Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hải quan VN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trong tiến trình hội nhập…

Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của tổng cục hải quan nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trong tiến Trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay Phần mở đầu Năm 2007, kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả đầy ấn tượng trên nhiều lĩnh vực. Kết quả này đã đưa Việt Nam lên một vị thế mới. Với những thuận lợi căn bản, vượt qua nhiều khó khăn và thách thức, năm 2007 nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường và phát triển bền vững; 20 trên 23 ch

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1398 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hải quan VN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trong tiến trình hội nhập…, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra trong đó có 10 chỉ tiêu đã hoàn thành kế hoạch 5 năm (2006-2010). Nền kinh tế tiếp tục ổn định, đạt mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua với tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm đạt 8,5%. Song đáng chú ý nhất là cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp xây dựng, dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp. Theo đó, trong cơ cấu GDP năm 2007, khu vực nông nghiệp chỉ chiếm 20%, trong khi đó khu vực cong nghiệp và xây dựng chiếm tới 41,8%, dịch vụ 38,2%. Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Với sự cố gắng chung của toàn thể cán bộ trong Nghành, ngành Hải quan đã hoàn thành vượt mức số thu ngân sách ở mức cao, đạt trên 80.000 tỷ đồng. Đây là nỗ lực lớn của toàn Ngành trong bối cảnh chúng ta hội nhập sâu vào nền kinh tế, thực hiện giảm nhiều sắc thuế… Năm 2007 cùng với thắng lợi chung của toàn ngành Tài chính, ngành Hải quan đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ. Tất cả các mặt công tác đề có bước phát triển cao hơn, đặc biệt trong bối cảnh năm 2007 là năm đầu tiên chúng ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Trong công tác cải cách thủ tục hành chính, ngành Hải quan cũng có những tiến bộ lớn, nhất là công tác hiện đại hoá Ngành và hiện đại hoá công nghệ quản lý đáp ứng yêu cầu quản lý trong quá trình hội nhập. Đặc biệt, với sự cố gắng chung của toàn Ngành trong bối cảnh đất nước đang hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế, thực hiện giảm nhiều sắc thuế, trong khi đó thiên tai, dịch bệnh diễn biến khó lường. Những kết quả trên của ngành Hải quan trong năm 2007 đã góp phần tích cực vào thành tích chung của ngành Tài chính, góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội chung của đất nước. Đứng trước cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập vào WTO, ngành Hải quan Việt Nam cần phải đổi mới hơn nữa đặc biệt là cân đối lại cơ cấu tổ chứccho phù hợp với xu thế chung của sự phát triển chung theo cả chiều sâu và chiều rộng. Từ yêu cầu bức bách này em mạnh dạn tìm tòi và hoàn thành đề tài “Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hải quan Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” dưới sự chỉ bảo và hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo của Cô giáo PGS.TS ĐOàN THị THU Hà và các cô chú tại Tổng cục Hải quan Việt Nam, đặc biệt tại Vụ hợp tác quốc tế nơi em thực tập. Chuyên đề gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về cơ cấu tổ chức, hiệu quả hoạt động và hội nhập kinh tế quốc tế. Chương 2: Phân tích thực trạng hoạt động và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hải quan Việt Nam hiện nay. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức Tổng cục Hải quan Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Chươngi. cơ sở lý luận về cơ cấu tổ chức, hiệu quả hoạt động, hội nhập kinh tế quốc tế Cơ cấu tổ chức 1.1.1 Khái niệm Cơ cấu tổ chức thể hiện các mối quan hệ chính thức hoặc phi chính thức giữa những con người trong tổ chức. Sự phân biệt hai loại mối quan hệ đó làm xuất hiện hai dạng cơ cấu trong tổ chức là cơ cấu chính thức và cơ cấu phi chính thức. Cơ cấu tổ chức là tổng hợp các bộ phận ( đơn vị và cá nhân) có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá, có những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm nhất định, được bố trí theo từng cấp, những khâu khác nhau nhằm thực hiện các hoạt động của tổ chức và tiến tới những mục tiêu đã xác định. Cơ cấu tổ chức thể hiện cách thức trong đó các hoạt động của tổ chức được phân công giữa các phân hệ, bộ phận và cá nhân. Nó xác định rõ mối tương quan giữa các hoạt động cụ thể; những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm gắn liền với các cá nhân, bộ phận, phân hệ của tổ chức; và các mối quan hệ quyền lực bên trong tổ chức. 1.1.2 Các thuộc tính của cơ cấu tổ chức 1.1.2.1 Sự kết hợp giữa chuyên môn hoá và tổng hợp hoá các chức năng, nhiệm vụ, công việc và những vị trí công tác Chuyên môn hoá: khi một người, một bộ phận, phân hệ chỉ thực hiện một hoặc một số công việc, nhiệm vụ, chức năng có mối quan hệ tương đồng. Ưu điểm: Chuyên môn hoá làm nâng cao năng suất lao động Đào tạo lao động dễ dàng hơn ( chỉ đào tạo một vài kỹ năng) Quy trình quản lý thuận lợi và đơn giản hơn. Nhược điểm: Khả năng thích nghi trước đòi hỏi của môi trường thấp hơn. Người lao động sẽ cảm thấy nhàm chán, gây giảm năng suất. Tổng hợp hoá: khi một người, một bộ phận, một phân hệ thực hiện những công việc, những nhiệm vụ, chức năng mang tính độc lập tương đối. Ưu điểm: Người lao động dễ thích nghi hơn với công việc, thấy vui vẻ hoạt bát hơn. Khả năng sáng tạo có thể cao hơn. Nhược điểm: Người lao động có thể làm được nhiều việc nhưng không việc gì thành thạo và chuyên sâu. Khó nâng cao kỹ năng, tính sáng tạo. Trong quá trình quản lý nên nâng cao mức độ tổng hợp hoá đến mức có thể đảm bảo kỹ năng cho người lao động. Với tư cách là người lao động khi cố gắng đa dạng hoá kỹ năng của mình cần xác định cho mình đâu là giá trị trung tâm. 1.1.2.2 Sự phân chia tổng thể thành các bộ phận, phân hệ Sự chuyên môn hoá, tổng hợp hoá theo chiều ngang sẽ dẫn tới sự hình thành các phân hệ của tổ chức. Việc hình thành các bộ phận, phân hệ của tổ chức được thực hiện theo nhiều tiêu chí khác nhau làm xuất hiện các kế hoạch, tổ chức khác nhau ( các kiểu cơ cấu tổ chức khác nhau ) như: Mô hình tổ chức theo chức năng. Mô hình tổ chức theo sản phẩm/khách hàng/thị trường Mô hình tổ chức theo quy trình. Mô hình tổ chức theo ma trận 1.1.2.3 Mối quan hệ quyền hạn trong tổ chức và các mô hình cơ cấu xét theo mối quan hệ quyền hạn Quyền hạn là quyền tự chủ trong quá trình quyết định và quyền đòi hỏi sự tuân thủ quyết định gắn liền với một vị trí ( hay chức vụ ) quản lý nhất định trong cơ cấu tổ chức. Các loại quyền hạn trong cơ cấu tổ chức: Quyền hạn trực tuyến: Là quyền hạn cho phép người quản lý ra quyết định và giám sát trực tiếp đối với cấp dưới. Đây là mối quan hệ quyền hạn giữa cấp trên và các cấp dưới trải dài từ cấp cao nhất xuống tới cấp thấp nhất trong tổ chức, tương ứng với dây chuyền chỉ huy theo nguyên lý thứ bậc. Quyền hạn tham mưu Bản chất của mối quan hệ tham mưu là cố vấn. Chức năng của tham mưu ( hay bộ phận tham mưu ) là điều tra, khảo sát, nghiên cứu, phân tích đưa ra những ý kiến tư vấn cho những người quản lý trực tuyến mà họ có trách nhiệm phải quan hệ. Sản phẩm lao động của cán bộ hay bộ phận tham mưu là những lời khuyên chứ không phải là các quyết định cuối cùng. Quyền hạn chức năng Là quyền trao cho một cá nhân hay bộ phận được ra quyết định và kiểm soát những hoạt động nhất định của các bộ phận khác. Việc hạn chế phạm vi quyền hạn chức năng là rất quan trọng để duy trì tính toàn vẹn của các cương vị quản lý. Để thu được kết quả tốt nhất trong việc giao phó quyền hạn chức năng, người lãnh đạo tổ chức cần đảm bảo rằng phạm vi quyền hạn đó được chỉ rõ cho người được uỷ quyền và cả những người chịu sự tác động của quyền hạn này. 1.1.2.4 Cấp quản lý, tầm quản lý và các mô hình cơ câu tổ chức xét theo số cấp quản lý Nguyên nhân có các cấp quản lý trong tổ chức là bởi giới hạn của tầm quản lý ( hay tầm kiểm soát )- số ngưòi và bộ phận mà một nhà quản lý có thể kiểm soát có hiệu quả. Tầm quản lý rộng sẽ cần ít cấp quản lý, còn tầm quản lý hẹp dẫn đến nhiều cấp. Các mô hình cơ cấu tổ chức xét theo số cấp quản lý: căn cứ số cấp quản lý, tồn tại ba mô hình cơ cấu tổ chức là: Cơ cấu nằm ngang: Cơ cấu tổ chức nằm ngang là loại cơ cấu chỉ có một vài cấp quản lý và hướng tới một nền quản lý phi tập trung. Mọi nhân viên của tổ chức đều được khuyến khích tham gia vào quá trình ra quyết định. Cơ cấu tổ chức nằm ngang làm tăng khả năng phối hợp. Sự phân cách giữa con người trong tổ chức giảm do các nhân viên thường làm việc theo nhóm. Họ có thể di chuyển theo chiều ngang giữa các chức năng hoạt động. Biên giới ngăn cách nhân viên với những nhà quản lý được xoá bỏ, nhu cầu về cán bộ quản lý giảm do mọi người được khuyến khích tham gia tích cực vào quá trình quyết định Cơ cấu nằm ngang hoạt động có hiệu quả trong môi trường thay đổi nhanh chóng do có thể tạo lập được một nền văn hoá khuyến khích sự tham gia một cách sáng tạo, hết mình của các nhân viên vào mọi hoạt động của tổ chức. Cơ cấu tổ chức hình tháp Cơ cấu tổ chức hình tháp là loại cơ cấu có rất nhiều cấp bậc quản lý. Nó thường sử dụng phương pháp quản lý “ trên – dưới” hay “ ra lệnh – kiểm tra”, trong đó các nhà quản lý ra các mệnh lệnh hành chính và kiểm soát gắt gao việc thực hiện mệnh lệnh. Cơ cấu hình tháp được tổ chức dựa trên cơ sở chuyên môn hoá lao động theo chức năng, với sự phân chia tổ chức thành các bộ phận mang tính độc lập cao, tạo nên biên giới cứng nhắc giữa các công việc và đơn vị. Một trong những công cụ quản lý quan trọng trong cơ cấu hình tháp là những bản mô tả công việc chi tiết. Một đặc điểm nữa của mô hình cơ cấu hình tháp là sự phát triển của nhân viên chỉ nằm trong phạm vi của một chức năng. Cơ cấu tổ chức hình tháp có thể hoạt động có hiệu quả trong môi trường ổn định và có thể dự báo được. Trong môi trường năng động, cơ cấu này tỏ ra ít có hiệu quả, và trong nhiều trường hợp đã phải gánh chịu thất bại. Cơ cấu mạng lưới Cơ cấu tổ chức mạng lưới là cơ cấu trong đó mối quan hệ giữa các thành viên ( cá nhân, đơn vị ) được thực hiện trên cơ sở bình đẳng. Cơ cấu mạng lưới cho phép những cá nhân, bộ phận của tổ chức liên kết với nhau; cho phép tổ chức liên kết với khách hàng, những nhà cung cấp, những đối thủ cạnh tranh nhằm tăng cường sức mạnh tổng hợp vì mục đích chung hay khuyến khích sự phối hợp trong điều kiện môi trường có độ bất định cao. Đó là những nhóm tự quản với chế độ ra quyết định tập thể; hoạt động liên doanh, liên kết, liên minh giữa các tổ chức độc lập; các tập đoàn hoạt động theo chế độ hội đồng các giám đốc… Các tổ chức thường sử dụng cơ cấu mạng lưới khi: Cần thực hiện chiến lược quản lý chất lượng đồng bộ. Thâm nhập thị trường quốc tế với những hàng rào vào cửa lập nên bới các đối thủ cạnh tranh ở nước sở tại. Cần quản lý rủi ro trong quá trình phát triển công nghệ với chi phí cao. Cơ cấu mạng lưới hoạt động có hiệu quả trong những trường hợp trên do khuyến khích được sự hợp tác, cho phép thành lập các liên doanh với các tổ chức nước ngoài, tạo điều kiện đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư nhằm giảm thiểu rủi ro tài chính cho tất cả các đối tác. 1.1.2.5 Phân bổ quyền hạn giữa các cấp quản lý- tập trung và phân quyền trong quản lý tổ chức Tập trung là phương thức tổ chức trong đó mọi quyền ra quyết định được tập trung vào cấp quản lý cao nhất của tổ chức. Phân quyền là xu hướng phân tán quyền ra quyết định cho những cấp quản lý thấp hơn trong hệ thống thứ bậc. Phân quyền là hiện tượng tất yếu khi tổ chức đạt tới quy mô và trình độ phát triển nhất định làm cho một người ( hay một cấp quản lý ) không thể đảm đương được mọi công việc quản lý. Uỷ quyền trong quản lý tổ chức là hành vi của cấp trên trao cho cấp dưới một số quyền hạn để họ nhân danh mình thực hiện những công việc nhất định. Mức độ phân quyền trong tổ chức: Mức độ phân quyền càng lớn khi: Tỷ trọng các quyết định được đề ra ở các cấp quản lý thấp hơn càng lớn. Các quyết định được đề ra ở các cấp thấp càng quan trọng Phạm vi tác động bởi các quyết định được ra ở các cấp dưới càng lớn. Một người quản lý càng được độc lập trong quá trình quyết định. Sự phân quyền càng nhỏ khi người quản lý phải thông báo về quyết định của mình với cấp trên và càng nhỏ hơn nữa khi cong phải tham khảo ý kiến cấp trên. Tập trung quá cao sẽ làm giảm chất lượng của các quyết định mang tính chiến lược khi các nhà quản lý cấp cao bị sa lầy trong các quyết định tác nghiệp. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng sự phân quyền không phải bao giờ cũng là có lợi. Những nguy cơ tiềm ẩn của phân quyền là sự thiếu nhất quán trong chính sách, tình trạng mất đi khả năng kiểm soát của cấp trên đối với cấp dưới, tình trạng cát cứ của các nhà quản lý bộ phận. Một tổ chức giũ được cân bằng tốt nếu có khả năng tập trung ở cấp cao quyền ra các quyết định chiến lược và chính sách nhằm tạo khuôn khổ thống nhất cho hoạt động của toàn tổ chức. Một khi các quyết định chiến lược và chính sách đã được đề ra ở cấp cao nhất, các quyết định tác nghiệp sẽ được uỷ quyền cho các bộ phận. Những chỉ dẫn để tiến hành uỷ quyền có hiệu quả Để đạt được mức độ phân quyền mong muốn cần có sự uỷ quyền chu đáo, được đảm bảo bởi một số điều kiện tiên quyết. Thứ nhất, các nhà quản lý phải thực sự tự giác trao cho cấp dưới quyền tự do để họ có thể hoàn thành nhiệm vụ. Điều này có nghĩa chấp nhận việc cấp dưới sẽ lựa chọn những giải pháp và phương tiệnkhác đi so với suy nghĩ của cấp trên, cho phép cấp dưới được mắc sai lầm và được học hỏi từ chính những sai lầm của mình. Thứ hai, cần xây dựng được một hệ thống truyền thông mở giữa cấp trên và cấp dưới. Những nhà quản lý nắm được chính xác khả năng của cấp dưới sẽ có thể lựa chọn đúng đối tượng uỷ quyền. Ngược lại, khi cấp dưới nhận được sự quan tâm, khuyến khích thường xuyên của cấp trên, họ sẽ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ và có trách nhiệm cao đối với công việc. Thứ ba,các nhà quản lý phải có khả năng phân tích các yếu tố như mục tiêu của tổ chức, những đòi hỏi của nhiệm vụ và năng lực của nhân viên để thực sự làm chủ quá trình uỷ quyền. 1.1.2.6 Phối hợp các bộ phận của tổ chức Vai trò của công tác phối hợp: Phối hợp là quá trình liên kết hoạt động của những con người, bộ phận, phân hệ và hệ thống riêng rẽ nhằm thực hiện có kết quả và hiệu quả các mục tiêu chung của tổ chức. Không có phối hợp, con người không thể nhận thức được vai trò của mình trong tổng thể và có xu hướng theo đuổi những lợi ích riêng thay vì hướng tới những mục tiêu chung. Mục tiêu của phối hợp là đạt được sự thống nhất hoạt động của các bộ phận bên trong và bên ngoài tổ chức. Phạm vi cần thiết của phối hợp phụ thuộc vào thuộc tính của các nhiệm vụ và mức độ độc lập tương đối của con người trong các bộ phận thực hiện nhiệm vụ. Sẽ đạt được sự phối hợp nếu làm được những điều sâu đây: Xây dựng được các kênh thông tin ngang dọc, lên xuống thông suốt giữa các bộ phận và các cấp quản lý. Duy trì được mối liên hệ công việc giữa các bộ phận và trong mỗi bộ phận riêng lẻ. Duy trì được mối liên hệ giữa tổ chức với môi trường trực tiếp và gián tiếp. Ví dụ, mối liên hệ của tổ chức với khách hàng, những nhà cung cấp, những nhà phân phối, các cơ quan quản lý nhà nước… Những điều cần đạt được ở trên chứng tỏ rằng truyền thông là chìa khoá của phối hợp có hiệu quả. Khả năng phối hợp phụ thuộc vào năng lực thu thập thông tin, xử lý thông tin và trao đổi thông tin giữa con người và các đơn vị. Mức độ bất định của các nhiệm vụ cần phối hợp càng cao, tầm quan trọng của trao đổi thông tin càng lớn. Các công cụ phối hợp: trong thực tế, phối hợp là quá trình năng động và liên tục, được thực hiện nhờ cả các công cụ chính thức và phi chính thức như sau: Các kế hoạch: với các kế hoạch như chiến lược, chính sách, chương trình, dự án, ngân sách, quy chế, quy tắc, thủ tục, hoạt động của các bộ phận và con người sẽ ăn khớp với nhau nhờ tính thống nhất của các mục tiêu và các phương thức hành động. Hệ thống các tiêu chuẩn kinh tế- kỹ thuật, đảm bảo phối hợp nhờ: Chuẩn hoá các kết quả: chỉ ra phải đạt được gì? Chuẩn hoá các quy trình: chỉ ra phải làm thế nào? Chuẩn hóa các kỹ năng: chỉ ra người thực hiện các quá trình phải thoả mãn những yêu cầu nào? Các công cụ cơ cấu. Có những hình thái cơ cấu tạo điều kiện dễ dàng cho giao tiếp theo chiều dọc ( cơ cấu giảm thiểu số cấp quản lý ) và theo chiều ngang (cơ cấu ma trận, nhóm dự án, nhóm chất lượng, hội đồng thường trực, những nhà môi giới…). Việc sử dụng cơ chế hoạt động của các tuyến chỉ huy cũng có thể tăng cường phối hợp. Thông qua mối quan hệ ra quyết định và báo cáo, các tuyến chỉ huy thúc đẩy các luồng thông tin giữa những con người và đơn vị. Khi yêu cầu đối với phối hợp đã trở nên quá lớn, đến mức làm cho mọi phương pháp đều trở nên thiếu hiệu quả thì tốt nhất là đảm bảo phối hợp bằng cách giảm thiểu nhu cầu phối hợp. Giám sát trực tiếp. Phối hợp được thực hiện bởi người quản lý thông qua việc trực tiếp giám sát công việc của cấp dưới và đưa ra các mệnh lệnh buộc cấp dưới phải thực hiện trong một khuôn khổ thống nhất. Các công cụ của hệ thống thông tin, truyền thông và tham gia quản lý. Văn hoá tổ chức. Hệ thống nhận thức, những giá trị, những chuẩn mực, những nghi lễ hàng ngày, những điều cấm kị nhằm gắn kết các bộ phận và con người của tổ chức thành một khối thống nhất, làm tăng cường khả năng phối hợp để đạt mục đích chung. 1.1.3 Quá trình thiết kế cơ cấu tổ chức 1.1.3.1 Khái niệm Thiết kế tổ chức là quá trình lựa chọn và phát triển một cơ cấu tổ chức phù hợp với chiến lược và những điều kiện môi trường của tổ chức. Đó là quá trình liên tục bởi vì chiến lược có thể thay đổi, và các hoạt động của tổ chức không phải bao giờ cũng đem lại kết quả và hiệu quả như mong muốn. Các bước cơ bản để hoàn thiện hay hình thành một cơ cấu mới như sau: Nghiên cứu và dự báo các yếu tố ảnh hưởng lên cơ cấu tổ chức nhằm xác định mô hình cơ cấu tổng quát Chuyên môn hoá công việc Xây dựng các bộ phận và phân hệ của cơ cấu Thể chế hoá cơ cấu tổ chức Sơ đồ 1.1 Logic của quá trình thiết kế cơ cấu tổ chức 1.1.3.2 Chuyên môn hoá ( hay phân chia công việc ) Kết quả của giai đoạn này là danh mục các chức năng, nhiệm vụ, công việc cần thiết để thực hiện mục tiêu chiến lược. Quá trình chuyên môn hoá công việc được thực hiện theo sơ đồ sau: Phân tích Công việc Phân tích Chức năng hoạt động Phân tích các mục tiêu chiến lược 1.1.3.3 Xây dựng các bộ phận và phân hệ của cơ cấu Nếu như tập hợp các chức năng, nhiệm vụ, công việc cần thực hiện trong tổ chức được hình thành thông qua quá trình chuyên môn hoá, thì các bộ phận của cơ cấu lại được hình thành thông qua quá trình tổng hợp hoá các công việc Trên cơ sở của các quyết định mang tính nguyên tắc về tiêu chí hợp nhóm các hoạt động, các mối quan hệ quyền hạn, tầm quản lý và mức độ phân quyền, trong giai đoạn này cần tiến hành những công việc cơ bản sau: a. Bộ phận hoá các công việc: hợp nhóm các công việc có mối quan hệ gần gũi theo cách hợp lý để tạo nên các bộ phận b. Hình thành cấp bậc quản lý: các cấp quản lý trung gian được hình thành căn cứ vào quyết định về tầm quản lý và tiêu chí hợp nhóm các bộ phận. c. Giao quyền hạn: Xác định ai có quyền quyết định cho ai và ai sẽ phải báo cáo cho ai trong tổ chức. Giao quyền hạn cần thiết cho những người đứng đầu các nhóm để tiến hành quản lý các hoạt động. d. Phối hợp: Xây dựng cơ chế phối hợp hoạt đọng của các bộ phận và cơ chế giám sát kết quả của sự phối hợp đó. Cụ thể hoá các công cụ phối hợp sẽ được sử dụng. 1.1.3.4 Thể chế hoá cơ cấu tổ chức Các công cụ để thể chế hoá cơ cấu tổ chức: a. Sơ đồ tổ chức: Mỗi cơ cấu tổ chức đều có thể được biểu diễn bằng sơ đồ, trong đó xác định các bộ phận, các vị trí quản lý quan trọngcủa cơ cấu và mối quan hệ giữa các vị trí, các bộ phận theo các tuyến quyền hạn chủ yếu. Sơ đồ cơ cấu tổ chức là công cụ hữu hiệu để loại bỏ sự mập mờ, trốn tránh trách nhiệm, thiếu phối hợp, trùng lặp công việc… Tuy nhiên, sơ đồ cơ cấu tổ chức cũng bộc lộ những yếu điểm như chỉ cho biết các mối quan hệ chính thức mà không nêu bật được các mối quan hệ phi chính thức, hay chỉ đưa ra mối quian hệ trực tuyến mà không chỉ ra bao nhiêu quyền hạn tồn tại ở các vị trí khác nhau của cơ cấu. b. Mô tả vị trí công tác: mô tả vị trí là tài liệu xác định các vị trí trong cơ cấu tổ chức với nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm điều kiện làm việc và những yêu cầu đặc trưng đối với nhân sự đảm nhiệm những vị trí đó. Với cương vị là phương tiện kiểm soát, việc miêu tả vị trí công tác là tiêu chuẩn để đưa ra xem xét liệu cần đến vị trí đó hay không, nếu cần thì cấp tổ chức và vị trí chính xác nào trong cơ cấu tổ chức cần được giành nó. 1.2 Hội nhập kinh tế quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với cơ cấu tổ chức ngành Hải quan 1.2.1 Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tùy theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải nhanh chóng khắc phục tư tưởng giản đơn, nôn nóng… Một quan điểm khác lại cho rằng: “ Hội nhập kinh tế quốc tế là gắn kết nền kinh tế của nước mình với nền kinh tế khu vực và thế giới, tham gia vào sự phân công lao động quốc tế, gia nhập các tổ chức đa phương, chấp nhận tuân thủ những quy định chung được hình thành trong quá trình hợp tác và đấu tranh giữa các nước thành viên của các tố chức ấy ( thường được gọi là “luật chơi chung” ). Những “luật chơi chung” được thể hiện trong nhiều điều ước quốc tế và khá phức tạp. Nói một cách đơn giản nhất thì chúng phản ánh những nguyên tắc sau: Một là, hội nhập kinh tế quốc tế làm cho thương mại được mở rộng ra nhiều; nó không chỉ bao gồm thương mại hàng hoá mà còn liên quan tới các loại hình dịch vụ như: ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, viễn thông, vận tải, du lịch, tư vấn, bản quyền, sở hữa trí tuệ…Nói một cách hình tượng thì nhờ có hội nhập, thương mại ngày nay không chỉ bao gồm “phần cứng” ( hàng hoá ) mà cả “phần mềm” ( dịch vụ ), trong đó “phần mềm” ngày càng chiếm vị trí quan trọng hơn. Đồng thời xu hướng chung là các quốc gia đều phải mở cửa kinh doanh với bên ngoài. Hai là, theo xu hướng hội nhập, các nước đều phải giảm thuế trong nhiều trường hợp, thậm chí xoá bỏ hàng rào quan thuế. Ba là, giảm thuế dần và đi tới xoá bỏ hàng rào phi quan thuế, dùng thuế suất thay cho các biện pháp hành chính phi quan thuế. Chỉ được phép áp dụng một số biện pháp hạn chế để bảo vệ môi trường, vệ sinh, bản sắc văn hoá, an ninh quốc phòng… Trong tình hình hiện nay khi chất xám chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong sản phẩm, việc bảo hộ bản quyền sở hữu trí tuệ, nhãn mác sản phẩm được quy định rất chặt chẽ. Bốn là, Nhà nước không được phép bao cấp cho doanh nghiệp, riêng đối với nông sảnthì được phép bao cấp ở một số khâu nhằm hỗ trợ cho sản xuất. Năm là, mở cửa thị trường cho các doanh nghiệp nước ngoài vào kinh doanh, đầu tư ; tạo “sân chơi” bình đẳng cho doanh nghiệp trong và ngoài nước; luật lệ kinh tế phải rõ ràng và công khai. Sáu là, các nước đang phát triển và những nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường được hưởng một số ưu đãi về mức độ cam kết và thời gian thực hiện. Các nước phát triển ủng hộ về vật chất nhằm đẩy nhanh quá trình hội nhập của các nước kém phát triển. 1.2.2 Tính tất yếu của việc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay Việt Nam phải hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm cả nhân tố chủ quan lẫn khách quan. Về mặt chủ quan, nhờ công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã phát triển nhanh chóng, trạng thái của nền kinh tế đã thay đổi một cách cơ bản: nếu như trong những năm 70-80 của thế kỷ trước hầu như mọi thứ đều khan hiếm thì ngày nay nền kinh tế đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế về nhiều mặt hàng, tỷ suất hàng hoá khá cao. Với trên 80 triệu dân, thị trường nội địa nước ta không phải là nhỏ, tuy nhiên do thu nhập của người dân chưa cao cùng với thói quen ưa chuộng hàng ngoại nên ngoài việc cần quan tâm đến thị trường trong nước còn phải chú trọng đến xuất khâu ra thị trường nước ngoài. ở “đầu vào”, mặc dù khả năng tích lũy của nền kinh tế nước ta ngày càng lớn, trình độ khoa học-công nghệ và quản lý kinh tế ngày càng được nâng cao, song trong quá trình Công ngiệp hoá và Hiện đại hoá nước ta vẫn cần phải tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ và kỹ năng quản lý từ bên ngoài. Đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu mới có ngoại tệ nhập máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu cần thiết. Toàn bộ nhu cầu khách quan nói trên đòi hỏi chúng ta phải chủ động hội nhập để mở cửa thị trường tiêu thụ sản phẩm, tranh thủ những thứ ta cần để đảy mạnh Công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Muốn vậy, ta phải chấp nhận các “ luật chơi chung” trên cơ sở “ có đi có lại”. Vả lại, chính trong sự cạnh tranh, các sản phẩm và doanh nhiệp của nước ta sẽ phải vươn lên nâng cao chất lượng và hiệu quả. Nói tóm lại, nước ta chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới vì lợi ích bản thân nước ta. Về mặt khách quan, đất nước đang vươn lên trong một thế giới mà xu thế toàn cầu hoá đang phát triển nhanh chóng, sự gia tăng mạnh mẽ quy mô và phạm vi giao dịch hàng hoá, dịch vụ xuyên quốc gia, dòng vốn đầu tư lan tỏa ra toàn cầu, công nghệ kỹ thuật được truyền bá nhanh chóng và rộng rãi. Cục diện ấy vừa tạo ra những khả năng mới để mở rộng thị trường, thu hút vốn, công nghệ; vừa đặt ra những thách thức mới cả về nguy cơ tụt hậu ngày càng xa và sự cạnh tranh rất gay gắt. Nền kinh tế nước ta là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế thế giới nên không thể không tính đến những xu thế của thế giới, tận dụng những cơ hội do chúng đem lại đồng thời ứng phó với những thách thức do quá trình hội nhập đặt ra. Nhận thức được tầm quan trọng của việc hội nhập kinh tế quốc tế nên Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định một chủ trương lớn là: “ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”. Nhằm cụ thể hoá chủ trương trên, tháng 11-2001 Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết về hội nhập kinh tế quốc tế. Trên thực tế thì nước ta đã hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới với việc tham gia vào khu vực Mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA ), Diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu á-thái Bình Dương ( APEC ), Diến đàn hợp tác á-âu (ASEM ), và đặc biệt là Việt Nam đã trở thành một thành viên chính thức của Tổ chức thương mại Thế giới ( WTO ). Hơn thế nữa xuất khẩu, đầu tư và tài trợ phát triển nước ngoài đã chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng sản phẩm quốc nội và vốn đầu tư xã hội, thu Ngân sách… Nghị quyết Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế đã chỉ rõ mục tiêu,quan điểm chỉ đạo và những việc cần làm để đất nước hội nhập thành công. 1.2.3 Sự cần thiết phải hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Hải quan Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay Trong suốt 40 năm đầu, hoạt động đối ngoại của Hải quan Việt Nam không có gì đáng kể. Là một ngành thuộc Bộ, mọi quan hệ đối ngoại, kể cả kế hoạch đưa đốn các đoàn khách quốc tế đến làm việc cũng đều do cơ quan đối ngoại của Bộ đảm nhiệm. Từ khi thành lập Tổng cục Hải quan, hoạt động đối ngoại của Ngành có sự chuyển biến nhanh về chất và quy mô hoạt động Trong quá trình hội nhập một cách toàn diện vào nền kinh tế khu vực và thế giới, Hải quan Việt Nam có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ các cam kết trong khuôn khổ khu vực tự do thương mại ASEAN ( AFTA ), tiến tới bãi bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan trong ASEAN, Diễn đàn kinh tế châu á-thái Bình Dương ( APEC ) cũng như ASEM. Thông qua việc mở rộng quan hệ quốc tế nhiều chiều, nhiều lĩnh vực, theo hướng “đa phương hoá, đa dạng hoá” và “muốn làm bạn với ttát cả các nước” của Đảng và Nhà nước, hoạt động đối ngoại của Hải quan Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, đúng hướng, vừa mở rộng được quan hệ hợp tác với Hải quan các nước vừa bảo vệ được chủ quyền kinh tế, an ninh của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ trong Ngành có cơ hội tiếp xúc, nghiên cứu, tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao nghiệp vụ. Trong 20 năm đất nước tiến hành công cuộc đổi mới ( 1986-2007), Hải quan Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Tuy vậy, công tác hội nhập quốc tế của Hải quan trong giai đoạn đổi mới, theo đánh giá chung: vẫn còn tản mạn, chưa thực sự bắt kịp với yêu cầu của tình hình đất nước. Thậm chí có một số nội dụng hội nhập chưa được nghiên cứu đầy đủ, dẫn đến việc triển khai chậm, không đồng bộ. Việc tăng cường các quan hệ quốc tế của Hải quan Việt Nam trong giai đoạn mới nhiều thuận lợi, nhưng cũng nhiều thử thách, đòi hỏi những cán bộ làm công tác đối ngoại phải nâng cao lập trường tư tưởng, bồi dưỡng đạo đức cách mạng, nghiệp vụ chuyên môn mới có thể đáp ứng những yêu cầu trong quá trình hội nhập quốc tế. Tăng cường hợp tác quốc tế về Hải quan là điều kiện quan trong để Hải quan Việt Nam nhanh chóng vươn lên hoà nhập với Hải quan thế giới. Sự hợp tác quốc tế đem lại cho Hải quan Việt Nam những hiệu quả thiết thực trong công tác cũng như trong việc xây dựng lực lượng, nhất là về kinh nghiệm hoạt động nghiệp vụ, chống buôn lậu ma tuý, vũ khí và gian lận thương mại. 1.3 Khái niệm hiệu quả hoạt động Tổng quan các khái niệm về hiệu quả kinh tế thương mại, hiệu quả của kinh tế du lịch, hiệu quả đầu tư, hiệu quả tiêu dùng, hiệu quả lãnh đạo, hiệu quả kinh tế trong lưu thông hàng hoá…trong Đại từ điển kinh tế thị trường cho thấy mặc dù về cụ thể các khái niệm có sự khác nhau nhất định nào đó, song đều chứa đựng những nét chung cấu thành bởi các yếu tố như: Kết quả thu được trong một thời gian hoạt động nhất định Chi phí về lao động quá khứ và lao động sống đã đầu tư dưới hình thái tiền tệ để đạt được kết quả nhất định. Sự so sánh giữa giữa 2 yếu tố kết quả và chi phí Dưới góc độ kinh tế chính trị có thể hiểu 1 cách khái quát: Hiệu quả là một khái niệm chung dùng để phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được với tổng chi phí đã đầu tư để đạt được kết quả đó trong từng thời gian nhất định. Từ khái niệm có thể tính hiệu quả về mặt lượng thông qua công thức sau: K H = ------------ C Trong đó: H là hiệu quả ( đơn vị tính bằng số lần, hoặc % ) K là kết quả đạt được ( tính bằng VNĐ, hoặc số vụ, việc ) C là tổng chi phí đã đầu tư ( đơn vị tính bằng VNĐ hay số lao động tham gia thực hiện để đạt kết quả trên ). Hiệu quả hoạt động kinh tế: Tổng các khoản thu nộp vào ngân sách nhà nước H(kt) = ---------------------------------------------------------------- Tổng chi phí đầu tư tương ứng Ngành Hải quan là ngành sự nghiệp dịch vụ có thu, do vậy tổng các khoản thu nộp vào ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu lệ phí và c._.ác khoản thu do buôn lậu và gian lận thương mại về thuế xuất nhập khẩu theo quy định của Nhà nước. ý nghĩa của chỉ tiêu này cho thấy 1VNĐ chi phí đầu tư đem lại bao nhiêu VNĐ thu về cho Ngân sách Nhà nước trong khoảng thời gian nhất định. Hiệu quả này càng cao phản ánh sự hoạt dộng của Hải quan ngày càng phát triển và ngược lại. Hiệu quả chính trị xã hội : Do tính đặc thù của hoạt động Hải quan ngoài mục tiêu kinh tế, nó còn gắn bó chặt chẽ với mục tiêu chính trị – xã hội, mà hiệu quả của nó không thể xác định về mặt định lượng mà chỉ có thể xác định về mặt định tính. Do vậy, việc đánh giá chỉ tiêu này cần thông qua các tín hiệu sau đây: ý thức chấp hành luật pháp và chính sách của Nhà nước đối với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế kinh tế và cá nhân tham gia xuất nhập khẩu gia tăng. Tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại giảm. Những tiêu cực trong ngành Hải quan giảm xuống, lòng tin của dân chúng đối với ngành Hải quan tăng lên. Uy tín của Hải quan Việt Nam đối với các nước trong khu vực và quốc tế tăng lên. Chương ii. Phân tích thực trạng hoạt động và cơ cấu tổ chức của tổng cục hải quan hiện nay 2.1 Lịch sử hình thành của Tổng cục Hải quan Vào đầu những năm 80, đất nước ta gặp rất nhiều khó khăn, lâm vào khủng hoảng kinh tế. Trước tình hình đó, Nhà nước đã quyết định ban hành một số chủ trương mới liên quan đến lĩnh vực khuyến khích xuất khẩu, mở rộng quyền cho địa phương kinh doanh xuất nhập khẩu và về cơ cấu nhập khẩu nhằm khắc phục những khó khăn trong đời sống của nhân dân. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ V (1982) đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng và cấp thiết của việc hợp tác quốc tế và đã đề ra nguyên tắc “ Kết hợp phát triển kinh tế trong nước và mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài”. Trong bối cảnh như vậy, ngành Hải quan gặp phải những khó khăn về lực lượng, và cả sự thiếu hụt trầm trọng về phương tiện phục vụ công tác chuyên môn; cho nên công tác Hải quan trong thời điểm này đã đứng trước những thử thách nặng nề. Với đặc thù của công tác Hải quan, Lãnh đạo Bộ và Ngành luôn coi trọng vấn đề giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ nhân viên, tổ chức thi đua thực hiện cuộc vận động xây dựng lực lượng Hải quan trong sạch, vững mạnh. Toàn ngành đã tiến hành cải tiến lề lối làm việc. Kết hợp chặt chẽ giữa tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể, phát huy tinh thần làm chủ tập thể của cán bộ nhân viên trong mọi công việc, cũng như kết hợp công tác tư tưởng, tổ chức và khuyến khích bằng lợi ích vật chất, giáo dục động viên toàn thể cán bộ. Đồng thời thường xuyên coi trọng công tác kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu tố. Việc đi sâu sát cơ sở như vậy đã góp phần phát hiện những dơn vị, cá nhân làm sai nguyên tắc, chế độ, vi phạm kỷ luật để đề ra biện pháp xử lý kịp thời những hiện tượng tiêu cực, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc trong một số đơn vị, cá nhân. Sau khi chiến tranh biên giới kết thúc, xét thấy Hải quan ở một số địa phương chưa thể tiếp tục hoạt động trở lại, Bộ Ngoại thương đã tạm thời giải tán các chi cục Hải quan Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, đồng thời thành lập thêm một số đơn vị mới phía Nam. Việc này đã tạo điều kiện cho các địa phương có thêm tổ chức và biên chế để đẩy mạnh các hoạt động ở các địa bàn trọng điểm. Về chuyên môn, toàn Ngành không ai có trình độ trên đại học, số có trình độ đại học chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ, còn lại là trung cấp chuyên nghiệp, sơ cấp hoặc chưa có nghề. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lúc này lại phụ thuộc hoàn toàn vào kế hoạch chỉ tiêu đào tạo hàng năm của Bộ Ngoại thương. Ngoài Khoa Hải quan nằm trong trường Trung cấp Ngoại thương, Ngành chưa tổ chức được một khoá đào tạo nào ở bậc đại học. Vì vậy, số cấn bộ tốt nghiệp Trung cấp Hải quan trở thành nòng cốt trong mọi khâu công tác nghiệp vụ và cũng là những giáo viên tại chức, trực tiếp huấn luyện, truyền đạt kinh nghiệm công tác cho số cán bộ nhân viên mới ở cơ sở. Sự tăng trưởng nhanh chóng về số lượng các phương tiện vận tải xuất nhập cảnh, và hơn thế nữa, mạng lưới bưu điện ngoại dịch được mở rộng, đã trở thành những khó khăn thách thức thực sự đối với lực lượng Hải quan ở biên giới, cửa khẩu. Nhưng, vượt lên mọi thử thách, Ngành đã có những biện pháp kiên quyết trong công tác kiểm tra, giám sát, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật. Trong 3 năm ( 1981- 1983) ngành đã làm thủ tục cho 5345 lượt tàu biển, 219997 lượt ô tô và 9775 lượt chiếc máy bây xuất nhập cảnh qua các cửa khẩu nước ta. Mặc dầu trong điều kiệncòn nhiều khó khăn về lực lượng và thiếu thốn phương tiện, lại ít nhiều bị các hiện tượng tiêu cực trong xã hội tác động đến nhưng Ngành Hải quan đã tập trung củng cố lực lượng và nâng cao trình dộ nghiệp vụ, đồng thời kết hợp cùng các ngành chức năng để điều tra khám phá các vụ buôn lậu qua biên giới. Củng cố và tăng cường hiệu quả công tác của ngành Hải quan trở thành mối quan tâm chung của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Vì vậy, Bộ Chính trị TW Đảng và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định tổ chức lại ngành Hải quan. Sau khi Hội đồng Nhà nước có Nghị quyết số 547/NQ/HĐNN ngày 30/8/1984 phê chuẩn việc thành lập Tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng, ngày 20-10-1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 139/HĐBT quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Hải quan ( gồm 11 điều ). Nghị định nêu rõ: “ Tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng, là công cụ chuyên chính nửa vũ trang của Đảng và Nhà nước có chức năng: Kiểm tra và quản lý hàng hoá, hành lý, ngoại hối và các loại công cụ vận tải xuất nhập qua biên giới nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; Thi hành chính sách thuế xuất, nhập khẩu; Ngăn ngừa và chống các vi phạm luật lệ Hải quan và các luật lệ khác liên quan đến việc xuất nhập khẩu; Chống các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới. Nhằm đảm bảo thực hiện đúng chính sách Nhà nước độc quyền về ngoại thương, ngoại hối, góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội và phục vụ công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước”. nghị định xác định rõ quyền hạn và nhiệm vụ của Hải quan là: “Trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định các chính sách, chế độ, thể lệ về Hải quan, về phương thức quá cảnh đối với hàng hoá và công cụ vận tải của nước ngoài qua lại Việt Nam và hướng dẫn thi hành quyết định quyết dịnh đó”. Đồng thời, “ Tổ chức, chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn của Hải quan được quy định trong điều lệ Hải quan năm 1960… Lập các dự án kế hoạch thu thuế xuất nhập khẩu cho toàn ngành và các đơn vị Hải quan…”. Nghị định cũng đã quyết định hệ thống tổ chức bộ máy Hải quan trong cả nước bao gồm: Tổng cục Hải quan; Hải quan tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương; Hải quan cửa khẩu; Các đội kiểm soát Hải quan cơ động của Tổng cục đóng ở Hải Phòng, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. 2.2 Thực trạng tổ chức bộ máy của Tổng cục Hải quan theo từng thuộc tính ảnh hưởng đến các mặt công tác nghiệp vụ hải quan của Tổng cục Hải quan Việt Nam 2.2.1 Hệ thống tổ chức bộ máy ngành Hải quan từ 1984 đến 1993 Ngày 30/8/1984 Hội đồng Nhà nước ra Nghị quyết số 547/NQ-HĐNN thành lập Tổng cục Hải quan là cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Chính phủ ) có Nghị định 139/HĐBT quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Hải quan. Theo Nghị định này, Hải quan Việt Nam được tổ chức thành hệ thống bao gồm: Tổng cục Hải quan đóng trụ sở tại TP. Hà Nội và có bộ phận thường trực đóng tại TP. Hồ Chí Minh. Hải quan tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương ở những tỉnh, thành phố, đặc khu có các cửa khẩu do Hội đồng Bộ trưởng quy định. Hải quan cửa khẩu ở những nơi có quy định của Hội đồng Bộ trưởng là cửa khẩu biên giới đường bộ, đường biển, đường sông, ga xe lửa liên vận quốc tế. Các đội kiểm soát hải quan. Các đội kiểm soát cơ động của Tổng cục đóng tại Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, Hải quan Việt Nam đã được thiết lập trên nguyên tắc tập trung thống nhất với 3 cấp cơ bản: Tổng cục Hải quan; Hải quan tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương; Hải quan cửa khẩu, đội kiểm soát Hải quan. Ngày 20/2/1990, Hội đồng Nhà nước thông qua Pháp lệnh Hải quan quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Hải quan Việt Nam và quy định chế độ quản lý Nhà nước về Hải quan nhưng cho đến trước khi có Nghị định 16/CP ngày 7/3/1994 thì hệ thống tổ chức bộ máy Hải quan vẫn tiếp tục được duy trì theo quy định của Nghị định 139/HĐBT. 2.2.2 Hệ thống tổ chức bộ máy theo quy định của Pháp lệnh Hải quan và Nghị định 16/CP của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Tổng cục Hải quan. Hệ thống tổ chức bộ máy theo quy định của Pháp lệnh Hải quan và Nghị định 16/CP của Chính phủ về chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Tổng cục Hải quan là mô hình tổ chức khá ổn định trong một thời gian khá dài là sự kế thừa của mô hình tổ chức trước đó và đã phát huy được hiệu quả tích cực trong thời kì đầu của kinh tế thị trường với những kinh nghiệm phong phú trong xây dựng tổ chức bộ máy của Ngành. Vì vậy, cần được phân tích đánh giá sâu sắc rút ra những vấn đề cần thiết cho việc hoàn thiện tổ chức ở các giai đoạn tiếp theo. Khái quát chung về tổ chức bộ máy: a.1 Về hệ thống tổ chức: Theo pháp lệnh Hải quan và Nghị định 16/CP của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Tổng cục Hải quan thì Tổng cục Hải quan là cơ quan thuộc Chính phủ, được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất, gồm 3 cấp : Cấp Trung ương ( Tổng cục Hải quan ). Cấp tỉnh ( Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố). Cấp cơ sở ( Hải quan cửa khẩu, Đội kiểm soát Hải quan ). a.2 Về cơ cấu tổ chức bộ máy các cấp đến trước khi có Luật Hải quan: Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc cơ quan Tổng cục ( có các phòng, đội trực thuộc : Có 12 Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc với 57 phòng, đội và đơn vị tương đương ). Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố ( có các phòng, Hải quan cửa khẩu, Đội kiểm soát Hải quan trực thuộc ) : Có 30 Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố với 218 phòng, 146 Hải quan cửa khẩu và tương đương, 18 đội kiểm soát và 7 trạm kiểm soát liên hợp. Hải quan cửa khẩu và một số phòng nghiệp vụ có các Đội nghiệp vụ trực thuộc. Trường Cao đẳng Hải quan : có 9 phòng, khoa. ( Kể từ năm 2006, Trường cao đẳng Hải quan được sáp nhập với Phân viện Tài chính thành phố Hồ Chí Minh). 2.2.3 Hệ thống tổ chức bộ máy Hải quan Việt Nam theo quy định của Luật Hải quan và Nghị định 96/2002/NĐ- CP ngày 19/11/2002 : Khái quát chung về tổ chức bộ máy được sắp xếp theo yêu cầu của Luật Hải quan và Nghị định 96/2002/NĐ-CP : Về căn bản, hệ thống tổ chức Hải quan Việt Nam vẫn được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất theo 3 cấp : Tổng cục Hải quan; Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố. Chi cục Hải quan. Sau khi Luật Hải quan được công bố, ngành Hải quan đã tiến hành sắp xếp lại bộ máy bên trong các Cục Hải quan tỉnh, thành phố, Chi cục Hải quan nhằm đáp ứng yêu cầu của sự thay đổi căn bản về quy trình nghiệp vụ; khắc phục sự cồng kềnh của bộ máy gián tiếp. Qua sắp xếp lại số lượng đầu mối cấp phòng thuộc Cục Hải quan tỉnh, thành phố từ 218 còn 118 đầu mối cấp phòng, bỏ cấp đội thuộc phòng và tăng cường được 714 biên chế gián tiếp xuống các Chi cục cửa khẩu. Ngày 4/9/2002, Thủ tướng Chính phủ có quyết định 113/2002/QĐ-CP chuyển Tổng cục Hải quan vào Bộ Tài chính. Sau khi có Nghị định số 96/2002/NĐ-CP ngày 13/11/2002, ngành đã xây dựng và trình Bộ ký ban hành các quyết định quy định về chức năng, nhiệm vụ của các Cục Hải quan tỉnh, thành phố, các Vụ, Cục thuộc cơ quan Tổng cục và các đơn vị sự nghiệp. Thành lập thêm Cục Kiểm tra sau thông quan, phòng Thanh tra và một số phòng Giá tính thuế ở các Cục Hải quan tỉnh, thành phố; Ngày 22/11/2005 Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quyết định số 6641/QĐ-TTg thành lập Trường Cao Đẳng Tài chính – Hải quan trên cơ sở tổ chức lại Trường Cao đẳng Tài chính – Kế toán 4, Trường Cao đẳng Hải quan và Phân viện TP Hồ Chí Minh thuộc Học viện Tài chính; Ngày 6/1/2006 Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Quyết định thành lập Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng công chức thuộc Tổng cục Hải quan. Về cơ bản đến nay, bộ máy tổ chức của Ngành đã được tổ chức khá hoàn chỉnh trên cơ sở các quy định của Luật Hải quan. Cơ cấu tổ chức bộ máy các cấp hiện nay : Vụ, Cục, các đơn vị thuộc cơ quan Tổng cục : 10 Vụ, Cục và Văn phòng ( 6 Vụ không có phòng ) và 6 đơn vị sự nghiệp. Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố có các cấp phòng, chi cục, đội kiểm soát : + Có 33 Cục với 176 phòng, 152 Chi cục, 35 đội kiểm soát. + Các Chi cục Hải quan : Có một số đội nghiệp vụ được sắp xếp theo yêu cầu nghiệp vụ tuỳ theo quy mô và khối lượng công việc. Cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hải quan gồm : a) Bộ máy giúp việc Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan : 1. Vụ Giám sát quản lý về hải quan: 2. Vụ Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu; 3. Vụ pháp chế: 4. Vụ hợp tác quốc tế; 5. Vụ Kế hoạch – Tài chính; 6. Vụ Tổ chức cán bộ; 7. Thanh tra; 8. Văn phòng; 9. Cục Điều tra chống buôn lậu; 10. Cục Kiểm tra sau thông quan; 11. Cục Công nghệ thông tin và Thống kê hải quan. b) Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tổng cục Hải quan : 1. Viện nghiên cứu Hải quan; 2. Trung tâm phân tích, phân loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu miền Bắc; 3. Trung tâm phân tích, phân loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu miền Trung; 4. Trung tâm phân tích, phân loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu miền Nam; 5. Trường Cao đẳng Hải quan; 6. Báo Hải quan. c) Các Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ( các Cục Hải quan địa phương ) trực thuộc Tổng cục Hải quan. d) Các Chi cục Hải quan cửa khẩu, Đội Kiểm soát Hải quan và đơn vị tương đương trực thuộc Cục Hải quan địa phương. 2.2.4 Chức năng, nhiệm vụ của Hải quan các cấp : a) Tổng cục Hải quan: a.1 Chức năng: Tổng cục Hải quan là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực Hải quan và tổ chức thực hiện ché độ quản lý Nhà nước về Hải quan trên phạm vi cả nước. a.2 Nhiệm vụ, quyền hạn : Tổng cục Hải quan thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, theo quy định của Luật Hải quan, các quy định khác của pháp luật có liên quan và những nhiệm vụ, quyền hạn cục thể sau đây : Về nghiệp vụ : + Tiến hành thủ tục hải quan, thực hiện kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan; + Đảm bảo thực hiện quy định của Nhà nước về xuất khẩu, nhập khẩu, về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các nghĩa vụ khác trong phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định. + Tiến hành những biện pháp phát hiện, ngăn ngừa, điều tra và xử lý hành vi buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, ngoại hối, tiền Việt Nam qua biên giới, hành vi vi phạm các quy định khác của Nhà nước về hải quan trong phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định. + Thực hiện thống kê Nhà nước về hải quan. + Tổ chức thực hiện kiểm tra sau thông quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu; + Tổ chức thực hiện pháp luật về thuế và các khoản thu khác đối với hàng hoá xuất nhập khẩu; Về xây dựng lực lượng : + Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân viên Hải quan; + Hợp tác quốc tế với Hải quan cả nước; Kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu ; hướng dẫn tổ chức cá nhân thực hiện quy định của Nhà nước về hải quan. Thực hiện hợp tác quốc tế về hải quan theo quy định của pháp luật. Tổ chức nghiên cứu khoa học và ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong ngành hải quan; Tổ chức chỉ đạo và thực hiện thống kê nhà nước về hải quan; Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, chỉ đạo, thực hiện chế độ tiền lương và chính sách, chế độ đãi ngộ, khên thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Tổng cục; tổ chức công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và quản lý các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tổng cục theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật; Quản lý tài chính và tài sản của nhành hải quan theo quy dịnh của pháp luật và phân cấp của Bộ Tài chính. a.3 Địa bàn hoạt dộng và khu vực kiểm soát hải quan : Địa bàn hoạt dộng : khu vực cửa khẩu, cảng biển, cảng sông quốc tế, cảng hàng không dân dụng quốc tế, bưu điện quốc tế. Khu vực kiểm soát hải quan : dọc theo biên giới bờ biển, hải đảo, vùng tiếp giáp lãnh hải và những địa điểm khác ở nội địa ( gắn với phân cấp cho các cấp chính quyền địa phương ). Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố : b.1 Chức năng : Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hải quan ở địa phương và thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật và phân ccáp cho các cấp của Tổng cục Hải quan. b.2 Nhiệm vụ : Tổ chức giám sát, quản lý về hải quan; Tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu; Tổ chức đấu tranh chống buuôn lậu hoặc vân chuyển trái phép qua biên giới và xử lý các vi phạm về hải quan; Tổ chức thống kê Nhà nước về hải quan; Kiến nghị, đề xuất với Tổng cục Hải quan những vấn đề sử đổi, bổ sung về chính sách, chế độ, quy trình nghiệp vụ trong hoạt động của Hải quan ở địa phương; Thực hiện công tác tổ chức cán bộ và đào tạo; Tổ chức thanh tra và kiểm tra. b.3 Địa bàn hoạt động và khu vực kiểm soát hải quan cụ thể : Địa bàn hoạt động : + Các khu vực cửa khẩu đường bộ, bao gồm các cửa khẩu chính, cửa khẩu phụ dọc theo biên giới quốc gia; + Các cảng hàng không dân dụng quốc tế, cảng biển, cảng sông có thông thương với nước ngoài bằng đường biển, đường sông; Đối với cảng biển quốc tế, khu vực này còn bao gồm cả khu vực xung quanh phao số “ O” và nơi quy dịnh cho tầu thuyền xuất cảnh, nhập cảnh neo đạu để chờ vào cảng biển quốc tế và dọc theo các luồng lạch từ các khu vực nói trên vào cảng biển quốc tế. + Các bưu điện quốc tế có chuyển nhận thư từ, bưu kiện với nước ngoài. + Các tuyến đường quá cảnh mượn đường Việt Nam tính từ cửa khẩu nhập đến cửa khẩu xuất. Khu vực kiểm soát hải quan ( thực hiện phối hợp, không phải là lực lượng chủ trì ) : + Dọc theo biên giới đát liền : Các xã và các đơn vị hành chính tương đương trong khu vực biên giới. + Trên sông suối biên giới là phần sông suối biên giới trong phạm vi các xã và đơn vị hành chính tương đương trong khu vực biên giới. + Dọc theo bờ biển và hải đảo : Bao gồm các xã và các đơn vị hành chính tương đương ở ven biển và hải đảo. + Trên biển: Bao gồm nội thuỷ, lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải. Hải quan cửa khẩu: Hải quan cửa khẩu có chức năng, nhiệm vụ: Tổ chức thực hiện chế độ quản lý Nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu và đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua cửa khẩu. Đội kiểm soát Hải quan: Đội kiểm soát Hải quan có chức năng, nhiệm vụ: Tổ chức thực hiện công tác phòng ngừa, đấu tranh chống buôn lậu hoặc vân chuyển trái phép hàng hoá, ngoại hối, tiền Việt Nam qua biên giới. 2.2.5 Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ phận trực thuộc Tổng cục Hải quan a. Vụ Giám sát quản lý về hải quan: Xây dựng hoặc tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các quy chế, quy trình nghiệp vụ về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, chuyển cửa khẩu, phương tiện vận tải quá cảnh, xuất cảnh, nhập cảnh; về thực hiện bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; về tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế về hải quan mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết trình cấp có thẩm quyền ban hành. Đề xuất, kiến nghị những vấn dề cần sửa đổi, bổ sung về chế độ chính sách quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu, quá cảnh, chuyển cửa khẩu, phương tiện vận tải xuất nhập cảnh liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Vụ. Xây dựng các đề án, giải pháp cải cách thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát Hải quan. Xây dựng các đề án, chương trình, kế hoạch hiện đại hoá về nghiệp vụ thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan; đề xuất việc trang bị các phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác kiểm tra giám sát hải quan. Trình Tổng cục trưởng quyết định cấp giấy phép thành lập kho ngoại quan, kho bảo thuế, quyết định thành lập địa điểm kiểm tra thực tế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu ngoài cửa khẩu theo quy định của pháp luật. Quản lý hoạt động của các Trung tâm phân tích, phân loại hàng hoá xuất nhập khẩu thuộc Tổng cục Hải quan theo phân công của Tổng cục trưởng; hướng, quản lý việc sử dụng kết quả phân tích, phân loại hàng hoá xuất nhập khẩu. Hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị trong ngành thực hiện nghiệp vụ về thủ tục hải quan kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu, quá cảnh, chuyển cửa khẩu, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh. Giúp Tổng cục trưởng giải quyết khiếu nại của các cá nhân, đơn vị trong việc thực hiện các quy định về giám sát hải quan. Tổ chức công tác thống kê, đánh giá tình hình và kết quả công tác giám sát quản lý về hải quan của toàn ngành theo quy định. Thực hiện hợp tác quốc tế về nghiệp vụ giám sát quản lý hải quan theo phân công của Tổng cục trưởng. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong công tác giám sát quản lý. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng cục trưởng giao. b. Vụ kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu: Xây dựng hoặc tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các quy chế, quy trình hướng dẫn nghiệp vụ, chế độ kế toán về thuế và thu khác đối với hàng hoá xuất nhập khẩu trình cấp có thẩm quyền ban hành. Đề xuất, kiến nghị với Tổng cục trưởng những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung chính sách, chế độ, chấn chỉnh cải tiến biện pháp quản lý, quy trình nghiệp vụ thu thuế và thu khác đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. Trình Tổng cục trưởng kế hoạch phân bổ chỉ tiêu thu các loại thuế và thu khác đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các đơn vị trong ngành thực hiện chính sách, chế độ, quy trình nghiệp vụ, kế hoạch thu thuế xuất nhập khẩu và thu thuế khác; hướng dẫn, kiểm tra việc xác định trị giá tính thuế, truy thu, truy hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế, theo dõi và đôn đốc nợ đọng thuế, cưỡng chế và xử lý vướng mắc về thuế và thu khác đối với hàng hoá xuất nhập khẩu theo quy định của pháp luật. Giúp Tổng cục trưởng giải quyết khiếu nại đối với các quyết định thu thuế và thu khác đối với hàng hoá xuất nhạp khẩu của cơ quan hải quan các cấp. Tổng hợp, thông kê, đánh giá tình hình và kết quả công tác thu thuế và thu khác đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của toàn ngành theo quy định của pháp luật. Tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch hợp tác quốc tế về thuế xuất nhập khẩu theo sự phân công của Tổng cục trưởng. Tổ chức nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong công tác thu thuế xuất nhập khẩu. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng cục giao. c. Vụ pháp chế: Trình Tổng cục trưởng chương trình xây dựng pháp luật hàng năm và dài hạn của ngành Hải quan, kiểm tra, đôn đốc và định kỳ báo cáo Tổng cục trưởng tình hình, tiến độ thực hiện chương trình xây dựng pháp luật đã được phê duyệt. Chủ trì hoặc phối hợp với các đơn vị thuộc Tổng cục Hải quan soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật về hải quan, các điều ước quốc tế về hải quan theo sự phân công của Tổng cục trưởng; tham gia ý kiến vào dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật, các điều ước quốc tế liên quan đến hoạt dộng hải quan do các Bộ, ngành gửi đến lấy ý kiến. Xây dựng các quy chế, quy trình nghiệp vụ xử lý vi phạm hành chính về hải quan trình cấp có thẩm quyền ban hành; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện xử lý vi phạm hành chónh trong ngành; kiến nghị cấp có thẩm quyền giải quyết các vấn đề có liên quan đến công tác xử lý vi phạm hành chính về hải quan. Xem xét trình cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với các quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hải quan và quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành chính thuộc thẩm quyền của Tổng cục trưởng. Chủ trì hoặc phối hợp với các đơn vị liên quan thuộc Tổng cục Hải quan tổ chức công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về hải quan. Thẩm định và bảo đảm tính pháp lý của các văn bản do Tổng cục ban hành hoặc trình cấp trên ban hành. Giúp Tổng cục trưởng kiểm tra, xử lý những văn bản không đảm bảo tính pháp lý do các tổ chức, đơn vị trực thuộc Tổng cục Hải quan ban hành. Thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật Hải quan theo sự phân côngcủa Tổng cục trưởng. Tổng kết, đánh giá và báo cáo tình hình thực hiện công tác pháp chế trong ngành hải quan. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng cục trưởng giao. d. Vụ hợp tác quốc tế: Xây dựng hoặc tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các qui định, quy chế của Tổng cục Hải quan về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hải quan; các chương trình hợp tác quốc tế của ngành Hải quan và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt. Đề xuất phương án và lộ trình gia nhập hoặc kí kết các điều ước quốc tế có liên quan đến hoạt động hải quan; hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, các đơn vị trong toàn ngành triển khai thực hiện các cam kết quốc tế, các điều ước quốc tế về hải quan mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Chủ trì tổ chức hoặc tham gia các cuộc đàm phám quốc tế, hội nghị, hội thảo quốc tế về hải quan theo chương trình kế hoạch và uỷ nhiệm của Tổng cục trưởng. Là đầu mối tiếp nhận và đề xuất với Tổng cục trưởng việc triển khai thực hiện dự án quốc tế liên quan đến hải quan; kiểm tra theo dõi, tổng hợp kết quả thực hiện dự án; định kỳ báo cáo Tổng cục trưởng tình hình và tiến độ thực hiện dự án. Thực hiện công tác ngoại vụ của Tổng cục; làm đầu mối đón đoàn ra, đoàn vào và phối hợp các đơn vị hữu quan trong việc cử đoàn ra; chủ trì phối hợp với các đơn vị có liên quan chuẩn bị các tài liệu, văn bản cần thiết liên quan đến nội dung làm việc với các đối tác nước ngoài; lập kế hoạch các đoàn ra, đoàn vào hàng năm, dự trù tài chính đối ngoại; hướng dẫn về thủ tục lễ tân,giải quyết các thủ tục visa, hộ chiếu cho cán bộ công chức trong ngành đi học tập, công tác tại nước ngoài; lưu trữ, quản lý và xử lý các văn bản đối ngoại di, đến có liên quan đến các hoạt động hợp tác của ngành Hải quan; là đầu mối quản lý việc phiên dịch, biên dịch, khai thác, thông tin, các tài liệu hợp tác quốc tế về Hải quan. Tổng kết, đánh gái và báo cáo tình hình và kết quả hoạt dộng hợp tác quốc tế của ngành Hải quan theo quy định. Đề xuất, kiến nghị với Tổng cục trưởng các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung chương trình, kế hoạch, biện pháp quản lý, chỉ đạo, điều hành trong hợp tác quốc tế về Hải quan. Thực hiện các nhiệm vụ khác được giao. e. Vụ kế hoạch tài chính: Nghiên cứu xây dựng các qui định hoặc hướng dẫn thực hiện các qui định của Nhà nước và của Bộ về quản lý tài chính, quản lý kinh phí hành chính sự nghiệp, quản lý đầu tư và xây dựng, quản lý tài sản công trình cấp có thảm quyền ban hành để áp dụng thống nhất trong toàn ngành hải quan. Hướng dẫn các đơn vị trong ngành hải quan lập dự toán kinh phí hàng năm của đơn vị; tổng hợp dự toán kinh phí hàng năm của toàn ngành hải quan; trình Tổng cục trưởng phân bổ kinh phí cho các đơn vị trong ngành theo dự toán được giao. Tổ chức thẩm tra báo cáo quyết toán tài chính năm của các đơn vị; tổng hợp và lập báo cáo quyết toán tài chính toàn ngành trình Tổng cục trưởng; thông báo phê duyệt quyết toán tài chính năm cho các đơn vị trực thuộc Tổng cục. Giúp Tổng cục trưởng tổ chức thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước về tiền lương, phụ cấp và các chế độ đãi ngộ khác đối với cán bộ công chức ngành hải quan theo qui định; quản lý kinh phí, quản lý vốn đầu tư, quản lý tài chính, kế toán và quyết toán theo quy định của Nhà nước và của Bộ. Giúp Tổng cục trưởng thực hiện các dự án về đầu tư xây dựng và mua sắm các trtang thiết bị có giá trị lớn theo phân công và phân cấp của Tổng cục trưởng; thống nhất quản lý công tác đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý vật tư, niêm phong, ấn chỉ, tài sản trong ngành hải quan theo qui định của Nhà nước và của Bộ Tài chính. Hướng dẫn thực hiện công tác kế toán trong toàn ngành và tổ chức thực hiện công tác tài chính kế toán của đơn vị dự toán cấp 2 theo đúng qui định. Theo dõi, đề xuất giải quyết những vấn đề liên quan đến hoạt động tài chính của các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tổng cục. Tổ chức kiểm tra việc quản lý, sử dụng kinh phí, vốn đầu tư, việc chấp hành chế độ tài chính và kế toán của các đơn vị trong ngành. Tổng hợp, báo cáo tình hìnhcông tác tài chính, kế toán của toàn ngành theo qui định của Bộ Tài chính và của Tổng cục. Thực hiện các nhiệm vụ khác được giao. f. Văn phòng: Xây dựng trình Tổng cục trưởng các chương trình, kế hoạch công tác tuần, tháng, quý, 6 tháng, năm của ngành và của cơ quan Tổng cục; theo dõi, đôn đốc các đơn vị trong ngành thực hiện các chương trình, kế hoạch công tác đã đề ra. Tham mưu cho Tổng cục trưởng quyết định các biện pháp chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác, quy chế làm việc, chế độ thông tin báo cáo trong toàn ngành. Thẩm định về nội dung và thể thức hành chiính của các dự thảo văn bản do các đơn vị thuộc Tổng cục Hải quan soạn thảo trước khi trình cấp có thẩm quyền ban hành; chịu ntrách nhiệm về thủ tục hành chính của các văn bản do Tổng cục ban hành. Giúp Tổng cục trưởng tổ chức điều hành, phối hợp giải quyết các công việc có liên quan giữa các đơn vị thuộc cơ quan Tổng cục, đảm bảo các mặt hoạt động được liên tục, thống nhất, đúng tiến độ. Tổng hợp, báo cáo định kì, đột xuất tình hình hoạt động chung trong ngành; giúp lãnh đạo Tổng cục tổ chức công tác sơ kết, tổng kết định kì và dột xuất để báo cáo cấp trên theo chế độ quy định; phối hợp chuẩn bị nội dung, cung cấp các tài liệu phục vụ các cuộc họp của lãnh đạo Tổng cục và của lãnh đạo Bộ. Hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị trong ngành thực hiện công tác hành chính, văn thư, lưu trữ, cung cấp hồ sơ, tài liệu theo đúng chế độ quy định của Nhà nước và Bộ. Tổ chức thực hiệncông tác hành chính, văn thư, lưu trữ tại cơ quan Tổng cục; tổ chức công tác thông tin phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Tổng cục và hoạt động của cơ quan Tổng cục. Tham mưu giúp Tổng cục trưởng chỉ đạo, hướng dẫn công tác thi đua khen thưởng trong toàn ngành hải quan; kiểm tra, đánh gi._. của quản lý hải quan hiện đại với quy trình, htủ tục hải quan được xử lý bằng phương tiện điện tử. Cải cách thủ tục hải quan: Cải cách thủ tục hải quan là một vấn yêu cầu tất yếu trong quá trình tự đổi mới và hội nhập của Hải quan Việt Nam. Những cải cách mạnh mẽ của ngành Hải quan sẽ góp phần tích cực vào việc đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hoá, kích thích sản xuất hàng hoá trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài, tạo môi trường thuận lợi cho ngành Du lịch và những hoạt động đối ngoại khác. Đây là một quyết định đúng đắn , nhưng cũng rất mạo hiểm. Vì vậy, việc cải tiến, bố trí lại dây chuyền công tác được thực hiện khẩn trương, nhưng thận trọng và được chia làm 2 giai đoạn: Phân luồng hành khách tại sân bay quốc tế. Sắp xếp lại tổ chức Hải quan cảng, áp dụng quy trình một của và phân luồng hàng hoá. Sắp xếp, bố trí lại lực lượng Hải quan cửa khẩu, khu công nghiệp, khu chế xuất… Thực hiện việc phân luồng hàng hoá xuất nhập khẩu để kiểm tra có trọng điểm. Đơn giản hoá những quy định thủ tục, giấy tờ. Công khai các quy định về thủ tục hải quan, các văn bản hướng dẫn giúp doanh nghiệp nắm vững chủ trương chính sách để thực hiện và kiểm tra giám sát công tác quản lý của Hải quan. Lập hòm thư góp ý, đường dây nóng và công khai số điện thoại của các cấp lãnh đạo Hải quan để kịp thời gian giải quyết những thắc mắc, kiến nghị của doanh nghiệp. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp quy liên quan đến công tác quản lý hải quan cho phù hợp với chủ trương cải cách thủ tục hành chính của Chính phủ. Bố trí lại công tác điều tra chống buôn lậu theo hướng tập trung đấu tranh với các đối tượng buôn lậu có tổ chức, có đường dây và buôn lậu trên biển. Đề xuất thành lập kho ngoại quan trong các khu công nghiệp, khu chế xuất nhằm thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài. Đề xuất cho tổ chức dịch vụ khai thuế hải quan nhằm hạn chế phiền hà, tiêu cực của cán bộ, nhân viên hải quan, giảm bớt các sai phạm do doanh nghiệp không nắm chắc thủ tục hải quan. Cải tiến quy trình thu thuế mới để giải phóng nhanh hàng hoá xuất nhập khẩu. Thực hiệnphân cấp cho Hải quan cửa khẩu. Bố trí, sắp đặt lại lực lượng theo quy trình nghiệp vụ khép kín, có sự giám sát quản lý chặt chẽ với nhau. Tiến tới áp dụng phương pháp quản lý hải quan hiện đại. Tóm lại, những cuộc cải cách thủ tục hải quan, tiến hành từ năm 1994 đến nay đã đem lại những kết quả tích cực. Trước hết, các thủ tục, từ khâu kiểm tra, giám sát tới khâu tính thuế, giải phóng hàng đã trở nên thông thoáng, đơn giản. Bảng2.4.1 Kim ngạch xuất khẩu thực hiện qua các năm Cải cách thủ tục hành chính hải quan Năm Xuất khẩu (triệu USD) So sánh với năm 1994(%) Nhập khẩu ( triệu USD ) So sánh với năm 1994(%) 1994 4.054 5.826 100 1995 5.449 134% 8.155 140% 1996 7.256 179% 11.143 191% 1997 8.756 216% 11.151 191% 1998 9.324 230% 11.494 197% 1999 11.520 284% 11.622 199% 2000 14.449 356% 15.635 268% 2001 15.027 371% 16.162 277% 2002 16.705 412% 19.733 339% 2002 20.176 498% 25.227 433% 2004 26.503 654% 31.954 548% ( Nguồn : tổng cục hải quan ) Công tác thu thuế xuất nhập khẩu. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế VAT thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là nguồn thu quan trọng của quốc gia, nhằm cân bằng cán cân tài chính của Nhà nước, bảo đảm các khoản chi quan trọng như xây dựng cơ bản, an ninh quốc phòng, y tế, giáo dục và các khoản chi khác của ngân sách nhà nước. Do đó, trước yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế, đặc biệt là từ đầu những năm 90 của thế ký trước, Chính phủ và Quốc hội luôn giao chỉ tiêu thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho ngành Hải quan năm sau cao hơn năm trước ( năm 1996 gấp 1,42 lần năm 1995, năm 1997 gấp 1,3 lần 1996, năm 1998 gấp 1,2 lần năm 1997 v.v…), đồng thời cũng đề ra nhiều giải pháp quan trọng dể đảm bảo nguồn thu. Từ năm 1999 đến năm 2004 sổ thu từ hoạt động xuất nhập khẩu bao gồm thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, nên số thu từ xuất nhập khẩu lớn hơn và tăng nhanh. Bảng 2.4.2 Số thu hàng năm của Tổng cục Hải quan Từ giai đoạn 1994 – 2004, Năm Số thu ( tỷ đồng ) So với năm 1994 ( %) 1994 10.050 100 1995 13.500 135 1996 15.200 152 1997 13.500 135 1998 16.600 166 1999 23.669 236 2000 24.423 244 2001 29.381 293 2002 37.221 372 2003 39.215 392 2004 46.038 460 (Nguồn : Tổng cục Hải quan ) Công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại Đấu tranh chống buôn lậu qua bien giới luôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng, Nhà nước Việt Nam giao cho Hải quan từ những ngày đầu thành lập cho tới nay. Ngày 17-8-1994, Ban Cán sự Đảng và Lãnh đạo Tổng cục Hải quan ra Nghị quyết 16/NQ-BCS về củng cố và phát triển công tác đấu tranh chống buôn lậu là một trong những chức năng chủ yếu của Hải quan Việt Nam, xác định các mục tiêu cụ thể, các biện pháp thực hiện, định hướng phát triển lực lượng và trang bị phương tiện kỹ thuật cho lực lượng chống buôn lậu của Ngành và của các đơn vị cho tới năm 2000. Về công tác tổ chức và xây dựng lực lượng, đáng chú ý nhất là cac mục tiêu: Xây dựng Cục Điều tra chống buôn lậu thành cơ quan điều tra cấp trung ương của ngành Hải quan. Tổ chức 4 đội kiểm soát Hải quan trên biển; từng bước được trang bị hiện đại để tăng cường hoạt động tuần tra chống buôn lậu, sao cho lực lượng này chiếm khoảng 40% tổng biên chế toàn ngành. Từng bước áp dụng khoa học, kỹ thuật hiện đại, bước đàu hiện đại hoá công tác hải quan. ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác Hải quan. Công tác nghiên cứu khoa học Hải quan. Công tác xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ hoạt động nghiệp vụ. Bước đầu hiện đại hoá Hải quan. Đẩy mạnh công tác thống kê nhà nước về Hải quan Tổng cục Hải quan vẫn duy trì đều đặn hai hệ thống báo cáo : Hệ thống báo cáo định kì, được gửi đến lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các bộ, ngành của Chính phủ: + Biểu báo cáo 10 ngày một lần có thông tin về hầu hết các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu trong kỳ báo coá. + Biểu báo cáo hàng tháng với các chỉ tiêu thông tin về mặt hàng, kim ngạch xuất nhập khẩu của các tỉnh, thành phố, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kim ngạhc nhập khẩu hàng tiêu dùng do Nhà nước quản lý, kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng nhập khẩu có điều kiện. Hệ thống báo cáo đột xuất: Thực hiện các yêu cầu thông tin đột xuất phục vụ lãnh đạo Tổng cục, công tác điều tra chống buôn lậu, kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu, giám sát quản lý, hợp tác quốc tế… Các yêu cầu cung cấp số liệu thống kê hàng hoá xuất nhập khẩu do Chính phủ, Bộ Công an, Tổng cục Thống kê, Ngân hàng Nhà nước… Tăng cường công tác tuyên truyền, báo chí Công tác tuyên truyền, báo chí là một trong những hình thức giáo dục chính trị tư tưởng, kịp thời biểu dương gương người tốt việc tốt trong nội bộ, đồng thời biểu dương gương người tốt việc tốt trong nội bộ, đồng thời là công cụ phổ biến chính sách pháp luật về hải quan cho nhân dân, trước hết là các doanh nghiệp và cá nhân có tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu. Từ năm 1990, trước xu thế đổi mới của đát nước, công tác tuyên truyền của Ngành không thể chỉ bó hẹp trong nội bộ, mà cần được lưu hành rộng rãi hơn để tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác Hải quan. Do đó, lãnh đạo Tổng cục Hải quan đã quyết định nâng Bản tin Hải quan thành Tạp chí Hải quan từ 5-1990. Tới tháng 11-1998, Tạp chí Hải quan được chuyển thành Báo Hải quan cho đến nay. Nhờ có đội ngũ phóng viên và cộng tác viên nên trong suốt thời gian xây dựng và phát triển, Tạp chí Hải quan trước đây, Báo Hải quan ngày nay đã đi sát và phản ánh được những hoạt động của Ngành, kịp thời biểu dương người tốt việc tốt và góp phần vào tuyên truyền phổ biến, giải thích chính sách pháp luật của Đảng, Chính phủ về lĩnh vực quản lý Hải quan đến đông đảo người đọc, trước hết là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. 2.5. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực Hải quan Quán triệt đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hóa quan hệ của Đảng và Nhà nước, nhận thức rõ vai trò, tính chất đặc thù của hoạt động hải quan luôn gắn liền với hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu, đầu tư và du lịch quốc tế, ngành Hải quan đã chủ động có những bước đi trong hội nhập khu vực và quốc tế từ rất sớm. Đặc biệt, từ đầu những năm 1990 đến nay, Hải quan Việt Nam đã lần lượt ký kết các thoả thuận hợp tác và hỗ trợ nghiệp vụ với Hải quan các nước Pháp, Anh, Trung quốc, Hàn quốc, Mỹ, Nhật, ấn Độ, Đài loan, Liên bang Nga và các nước trong ASEAN. Đồng thời, tích cực tham gia voà hoạt động của Tổ chức Hải quan Thế giới ( WCO), hợp tác hải quan trong APEC, ASEAN, tổ chức thành công nhiều hội nghị hải quan khu vực tại Việt Nam. Thông qua các mối quan hệ hợp tác hải quan song phương và đa phương, Hải quan Việt Nam đã nhanh chóng hoà nhập vào cộng đồng Hải quan quốc tế, tranh thủ sự trợ giúp về kỹ thuật, đào tạo cán bộ và tiếp cận với phương pháp quản lý hải quan hiện đại, góp phần đưa Hải quan Việt Nam tiến tới ngang tầm Hải quan các nuớc tiên tiến. Chương III. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hải quan trong bối cảnh hiện nay. 3.1 Quan điểm hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hải quan Việt Nam 3.1.1 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức phù hợp với sự thay đổi chức năng, nhiệm vụ ý kiến chung ở Tổng cục Hải quan Việt Nam cho rằng để có thể trở thành một cơ quan hải quan tầm cỡ quốc tế, cần phải xem xét lại cơ cấu tổ chức từ cấp trung ương đến cấp Hải quan địa phương. nguyên tắc cho việc xây dựng mô hình hoạt động là kết hợp một cách hài hoà vai trò của Hải quan như một cơ quan công quyền thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hải quan với vai trò của một cơ quan cung cấp dịch vụ cho cộng đồng doanh nghiệp và xã hội. Hoạt động của Hải quan chịu các sức ép thương mại liên quan đến hoạt động tài chính, dịch vụ khách hàng, quản lý nguồn nhân lực…Trong thực tế, mô hình của hải quan dù là một cơ quan công quyền nhưng Hải quan vẫn phải tham khảo áp dụng các nguyên tắc quản lý của khu vực tư nhân giống như các cơ quan hải quan mang đẳng cấp quốc tế khác. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức Tổng cục Hải quan nhằm vừa tăng chức năng quản lý Nhà nước về Hải quan, vừa tăng chức năng phục vụ, cung cấp một dịch vụ công tốt nhất trong lĩnh vực hải quan. Xem xét chức năng, nhiệm vụ của các Cục, các Vụ…đối chiếu với phương pháp quản lý mới làm giảm các chức năng nhiệm vụ chồng chéo. Những đề xuất về cơ cấu tổ chức hải quan đều phải dựa trên cơ sở toàn cầu hoá đang tăng lên cùng với hàng loạt nhân tố mới phát sinh có thể đe doạ đến an ninh quốc gia, bao gồm cả khủng bố, chiến tranh, dịch bệnh cũng như sự lập lờ thiếu quyết đoán trong các điều kiện kinh tế hiện hành. Hải quan nhận thức được mô hình đang thay đổi của thương mại thế giới và tác động của các nguồn vốn đầu tư có thể có đối với nền kinh tế Việt Nam. Sự tác động ngày càng tăng lên của các quá trình và môi trường kinh doanh quốc tế đang trở nên rộng khắp trên toàn quốc và đương nhiên Hải quan cần phẩi đáp ứng những tiến triển này bằng cách tạo thuận lợi cho tăng trưởng thương mại nói chung đồng thời thúc đẩy lợi thế cạnh tranh của Việt Nam nói riêng trong khi vẫn phải thực hiện tốt chức năng quản lý của một cơ quan công quyền. Chiến lược của Tổng cục Hải quan Việt Nam là để trở thành “một cơ quan hải quan hiệu quả, minh bạch, hiện đại cung cấp các dịch vụ có chất lượng cho cộng đồng thông qua đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, sử dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại và thực hiện các thủ tục hải quan đơn giản hoá như các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã, đang và sẽ tham gia”. Tầm chiến lược của Hải quan Việt Nam là trở thành một cơ quan Hải quan hiện đại, chuyên nghiệp, cung cấp những dịch vụ hải quan chất lượng cao cho cộng đồng xã hội, là một cơ quan đi đầu trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại, đầu tư, góp phần voà sự tăng trưởng kinh tế, tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước thông qua sự nỗ lực của đội ngũ nhân viên hải quan tận tụy và chuyên nghiệp Hải quan Việt Nam phấn đấu đạt ttrình độ của Hải quan các nước đứng đầu trong khu vực ASEAN, thể hiện: lực lượng Hải quan đạt trình độ chuyên nghiệp, chuyên sâu; hệ thống thông quan trong các khâu nghiệp vụ hải quan về cơ bản là tự động hoá trên cơ sở áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro, có trang thiết bị kỹ thuật hiện đại nhằm tạo thuận lợi cho các hoạt động thương mại hợp pháp, tạo môi trường hấp dẫn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế, đảm bảo cho nguồn thu ngân sách Nhà nước, bảo vệ an ninh xã hội, thực thi pháp luật về hải quan một cách minh bạch, công khai, đạt hiệu quả cao. Trong tiến trình toàn cầu hoá hiện nay, Hải quan đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là trong dây chuyền thương mại quốc tế vì cơ quan Hải quan một mạt phải đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại hợp pháp, đảm bảo an ninh hàng hoá và góp phần tăng khả năng canh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế, mặt khác phải đảm bảo nguồn thu ngân sách, chống buôn lậu và gian lận thương mại có hiệu quả cũng như nguy cơ có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và cn toàn xã hội. Trong đó có một số khía cạnh sau: Thu thuế: Theo xu hướng của thế giới hiện nay thì cơ quan Hải quan đang chuyển dịch từ vai trò chính là cơ quan thu thuế chuyển sang vai trò là cơ quan tạo thuận lợi cho thương mại. Điển hình ở Việt Nam, nguồn thu của Ngân sách quốc gia hiện nay vẫn phụ thuộc phần lớn vào nguồn thu thuế của Hải quan, do đó đảm bảo nguồn thu thuế hải quan đóng một vai trò quan trọng trong chính sách tài chính của quốc gia. Tuy nhiên, trong xu hướng tự do hoá thương mại khu vực và quốc tế cùng với việc hội nhập kinh tế quốc tế với việc áp dụng Hiệp định trị giá và các hiệp định quốc tế khác, xu hướng thuế nhập khẩu sẽ ngày càng giảm và kúc đó nguồn thu thuế giá trị gia tăng ( VAT ) đối với hàng hoá nhập khẩu sẽ chiếm một phần đáng kể trong tổng thu của cơ quan Hải quan. Do vậy, một trong những mục tiêu hàng đầu của cơ quan Hải quan là đảm bảo thu đúng, thu đủ thuế hàng hoá liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu và tạo nguồn thu khác cho ngân sách quốc gia thông qua việc tạo thuận lợi cho thương mại hợp pháp và thúc đẩy hoạt động sản xuất phát triển Tạo thuận lợi cho thương mại, phương tiện vận tải và hành khách qua biên giới: giảm sự can thiệp không cần thiết vào các hoạt động thương mại hợp pháp, qua đó giảm chi phí cho các doanh nghiệp và góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. Thủ tục hải quan hiện nay theo thống kê của Tổ chức Hải quan Thế giới có liên quan đến 29 – 30 các bên khác nhau và khoảng 40 loại chứng từ, hơn 200 dữ liệu về thông tin, trong đó hơn 30 trong số này là các dữ liệu được lặp đi lặp lại. Điều này là nguyên nhân dẫn đến chi phí hành chính tăng lên rất cao và chiếm khoảng 7- 10% giá trị thương mại. Do đó, đơn giản và hài hoà thủ tục hải quan theo các chuẩn mực quốc tế sẽ mang lại nhiều lợi ích cho thương mại, nhiều khi lớn hơn cả lợi ích từ tự do hoá thương mại Tạo môi trường thương mại và đầu tư lành mạnh, bình đẳng nhằm thúc đảy hoạt đọng sản xuất trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài. việc thực hiện thủ tục hải quan đơn giản, thuận tiện, đảm bảo thu đúng, thu đủ thuế đối với hàng hoá nhập khẩu có nghĩa cơ quan Hải quan đã bảo vệ được các nhà sản xuất trong nước, tạo môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Với việc thúc đẩy sản xuất trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài về lâu dài sẽ tạo ra nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Bảo đảm thu thập số liệu thống kê thương mại chính xác và kịp thời phục vụ cho việc xây dựng và hoạch dịnh chính sách đối với nền kinh tế kịp thời và hiệu quả. 3.1.2 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức phù hợp với thể chế Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hải quan Việt Nam là một Tổng cục cấp quốc gia, đảm bảo tinh gọn biên chế phù hợp vơi kế hoạch cải cách hành chính của Nhà nước, phù hợp với Luật Hải quan. Hoàn thiện cơ cấu và giảm gọn biên chế không chỉ là một giải pháp dành cho Tổng cục Hải quan, mà còn là điều bắt buộc, phù hợp với chính sách đã công bố của Chính phủ và cần thực hiện để đáp ứng sức ép tài chính gia tăng. Xu hướng này cúng phản ánh chính sách đã công bố của Tổng cục Hải quan trong “ Kế hoạch cải cách, Phát triển và Hiện đại hoá ngành Hải quan” được Bộ Tài chính thông qua. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức phải phù hợp với Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 5/11/2002 của Chính phủ Qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ; Nghị định số 96/2002/NĐ-CP ngày 19/11/2002 của CHính phủ Qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hải quan và Quyết định số 15/2003/QĐ-BTC ngày 10/2/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Tổng cục Hải quan. 3.1.3 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức đáp ứng đòi hỏi của hội nhập kinh tế quốc tế Trách nhiệm của Hải quan ngày càng nhiều và phức tạp để đáp ứng được yêu cầu của môi trường thay đổi. Thách thức đối với Hải quan là đáp ứng với những yêu cầu về hội nhập, tạo thuận lợi cho thương mại đồng thời phải đảm bảo quản lý có hiệu quả. Do vậy ngành Hải quan phải tiến hành đổi mới cả phương thức hoạt động cũng như mô hình quản lý tổng thể. Trước diễn biến ngày càng phức tạp của tình hình trong nước cũng như quốc tế, Tổng cục nên xin ý kiến chủ đạo của Bộ Tài chính cũng như các chuyên gia để hoàn thiện công tác đổi mới toàn diện nhằm thay đổi đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của quốc tế. 3.1.4 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức trong nội bộ ngành Hải quan - Cơ cấu tổ chức bộ máy hiện tại tuy có thể phù hợp với phương pháp quản lý hiện nay nhưng sẽ không phù hợp với phương pháp quản lý mới sẽ là đặc trưng cho một tổ chức Hải quan hiện đại. Bộ máy,hành chính cồng kềnh, có quá nhiều các Cục Hải quan tỉnh, thành phố với quy mô không đồng đều dẫn tới tăng chi phí hành chính và tăng độ quan liêu trong cơ cấu chỉ đạo thực thi tại cơ sở. - Việc áp dụng công nghệ thông tin trong xử lý các giao dịch thủ tục Hải quan sẽ dẫn tới sự điều chỉnh về vai trò nhiệm vụ của các cấp Chi cục và hệ quả của nó là yêu cầu quy hoạch lại hệ thống Chi cục cũng như tổ chức của nó. Việc áp dụng một số lĩnh vực nghiệp vụ mới như quản lý rủi ro, thu nhập và phân tích thông tin, kế toán quản lý, xu hướng tập trung hoá một số chức năng nghiệp vụ như quản lý rủi ro, hệ thống ứng dụng ( trị giá, phân loại, xuất xứ…)…cũng sẽ đặt ra yêu cầu phải rà soát và sắp xếp lại chức năng nhiệm vụ của các đơn vị hiện hành trên cơ quan Tổng cục - Cơ cấu tổ chức của ngành Hải quan hiện tại chưa phù hợp với một tổ chức Hải quan hiện đại. Có quá nhiều các Cục Hải quan cấp tỉnh, thành phố với quy mô hết sức khác nhau. Điều này dẫn tới hình thành bộ máy hành chính lớn ở cấp giữa, làm cho cơ cấu chỉ đạo trực tiếp giữa cấp Trung ương và cấp thừa hành ( Chi cục ) trở nên xa cách hơn, yêu cầu đầu tư bị dàn trải. - Số lượng nhiều các Chi cục cũng là một vấn đề cần phải xem xét khi tiến hành hiện đại hoá do tính chất hoạt động của các Chi cục sẽ điều chỉnh do áp ụng hệ thống xử lý khai báo trên cơ sở giao dịch điện tử. - Quản lý nguồn nhân lực trong tổ chức: Tổng cục Hải quan đang thực hiện chức năng Quản lý Nhân sự truyền thống và chưa chuyển sang chức năng Quản lý Nguồn nhân lực hiện đại hơn. Vấn đề tiêu chuẩn hoá các chức danh công việc cũng chưa được rõ ràng. Chưa có một danh sách mô tả công việc nào làm rõ được các tiêu chuẩn cơ bản cần có cho mỗi vị trí công việc. Trình độ đội ngũ cũng đang là những bất cập trong bối cảnh Hải quan Việt Nam dự kiến tiến hành công cuộc cải cách và hiện đại hoa. Một loạt các chuẩn mực và thông lệ quốc tế cần phải được áp dụng. Quy trình xử lý công việc có thể sẽ có những thay đổi cơ bản đòi hỏi kỹ năng của đội ngũ cán bộ hải quan phải được tăng cường. - Phát triển nguồn nhân lực: Hiện nây chưa có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực nào một cách toàn diện. Toàn bộ việc phát triển Nguồn nhân lực cần phải sử dụng một hướng tiếp cận có hệ thống dựa trên việc phân tích về nhu cầu, đặt ra mục tiêu, hoạch định, thực thi và đánh giá - tức là một Kế hoạch tổng thể. Các hoạt động đào tạo vẫn còn nhiều bất cập ở cả chính sách đào tạo, cơ sở đào tạo, nội dung, phương pháp đào tạo và đội ngũ giảng viên. Đào tạo tập trung ở miền Nam tại trường Cao đẳng Hải quan, nhưng không có cơ sở đào tạo thường xuyên tại miền Bắc và bất cứ khoá học nào thực hiện tại miền Bắc đều sử dụng cơ sở đi thuê trong suốt thời gian thực hiện khóa học - Cơ sở vật chất: Hệ thống các trụ sở làm việc của Hải quan, đặc biệt là tại các Chi cục vẵn còn quá nhiều văn phòng cũ và được bảo trì kém- nhiều nơi có bố trí không phù hợp và không đủ không gian làm việc và cần được giải quyết thông qua chương trình đầu tư và bảo trì toàn diện Các trang bị kiểm soát ở tình trạng vừa thừa vừa thiếu và sử dụng chưa phù hợp do thiếu hệ thống bảo dưỡng kỹ thuật cũng như một quy trình nghiệp vụ đồng bộ. Do đó ảnh hưởng đến năng lực kiểm soát. 3.2 Những kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hải quan. 3.2.1 Về cơ cấu tổ chức bộ máy và cán bộ - Tổ chức bộ máy của toàn ngành nên được chuẩn hoá, kiện toàn sắp xếp lại để đáp ứng các yêu cầu quản lý hải quan hiện đại và chương trình cải cách hành chính của Chính phủ. - Lãnh đạo chủ chốt ở cơ quan Tổng cục được đào tạo thường xuyên để am hiểu quản lý Hải quan hiện đại, có kiến thức kỹ năng quản lý, hoạch định và điều hành thực hiện chiến lược của ngành, trình độ ngoại ngữ có thể nghiên cứu tài liệu, giao tiếp. Lãnh đạo cấp phó của các Vụ, Cục chuyên môn nghiệp vụ của Tổng cục đạt tới trình độ chuyên gia về lĩnh vực nghiệp vụ Hải quan. - Đội ngũ chuyên viên làm việc công tác tham mưu nghiên cứu được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ chuyên môn; Có khả năng nghiên cứu, tham mưu, đề xuất ý kiến, kiểm tra hướng dẫn trong lĩnh vực phụ trách; Có kinh nghiệm thực tiễn và trình độ ngoại ngữ đáp ứng được yêu cầu chuyên môn đề ra. - Sắp xếp, kiện toàn lại bộ máy ở cả 3 cấp trong ngành Hải quan để đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá. Tinh gọn đầu mối kết hợp với việc hình thành bộ phận quản lý mới để đảm bảo thực hiệnnhiệm vụ mới và chức năng quản lý tập trung tại cơ quan Tổng cục. Tăng cường lực lượng chống buôn lậu, kiểm tra sau thông quan cả về chất và lượng. - Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức trong cùng Cục Hải quan tỉnh, thành phố cho phù hợp với cơ cấu tổ chức được kiện toàn lại tại cơ quan Tổng cục. Sắp xếp, điều chỉnh lại các Chi cục Hải quan theo hướng hình thành các Chi cục để quản lý địa bàn rộng. Điều chỉnh nhiệm vụ của Chi cục trong khâu thông quan hàng hoá để tập trung vào nhiệm vụ kiểm tra hồ sơ, kiểm tra giám sát và thông quan thực tế hàng hoá. 3.2.2 Về hiện đại hoá cơ sở vật chất và trang thiết bị nghiệp vụ của ngành Tiêu chuẩn hoá về cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật của toàn ngành theo yêu cầu hiện đại hoá. Tập trung triển khai việc đầu tư cơ sở vật chất, trụ sở làm việc của các đơn vị trong ngành theo quy hoạch đã được phê duyệt. Đối với các đơn vị trọng điểm tại cảng biển quốc tế, cảng hàng không dân dụng quốc tế, cửa khẩu đường bộ lớn sẽ tập trung nguồn lực để đầu tư đồng bộ hệ thống cơ sở vật chất kỹ thụât hiện đại như hệ thống máy soi, hệ thống camera quan sát, các trang thiết bị kiểm tra, giám sát khác. Việc đầu tư xây dựng trụ sở, đầu tư các trang thiết bị kiểm tra giám sát… phải phù hợp và đáp ứng yêu cầu quy trình thủ tục hải quan để nâng cao hiệu quả đầu tư. Hoàn thành việc đầu tư xây dựng Trụ sở Tổng cục theo mô hình hiện đại. 3.2.3 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức trong ngành Hải quan Rà soát đánh giá đội ngũ cán bộ công chức toàn ngành và xây dựng kế hoạch nguồn nhân lực tới năm 2010 theo yêu cầu hiện đại hoá. Triển khai chương trình hệ thống quản lý cán bộ trong toàn ngành để hỗ trợ cho công tác hoạch định chính sách về nhân sự và các kế hoạch quản lý, phát triển nguồn nhân lực khác. Đề xuất bổ sung, sử đổi các chính sách về công tác cán bộ để đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá ( chính sách về tuyển dụng, đào tạo, quy hoạch, bổ nhiệm, đánh giá, luân chuyển…). Củng cố và kiện toàn Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Hoàn thiện hệ thống chương trình, giáo trình đào tạo theo chuẩn mực quốc tế. Đa dạng hoá các phương thức đào tạo ( đào tạo tập trung, đào tạo qua công việc, tự đào tạo, đào tạo qua mạng, liên kết đào tạo…). Kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên… 3.2.3 Xây dựng và phát triển hệ thống công nghệ thông tin hiện đại Xây dựng và triển khai áp dụng rộng rãi một hệ thống chương trình xử lý thông tin hiện đại đáp ứng mục tiêu xây dựng hải quan điện tử. Đầu tư đồng bộ thiết bị phần cứng để hỗ trợ việc vận hành một hệ thống chương trình xử lý mới mang tính tập trung toàn ngành. Hệ thống công nghệ thông tin Hải quan được vận hành thống nhất với các Hệ thống công nghệ thông tin của Bộ Tài chính, dùng chung cơ sở vật chất về hạ tầng mạng WAN, Trung tâm dự phòng và hệ thống chứng thực. 3.2.4 Đẩy mạnh áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro trong tất cả các mặt hoạt động Hải quan Xây dựng và triển khai một kế hoạch tổng thể về áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro trong toàn ngành, và kết quả áp dụng quản lý rủi ro trong từng lĩnh vực công tác cụ thể, trong đó xác định rõ mục tiêu, giải pháp, kế hoạch hành động và lộ trình áp dụng quản lý rủi ro. Việc ứng dụng quản lý rủi ro vào các mặt hoạt động nghiệp vụ hải quan đòi hỏi phải: Xây dựng và thường xuyên cập nhập cơ sở dữ liệu về quản lý rủi ro; Tích hợp các tiêu chí quản lý rủi ro vào trong hệ thống công nghệ thông tin; Thiết lập các kênh trao đổi thông tin trong và ngoài ngành, với tổ chức hải quan quốc tế; Tăng cường năng lực của ngành trong việc thu thập và đánh giá thông tin, nghiên cứu và phân tích thương mại, phân loại đối tượng doanh nghiệp nhằm hỗ trợ và nâng cao hiệu quả của quản lý rủi ro và kiểm tra sau thông quan. 3.3 Kiến nghị mô hình cơ cấu tổ chức mới của Tổng cục Hải quan Để phù hợp với điều kiện đất nước và xu hướng toàn cầu hoá hiện nay,Tổng cục Hải quan cần phải đổi mới phương thức hoạt động cũng như mô hình hoá sao cho đơn giản và gọn nhẹ nhưng vẫn phải đáp ứng đầy đủ chức năng là cơ quan giám sát tình hình hoạt động trao đổi và xuất nhập cảnh hàng hoá, người và phương tiện… Mô hình Tổng cục Hải quan mới như sau: Tổng cục Hải quan vẫn đảm nhiẹm trách nhiệm quản lý và điều hành tổng thể tất cả các mặt nhưng chỉ nên tập trung và khâu hành chính với việ thực hiện các chỉ đạo từ Nhà nước và Bộ Tài chính, đồng thời giám sát hoạt động của các cục Hải quan cấp dưới. Các cơ quan tham mưu cho Tổng cục trưởng cần phối hợp chạt chẽ với nhau nhằm vận hành cong việc một cách nhanh chóng và nhịp nhàng, Đối với các cấp nhỏ hơn hoạt động ở địa phương nên được trao nhiều quyền hạn hơn nữa vì bộ phận này trực tiếp hoạt động nghiệp vụ hải quan và là đơn vị thu về cho Ngân sách Nhà nước chủ yếu. Bộ tài chính Tổng cục hải quan đơn vị sự nghiệp Cục hải quan địa phương Bộ máy giúp việc Chi cục hq và đơn vị tương đương Phòng giám sát Viện nghiên cứu Hải quan Vụ giám sát quản lý Phòng chống Bl Vụ KT thu thuế XNK Tt phân tích hàng hoá XNK miền bắc đội kiểm soát Phòng luật VN Tt phân tích hh miền trung Vụ pháp chế Phòng luật Quốc tế Vụ hợp tác Quốc tế Tt phân tích hh Miền nam Phòng Kế Hoạch Phòng Tài chính Trường cao đẳng hải quan Vụ kế hoạch tài chính Phòng thanh tra Báo hải quan Vụ tổ chức Cán bộ Kết luận Hải quan Việt Nam là một ngành kinh tế trọng yếu của nền kinh tế nước ta trong suốt thời kì kháng chiến chống giặc ngoại xâm đến giai đoạn xây dựng và bảo vệ hoà bình của đất nước. Cũng có thể nói rằng ngành Hải quan đã đóng góp rất nhiều thành quả của mình vào sự phát triển chung của đát nước. Để có được những thành quả này, các cán bộ công chức của toàn ngành phải hoạt động rất nỗ lực và đấu tranh chống lại những hành vi vi phạm pháp luật để bảo vệ an ninh quốc gia, nền kinh tế, nâng cao mói quan hệ quốc tế. Đề tài nghiên cứu của em mặc dù đã rất cố gắng nhưng do hạn chế thời gian và kiến thức nên khó có thể tránh được sai sót và khiếm khuyết. Để hoàn thiện đề tài, ngoài sự nỗ lực của bản thân em còn được sự giúp đõ nhiệt tình của các cô chú, anh chị tại Tổng cục Hải quan Việt Nam và đặc biệt trong Vụ Hợp tác quốc tế và cô giáo hướng dẫn là pgs.ts đoàn thị thu hà đã tận tình chỉ bảo và góp ý để em hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ trên của cô giáo và Tổng cục Hải quan Việt Nam trong suốt quá trình thực tập của em. Tài liệu tham khảo 1. Khoa Khoa học quản lý - Đại học Kinh tế quốc dân: Giáo trình Khoa học quản lý tập 2 – Chủ biên: PGS.TS Đoàn THị Thu Hà, PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền – Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật – Hà nội, năm 2002. 2. Khoa Khoa học quản lý - Đại học Kinh tế quốc dân : Giáo trình Hiệu quả quản lý dự án Nhà nước – Chủ biên : PGS.TS Mai Văn Bưu – Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật – Hà nội, năm 2001. 3. Khoa Khoa học quản lý - Đại học Kinh tế quốc dân: Giáo trình Chính sách kinh tế – xã hội – Chủ biên: PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà, PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền – Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật – Hà nội, năm 2002. 4. Khoa Khoa học quản lý - Đại học Kinh tế quốc dân: Giáo trình Chính trị học trong quản lý công – Chủ biên: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn, TS Đỗ Thu Hà - Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, năm 2007. 5. Sách 60 năm Hải quan Việt Nam – Tổng cục Hải quan Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà nội năm 2005. 6. Quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính, số 35/2003/QĐ - BTC về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Báo Hải quan. 7. Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính số 30/2003/ QĐ- BTC về qui định chức năng, nhiệm vụ , quyền hạn của các Vụ, Văn phòng và Thanh tra thuộc Tổng cục Hải quan. 8.Nghị định của Chính phủ số 96/2002/NĐ- CP về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hải quan. 9. Tạp chí nghiên cứu và trao đổi, số 6, tháng 6 năm 2007, bài cần thiết phải nội luật hoá các điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực Hải quan, Thăng long. 10.Báo Hải quan, số1+2 bài Việt Nam năm 2007 thế và lực mới, tác giả Phạm Giang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc27096.doc
Tài liệu liên quan