1992, 1993 doanh nghiệp tư nhân chiếm 65% số doanh nghiệp xin thành lập). Về sau, xu hướng thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn có số vốn lớn và có năng lực uy tín để cạnh tranh hoạt động, phù hợp với cơ chế thị trường. Riêng đối với loại hình công ty cổ phần do việc quy định nghĩa vụ, quyền hạn của các thành viên và thị trường chứng khoán chưa phát triển rộng rãi nên loại hình doanh nghiệp này chưa được phát triển ở tỉnh Phú Thọ. Tuy nhiên, cùng với việc tổ chức sắp xếp lại, cổ phần hoá DNNN có quy mô vừa và nhỏ, loại hình doanh nghiệp là Công ty cổ phần tăng lên đáng kể. Đặc biệt là từ khu thực hiện Luật DNTN và Luật Công ty đến nay số DNNVV ngày càng tăng nhưng số hợp tác xã công thương ngày càng giảm. Trong đó, HTX mua bán không còn tồn tại, số hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn giảm từ 22 HTX xuống còn 15 HTX (14 HTX tiểu thủ công, 1 HTX vận tải).
1.3 Từ khi áp dụng thực hiện Luật doanh nghiệp (01/1/2000 đến nay)
Do cải tiến và đơn giản các thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, thống nhất quy định đầu mối ĐKKD, ngành nghề kinh doanh, xoá bỏ những giấy phép con gây phiền hà, tốn kém cho tổ chức, cá nhân có nhu cầu đăng ký thành lập doanh nghiệp. Sau nhiều năm thực hiện theo Luật doanh nghiệp, tỉnh Phú Thọ đã đăng ký hoạt động cho 2213 doanh nghiệp, bình quân khoảng gần doanh nghiệp; tăng gần 5,6 lần về số lượng doanh nghiệp và tăng khoảng 10,4 lần về số vốn đăng ký so giai đoạn 1991- 1999.
Quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ diễn ra qua 3 giai đoạn thể hiện đường lối, chính sách, sự quan tâm sâu sắc của Đảng bộ và lãnh đạo Tỉnh đối với các DNNVV và đồng thời cũng phản ánh vai trò đặc biệt quan trọng của các DNNVV đối với sự ổn định và phát triển kinh tế tỉnh. Qua đó cũng khẳng định được tiềm năng, vị trí, vai trò của các DNNVV, vai trò quan trọng của cơ chế, chính sách quản lý nhà nước đối với sự ra đời và phát triển của DNNVV.
2. Nguồn lực phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Tỉnh Phú Thọ.
2.1 Vị trí địa lý.
Phú Thọ có tọa độ địa lý 20055’ – 21043’ vĩ độ Bắc, 104048’ – 105027’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp Tuyên Quang, Yên Bái; phía Nam giáp Hòa Bình; phía Đông giáp Vĩnh Phúc, Hà Tây; phía Tây giáp Sơn La. Là tỉnh trung du miền núi thuộc vùng Đông Bắc Bộ, trung tâm tỉnh cách thủ đô Hà Nội 80 km, là điểm tiếp giáp giữa vùng Đông Bắc, Đồng Bằng Sông Hồng và vùng Tây Bắc, là trung tâm tiểu vùng Tây - Đông Bắc. Diện tích chiếm 1,2% diện tích cả nước và chiếm 5,4% diện tích vùng miền núi phía Bắc. Dân số chiếm 1,64% dân số cả nước, chiếm 14,3% dân số vùng miền núi phía Bắc.
Thành phố Việt Trì là thủ phủ của tỉnh đồng thời cũng là một trong 5 trung tâm lớn của vùng miền núi phía Bắc, có các tuyến trục giao thông quan trọng chạy qua như quốc lộ số 2 chạy từ Hà Nội qua Việt Trì đi Tuyên Quang - Hà Giang sang Vân Nam - Trung Quốc. Đây là tuyến nằm trong hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Dự báo đoạn Hà Nội - Việt Trì sẽ có nhịp độ phát triển sớm nền kinh tế cao và đô thị hóa nhanh nên Phú Thọ cần chuẩn bị tốt các điều kiện về đất đai, lao động để tận dụng cơ hội này. Quốc lộ 70 xuất phát từ thị trấn Đoan Hùng đi Yên Bái - Lào Cai và cũng sang Vân Nam (Trung Quốc), tuyến này đang được nâng cấp để trở thành con đường chiến lược Hà Nội - Hải Phòng - Côn Minh (Trung Quốc) cũng tạo cơ hội cho Phú Thọ phát triển. Quốc lộ 32A nối Hà Nội - Trung Hà - Sơn La, quốc lộ 32B Phú Thọ - Yên Bái với cầu Ngọc Tháp qua sông Hồng tại thị xã Phú Thọ là một phần của đường Hồ Chí Minh, nhánh 32C thuộc hữu ngạn sông Hồng đi thành phố Yên Bái cũng tạo ra thuận lợi để Phú Thọ giao lưu kinh tế với bên ngoài.
Với vị trí đó đã tạo cho Phú Thọ có nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế, là cầu nối giao lưu kinh tế giữa các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, thủ đô Hà Nội với các tỉnh miền núi Tây Bắc: Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai…, có được thị trường lớn để tiêu thụ nông sản và các sản phẩm thế mạnh của tỉnh và là một yếu tố quan trọng tạo nên tiềm năng phát triển sản xuất nông nghiệp nói riêng và kinh tế của tỉnh nói chung.
Tiềm năng và khả năng khai thác tiềm năng để phát triển DNNVV trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.
2.2.1 Đặc điểm địa hình:
Phú Thọ là tỉnh miền núi nên có đặc điểm địa hình chia cắt tương đối mạnh do nằm cuối dãy Hoàng Liên Sơn, nơi chuyển tiếp giữa miền núi cao và miền núi thấp, gò đồi, độ cao giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Địa hình Phú Thọ được chia làm 2 tiểu vùng:
- Tiểu vùng miền núi (gồm các huyện Thanh Sơn, Yên Lập, Hạ Hoà và một phần của huyện Cẩm Khê): diện tích 182.475,82 ha, dân số khoảng 418.266 người, mật độ dân số 228 người/km2; có độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 200 - 500 m. Là vùng đang khó khăn về giao thông và dân trí còn thấp lại nhiều dân tộc nên việc khai thác tiềm năng nông lâm khoáng sản... để phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế.
- Tiểu vùng trung du, đồng bằng (gồm thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ, huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Thanh Thuỷ, Tam Nông, Đoan Hùng và phần còn lại của huyện Cẩm Khê, Hạ Hoà). Diện tích tự nhiên 169.489,5 ha, dân số khoảng 884.734 người, mật độ 519 người/ km2, có độ cao trung bình so với mực nước biển từ 50 - 200m. Là tiểu vùng có kinh tế - xã hội phát triển, có nhiều khu, cụm, điểm công nghiệp, thuận lợi cho việc trồng các cây nguyên liệu giấy, cây công nghiệp dài ngày như chè, cây ăn quả, phát triển chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản... Tuy nhiên, đã xuất hiện hiện tượng đất bị thoái hóa ở một vài nơi, còn dải đất ven sông lại màu mỡ. thuận lợi cho phát triển chè, đậu tương, lạc, vừng, cây ăn quả, sản xuất lương thực, chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thuỷ sản..., là tiểu vùng thuận lợi về điều kiện giao thông vận tải, có đất đai phù hợp cho phát triển khu công nghiệp và đô thị.
Tóm lại, với địa hình đa dạng, vừa có miền núi, vừa có trung du và đồng bằng ven sông, đã tạo ra nguồn đất đai đa dạng, phong phú để phát triển DNNVV. Tuy nhiên do địa hình chia cắt, mức độ cao thấp khác nhau nên việc đầu tư khai thác tiềm năng, phát triển sản xuất, phát triển hạ tầng để phát triển DNNVV phải đầu tư tốn kém nhất là giao thông, thuỷ lợi, cấp điện, cấp nước.
2.2.2 Đặc điểm khí hậu:
Tỉnh Phú Thọ mang đặc điểm khí hậu điển hình của tiểu vùng Đông - Đông Bắc: khí hậu nhiệt đới gió mùa, với hai mùa rõ rệt. Do đặc điểm địa hình chia cắt bởi đồi núi, nên có thể chia thành 3 tiểu vùng khí hậu:
- Tiểu vùng I: các huyện phía Bắc. Lượng mưa trung bình/năm là 1800mm, số ngày mưa 120-140 ngày/năm. Nhiệt độ trung bình 22 - 230C. Là vùng đủ ẩm, mùa đông ít lạnh, thuận lợi phát triển cây ngắn ngày và cây công nghiệp dài ngày.
- Tiểu vùng II: các huyện phía Nam. Lượng mưa trung bình/năm 1400 - 1700mm. Lượng mưa phân bố không đều chủ yếu tập trung vào các tháng mùa mưa. Độ ẩm không khí trung bình 82 - 84%, nhiệt độ trung bình 23,30C. Tạo điều kiện cho các cây trồng (nhất là cây trồng ngắn ngày) tăng khả năng quang hợp, tích lũy vật chất, cho năng suất cây trồng cao.
- Tiểu vùng III: các huyện miền núi phía Tây. Lượng mưa trung bình/năm1900mm. Phân bố mưa không đều, tập trung vào các tháng 6, 7, 8. Nhiệt độ trung bình 21 -220C. Là vùng có độ ẩm thấp, hệ số khô hạn cao hơn vùng khác, vì vậy cần chú ý giữ ấm cho cây trồng vào mùa đông.
2.2.3 Đất đai và nguồn nước.
Tổng diện tích đất của Phú Thọ là 352.000 ha, trong đó, đất nông nghiệp: 97,5 ngàn ha, đất lâm nghiệp có rừng: 148,9 ngàn ha, đất chuyên dùng: 22,7 ngàn ha, đất ở: 7,7 ngàn ha.
Tiềm năng về đất đai của Phú Thọ còn rất lớn, đất chưa sử dụng chiếm tới hơn 30% diện tích tự nhiên.
Vùng đất đồi trung du thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp, cây màu lương thực và cây ăn quả - và đây cũng là một thế mạnh của tỉnh.
Nguồn nước cho sản xuất và đời sống dân cư trên lãnh thổ khá dồi dào với lưu lượng nước của 3 con sông lớn (sông Hồng, sông Đà, sông Lô) cùng hàng trăm suối, đầm ao lớn nhỏ chứa một lượng nước khá lớn thuận lợi cho sản xuất và tiêu dùng.
2.2.4 Tài nguyên khoáng sản:
Phú Thọ có trữ lượng về đá xây dựng, cao lanh đủ để phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng. Khai thác tốt lợi thế này sẽ giúp tỉnh chủ động trong xây dựng, tăng nguồn thu và nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh từ đó thúc đẩy phát triển DNNVV nói riêng cũng như kinh tế xã hội của Tỉnh nói chung phát triển
2.2.5 Tài nguyên rừng.
Phú Thọ là tỉnh miền núi - trung du, diện tích đất đồi rừng chiếm tới 60% diện tích tự nhiên. Nhìn chung rừng ở vùng này không phải là rừng giàu. Ngoài vùng rừng nguyên sinh Xuân Sơn (Thanh Sơn) và những vùng xung quanh, rừng còn lại không có giá trị cao, chủ yếu là khai thác làm nguyên liệu giấy. Đó cũng là thế mạnh của tỉnh và hướng tới sẽ tập trung cho phát triển nguyên liệu giấy.
2.3 Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh Phú Thọ trong những năm gần đây.
Bảng 5: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của Phú Thọ giai đoạn 2001-2005
Những chỉ tiêu chủ yếu
Mục tiêu giai đoạn
2001 - 2005
Thực hiện hết năm 2005
So với mục tiêu (%)
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân/năm
9,5 - 10%
9,79%
100
GDP bình quân/nguời (nghìn đồng)
4.000
4.022
100.1
GDP/người tăng so với năm 2000
1,5 - 1,6 lần
1,53 lần
102
GTSX nông lâm tăng bình quân/năm
4,5 - 5 %
8,11%
180
Sản lượng lương thực
400 - 410 nghìn tấn
431 nghìn tấn
107,5
Độ che phủ của rừng
45%
45,2%
100
GTSX công nghiệp tăng/năm
15 - 16%
14,13%
97,3
GTSX ngành dịch vụ tăng/năm
11 - 12%
12,1%
105,2
Kim ngạch xuất khẩu
120 - 125 triệu USD
116,6 triệu USD
97,2
Cơ cấu kinh tế:
+ Nông, lâm, thủy sản
+ Công nghiệp – xây dựng
+ Dịch vụ
24,5%
39,8%
35,7%
28,7%
37,6%
33,7%
85,6
94,7
94,3
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
Dưới 1,1%
0,98%
112,2
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
Dưới 25%
23,8%
104,2
Số máy điện thoại/100 dân
3-4 máy
9,9 máy
234,3
Phủ sóng phát thanh trên địa bàn dân cư
100%
95%
95
Phủ sóng truyền hình trên địa bàn dân cư
90%
90%
100
Số xã có điện
Trong đó: Số hộ được dùng điện
100%
80-85%
100%
74,8%
100
93,5
Giảm tỷ lệ hộ nghèo
Dưới 10%
3,08%
200
Giải quyết việc làm
61-62 nghìn người
74,2 nghìn người
121,6
Tỷ lệ lao động qua đào tạo
29-30%
29%
100
Số trạm y tế xã có bác sỹ
100%
100%
100
Phổ cập THCS
HT vào năm 2003
HT vào năm 2003
100
Nguồn: QH tổng thể phát triển KT-XH Phú Thọ giai đoạn 2005-2020
Có thể chi tiết một số nét sau:
Tình hình tăng trưởng và phát triển các ngành kinh tế của Tỉnh:
Bảng 6: Tổng hợp kết quả tăng trưởng kinh tế (GDP) Phú Thọ so với vùng miền núi phía Bắc và cả nước
(Theo giá so sánh)
Đơn vị tính: %
Giai đoạn
Chỉ tiêu
Phú Thọ
Vùng miền núi phía Bắc
Cả nước
1997-2000
Toàn nền kinh tế
Trong đó:
1.Công nghiệp - xây dựng
2. Nông lâm thủy sản
3. Dịch vụ
8,16
11,4
5,9
6,97
4,56
6,73
3,45
4,20
6,7
10,9
4,6
5,3
2001-2005
Toàn nền kinh tế
Trong đó:
1.Công nghiệp – xây dựng
2. Nông lâm thủy sản
3. Dịch vụ
9,71
12,17
7,07
12,73
6,6
8,6
4,7
6,3
7,5
10,3
3,6
7,0
Nguồn: QH tổng thể phát triển KT-XH Phú Thọ 2005-2020
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Phú Thọ gia tăng liên tục qua các năm. Nếu như giai đoạn 1997-2000 tốc độ tăng trưởng là 8,16%, cao gấp 1,22 lần so với bình quân cả nước; thì đến giai đoạn 2001-2005 tốc độ tăng trưởng bình quân đã là 9,71%, gấp 1,34 lần so với bình quân cả nước.
Tốc độ tăng trưởng từng ngành sản xuất của Tỉnh cũng gia tăng tương ứng (bảng trên)
Chất lượng tăng trưởng từng bước được nâng lên: Liên tục trong 5 năm (2000-2005) đều đạt tốc độ tăng trưởng trên 9%, hiệu quả của việc sử dụng các yếu tố đầu vào cho sản xuất ngày càng được quản lý một cách chặt chẽ, hợp lý hơn, giá thành sản phẩm (trừ các yếu tố trượt giá) vẫn đảm bảo thuận lợi cho các cơ sở sản xuất tồn tại và phát triển.
Năng suất các lĩnh vực sản xuất vật chất đều tăng, nhất là nông nghiệp. Tính hiện đại trong nền kinh tế của Tỉnh từng bước được cải thiện bằng sự tham gia của nhiều cơ sở sản xuất mới, sản phẩm mới. Cơ cấu sản phẩm hoàn thiện hơn, hàm lượng công nghệ trong sản phẩm nhiều hơn, sự cân đối trong tăng trưởng giữa các ngành, nội bộ ngành thể hiện trong cơ cấu kinh tế tương đối hợp lý.
Bảng 7: Giá trị tổng sản phẩm (GDP) các ngành Tỉnh Phú._.i kiến nghị với Chính Phủ xoá bỏ các thủ tục, giấy phép không cần thiết; đổi mới quy trình cấp đăng ký kinh doanh, đăng ký mã số thuế, đăng ký sử dụng con dấu và hỗ trợ doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh theo đúng tinh thần đổi mới của Luật doanh nghiệp.
Trong công tác tổ chức bộ máy đã kiện toàn hệ thống đăng ký kinh doanh từ tỉnh đến huyện theo đúng quy định của Luật, phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương và thành lập Trung tâm xúc tiến thương mại, Trung tâm xúc tiến đầu tư, Trung tâm khuyến công,...; Ngoài ra, cấp các ngành đã tổ chức hội nghị đối thoại với doanh nghiệp, nhằm kịp thời tháo gỡ, khó khăn vướng mắc và động viên, khen thưởng cho các tổ chức, cá nhân có thành tích trong hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương. Trong thời gian qua, nhờ làm tốt công tác hỗ trợ, phối hợp và tạo điều kiện của các cấp, các ngành và thực hiện cải cách thủ tục hành chính, việc cấP giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, đăng ký mã số thuế, đăng ký mẫu dấu đã giảm khoảng 1/3 thời gian so quy định. Sau đăng ký kinh doanh các cấp, các ngành đã hỗ trợ cho doanh nghiệp, nhà đầu tư trong việc tìm kiếm mặt bằng (đã được các huyện, thành, thị thực hiện), tư vấn đầu tư vào các ngành, lĩnh vực, tư vấn hỗ trợ các dịch vụ có liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; thông tin kịp thời về danh sách các doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh, giúp cho việc quản lý doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh có hiệu quả.
Trong những năm qua, ngoài các văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp của nhà nước ban hành còn có các nghị định, nghị quyết của UBND Tỉnh Phú Thọ ban hành nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp trên địa bàn. Các văn bản quy phạm và các quyết định này đã điều chỉnh các hoạt động của các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, khung khổ pháp lý đối với phát triển doanh nghiệp còn tồn tại một số vấn đề như cơ chế chính sách Nhà nước, các quyết định của UBND Tỉnh đối với phát triển doanh nghiệp còn tồn tại một số vấn đề như cơ chế chính sách của Nhà nước liên quan đến sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa đồng bộ, còn nhiều vướng mắc chưa được bổ sung kịp thời, nhiều thủ tục hành chính chưa sửa đổi, chưa theo kịp tiến trình phát triển doanh nghiệp, các thủ tục mang nặng tính chất hành chính chưa gắn với cơ chế điều chỉnh của thị trường, chưa quan tâm đầy đủ đến yếu tố chất lượng, hiệu quả và khả năng hội nhập nên kết quả còn nhiều hạn chế. Được thể hiện qua:
Đối với Trung ương.
- Ngoài những tồn tại cụ thể đã nêu ở các phần trên, nhìn chung các cơ chế, chính sách, các quy định pháp lý cho phát triển DNNVV còn nhiều tồn tại, bất cập. Các văn bản, quy định hỗ trợ DNNVV chưa đi vào cuộc sống, chỉ mới bắt đầu khởi động ở một số khâu nhưng lại có tính chất chung cho tất cả DN như như thủ tục hành chính đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ tín dụng,..
- Các chương trình hỗ trợ DNNVV từ các bộ, ngành TW, ở các địa phương hầu như chưa có.
- Nguồn lực hỗ trợ cho DNNVV còn nhiều hạn chế nhất là về vốn, công nghệ, thị trường, quản trị DN,...
Đối với địa phương.
- Nhìn chung Tỉnh chưa có chương trình riêng để hỗ trợ cho các DNNVV. Việc triển khai hỗ trợ DN còn nhiều lúng túng, thiếu nguồn lực.
- Chính sách huy động các nguồn lực cho đầu tư phát riển của các thành phần kinh tế chưa đạt hiệu quả cao.
- Môi trường đầu tư được cải thiện một bước, tuy vậy vẫn chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư, thủ tục hành chính chưa được đơn giản, còn rườm rà, phức tạp.
- Công tác quy hoạch chi tiết quy hoạch khu vực đầu tư dịch vụ còn thiếu, nhất là quy hoạch các cụm công nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng nhu cầu mặt bằng sản xuất kinh doanh là sự đòi hỏi chính đáng, cấp bách của các doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư và mở rộng sản xuất. Các khu công nghiệp ở Phú Thọ diện tích đất cho thuê không còn nhiều; giá, tiêu chí để được vào khu công nghiệp vượt tầm tay nhiều DNDD. Khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp là làm sao để “an cư”, chuyện bức xúc về vốn nhiều khi không thể sánh bằng sự trở ngại trong việc tìm cho ra một diện tích mặt bằng để họ an tâm sản xuất (do vốn ít, trình độ công nghệ cũ kỹ, không đồng bộ nên không đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi của các khu công nghiệp).
- Việc rà soát đánh giá khả năng cạnh tranh của DNNVV và các yêu cầu, điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng chiến lược sản phẩm, chuyển dịch cơ cấu sản phẩm nội bộ doanh nghiệp chưa được triển khai.
Chương III: Các định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh
1. Mục tiêu phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh.
1.1 Mục tiêu định tính.
Các hoạt động sản xuất kinh doanh dưới các loại hình doanh nghiệp mà luật Doanh nghiệp quy định sẽ ngày càng phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, cả bề rộng lẫn bề sâu, trong đó loại hình công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn một thành viên sẽ phát triển nhanh hơn. Bước đầu hình thành mô hình công ty hợp danh, giảm dần doanh nghiệp tư nhân.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ ngày càng mang yếu tố quốc tế đậm nét về định hướng sản xuất kinh doanh, về thị trường, về công nghệ và các yếu tố cần thiết khác cho quá trình tái sản xuất mở rộng.
Phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ngày càng đa dạng, xét theo cả từng doanh nghiệp, cũng như toàn bộ khu vực doanh nghiệp sẽ đẩy mạnh sang kinh doanh dịch vụ và sản xuất công nghiệp có hàm lượng vốn và khoa học cao.
Các doanh nghiệp dân doanh phát triển đến quy mô nhất định có thể tổ chức thành lập tổng công ty hoặc tập đoàn. Mô hình tổng công ty sẽ được tổ chức dưới dạng công ty TNHH một thành viên hoặc công ty cổ phần…trong đó mối quan hệ giữa tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn điều lệ. Doanh nghiệp trong nước mua lại doanh nghiệp liên doanh cũng là một xu thế tất yếu trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ. Bên cạnh đó sẽ xuất hiện phổ biến các hiện tượng phá sản, giải thể, chia nhỏ, mua bán chuyển nhượng lại các doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nhà nước nằm trong khối doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ chuyển đổi theo hướng cổ phần hóa, chuyển thành công ty TNHH một thành viên và thành lập những công ty nhà nước hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con.
Hộ kinh doanh cá thể trong những năm tới sẽ vẫn phát triển bởi mô hình tổ chức đơn giản, thủ tục thành lập nhanh, lao động chủ yếu là lao động gia đình giản đơn
1.2 Mục tiêu cụ thể.
Phấn đấu đến 2008 trên địa bàn tỉnh có 2200 doanh nghiệp, chi nhánh và VPĐD, bình quân tăng 330 DN/năm, tăng 20% so với giai đoạn 2000 - 2005. Thu hút vốn đầu đến 2008 đạt 6.950 tỷ đồng, bình quân 4 tỷ đồng/DN, tăng khoảng 59% so với giai đoạn 2000 - 2005. Đến 2008 số DN có quy mô lớn, trình độ công nghệ cao chiếm 8-10 % tổng số doanh nghiệp đang hoạt động; Tổng số thu nộp ngân sách Nhà nước của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ước đạt 415 tỷ đồng, chiếm khoảng 19,7% tổng thu ngân sách trên địa bàn.
Đến hết năm 2008 ước tạo ra khoảng 210 ngàn chỗ làm mới và lao động thời vụ cho người lao động, chiếm khoảng 28% tổng nguồn lao động xã hội, trong đó lao động làm việc trong các doanh nghiệp 175 ngàn lao động, chiếm 23%, tăng 5,7 lần so năm 2000, bình quân 01 doanh nghiệp sử dụng khoảng 28- 32 lao động; hộ kinh doanh cá thể 4-6 lao động.
Tiếp tục thực hiện việc chuyển đổi, sắp xếp lại mô hình quản lý phù hợp như công ty cổ phần, mô hình công ty mẹ- công ty con, công ty vệ tinh ... để huy động thêm nguồn lực cho sản xuất kinh doanh; hình thành một hệ thống liên kết từ khâu sản xuất- chế biến- xuất khẩu đối với từng khu vực như CN chế biến thuỷ sản, CN sản xuất vật liệu xây dựng, CN khai khoáng... hướng đến hình thành tập đoàn kinh tế CN đa ngành nghề.
Tập trung đẩy mạnh thực hiện trong năm 2008 định hướng cho doanh nghiệp, doanh nhân hợp tác, liên doanh, liên kết, ưu tiên khuyến khích vào các lĩnh vực sản xuất có lợi thế về nguồn nguyên liệu và lao động như công nghiệp chế biến nông, lâm sản, liên kết phát triển công nghiệp dệt may, công nghiệp khai khoáng, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ, vật liệu xây dựng...
Tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất, đào tạo tay nghề kỹ thuật cho công nhân, chon hướng đi phù hợp trong xây dựng chiến lược sản phẩm, tận dụng lợi thế những đơn hàng nhỏ kết hợp đầu tư mặt hàng phục vụ thị trường nội địa để quảng bá, khẳng định thương hiệu.
2. Một số giải pháp nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, những kết luận và những quan điểm, định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở trên, có thể nêu một số giải pháp chủ yếu sau:
2.1 Hoàn thiện các chính sách, cơ chế hỗ trợ khuyến kích các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển.
Chính sách tài chính- tín dụng:
Giống như mọi doanh nghiệp khác, doanh nghiệp nhỏ và vừa cần có vốn để tồn tại và phát triển. Bên cạnh vốn tự có, có hai nguồn vốn hiện nay rất cần thiết đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa đó là vốn và tín dụng.
Tình hình phổ biến của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ hiện nay là gặp khó khăn về tài chính, nhất là thiếu vốn để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Việc huy động vốn cho đầu tư phát triển trên thực tế diễn ra chậm và không đáng kể. Để khai thông tài chính, tín dụng cho đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa cần có những giải pháp ở tầm vĩ mô của nhà nước, của ngân hàng và sự năng động sáng tạo của bản thân doanh nghiệp. Cụ thể:
- Đối với Nhà nước:
Cần thực hiện 2 loại chính sách vốn đó là chính sách vốn chung và chính sách vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chính sách vốn chung liên quan tới chính sách tài chính tiền tệ, lãi suất hoạt động của các tổ chức tín dụng, các chế tài về tài chính đối với vốn trung và dài hạn, thị trường chứng khoán...Còn đối với chính sách cụ thể với các doanh nghiệp nhỏ và vừa cần nhấn mạnh: Ưu tiên lãi suất cho từng đối tượng, thành lập quỹ hỗ trợ có thể trích từ ngân sách Nhà nước hoặc ngân sách Tỉnh.
Thành lập hệ thống tín dụng từ trung ương đến địa phương có sự hỗ trợ của Nhà nước như: Quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa & quỹ tín dụng để doanh nghiệp có khả năng tiếp cận với nguồn vốn với mức lãi suất ưu đãi.
Tạo ra một sân chơi bình đẳng về tín dụng trung và dài hạn cho các doanh nghiệp để tất cả người đi vay tuân thủ những thủ tục giống nhau.
- Đối với bản thân các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cần xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh có khả thi để vay vốn trên cơ sở làm rõ hiệu quả sản xuất kinh doanh hoặc hợp đồng kinh tế ký kết, khả năng và thời gian hoàn vốn, mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp, có phương án bảo toàn vốn vay...
Chính sách đất đai.
Hiện nay các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường có mặt bằng sản xuất rất hạn hẹp, phân tán, khả năng mở rộng sản xuất là rất khó khăn, đôi lúc phải tận dụng cả nhà ở để kinh doanh. Như vậy, Tỉnh phải có các ưu đãi nhất định về đất đai cho các doanh nghiệp có khả năng sản xuất theo đúng hướng của Tỉnh. Phải nghiên cứu hoàn thiện các quy hoạch sử dụng đất, tránh tình trạng đầu tư không đúng quy hoạch...Tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Luật đất đai.
Có chính sách ưu đãi, miễn giảm giá thuê đất đối với một số ngành, lĩnh vực Tỉnh khuyến kích đầu tư, có cơ chế ưu đãi riêng về giá thuê đất đối với từng khu, cụm công nghiệp và các vùng khác trong Tỉnh để các nhà đầu tư nghiên cứu quyết đinh đầu tư.
Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, kiểm kê sử dụng đất. Đảm bảo những cam kết về đảm bảo cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện về quỹ đất để hình thành các doanh nghiệp nhỏ và vừa...
Đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các đối tượng, đơn giản hóa các thủ tục cấp đất cho các doanh nghiệp thành lập mới hoặc đang hoạt động để họ có điều kiện thế chấp, vay vốn ngân hàng để phát triển SXKD.
Chính sách về đào tạo nguồn nhân lực hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Những vấn đề nổi cộm trong đào tạo nguồn nhân lực và đội ngũ chủ doanh nghiệp trong thời gian qua đã ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thị trường lao động đang mở ra nhiều hình thức và theo hướng công nghiệp hóa đang đòi hỏi nguồn nhân lực phải đào tạo để có trình độ tay nghề chuyên môn cao, đáp ứng các yêu cầu của sản xuất. Song nguồn nhân lực của Tỉnh hiện nay chất lượng còn thấp, cơ cấu trình độ ngành nghề chưa hợp lý, năng lực đào tạo, giảng dạy hạn chế. Do đó sẽ gặp nhiều khó khăn nếu không kịp thời nâng cao về chất lượng, đổi mới cơ cấu ngành nghề đào tạo, gắn đào tạo với thị trường lao động. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang phải đào tạo nguồn nhân lực cho chính mình. Điều đáng chú ý là hiện nay các sinh viên tốt nghiệp có tay nghề cao, có kỹ năng giỏi thường làm cho các doanh nghiệp lớn. Nguyên nhân là hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa không đủ khả năng để đầu tư cũng như không có đủ điều kiện cho nguồn nhân lực nghiên cứu và phát triển chuyên môn theo đòi hỏi công việc.
Do đó trong thời gian tới, việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực và đội ngũ chủ doanh nghiệp cần tập trung một số nhiệm vụ sau:
Tạo ra các cơ chế, chính sách thu hút nhân tài, tạo môi trường tốt cho các nhân tài phát triển.
Tăng cường công tác giáo dục, đào tạo các công nhân có tay nghề cao.
Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa cần phải đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng bằng nhiều phương pháp khác nhau để phù hợp với yêu cầu đa dạng của chủ doanh nghiệp.
Tạo điều kiện cho các cán bộ quản lý, kỹ thuật giao lưu với nước ngoài để kịp thời nắm bắt được các thông tin, cập nhật thị trường và các đối tác kinh doanh lẫn các đối thủ cạnh tranh.
Tổ chức các lớp học nâng cao tay nghề, mở các trường đào tạo cấp chứng chỉ …
Chính sách trợ giúp phát triển công nghệ.
Sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ và nhu cầu thị trường cũng như các đòi hỏi về trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ lao động đã gây áp lực lớn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có công nghiệp thay đổi nhanh chóng. Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì sự chuyển dịch từ lao dông thủ công sang bán thủ công và tự động hóa là xu thế khách quan. Do đó, nhu cầu thay thế và trang bị công nghệ mới cũng như các yêu cầu về quản lý là hết sức cần thiết để doanh nghiệp đối phó và thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng về cong nghệ như hiện nay.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Phú Thọ hiện nay đang gặp khó khăn về đổi mới công nghệ- thiết bị, khó khăn về thông tin như không nắm rõ đối tác, không biết tìm nguồn công nghệ phù hợp và tính cạnh tranh của công nghệ như thế nào, khó khăn về tài chính. Phần lớn các công nghệ và kỹ thuật do các doanh nghiệp nhỏ và vừa tự tìm kiếm, trong khi đó chính sách công nghệ của Phú Thọ mới chỉ dừng ở phương hướng, mối quan hệ giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc chuyển giao công nghệ mới chỉ xuất hiện ở bước đầu. Do vậy để tránh lãng phí, rủi ro trong đầu tư công nghệ thì Phú Thọ việc đầu tiên cần xác định là đổi mới công nghệ chỉ khi có thị trường và dựa vào thị trường để đổi mới công nghệ. Phải dự báo được khả năng phát triển của công nghệ, thị trường sản phẩm công nghệ mang lại. Đầu tư đổi mới công nghệ ở những ngành lĩnh vực Phú Thọ có lợi thế như giấy, hóa chất, dệt may, phân bón, chế biến nông sản thực phẩm. Tuy nhiên, nội dung và bước đi trong việc đổi mới công nghệ, thiết bị cần phải có các lộ trình, có các phương án tính toán phù hợp với điều kiện kinh tế và khả năng tiếp cận thị trường của doanh nghiệp. Có thể nêu ra một số giải pháp như:
Chuyển giao công nghệ- thiết bị giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ và vừa có cùng ngành sản xuất để tận dụng khả năng nắm bắt công nghệ của các doanh nghiệp lớn đi trước
Cải tiến máy móc thiết bị- công nghệ cũ để tận dụng tối đa cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có.
Không nên đổi mới công nghệ- thiết bị ở những khâu mà lao động thủ công có thể đảm nhiệm được và đảm nhiệm tốt để tận dụng lao động dôi dư tại địa phương và cũng giảm chi phí giá thành sản phẩm.
Chú trọng nâng cao trình độ tiếp thu công nghệ và khả năng vận hành máy móc thiết bị cho người lao động, tiết kiệm, giảm giá thành, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Có các chính sách trợ giúp doanh nghiệp đổi mới công nghệ như chính sách về thuế, mặt bằng sản xuất..
Tạo các áp lực và môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp đổi mới công nghệ. UBND Tỉnh nên tạo ra các áp lực ở mức cần thiết để doanh nghiệp phải nhanh chóng thay đổi công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại bằng cách ra các văn bản quy định thời gian sử dụng công nghệ cho mỗi ngành , loại bỏ các ngành tạo được sự cạnh tranh mới trong những ngành sản xuất có ưu thế của Tỉnh.
Chính sách thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cần phải thực hiện chính sách này theo hai nội dung cơ bản là hệ thống thuế chung đã được đổi mới và chính sách thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. trong hệ thống thuế chung cần thay đổi theo hướng: Đơn giản hóa thuế suất, cụ thể hóa miễn giảm thuế, tránh đánh thuế chồng chéo…Riêng đối với chính sách thuế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, Tỉnh có thể đưa ra các đối tượng ưu đãi, tăng thời gian ưu đãi, miễn giảm thuế đối với doanh nghiệp sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ sạch, sử dụng nhiều lao động.
2.2 Đổi mới công tác quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Vị trí, vai trò của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Tỉnh Phú Thọ đã và đang được khẳng định. Vì vậy đã đến lúc Tỉnh Phú Thọ cần có các biện pháp thiết thực trong quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa trên các lĩnh vực sau:
Nhanh chóng tạo lập khung khổ pháp lý rõ rang và chuẩn xác làm cơ sở pháp lý cho việc hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ.
Xây dựng định hướng chiến lược phát triển các loại doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Phú Thọ trong từng thời kỳ, gắn chặt với quy hoạch tổng thể và phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh, của từng ngành, lĩnh vực và từng vùng kinh tế. Đổi mới quản lý của Nhà nước đối với DNNVV được thể hiện:
Hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước
Tăng cường hiệu lực hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước đối với DN, một mặt vừa phải hoàn thiện tổ chức bộ máy, đảm bảo thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ, mặt khác cần từng bước tách dần các chức năng hiện nay đang lẫn lộn giữa quản lý Nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất kinh doanh, chức năng hành chính với dịch vụ công; phân định và làm rõ quy chế pháp lý đối với các cơ quan hành chính sự nghiệp, nhằm xây dựng nền hành chính lành mạnh, minh bạch và trong sạch.
Đẩy mạnh hoạt động và hoàn thiện các tổ chức phục vụ phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế như: Trung tâm Xúc tiến đầu tư, Trung tâm Xúc tiến Thương mại, Trung tâm Xúc tiến du lịch, cơ quan dự báo kinh tế.
Bổ sung cán bộ đủ năng lực và trình độ, thạo việc và am hiểu công việc, cũng như có chế tài xử lý cụ thể đối với các hành vi sách nhiễu đối với cán bộ công chức trực tiếp làm việc với các doanh nghiệp.
• Đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ cho phát triển DNNVV:
Việt Nam đã ra nhập WTO, do đó đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả của nền hành chính quốc gia nhằm tạo môi trường thể chế thông thoáng hơn và thu hút tốt hơn các nguồn lực nước ngoài phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội. Đây là thách thức lớn vì nó liên quan tới các vấn đề nhạy cảm của nền kinh tế. Tỉnh Phú Thọ cũng không nằm ngoài quy luật đó vì vậy cần phải thay đổi nhận thức về mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà Nước và các doanh nghiệp. Để thực hiện được cải cách hành chính có hiệu quả Tỉnh Phú Thọ cần:
Thực hiện có hiệu quả mô hình “một cửa" trong các lĩnh vực ĐKKD, xét cấp ưu đãi đầu tư, cấp mã số thuế, mã số hải quan, chứng chỉ quy hoạch, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,...
Rà soát chức năng nhiệm vụ những cơ quan có liên quan đến tiếp xúc, phục vụ DN. Tiếp tục cải tiến và phân cấp quản lý cho các sở, ngành, địa phương.
• Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh - đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Các chủ trương, cơ chế chính sách, giải pháp của thành phố phải đáp ứng yêu cầu: đảm bảo các DN được đối xử bình đẳng trong đầu tư, tín dụng, thuê đất, định giá tài sản, đánh giá tín nhiệm.
Định kỳ tổ chức, đối thoại giữa DN với các cơ quan chức năng theo các chủ đề có vướng mắc. Các cơ chế chính sách của Tỉnh trước khi ban hành cần tham khảo ý kiến của cộng đồng DN thông qua các Hiệp hội, Câu lạc bộ...khi đó ban hành cần phải tổ chức phổ biến rộng rãi và hướng dẫn thi hành đến các cấp, các ngành, các hiệp hội và DN.
Sửa đổi bổ sung các cơ chế chính sách ưu đãi giữa DN trong nước và đầu tư nước ngoài theo hướng: các DN đều bình đẳng và nếu DN đầu tư vào lĩnh vực, ngành nghề, khu vực khuyến khích đều được hưởng quyền lợi như nhau, đảm bảo cho DN được đối xử bình đẳng, cạnh tranh công bằng, lành mạnh.
Cơ quan quản lý nhà nước không can thiệp sâu vào quá trình sản xuất kinh doanh của DN, mọi tranh chấp phát sinh phải được đưa ra trọng tài kinh tế hoặc được toà án kinh tế giải quyết theo luật pháp.
Tăng cường hiệu quả và tính minh bạch đối với các dịch vụ hành chính, giảm chi phí các dịch vụ công ích, thực thi pháp luật công bằng và nghiêm minh trên địa bàn Tỉnh, bãi bỏ các quy định không bình đẳng, hạn chế gây khó khăn cho hoạt động của DNNVV.
Tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng sản xuất kinh doanh.
Tỉnh tiếp tục đầu tư nhiều hơn cho cơ sở hạ tầng trực tiếp phục vụ sản xuất kinh doanh như: Đầu tư xây dựng khu - cụm công nghiệp nhỏ, cấp điện, cấp nước cho sản xuất, xử lý nước thải, chất thải trong các khu công nghiệp, kho tàng, bến bãi...ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật, vườn ươm DN, khu công nghệ cao, trong đó chú trọng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học...
Khuyến khích DNNVV đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (theo hình thức BOT) nhằm chuyển dịch đẩy mạnh cơ cấu vốn đầu tư của DNNVV khối dân doanh.
Đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ dịch vụ phát triển doanh nghiệp.
Trong định hướng phát triển kinh tế xã hội và xây dựng các chính sách cụ thể để thúc đẩy DNNVV phát triển tập trung giải quyết 3 vấn đề sau:
Tạo ra lợi thế cạnh tranh bằng các chính sách toàn diện, xây dựng hệ thống cung cấp dịch vụ cho các ngành, các DN sản xuất kinh doanh, sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Tiến hành đánh giá lại năng lực sản xuất công nghiệp, dịch vụ của các DN để có định hướng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, dịch vụ hỗ trợ, xây dựng các mối liên kết ngành có hiệu quả, tận dụng tối đa năng lực hợp tác với các doanh nghiệp FDI, DN lớn ngay từ khâu thiết lập dự án cơ hội, kêu gọi đầu tư, không những chỉ rõ địa điểm dự kiến đầu tư, những ưu đãi cụ thể, mà còn tính đến công nghiệp hỗ trợ của Phú Thọ có thể đáp ứng được những yêu cầu cụ thể cho dự án.
Xây dựng thương hiệu sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của DNNVV, tập trung vào một số vấn đề:
+ Về phía DN cần xác định rő chiến lược thương hiệu của DN để có sự đầu tư thích đáng.
+ Nhà nước hỗ trợ DN bằng cách tổ chức các đơn vị tư vấn miễn phí hoặc thu một phần phí nhỏ để giúp DN tiếp cận vấn đề thương hiệu với một chiến lược tổng thể, xây dựng kế hoạch và có đầu tư thích đáng để xây dựng thương hiệu riêng cho Tỉnh cũng như kế hoạch và lộ trình cụ thể của các DNNVV tham gia chương trình thương hiệu quốc gia.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế phát triển DNNVV.
Tỉnh có cơ chế hợp tác với Trung tâm hỗ trợ DNNVV của các bộ, ngành trung ương để các DNNVV được tiếp nhận hỗ trợ tư vấn về thị trường, tài chính, công nghệ và kỹ thuật, cải tiến trang thiết bị, hướng dẫn quản lý kỹ thuật và bảo dưỡng trang thiết bị, tiếp cận công nghệ mới và bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý cho các DN.
Xây dựng các chính sách ưu đãi để tuyên truyền, vận động người Việt Nam định cư ở nước ngoài có tài lực về hợp tác đầu tư với DNNVV Phú Thọ
Hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để DNNVV liên doanh liên kết đầu tư với các DN nước ngoài.
Hỗ trợ kinh phí và tạo điều kiện cho các DNNVV đặt chi nhánh văn phòng đại diện ở nước ngoài hoặc đầu tư ra nước ngoài.
Kêu gọi các tổ chức tài chính quốc tế tài trợ để thành lập Quỹ tín dụng, Bảo lãnh tín dụng, Hỗ trợ hoạt động của Hiệp hội phát triển DNNVV Tỉnh.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Phát triển mối liên kết giữa các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp nhỏ. Mối liên kết này là một yếu tố khách quan xuất phát từ sự phân công lao động xã hội. Quá trình chuyên môn hóa ngày càng phát triển, càng đòi hỏi sự hợp tác lien kết kinh tế. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp cũng chính là hình thức tổ chức SXKD nhằm khai thác sức mạnh của các thành phần kinh tế. Kinh nghiệm ở nhiều nơi cho thấy, nhờ sự liên kết giữa các loại doanh nghiệp mà hình thành cơ cấu kinh tế nhiều tầng, thực hiện phân công lao động có hiệu quả. Chẳng hạn tầng một là các ngành công nghệ cao, giải quyết các vấn đề kỹ thuật phức tạp và tầng 2 là các công nghiệp vệ tinh và tiểu thủ công nghiệp thực hiện gia công chế biến, cung cấp và tìm kiếm nguyên liệu sản xuất theo đơn đặt hàng. Sự liên kết này giúp cho cả 2 loại doanh nghiệp có điều kiện giải quyết những khó khăn về thị trường, kỹ thuật trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Phú Thọ có lợi thế là một Tỉnh có công nghiệp phát triển sớm ở Việt Nam, hiện nay trên địa bàn Tỉnh có các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước trung ương và một số doanh nghiệp cổ phần như: Giấy Bãi Bằng, Phân bón SUPER hóa chất Lâm Thao, Xi măng Hữu Nghị…Do yêu cầu kỹ thuật và hạn chế về vốn, lao động có tay nghề nên các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay chỉ cần đảm nhận những khâu sản xuất phụ, đảm nhận nguyên liệu đầu vào…giúp các doanh nghiệp lớn tập trung vào sản xuất, nhiệm vụ trọng tâm có hiệu quả hơn. Trên thực tế, trên địa bàn Tỉnh đã xuất hiện một số quan hệ liên kết giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ khá hiệu quả. Tuy nhiên so với tiềm năng, mối quan hệ này còn rất hạn chế. Nguyên nhân là do nhiều doanh nghiệp lớn vẫn phải tiếp nhận khá lớn nguyên liệu đầu vào, bao bì đựng sản phẩm…của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nơi khác mà các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn có khả năng cung cấp cho các doanh nghiệp lớn này. Chính vì vậy cần thúc đẩy mối liên kết giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn. Tỉnh cần có các chính sách, cơ chế, biện pháp khai thông mối quan hệ này, trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc về quản lý kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường
Cơ chế chính sách tác động hỗ trợ các thành phần kinh tế.
Cải cách DNNN là một yêu cầu tất yếu khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tỉnh đẩy nhanh tiến độ sắp xếp DNNN, đặc biệt là cổ phần hoá DNNN. Khi sắp xếp DNNN, mạnh dạn chuyển đổi hình thức sở hữu, tạo tâm lý yên tâm cho người có vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Có các biện pháp kích lệ các phong trào để người dân mạnh dạn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, không cất trữ, không đầu tư vào đất đai nhà cửa. Có các chính sách khuyến kích phát triển các loại hình HTX, DN tư nhân, CT.THHH, CTCP…
Xây dựng cơ chế, chính sách về hợp tác khởi xướng từ cơ quan quản lý Nhà nước nhằm giúp các DN trên địa bàn cùng phân chia thứ hạng, lợi thế đầu tư, không trùng lắp công nghệ,... hợp tác để nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế. Tỉnh tạo thuận lợi cho DN mở rộng hợp tác đầu tư ra các tỉnh, thành phố khác nhằm khẳng định vai trò của Tỉnh. Cùng với cơ chế hợp tác phân công, cần có cơ chế ưu đãi các DN cùng hợp tác chung lo xúc tiến thương mại. Hình thành một tổ chức hỗ trợ và phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ; tiến hành điều tra khảo sát nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu, linh kiện phụ trợ của những mặt hàng chủ lực của Tỉnh để có chính sách, giải pháp phát triển cụ thể.
Tăng cường và đẩy mạnh hoạt động cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh.
Củng cố hoạt động của các hiệp hội đã có như: Hội doanh nghiệp trẻ, Hội làm vườn, Câu lạc bộ xuất khẩu, Hiệp hội ngành gỗ, du lịch,... cần hỗ trợ thành lập các Hiệp hội ngành nghề khác như: Hiệp hội ngành may mặc, đặc biệt cần triển khai vận động thành lập Hiệp hội DNNVV Tỉnh.
Kết Luận
Doanh nghiệp nhỏ và vừa Phú Thọ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng và có đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh (đóng góp bình quân khoảng 30% tổng GDP và khoảng 8,2% tổng giá trị xuất khẩu trên địa bàn Tỉnh)
Trong những năm qua, được sự quan tâm đầu tư thích đáng, Doanh nghiệp nhỏ và vừa Phú Thọ đã đạt được những thành quả quan trọng, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH. Giá trị sản xuất của các doanh nghiệp không ngừng gia tăng, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện.
Tuy nhiên, doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập trong quản lý nên chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của Tỉnh. Trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì công nghệ sản xuất vẫn còn thô sơ, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, trình độ quản lý và trình độ tay nghề của các lao động trong các doanh nghiệp còn hạn chế. Sản phẩm hàng hóa còn kém chưa đáp ứng được yêu cầu, khả năng cạnh tranh kém…Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp còn thiếu và chưa đạt hiệu quả.
Trên cơ sở phân tích và đánh giá những tồn tại yếu kém của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh, cùng với việc đề xuất một số giải pháp cơ bản hy vọng phần nào có thể khắc phục một phần những hạn chế, đảm bảo doanh nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh phát triển trở thành một trong những Tỉnh có nền công nghiệp hiện đại với các doanh nghiệp lớn mạnh.
Tài liệu tham khảo
Vai trò của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phát triển kinh tế Nhật Bản- khả năng hợp tác với Việt Nam. Tg. Lê Văn Sang.
Quản lý điều hành doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tg. Quốc Cường
Hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô và đổi mới thủ tục hành chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam- 1999 (Dự án MPI-UNIDO)
Quy hoạch tổng thể kinh tế- xã hội Tỉnh Phú Thọ Thời kỳ 2005-2020.
Niên giám thống kê Tỉnh các năm 2005-2007
Các tạp chí kinh tế và phát triển
Các báo cáo doanh nghiệp hàng năm của Tỉnh Phú Thọ ở cục thống kê, Chi cục thuế Tỉnh, Sở Kế Hoạch và đầu tư Tỉnh Phú Thọ
Số liệu từ các trang
www.phutho.gov.vn/ (UBND Tỉnh Phú Thọ)
WWW.moi.org.vn
www.business.com.vn
Danh mục chữ viết tắt:
DNNVV: Doanh nghiệp nhỏ và vừa
DN: Doanh nghiệp
DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
CTTHHH: Công ty trách nhiệm hữu hạn
UBND: Ủy ban Nhân Dân Tỉnh
CNH-HĐH: Công nghiệp hóa hiện đại hóa
HTX: Hợp tác xã
CTCP: Công ty cổ phần.
ĐKKD: Đăng ký kinh doanh
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28889.doc