Hoàn thiện chính sách Quản lý Ngoại hối ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (69tr)

LỜI NÓI ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Chính sách QLNH là một bộ phận hợp thành của chính sách Tài chính-Tiền tệ quốc gia, là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt là với hoạt động kinh tế đối ngoại. Để tạo điều kiện phát triển hài hoà giữa kinh tế đối nội và kinh tế đối ngoại, hội nhập và phát triển bền vững, các quốc gia đều phải có chính sách Tài chính-Tiền tệ nói chung và chính sách QLNH nói riêng phù hợp với thực tiễn mỗi nước. Chính sách QLNH có vai trò rấ

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1514 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện chính sách Quản lý Ngoại hối ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (69tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t quan trọng trong hoạt động hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ của NHTW, nhất là các nước đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế và cam kết hội nhập KTQT một cách sâu rộng như Việt Nam. Chính sách QLNH có tác động và ảnh hưởng quan trọng đối với biến động của các thành tố trên TK vãng lai cũng như TK vốn như: Kim ngạch XNK, các luồng luân chuyển vốn (đầu tư cũng như vay nợ) quốc tế. Trong điều kiện hội nhập KTQT ngày càng sâu sắc hơn, việc tác động và điều chỉnh được những thành tố đó có ý nghĩa then chốt đối với việc ổn định và kích thích tăng trưởng kinh tế quốc gia. Nhận thức được tầm quan trọng của chính sách QLNH một cách có hệ thống nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện phù hợp với tiến trình hội nhập KTQT của Việt Nam là hết sức cần thiết và cấp bách. Xuất phát từ đó, "Hoàn thiện chính sách Quản lý Ngoại hối ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế" đã được em chọn làm đề tài của bản luận văn. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Hệ thống hoá những nét tổng quát về ngoại hối và các hạn chế đối với GD ngoại hối theo tiêu chí chung của IMF cũng như cụ thể đối với các nước đang phát triển để rút ra kinh nghiệm. - Phân tích, đánh giá thực trạng chính sách QLNH ở Việt Nam qua từng giai đoạn cụ thể. - Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách QLNH của Việt Nam trong xu thế hội nhập KTQT 3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU - Phạm vi nghiên cứu: chính sách QLNH ở Việt Nam qua các thời kỳ đến nay, đặc biệt là các quy định hiện hành về QLNH và thực tiễn QLNH của Nhà nước ta hiện nay. - Đối tượng nghiên cứu: chính sách QLNH của Việt Nam. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Khoá luận sử dụng phương pháp nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin để luận giải các vấn đề liên quan, đồng thời căn cứ vào đường lối chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Ngoài ra, khoá luận còn sử dụng một số phương pháp khác như phân tích tổng hợp, diễn giải, quy nạp, so sánh,...và minh hoạ bằng các bảng biểu, số liệu. 5. Kết cấu khoá luận Khoá luận gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối Chương 2: Thực trạng chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam Chương 3: Hướng hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế Sau đây là nội dung chi tiết của từng chương: Em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Văn Tiến_ Chủ nhiệm khoa Tiền tệ-Tín dụng quốc tế đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Hà Nội, tháng 5 năm 2004 Sinh viên Trần Mỹ Hạnh CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI 1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGOẠI HỐI VÀ NHỮNG HẠN CHẾ NGOẠI HỐI 1.1.1 KHÁI NIỆM NGOẠI HỐI Cùng với sự phát triển không ngừng của nền sản xuất hàng hoá, nhu cầu mở rộng giao lưu thương mại không chỉ dừng lại ở phạm vi một quốc gia mà ngày càng đòi hỏi mở rộng trên phạm vi toàn cầu. Để thúc đẩy hoạt động thương mại trên thế giới, các phương tiện thanh toán quốc tế ngày càng được hoàn thiện- bên cạnh phương tiện chi trả cổ điển như vàng- các phương tiện thanh toán hiện đại đã được rất nhiều quốc gia chấp nhận và đưa vào sử dụng. Các phương tiện thanh toán, dự trữ quốc tế này gọi chung là ngoại hối. Đối với Việt Nam, khái niệm ngoại hối được đề cập cụ thể trong Thông tư số 01/1999/TT-NHNN7 ngày 16/4/1999 của NHNN hướng dẫn Nghị định 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ về QLNH như sau: Ngoại hối bao gồm: - Các đồng tiền hợp pháp của nước ngoài hiện đang được lưu hành dưới các hình thức tiền giấy, tiền kim loại. - Công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài như: séc, hối phiếu, thẻ thanh toán và các công cụ thanh toán khác. - Các loại GTCG bằng tiền nước ngoài như trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại GTCG khác. - Quyền rút vốn, đặc biệt là đồng tiền do IMF phát hành dùng để dự trữ và thanh toán quốc tế cho các nước hội viên, được kí hiệu là SDR. - Đồng tiền chung Châu Âu là đồng tiền chung của các nước thuộc cộng đồng Châu Âu dùng để dự trữ và thanh toán giữa các nước thành viên đó. - Các đồng tiền chung khác dùng trong thanh toán quốc tế và khu vực. - Vàng tiêu chuẩn quốc tế. - Đồng tiền đang lưu hành của nước cộng hoà XHCN Việt Nam (đồng Việt Nam) trong trường hợp chuyển vào và ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng làm công cụ trong thanh toán quốc tế. 1.1.2 CÁC GD NGOẠI HỐI Các GD ngoại hối là các GD có liên quan đến hoạt động mua bán, cho vay, bảo lãnh, các hoạt động đầu tư và các GD về ngoại hối. Các hoạt động ngoại hối liên quan đến GD kinh tế giữa người cư trú và người không cư trú, thể hiện giữa các GD vãng lai và các GD vốn trong phạm vi một quốc gia. a/ GD vãng lai Là các GD ngoại tệ giữa người cư trú và người không cư trú về XNK hàng hóa, dịch vụ, thu nhập từ đầu tư trực tiếp, thu nhập từ đầu tư vào các GTCG, lãi vay và lãi tiền gửi ở nước ngoài, chuyển tiền một chiều và các GD khác liên quan đến các hạng mục của cán cân vãng lai. Trong các GD vãng lai thì GD mua bán, thanh toán XNK có vai trò quan trọng. Nó phản ánh tình hình cán cân thương mại của một quốc gia bội thu hay bội chi và có tác động ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế. Do đó, trong điều kiện nền kinh tế căng thẳng về cung cầu ngoại tệ, một số nước áp dụng biện pháp kết hối đối với nguồn thu ngoại tệ từ XK (quy định bắt buộc phải bán một phần hoặc toàn bộ nguồn thu từ XK). Ngoài ra, GD chuyển tiền một chiều dưới các hình thức chuyển tiền kiều hối, chuyển tiền cho các mục đích du học, trợ cấp thân nhân hoặc cho các mục đích định cư cũng đóng vai trò quan trọng, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. b/ GD vốn Là các GD chuyển vốn vào và ra khỏi một quốc gia trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp, đầu tư vào các GTCG, vay và trả nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài, các hình thức đầu tư khác làm tăng hoặc giảm tài sản Có hoặc tài sản Nợ giữa người cư trú và người không cư trú . Dòng vốn trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp thường có tính ổn định tương đối, do đó các nước đang phát triển và kém phát triển thường có những chính sách nhằm thu hút tối đa trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Còn nguồn VĐT gián tiếp vào các GTCG lại có tính nhạy cảm cao với những biến động kinh tế chính trị, do đó rất dễ bị đảo chiều với sự rút vốn ồ ạt, dễ gây ra những “cú sốc” cho nền kinh tế. Vì vậy, các nước đang và kém phát triển luôn có quy định chặt chẽ để quản lý chặt chẽ, hạn chế tác động xấu của luồng vốn gián tiếp đến nền kinh tế. c/ Các GD ngoại hối trong phạm vi một quốc gia. Thông thường, các GD ngoại hối trong một quốc gia đề cập đến những vấn đề về quyền sở hữu, mua, bán và phạm vi sử dụng ngoại tệ của người cư trú và người không cư trú; hoạt động ngoại hối của các NHTM như mua bán ngoại tệ, vay và cho vay ngoại tệ trong nước, thực hiện các quy định về trạng thái ngoại tệ. Đối với các nước đang và kém phát triển, khi đồng bản tệ chưa có khả năng chuyển đổi và luôn phải đối mặt với sự biến động của tỷ giá, lạm phát cao luôn đe doạ, việc sử dụng ngoại tệ làm công cụ cất trữ, thanh toán rất phổ biến dẫn đến tình trạng đôla hoá nền kinh tế; mặc dù các nước này đã áp dụng các quy định về hạn chế việc thanh toán, cho vay với nhau bằng ngoại tệ. 1.1.3 NHỮNG HẠN CHẾ ĐỐI VỚI GD NGOẠI HỐI THEO TIÊU CHÍ CỦA IMF. Các nước tuỳ theo mức độ phát triển của thị trường Tài chính-Tiền tệ nói riêng và nền kinh tế nói chung đều có những quy định về một số hạn chế đối với GD ngoại hối. Các nước phát triển với chính sách tự do hoá thương mại, dịch vụ và đầu tư thì các GD ngoại hối căn bản được tự do hoá, các hạn chế ngoại hối được dỡ bỏ gần như hoàn toàn; nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế ngoại hối liên quan đến những vấn đề như mang ngoại tệ khi xuất nhập cảnh với mục đích chống rửa tiền hoặc những hạn chế về thanh toán, đầu tư liên quan đến lý do an ninh quốc phòng, chính trị... Đối với các nước kém phát triển hoặc đang phát triển, nhu cầu ngoại tệ để trang bị cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ luôn lớn hơn nguồn thu từ XK; cán cân thương mại thường xuyên trong tình trạng bội chi và phải tài trợ bằng vốn nước ngoài...Trong bối cảnh đó, cần phải áp dụng các hạn chế ngoại hối nhằm thu hút nguồn ngoại tệ vào, hạn chế nguồn ngoại tệ ra và kiểm soát các GD vay trả nợ nước ngoài góp phần ổn định tỷ giá và hỗ trợ cho việc điều hành chính sách tiền tệ. Các hạn chế ngoại hối đối với các nước này được quy định bằng hệ thống các văn bản pháp lý cùng với các quy định về quyền và phạm vi sử dụng ngoại tệ được gọi là chính sách QLNH. Để có những thông tin cần thiết về cơ chế QLNH và cơ chế tỷ giá của các nước thành viên, IMF hàng năm biên soạn và phát hành Báo cáo thường niên về các hạn chế ngoại hối và chế độ tỷ giá; trong đó mô tả những nét khái quát về những hạn chế liên quan đến ngoại hối và chế độ tỷ giá theo những tiêu chí chung sau. a/ Những hạn chế liên quan đến các GD vãng lai * Quy định chế độ thanh toán và nhận thanh toán - Các quy định ảnh hưởng đến việc lựa chọn đồng tiền và phương pháp thanh toán các GD với nước khác. Khi một nước đã kí kết Hiệp định thanh toán với các nước khác thì những điều kiện của các Hiệp định thường bao gồm các nội dung quy định về đồng tiền thanh toán với nước liên quan. Ví dụ Hiệp định thanh toán của Việt Nam kí với Trung Quốc trong đó quy định đồng tiền thanh toán là các loại ngoại tệ tự do chuyển đổi, VND và CNY, sử dụng các hình thức thanh toán qua ngân hàng và theo thông lệ quốc tế. - Về tổ chức kiểm soát ngoại hối đưa ra một số thông tin về cơ quan chịu trách nhiệm đối với chính sách ngoại hối, tổ chức kiểm soát và mức độ quyền hạn mà họ được giao phó để phục vụ cho mục tiêu hoạt động. Thông thường, NHTW được giao phó trách nhiệm đối với việc QLNH; tuy nhiên cũng có một số trường hợp đặc biệt như Trung Quốc thành lập Tổng cục QLNH. - Các hạn chế đối với thanh toán và chuyển tiền trong các GD vãng lai do các nước có lý do an ninh quốc gia hoặc an ninh quốc tế. * Quy định liên quan hoạt động thanh toán XNK - Về thanh toán NK: + Quy định bản chất và mức độ hạn chế về ngoại hối và ngoại thương đối với hàng NK. Bao gồm thông tin về sự tồn tại về việc phân bổ ngoại tệ (thông thường hàng năm phân bổ trước một số lượng ngoại tệ nhất định để phục vụ cho việc NK những hàng hoá thiết yếu, đôi khi còn xác định cả số lượng ngoại tệ cho những nhà NK được chỉ định và đăng kí trước). + Quy định về tài trợ đối với NK (về thanh toán trước và sự tồn tại của quy định về đặt cọc). Đặc biệt quan trọng là các quy định về chứng từ để bán ngoại tệ cho các hoạt động NK hàng hoá, dịch vụ. Cụ thể như quy định về nghĩa vụ tiến hành GD với một định chế tài chính chỉ định, kiểm tra trước khi gửi hàng nhằm đảm bảo tính xác thực của GD NK về mặt số lượng, chất lượng và giá cả; nghĩa vụ thanh toán bằng phương thức thư tín dụng, yêu cầu xuất trình giấy phép NK để được mua ngoại tệ cho việc thanh toán hàng NK. Ngoài ra còn mô tả thêm về giấy phép NK và các biện pháp phi thuế quan khác. Ví dụ như danh mục hàng hoá được NK, hàng hoá hạn chế NK và các hàng hoá cấm NK. - Về các quy định liên quan đến hoạt động XK và tiền thu từ XK: Phần này chỉ ra các hạn chế đối với việc sử dụng tiền thu từ XK cũng như quy định đối với hoạt động XK. Đặc biệt có ý nghĩa về quy định chuyển tiền về nước, đề cập đến nghĩa vụ của người XK phải chuyển tiền thu được từ XK về nước hoặc bằng cách bán trên TT ngoại hối hoặc gửi vào TK. Quy định này thường được các nước áp dụng là kết hối, đề cập tới các quy định yêu cầu người nhận tiền thu từ XK phải bán mọi khoản thu ngoại tệ lấy nội tệ, đôi khi với tỷ giá quy định cho NHTW, NHTM hoặc người GD ngoại hối được uỷ quyền thực hiện việc này. * Quy định về các GD chuyển tiền một chiều ra nước ngoài Phần này quy định các thủ tục cho phép thanh toán chuyển tiền ra nước ngoài trong các GD chuyển tiền một chiều, gồm các yêu cầu phê duyệt trước, những hạn chế về số lượng, hạn mức định hướng hoặc kiểm tra nhu cầu hợp lý. Hạn mức định hướng định ra số lượng ngoại tệ tối đa được phép mua khi khai báo các mục đích GD được phép- chủ yếu phục vụ cho yêu cầu thống kê, phân tích số liệu luồng ngoại tệ ra vào của một quốc gia. Khi số lượng vượt quá những giới hạn này sẽ được phép GD nếu chứng minh được là có nhu cầu hợp lý thông qua việc xuất trình các chứng từ phù hợp. Cũng có thể áp dụng kiểm tra nhu cầu hợp lý đối với các GD chưa bị hạn chế số lượng. * Quy định các GD chuyển tiền một chiều về nước gồm các quy định điều chỉnh việc nhận ngoại tệ từ các GD chuyển tiền về nước, các hạn chế đối với việc chuyển đổi sang nội tệ và sử dụng các khoản tiền nhận được. Thông thường ở Việt Nam phần này được quy định trong các văn bản về chuyển tiền kiều hối. b/ Những hạn chế liên quan đến các GD vốn Gồm: + Các quy chế tác động tới sự di chuyển vốn như sự ngăn cấm, yêu cầu phê duyệt trước, uỷ quyền và thông báo. + Quy định về lãi suất áp đặt bởi cơ quan quản lý việc kí kết và thực hiện các GD hay chuyển tiền đối với việc chuyển vốn vào và ra nước ngoài. + Các quy định liên quan đến đầu tư trực tiếp đề cập đến việc đầu tư với mục đích thiết lập quan hệ kinh tế lâu dài chủ yếu để sản xuất hàng hoá dịch vụ, đặc biệt là đầu tư cho phép thực hiện kiểm soát quản lý có hiệu quả, bao gồm việc cho phép thành lập hay mở rộng một DN, công ty trực thuộc hay chi nhánh hoàn toàn thuộc sở hữu của chủ đầu tư và việc mua lại toàn bộ hay một phần quyền sở hữu một DN dẫn tới khả năng kiểm soát hoạt động của DN này. Ngoài ra còn liên quan đến việc theo dõi chuyển VĐT vào, chuyển lợi nhuận và VĐT ra nước ngoài của các chủ đầu tư. + Các quy định liên quan đến kiểm soát đầu tư trên TTCK gồm việc theo dõi luồng tiền vào và ra, các quy định liên quan đến việc chuyển đổi từ nội tệ sang ngoại tệ và chuyển ra nước ngoài. c/ Những hạn chế liên quan đến các GD ngoại hối trong phạm vi quốc gia - Quy định về việc mở và sử dụng TK của người cư trú và người không cư trú. Những hạn chế đối với việc mở và sử dụng TK ngoại tệ của người cư trú thường thể hiện ở các quy định về hạn chế số lượng TK, giới hạn mục đích sử dụng. Đối với TK của người không cư trú là khả năng chuyển đổi từ đồng bản tệ sang đồng ngoại tệ và các quy định về chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. - Các quy định liên quan đến những hạn chế trong hoạt động ngoại hối của các TCTD như việc hoạt động trong khuôn khổ phạm vi giấy phép, hạn chế trong một số GD nghiệp vụ hoán đổi, quyền lựa chọn... hoặc các quy định ràng buộc việc mở TK kinh doanh ngoại tệ ở TT nước ngoài. 1.1.4 SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUY ĐỊNH CÁC HẠN CHẾ ĐỐI VỚI GD NGOẠI HỐI Đối với các nước phát triển, đồng tiền có khả năng chuyển đổi thì các GD ngoại hối hầu như được tự do hoá trong giao lưu thương mại và tài chính quốc tế. Vấn đề QLNH thực sự là yêu cầu quan trọng đối với các nước đang phát triển và kém phát triển khi cung tiết kiệm nội địa thấp và thâm hụt TK vãng lai cao, phải dựa vào nguồn vốn nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, các nước đang phát triển cần chi nhiều ngoại tệ để NK trang thiết bị, nội địa hoá công nghệ sản xuất trong khi hàng hoá sản xuất trong nước kém hiệu quả, sức cạnh tranh trên thương trường quốc tế thấp nên kim ngạch XK hầu như không đáp ứng được nhu cầu chi cho NK. Do đó, các nước đang phát triển thường xuyên phải đối mặt với tình trạng thâm hụt TK vãng lai gây sức ép lên quan hệ cung cầu ngoại tệ trong nước và tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định giá trị đồng bản tệ và gây tác động xấu đến sự phát triển và tăng trưởng kinh tế quốc dân. Để tài trợ thâm hụt TK vãng lai, cần phải hạn chế có chọn lọc luồng ngoại tệ đi ra và khuyến khích nguồn ngoại tệ đi vào quốc gia phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Các hạn chế đối với hoạt động ngoại hối được thể hiện ở một số nội dung liên quan đến chính sách hạn chế NK, chuyển tiền một chiều trong nước ra nước ngoài, các quy định bắt buộc phải chuyển các nguồn thu vãng lai về nước, thực hiện chính sách kết hối nhằm tập trung nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng để đáp ứng nhu cầu NK thiết yếu cho nền kinh tế. Ngoài ra, để tài trợ thâm hụt TK vãng lai và có thêm nguồn lực để phát triển kinh tế, các nước đã có nhiều biện pháp khuyến khích đầu tư, vay nợ nước ngoài. Tuy nhiên, thâm hụt TK vãng lai không thể luôn tài trợ bằng cách tăng nợ nước ngoài, làm như vậy sẽ dẫn đến tình trạng tăng luồng vốn ra (trả nợ gốc và lãi) kéo theo tình trạng không có khả năng duy trì nợ nước ngoài dẫn đến khủng hoảng nợ. Điển hình là cuộc khủng hoảng Tài chính ở Châu Á năm 1997 mang đặc điểm của cuộc khủng hoảng Tài chính vốn mà nguyên nhân là phần lớn lượng vốn chảy vào từ khu vực tư nhân có liên quan tới cán cân thanh toán và mang tính ngắn hạn, tiếp theo là sự đảo lộn của luồng vốn ra một cách ào ạt. Để khắc phục tình trạng trên đòi hỏi các nước tiếp nhận dòng vốn vào phải có sự quản lý thận trọng đối với các GD vốn và quan tâm hơn nữa đến vấn đề thâm hụt TK vãng lai và khả năng duy trì nợ. 1.2 CHÍNH SÁCH QLNH 1.2.1 KHÁI NIỆM VỀ CHÍNH SÁCH QLNH a/ Khái niệm Chính sách QLNH là bộ phận của chính sách tiền tệ quốc gia, là một trong những công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế. Nó bao gồm những quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động ngoại hối như mua bán, đầu tư, vay, cho vay và các GD khác về ngoại hối của các bên liên quan nhằm thực hiện được các mục tiêu QLNH trong từng thời kỳ. Thông thường, Chính phủ các nước uỷ nhiệm chức năng QLNH và hoạt động ngoại hối cho một cơ quan Bộ hoặc cơ quan ngang Bộ đảm trách nhiệm vụ này. Phần lớn trên thế giới, NHTW giữ trọng trách QLNH và hoạt động ngoại hối. Tại Việt Nam, Chính phủ giao cho NHNN là cơ quan chủ quản và phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để thực hiện việc QLNH. b/ Đối tượng QLNH Là tất cả các tổ chức, cá nhân có những hoạt động liên quan đến ngoại hối trên phạm vi một quốc gia và các tổ chức, cá nhân của quốc gia đó ở nước ngoài. Để tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý, đối tượng QLNH thường được phân thành người cư trú và người không cư trú. c/ Phạm vi QLNH Bao gồm các hoạt động liên quan đến ngoại hối: đó là các hoạt động làm nảy sinh cung cầu ngoại tệ như GD thương mại, chuyển tiền một chiều, đầu tư và hoạt động vay, trả nợ nước ngoài. Đó là hoạt động ngoại hối của các TCTD liên quan đến trạng thái ngoại hối trên TTNTLNH, vấn đề tỷ giá và các hoạt động của tổ chức, cá nhân liên quan đến ngoại hối. 1.2.2 Các loại hình chính sách QLNH a/ Chính sách Nhà nước độc quyền về QLNH Chính sách này đi liền với cơ chế độc quyền quản lý ngoại thương của Nhà nước và hoạt động kinh tế đối ngoại. Thông thường, chính sách này áp dụng đối với các nước có nền kinh tế hướng nội, kế hoạch hoá, tập trung cao độ. Trong bối cảnh đó, tỷ giá được ấn định một cách chủ quan duy ý chí, không dựa trên quan hệ cung cầu của TT ngoại hối; mọi GD về ngoại hối được thực hiện thông qua các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ. Các hoạt động mua bán kinh doanh, tàng trữ ngoại hối đều bị nghiêm cấm. b/ Chính sách thắt chặt QLNH Thắt chặt QLNH là giải pháp áp dụng đối với các nước thời kỳ đầu đổi mới. Đây là việc Nhà nước quản lý sát sao mọi hoạt động XNK hàng hoá, dịch vụ và kiểm soát chặt chẽ các luồng vận động ngoại hối nhưng Nhà nước không độc quyền nắm giữ hoạt động kinh tế đối ngoại. Việc QLNH đối với các tổ chức, cá nhân đã được mở rộng hơn so với chính sách độc quyền QLNH. Các tổ chức, cá nhân có nguồn thu, chi ngoại tệ được phép mở TK ngoại tệ tại ngân hàng. Tuy nhiên, việc quản lý nguồn thu từ XK vẫn bị ràng buộc bởi trách nhiệm phải bán toàn bộ số ngoại hối cho các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ. Khi cần ngoại tệ để thanh toán cho các GD với nước ngoài, các đơn vị kinh tế phải được sự đồng ý của các cơ quan có thẩm quyền và được các ngân hàng đáp ứng ngoại tệ- các GD trong nước được quy định thực hiện bằng ngoại tệ. c/ Chính sách nới lỏng QLNH Trong bối cảnh toàn cầu hoá, với sự mở rộng hoạt động thương mại đầu tư quốc tế cho tất cả các TPKT tham gia thì chính sách QLNH thông thường được áp dụng là chính sách nới lỏng QLNH nhằm tạo điều kiện thúc đẩy giao lưu thương mại, đầu tư quốc tế phát triển. Lúc này, Nhà nước QLNH thông qua các công cụ TT và thông qua TT hối đoái. NHTW với tư cách là một thành viên TT điều tiết thông qua hành động mua và bán ngoại tệ trên TT ngoại hối. Khi cần huy động ngoại tệ để thực hiện quá trình cải tổ, phát triển nền kinh tế, NHTW sẽ sử dụng công cụ lãi suất, tỷ giá để thu hút ngoại tệ trong nền kinh tế. Đối với các tổ chức, cá nhân được chủ động sử dụng nguồn ngoại tệ của mình như các quyền sở hữu, cất trữ và gửi tại ngân hàng... Dù vậy, nếu bối cảnh nền kinh tế tiềm ẩn nguy cơ lạm phát thì việc sử dụng chính sách ngoại hối nới lỏng sẽ dẫn đến tình trạng đôla hoá nền kinh tế. D/ CHÍNH SÁCH TỰ DO HOÁ NGOẠI HỐI Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế với việc dỡ bỏ các rào cản thương mại, chu chuyển hàng hoá và chu chuyển vốn được vận hành theo cơ chế TT thì điều đó đã làm nền tảng cho chính sách tự do QLNH. Nhà nước điều tiết TT thông qua các chính sách vĩ mô và các công cụ TT, giảm tới mức tối đa việc can thiệp trực tiếp mang tính hành chính, mệnh lệnh để TT vận hành theo tín hiệu cung cầu của TT. Giá cả hàng hoá và đặc biệt là tỷ giá được quyết định bởi yếu tố cung cầu trên TT. Tổ chức và cá nhân được chủ động trong việc cất trữ và sử dụng ngoại tệ của mình. Thông thường, chính sách QLNH được áp dụng với các nước có nền kinh tế phát triển theo xu hướng mở cửa và hội nhập, có TT Tài chính-Tiền tệ phát triển, có TTCK, TT ngoại hối phát triển ở mức độ cao và có nguồn ngoại tệ dự trữ dồi dào để sẵn sàng ứng phó khi có biến động trên TT. 1.2.3 MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH QLNH Mục tiêu chung của chính sách QLNH được quyết định bởi mục tiêu phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất định và nó phải phù hợp với mức độ phát triển của nền kinh tế. Mục tiêu chính sách QLNH tổng thể mà hầu hết các quốc gia đều phấn đấu là góp phần bảo đảm sự cân bằng giữa hoạt động kinh tế đối nội với hoạt động kinh tế đối ngoại. Muốn vậy, chính sách QLNH cần đạt được những mục tiêu sau: duy trì tỷ lệ tăng trưởng cao và bền vững, giảm tỷ lệ thất nghiệp, duy trì ổn định tiền tệ và giá cả, ổn định cán cân thanh toán quốc tế. Đối với Việt Nam, để thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế TT theo định hướng XHCN trong xu thế hội nhập mở cửa, ngoài các mục tiêu chung trên, chính sách QLNH cần đảm bảo các yêu cầu sau: - Đưa nền kinh tế đạt được mức cân bằng đối ngoại góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. - Đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế cho quốc gia. - Hạn chế luồng vốn đi ra, thu hút nguồn vốn từ bên ngoài tập trung phát triển kinh tế. - Bảo vệ chủ quyền về tiền tệ. - Tránh những tác động tiêu cực từ bên ngoài ảnh hưởng tới nền kinh tế. 1.2.4 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH QLNH CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN a/ QLNH đối với các GD vãng lai Hoạt động QLNH đối với các GD vãng lai tập trung chủ yếu vào việc theo dõi luồng ngoại tệ đi vào (từ XK, viện trợ, kiều hối, lãi đầu tư...), kiểm soát luồng ngoại tệ đi ra (thanh toán NK hàng hoá, dịch vụ, trả lãi đầu tư, chuyển tiền một chiều...). - Thông thường, việc theo dõi luồng ngoại tệ đi vào được thực hiện qua yêu cầu bắt buộc người cư trú có nguồn thu vãng lai phải chuyển về nước và khai báo để các cơ quan chức năng nắm được lượng ngoại tệ đi vào. - Quy định về nghĩa vụ bán ngoại tệ từ các nguồn thu vãng lai (kết hối) cũng được xem là một bộ phận của hoạt động QLNH đối với các GD vãng lai được nhiều quốc gia sử dụng. Người cư trú bắt buộc phải bán một lượng nhất định (thường theo tỷ lệ %) trong số nguồn thu ngoại tệ từ các GD vãng lai của mình cho các NHTM. Đây là một biện pháp hành chính nhằm tăng cung ngoại tệ cho nền kinh tế. - Kiểm soát luồng ngoại tệ đi ra chủ yếu tập trung vào các quy định về điều kiện được mua và chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Thông thường, các quốc gia áp dụng QLNH đều quy định những đối tượng mua bán được phép mua ngoại tệ và giới hạn tối đa lượng ngoại tệ được mua. Người cư trú thuộc đối tượng được phép mua ngoại tệ khi có nhu cầu ngoại tệ để thanh toán cho phía nước ngoài phải xuất trình những giấy tờ chứng minh nhu cầu được phép. Trong trường hợp tất cả các đối tượng đều được phép mua ngoại tệ phục vụ cho các GD vãng lai với số lượng không hạn chế thì đồng tiền của quốc gia đó được công nhận là có khả năng chuyển đổi hoàn toàn đối với cán cân vãng lai (hay còn gọi là tự do hoá cán cân vãng lai). Hầu hết các quốc gia là thành viên của IMF hiện nay đều đã và đang từng bước thực hiện tạo khả năng chuyển đổi hoàn toàn cho đồng bản tệ đối với cán cân vãng lai. B/ QLNH ĐỐI VỚI CÁC GD VỐN QLNH đối với các GD vốn nhằm mục đích thu hút nguồn vốn từ nước ngoài và hạn chế luồng vốn đi ra. Nó được thể hiện ở quy định QLNH trong lĩnh vực đầu tư và vay trả nợ nước ngoài. - Hầu hết các nước đều khuyến khích nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào nền kinh tế, đặc biệt là nguồn VĐT trực tiếp FDI. Chủ trương khuyến khích FDI thể hiện bằng việc chỉ theo dõi nguồn VĐT vào thông qua các quy định về khai báo và đăng kí cam kết cho phép nhà đầu tư được chuyển lợi nhuận về nước trong quá trình hoạt động và chuyển vốn về nước khi hết thời hạn đầu tư. Còn nguồn VĐT gián tiếp có thể bị hạn chế hơn do tính chất bất ổn và sự nhạy cảm của nó đối với các chuyển biến chính trị xã hội và kinh tế của nước nhận đầu tư. Việc kiểm soát luồng VĐT ra nước ngoài được thể hiện thông qua các quy định chặt chẽ về đối tượng, thủ tục, địa bàn đầu tư và giới hạn mức VĐT ra nước ngoài. Các đối tượng muốn đầu tư ra nước ngoài phải được các cơ quan chức năng cấp phép trên cơ sở từng trường hợp. - Trong hoạt động vay nợ nước ngoài, cơ chế QLNH thường quy định chặt chẽ hơn đối với các khoản vay trung dài hạn so với các khoản vay ngắn hạn. Người cư trú vay vốn ngắn hạn nước ngoài thường chỉ cần đăng kí để cơ quan có thẩm quyền có thể theo dõi và làm cơ sở cho việc mua ngoại tệ để trả nợ gốc và lãi. Còn với các khoản vay trung dài hạn, người đi vay có thể phải xin phép các cơ quan có thẩm quyền. c/ Kiểm soát việc sử dụng ngoại tệ trong nước Thông thường, các quốc gia áp dụng quy chế QLNH chặt chẽ là những quốc gia có đồng tiền không ổn định. Tại những nước này, người dân có xu hướng sử dụng ngoại tệ để thay thế các chức năng thanh toán. Điều này ảnh hưởng đến chủ quyền tiền tệ của quốc gia. Vì vậy, một trong những nội dung quan trọng của chính sách QLNH là kiểm soát được việc sử dụng ngoại tệ trong nước. Các quốc gia thường cho phép người cư trú được cất trữ ngoại tệ, hay nói cách khác là cho phép sử dụng ngoại tệ làm phương tiện cất trữ giá trị nhưng nghiêm cấm việc sử dụng ngoại tệ trong thanh toán và định giá. Ngoài ra, Chính phủ các nước còn kiểm soát hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM nhằm mục đích tạo dòng luân chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế, chống găm giữ ngoại tệ, phòng tránh rủi ro góp phần thực hiện chính sách tỷ giá đã định. NHTW sẽ kiểm soát hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM bằng việc xem xét cấp giấy phép kinh doanh ngoại tệ cho các NHTM, ban hành các quy chế GD hối đoái, tổ chức và điều hành TTNTLNH, ban hành các quy định về trạng thái ngoại tệ... Bên cạnh đó, các quốc gia này còn theo dõi và kiểm soát việc mở TK ở nước ngoài của người cư trú bằng cách giới hạn mục đích sử dụng trong các trường hợp đòi hỏi thanh toán thường xuyên cho phía nước ngoài như ngành hàng không, hàng hải, XK lao động. Các đối tượng được mở TK ở nước ngoài phải báo cáo tình hình sử dụng TK cho các cơ quan chức năng theo định kỳ. 1.3 CHÍNH SÁCH QLNH CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC VÀ TRÊN THẾ GIỚI 1.3.1 Chính sách QLNH của Trung Quốc(TQ) Dưới đây là một số nét khái quát về quá trình chuyển đổi cơ chế QLNH của TQ trong thời gian qua, góp phần đưa nước này gia nhập WTO một cách thành công năm 2001. a/ Về QLNH đối với GD vãng lai Tháng 12/1996, TQ tuyên bố thực hiện chuyển đổi hoàn toàn đồng CNY đối với cán cân vãng lai (theo Điều 8 Điều lệ IMF). Tuy nhiên, các DN có ngoại tệ từ nguồn thu vãng lai vẫn phải kết hối ngoại tệ theo tỷ lệ quy định (hiện nay là 80%). Để khuyến khích kiều hối chuyển về, TQ cho phép cá nhân có kiều hối chuyển về được tự do giữ bằng CNY hoặc ngoại tệ theo nhu cầu. Người thụ hưởng có thể bán hoặc giữ ngoại tệ trên TK và được chuyển ngoại tệ ra nước ngoài khi có nhu cầu. Khi có nhu cầu ngoại tệ để chuyển, mang ra nước ngoài, cá nhân là người cư trú được mua tại ngân hàng được phép không hạn chế số lượng khi xuất trình chứng từ chứng minh nhu cầu ngoại tệ. Trước đây, chỉ có NHNT bán ngoại tệ cho cá nhân nhưng hiện nay đã mở rộng cho các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại hối. Các DN TQ chỉ được mở TK ở nước ngoài khi được Tổng cục QLNH cấp giấy phép. b/ Về QLNH đối với GD vốn Việc QLNH đối với các GD vốn ở TQ được thực hiện dưới 3 hình thức là cấp phép, đăng ký và kiểm tra. Việc tự do hoá GD vốn ở TQ được tiến hành thận trọng. TQ chia các GD vốn thành 43 hạng mục chính, trong đó 35% số hạng mục này bị cấm, 37% bị hạn chế, 19% được tự do chuyển đổi về căn bản và 8% được hoàn toàn tự do. Các GD vốn của TQ được quản lý chặt chẽ và chỉ được phép nới lỏng dần theo kế hoạch của Nhà nước. Mọi nguồn thu ngoại tệ từ các GD vốn phải chuyển về nước nhưng không phải thực hiện chế độ kết hối và chỉ được phép sử dụng ngoại tệ ở những nơi được phép thu ngoại tệ. Việc mua bán ngoại tệ để đáp ứng các GD vốn phải được Tổng cục QLNH cho phép. * Để thu hút VĐT nước ngoài và gia nhập tổ chức WTO, TQ đã duy trì chế độ tỷ giá ổn định tạo tâm lý an toàn, yên tâm cho nhà đầu tư và duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Các văn bản về QLNH trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài được thực hiện theo nguyên tắc bình đẳng giữa các DN FDI và DN trong nước trong việc mua ngoại tệ, vay trả nợ nước ngoài. Các DN FDI được phép chuyển lợi nhuận về nước tự do sau khi chứng minh tính hợp pháp của khoản thu nhập mà không phải nộp thuế. VĐT sau khi hết hạn đầu tư được tự do chuyển về nước. Trước tháng 7/2002, việc chuyển đổi sang ngoại tệ phải được sự chấp thuận của Tổng cục QLNH, nhưng hiện nay chỉ cần xuất trình chứng từ với NHTM để chứng minh là có nhu cầu mua số ngoại tệ đ._.ó. * Đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài Khi đầu tư ra nước ngoài, DN phải xin phép UBKHNN. Hiện nay, TQ vẫn còn hạn chế việc đầu tư ra nước ngoài, chỉ cho đầu tư vào một số khu vực nhất định như hoạt động thương mại phục vụ hoạt động XK, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở nước ngoài. * Đối với hoạt động vay trả nợ nước ngoài TQ chỉ cho phép các NHTM được phép kinh doanh ngoại tệ và một số DN Nhà nước lớn đủ năng lực tài chính mới được trực tiếp vay nước ngoài. Các DN khác khi có nhu cầu vốn ngoại tệ phải vay qua các TCTD. Trước khi kí hợp đồng vay nợ nước ngoài phải được Tổng cục QLNH phê chuẩn. Riêng các DN FDI được phép kí hợp đồng vay vốn nước ngoài sau khi đăng ký với Tổng cục QLNH. Các hợp đồng vay vốn nước ngoài trung dài hạn được quản lý chặt chẽ. Các TCTD phải thực hiện nghiêm túc quy định về trạng thái ngoại hối, kinh doanh có lãi liên tục trong 3 năm, kinh doanh XNK hoặc các ngành ưu tiên phát triển, có chế độ hạch toán, kế toán chặt chẽ. Các khoản vay nước ngoài phải nằm trong kế hoạch vay vốn nước ngoài của Nhà nước. Các DN vay vốn nước ngoài phải hạn chế chi phí vay vốn (lãi suất và phí), tổng chi phí không được cao hơn chi phí của các khoản vay cùng thời hạn trên TT quốc tế. Các DN không làm thủ tục đăng ký khoản vay sẽ không được mở và sử dụng TK vốn chuyên dùng, gốc và lãi không được chuyển ra nước ngoài. Các DN phải báo cáo theo định kỳ và nếu vi phạm sẽ bị xử phạt rất nặng (100.000-500.000 CNY). c/ Về chính sách kiểm soát việc sử dụng ngoại tệ trong nước Để chuyển đổi đồng CNY thành đồng ngoại tệ tự do chuyển đổi, TQ hạn chế các GD trong nước sử dụng bằng ngoại tệ. Gần đây, số dư ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng giảm đáng kể vì trong nước nghiêm cấm thanh toán bằng ngoại tệ. Ngoài ra, do việc điều hành lãi suất và tỷ giá hợp lý của Ngân hàng Nhân dân (NHND) TQ, duy trì lãi suất CNY luôn cao hơn lãi suất ngoại tệ và tỷ giá giữa CNY và USD được duy trì ổn định nên các DN có xu hướng chuyển đổi ngoại tệ sang nội tệ, góp phần giảm tình trạng đôla hoá. d/ Về chính sách tỷ giá hối đoái và hoạt động ngoại hối Từ năm 1994 TQ có nhiều chuyển biến lớn trong điều hành chính sách tỷ giá như đưa tỷ giá chính thức lên mức cân bằng với tỷ giá TT để thống nhất hai tỷ giá và thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý, tạo điều kiện cho việc chuyển đổi đồng CNY. Xoá bỏ chế độ DN được giữ ngoại tệ trên TK mà phải kết hối ngoại tệ. Khi có nhu cầu thanh toán hàng NK thì được mua ngoại tệ tại các ngân hàng được phép nhưng với các GD phi thương mại thì không được phép mua tại ngân hàng. Bên cạnh đó thành lập TTNTLNH với một số chi nhánh ở các tỉnh lớn và được kết nối bằng mạng vi tính. Các ngân hàng thực hiện GD giao ngay trên TT này (hiện nay, TQ chưa thực hiện các GD hoán đổi, kỳ hạn, quyền lựa chọn). Từ năm 1994 đến nay TQ vẫn áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước. Tỷ giá giữa CNY và USD ổn định do TQ can thiệp vào TT ngoại hối thông qua việc phát hành đồng nội tệ để mua lại số ngoại tệ dư thừa hay bán số ngoại tệ còn thiếu để cân bằng cung cầu trên TT. Như vậy, quá trình chuyển đổi chế độ tỷ giá của TQ gắn liền với công cuộc cải cách nền kinh tế và có xu hướng ngày càng gia tăng yếu tố TT. Từ năm 1994, NHND TQ chủ yếu sử dụng biện pháp kinh tế thông qua việc mua bán ngoại tệ trên TT để điều chỉnh tỷ giá ở mức độ phù hợp. e/ Về quản lý DTNH Sau 2001, do TQ gia nhập WTO, cả cán cân vốn và cán cân vãng lai thặng dư lớn đã góp phần làm gia tăng DTNH của TQ. Hiện nay, DTNH của TQ trên 260 tỷ USD. Cán cân vãng lai và cán cân vốn của TQ luôn thặng dư là do TQ có lợi thế về nhân công, nguyên liệu rẻ; TQ có nhiều chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư nước ngoài. DTNH Nhà nước thuộc quyền quản lý của Chính phủ, NHND TQ hay Bộ Tài chính không có quyền sử dụng số ngoại tệ này ngoài việc can thiệp TT ngoại hối. Khi hai cán cân vãng lai và cán cân vốn thặng dư, TQ chịu áp lực giảm phát nhẹ nên NHND TQ có thể phát hành tiền để mua ngoại tệ dư thừa mà không sợ lạm phát. F/ NHẬN XÉT TQ có quan điểm quản lý thông suốt trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới là hướng tới chính sách tự do hoá một cách thận trọng, sẽ không tự do hoá cho đến khi có khả năng quản lý của Nhà nước. Do chính sách thận trọng của TQ, các GD vốn của TQ, nhất là GD gây nợ được kiểm soát chặt chẽ. Các GD phát sinh chứa đựng rủi ro và khó kiểm soát ít đựơc áp dụng. Tuy nhiên điều này đã cản trở TQ, cụ thể TT ngoại hối kém phát triển, các hoạt động trên TT còn sơ khai và không phong phú. Việc vay vốn nước ngoài còn quá phức tạp và hạn chế tính tự chủ của DN. 1.3.2 QLNH Ở THÁI LAN (TL) Những điểm chính liên quan đến chính sách QLNH của TL hiện nay là: * Kết hối ngoại tệ: Mọi nguồn thu ngoại tệ (kể cả nguồn thu từ các GD vốn) của người cư trú đều phải chuyển ngay về nước và bán cho NHTM hoặc gửi vào TK. Chủ TK được giữ lại số ngoại tệ phải thanh toán trong vòng 3 tháng (có chứng từ chứng minh), phần vượt trội phải kết hối trong vòng 7 ngày. * Việc quản lý về mở và sử dụng TK ngoại tệ Đối với người cư trú TL được mở TK ngoại tệ và gửi vào TK số tiền (có nguồn gốc nước ngoài hoặc từ vay ngoại tệ, không được mua ngoại tệ gửi vào TK) với số dư không vượt quá nhu cầu thanh toán trong 3 tháng. Số dư cuối ngày được phép duy trì trên TK là 5 triệu USD đối với tổ chức và 500 000 USD đối với cá nhân. Được gửi ngoại tệ tiền mặt vào TK nhưng không vượt quá 2 000 USD/ngày; không được rút ngoại tệ tiền mặt (trừ trường hợp được phép mang đi nước ngoài). Còn đối với người không cư trú, không có hạn chế đặc biệt đối với TK ngoại tệ. TK đồng Baht của người không cư trú được phép thu từ bán ngoại tệ có nguồn gốc từ nước ngoài hoặc trên TK ngoại tệ. Số dư trên TK đồng Baht được phép tự do chuyển đổi ra ngoại tệ và chuyển ra nước ngoài. Số dư trên chỉ được phép duy trì đến mức 50 triệu Baht. * Việc quản lý vay, trả nợ nước ngoài Các công ty đi vay trực tiếp nước ngoài rất ít mà chủ yếu thông qua các NHTM (đặc biệt là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài). Nguồn cho vay ngoại tệ này phải từ nước ngoài chuyển vào; được hạch toán thành quỹ riêng (các NHTM phải xin phép NHTW để thực hiện). Do đó, các công ty vay NHTM từ nguồn ngoại tệ này được coi là vay nước ngoài. Hạn chế cho vay nước ngoài, một công ty chỉ cho vay nước ngoài (đối với công ty trực thuộc hoặc liên doanh với nước ngoài không quá 25% vốn) tối đa 10 triệu USD/năm; không cho vay để đầu tư mua bất động sản và CK ở nước ngoài. Ngân hàng, TCTC được mua, bán tài sản Tài chính nước ngoài nhưng không vượt quá 15% vốn tự có ròng. Hiện nay, thông qua hệ thống TK (kể cả TK lưu ký CK) và hệ thống báo cáo, các cơ quan quản lý nắm được doanh số GD CK hàng ngày của các nhà đầu tư, trong đó phân biệt nhà đầu tư nước ngoài và trong nước; vốn nước ngoài chuyển vào đầu tư CK không hạn chế nhưng phải chuyển đổi ngoại tệ ra Baht nếu giữ ngoại tệ trên TK quá 3 tháng. Hạn chế việc người cư trú vay Baht để đầu tư CK hoặc thế chấp CK để vay bản tệ. Không áp dụng hạn chế về thời hạn chuyển ra mà áp dụng mức thuế thống nhất. Nhà đầu tư được tự do chuyển đổi ngoại tệ và chuyển ra nước ngoài nhưng phải xuất trình các chứng từ cho NHTM để báo cáo NHTW. Tóm lại, TL đang thực hiện chính sách khuyến khích VĐT từ nước ngoài chuyển vào (đặc biệt là các luồng vốn ổn định, dài hạn) và hạn chế tối đa chuyển vốn ra nước ngoài dưới các hình thức. Sau cuộc khủng hoảng Tài chính-Tiền tệ xảy ra năm 1997 vừa qua, TL đã đề ra nhiều biện pháp QLNH chặt chẽ hơn, như cá nhân không được phép chuyển vốn ra nước ngoài (trừ trường hợp đặc biệt), theo dõi và quản lý để hạn chế tiêu cực đối với các nguồn vốn ngắn hạn. TL cũng không cho phép chuyển đồng bản tệ ra nước ngoài và khống chế số dư trên TK đồng bản tệ là không quá 50 triệu Baht nhằm ngăn chặn việc đầu cơ đồng Baht. Ngoài ra, hiện nay TL cũng quy định các NHTM phải thực hiện chế độ báo cáo rất chi tiết (hàng ngày khoảng 20 báo cáo liên quan đến các GD ngoại hối thông qua mạng vi tính). 1.3.3 CHÍNH SÁCH QLNH CỦA MĨ Mĩ là một cường quốc kinh tế với nền kinh tế TT phát triển, tự do hoá thương mại, đầu tư và có TT Tài chính-Tiền tệ phát triển rất năng động, hiệu quả. Đối với quốc gia này, có thể nói là các GD ngoại hối được tự do hoá. Không tồn tại khái niệm QLNH mà chỉ tồn tại một số những hạn chế liên quan đến ngoại hối như sau: Về hoạt động thanh toán và nhận thanh toán còn tồn tại một số hạn chế liên quan đến an ninh quốc tế. Bộ Tài chính điều hành các hình phạt kinh tế đối với những GD tài chính thương mại trực tiếp hoặc gián tiếp với CuBa, IRắc, CHDCND Triều Tiên... Bộ Tài chính cũng chịu trách nhiệm phong toả các TK của các nước trên. Kiểm soát đối với XNK giấy bạc ngân hàng. Mọi người vào và ra khỏi Mĩ mang theo hơn 10.000 USD bằng bản tệ hoặc ngoại tệ, séc du lịch, thẻ rút tiền, CK chuyển nhượng vô danh phải khai báo cho Hải quan cửa khẩu. Các GD vãng lai được tự do hoá. Các GD vốn còn một số hạn chế trong việc mua, bán CK trên TT vốn dài hạn. Đối với việc kiểm soát hoạt động đầu tư trực tiếp, chỉ cấm đầu tư của nước ngoài nếu đe doạ an ninh quốc gia. 1.3.4 BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ CƠ CHẾ QLNH CỦA CÁC NƯỚC Qua những nét khái quát về cơ chế QLNH của Trung Quốc, Thái Lan và Mĩ có thể nói chính sách QLNH của từng quốc gia rất khác nhau và luôn thay đổi phù hợp với từng giai đoạn và mức độ phát triển của nền kinh tế; đồng thời có sự quan hệ chặt chẽ giữa chính sách QLNH và các chính sách kinh tế khác như chính sách về thương mại, đầu tư, lãi suất, thuế... Chính sách QLNH của từng quốc gia phụ thuộc vào mức độ phát triển của nền kinh tế nói chung và của TT Tài chính-Tiền tệ nói riêng. Cụ thể ở Trung Quốc và Thái Lan là những nước đang phát triển với TT Tài chính-Tiền tệ chưa ổn định và hoạt động chưa có hiệu quả thì chính sách QLNH còn phải kiểm soát các GD chuyển ngoại tệ vào và ra khỏi đất nước nhằm đảm bảo cân bằng cung cầu ngoại tệ, ổn định TT Tiền tệ và không làm suy giảm DTNH quốc gia. Còn Mĩ là một nước kinh tế phát triển, tự do hoá thương mại, đầu tư và có TT Tài chính-Tiền tệ phát triển năng động và hiệu quả nên việc kiểm soát luồng chu chuyển ngoại tệ là không cần thiết và chủ yếu để TT tự điều tiết theo quy luật cung cầu. Chính phủ chỉ sử dụng các chính sách vĩ mô và các công cụ TT để định hướng TT hoạt động có hiệu quả. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, hầu hết các nước đang phát triển có xu hướng ngày càng nới lỏng chính sách QLNH. Tuy nhiên, mỗi quốc gia tuỳ thuộc bối cảnh nền kinh tế mà có những bước đi thích hợp để từng bước tự do hoá ngoại hối cho phù hợp. Nhìn chung cần có sự thận trọng trong quá trình dỡ bỏ các hạn chế ngoại hối nhằm ổn định tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI Ở VIỆT NAM 2.1 CHÍNH SÁCH QLNH THỜI KỲ TRƯỚC NĂM 1988 2.1.1 NHÀ NƯỚC ĐỘC QUYỀN VỀ QUẢN LÝ VÀ KINH DOANH NGOẠI HỐI Những điều cơ bản về QLNH trong những năm trước đổi mới được thể hiện như sau: Chính phủ độc quyền kinh doanh ngoại hối. Mọi hoạt động thanh toán đối ngoại và liên quan dến ngoại hối được thực hiện thông qua NHNT là đơn vị đại diện của NHNN trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Khuyến khích ngoại tệ chuyển từ nước ngoài chuyển vào Chính sách kiều hối giai đoạn này mang tính chất của nền kinh tế tập trung và vẫn còn nhiều hạn chế nên chưa thực sự khuyến khích kiều hối chuyển về. Ngoài việc cho phép người thụ hưởng được gửi tiết kiệm với lãi suất ưu tiên và được cấp giấy chứng nhận để mua hàng taị các cửa hàng miễn thuế, chính sách kiều hối quy định người thụ hưởng được phép giữ ngoại tệ và phải bán cho NHNT với tỷ giá cao (tỷ giá thưởng) và chỉ được gửi về dưới 6 loại ngoại tệ chính gồm: FRF, CHF, DM, GBP, HKD, USD. Sau năm 1982, chính sách kiều hối được nới lỏng hơn trước như bắt đầu xoá bỏ việc mua hàng tại cửa hàng miễn thuế và người thụ hưởng phải nộp phí được phép kí gửi số ngoại tệ chuyển về với lãi suất được trả bằng ngoại tệ, được phép chuyển vốn, lãi ra nước ngoài hoặc quy đổi VND theo tỷ giá có thưởng nhưng lại hạn chế khối lượng rút tiền từng lần và loại tiền gửi về cho đến cuối năm 1987. Cơ chế tỷ giá cố định được áp dụng trong thời kỳ này để điều hành chính sách tiền tệ. Tỷ giá được xác định theo kế hoạch phát triển kinh tế của Chính phủ mà không dựa vào quan hệ cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Do đó không phản ánh đúng sức mua của đồng Việt Nam với các ngoại tệ khác trong thời gian này như Rúp Liên Xô (RUR), USD... Tỷ giá không được sử dụng như công cụ điều tiết vĩ mô một cách có hiệu quả. Đồng Việt Nam được đánh giá cao hơn giá trị thực của chúng. Các DN XK phải kết hối toàn bộ số ngoại tệ thu được; khi có nhu cầu được phép của cấp có thẩm quyền thì DN được các NHTM cung ứng ngoại tệ. Trong điều kiện này, các DN XNK rất thụ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, làm cho hoạt động ngoại thương trì trệ kém phát triển. Nghiêm cấm hoạt động kinh doanh ngoại hối của các TCKT, các cá nhân và nghiêm cấm việc lưu thông, tàng trữ ngoại hối dưới mọi hình thức. Các TCKT, các tổ chức xã hội có nguồn thu ngoại tệ phải kết hối 100% số ngoại tệ thu được. Hạn chế tối đa việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. 2.1.2 TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH ĐỘC QUYỀN VỀ QUẢN LÝ VÀ KINH DOANH NGOẠI HỐI ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ. a/ Đối với hoạt động XNK Để thực hiện chính sách độc quyền về ngoại thương, Nhà nước chỉ cho phép một số ít các DN quốc doanh được trực tiếp tham gia hoạt động XNK với các điều kiện phải đáp ứng các yêu cầu về vốn (trên 200 000 USD), có giấy phép kinh doanh- hoạt động XNK... Ngoài ra, Nhà nước cũng kiểm soát chặt chẽ các danh mục cũng như giá trị hàng hoá trao đổi mua bán trên TT quốc tế. Nhiều mặt hàng còn bị quản lý bằng Quota, giấy phép và hạn ngạch... Với sự kiểm soát chặt chẽ về ngoại thương nên trong giai đoạn này, kim ngạch XNK tăng không đáng kể và cán cân thương mại ngày càng bội chi. Thực trạng bội chi của cán cân thương mại là một phần hậu quả của sự bất hợp lý của cơ chế tỷ giá; đồng Việt Nam bị đánh giá cao đã khuyến khích NK và cản trở XK. Giá trị XK đã không bù đắp được nhu cầu NK, cán cân thương mại thâm hụt dẫn đến dự trữ ngoại tệ bị giảm nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, Nhà nước lại tăng cường kiểm soát ngoại hối, bảo hộ mậu dịch, hạn chế NK... Điều này đã làm cho nền sản xuất trong nước lâm vào tình trạng đình đốn, hoạt động cầm chừng vì thiếu vật tư, nguyên liệu. Đối với hoạt động XK, mặc dù đã được Nhà nước bù lỗ thông qua tỷ giá kết toán nội bộ, song các DN sản xuất hàng XK vẫn không bù đắp được chi phí làm hạn chế kim ngạch XK. Đồng thời, số lượng các DN được trực tiếp tham gia XNK ít nên khó khăn trong việc tiếp cận thông tin giá cả và mặt hàng trên TT quốc tế, làm giảm sự nhạy bén, năng động trong hoạt động thương mại quốc tế. Hậu quả là các DN XNK rất thụ động, hoạt động theo kế hoạch và trông chờ vào Nhà nước bù lỗ. B/ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG VAY TRẢ NỢ NƯỚC NGOÀI Giai đoạn trước đổi mới, nền kinh tế bị bao vây bởi chính sách cấm vận của Mĩ, nhưng Việt Nam vẫn nhận được nhiều nguồn viện trợ, nguồn vay từ Chính phủ các nước Liên Xô, Đông Âu và một số nước tư bản, các tổ chức quốc tế. Nguồn vốn nước ngoài là một trong những nguồn cung ngoại tệ chủ yếu cho nền kinh tế trong những năm sau chiến tranh. Tuy nhiên sau sự kiện Campuchia năm 1979, do những biến động bất lợi về tình hình chính trị trong khu vực của quốc tế, nguồn viện trợ nói chung đã có nhiều thay đổi. Các nước thuộc tổ chức quốc tế OECD và các nước cung ứng ODA chủ yếu như Nhật Bản, CHLB Đức, Ý, Anh ngưng tài trợ vốn cho Việt Nam. Nhìn chung ở giai đoạn này, Việt Nam thực sự khó khăn trong việc thu hút và kêu gọi các nguồn vốn để ổn định phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, sự thâm hụt thường xuyên cán cân vãng lai đã làm cho Việt Nam mất khả năng trả nợ nước ngoài, làm giảm uy tín đối với các TCTC quốc tế. Cụ thể là IMF đình chỉ cho Việt Nam vay vốn, sau đó là các TCTC quốc tế khác như WB, ADB...đã rất dè dặt trong quan hệ tài chính với Việt Nam. Đồng thời, các TCKT tư nhân cũng ngần ngại trong việc góp VĐT hoặc cung cấp các khoản tín dụng trả chậm cho các DN trong nước. Giai đoạn này nguồn cung ngoại tệ từ cán cân vốn thật sự hạn chế. Tuy nhiên, Nhà nước đã ban hành Luật đầu tư nước ngoài (12/1987) tạo hành lang pháp lý để thu hút nguồn VĐT trực tiếp vào Vệt Nam. Nhiều nhà đầu tư quốc tế đã chuyển vốn vào tham gia hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực dầu khí, dịch vụ, du lịch... Song nhìn chung những năm đầu, nguồn vốn FDI còn khiêm tốn. Nguyên nhân là do phương thức quản lý nặng tính quan liêu cửa quyền và nhiều thủ tục giấy tờ, qua nhiều cửa làm mất nhiều công sức và thời gian của nhà đầu tư. Thêm và đó là sự e ngại của các nhà đầu tư nước ngoài về mức độ mức độ mở cửa của Việt Nam. 2.2 CHÍNH SÁCH QLNH THỜI KỲ 1988-1998 Để thích ứng với tình hình mới khi nền kinh tế đang chuyển đổi khá nhanh sang cơ chế TT, các hoạt động đối ngoại dường như “bùng nổ” với sự tham gia của nhiều TPKT trong hoạt động ngoại thương, ngày 18/10/1988 Chủ tịch HĐBT đã kí Nghị định số 161/HĐBT ban hành Điều lệ QLNH của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Nghị định 161 là văn bản nền tảng trong chính sách QLNH và tỷ giá của Việt Nam trong giai đoạn 1988-1998. Nội dung của Nghị định này đã phác hoạ những nét cơ bản trong cơ chế QLNH của Việt Nam thời kỳ quá độ từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế TT. Với các quy định về quản lý luồng ngoại tệ chuyển vào và ra khỏi Việt Nam; vấn đề mua bán ngoại tệ và quyền của chủ TK cũng như quyền sử dụng ngoại tệ của cá nhân; vấn đề quản lý kim loại quý, đá quý cũng như nguyên tắc của việc áp dụng tỷ giá trong hoạt động mua bán ngoại tệ... Điều lệ QLNH đã thực sự là văn bản pháp lý có tính chất định hướng cho hoạt động ngoại hối trong những năm cuối thập kỷ 80 và những năm thập kỷ 90 với nguyên tắc từng bước nới lỏng QLNH tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế góp phần tăng trưởng kinh tế. Để triển khai thực hiện Điều lệ QLNH, ngày 15/3/1989 NHNN ban hành Thông tư số 33/NH-TT và sau đó là một loạt các văn bản pháp lý bổ sung, chỉnh sửa và tăng cường QLNH nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu ngày càng đa dạng, phức tạp của hoạt động ngoại hối trong công cuộc đổi mới của nền kinh tế. 2.2.1 NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA CHÍNH SÁCH QLNH GIAI ĐOẠN 1988-1998 * Đối tượng và phạm vi QLNH Đối tượng QLNH gồm: các tổ chức và công dân Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam và nước ngoài; các tổ chức và công dân nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Phạm vi QLNH là các hoạt động có liên quan đến ngoại hối như mua bán, cất trữ, sử dụng và lưu thông ngoại hối. Ngoại hối trong Điều lệ bao gồm: các loại tiền nước ngoài và các loại phiếu, các phương tiện chi trả có giá trị bằng tiền nước ngoài (gọi tắt là ngoại tệ); các kim loại quý (vàng, bạc và các kim loại thuộc nhóm bạch kim), đá quý (kim cương, nhóm Rubi và Saphia) được chuyển ra nước ngoài hoặc từ nước ngoài chuyển vào Việt Nam. * Phương thức quản lý ngoại tệ: quản lý theo kế hoạch. Các đơn vị kinh tế có thu chi ngoại tệ phải lập kế hoạch gửi các cơ quan theo quy định của UBKHNN. UBKHNN tổng hợp kế hoạch ngoại tệ của cả nước và lập bảng cân đối thu chi ngoại tệ trình HĐBT. Các đơn vị có TK ngoại tệ tại ngân hàng lập dự trù thu hoặc chi ngoại tệ theo quý và năm để ngân hàng chủ động phục vụ đơn vị. Đối với ngoại tệ thuộc Quỹ ngoại tệ tập trung của Nhà nước gửi vào TK tại ngân hàng thì kế hoạch chi phải được Chủ tịch HĐBT duyệt. Bộ Tài chính là chủ TK ngoại tệ tập trung của Nhà nước là cơ quan tổ chức hạch toán và điều hành thực hiện kế hoạch thu chi ngoại tệ tập trung của Nhà nước. NHNT được NHNN uỷ quyền thực hiện thu chi ngoại tệ về phương diện quỹ và thực hiện thanh toán quốc tế. Đối với các ngân hàng khác khi thực hiện thanh toán quốc tế phải được NHNN cho phép. A/ QUẢN LÝ CÁC GD VÃNG LAI * Đối với nguồn thu ngoại tệ từ XK Trong giai đoạn đầu đổi mới, tình hình cung cầu ngoại tệ trên TT luôn căng thẳng, do đó việc quản lý ngoại tệ từ nguồn thu XK luôn chặt chẽ. Thể hiện: - Quy định tập trung nguồn thu ngoại tệ từ XK về nước và phải gửi tại các ngân hàng được phép. - Quy định nghĩa vụ phải bán ngoại tệ thu được từ XK cho Nhà nước (kết hối). Đây là nội dung được nhấn mạnh trong tất cả các văn bản, bổ sung, tăng cường về QLNH trong thời kỳ này. Tuy nhiên, các quy định về kết hối luôn thay đổi và phù hợp hơn với thực tế. Cụ thể: Thời kỳ năm 1988-1989 quy định tỷ lệ % kết hối và số ngoại tệ còn lại được gửi tại ngân hàng. Ngày 25/10/1991, HĐBT đã ban hành Quyết định 337-HĐBT về một số biện pháp QLNH trong thời gian trước mắt và NHNN ban hành Thông tư hướng dẫn số 203/NH-TT ngày 31/10/1991 nhằm thu hút nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng và điều hoà nguồn ngoại tệ; trong đó quy định biện pháp cân đối ngoại tệ để khuyến khích các tổ chức bán ngoại tệ cho ngân hàng. Nội dung của biện pháp cân đối ngoại tệ, đó là: NHNN quy định nguyên tắc về quyền được mua số lượng ngoại tệ tối thiểu bằng số ngoại tệ tổ chức đã bán cho ngân hàng. Quy định về trách nhiệm phải bán số ngoại tệ thu được từ XK dịch vụ tối thiểu bằng mức ngoại tệ tổ chức đã mua của ngân hàng để làm dịch vụ XK. Nhằm tiếp tục giải quyết tình trạng khan hiếm ngoại tệ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 396/TTg ngày 4/8/1994 về việc bổ sung, sửa đổi một số điểm về QLNH và NHNN ban hành Thông tư hướng dẫn số 12/TT-NH7; nội dung chủ yếu về việc bắt buộc phải bán số ngoại tệ các đơn vị chưa dùng đến cho ngân hàng và các TCTD trên địa bàn trên cơ sở tính toán nhu cầu ngoại tệ trong quý tới của TCKT. * Việc mua ngoại tệ phục vụ NK hàng hoá, dịch vụ Các tổ chức có ngoại tệ trên TK được phép sử dụng để thanh toán hàng hoá NK. Trong trường hợp có nhu cầu mua ngoại tệ để thanh toán NK, TCKT phải được Thủ trưởng Bộ, ngành, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố xác nhận thì NHNT hoặc ngân hàng được uỷ quyền mới xem xét bán số ngoại tệ cần thiết phục vụ cho việc NK trên cơ sở các chứng từ phù hợp. * Tình hình hoạt động chi trả kiều hối Năm 1988, chính sách kiều hối được cởi mở thông thoáng hơn trước cho phép nhận tất cả các loại ngoại tệ và được phép gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ. Người thụ hưởng chưa được rút tiền bằng ngoại tệ nhưng được nhận phiếu bằng ngoại tệ để mua hàng tại các nơi được phép thu ngoại tệ, xoá bỏ quy định hạn mức rút tiền từng lần. Từ năm 1990, người nhập cảnh được mang ngoại tệ vào không hạn chế sau khi khai báo hải quan. Ngoài ra, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chi trả kiều hối, NHNN quy định rõ việc huy động và chi trả kiều hối cho các ngân hàng được uỷ quyền đảm nhận. Tổ chức trong và ngoài nước có thể làm đại lý cho các ngân hàng được uỷ quyền. Nhờ đổi mới chính sách kiều hối, lượng kiều hối chuyển về giai đoạn 1990-1997 tăng hơn giai đoạn trước, góp phần đáp ứng nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Đặc biệt, sau khi Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Mĩ năm 1995, NHNN đã ban hành Quyết định số 48/QĐ-NHNN để khuyến khích kiều hối chuyển về nước. Theo Quyết định này, kiều hối chuyển về không hạn chế về khối lượng, số lần gửi và ngoại tệ gửi. Người thụ hưởng nhận bằng VND theo tỷ giá của ngân hàng (không nhận ngoại tệ bằng tiền mặt) và được phép gửi ngoại tệ tiết kiệm tại ngân hàng và rút ra bằng ngoại tệ, phải chịu thuế thu nhập không thường xuyên. Việc không cho phép nhận kiều hối bằng ngoại tệ tiền mặt hạn chế việc phát triển TT tự do và mức độ đôla hoá trong thời kỳ này. Trên thực tế, người thụ hưởng đã rút tiền trước hạn từ các TK tiền gửi ngoại tệ để bán trên TT tự do do tỷ giá chuyển đổi thấp hơn tỷ giá trên TT tự do. Bên cạnh đó, hoạt động chuyển tiền lậu vẫn xảy ra với quy mô lớn. * Việc mang, chuyển ngoại tệ vào Việt Nam và ra nước ngoài của công dân nước ngoài và công dân Việt Nam Thời kỳ này khuyến khích nguồn ngoại tệ từ nước ngoài chuyển vào Việt Nam, không hạn chế số lượng. Ngoại tệ mang từ nước ngoài vào có khai báo hải quan hoặc chuyển qua ngân hàng được sử dụng như quy định về việc sử dụng ngoại tệ của công dân Việt Nam. Công dân Việt Nam có nhu cầu mua ngoại tệ để phục vụ cho chuyến đi công tác, học tập, lao động ở nước ngoài phải được Thủ trưởng Bộ, ngành, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố xác nhận thì được NHNT hoặc ngân hàng được uỷ quyền xem xét số ngoại tệ cần thiết cho các mục đích trên. B/ QUẢN LÝ ĐỐI VỚI CÁC GD VỐN Để tạo hành lang pháp lý cho các DN chủ động trong việc vay vốn nước ngoài, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 58/NĐ-CP vào năm 1993, trong đó cho phép các DN được kí kết vay nợ nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả. Tuy nhiên, các DN trước khi vay vốn nước ngoài phải xin phép NHNN. Văn bản chấp thuận khoản vay này là cơ sở pháp lý để các NHTM thực hiện việc rút vốn trả nợ nước ngoài cho các DN. Các DN có nguồn thu ngoại tệ từ nguồn vay vốn phải chuyển về nước vào TK ngoại tệ mở tại ngân hàng được phép và không phải kết hối. Sau khi có chấp thuận vay vốn nước ngoài, DN mới được kí hợp đồng và thực hiện rút vốn khoản vay và trả nợ khoản vay khi đến hạn. Trước năm 1999, các DN khi vay vốn nước ngoài phải đáp ứng điều kiện lãi suất khoản vay ngắn hạn nhỏ hơn 7.5% và lãi suất của khoản vay trung dài hạn không lớn hơn lãi suất LIBOR+2.5% và các DN chỉ được mở một TK ngoại tệ trong nước tại ngân hàng được phép để tiếp nhận vốn vay và trả nợ nước ngoài. Các trường hợp mở TK ở nước ngoài để tiếp nhận và chi trả vốn vay phải được NHNN cho phép trong trường hợp đặc biệt. Về các khoản vay vốn nước ngoài ngắn hạn, trước năm 1997 chưa được NHNN chú trọng. Do vậy, các DN nhập hàng trả chậm vào giai đoạn 1995-1996 với số lượng rất lớn khi lãi suất vay vốn trong nước cao hơn lãi suất vay vốn nước ngoài dưới hình thức mở L/C trả chậm. Số dư mở L/C tăng vọt, ở mức báo động (trên 1 tỷ USD). Với sự biến động tỷ giá và nhu cầu tiêu dùng trong nước giảm, nhiều DN lâm vào phá sản không có khả năng trả nợ. Do vậy, năm 1997 Thống đốc NHNN ban hành Quyết định số 207/QĐ-NH7 kèm theo Quy chế mở L/C trả chậm, trong đó đưa ra các quy định chặt chẽ về trách nhiệm của ngân hàng mở L/C và các DN khi thực hiện nghiệp vụ này. C/ KIỂM SOÁT VIỆC SỬ DỤNG NGOẠI TỆ TRONG NƯỚC Trước năm 1991, người cư trú chưa được phép sở hữu, mở TK gửi tiết kiệm ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng. Từ năm 1991, với mục tiêu huy động ngoại tệ trôi nổi vào hệ thống ngân hàng, NHNN đã ban hành Quyết định 08/QĐ-NHNN cho phép người cư trú gửi ngoại tệ vào ngân hàng không kể nguồn gốc. Nhìn chung việc sử dụng ngoại tệ trong nước của công dân Việt Nam được mở rộng như: ngoại tệ không kể nguồn gốc đều có thể được sử dụng vào các mục đích như bán cho NHNT hoặc ngân hàng được uỷ quyền; mua hàng tại các cửa hàng được phép thu ngoai tệ hoặc chi trả dịch vụ cho các tổ chức, cá nhân được phép thu ngoại tệ; được phép gửi vào ngân hàng dưới dạng tiền gửi không kì hạn, có kì hạn và được hưởng lãi bằng ngoại tệ; ngoại tệ gửi tại ngân hàng được sử dụng để thanh toán hoặc chuyển nhượng cho các tổ chức, cá nhân có TK ngoại tệ tại ngân hàng và khi cần thiết chủ TK có thể được rút tiền mặt ngoại tệ theo quy định của ngân hàng nơi mở TK. Đặc biệt, năm 1995 Quyết định số 48/QĐ-NHNN cho phép dân cư được gửi tiết kiệm và rút ra bằng ngoại tệ tiền mặt hay chuyển đổi ra VND. Nhờ vậy, tiền gửi ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng tăng lên nhanh chóng. Điều này góp phần tăng nguồn cung ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng nhưng cũng làm nảy sinh vấn đề đôla hoá ở Việt Nam. Vào cuối những năm 90 Việt Nam có những biến đổi về tỷ giá và việc điều hành lãi suất VND và ngoại tệ chưa được phối hợp nhịp nhàng, tính hấp dẫn của ngoại tệ cao, sử dụng tiền gửi ngoại tệ của người cư trú tăng mạnh, vượt mức độ cho phép theo tiêu chuẩn của IMF. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế và việc điều hành chính sách tiền tệ. Liên quan đến việc sử dụng ngoại tệ trong nước còn phải nói đến dịch vụ thu đổi ngoại tệ. Để từng bước hạn chế việc sử dụng rộng rãi ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam, NHNN chỉ cho phép một số đối tượng hoạt động trong các lĩnh vực như bán hàng miễn thuế tại các hải cảng, sân bay; các tổ chức làm dịch vụ trong các lĩnh vực như hàng không quốc tế, hàng hải quốc tế, cung ứng tàu biển... được phép thu ngoại tệ. Các tổ chức không thuộc đối tượng được phép phải bán hàng thu VND. # Mở rộng các bàn thu đổi ngoại tệ: Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đổi tiền, NHNN quy định các ngân hàng được uỷ quyền phải chủ động mở rộng mạng lưới các bàn thu đổi ngoại tệ, đặc biệt ở những nơi cần thiết như cửa khẩu, sân bay, hải cảng, khách sạn quốc tế,... cho phép ngân hàng được uỷ quyền có thể uỷ thác đơn vị làm nghiệp vụ thu đổi ngoại tệ. Quy định số lượng ngoại tệ phải bán cho ngân hàng được uỷ quyền tối thiểu 50%. Một số biện pháp QLNH trong Quyết định số 37/HĐBT ngày 25/10/1991 và Thông tư hướng dẫn số 203/NH-TT ngày 31/10/1991 đã nghiêm cấm tổ chức (trừ các ngân hàng và các TCTD được phép kinh doanh ngoại hối) không được thanh toán, mua bán cho vay hoặc chuyển nhượng trực tiếp cho nhau bằng ngoại tệ. Quy định này đã giúp cho ngân hàng kiểm soát tốt các GD ngoại tệ và điều hoà nguồn ngoại tệ cho các mục đích cần thiết trong tình hình khan hiếm ngoại tệ trên TT. Đây là điểm khác biệt cơ bản trong các quy định trước đây về việc mua bán ngoại tệ giữa các tổ chức và điều này giúp cho ngân hàng quản lý có hiệu quả các GD ngoại tệ trên TT. Nghiêm cấm việc cho vay, mua bán trực tiếp với nhau của các đơn vị kinh tế, trừ những trường hợp đặc biệt theo quy định được phép thanh toán với nhau bằng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam. Nêu rõ mục tiêu tiến tới trên lãnh thổ Việt Nam chỉ lưu hành VND và quy định một số tổ chức đặc thù được phép thu ngoại tệ trực tiếp của khách hàng như các cửa hàng miễn thuế, cửa hàng ở sân bay, hải cảng... Tăng cường quản lý giám sát việc mở TK ngoại tệ ở nước ngoài, NHNN quy định về chế độ báo cáo định kỳ từng quý tình hình thu chi ngoại tệ trên TK và giới hạn số dư theo hạn mức nhất định; đồng thời quy định một số đối tượng được phép mở TK ngoại tệ ở nước ngoài tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh. Những đối tượng ngoài quy định phải tất toán TK ở nước ngoài và chuyển ngoại tệ về nước. d/ Quản lý kim loại quý, đá quý * Về việc XNK vàng Công dân nước ngoài và công dân Việt Nam được mang, chuyển vào Việt Nam kim loại quý, đá quý ._.uả. - Ngoài ra, một số hạn chế trong hoạt động QLNH còn phát sinh từ bản thân nền kinh tế như: ngân hàng chưa có biện pháp giải quyết dứt điểm và triệt để nạn buôn lậu, gian lận thương mại, hoạt động “ngầm” của nền kinh tế vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong xã hội. CHƯƠNG 3: HƯỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 3.1 ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH QLNH TRONG XU THẾ HỘI NHẬP 3.1.1 XU THẾ TOÀN CẦU HOÁ VÀ HỘI NHẬP KTQT * Toàn cầu hoá kinh tế: là đặc trưng cơ bản và xu thế chung trên thế giới chuyển các hoạt động kinh tế trong phạm vi một quốc gia hoặc khu vực sang phạm vi hoạt động trên toàn thế giới mà không có giới hạn về biên giới quốc gia. Toàn cầu hoá, về góc độ kinh tế làm cho biên giới quốc gia các nước không còn ý nghĩa, biến động kinh tế ở một nước này có thể tác động lan truyền đến tình hình kinh tế các nước khác, lan truyền ra phạm vi toàn thế giới. Ví dụ mới nhất là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 lúc đầu xuất phát từ Thái Lan, sau đó lan truyền sang các nước Đông Nam Á, tiếp đó lan truyền sang các nước Đông Á, tác động lên TTCK Hoa Kỳ, Châu Âu... Hay việc cắt giảm lãi suất của Mĩ bắt đầu từ tháng 9/1998 đã kéo theo việc cắt giảm lãi suất của các nước công nghiệp Châu Âu, Trung Quốc và ngay cả ở Việt Nam thì lãi suất tiền gửi USD cũng giảm mạnh. Điều đó cho thấy trong xu hướng toàn cầu hoá, nền kinh tế các nước trên thế giới phụ thuộc lẫn nhau. Trong xu thế toàn cầu hoá, các vấn đề suy thoái kinh tế, khủng hoảng TT tác động lên nền kinh tế thế giới làm phát sinh yêu cầu phối hợp hành động trên phạm vi toàn cầu. Cuộc khủng hoảng ở Thái Lan cho thấy một mình IMF không đủ khả năng đứng riêng giải quyết quy mô cuộc khủng hoảng mà cần có sự tham gia của các nước công nghiệp, đặc biệt là Mĩ, Nhật Bản và các nước Châu Âu. Tuy vậy, sự phối hợp của các nước này và các tổ chức quốc tế như IMF, WB, ADB chưa thể hiện tính thống nhất tập thể trong hành động nên hiệu quả chưa cao. Điều này cho thấy các nước kém phát triển trong quá trình toàn cầu hoá phải tự mình đúc kết các kinh nghiệm và có biện pháp chủ động giải quyết các vấn đề khủng hoảng, không nên quá trông chờ vào sự trợ giúp bên ngoài. Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế hội nhập khu vực và toàn cầu hoá kinh tế, đã tham gia các thoả thuận song phương và đa phương như khu vực mậu dịch tự do (AFTA), WTO, Diễn đàn hợp tác Châu Á Thái Bình Dương (APEC), Hiệp định Thương mại Việt-Mĩ. Trong bối cảnh đó, những thách thức mà hệ thống ngân hàng Việt Nam phải đối mặt lại càng trở nên khốc liệt hơn, đòi hỏi phải thực hiện cải cách cùng với xây dựng một hệ thống quản lý tài chính và cơ chế phòng ngừa rủi ro tài chính quốc tế, công khai và minh bạch trong hoạt động ngân hàng, quy định chặt chẽ hơn về nguyên tắc an toàn vốn. Chính sách tỷ giá phải dần được thay đổi bằng chính sách tỷ giả thả nổi, trong đó tỷ giá GD bình quân trên TTTNTLNH sẽ được ấn định theo quy luật cung cầu, can thiệp của NHNN chỉ được phép thông qua các công cụ gián tiếp. * Hội nhập KTQT: là việc các nước cùng cam kết hoạt động kinh doanh thương mại theo luật chơi chung, được gọi là thông lệ quốc tế, như tham gia vào Hiệp định Thương mại, Kinh tế, Văn hoá trong khu vực hoặc tổ chức quốc tế. Hội nhập giúp các nước thành viên tăng cường trao đổi thông tin, hưởng các đặc quyền của thành viên. Xu hướng hội nhập đi theo hai hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá. Khu vực hoá được hình thành để tạo ra một khu vực có lợi ích riêng về thương mại, đầu tư. Như Liên minh Châu Âu (EU) thành lập nhằm nhất thể hoá Châu Âu; gồm tự do hoá thương mại giữa các nước trong vùng, bảo hộ thương mại trong quan hệ với các nước ngoài khu vực, thành lập NHTW Châu Âu với đồng tiền chung Châu Âu (đồng EURO). Hoặc Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập nhằm thúc đẩy thương mại, đầu tư giữa các nước trong khu vực. Khu vực hoá được thể hiện vì lý do muốn vươn lên làm đối trọng kinh tế với các cường quốc kinh tế, thoát ra khỏi sự lệ thuộc vào họ. Xu thế hội nhập là xu thế nằm trong khuôn khổ của xu thế toàn cầu hoá với hai đặc trưng cơ bản, đó là xu thế đơn cực và xu thế đa cực đối kháng nhau. Toàn cầu hoá, hội nhập KTQT luôn luôn tiềm ẩn hai mặt thời cơ và thách thức, hợp tác và đấu tranh, vươn lên hoặc tụt hậu... Các khả năng đó diễn ra như thế nào tuỳ thuộc vào môi trường kinh tế thế giới và sự nỗ lực của từng quốc gia. Đối với Việt Nam, hội nhập KTQT được thực hiện theo hai phương thức song phương và đa phương, với nhiều đối tác theo chủ trương đa phương hoá trong lĩnh vực trao đổi hàng hoá, đầu tư mở rộng quan hệ tài chính tín dụng, hợp tác khoa học kỹ thuật. Cụ thể, năm 1995 Việt Nam kí Hiệp định kinh tế với EU, bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Mĩ, gia nhập ASEAN, AFTA & APEC, nộp đơn gia nhập WTO & kí Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ năm 2000. Trong khuôn khổ AFTA, Việt Nam đã vạch kế hoạch giảm thuế theo chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung, gọi tắt là CEPT-AFTA. Trong khuôn khổ APEC, chúng ta thực hiện chương trình hành động quốc gia và tham gia chương trình hành động tập thể, đặc biệt là chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật. 3.1.2 CHIẾN LƯỢC HỘI NHẬP KTQTTRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG Để chủ động hội nhập, Đảng và NHNN ta đã xây dựng “Chương trình hành động của ngành ngân hàng thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng IX” và ngành Ngân hàng đã đề ra “Chiến lược hội nhập KTQT của ngành ngân hàng”. Việc tự do hoá thương mại và mở cửa hơn nữa nền kinh tế Việt Nam, nhìn chung sẽ được thực hiện trên những lĩnh vực sau: - Cải cách chế độ tỷ giá hối đoái phù hợp với quan hệ cung cầu ngoại tệ và tiến trình tự do hoá TK vãng lai và TK vốn, từng bước tiến tới áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi. - Nới lỏng điều kiện tham gia các hoạt động thương mại - Nới lỏng kiểm soát vốn đối với hoạt động XNK - Xây dựng và hoàn thiện dần hệ thống XNK - Thiết lập khuôn khổ pháp lý cho phép và khuyến khích đầu tư nước ngoài - Tham gia các tổ chức thương mại quốc tế và khu vực, kí kết các Hiệp định song phương và đa phương 3.1.3 ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH QLNH TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KTQT * Vạch ra lộ trình tự do hoá QLNH cùng với việc nâng cao năng lực quản lý thích hợp với lộ trình hội nhập kinh tế đã cam kết. Tự do hoá các GD vãng lai, đảm bảo đáp ứng đầy đủ các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp cho hoạt động của các chủ thể kinh tế. Từng bước tự do hoá có lựa chọn các GD vốn (đặc biệt là vay nợ nước ngoài của DN), xây dựng hệ thống các biện pháp kiểm soát luồng vốn quốc tế có hiệu quả, nhất là luồng vốn ngắn hạn. * Xây dựng và điều hành tỷ giá linh hoạt phản ánh được mối quan hệ giữa cung cầu ngoại tệ trên TT, thúc đẩy XK, kiểm soát NK, tăng cường DTNH Nhà nước, đưa nền kinh tế đi đúng định hướng. * Hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng đôla hoá, thực hiện tự do chuyển đổi VND một cách thận trọng, tiến tới trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng tiền Việt Nam. * Thực hiện quản lý vĩ mô một cách linh hoạt và mềm dẻo, có tính đến quyền lợi chính đáng của các đối tượng quản lý, tránh tình trạng mệnh lệnh hành chính một chiều, kém hiệu quả thực tế. * Không nên quá phụ thuộc ý kiến của IMF và WB khi hoạch định và thực thi chính sách QLNH mà nên căn cứ vào tình hình thực tế và đặc thù của kinh tế Việt Nam 3.2 Các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách QLNH 3.2.1 Tiếp tục hoàn thiện cơ chế nới lỏng QLNH A/ QLNH ĐỐI VỚI CÁC GD VÃNG LAI Để đáp ứng yêu cầu hội nhập, cơ chế QLNH đối với các GD vãng lai cần tiếp tục các nguyên tắc quản lý chính đã được thể hiện trong NĐ63/CP và Thông tư 01/TT-NHNN, đồng thời tiếp tục hoàn thiện quy trình mua bán ngoại tệ phục vụ cho các GD vãng lai và dỡ bỏ các hạn chế ở mức có thể chấp nhận trong các cam kết với các tổ chức quốc tế. * Đối với các GD thanh toán XNK - GD thanh toán XK: Trong điều kiện của nền kinh tế các nước đang phát triển, nhu cầu ngoại tệ thường cao hơn nguồn cung, cán cân thanh toán quốc tế thường bội chi. Do đó, vấn đề tập trung nguồn thu ngoại tệ XK về nước và thực hiện biện pháp kết hối trong điều kiện mất cân đối nghiêm trọng cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế vẫn cần duy trì. Điều này liên quan đến việc tiếp tục hạn chế trong việc mở TK ngoại tệ ở nước ngoài của TCKT trong cơ chế QLNH thời gian tới. - GD thanh toán NK: Các tổ chức, cá nhân được tiếp cận các NHTM để mua ngoại tệ để đáp ứng cho các GD thanh toán NK hàng hoá dịch vụ trên cơ sở xuất trình các chứng từ hợp lệ. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu hội nhập, tự do hoá thương mại thì các quy định về quyền mua ngoại tệ của tổ chức, cá nhân cần phải quy định một cách hết sức cụ thể, thông thoáng, đảm bảo không cản trở đối với việc thanh toán XNK hàng hoá giữa các nước. Tự do hoá cán cân thương mại gắn liền với việc tự do thông thoáng trong mua bán, thanh toán XNK đặt ra yêu cầu đối với việc hoàn thiện cơ chế quản lý đối với luồng ngoại tệ vào và ra khỏi Việt Nam tương ứng với luồng hàng hoá dịch vụ XNK. Để giải quyết vấn đề này, cần đổi mới công nghệ thông tin báo cáo giữa NHTM với NHNN nối mạng với cơ quan Hải quan để kiểm tra kiểm soát có hiệu quả. * Đối với chuyển tiền kiều hối Hiện tại, cơ chế khuyến khích chuyển tiền kiều hối về nước hết sức thông thoáng, hầu như không có hạn chế. Tuy nhiên nên cân nhắc để giảm thiểu việc cấp phép cho các tổ chức làm đại lý chi trả kiều hối, bằng cách quy định phải đáp ứng các điều kiện cần thiết để làm dịch vụ này. Đồng thời nên xem xét hạn chế việc cho phép nhận tiền mặt ngoại tệ để giảm tình trạng đôla hoá nền kinh tế. * Quản lý các luồng ngoại tệ mang chuyển vào của cá nhân Cơ chế quản lý hiện hành đang cho phép mang chuyển ngoại tệ vào không hạn chế, chỉ cần khai báo hải quan khi nhập cảnh có mang ngoại tệ trên mức 3000 USD. Quy định này phù hợp trong bối cảnh Việt Nam cần thu hút nguồn ngoại tệ phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cần đòi hỏi các quy định phải phù hợp với các quan hệ quốc tế, trong đó có điều khoản “chống rửa tiền”. Trong thời gian tới Chính phủ sẽ xem xét ban hành Nghị định về chống rửa tiền, trong đó có các quy định chặt chẽ hơn kiểm tra nguồn gốc các luồng tiền mang vào và ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, cần bổ sung quy định nộp tiền mặt ngoại tệ vào TK chỉ được phép sau một thời hạn nhất định kể từ ngày nhập cảnh vào Việt Nam, thể hiện trên tờ khai hải quan để thống nhất thực hiện trong hệ thống NHTM tránh hiện tượng chuyển ngoại tệ lậu. * Đối với việc mang chuyển ngoại tệ ra nước ngoài của cá nhân Trong bối cảnh hiện nay khi luồng ngoại tệ kiều hối hàng năm chuyển về lên tới mức hơn 2 tỷ USD/năm trong khi luồng ngoại tệ của cá nhân chuyển ra nước ngoài chỉ chiếm khoảng 100 triệu USD/năm; cần tiếp tục nới lỏng hơn dưới góc độ có thể nâng mức ngoại tệ chuyển ra nước ngoài cho mục đích du học không phải xin phép NHNN lên 10 000 USD/năm (hiện nay là 3000 USD) mà chỉ cần xuất trình chứng từ chứng minh chi phí học tập ở nước ngoài và NHTM trên cơ sở đó xem xét cho phép mua, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Mặt khác cần quy định đối tượng áp dụng quy chế chuyển tiền trên bao gồm cả người nước ngoài cư trú tại Việt Nam. * QLNH khu vực biên giới NHNN cần tiếp tục nghiên cứu ban hành các văn bản về thanh toán, chuyển tiền biên giới làm cơ sở pháp lý cho các đơn vị thuận tiện trong thanh toán, chuyển tiền. Sắp tới, NHNN nên hướng dẫn nguyên tắc chung trong thanh toán với Trung Quốc, Lào và với cả Campuchia và bổ sung một số quy định về quản lý tiền tệ của các nước có chung biên giới. Đặc biệt tăng cường quản lý các hộ tư nhân đổi tiền ở khu vực biên giới cửa khẩu nhằm giảm bớt tình trạng mua bán chuyển tiền lậu. B/ QLNH TRONG CÁC GD VỐN * Trong lĩnh vực vay trả nợ nước ngoài Kinh nghiệm các nước, đặc biệt là các nước đang phiển cho thấy tự do hoá cán cân vốn quá sớm trong khi khả năng quản lý, kiểm soát việc sử dụng vốn còn hạn chế dễ dẫn đến khủng hoảng nợ nước ngoài. Mặt khác, khủng hoảng kinh tế vĩ mô ngắn hạn xảy ra thường do tăng quá nhanh luồng vốn nước ngoài ngắn hạn và sự đột ngột đổi chiều của nó làm mất khả năng thanh toán quốc tế của một quốc gia và gây sức ép lên tỷ giá. Do vậy cần kiểm soát luồng vốn nước ngoài ngắn hạn một cách thận trọng, xây dựng và củng cố năng lực phân tích, quản trị tài chính của DN cũng như xây dựng cơ sở pháp lý chặt chẽ trước khi tự do hoá cán cân vốn. Để đảm bảo yêu cầu về nguồn vốn cho phát triển sản xuất và tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới, cơ chế quản lý nợ nước ngoài đối với DN cần thực hiện trên một số nguyên tắc sau: - Duy trì hạn mức vay vốn nước ngoài là một công cụ quản lý nợ và phải tiếp tục nghiên cứu xây dựng hạn mức vay vốn nước ngoài phù hợp với các chỉ tiêu an toàn nợ. Quy mô vay vốn nước ngoài phải ở mức phù hợp với khả năng hấp thụ và khả năng trả nợ của quốc gia. Chỉ số nợ nước ngoài phải duy trì ở mức an toàn và không gây ảnh hưởng xấu tới các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và cán cân thanh toán quốc tế trong tương lai. - Bên cạnh đó, tiếp tục sử dụng các điều kiện vay trả theo từng thời kỳ để điều chỉnh mức vay nợ nước ngoài ngắn hạn cũng như dài hạn của DN một cách hợp lý. Tiếp tục thu hút tối đa và hợp lý mọi nguồn vốn nước ngoài phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhưng phải đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn và hoàn trả. Tập trung vay vốn nước ngoài để đầu tư phát triển, đặc biệt các dự án có khả năng tái tạo ngoại tệ để đảm bảo khả năng trả nợ. - Tăng cường kiểm soát các luồng vốn ngắn hạn thông qua yêu cầu báo cáo đầy đủ và kịp thời các GD vay vốn ngắn hạn đồng thời tăng cường chế tài xử phạt nghiêm để chấn chỉnh công tác báo cáo chậm và không đầy đủ như hiện nay. Tích cực triển khai dự án nối mạng với các NHTM Quốc doanh về kiểm soát luồng vốn ngắn hạn do Nhật Bản tài trợ để NHNN có thể nắm bắt ngay và đầy đủ số liệu vay nợ nước ngoài ngắn hạn của DN thông qua hệ thống NHTM khi không yêu cầu các DN đăng ký khoản vay nước ngoài ngắn hạn với NHNN. - Để thu hút thêm nguồn vốn cho phát triển kinh tế cần đa dạng hoá các hình thức huy động mới như phát hành trái phiếu, bán cổ phần cho nước ngoài, chuyển đổi nợ thành đầu tư... * Trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài - Lĩnh vực đầu tư trực tiếp: Về góc độ QLNH trong thời gian tới cần hạn chế tối đa việc cân đối ngoại tệ của Chính phủ với các dự án đầu tư để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, đồng thời giảm gánh nặng cho DTNH Nhà nước. - Lĩnh vực đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam: Đây là một lĩnh vực mới đối với Việt Nam, cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp lý cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào TTCK đi đôi với các công cụ kiểm soát hữu hiệu theo hướng đơn giản hoá thủ tục và thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời cho phép họ chuyển tiền về nước khi thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế và thực hiện chế độ báo cáo đầy đủ về hoạt động kinh doanh CK ở Việt Nam. Tuy nhiên, CK là lĩnh vực mới mẻ, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hành lang pháp lý đối với việc chuyển ngoại tệ vào, ra khỏi Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư CK, đảm bảo khả năng kiểm soát đối với luồng vốn gián tiếp này nhằm tránh sự bất ổn cho nền kinh tế. Cụ thể, NHNN cần phối hợp với các Bộ, ngành nghiên cứu việc đầu tư CK tại TT phi tập trung, cổ phần hoá DN có VĐT nước ngoài... để chuẩn bị xây dựng cơ chế QLNH khi Chính phủ ban hành các quy định về các vấn đề này. - Quản lý đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam: Hiện nay, với nguồn cung ngoại tệ còn hạn hẹp, hiện nay chỉ cho phép các DN đầu tư ra nước ngoài bằng nguồn ngoại tệ của chính DN đó. Thời gian tới, để tăng cường năng lực tài chính và mở rộng lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài, nên xem xét cho phép các DN có khả năng tài chính và quản lý tốt được vay vốn ngân hàng với hạn mức nhất dịnh để mở rộng đầu tư ra nước ngoài. Đồng thời tiếp tục tăng cường quản lý luồng VĐT ra nước ngoài thông qua TK chuyên dùng để tránh thất thoát gây tổn hại đến nền kinh tế. - Tập trung và phát triển DTNH Nhà nước: Mục tiêu là phát triển DTNH Nhà nước đủ mạnh, ít nhất tương đương với 12 tuần NK. Trước mắt phải có cơ chế nhằm tập trung DTNH về đầu mối quản lý là NHNN. Tránh tình trạng Bộ Tài chính vẫn quản lý nguồn ngoại tệ từ nguồn thu dầu thô và găm giữ trên TK một khối lượng đáng kể dẫn đến hiệu quả sử dụng nguồn dự trữ không cao, trong khi NHNN vẫn phải thường xuyên bán ngoại tệ cho các NHTM để đáp ứng nhu cầu NK xăng dầu cho nền kinh tế. Điều này gây khó khăn cho NHNN trong việc chủ động ngoại tệ để sẵn sàng can thiệp trên TT ngoại hối. Bên cạnh đó, cần thực hiện chính sách mọi nguồn thu của ngân sách thực hiện bằng nội tệ. Từ đó, các nguồn thu từ ODA, từ thuế và các nguồn khác của ngân sách cần bán cho NHNN để tăng dự trữ. Để tăng cường nguồn DTNH Nhà nước, cần hạn chế tối đa hoạt động tạm ứng ngoại tệ ngân sách từ DTNH, thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc hoàn trả trong năm ngân sách. Ngoài ra, cần nghiên cứu và thử nghiệm các hoạt động đầu tư DTNH trên TT quốc tế để tăng tỷ lệ sinh lời cho dự trữ nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc an toàn và thanh khoản. 3.2.2 XÂY DỰNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ LINH HOẠT, PHẢN ÁNH ĐƯỢC MỐI QUAN HỆ CUNG CẦU NGOẠI TỆ TRÊN TT. Trong thời gian tới cần hướng đến một cơ chế điều hành tỷ giá ngày càng linh hoạt và phản ánh sát hơn với cung cầu TT, phù hợp với xu hướng tự do hoá thương mại và tài chính trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Để có thể từng bước hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá cần có các giải pháp cụ thể sau: * Nới rộng biên độ dao động tỷ giá: Để hạn chế sự biến động mạnh của giá tránh gây ra những “cú sốc” cho nền kinh tế, trong điều kiện cán cân thanh toán quốc tế thường xuyên bị thâm hụt lớn, DTNH còn mỏng, khả năng can thiệp của NHNN còn hạn chế thì việc duy trì biên độ dao động của tỷ giá trong thời gian trước mắt là cần thiết. Tuy nhiên để việc điều chỉnh tỷ giá được linh hoạt, cần nới rộng biên độ dao động tỷ giá hiện hành từ mức +/- 0.25% lên mức +/- 0.5%, đây là biện pháp phù hợp với những điều kiện cho phép hiện nay như: mức lạm phát thấp, tỷ giá TT chính thức và TT tự do không quá chênh lệch nhau. Điều này sẽ có tác dụng thúc đẩy chu chuyển nguồn ngoại tệ tránh việc hiện tượng găm giữ và tăng sức cạnh tranh của NHTM trong hoạt động kinh doanh ngoại hối * Hoàn thiện phương pháp công bố tỷ giá: Hiện nay tỷ giá VND/USD được xác định và công bố dường như độc lập với quan hệ tỷ giá của USD với các ngoại tệ khác. Để hạn chế sự gắn định VND vào đồng USD, trong phương pháp xác định và công bố tỷ giá, NHNN nên xác định cơ cấu “rổ” ngoại tệ nhằm giảm bớt sự lệ thuộc vào đồng USD, đồng thời tỷ giá giữa VND và các ngoại tệ khác sẽ được khách quan hơn. Để xác định tỷ giá theo rổ tiền tệ, cần áp dụng phương pháp xác định tỷ giá căn cứ vào tỷ trọng thương mại và đầu tư quốc tế của Việt Nam với các nước khác trên thế giới. * Phát triển TTNTLNH Để tỷ giá phản ánh sát quan hệ cung cầu ngoại tệ trên TT, tỷ giá liên ngân hàng phải là tỷ giá cơ bản, thể hiện đặc trưng cho quan hệ cung cầu của nền kinh tế. Do đó cần có biện pháp nâng cao doanh số GD trên TTNTLNH (hiện nay ở Việt Nam doanh số GD chỉ đạt khoảng 20% trong khi doanh số GD trên TTNTLNH có hiệu quả thường đạt mức trên 80%). Để nâng cao hiệu quả hoạt động của TTNTLNH cần quan tâm một số vấn đề sau: - Mở rộng số thành viên tham gia TTNTLNH (hiện nay có 60 thành viên nhưng số thanh viên tham gia tích cực thì rất hạn chế) đồng thời hoàn thiện quy chế GD tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các thành viên tham gia TT tích cực hơn, thực hiện cả hoạt động mua và bán với đầy đủ các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Khuyến khích các ngân hàng có kinh doanh ngoại tệ tham gia vào TTNTLNH, đặc biệt là các NHTM Cổ phần lớn có GD ngoại tệ với khối lượng lớn. - NHNN cần thực hiện đúng vai trò là người mua bán cuối cùng trên TTNTLNH dưới các hình thức mua bán trao ngay, mua bán có kỳ hạn, hoán đổi ngoại tệ nhằm thể hiện tốt hơn nữa chức năng hướng dẫn, điều tiết TT và tạo điều kiện cho các NHTM tham gia tích cực hơn vào TT ngoại hối. Tăng cường dự trữ ngoại tệ và xây dựng cơ chế can thiệp có hiệu quả của NHNN trên TTNTLNH. * Hoàn thiện quy chế quản lý trạng thái ngoại tệ của các TCTD nhằm giúp NHNN dự đoán được tính thanh khoản trên TT, tín hiệu TT, qua đó có những can thiệp kịp thời trên TT ngoại hối cũng như có thể điều chỉnh tỷ giá trên TT cho thích hợp. Đồng thời, quy chế này giúp NHTM QLRR trong hoạt động kinh doanh ngoại hối, dự đoán tín hiệu TT và quản lý tốt tính thanh khoản của mình. Trong thời gian, NHNN nên xem xét nâng tỷ lệ này lên mức 40% để tạo sự linh hoạt và chủ động hơn nữa cho các NHTM trong kinh doanh. * Cần có sự phối hợp hài hoà giữa chính sách tỷ giá với chính sách lãi suất Tỷ giá và lãi suất là hai yếu tố nhạy cảm trong nền kinh tế và là các công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ. Việc tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ đã được thực hiện từ tháng 6/2001 và việc cho phép các TCTD cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với đồng Việt Nam từ ngày 1/6/2002 đã chấm dứt cơ chế điều hành trực tiếp lãi suất TT của NHNN. Trong điều kiện lãi suất được tự do hoá, cần sử dụng các công cụ lãi suất tái chiết khấu, hoạt động TT mở kết hợp với công cụ dự trữ bắt buộc để điều chỉnh lãi suất trên TT, tạo sự hấp dẫn của đồng Việt Nam nhằm đạt được điều kiện cân bằng lãi suất, góp phần hạn chế nhu cầu ngoại tệ cho mục đích cất trữ tài sản, giảm sức ép lên tỷ giá. * Phát triển TT quyền lựa chọn về mua bán ngoại tệ Nghiệp vụ Option (quyền lựa chọn) về ngoại tệ là một nghiệp vụ đã xuất hiện từ lâu và rất phổ biến với các ngân hàng quốc tế. Tuy vậy, hiện nay mới chỉ có NHTM Cổ phần XNK (EximBank), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Chi nhánh ngân hàng CitiBank, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHNNo&PTNT), NHNT (VietcomBank) được phép thực hiện nghiệp vụ Option về ngoại tệ. Song vấn đề đặt ra là thời hạn thực hiện các hợp đồng Option của các NHTM trong nước đối với DN quá ngắn. Thời hạn của các hợp đồng Option của các NHTM nói trên tối đa chỉ có 3 tháng, trong khi đó các khoản vay ngoại tệ từ 1 năm đến 5 năm, thậm chí đến 10 năm. Trong khoảng thời gian dài đó, những biến động về tỷ giá và lãi suất là rất lớn và diễn bến phức tạp nên DN vẫn phải tự mình hứng chịu rủi ro. Các NHTM cần khẩn trương trong GD hối đoái theo thông lệ quốc tế, tăng thời hạn thực hiện nghiệp vụ Option. Trong thời gian tới, cần phát triển hơn nữa TT GD quyền lựa chọn về mua bán ngoại tệ, cho phép nhiều NHTM và NHNN tham gia nghiệp vụ Option, qua đó giúp cho DN có điều kiện tăng doanh số XNK ổn định, giảm thiểu rủi ro về tỷ giá trong quá trình hội nhập quốc tế về hoạt động thương mại của mình. 3.2.3 XÂY DỰNG CƠ CHẾ QLNH GÓP PHẦN HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG ĐÔLA HOÁ VÀ TỪNG BƯỚC THỰC HIỆN TRÊN LÃNH THỔ VIỆT NAM CHỈ SỬ DỤNG TIỀN VIỆT NAM Cơ chế QLNH cần thể hiện nhất quán mục tiêu từng bước hạn chế việc sử dụng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam, thể hiện ở những nội dung sau: - Nghiêm cấm mua bán, thanh toán, cho vay với nhau bằng ngoại tệ và niêm yết giá hàng hoá, dịch vụ bằng ngoại tệ trừ các trường hợp đặc thù quy định trong văn bản QLNH; đưa ra chế tài xử phạt nghiêm minh đối với trường hợp vi phạm. - Hạn chế đối tượng được phép thu ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam. - Khuyến khích việc nhận kiều hối bằng nội tệ, nghiên cứu đề ra các giải pháp để hạn chế huy động tiết kiệm ngoại tệ và cho vay ngoại tệ trong nước. Để hạn chế tình trạng đôla hoá thì các chính sách về nhận ngoại tệ kiều hối, gửi tiết kiệm ngoại tệ và cho vay ngoại tệ trong nước, về nguyên tắc, cần hạn chế; tuy nhiên cần có bước đi phù hợp với điều kiện cụ thể của nền kinh tế và phải kết hợp với các giải pháp kinh tế khuyến khích nhận và thanh toán bằng VND trên cơ sở làm tăng sự hấp dẫn của đồng Việt Nam so với ngoại tệ. - Nâng cao khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam. 3.2.4 HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀNG Để cơ chế quản lý vàng vừa phù hợp với tình hình thực tế Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế, trong cơ chế QLNH mới, khái niệm về ngoại hối nên loại bỏ vàng. Tuy nhiên, NHNN vẫn nên duy trì việc quản lý hoạt động XNK vàng theo tinh thần NĐ52/CP của Chính phủ về chức năng nhiệm vụ của NHNN nhằm kịp thời điều chỉnh cung cầu vàng trên TT, ổn định giá cả và hỗ trợ cho việc điều hành tỷ giá. Riêng mảng quản lý lĩnh vực hoạt động kinh doanh mua bán gia công, chế tác vàng trong nước nên chuyển giao chức năng này cho Bộ Thương mại và hoạt động này bị điều chỉnh chung theo Luật Thương mại. 3.2.5 TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG THỰC THI CỦA CHÍNH SÁCH QLNH Để cơ chế QLNH mới vận hành có hiệu quả và đưa chính sách QLNH vào cuộc sống, cần nghiên cứu đề ra mô hình QLNH phù hợp. Nhiệm vụ nghiên cứu, hoạch định và triển khai thực hiện chính sách QLNH chủ yếu tập trung ở Vụ QLNH. Tuy nhiên, công tác triển khai thực hiện và kiểm tra, xử lý vi phạm nên mạnh dạn uỷ quyền hơn nữa cho NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố. Bên cạnh đó, việc quy định rõ trách nhiệm của các NHTM trong việc kiểm tra chứng từ, thực hiện đúng các quy định về QLNH khi tiến hành các GD liên quan đến ngoại hối là hết sức cần thiết. Để kiểm tra giám sát hoạt động ngoại hối của NHTM, thanh tra ngân hàng cần có chương trình, kế hoạch kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Hoạt động ngoại hối bao gồm nhiều lĩnh vực và đối tượng tham gia thì rất rộng, từ các ngân hàng đến các TCKT, cá nhân... Do vậy, cần có sự phân công phối hợp cụ thể giữa các Bộ, ngành chức năng trong việc thực hiện công tác QLNH. Hiện nay, việc kiểm tra giám sát các hoạt động ngoại hối chủ yếu do thanh tra ngân hàng đảm nhận. Tuy nhiên, thanh tra ngân hàng không thể thường xuyên kiểm tra kiểm soát hoạt động của hàng nghìn các bàn đại lý chi trả ngoại tệ của các TCKT. Do đó nên quy định rõ chức năng kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm của các bàn đại lý thu đổi ngoại tệ do Quản lý TT chịu trách nhiệm. 3.3 KIẾN NGHỊ * Đối với Chính phủ Công tác dự báo tiền tệ cần phải được đặc biệt quan tâm và đảm bảo số lượng chặt chẽ với Bộ Tài chính để nắm bắt kịp thời và chính xác dự toán ngân sách hàng năm, đảm bảo việc mua bán ngoại tệ giữa NHNN và Bộ Tài chính được thông suốt. * Đối với NHNN - NHNN cần nghiên cứu thực hiện phương thức xử lý mua ngoại tệ dư thừa của các NHTM kèm theo cam kết bán lại một phần hoặc toàn bộ khi các NHTM có nhu cầu về ngoại tệ. Cùng với biện pháp xiết chặt kỷ luật thanh toán, sự căng thẳng về cung cầu ngoại tệ cũng sẽ được hạn chế do tập trung được các luồng ngoại tệ qua ngân hàng. - Có sự kết hợp tham vấn một cách đúng mức nhưng không quá phụ thuộc một cách máy móc vào các TCTC quốc tế trong điều hành chính sách QLNH phù hợp với thông lệ quốc tế. - Tăng cường vai trò trung gian của hệ thống ngân hàng trong việc huy động ngoại tệ dư thừa từ các khu vực (khu vực dân cư và Chính phủ) đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của các khu vực có thiếu hụt (khu vực DN). - Cho phép một số NHTM tiếp tục thực hiện thí điểm một số nghiệp vụ GD hối đoái theo thông lệ quốc tế, nâng cao tính linh hoạt của TT ngoại hối và tạo thêm công cụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá cho DN. - Hoàn thiện công tác thống kê GD ngoại hối về cả mặt phương pháp luận và kiểm tra thông qua hoàn chỉnh các hệ thống biểu mẫu báo cáo tại cả NHNN và các NHTM. * Đối với các TCTD - Chuẩn hoá tổ chức hoạt động kinh doanh ngoại tệ ở các NHTM theo hướng mỗi NHTM có một phòng kinh doanh ngoại tệ với quy mô thích hợp và có đủ thẩm quyền thực hiện GD tức thời. - Đào tạo cán bộ và trang bị kỹ thuật hiện đại, triển khai khẩn trương các cấu phần QLRR hối đoái trong quá trình cơ cấu lại bộ máy hoạt động của NHTM. - Cần tuyên truyền, hướng dẫn và tư vấn cho các DN kiến thức và kinh nghiệm về các hoạt động ngoại hối và cách thức QLRR trong các GD ngoại hối. * Kiến nghị chung Mới đây, IMF khuyến nghị Việt Nam nên bãi bỏ thêm một số hạn chế về ngoại hối như: áp dụng thuế đánh vào lợi nhuận chuyển về nước của các nhà đầu tư nước ngoài và áp dụng các hạn chế ngoại hối trong thanh toán XNK một số mặt hàng. Việt Nam cần tự do hoá hơn nữa TT ngoại hối và GD ngoại hối nhưng cần phải có các lộ trình phù hợp với sự hội nhập của nền kinh tế, của hệ thống ngân hàng, của các DN để thực hiện khuyến nghị của IMF. Có thể bỏ quy định đánh thuế vào lợi nhuận chuyển về nước, thay vào đó là thuế thu nhập DN bình đẳng giữa DN trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. KẾT LUẬN Khoá luận "Hoàn thiện chính sách Quản lý Ngoại hối ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế" đã đi sâu vào nghiên cứu chính sách QLNH ở Việt Nam và kinh nghiệm các nước về QLNH, qua đó tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế và đi đến hoàn thiện chính sách QLNH của Việt Nam trong tiến trình hội nhập KTQT. Chương 1 thể hiện những nét khái quát về ngoại hối và các hạn chế đối với các GD vốn theo tiêu chí chung của IMF cũng như cụ thể đối với các nước đang phát triển để rút ra kinh nghiệm trong lĩnh vực QLNH và phải có chính sách phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế trong từng giai đoạn nhất định. Chương 2 thể hiện một cách tổng thể những nét chính trong việc xây dựng và từng bước hoàn thiện cơ chế QLNH của Việt Nam. Từ chỗ độc quyền trong quản lý và kinh doanh ngoại hối với những quy định hành chính đơn giản, nghiêm cấm các hành vi mua bán, lưu thông ngoại hối, cho đến thời kỳ đầu đổi mới với những quy định cụ thể hơn trong quản lý các nguồn thu XK, mua bán ngoại tệ trong nước và cuối cùng là sự kế thừa và phát huy chỉnh sửa cơ chế QLNH cho phù hợp với thực tế và thông lệ quốc tế. Chương 3 đề cập đến các nội dung chủ yếu cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện trong chính sách QLNH để phù hợp với xu thế hội nhập KTQT. Từ những phân tích, lý giải trong chương 2 đồng thời dựa trên những mục tiêu, định hướng chính sách QLNH trong thời gian tới của Nhà nước ta, khoá luận đã mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với Chính phủ, NHNN và các TCTD, với mong muốn kiến nghị này sẽ trở thành hiện thực thời gian tới. Trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp với điều kiện hạn chế cả về thời gian, thông tin, kiến thức, khó có thể bao quát được một vấn đề rộng và phức tạp về toàn bộ nội dung chính sách QLNH nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo để bản luận văn này trở nên hoàn chỉnh. Em xin chân thành cảm ơn. Contents ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH416.DOC
Tài liệu liên quan