LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế. Xu thế này có tác dụng hỗ trợ và bổ xung cho nhau, trong đó các quốc gia trên thế giới đều được tích cực đan xen và phối hợp các chính sách kinh tế theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới xoá bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm tạo thuận lợi và tiến tới tự do hoá thương mại, hàng hoá, dịch vụ, đầu tư; tự do hoá tài chính tiền tệ, vốn và lao động. Trên thực tế
113 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1451 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu nhằm phục vụ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, phần lớn các quốc gia trên thế giới đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững là do có sự hoà nhập về thương mại với thế giới. Thương mại không bao giờ chỉ đem lại lợi ích cho quốc gia này mà quốc gia kia lại chịu thiệt thòi.
Nhận thức được vấn đề này, Việt Nam đã, đang và sẽ thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo xu thế tự do hoá thương mại. Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của ASEAN, APEC, ASEM, đã kí kết hiệp định thương mại Việt – Mỹ và đang trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Việc tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới đồng nghĩa với việc Việt Nam phải tuân thủ các cam kết bắt buộc. Nội dung các cam kết liên quan đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, trong đó có quy định về hạ thấp, thậm chí loại bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan.
Đối với các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng, thuế xuất nhập khẩu là một công cụ bảo hộ sản xuất trong nước; điều chỉnh, kiểm soát hoạt động ngoại thương và là một nguồn thu không nhỏ của Ngân sách Nhà nước. . . Việc tuân thủ các cam kết về giảm và loại bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ có ảnh hưởng nhất định đến các vấn đề trên. Do đó, việc xem xét, nghiên cứu chính sách thuế xuất – nhập khẩu, đánh giá những mặt ưu điểm và mặt nhược điểm của nó, từ đó rút ra những bài học để xây dựng một chính sách phù hợp nhất, vừa thực hiện được các mục tiêu của quốc gia vừa đảm bảo hội nhập kinh tế quốc tế trong tương lai là rất cần thiết.
Nhận thức được điều này, em đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu nhằm phục vụ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” để nghiên cứu cho chuyên đề của mình.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chính sách thuế xuất - nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm vào việc phân tích, đánh giá ưu -nhược điểm của chính sách thuế xuất - nhập khẩu trong thời gian qua từ đó tìm ra những biện pháp để giải quyết những hạn chế của chính sách cũ và góp phần xây dựng những giải pháp phù hợp để hoàn thiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu nhằm đáp ừng những yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Để nghiên cứu và tiếp cận đề tài, phương pháp luận được sử dụng gồm:
Phương pháp duy vật lịch sử.
Phương pháp duy vật biện chứng.
Các phương pháp như:
+ Phương pháp thống kê.
+ Phương pháp so sánh.
+ Phương pháp logic.
và một số phương pháp khác.
Kết cấu của chuyên đề này gồm:
Lời mở đầu
Chương I: Tổng quan về thuế xuất nhập khẩu và chinh sách thuế xuất nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu phục vụ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Kết luận.
Do những hạn chế về lý luận và kinh nghiệm thực tế còn ít, bài viết này chác chắn không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong được sự thông cảm của các thầy cô giáo cũng như mong được sự góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Vũ Duy Hào, các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng – Tài chính, cùng toàn thể các cô, chú, anh, chị công tác tại phòng Thuế xuất nhập khẩu – Tổng cục Thuế đã giúp đỡ em thực hiện chuyên đề này.
Hà nội ngày 02/05/2003.
Sinh viên thực hiện
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ THUẾ XUẤT - NHẬP KHẨU VÀ CHÍNH SÁCH THUẾ XUÂT - NHẬP KHẨU.
I. Lý luận chung về thuế xuất - nhập khẩu
A. Khái niệm về thuế
1. Khái niệm.
Thuế là một biện pháp động viên bắt buộc của Nhà nước đối với các thể nhân và pháp nhân nhằm buộc các thể nhân và pháp nhân trích một phần thu nhập do kinh doanh, do lao động, do đầu tư tài chính, do lưu giữ, chuyển dịch tài sản mang lại cho Nhà nước.
2. Đặc điểm.
- Thuế là một biện pháp tài chính của Nhà nước mang tính quyền lực, tính cưỡng chế và tính pháp lý.
Đặc điểm này đã được thể chế hoá trong Hiến pháp của mọi quốc gia. Việc đóng thuế cho Nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt buộc đối với công dân. Mọi công dân làm nghĩa vụ đóng thuế theo những luật thuế được cơ quan quyền lực tối cao quy định và nếu không thi hành sẽ bị cưỡng chế theo những hình thức nhất định.
- Thuế chứa đựng các yếu tố kinh tế - xã hội.
Thuế là một biện pháp tài chính của Nhà nước mang tính bắt buộc. Tuy nhiên, sự bắt buộc đó luôn luôn được xác lập trên nền tảng của các vấn đề kinh tế và xã hội của người làm nghĩa vụ nộp thuế. Việc xác lập một hệ thống thuế với các loại thuế xuất khác nhau trước hết bắt nguồn từ nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, song thực tế, mức động viên qua thuế bao giờ cũng chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế - xã hội của một quốc gia qua từng giai đoạn lịch sử.
Yếu tố kinh tế ràng buộc đến thuế trước hết phải kể đến thu nhập bình quân đầu người của quốc gia; đến cơ cấu kinh tế, thực tiễn vận động của cơ cấu kinh tế đó cũng như chính sách, cơ chế quản lý của Nhà nước. Cùng với các yếu tố đó, cần phải kể đến phạm vi, mức độ chi tiêu của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng kinh tế của mình.
Yếu tố xã hội ràng buộc đến thuế chính là phong tục tập quán của quốc gia, kết cấu giai cấp cũng như đời sống thực tế của các thành viên trong từng giai đoạn lịch sử.
- Thuế là một khoản đóng góp không mang tính chất hoàn trả trực tiếp.
Khoản đóng góp của công dân bằng hình thức thuế không đòi hỏi phải hoàn trả bằng đúng số lượng và khoản thu mà Nhà nước thu được từ công dân đó. Nó sẽ được hoàn trả lại cho người nộp thuế thông qua cơ chế đầu tư của Ngân sách Nhà nước cho việc sản xuất và cung cấp hàng hoá công cộng.
3. Phân loại thuế.
3.1. Phân loại dựa vào cơ sở đánh thuế.
Căn cứ vào cơ sở đánh thuế, có thể chia các sắc thuế thành 3 loại:
- Thuế thu nhập: bao gồm các sắc thuế đánh trên cơ sở là thu nhập. Thu nhập hình thành từ nhiều nguồn: thu nhập từ lao động dưới dạng tiền lương, tiền công; thu nhập từ các hoạt động sản xuất kinh doanh dưới dạng lợi nhuận, cổ tức, trái tức. . . Thu nhập được biểu hiện dưới nhiều dạng do đó, thuế thu nhập cũng có nhiều dạng: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp. . .
- Thuế tiêu dùng: là các loại thuế đánh vào phần thu nhập được mang tiêu dùng trong hiện tại. Trong thực tế, thuế tiêu dùng được thể hiện dưới nhiều dạng: thuế doanh thu, thuế TTĐB, thuế GTGT . . .
- Thuế tài sản: là các loại thuế đánh vào tài sản. Tài sản co nhiều hình thức biểu hiện: tài sản lưu động (tiền mặt, tiền gửi. . .), tài sản cố định (nhà cửa, đất đai, máy móc. . .). Thuế tài sản đánh trên giá trị tài sản cố định được gọi là thuế bất động sản, đánh trên tài sản tài chính gọi là thuế động sản.
3.2. Phân loại dựa vào phương thức đánh thuế.
Tuỳ thuộc vào phương thức đánh thuế, trực tiếp hay gián tiếp vào thu nhập mà người ta chia thuế thành 2 loại:
- Thuế trực thu: Là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế. Thuế trực thu có đặc điểm là đối tương nộp thuế đồng nhất với đối tương chịu thuế. ở nước ta, thuế trực thu bao gồm: thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất. . .
- Thuế gián thu: là loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập và tài sản của người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa và dịch vụ. Đặc điểm của thuế gián thu là người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. ở nước ta, thuế gián thu bao gồm: thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất - nhập khẩu.
B. Thuế xuất - nhập khẩu là gì?
Khái niệm:
Thuế xuất nhập khẩu hay thuế quan (custom duty) là một biện pháp tài chính mà các nước dùng để can thiệp vào hoạt động ngoại thương. Thực chất đây là một loại thuế gián thu đánh vào hàng hoá được phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu qua biên giới.
Thuế xuất nhập - khẩu trong tiến trình phát triển kinh tế thế giới.
Thuế quan ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại, tồn tại và phát triển cho đến ngày nay. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, thuế quan được sử dụng trong quan hệ kinh tế ngoại thương, buôn bán giữa các quốc gia tư bản. Lúc đó, được khuyến khích bởi các học thuyết tự do thuộc trào lưu kinh tế, người ta cho rằng thuế quan là cản trở lớn cho quá trình phát triển kinh tế và đấu tranh đòi xoá bỏ nó trong buôn bán giao dịch quốc tế. Quan điểm này đặc biệt thịnh hành ở Anh, nơi mà chủ nghĩa tư bản phát triển sớm nhất. Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn này ở một số nước mà nền kinh tế chưa phát triển , được khuyến khích bằng tư tưởng bảo hộ nền sản xuất trong nước, người ta lại sử dụng mạnh mẽ hàng rào thuế quan để che chắn cho nền sản xuất nội địa.
ở giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, hầu hết các nước đế quốc đều sử dụng thuế quan như là một công cụ quan trọng trong chính sách ngoại thương để giành lấy ưu thế trong lĩnh vực buôn bán. Hàng rào thuế quan được dựng lên, nhưng không phải để bảo hộ nền sản xuất trong nước mà để hỗ trợ các ngành có thế lực mang tính chất độc quyền. Thuế quan cao cho phép độc quyền trong nước thâu tóm thị trường nội địa và nâng giá để trang trải cho các khoản lỗ cho xuất khẩu nhằm chiếm lấy ưu thế trên thị trường quốc tế.
ở thời kỳ chiến tranh thế giới thứ nhất, thuế quan được coi là một công cụ quan trọng của Nhà nước dùng để điều chỉnh hoạt động ngoại thương. Sự mất cân đối kinh tế của các nước tham chiến và sự tan rã của việc buôn bán quốc tế sau chiến tranh, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế vào những năm 30, làm người ta cảm thấy nếu chỉ sử dụng riêng thuế quan thì không đủ sức điều chỉnh quá trình hoạt động ngoại thương. Vì vậy, các quốc gia còn kết hợp hàng rào thuế quan với các công cụ khác như: hạn mức ngoại tệ trong thanh toán, tạo ra hạn ngạch xuất khẩu, quy định danh mục hàng hoá xuất -nhập khẩu. . .
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, việc sử dụng công cụ thuế quan ở các nước phát triển đã có sự thay đổi căn bản. Sự phát triển tương đối nhanh chóng của nền kinh tế các nước phát triển đã đưa tới sự ổn định trong buôn bán quốc tế và sự ra đời của hệ thống tiền tệ thế giới. Trong xu thế đó, hầu hết các nước đã dần dần từ bỏ cac biện pháp quản lý hành chính trong buôn bán ngoại thương. Người ta hạ thấp hoặc xoá bỏ hàng rào thuế quan vốn được coi trọng trong chiến tranh thế giới thứ nhất trong những nước tham gia hiệp định GATT (General Argreement On Tariffs and Trade).
Trái với trào lưu trên, các nước đang phát triển đều nhấn mạnh đến công cụ thuế quan trong điều chỉnh hoạt động ngoại thương. Công cụ thuế quan của các nước này được sử dụng nhằm vào hai mục đích là động viên nguồn thu quan trọng cho Ngân sách Nhà nước và bảo hộ nền sản xuất trong nước. Điều này xuất phát từ hai lý do chủ yếu:
Một là, nền công nghiệp của các nước đang phát triển còn yếu chưa đủ khả năng cạnh tranh.
Hai là, nguồn tài chính của các nước còn eo hẹp, trong khi nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chính sách ngày càng lớn.
Như vậy, với những nét khái quát về thuế trong tiến trình phát triển kinh tế của các nước, ta có thể rút ra những kết luận cơ bản sau:
Thứ nhất, tuỳ theo tình hình kinh tế - chính trị của thế giới và của mỗi nước, ở từng giai đoạn khác nhau mà việc sử dụng công cụ thuế quan ở mỗi nước có những điểm khác nhau
Thứ hai, khi nền kinh tế phát triển, khả năng cạnh tranh lớn thì hàng rào thuế quan không được coi trọng. Đối với những nền kinh tế phát triển thì mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước ít được đặt ra.
Thứ ba, đối với những nền kinh tế đang phát triển, khả năng cạnh tranh còn yếu thì việc bảo hộ sản xuất trong nước là cần thiết. Đồng thời, để hoà nhập với xu thế tự do hoá thương mại, các nước này phải dần loại bỏ hàng rào thuế quan một cách hợp lý.
2. Phân loại thuế quan
2.1 Thuế quan theo mục đích.
- Thuế quan theo mục đích ngân khố: đây là dạng thuế quan tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Loại thuế quan này mang tính chất là một loại thuế tiêu dùng đánh vào hàng hoá nhập khẩu mà trong nước chưa sản xuất được hoặc vì những lý do kinh tế và xã hộ mà hạn chế nhập khẩu như rượu, bia, thuốc lá. . .
- Thuế quan bảo hộ: Loại thuế quan này có nhiệm vụ chủ yếu là bảo hộ sản xuất trong nước. Thuế quan bảo hộ thường được dùng trong các trường hợp sau đây:
+ Bảo hộ hàng xuất khẩu bán dưới giá sản xuất trên thị trường quốc tế để đảm bảo ưu thế cạnh tranh.
+ Hạn chế việc nhập khẩu hàng hoá bằng việc thực hiện thuế xuất cao.
+ Bù đắp lỗ do chủ trương ưu tiên xuất khẩu vào những thị trường đặc biệt để tăng khả năng cạnh tranh đối với hàng sản xuất trong nước hoặc sử dụng chế độ ưu tiên về thuế quan phục vụ cho việc nhập nguyên, nhiên vật liệu cần thiết cho việc sản xuất trong nước.
- Thuế quan đàm phán thương mại: loại thuế quan này thường được ấn định trên giới hạn cần thiết để bảo hộ nền sản xuât trong nước, đồng thời là phương tiện dùng để đạt được những kết quả nhất định trong đàm phán với những bên tham gia.
- Thuế quan trừng phạt: loại thuế quan này thường được sử dụng trong trường hợp cần thiết phải trả đũa đối với việc phân biệt thuế quan của hàng hoá do một nước sản xuất sang nước khác. Loại thuế quan này thường được ấn định ở mức cao.
2.2. Thuế quan theo xu hướng vận động của hàng hoá
- Thuế xuất khẩu: đánh vào hàng xuất khẩu. Xu hướng chung trên thế giới hiện nay là để thuế xuất thuế xuất khẩu thấp để hỗ trợ cho việc xuất khẩu hàng hoá. Đối với các nước đang phát triển, nhằm khuyến khích việc xuất khẩu sản phẩm hoàn thành, các nước thường quy định mức thuế xuất khá cao đối với nguyên, nhiên vật liệu xuất khẩu.
- Thuế nhập khẩu: đánh vào hàng hoá nhập khẩu. ở mức độ khác nhau, các nước đều sử dụng loại thuế quan này vào hai mục đích: động viên khai thác nguồn thu cho ngân sách nhà nước và bảo hộ nền sản xuất trong nước.
2.3. Thuế quan theo phạm vi tác dụng
- Thuế quan tự quản: là loại thuế quan thể hiện tính độc lập trong việc đánh thuế của một quốc gia, không phụ thuộc vào các Hiệp định song phương hay đa phương đã ký kết. Loại thuế quan này được chia thành thuế quan tối đa có thuế suất cao nhất và loại thuế quan tối thiểu có thuế suất thấp nhất.
- Thuế quan hiệp định: loại thuế quan này có thuế suất ấn định thoe những điều khoản đã cam kết trong Hiệp định song phương hoặc đa phương.
2.4. Thuế quan theo cách thức quy định.
- Thuế quan theo giá trị: đây là loại thuế quan có thuế suất quy định bằng % của giá trị ghi trên hóa đơn, không phân biệt bằng số lượng, khối lượng.
- Thuế quan đặc thù: mức thuế suất của loại này được quy định bằng số tiền tuyệt đối cho mỗi đơn vị hàng hoá (số lượng, trọng lượng, kiện . . .). Loại thuế quan này đảm bảo cho số thu ngân sách nhà nước ổn định, không chịu ảnh hưởng của sự biến động giá cả.
- Thuế quan phân biệt: loại thuế quan có thể là thuế quan theo giá trị hoặc thuế quan đặc thù nhưng thuế suất thường được chia thành bậc theo giá cả hàng hoá.
3. Vai trò của thuế xuất - nhập khẩu.
3.1. Thuế xuất - nhập khẩu là một công cụ của chính sách thương mại.
- Chính sách tự do hoá thương mại: cơ sở của chính sách này là học thuyết về lợi thế so sánh của nhà kinh tế học người Anh David Ricardo. Lý thuyết này được phát biểu như sau: “mỗi nước sẽ có lợi nếu chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các hàng hoá mình có thể sản xuất với chi phí tương đối thấp. Đồng thời, mỗi nước sẽ có lợi nếu nhập khẩu những hàng hoá mà mình sản xuất với chi phí tương đối cao”.
- Chính sách bảo hộ mậu dịch: để bảo hộ nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài, những nước theo đuổi chính sách bảo hộ mậu dịch thường thi hành chính sách thuế suất cao. Họ lý luận rằng thuế quan cao sẽ có tác động tích cực cho các ngành công nghiệp non trẻ bởi một số ngành công nghiệp non trẻ sẽ không vượt qua được những giai đoạn ban đầu nếu phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế. Do vậy, cần phải bảo hộ cho đến khi ngành này lớn mạnh, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trong thực tế, các nhà kinh tế học sau này đã tổng kết những lý luận này không phải luôn đúng, thậm chí có trường hợp phản tác dụng.
3.2. Thuế xuất nhập - khẩu và việc làm.
Thuế quan làm tăng giá hàng nhập khẩu do vậy có tác dụng hướng cầu vào sản phẩm nội địa. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước phát triển sản xuất, thu hút lao động do đó làm giảm thất nghiệp.
3.3. Thuế xuất - nhập khẩu và đầu tư nước ngoài.
Những nhà kinh tế học cổ điển lập luận về vấn đề này như sau: giả sử nước A có lợi thế về lao động, nước B có lợi thế về kỹ thuật. Nếu nước A tranh thủ được kỹ thuật của nước B, nước A sẽ chuyển sang có lợi thế về kỹ thuật. Để tranh thủ được kỹ thuật của nước B, nước A sẽ đánh thuế suất cao đối với sản phẩm của nước B. Nước B để tránh thuế suất sẽ chuyển giao vốn và kỹ thuật sang nước A (đầu tư nước ngoài) để sản xuất sản phẩm tại nước A. Khi đó, nước A sẽ có được những kỹ thuật của nước B và cộng với những lợi thế về lao động, chi phí trung bình tại nước A sẽ thấp hơn nước B và do vậy hàng hoá của nước A sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn hàng được sản xuất tại nước B. Đây là lập luận khá “ngây thơ” và thực tế đã không đứng vững.
3.4. Thuế xuất - nhập khẩu và chủ quyền quốc gia.
Một lập luận mà ta thường thấy ở các chính trị gia, họ cho rằng để bảo vệ chủ quyền quốc gia, tránh bị phụ thuộc vào nước ngoài thì cần phải phát triển một số ngành, lĩnh vực trọng yếu. Để làm được điều này thì cần phải bảo hộ tuyệt đối cho những ngành và lĩnh vực mà họ lựa chọn. Khi đó, công cụ thuế quanvà nhiều công cụ khác thậm chí kể cả biện pháp hành chính được thực thi để bảo vệ cho quan điểm của họ. Lập luận này đúng trong một số trường hợp, song vấn đề ở chỗ lựa chọn ngành nào, lĩnh vực nào, ở cấp độ nào thì lại là cả một vấn đề không phải dễ dàng.
3.5. Thuế xuất nhập khẩu là một bộ phận của chính sách tài chính quốc gia.
Với vai trò này , thuế xuất - nhập khẩu được coi là nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Đặc biệt đối với những nước đang phát triển thì đây là một nguồn thu quan trọng.
4. Tác động của thuế xuất nhập khẩu.
Chúng ta sẽ nghiên cứu thị trường sản phẩm nội địa X qua hình 1 dưới đây:
P(USD)
Q
Qd
Qd’
Qs’
Qs
0
SS
DD
G
F
Pt
Pw
E
C
Giả sử một quốc gia nào đó đứng trước một mức giá quốc tế Pw của sản phẩm X, theo đó quốc gia A có thể mua bao nhiêu sản phẩm X tuỳ ý từ nước ngoài. Các đường DD, SS biểu thị mức cầu của người tiêu dùng quốc gia A về sản phẩm X và mức cung sản phẩm X của các nhà sản xuất quốc gia A. Ta giả thiết rằng sản phẩm X nội địa và sản phẩm X nước ngoài hoàn toàn có thể thay thế lẫn nhau, người tiêu dùng sẽ mua loại nào rẻ hơn.
Tại mức giá Pw, người tiêu dùng quốc gia A sẽ mua Qd sản phẩm X ( họ muốn ở tại điểm G trên đường cầu Đ) trong khi đó doanh nghiệp nội địa chỉ sản xuất Qs sản phẩm X (họ muốn tại điểm C trên cung SS). Do vậy, sẽ có sự chênh lệch giữa mức cung trong nước Qs và mức cầu trong nước Qd, mức chênh lệch này được bù đắp thông qua nhập khẩu hàng hoá.
Bằng cách nâng giá nội địa, thuế nhập khẩu đã khuyến khích ngành sản xuất sản phẩm X trong nước. Các doanh nghiệp tăng mức sản xuất từ Qs lên Qs’. Thuế nhập khẩu đã bảo hộ cho người sản xuất nội địa bằng cách nâng giá nội địa lên mức mà tại đó, hàng nhập khẩu trở nên kém cạnh tranh hơn. Khi dịch chuyển đường cung từ điểm C đến điểm E, những người sản xuất trong nước sẽ cảm thấy dễ thở hơn vì giá hàng nhập khẩu vào trong nước đã bị nâng lên do có thuế nhập khẩu.
Về phía cầu, việc tăng giá cả làm người tiêu dùng chuyển tiêu dùng của họ trên đường cầu từ điểm G đến điểm F. Lượng cầu đối với sản phẩm X giảm từ Qd xuống Qd’. Người tiêu dùng phải trả nhiều tiền hơn để mua sản phẩm X.
Hình 1 cho thấy ảnh hưởng kết hợp của việc tăng cường sản xuất nội địa và giảm mức tiêu dùng nội địa: đó là giảm nhập khẩu. Nhập khẩu giảm vừa do sản xuất nội địa tăng, vừa do tiêu dùng nội địa giảm. Với bất kỳ mức thuế nhập khẩu cho trước, mức độ giảm nhập khẩu phụ thuộc vào hệ số góc của đường cung và đường cầu nội địa. Các đồ thị này càng co giãn thì một mức tăng nhất định trong quá trình nội địa đã cộng thuế sẽ càng làm giảm mức nhập khẩu. Nhưng khi cả hai đường đều rất dốc thì mức tăng do thuế trong giá nội địa sẽ có ảnh hưởng nhỏ tới lượng cung và lương cầu do đó, ảnh hưởng ít đến số lượng nhập khẩu.
* Chi phí và lợi ích của thuế quan.
Hình 2 sẽ cho chúng ta biết tính toán chi tiết về chi phí và lợi ích trong việc đánh thuế nhập khẩu. Chúng ta cần phải thận trọng để phân biệt chi phí ròng đối với xã hộ và lượng chuyển khoản giữa một bộ phận này củ nền kinh tế sang một bộ phận khác.
Sau khi thuế nhập khẩu được thực hiện số người tiêu dùng mua một lượng sản phẩm X là Qd’. Vì giá đã tăng thêm Pw.t% so với trước nên người tiêu dùng phải chịu thiệt một khoản tiền được biểu thị bằng hình chữ nhật LFHJ trên hình 2. Vởy khoản tiền đó sẽ rơi vào tay ai?
Một phần khoản tiền đó thuộc về nhà nước, phần thu nhập từ việc đánh thuế nhập khẩu của Nhà nước là hình chữ nhật EIHF, bằng mức thuế suất Pw.t% nhân với tổng số sản phẩm X nhập khẩu I Qd’ – Qd I
Hình 2. Chi phí và lợi ích của thuế quan
P(USD)
Q
Qd
Qd’
Qs’
Qs
0
DD
G
F
Pt
Pw
I H
C
J
E
L
SS
Số tiền được biểu thị bằng hình chữ nhật EIHF này từ những người tiêu dùng chuyển vào tay Nhà nước không phải là khoản chi phí ròng đối với xã hội,
Khoản tiền trả thêm của người tiêu dùng cũng rơi vào tay các hãng với tư cách là phần lợi nhuận thêm . Đường cung cho thấy các hãng cần bao nhiêu để tranh trải chi phí thêm cho việc sản xuất cho lượng hàng hoá Qs’ chứ không phải là Qs, diện tíchCELJ biểu thị lượng chuyển khoản từ người tiêu dùng vào phần lợi nhuận thuần tuý hoặc từ lợi ích kinh tế mà các hãng kiếm được. Đó không phải là chi phí ròng đối với toàn xã hội nói chung.
Diện tích tam giác CEI cũng biểu thị khoản trả thêm của người tiêu dùng, nó không phải là thu nhập của Chính phủ, cũng không phải là lợi nhuận thêm của các hãng. Đó là chi phí ròng đối với xã hội gọi là chi phí hỗ trợ cho các hãng nội địa không hữu hiệu.
Đường cung SS cho thấy chi phí cận biên để làm thêm một sản phẩm X cho nền kinh tế quốc nội. Nhưng toàn xã hội có thể nhập khẩu sản phẩm X từ phần còn lại của thế giới với số lượng không hạn chế theo giá quốc tế Pw. Pw là chi phí cận biên thực sự của sản phẩm X đối với nền kinh tế quốc nội. Tam giác CEI biểu thị phần nguồn lực mà xã hội phung phí do sản xuất một lượng Iqs-Qs’l sản phẩm X ở trong nước khi mà đáng lẽ nó đã được nhập khẩu tại mức chi phí thấp hơn. Các nguồn lực mất vào việc sản xuất sản phẩm X trong nước đáng lẽ đã có thể được dùng một cách hiệu quả hơn ở đâu đó trong nền kinh tế.
Còn một khoản tổn thất ròng thứ hai đối với xã hội là phần tam giác FGH. Giả sử thuế nhập khẩu được bãi bỏ và thương mại tự do được phục hồi, số lượng sản phẩm X được tiêu dùng sẽ là Qd. Tam giác FGH biểu thị phần trội hơn của lợi ích tiêu dùng khi đo các độ cao của đường cầu, cho thấy rõ những người tiêu dùng đã định dùng bao nhiêu tiền để chi trả cho một đơn vị hàng hoá cần mua so với chi phí biên của việc mở rộng từ Qd’ đến Qd xét theo mức giá quốc tế mà tại đó hàng nhập khẩu lẽ ra đã có thể được mua. Do việc đánh thuế nhập khẩu xã hội phải chịu một khoản tổn thất ròng bằng tam giác FGH. Tam giác này biểu thị phần lợi ích ròng mà xã hội đã phải mất đi do việc giảm số lượng sản phẩm X mà người tiêu dùng định mua.
Tóm lại, khi chúng ta bắt đầu từ điểm cân bằng thương mại tự do và sau đó đánh thuế nhập khẩu thì hậu quả là sự tăng giá nội địa đưa đến những chuyển khoản cũng như các khoản lãng phí ròng. Dưới dạng mức xấp xỉ ban đầu, ta có thể coi chi phí ròng của các chuyển khoản này đối với toàn xã hộ bằng không. Mức xấp xỉ này là chính xác chỉ khi tất cả những người tiêu dùng là đồng nhất và chia xẻ ngang nhau sở hữu của các hãng và cùng được hưởng lợi về các khoản mà Chính phủ thu được trong phần thu nhập từ thuế nhập khẩu. Trong thực tế, điều đó khó có thể xảy ra và chúng ta sẽ phải lo ngại về cách thực hiện phân phối các chuyển khoản đó.
Nhưng ngoài các chuyển khoản và những ảnh hưởng tiềm tàng trong phân phối, thuế quan còn gắn với những khoản lãng phí ròng. Xã hội luôn luôn có thể nhập sản phẩm X tại mức giá quốc tế. Tại mức cân bằng đã cộng thuế nhập khẩu, giá sản phẩm trong nước cao hơn giá quốc tế. Những người tiêu dùng mua sản phẩm X cho đến khi lợi ích cận biên của sản phẩm X cuối cùng ngang bằng với giá cả mà họ phảI trả cho nên đối với người tiêu dùng, sản phẩm X sau cùng được mua sẽ có giá cao hơn giá quốc tế mà theo đó toàn xã hội có thể mua một sản phẩm X khác nữa. Những người tiêu dùng đang tiêu dùng quá ít. Ngược lại, những người sản xuất nội địa đang sản xuất quá nhiều sản phẩm X. Những người sản xuất nội địa sẽ tiếp tục mở rộng việc sản xuất sản phẩm X cho đến khi giá cả trong nước vừa đủ trang trải cho chi phí làm ra sản phẩm X cuối cùng. Vì giá nội địa cao hơn giá quốc té, xã hội đang phải trả cho sản phẩm X cuối cùng này của những người sản xuất nội địa nhiều hơn số tiền mà đáng lẽ họ phải trả cho nước ngoài để có một sản phẩm X tương tự. Xã hội đáng lẽ có thể làm tốt hơn nếu dùng ít nguồn lực hơn vào ngành X và chuyển các nguồn này vào một ngành xuất khẩu mà có thể thu được số ngoại hối để nhập sản phẩm X tại mức giá quốc tế rẻ hơn.
II. Chính sách thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện hội nhập.
1. Thuật ngữ hội nhập kinh tế quốc tế và bản chất của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1. Thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế”.
Hội nhập kinh tế quốc tế được hiểu là các nước (có thể là các nước trong một khu vực - các nước Đông Nam á, có thể là giữa hai nước - Việt Nam và Mỹ, có thể là giữa một nước với một nhóm nước - Việt Nam và EU hoặc có thể là các nước trên thế giới – WTO) tìm kiếm một số điều kiện nào đó mà họ có thể thống nhất được với nhau (kể cả dành cho nhau những ưu đãI) tạo ra sự công bằng trong quan hệ hợp tác nhằm khai thác các khả năng của nhau phục vụ cho nhu cầu phát triển của mình.
1.2. Bản chất của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập là quá trình tự thích nghi, tự phù hợp. Về bản chất đây là quá trình mà một quốc gia độc lập phấn đấu chủ động tạo ra những điều kiện chung cho hoạt động kinh tế thương mại không phân biệt đối xử để trở thành một thành viên chính thức và hoạt động như một tế bào sống, một bộ phận không thể tách rời trong một tổ chức, tập hợp lớn hơn. Biểu hiện của hội nhập trong lĩnh vực kinh tế là quá trình điều chỉnh, thích nghi để gia nhập tổ chức toàn cầu hay khu vực dưới tác động của xu thế toàn cầu hoá. Nói cách khác, quá trình toàn cầu hoá làm nảy sinh nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới đều có những điểm tương đồng pháp luật quốc tế về hợp tác kinh tế quốc tế trên cơ sở các nguyên tắc đã được xác định về tiếp cận thị trường, không phân biệt đối xử, cạnh tranh công bằng, minh bạch hoá chính sách và pháp luật. Quy định về những hoạt động khẩn cấp của các thành viên trong những trường hợp cần thiết: cắt giảm hàng rào pháp lý về thuế quan và phi thuế quan; giảm và loại bỏ các trở ngại khác để thông thương, phát triển. Mỗi tổ chức quốc tế xác lập và được phân định bằng không gian pháp lý quốc tế khu vực, trong đó dung nạp trạng thái quan hệ hợp tác kinh tế giữa các thành viên, được quy định bằng sự thoả thuận cụ thể hoá thành các hiệp định, chiến lược, kế hoạch, chương trình hành động của tổ chức đó về hợp tác kinh tế. Trong điều chỉnh quan hệ kinh tế quốc tế, vấn đề hài hoà sự đa dạng của hệ thống chính sách các nước là rất cần thiết. Để đảm bảo quá trình hợp tác kinh tế quốc tế diễn ra liên tục, chuẩn mực thì các nước đã áp dụng các nguyên tắc điều chỉnh trong quan hệ thương mại quốc tế bao gồm:
- Thứ nhất: nguyên tắc Tối huệ quốc hay nguyên tắc nước được ưu đãi nhất (MFN - Most Favoured Nation). Guying tắc Tối huệ quốc được hiểu là các bên tham gia trong quan hệ kinh tế thương mại dành cho nhau những ưu đãi không kém hơn những ưu đãi mà mình dành cho nước khác.
Có hai cách áp dụng nguyên tắc Tối huệ quốc:
+ áp dụng chế độ Tối huệ quốc có điều kiện: quốc gia được hưởng Tối huệ quốc phải chấp nhận thực hiện những điều kiện kinh tế - chính trị do Chính phủ của quốc gia cho hưởng đòi hỏi.
+ áp dụng chế độ Tối huệ quốc không điều kiện: quốc gia được hưởng Tối huệ quốc không phải kèm theo bất cứ điều kiện ràng buộc nào cả.
- Thứ hai: nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT - National Treatment). Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia là nguyên tắc mà theo đó những sản phẩm nước ngoài và các nhà cung cấp sản phẩm đó được đối xử trong thị trường nội địa không kém ưu đãi hơn các sản phẩm nội địa và các nhà cung cấp nội địa.
2. Chính sách thuế xuất - nhập khẩu và vấn đề xây dựng chính sách thuế xuất - nhập khẩu.
2.1. Khái niệm.
Chính sách thuế xuất - nhập khẩu là tổng hợp các phương hướng của Nhà nước vào từng giai đoạn trong lĩnh vực nộp thuế xuất - nhập khẩu và các biện pháp để đạt được những mục tiêu đã định.
Chính sách thuế xuất - nhập khẩu thể hiện đường lối và phương hướng động viên thu nhập trong nền kinh tế quốc dân dưới hình thức thuế xuất - nhập khẩu. Chính sách thuế xuất - nhập khẩu được thực hiện bằng cách thiết lập các văn bản pháp luật trong lĩnh vực nộp thuế xuất - nhập khẩu; xây dựng biểu thuế xuất - nhập khẩu và ưu đãi về thuế xuất - nhập khẩu trong từng giai đoạn phát triển nhất định.
2.2. Vấn đề xây dựng chính sách thuế xuất - nhập khẩu.
2.2.1. Xác định mục tiêu của chính sách thuế xuất - nhập khẩu.
- Mục tiêu ngân sách: thuế xuất - nhập khẩu có nhiệm vụ động viên tối đa nguồn tài chính do hoạt động ngoại thương mang lại tập trung vào Ngân sách nhà nước. Để đạt được mục tiêu này, con đường đúng đắn là mở rộng thúc đẩy hoạt động ngoại thương. Tuy nhiên, có những nước, đặc biệt là những nước đang phát triển, do hoạt động ngoại thương chưa phát triển nên thường coi biện pháp tăng tối đa thuế quan làm biện pháp chủ yếu để đạt được mục đích. Biện pháp này đôi khi phản tác dụng.
- Mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước: tuỳ theo đặc điểm kinh tế của mỗi nước mà mục tiêu được xem xét ở những mức độ khác nhau. ở những nước có nền kinh tế phát triển cao, khả năng cạnh tranh của hàng hóa nội địa lớn thì biện pháp thuế quan sử dụng cho mục đích này thường ít được coi trọng. Song, đối với những nước có nền kinh tế đang phát triển hoặc các nước theo đuổi chiến lược công nghiệp hoá thay thế hàng nhập khẩu, phát triển theo mô hình hướng nội,._. lấy độc lập, tự chủ kinh tế làm trọng thì hết sức coi trọng mục tiêu bảo hộ nền sản xuất trong nước.
- Mục tiêu kiểm soát hoạt động ngoại thương: có nhiều công cụ được sử dụng để kiểm soát hoạt động ngoại thương như hạn ngạch, tỷ giá, thuế xuất nhập khẩu. . . nhưng công cụ thuế xuất – nhập khẩu có nhiều ưu điểm và được dùng nhiều hơn cả. Để khuyến khích nhập khẩu một mặt hàng nào đó, biện pháp đơn giản là hạ thấp mức thuế xuất. Ngược lại, nếu muốn ngăn cản, hạn chế xuất nhập khẩu, biện pháp được dùng là nâng thuế suất.
- Mục tiêu thực hiện công bằng xã hội: là một chính sách kinh tế xã hội , một công cụ điều hành vĩ mô nền kinh tế, chính sách thuế xuất - nhập khẩu thực hiện công bằng xã hội thông qua việc đánh thuế vào các mặt hàng xa xỉ nhập khẩu, điều tiết thu nhập của bộ phận dân cư có thu nhập cao, yêu thích hàng nhập khẩu thay cho việc dùng hàng trong nước.
2.2.2. Nguyên tắc cơ bản khi xây dựng chính sách thuế xuất - nhập khẩu.
Có nhiều nguyên tắc khi xây dựng chính sách thuế xuất - nhập khẩu. Nhưng hiện nay, trong xu thế hội nhập, các nhà hoạch định chính sách nhấn mạnh đến các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc tổng thể: nguyên tắc này xem xét một cách tổng thể sự tác động của thuế quan đối với nền kinh tế một nước.
Thuế xuất - nhập khẩu là một công cụ để bảo hộ nền sản xuất trong nước nhưng nó cũng gây ra các tác động tiêu cực. Để đánh giá hiệu quả của chính sách thuế xuất - nhập khẩu, các nhà hoạch định chính sách phải luôn quan tâm so sánh các tác động tiêu cực (những phản ứng phụ) này với những mặt tích cực của chính sách.
Nguyên tắc này đòi hỏi khi xây dựng chính sách thuế xuất - nhập khẩu, các nhà hoạch định chính sách phải tính toán, cân nhắc, lựa chọn đúng mục tiêu: bảo hộ hay thương mại hay đầu tư cho phù hợp với điều kiện nước mình.
- Nguyên tắc minh bạch: nguyên tắc minh bạch trong chính sách thuế xuất - nhập khẩu đòi hỏi mục tiêu của chính sách phải được xác định một cách rõ ràng. Cụ thể, chính sách thuế xuất - nhập khẩu phải được thiết kế sao cho xác định được ngành nào, lĩnh vực nào được bảo hộ và cấp độ được bảo hộ là bao nhiêu.
Đây là một nguyên tắc rất quan trọng, nhất là đối với những nước đang phát triển như nước ta, nơi mà chính sách thường không có mục tiêu rõ ràng, nhất quán. Sự tuỳ tiện thay đổi mục tiêu của chính sách bằng việc tuỳ tiện thay đổi mức thuế quan khiến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực phải gánh chịu những hậu quả không thể xác định trước, gây khó khăn thậm chí làm phá sản cả kế hoạch sản xuất kinh doanh của một ngành, một lĩnh vực.
- Nguyên tắc có thể dự đoán được: mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong bất kỳ ngành nào, lĩnh vực nào cũng đều phải được lập kế hoạch. Như vậy, chính sách của chính phủ cũng phải đảm bảo khả năng có thể dự đoán được, sẽ thật phi lý nếu chính sách của Chính phủ luôn thay đổi làm phá sản mọi kế hoạch sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đã lập trước.
Bối cảnh kinh tế
Quan hệ giữa ba nguyên tắc này được biểu diễn như sau:
Tổng thể
Tính minh bạch Khả năng có thể dự đoán được
2.2.3 Xây dựng công cụ của chính sách thuế xuất - nhập khẩu
- Giá tính thuế hàng hoá xuất nhập khẩu.
Giá tính thuế hay trị giá hải quan là trị giá của hàng hoá xuất nhập khẩu được xác định theo mục đích quản lý của cơ quan hải quan. Việc xác định đúng đắn giá trị hàng hoá không chỉ có ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn thu ngân sách, tới chính sách bảo hộ sản xuất nội địa mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến quan hệ thương mại, ngoại giao giữa hai nước. Về phương diện lịch sử và lý thuyết có hai trường phái chính xác định giá tính thuế:
+ Trường phái những nước áp dụng phương pháp xác định trị giá hàng nhập khẩu theo trị giá GATT:
Những nước theo trường phái này quy định giá tính thuế hàng nhập khẩu là giá thực thanh toán. Giá thực thanh toán được hiểu là giá ghi trong hóa đơn thương mại (giá mua bán hàng hóa ghi trong hợp đồng thương mại quốc tế) cộng thêm các khoản chi phí hợp lý khác như chi phí vận chuyển, phí bảo hiểm, chi phí bốc dỡ, chi phí đóng gói, chi phí hoa hang. . . Những nước áp dụng trị giá GATT thường quy địng rõ trong luật pháp nước mình phương pháp xác định giá thực thanh toán mà căn cứ pháp lý cơ bản xem xét giá thực thanh toán là hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Đơn vị kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực của mức giá ghi trên hợp đồng. Mọi hành vi gian lận nếu bị phát hiện đều bị xử phạt rất nặng. Thông thường, những nước áp dụng trị giá GATT là những nước phát triển có hệ thống luật pháp tương đối ổn định và người dân đã có ý thức pháp luật cao. Phương pháp này hoàn toàn phù hợp với chuẩn mực của thương mại tự do và được luật pháp quốc tế hoá bằng việc tổ chức GATT ban hành Công ước về trị giá hải quan theo GATT để các nước tham gia.
+ Trường phái những nước áp dụng bảng giá tối thiểu: giá tối thiểu được căn cứ vào giá trị hàng hoá được xác định trong nước nhập khẩu hoặc giá trị hư cấu, áp đặt. Những nước áp dụng giá tối thiểu thường quy định là nếu mức giá ghi trên hợp đồng mà thấp hơn mức giá ghi trong Bảng giá tối thiểu được Nhà nước quy định thì phải áp dụng giá ghi trong Bảng giá tối thiểu. Việc áp dụng phương pháp tính giá này thường thấy ở những nước đang phát triển có hệ thống pháp luật chưa ổn định , ý thức luật pháp của người dân chưa cao và thường trốn thuế bằng cách ghi thấp giá trị trong hợp đồng. áp dụng hình thức này, thực chất là sử dụng biện pháp phi thuế quan giúp các nước này tăng số thu nhưng không phải thông qua việc tăng thuế suất - một biện pháp dễ bị trả đũa. Nhưng đây cũng chính là mảnh đất màu mỡ để nạn tham nhũng phát triển khiến chính sách thuế không được rõ ràng, minh bạch và không thể dự đoán được.
- Thuế suất và biểu thuế.
Có thể nói thuế suất là “linh hồn” của chính sách thuế suất nhập khẩu. Nó thể hiện mọi mục tiêu của chính sách. Nếu Nhà nước khuyến khích nhập một loại mặt hàng nào đó thì thuế suất của mặt hàng đó được để ở mức thấp, thậm chí bằng 0. Nếu không khuyến khích xuất nhập khẩu thì thuế suất của mặt hàng đó rất cao. Thuế suất được tập trung trong một văn bản quy phạm pháp luật được gọi là Biểu thuế. Biểu thuế có hai loại: Biểu thuế nhập khẩu và biểu thuế xuất khẩu.
Biểu thuế nhập khẩu: là biểu thuế áp dụng đối với hàng nhập khẩu. Biểu thuế được chia thành từng Chương, mỗi Chương được chia thành từng nhóm và mỗi Nhóm lại được chia thành từng Phân nhóm, thậm chí lại được chia thành từng loại hàng hoá. Theo thống kê của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO), tính đến ngày 10/05/1996, đã có tới 162 nước áp dụng Biểu thuế nhập khẩu theo Danh mục Hệ thống Điều hòa.
Biểu thuế xuất khẩu:
Biểu thuế xuất khẩu không được cấu trúc theo từng chương, phần như Biểu thuế nhập khẩu . Các nước khác nhau có Biểu thuế xuất khẩu khác nhau tuỳ thuộc vào lợi thế của mình. Tuy nhiên, việc xác định mã , phân loại hàng hoá vẫn tuân thủ Danh mục Hệ thống Điều hoà (đối với những nước tham gia Công ước hoặc có biểu thuế áp dụng hệ thống này).
Do có nhiều ưu điểm, Hệ thống Điều hoà mô tả và mã hàng hoá được nhiều nước áp dụng để xây dựng Biểu thuế xuất nhập khẩu. Việc nhiều nước có biểu thuế với kết cấu và phân loại hàng hoá giống nhau tạo thuận lợi cho việc giao lưu, đẩy mạnh hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hoá với nhau, thực hiện điều chỉnh, hội nhập chính sách từ đó thực hiện hội nhập kinh tế.
2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách thuế xuất - nhập khẩu.
Chính sách thuế xuất - nhập khẩu là một chính sách nằm trong hệ thống các chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế của một quốc gia. Nó được xây dựng nhằm thực hiện các mục tiêu đã định đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, chính bản thân nó cũng chịu sự tác động của một số nhân tố cơ bản sau:
- Nhân tố chủ quan
+ ý chí chủ quan của bộ phận xây dựng chính sách thuế xuất - nhập khẩu: bất cứ một chính sách nào cũng vậy, khi được xây dựng , ít nhiều đều bị áp đặt bởi nhận thức của những người xây dựng nó. Đây có thể xem như là một nhân tố tâm lý tự nhiên tác động tới chính sách thuế xuất - nhập khẩu.
+ Trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trực tiếp thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu: một chính sách mặc dù được xây dựng hoàn hảo nhưng nếu việc thực hiện nó lại được tiến hành bởi một đội ngũ cán bộ bị hạn chế về năng lực, trình độ, tinh thần và ý thức kỷ luật kém thì chính sách đó không thể phát huy được hết tác dụng đối với nền kinh tế.
- Nhân tố khách quan:
+ Những chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể: chính sách thuế xuất - nhập khẩu nằm trong hệ thống các chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế của quốc gia nên khi hệ thống này có sự thay đổi thì bản thân chính sách thuế xuất - nhập khẩu cũng có sự thay đổi để phù hợp với toàn bộ hệ thống. Điều này thể hiện rõ nhất khi có sự thay đổi trong chính sách kinh tế đối ngoại.
+ Hệ thống luật pháp: thông thường, chính sách thuế xuất - nhập khẩu thường được cụ thể hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Vì vậy, việc thiết lập một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, rõ ràng chính là nhân tố tạo ra một môi trường pháp luật thuận lợi để thực hiện tốt chính sách thuế xuất - nhập khẩu.
+ Sự ổn định kinh tế - chính trị - xã hội trong và ngoài nước: sự thịnh vượng và ổn định của bất kỳ quốc gia nào cũng không nằm ngoài sự ổn định chung của các nước láng giềng và của toàn bộ thế giới. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong từng khu vực, trong các tổ chức thương mại, trên toàn thế giới với xu thế toàn cầu hoá đang là một tất yếu khách quan. Bởi vậy, có thể chỉ cần một thay đổi nhỏ về chính trị - kinh tê - xã hội trong nước nói riêng và bên ngoài nói chung là một trong những nhân tố đảm bảo cho sự ổn định của chính sách thuế xuất - nhập khẩu.
+ Nhận thức của công dân: các công dân có một nhận thức đúng đắn về hiệu quả mà chính sách thuế xuất - nhập khẩu đem lại cho ngay chính bản thân họ cũng như cho tổng thể nền kinh tế thì các quy định pháp luật liên quan đến chính sách thuế xuất - nhập khẩu sẽ được họ chấp hành một cách nghiêm túc và đầy đủ. Khi đó, chính sách thuế xuất - nhập khẩu mới có thể thực hiện một cách thuận lợi để đạt được các mục tiêu đề ra.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THUẾ XUẤT - NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY.
I. Nội dung của chính sách thuế - xuất nhập khẩu.
1. Luật thuế xuất - nhập khẩu và các văn bản liên quan.
1.1. Giai đoạn trước 1999.
Luật thuê xuất - nhập khẩu của Việt Nam lần đầu được ban hành ngày 29/12/1987 có tên gọi “Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch”. Tuy nhiên, từ năm 1990, Nhà nước ta thực hiện một chính sách kinh tế bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nền kinh tế nước ta đã chuyển mạnh từ nền kinh tế đóng sang nền kinh tế mở. Với tình hình thế giới có nhiều thay đổi, quan hệ với Liên Xô và các nước Đông Âu không còn như trước, đặc biệt là sự tan rã của khối SEV, đồng thời quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta được mở rộng, chính sách thuế xuất - nhập khẩu trong thời gian này đã bộc lộ những hạn chế, đó là: phạm vi điều chỉnh hẹp không còn phù hợp với đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới; mang nặng tính phân biệt đối xử, thiếu bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, trong đó khu vực kinh tế quốc doanh được hưởng ưu đãi nhất, đã tạo ra một môi trường cạnh tranh thiếu lành mạnh, thiếu bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước, thủ tiêu động lực cạnh tranh hiệu quả của nền kinh tế. Nếu tiếp tục Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch thì sẽ không còn phù hợp.
Để thực hiện mục tiêu bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước thay thế hàng nhập khẩu, tăng nguồn thu Ngân sách Nhà nước, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nước, phối hợp với chính sách mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước, ngày 26/12/1991, quốc hội đã thông qua “Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu” và sau đó sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được khoá IX, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 05/07/1993, gồm các nội dung cơ bản sau:
- Đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế.
Theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu biên giới Việt Nam, kể cả hàng hoá từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất và đưa từ khu chế xuất ra thị trường trong nước đều là đối tượng chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Hàng hoá thuộc đối tượng là hàng vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua biên giới Việt Nam, hàng chuyển khẩu; hàng viện trợ nhân đạo không thuộc diện chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Các tổ chức, cá nhân có hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế (gọi chung là đối tượng nộp thuế), khi xuất khẩu, nhập khẩu đều phải nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Căn cứ tính thuế.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được tính dựa trên:
+ Số lượng từng mặt hàng ghi trong tờ khai hàng xuất khẩu, nhập khẩu.
+ Giá tính thuế:
Nguyên tắc chung về giá tính thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu được quy định như sau:
Giá tính thuế đối với hàng xuất khẩu được quy định là giá bán tại cửa khẩu xuất theo hợp đồng ngoại thương, không bao gồm phí bảo hiểm (I) và chi phí vận tảI (F). Còn đối với hàng nhập khẩu, giá tính thuế là giá mua tại cửa khẩu nhập theo hợp đồng ngoại thương kể cả phí bảo hiểm (I) và chi phí vận tải (F).
Đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu nếu có hợp đồng mua bán và các chứng từ hợp lệ đủ điều kiện để xác định giá tính thuế theo quy định thì giá tính thuế được xác định theo hợp đồng. Trường hợp hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu không đủ điều kiện xác định giá tính thuế theo hợp đồng; hoặc giá ghi trong hợp đồng quá thấp so với giá mua, bán thực tế tối thiểu tại cửa khẩu và đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo phương thức khác không phải là mua bán, không thanh toán qua Ngân hàng thì giá tính thuế là giá mua, bán tối thiểu tại cửa khẩu.
+ Thuế suất của từng mặt hàng:
Thuế suất đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu gồm thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi.
Thuế suất thông thường là thuế suất được quy định tại Biểu thuế.
Thuế suất ưu đãi được quy định thấp hơn nhưng không quá 50% so với thuế suất thông thường của từng mặt hàng. Chính phủ quy định mức thuế suất ưu đãi cụ thể của từng mặt hàng với từng nước.
- Biểu thuế.
Trên cơ sở quy định như trên về thuế suất, ngày 30/12/1992, Chính phủ đã có Nghị định 110 - HĐBT về việc ban hành Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu.
Biểu thuế nhập khẩu được xây dựng dựa trên “Danh mục mô tả và mã hoá hàng hóa” của tổ chức Hải quan thế giới thay thế cho Danh mục hàng hoá theo khối SEV trước đây. Về chi tiết, Biểu thuế nhập khẩu có 2954 dòng thuế với 25 mức thuế suất khác nhau, trong đó có 20 mức thuế suất cơ bản và 5 mức thuế suất riêng (mức thuế suất riêng là mức thuế suất áp dụng đối với linh kiện, bộ phận hàng hoá ở dạng rời, đồng bộ như linh kiện rời dạng SKD, CKD, IKD), cụ thể gồm các mức: 0; 1; 2; 3; 4; 5; 7; 8; 10; 12; 15; 18; 20; 30; 35; 40; 45; 50; 70; 80; 100; 120; 150; 200, thuế suất trung bình là 17,3%. Tỷ trọng các mức thuế suất được trình bày ở bảng 1.
- Miễn thuế, giảm thuế, hoàn lại thuế.
Hàng hoá là đối tượng được miễn thuế gồm: hàng viện trợ không hoàn lại; hàng tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập để dự hội chợ triển lãm; hàng là tàI sản di chuyển; hàng hoá mang theo hoặc gửi về của công dân Việt Nam đi hợp tác lao động, hợp tác chuyên gia, công tác và học tập ở nước ngoài trong mức quy định của Chính phủ; hàng xuất khẩu, hàng nhập khẩu của tổ chức, các nhân người nước ngoài được hưởng tiêu chuẩn miễn trừ ngoại giao do Chính phủ quy định phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia; hàng xuất khẩu để trả nợ nước ngoài của Chính phủ; hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để gia công xuất khẩu cho nước ngoài theo hợp đồng đã ký kết.
BẢNG 1: TỶ TRỌNG CÁC MỨC THUẾ SUẤT
(Biểu thuế ban hành kèm theo Nghị định 110 - HĐBT)
STT
Mức thuế
Tỷ trọng (%)
STT
Mức thuế
Tỷ trọng (%)
1
0%
32,9
11
30%
8,3
2
1%
11,0
12
35%
1,7
3
2%
2,0
13
40%
4,6
4
3%
0,3
14
45%
0,7
5
5%
9,1
15
50%
3,5
6
7%
2,1
16
70%
0,4
7
10%
7,9
17
80%
0,1
8
15%
2,3
18
100%
0,07
9
20%
10,9
19
120%
0,3
10
25%
1,7
20
200%
0,2
Hàng hoá được xét miễn thuế trong các trường hợp hàng nhập khẩu chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh quốc phòng, nghiên cứu khoa học và giáo dục đào tạo; hàng xuất khẩu, nhập khẩu của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và của bên nước ngoài hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh trong trường hợp đặc biệt cần khuyến khích đầu tư; hàng là quà biếu, quà tặng của tổ chức, cá nhân nước ngoài cho tổ chức, cá nhân của Việt Nam và ngược lại trong mức quy định của Chính phủ.
Trường hợp hàng hoá trong quá trình vận chuyển, bốc xếp bị hư hỏng hoặc bị mất mát có lý do xác đáng được cơ quan giám định Nhà nước về hàng xuất khẩu, nhập khẩu chứng nhận.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được xét hoàn lại cho các đối tượng nộp thuế trong các trường hợp: hàng nhập khẩu đã nộp thuế xuất khẩu nhưng thực tế xuất khẩu ít hơn; hàng đã nộp thuế theo tờ khai nhưng thực tế xuất khẩu hoặc nhập khẩu ít hơn; hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu; hàng tạm nhập khẩu để tái xuất khẩu; hàng tạm xuất khẩu để tái nhập khẩu được cơ quan có thẩm quyền cho phép.
- Thời hạn nộp thuế.
Tuỳ theo loại hình hàng hoá xuất nhập khẩu, thời hạn nộp thuế được quy định khác nhau, cụ thể:
+ Đối với hàng xuất khẩu: thời hạn là 15 ngày kể từ ngày đối tương nộp thuế nhận được thông báo chính thức số thuế phải nộp của cơ quan thu thuế.
+ Đối với hàng nhập khẩu mậu dịch: thời hạn là 30 ngày kể từ ngày đối tượng nộp thuế nhận được thông báo chính thức số thuế phải nộp của cơ quan thu thuế.
+ Đối với hàng nhập khẩu phi mậu dịch và tiểu nghạch biên giới: phải nộp ngay khi xuất hàng ra nước ngoài và nhập hàng vào Việt Nam.
Riêng trường hợp hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu thì thời hạn nộp xong thuế được quy định cho từng ngành nghề sản xuất cụ thể nhưng chậm nhất không qua 90 ngày kể từ ngày đối tượng nộp thuế nhận được thông báo chính thức của cơ quan thu thuế về số thuế phải nộp. Chính phủ quy định chi tiết thời hạn cụ thể được áp dụng cho từng ngành sản xuất.
- Xử lý vi phạm các quy định về thuế xuất - nhập khẩu.
+ Phạt chậm nộp thuế: quá thời hạn quy định trên đây, mỗi ngày nộp chậm, đối tượng nộp thuế bị phạt 0,2% số thuế chậm nộp.
+ Trong trường hợp đối tượng nộp thuế chậm nộp thuế quá 90 ngày thì cơ quan hải quan không được làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu cho chuyến hàng tiếp theo của đối tượng nộp thuế và Bộ Thương mại và Du lịch không được cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu cho đến khi đối tượng đó nộp đủ thuế.
+ Đối tượng nộp thuế có hành vi gian lận trong việc nộp thuế thì bị phạt tiền từ 2 đền 5 lần số thuế gian lận.
- Khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Trong trường hợp đối tượng nộp thuế không đồng ý với số thuế đã được thông báo chính thức thì vẫn phải nộp đủ số thuế đó đồng thời có quyền khiếu nại lên cơ quan thu thuế trung ương giải quyết; nếu vẫn không đồng ý thì khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ Tài chính. Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính là quyết định cuối cùng.
Một số hạn chế trong các quy định pháp luật về thuế xuất - nhập khẩu trước 1999.
Qua nhiều năm thực hiện, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đã bộc lộ một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, về thuế suất và biểu thuế, như đã giới thiệu Luật thuế xuất - nhập khẩu cũ quy định hai loại thuế suất là thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi. Thuế suất ưu đãi được áp dụng cho hàng nhập khẩu với các nước có ký kết điều khoản ưu đãi trong quan hệ buôn bán với Việt Nam với điều kiện ghi rõ từng mặt hàng với số lượng cụ thể và mức thuế suất ưu đãi được xác định theo từng nước cụ thể. Cho đến trước thời điểm 01/01/1999, Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại với khoảng hơn 60 nước, trong đó có điều khoản dành cho nhau những ưu đãi tối huệ quốc về thuế nhập khẩu nhưng không ghi một cách rõ ràng mặt hàng nào với số lượng bao nhiêu thì được áp dụng những ưu đãi nói trên. Vì vậy, trên thực tế, Việt Nam chưa áp dụng thuế suất ưu đãi với bất kỳ nước nào. Hơn nữa, việc quy định thuế suất ưu đãi mang tính song phương như vậy là không phù hợp với thông lệ quốc tế về thuế suất ưu đãi Tối huệ quốc. Điều này đồng nghĩa với việc vi phạm nguyên tắc Tối huệ quốc đã đề cập ở chương I - tức là các bên tham gia trong quan hệ kinh tế, thương mại dành cho nhau những ưu đãi khu vực hoặc ưu đãi mà các nước có chung biên giới dành cho nhau. Các tổ chức thương mại quốc tế mà Việt Nam đã tham gia như ASEAN, APEC, ASEM và sắp tới là WTO đều đòi hỏi Việt Nam phải tuân thủ quy định trên để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các cam kết quốc tế cũng như được hưởng ưu đãi từ những cam kết này.
Tại thời điểm này, đối với ASEAN, Việt Nam đã ký Hiệp định ưu đãi về thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Như vậy, với các nước ASEAN, ngoài hai mức thuế suất thuế thuế nhập khẩu là thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi còn có thêm một mức thuế suất là thuế suất CEPT (thuế suất ưu đãi đặc biệt).
Do vậy, quy định về mức thuế của Việt Nam như trên là không còn phù hợp và cần phải sửa đổi bổ sung. Mặt khác, việc biểu thuế nhập khẩu quy định nhiều mức thuế suất, trong khi đó số dòng thuế ít khiến công tác phân loại hàng hoá, áp mã tính thuế gặp rất nhiều khó khăn, gây tính thuế sai nhiều , dẫn đến tình trạng thất thu cho Ngân sách Nhà nước.
Thứ hai, về thuế quan trừng phạt đối với hàng nhập khẩu, trong khoảng thời gian từ năm 1992 đến năm1998, các nhà quản lý Việt Nam đã thống kê nhiều trường hợp hàng hoá nước được bán phá giá vào thị trường Việt Nam, nhằm vừa tiêu thụ được hàng hoá, vừa chiếm lĩnh được thị trường nước ta, đẩy sản xuất của nước ta vào tình trạng khó khăn. Theo kết quả điều tra xã hội học của hội Người tiêu dùng Việt Nam ở hai thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh cho thấy, trước năm1992, hàng gia dụng Việt Nam chiếm 62% thị trường, hàng Mỹ chiếm 15%, hàng các nước châu Âu chiếm 14%, hàng các nước khác là 9%. Từ năm 1992 đến 1998, hàng Trung Quốc đã từng bước chiếm lĩnh thị trường Việt Nam. Các mặt hàng như điện tử gia dụng, đồ chơi trẻ em, phích nước, máy bơm, máy phát điện, xe đạp. . . trên thị trường phần lớn là hàng Trung Quốc.
Bên cạnh đó, cũng xảy ra tình trạng hàng hoá xuất khẩu của nước ta bị các nước khác áp dụng chính sách phân biệt đối xử nên khó, thậm chí không thể xâm nhập được vào thị trường nước đó.
Để đối phó với tình hình trên, các nước đều có quy định về loại thuế quan trừng phạt để thu thuế bổ sung đối với hàng nhập khẩu trong các trường hợp trên. Song ở nước ta, khi ban hành, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không có quy định về việc này đây là một hạn chế khi thực hiện hội nhập kinh tế, chính sách của nước ta khi đó sẽ không thể bảo vệ được sản xuất trong nước trước các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh của các đối tác. Do vậy, cần chú ý sửa đổi, bổ sung.
Thứ ba, về xử lý vi phạm và kiểm tra thu thuế.
Theo quy định Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu khi đối tượng nộp thuế chậm nộp thuế quá 90 ngày cơ quan hải quan không được làm thủ tục xuất nhập khẩu cho chuyến hàng tiếp theo của đối tượng nộp thuế. Quy định này có những điểm hạn chế:
- Trường hợp đối tượng nộp thuế chỉ hoạt động xuất khẩu một lần hoặc một số lần trong thời gian ngắn thì quy định trên trở nên vô hiệu đối với những đối tượng này.
- Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp nhận uỷ thác nhập khẩu đã phải “dở khóc dở cười” vì quy định nêu trên. Do phải chịu trách nhiệm nên khi đơn vị uỷ thác dây dưa, chậm nộp thuế, doanh nghiệp nhận uỷ thác chỉ còn cách tự bỏ tiền của mình để nộp hộ doanh nghiệp uỷ thác, tự biến mình thành chủ nợ bất đắc dĩ vì có như vậy mới được tiếp tục hoạt động xuất nhập khẩu.
Hiện tượng thất thu thuế nhập khẩu do đối tượng nộp thuế khai man, trốn thuế hoặc do thiếu sót của cơ quan hải quan là hiện tượng có thật và tồn tại ở bất cứ quốc gia nào. Để đối phó với tình trạng này, Chính phủ các nước đều có quy định truy thu thuế xuất - nhập khẩu. Nhưng ở nước ta, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không có quy định về truy thu thuế xuất - nhập khẩu. Đây là một hạn chế khiến các cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn trong việc đối phó với những đối tượng trốn thuế, lách thuế, vi phạm các quy định về chính sách thuế xuất - nhập khẩu.
1.2. Giai đoạn từ 1999 đến nay.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên; để phù hợp với nội dung cải cách các luật thuế và pháp lệnh thuế; đồng thời để phù hợp với những thay đổi trong chính sách thương mại do Việt Nam đã trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới; đang xúc tiến đàm phán để gia nhập WTO. Nên cuối cùng, năm 1998, chính sách thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu có nhiều thay đổi. Ngày 25/05/1998, Quốc hội nước ta tại kỳ họp thứ 3 khoá X đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (Luật số 04) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999. Luật sửa đổi mới cùng với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan chứa đựng nhiều thay đổi, bổ sung quan trọng phù hợp với xu thế chung.
Theo Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Thuế xuất nhập khẩu = Số lượng hàng * Giá tính thuế * Thuế suất.
1.2.1. Giá tính thuế hàng hoá xuất nhập khẩu.
- Giá tính thuế đối với hàng xuất khẩu là giá bán cho khách hàng tại cửa khẩu xuất không bao gồm chi phí vận tải (F) và phí bảo hiểm (I) theo hợp đồng bán hàng phù hợp với các chứng từ khác có liên quan đến việc bán hàng.
Giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu đã được hướng dẫn chi tiết trong Thông tư 08/2002/TT/BTC ngày 23/01/2002.
- Giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu là giá mua của khách hàng tại cửa
khẩu nhập bao gồm cả chi phí vận tải (F) và phí bảo hiểm (I) theo hợp đồng mua hàng phù hợp với các chứng từ khác có liên quan đến việc mua hàng. Giá mua tại cửa khẩu nhập là tổng số tiền mà người mua thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho người bán về hàng hoá nhập khẩu (giá thực thanh toán).
Đối với trường hợp áp dụng giá tính thuế nhập khẩu theo hợp đồng mua bán ngoại thương: nếu hợp đồng mua bán ngoại thương hợp lệ và phù hợp với các chứng từ vận chuyển liên quan đến lô hàng và mặt hàng nhập khẩu không thuộc diện cấm nhập khẩu, không thuộc danh mục mặt hàng Nhà nước quản lý, giá mua bán không quá thấp thì giá tính thuế được áp dụng là giá ghi trên hợp đồng mua bán ngoại thương với các điều kiện sau đây:
Điều kiện 1: hợp đồng mua bán ngoại thương phải bằng văn bản, có đầy đủ nội dung chủ yếu của một bản hợp đồng theo quy định tại Điều 50 Luật thương mại được Quốc hội thông qua ngày 15/05/1997, trong đó có một số nội dung chủ yếu được quy định cụ thể như sau:
+ Tên hàng: là tên thương mại thông thường;
+ Lượng;
+ Giá cả;
+ Phương thức thanh toán: trong hợp đồng mua bán phải thể hiện rõ việc thanh toán 100% giá trị lô hàng nhập khẩu được thực hiện qua ngân hàng thương mại bằng một loại đồng tiền được hai bên thoả thuận theo đúng các phương thức thanh toán quốc tế như: L/C, TTR, T/T, D/A, D/P.
Các hình thức: điện báo, telex, fax, thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác được in ra giấy cũng được coi là hình thức văn bản. Chào hàng và chấp nhận chào hàng bằng các hình thức văn bản có hiệu lực như một hợp đồng thương mại nếu có đủ các nội dung chủ yếu theo quy định trên đây cũng được coi như hợp đồng mua bán ngoại thương.
Trường hợp có sự thay đổi, bổ sung các điều khoản trong hợp đồng ngoại thương đã ký kết thì phải được thực hiện theo trình tự và thủ tục phù hợp với từng loại hợp đồng. Việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng phải được kết thúc trước khi bên bán hoàn thành thủ tục gửi hàng cho bên mua.
Điều kiện 2: thực hiện thanh toán 100% giá trị lô hàng nhập khẩu qua Ngân hàng thương mại bằng một loại đồng tiền được hai bên thoả thuận theo đúng các phương thức thanh toán quốc tế như: L/C, TTR, T/T, D/A, D/P.
Trường hợp đã thực hiện thanh toán qua ngân hàng giá trị lô hàng nhập khẩu trước khi nhận hàng thì phải xuất trình chứng từ thanh toán với cơ quan hải quan khi làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá. Nếu việc thanh toán được thực hiện sau khi nhận hàng thì trên hợp đồng mua bán phải thể hiện rõ thời hạn thanh toán.
Điều kiện 3: doanh nghiệp nhập khẩu thực hiện nộp thuế GTGT theo phương pháp khẩu trừ. Khi làm thủ tục nhập khẩu, doanh nghiệp nhập khẩu phải nộp (một lần) cho cơ quan hải quan (nơi làm thủ tục nhập khẩu) bản sao bản đăng ký áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế có ý kiến chấp nhận của cơ quan thuế nơi doanh nghiệp đăng ký nộp thuế (bản sao có đóng dấu sao y bản chính của doanh nghiệp).
* Các trường hợp đặc biệt.
- Đối với hàng hoá nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài (thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam) thì giá tính thuế nhập khẩu là giá ghi trên hoá đơn hàng hoá nhập khẩu nếu giá ghi trên hoá đơn là giá mua thực tế phải thanh toán bao gồm cả chi phí vận tải (F) và phí bảo hiểm (I).
- Đối với hàng hoá do các doanh nghiệp nhập khẩu về làm nguyên liệu, vật tư trực tiếp đưa vào sản xuất sản phẩm được tính giá tính thuế nhập khẩu theo giá ghi trên hợp đồng mua bán ngoại thương nếu đảm bảo các điều kiện sau:
+ Có đủ ba điều kiện ở trên;
+ Doanh nghiệp nhập khẩu (hoặc uỷ thác nhập khẩu) không có nợ thuế quá hạn thuộc diện cưỡng chế ở khâu nhập khẩu;
+ Vật tư, nguyên liệu nhập khẩu đảm bảo phù hợp với danh mục nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất sản phẩm đã đăng ký với cơ quan hải quan, nơi doanh nghiệp làm thủ tục nhập khẩu.
Các trường hợp cung cấp nguyên liệu, vật tư nhập khẩu giữa các doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập (kể cả các đơn vị trong cùng một tổng công ty hoặc liên hợp) không được coi là trực tiếp đưa vào sản xuất.
- Đối với các trường hợp khác, tuy có ba điều kiện ở trên nhưng giá ghi trên hợp đồng mua bán thấp hơn 80% mức giá kiểm tra cuả cơ quan hải quan thì thực hiện áp giá tính thuế nhập khẩu theo mức giá kiểm tra.
Đối với trường hợp không áp dụng giá tính thuế theo hợp đồng mua bán ngoại thương, trường hợp này được chia thành hai trường hợp nhỏ:
Đối với mặt hàng Nhà nước ._.ợc ban hành chưa phù hợp với tình trạng kinh tế Việt Nam.
2.5. Những vướng mắc trong việc thực hiện chính sách thuế xuất -nhập khẩu.
Hiện nay, quan hệ phối kết hợp giữa các Bộ, Ngành trong việc thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu còn nhiều bất cập, không thống nhất. Do vậy, nhiều quy định trong Luật thuế xuất - nhập khẩu không được thực hiện hoặc thực hiện với hiệu quả chưa cao. Ví dụ, Luật số 04 có bổ sung thêm biện pháp cưỡng chế thuế, tạo điều kiện cho cơ quan hải quan có thêm công cụ khắc phục tình trạng nợ đọng thuế kéo dài như: trích tiền gửi ngân hàng, giữ hàng hoá, kê biên tài sản. . . nhưng do thiếu sự phối kết hợp của cơ quan ngân hàng và các cơ quan khác nên những biện pháp này chưa được thực hiện trên thực tế. Hơn nữa tình trạng cưỡng chế nhầm cũng liên tục xảy ra.
Bên cạnh đó, theo cơ chế xuất nhập khẩu hiện hành, chức năng của các Bộ trong việc quản lý hàng xuất nhập khẩu như sau:
- Bộ Thương mại: quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu; kiến nghị thay đổi chính sách, thủ tục đối với các hoạt động xuất nhập khẩu thuộc nhiều loại hình: hàng chuyển tiếp, hàng tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập. . .
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư: quản lý thủ tục xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài hoặc Luật khuyến khích đầu tư trong nước; kiểm tra giấy phép có liên quan do Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại, Ngân hàng Nhà nước cấp. . .
- Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường: quản lý chất lượng của hàng hoá xuất nhập khẩu; quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hoá và dịch vụ xuất nhập khẩu.
- Bộ Y tế: quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu là dược phẩm.
- Tổng cục Bưu điện: quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu là các thiết bị thông tin. . .
Cơ chế này tạo ra tình trạng chồng chéo giữa các cơ quan chức năng trong việc quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu, khiến việc làm thủ tục cho một lô hàng nhập khẩu vừa rườm rà, vừa phức tạp, lại vừa có nhiều sơ hở.
CHƯƠNG III:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ XUẤT - NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM ĐỂ PHỤC VỤ CHO QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
I. Sự cần thiết phải hoàn thiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu.
Xu hướng chung của toàn cầu là chuyển từ đối đầu sang đối thoại, chuyển từ chiến tranh sang hợp tác kinh tế. Do vậy việc hội nhập quốc tế của mỗi quốc gia vào khu vực cũng như thế giới là điều cần thiết.
Hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu hoá là một quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham dự phân công hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước với bên ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể được trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế vừa là đòi hỏi của kinh tế quốc tế nói chung vừa là nhu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng. Hội nhập giúp cho việc mở rộng cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường quốc tế, tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định từ đó có điều kiện thuận lợi để xác định kế hoạch và cơ cấu đầu tư sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm, phát triển kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, mỗi quốc gia đều có hoàn cảnh lịch sử kinh tế cụ thể nên khi hội nhập cần có một hệ thống chính sách kinh tế phù hợp với những cam kết của tổ chức mà họ tham gia đồng thời hệ thống chính sách này phải mang lại lợi ích cho quốc gia đó.
Chính sách thuế xuất - nhập khẩu là một trong những chính sách nhạy cảm của chính sách thương mại quốc tế nên khi điều kiện quan hệ thương mại của nước ta với các nước thay đổi thì nó cũng phải được điều chỉnh cho phù hợp.
Chính sách thuế xuất - nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua về cơ bản đã thực hiện được mục tiêu kinh tế của Đảng và Nhà nước trong 10 năm đổi mới là khuyến khích sản xuất trong nước thay thế hàng nhập khẩu, tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, bước đầu phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, đứng trước bối cảnh quốc tế thay đổi và mục tiêu kinh tế của Đảng và Nhà nước là mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, phát huy lợi thế so sánh của nền kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì việc duy trì chính sách thuế xuất -nhập khẩu như thời điểm hiện nay với những hạn chế đã nêu trên là không phù hợp mà phải thực hiện nhiều sửa đổi, bổ sung, cập nhật theo hướng khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu. Như vậy, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được một chính sách thuế xuất - nhập khẩu hoàn thiện phục vụ hiệu quả cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
II. Định hướng về chính sách thuế xuất - nhập khẩu trong thời gian tới.
1. Mục tiêu của chính sách thuế xuất - nhập khẩu.
Thực hiện chủ trương của Đảng về chiến lược mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với nước ta và đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như các cam kết với AFTA/ASEAN, APEC, ASEM, Mỹ, tiến tới gia nhập WTO; tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế, bổ sung, hoàn thiện, đơn giản hoá các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhau. Chính sách thuế xuất - nhập khẩu trong thời gian tới nhằm vào các mục tiêu cơ bản như sau:
- Bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách hiệu quả, thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu.
- Đưa Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu phù hợp với những cam kết quốc tế về cắt giảm thuế quan của Việt Nam khi tham gia hội nhập với các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực.
- Bảo đảm sự động viên, đóng góp hợp lý cho Ngân sách Nhà nước, phù hợp với quá trình cải cách hệ thống thuế nước ta.
2. Những nguyên tắc khi xây dựng chính sách thuế xuất nhập - khẩu trong thời gian tới.
Nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, mở cửa hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Trong bối cảnh đó, đồng thời xuất phát từ thực trạng chính sách thuế xuất -nhập khẩu hiện hành, việc xây dựng chính sách thuế xuất - nhập khẩu của nước ta trong thời gian tời cần quán triệt các nguyên tắc sau:
- Không bảo hộ tràn lan đối với tất cả các ngành kinh tế, thực hiện sự bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện và có thời hạn.
Bảo hộ là để nhằm mục đích tạo điều kiện mở rộng, phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ. . . Nếu các ngành được bảo hộ thực sự phát triên, có khả năng cạnh tranh ngay cả khi hàng rào bảo hộ được dỡ bỏ thì bảo hộ thực sự đã đạt được mục tiêu của mình. Tuy nhiênm trong thực tế, đã không thiếu những trường hợp cho thấy bảo hộ lại tạo ra một đơn vị kinh tế ốm yếu hơn. Ngành sản xuất được bảo hộ không tự vươn lên mà ỷ lại vào hàng rào bảo hộ, cạnh tranh kém ngay cả khi hàng rào bảo hộ rất cao. Trong điều kiện hội nhập, khi mà xu hướng tự do hoá thương mại không thể đảo ngược thì việc nâng cao hàng rào bảo hộ là điều không thể. Nhưng nếu dỡ bỏ hoàn toàn các hàng rào bảo hộ trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu kém sẽ có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Chính vì thế, việc bảo hộ nền kinh tế có chọn lọc, có điều kiện và có thời gian là đáp án tối ưu.
- Hàng rào thuế quan là hàng rào bảo hộ cuối cùng và duy nhất cho nền sản xuất trong nước.
Việc xây dựng các mức thuế bảo hộ trong điều kiện vẫn còn các rào cản thương mại phu thuế quan sẽ không có ý nghĩa bởi vì các hàng rào phi thuế quan này đã làm giảm tính minh bạch, tăng tính không nhất quán của chính sách thuế xuất - nhập khẩu và phi phạm một trong những nguyên tắc của WTO. Do vậy, trong thời gian tới, khi xây dựng chính sách thuế xuất - nhập khẩu, chúng ta phải tiến hành thuế hoá các biện pháp phi thuế quan.
III. Một số giải pháp hoàn thiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu của Việt Nam để phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về thuế xuất nhập khẩu.
1.1. Về miễn và xét miễn giảm thuế.
Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế được đề cập trong bản báo cáo về cải cách chính sách thuế và thủ tục hải quan do Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) lập tháng 5/1999, lượng hàng hoá nhập khẩu được miễn thuế của nước ta năm 1998 chiếm 39% kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Như vậy, trên thực tế, số thu Ngân sách hiện nay của Việt Nam từ thuế xuất - nhập khẩu chỉ đạt 70% so với số có thể thu được. Về số tuyệt đối, thuế nhập khẩu được miễn ở vào khoảng 6 - 7 nghìn tỷ mỗi năm. Đây là một số tiền lớn trong tình hình tài chính của Việt Nam hiện nay.
Mặt khác, quy định về việc miễn thuế như đã trình bày ở trên bị lợi dụng nhiều trong thực tế. Rất nhiều trường hợp đã bị cơ quan chức năng phát hiện và xử lý nhưng không thể triệt tiêu được.
Để đảm bảo công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước khi thực hiện giảm thuế suất để tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực, thực hiện hội nhập kinh tế thiết nghĩ cần phải sửa đổi chế độ miễn thuế này.
Trước mắt, thực hiện xoá bỏ việc miễn thuế cho hàng hoá nhập khẩu chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh quốc phòng. Để hỗ trợ cho lĩnh vực an ninh quốc phòng, hàng năm Ngân sách Nhà nước cấp bổ sung một khoản bằng hoặc lớn hơn số thuế được miễn như quy định hiện hành. Thực hiện biện pháp này, Nhà nước vừa quản lý được khoản thu của Ngân sách Nhà nước, giám sát được các khoản chi trong lĩnh vực này, vừa tránh được những tiêu cực đã nêu. Đối với hàng miễn thuế phục vụ trực tiếp giáo dục đào tạo nên quy định chỉ đối với hàng hoá trong nước chưa sản xuất được còn những mặt hàng trong nước đã sản xuất được thì phải nộp thuế.
Về lâu dài, thực hiện xoá bỏ tiêu chuẩn hành lý miễn thuế của khách xuất nhập cảnh. Vì trên thực tế, số tiền được miễn thuế đối với hàng nhập cảnh của mỗi cá nhân trong trường hợp này là không nhiều, thế nhưng chúng ta lại phải tốn thêm chi phí để duy trì bộ máy kiểm tra, làm thủ tục cho số hàng được miễn thuế này, đó là chưa kể đến quy định này bị lợi dụng trốn thuế, làm thất thu Ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, cần tích cực xúc tiến đẩy mạnh công tác kiểm tra sau thông quan đối với hàng nhập khẩu để gia công; đối với hàng nhập khẩu để đầu tư, yêu cầu phải có phương án đầu tư hay luận chứng kỹ thuật cụ thể, rõ ràng kèm theo.
1.2. Về kiểm tra sau thông quan.
Thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan rườm rà, phức tạp là một cản trở thương mại tự do. Do vậy, việc quy định giảm thiểu kiểm tra ngay tại cửa khẩu bằng việc kiểm tra sau thông quan là một quy định hợp lý, phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện hội nhập. Vấn đề đặt ra với nước ta hiện nay là hoàn thiện quy định hiện có và đưa nó trở thành các hoạt động thực tế của các cơ quan chức năng.
Điều 23 Nghị định 54/CP ngày 28/08/1998 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định: “Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm quy định và hướng dẫn các Ngân hàng cơ sở cung cấp đầy đủ tài liệu thanh toán liên quan đến thuế xuất - nhập khẩu của đối tượng nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan hải quan để phục vụ cho việc kiểm tra thuế xuất - nhập khẩu.
Tuy nhiên, trong công văn số 1224CV - NHNN - ngày 15/12/1993 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gửi Tổng cục Hải quan nêu rõ: “Việc cung cấp thông tin cho cơ quan hải quan về tình hình thanh toán với ngân hàng nước ngoài của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuộc danh mục bí mật trong ngành ngân hàng (Điều 2 khoản 9 QĐ 135/1999/QĐ - TTG ngày 02/06/1999, Điều 5 Nghị định 91/CP ngày 25/11/1993 của Chính phủ về việc tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt).
Để khắc phục những điểm mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật, kiến nghị Chính phủ, Quốc hội có quy định cụ thể, rõ ràng cho phép cơ quan hải quan được phép kiểm tra tài liệu thanh toán liên quan đến lô hàng xuất nhập khẩu của đối tượng nộp thuế. Đây là một vấn đề rất quan trọng cho phép khẳng định doanh nghiệp có hay không vi phạm các quy định về thuế xuất - nhập khẩu: khai báo giá tính thuế có đúng không, thực thanh toán cho nước ngoài là bao nhiêu. Mặt khác, cơ quan hảI quan có trách nhiệm bảo quản thông tin theo Danh mục thông tin mật đã được quy định.
Bên cạnh việc khắc phục những điểm mâu thuẫn, chồng chéo nhau trong các văn bản quy phạm pháp luật, vấn đề đối với cơ quan hải quan là xác định, lựa chọn, xây dựng danh sách các đơn vị cần được kiểm tra sau thông quan, thực hiện kiểm tra có kết quả làm cơ sở thực hiện trên diện rộng. Đồng thời, kết hợp với việc tuyên truyền nâng cao nhận thức pháp luật cho các doanh nghiệp về công tác kiểm tra sau thông quan.
1.3. Về việc thu thuế bổ sung.
Như đã giới thiệu, mặc dù được đề cập trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành nhưng cho đến nay, quy định này chưa được thực hiện trên thực tế. Nguyên nhân là do chưa được cụ thể hoá. Xuất phát từ kinh nghiệm của một số nước và theo quy định của WTO, chúng ta cần phải ban hành “Luật chống bán phá giá” thay cho Điều 9 của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành chỉ có tính chất giới thiệu mà không có khả năng thực hiện như hiện tại để bảo hộ sản xuất trong nước chống lại các hành động buôn bán không trung thực của các công ty nước ngoài.
Ngoài ra, chúng ta cũng có thể sử dụng một biện pháp tính thuế mới: thuế tuyệt đối. Biện pháp này quy định mức thuế theo giá trị tuyệt đối tính trên một đơn vị hàng hoá, ví dụ 2USD/lít, 0,5UDS/kg. . . Thuế tuyệt đối có thể thu riêng, có thể thu kết hợp với thuế tỷ lệ mà lâu nay ta vẫn sử dụng. Đây là biện pháp được nhiều nước áp dụng, trong đó có cả những nước mà chế độ ngoại thương tương đối tự do như Mỹ, Singapore.
Thuế tuyệt đối sẽ không ảnh hưởng lớn đến mậu dịch chính ngạch nhưng sẽ có tác dụng lớn đến mậu dịch biên giới, nơi mà hàng hoá được nhập khẩu với giá rất thấp khiến thuế tính theo tỷ lệ phần trăm mất tác dụng. Ngoài ra, việc chuyển sang thu thuế tuyệt đối cũng sẽ giúp chúng ta bãi bỏ được chế độ định giá tối thiểu trong khi vẫn đảm bảo được việc chống gian lận thương mại thông qua khai man giá trị tính thuế.
Đối với nước ta, biện pháp này chủ yếu nên được áp dụng cho hàng nông sản và một số sản phẩm công nghiệp khác vẫn được nhập khẩu vào nước ta với giá rất thấp như rau quả, thịt, gạch ốp lát, trứng gia cầm, muối biển, kinh xây dựng, động cơ đốt trong, hàng tiêu dùng đã qua sử dụng.
2. Vấn đề công tác tổ chức thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu.
2.1. Đơn giản hoá thủ tục hải quan.
Việc thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu có liên quan chặt chẽ đến thủ tục hải quan. Bởi lẽ, cơ quan hải quan là cơ quan áp dụng, thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu. Do vậy, đơn giản hoá thủ tục hải quan là tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện mục tiêu của chính sách thuế xuất nhập khẩu. Để đơn giản hoá thủ tục hải quan, có thể thực hiện các giải pháp đối với các lĩnh vực sau đây:
2.1.1. Tờ khai hải quan.
Tờ khai hải quan lưu giữ nhiều thông tin cần thiết về đối tượng chính sách thuế xuất - nhập khẩu. Chính vì vậy, có trường hợp xác định các tiêu chí trong tờ khai không đúng, không khoa học. . . khiến tờ khai hải quan phức tạp, khó hiểu vì có quá nhiều tiêu chí mà vẫn không đảm bảo đủ các yếu tố cần thiết giúp các cơ quan quản lý thực hiện các chức năng của mình. Do đó, mẫu tờ khai hải quan phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ áp dụng.
Sắp tới, việc thực hiện CEPT, sẽ có mẫu tờ khai hải quan chung cho các nước ASEAN. Tuy nhiên, để đơn giản hoá việc áp dụng, cơ quan hải quan cần nghiên cứu ban hành mẫu tờ khai chung cho mọi đối tượng, mọi nước để đảm bảo yếu tố của tờ khai và đảm bảo cho việc thực hiện CEPT.
2.1.2. Xây dựng quy trình làm thủ tục hải quan đơn giản, khoa học và công khai hoá thủ tục hải quan.
Hiện tại, ngành hải quan đang thực hiện quy trình hành thu. Quy trình này cho phép phân biệt trách nhiệm pháp lý rõ ràng giữa người khai báo, làm thủ tục hải quan, cần ban hành quy trình thủ tục hải quan mới, trong đó hạn chế việc kiểm tra ngay tại cửa khẩu, tăng cường hoạt động kiểm tra sau thông quan. Để thực hiện mục tiêu này, trong quy trình phải có:
- Quy định việc phân luồng hàng hoá xuất nhập khẩu: loại hàng nào thì kiểm tra ngay tại cửa khẩu, loại nào thì thực hiện giải phóng nhanh. Căn cứ Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu và cơ chế điều hành xuất nhập khẩu hàng năm, cơ quan hải quan công bố danh mục phân luồng hàng hoá xuất nhập khẩu theo từng năm hoặc từng thời kỳ để thực hiện.
- Quy định việc phân lại các đơn vị xuất nhập khẩu: mục đích là xác định những đơn vị nào chấp hành nghiêm túc các quy định của luật pháp trong kinh doanh xuất nhập khẩu, đơn vị nào có vi phạm hay thường xuyên vi phạm để từ đó lựa chọn biện pháp thủ tục thích hợp.
- Thực hiện công khai hoá thủ tục hải quan: việc ban hành quy trình thủ tục là để các đối tượng là đối tượng áp dụng (cơ quan hải quan) và đối tượng chịu sự áp dụng (doanh nghiệp) thực hiện. Nếu không công khai hoá thì mục tiêu trên không thể thực hiện được. Công khai hoá thủ tục hải quan còn có tác dụng để các đối tượng giám sát lẫn nhau trong việc thực hiện quy trình, đảm bảo cho mọi đối tượng cùng thực hiện đúng quy định.
2.1.3. áp dụng công nghệ tin học vào thực hiện thủ tục hải quan.
Đây là điều kiện để đơn giản hoá thủ tục hải quan. Việc áp dụng công nghệ tin học, nối mạng máy vi tính toàn quốc giữa các đơn vị làm thủ tục cho phép áp dụng thủ tục thống nhất, chính xác. Mặt khác, giúp cơ quan kiểm tra có điều kiện giám sát, kiểm tra việc làm thủ tục tại các điểm thông quan.
2.2. Đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ công chức thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu.
Thủ tục hành chính, công chức và tổ chức bộ máy là 3 bộ phận của nền hành chính có quan hệ khăng khít, biện chứng với nhau. Thủ tục hành chính là sản phẩm chủ quan của công chức. Do vậy, nếu công chức giỏi, có đạo đức thì sẽ có sản phẩm tốt, tức là thủ tục hành chính đơn giản, khoa học, dễ thực hiện và vẫn đạt hiệu quả cao. Đối với công chức áp dụng thủ tục cũng vậy, công chức có tốt, giỏi mới là điều kiện để thủ tục áp dụng đúng. Đã không thiếu những ví dụ cho thấy, mặc dù có thủ tục hành chính khoa học, đúng đắn nhưng do bộ phận áp dụng cố ý giải thích khác khiến thủ tục không thể áp dụng được.
Vì vậy, nên đi đôi với cải cách thủ tục hải quan, vấn đề công chức hải quan, nhất là công chức làm việc ở những bộ phận áp dụng thủ tục không thể không đặt ra. Để có được đội ngũ cán bộ công chức tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ, cần thiết phải thực hiện một số giải pháp sau:
- Lựa chọn những công chức có đạo đức, có trình độ để bố trí vào những bộ phận áp dụng thủ tục, thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu.
- Có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại thường xuyên cho đội ngũ cán bộ công chức hải quan trong các lĩnh vực: kỹ năng phân loại hàng hoá, kỹ năng xác định trị giá hải quan, kiến thức chung về pháp luật, thủ tục. . .
- Xử lý nghiêm minh công chức vi phạm pháp luật, vi phạm quy định trong khi thực hiện thủ tục hải quan.
2.3. Sắp xếp bộ máy thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu hợp lý.
Tổ chức thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu cơ bản do hai cơ quan thực hiện là Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan. Bộ Tài chính là cơ quan có chức năng thực hiện điều chỉnh thuế từng thời kỳ (cơ quan chính sách). Tổng cục Hải quan có trách nhiệm phân loại hàng hoá để áp mã tính thuế (cơ quan thực hiện). Để chính sách thuế xuất - nhập khẩu có hiệu lực trên thực tế, vấn đề phối hợp giữa hai cơ quan này không thể không đặt ra. Hai cơ quan cần ban hành quy chế hoạt động phối hợp, tham khảo lẫn nhau trong việc thực hiện chức năng của mình. Mọi mâu thuẫn, vướng mắc giữa hai cơ quan cần sớm được bàn bạc, giải quyết.
2.4. Hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật về chính sách thuế xuất - nhập khẩu.
Hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật là nhiệm vụ thường xuyên của bất cứ một chế độ xã hội nào, một hệ thống pháp luật nào. Mục đích của công tác này là rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật trong cùng một lĩnh vực; phát hiện, loại bỏ những văn bản chồng chéo, mâu thuẫn; bổ sung văn bản mới để điều chỉnh những lĩnh vực mới nảy sinh; sửa đổi, điều chỉnh những văn bản còn được sử dụng nhưng có sơ hở, hạn chế. . .
Đối với nhưng nước đang phát triển như nước ta thì việc hệ thống hoá hệ thống pháp luật nói chung và trong lĩnh vực chính sách thuế xuất - nhập khẩu nói riêng lại càng quan trọng. Nguyên nhân của vấn đề này là do trình độ, kỹ thuật lập pháp của ta chưa cao; do tồn tại xã hội chưa bộc lộ hết nên hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, cần phải thường xuyên xem xét, sửa đổi, bổ sung. Đối với chính sách thuế xuất - nhập khẩu của ta hiện nay, cần tập trung hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ của các Bộ, Ngành trong việc tham gia cơ chế điều hành xuất nhập khẩu; các văn bản quy định về quan hệ phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc giải quyết các vấn đề về thuế xuất - nhập khẩu; các văn bản quy định về việc tham gia và thực hiện các cam kết quốc tế về thuế xuất - nhập khẩu.
Một vấn đề cần phải lưu ý nữa khi thực hiện hệ thống hoá các văn bản pháp luật về thuế xuất - nhập khẩu, đó là cần phải thống nhất việc sử dụng các thuật ngữ pháp luật giữa các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Thực tiễn cho thấy đã có nhiều trường hợp cùng một vấn đề pháp lý như nhau nhưng do sử dụng các thuật ngữ khác nhau trong các văn bản dẫn đến việc hiểu khác nhau giữa các cơ quan chức năng, ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu.
2.5. Tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn và chỉ đạo chính sách thuế xuất nhập khẩu cho các doanh ngiệp.
Doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu là chủ thể chính trong việc thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu. Do vậy, để chính sách thuế xuất - nhập khẩu phát huy vai trò, tác động tích cực, đạt được mục tiêu của chính sách thì yêu cầu đặt ra là mọi chủ thể pháp luật của chính sách thuế xuất - nhập khẩu phải chấp hành đúng, nghiêm chỉnh chính sách thuế xuất -nhập khẩu. Để thực hiện được điều này, cần tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn và đào tạo chính sách pháp luật cho các chủ thể, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu.
Trước khi ban hành các chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật cần có sự tham khảo ý kiến của các đối tượng, tổ chức có liên quan (khi ban hành chính sách thuế xuất - nhập khẩu thì phải lấy ý kiến, thu thập thông tin từ các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu). Nếu như các cơ quan chức năng coi các doanh nghiệp là các đối tượng chỉ có nghĩa vụ chấp hành, không có quyền bàn bạc hay có ý kiến về lĩnh vực liên quan đến họ thì sẽ dẫn đến những sai lầm trong việc ban hành chính sách vì như vậy chính sách sẽ thoát ly thực tế, không có tính khả thi, sai phạm nhiều, hiệu quả kém. Do đó, việc tham khảo ý kiến của những đối tượng liên quan đến chính sách sắp ban hành là một điều cần thiết. Vì có như vậy mới bảo đảm chính sách ban hành phù hợp với thực tế, đảm bảo tính khả thi và cũng là biện pháp để mọi đối tượng quan tâm tìm hiểu, nắm được mục tiêu của chính sách từ đó có trách nhiệm hơn trong việc chấp hành nghiêm chỉnh chính sách ngay khi nó có hiệu lực.
Không chỉ có vậy, khi chính sách được ban hành, các cơ quan có trách nhiệm thi hành, áp dụng chính sách cần tổ chức tuyên truyền hướng dẫn và đào tạo chính sách cho các đối tượng có liên quan.
Đối với chính sách thuế xuất - nhập khẩu nói riêng cần tập trung hướng dẫn, đào tạo cho các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu trong các lĩnh vực sau đây:
- Kiến thức phân loại hàng hoá: phân loại hàng hoá để xếp mã tính thuế là công việc khó khăn nhất, mất nhiều thời gian nhất trong việc thực hiện và chấp hành chính sách thuê xuất - nhập khẩu, ngay cả đối với nhiều công chức thừa hành có kinh nghiệm đôi khi vẫn mắc phải sai lầm. Trong trường hợp có sai lầm sẽ làm cho mục tiêu của chính sách thuế xuất - nhập khẩu không thực hiện được. Để hạn chế nhữnh sai sót này, các cơ quan có trách nhiệm (Tổng cục Hải quan, Bộ Thương mại, Bộ Tài chính. . .) phải phối kết hợp cùng nhau mở các lớp hướng dẫn, đào tạo ngắn hạn giúp doanh nghiệp nắm vững kỹ năng phân loại, xếp mã hàng hoá.
- Trị giá khai báo hải quan: đào tạo hướng dẫn để doanh nghiệp nắm vững cách khai báo trị giá hải quan theo GATT; theo CEPT. Trong lĩnh vực này, doanh nghiệp phải biết được khoản nào thì cộng vào trị giá hàng hoá, khoản nào được loại bỏ; lưu trữ hoá đơn, chứng từ hợp pháp như thế nào để tiện cho việc kiểm tra sau thông quan. . .
- Thủ tục hải quan: thủ tục hải quan đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu. Doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu cần phải nắm vững được trình tự và yêu cầu của thủ tục hải quan đảm bảo không có sai sót khi làm thủ tục. Cơ quan hải quan một mặt phải công khai hoá thủ tục, mặt khác có biện pháp hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện tốt thủ tục hải quan.
Ngoài những biện pháp trên, cần thường xuyên tổ chức các diễn đàn trao đổi giữa cơ quan Nhà nước (cơ quan hải quan, Bộ Tài chính. . .) với các doanh nghiệp để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, tiếp cận những phản ánh của doanh nghiệp để thực hiện hoàn thiện chính sách thuế xuất -nhập khẩu và để đạt được sự thông hiểu giữa hai chủ thể chính có nghĩa vụ thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu, từ đó đảm bảo chính sách được thực hiện nghiêm chỉnh.
Thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ là cơ sở để chính sách thuế xuất - nhập khẩu được thực hiện trên thực tế, hạn chế sai phạm, tiêu cực, đạt mục tiêu của chính sách với hiệu quả.
2.6. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu.
Quá trình xây dựng và thực hiện chính sách gồm các giai đoạn:
Nghiên cứu đường lối, thực trạng điều kiện kinh tế - xã hội.
Vạch chính sách.
Tổ chức bộ máy hoặc chỉ định bộ máy thực hiện chính sách.
Thực hiện chính sách.
Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách.
Tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm và đề ra chính sách mới.
Thiểu một trong sáu giai đoạn trên, chính sách không thể thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, hiệu quả thấp, thậm chí có hiệu quả ngược. Trong sáu giai đoạn trên, công tác thanh tra, kiểm tra có tác dụng đảm bảo cho chính sách được thực hiện nghiêm túc, đúng đắn, có tác dụng phát hiện những sơ hở, hạn chế của chính sách; của quá trình thực hiện chính sách từ đó có thể khắc phục kịp thời.
Trong thời gian tới, cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra có hiệu quả góp phần tổ chức thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu đúng đắn hơn.
KẾT LUẬN.
Trong xu thế quốc tế hoá; xu thế hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, Việt Nam đã và đang từng bước hoà mình để phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Việc buôn bán, trao đổi hàng hoá giữa nước ta và các nước trong khu vực cũng như với các nước trên thế giới ngày càng phát triển. Điều đó chứng tỏ, toàn bộ nền kinh tế nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng đang đi đúng hướng. Để hoạt động xuất nhập khẩu đạt hiệu quả cao theo đúng hướng mà Đảng và Nhà nước đã đề ra thì nhất thiết phảI xây dựng được một hệ thống chính sách và cơ chế quản lý phù hợp với hoàn cảnh nước ta trong từng thời kỳ nhất định. Thông qua việc ban hành và thực thi chính sách thuế xuất - nhập khẩu, chúng ta có thể nắm được tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá, tạo điều kiện cho Nhà nước có căn cứ đề ra chính sách đúng đắn trong công tác quản lý; cân đối cung cầu hàng hoá xuất nhập khẩu và cân bằng cán cân thanh toán, góp phần tăng trưởng kinh tế. Có thể nói, chính sách thuế xuất - nhập khẩu là một trong những công cụ quan trọng và nhạy cảm trong hệ thống chính sách và cơ chế quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. Trong điều kiện của hội nhập kinh tế quốc tế thì chính sách thuế xuất - nhập khẩu còn phải phù hợp với điều kiện chung của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực là phải hạ thấp hàng rào thuế quan, tự do hoá thương mại.
Trong những năm qua, chính sách thuế xuất - nhập khẩu của nước ta đã có nhiều thay đổi, đã cập nhật nhiều nội dung khoa học, hiện đại cơ bản đã đáp ứng được các đòi hỏi của hội nhập quốc tế và trong nước. Tuy nhiên, trước thực tế không ngừng vận động, biến đổi, phát triển vấn đề tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu không thể không đặt ra.
Tiếp cận ý nghĩa này, các nghiên cứu trong chuyên đề đã đề cập được các điểm sau:
- Xem xét cơ chế tác động, ảnh hưởng của thuế xuất - nhập khẩu đến các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội thông qua ảnh hưởng của giá cả. Thông qua đó, thấy rằng, bằng việc thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu hợp lý, nước ta có thể thực hiện bảo hộ sản xuất trong nước đối với những ngành cần khuyến khích phát triển; điều chỉnh luồng thương mại xuất nhập khẩu, luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn thu Ngân sách Nhà nước và điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư thực hiện mục tiêu công bằng xã hội.
- Xác định yêu cầu của quá trình hội nhập đối với việc xây dựng chính sách thuế xuất - nhập khẩu thông qua quy định của một số tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực mà Việt Nam đã tham gia hoặc đang đề nghị được tham gia cũng như các quy định trong các Hiệp định song phương giữa nước ta với một số nước (đặc biệt là Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ); thông qua thực tế thực hiện của một số nước trong việc điều chỉnh chính sách thuế xuất - nhập khẩu tiến hành hội nhập và căn cứ vào những cơ sở khoa học của việc xây dựng chính sách thuế xuất nhập khẩu. Từ đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm và phương hướng cho việc xây dựng chính sách thuế xuất - nhập khẩu của nước ta.
- Thực trạng chính sách thuế xuất - nhập khẩu của Việt Nam, quá trình phát triển và những hạn chế của chính sách thuế xuất - nhập khẩu của nước ta.
- Trên cơ sở đó, kết hợp đồng thời việc khái quát, vận dụng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, điều kiện thực tiễn của Việt Nam đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu trong những năm tới.
Em hi vọng rằng, những vấn đề được đề cập trong chuyên đề sẽ có ích cho việc hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu nhằm phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29653.doc