MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Danh mục bảng:
Bảng 1.1: Hình thức vay vốn kinh doanh 13
Bảng 1.2. Dư nợ cho vay KVKTTN của các Ngân hàng thương mại Nhà nước trên địa bàn thành phố. 19
Bảng 2.1: Số DN thuộc KVKTTN đang hoạt động trên địa bàn tỉnh tại 25
thời điểm 31/12 hàng năm. 25
Bảng 2.2: Sự phân bố DN đang hoạt động năm 2008 phân theo huyện, thị xã. 26
Bảng 2.3: Số lao động trong các DN đang hoạt động tại thời điểm 31/12 phân theo loại hình doanh nghiệp. 27
Bảng 2.4: GDP trên địa bàn th
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1566 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
eo giá hiện hành phân theo thành phần kinh tế. 28
Bảng 2.5: Cơ cấu ngành của các DN trong khu vực KTTN qua các năm. 28
Bảng 2.6. Gía trị TSCĐ của các DN đang hoạt động tại thời điểm 31/12 29
phân theo loại hình DN. 29
Bảng 2.7: Doanh thu thuần sản xuât kinh doanh của các DN đang hoạt động tại thời điểm 31/12 theo loại hình doanh nghiệp. 30
Bảng 2.8: Lỗ/lãi của các DN đang hoạt động tại thời điểm 31/12 phân theo 30
loại hình DN. 30
Bảng 2.9: Kết quả hoạt động tín dụng trên địa bàn tỉnh trong những năm 41
gần đây 41
Bảng 2.10. Tình hình tổng dư nợ của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng. 42
Bảng 2.11 .Thực hiện trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho DNVVN 6 tháng đầu năm 2007. 44
Bảng 2.12. Kế hoạch trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho DNVVN năm 2008 44
Bảng 2.13. Tình hình giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh HY giai đoạn 45
2003-2008. 45
Bảng 2.14. Tình hình thực thi chính sách đất đai trên địa bàn tỉnh HY. 48
Bảng 3.1. Biểu ước tính các doanh nghiệp tăng thêm giai đoạn 2006-2010. 58
Bảng 3.2. Biểu ước tính số DN được nhận hỗ trợ tín dụng thương mại 59
Danh mục biểu đồ:
Biểu đồ 2.1. Tăng trưởng doanh nghiệp thuộc KVKTTN trên địa bàn tỉnh HY giai đoạn 2001-2008. 25
Biểu đồ 2.2: Sự gia tăng về GTTS của các DN giai đoạn 2003-2008 29
Biểu đồ 2.3: Lược đồ tóm tắt quy trình tiếp cận vốn vay, đáng giá và thẩm của các ngân hàng thương mại Nhà nước. 50
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.
KVKTTN: khu vực kinh tế tư nhân
CNH – HĐH: công nghiệp hoá hiện đại hoá
DNTN: doanh nghiệp tư nhân
TNHH: trách nhiệm hưũ hạn
CP: cổ phần
NSNN: ngân sách nhà nước
HY: hưng yên
DNVVN: doanh nghiệp vừa và nhỏ
CN – XD: công nghiệp - xây dựng
DV: dịch vụ
N-L-N: nông – lâm- ngư
CS: chính sách
BLĐTB-XH: bộ lao động thương binh – xã hội
BKHĐ: bộ kế hoạch đầu tư
BTC: bộ tài chính
BHXH: bảo hiểm xã hội
NH: ngân hàng
KP. ĐP: kinh phí địa phương
KP.TW: kinh phí trung ương
SV: sinh viên
ĐH: đại học
CĐ: cao đẳng
THCN: trung học chuyên nghiệp
XHCN: xã hội chủ nghĩa
ĐKKD: đăng ký kinh doanh
UBND: uỷ ban nhân dân.
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ hiện nay, doanh nghiệp là một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế, là trung tâm trong các thể chế và ngày càng khẳng định ảnh hưởng mạnh mẽ tới tất cả các mối quan hệ xã hội.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, KVKTTN gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân đã phát triển mạnh mẽ ở Hưng Yên nói riêng và cả nước nói chung, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế. Cùng với các thành phần kinh tế khác, sự phát triển của KVKTTN đã góp phần quan trọng vào giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HDH…. Nhưng bên cạnh đó, còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém như: phần lớn quy mô doanh nghiệp là vừa và nhỏ, thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh, hoạt động trong môi trường pháp lý và tâm lý xã hội không công bằng, lao động tay nghề thấp…
Hưng Yên là một tỉnh trẻ mới được thành lập năm 1997, do vậy số lượng doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh rất hạn chế, trong số đó đa số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại và xây dựng, rất ít hoạt động trong lĩnh vực sản xuất do hạn chế về cơ sở hạ tầng. Mặt khác, quan điểm của Đảng trong một số vấn đề về phát triển KTTN chưa được làm rõ để tạo sự thống nhất cao. Một số cơ chế, chính sách của Nhà nước chưa phù hợp với đặc điểm của KVKTTN với đại bộ phận là quy mô vừa và nhỏ, quản lý có phần buông lỏng, hạn chế trong thúc đẩy KVKTTN phát triển đúng hướng. Chính điều này đã tạo thêm rào cản lớn cho KVKTTN ở Hưng Yên chậm phát triển hơn so với các tỉnh khác.
Nhận thức được thực tiễn trên, nên em đã chọn đề tài “Hoàn thiện chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Hưng Yên” rất phù hợp với tình hình của địa phương.
Mục đích nghiên cứu.
Đánh giá thực trạng tình hình thực thi chính sách phát triển KVKTTN những năm vừa qua trên địa bàn tỉnh Hưng Yên: những kết quả đạt được và tồn tại những hạn chế.
Đề xuất đưa ra phương hướng hoàn thiện chính sách phát triển KVKTTN trên địa bàn tỉnh Hưng Yên nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chính sách hỗ trợ phát triển KVKTTN của Nhà nước và đánh giá quá trình thực thi chính sách trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
Phạm vi nghiên cứu: Các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh từ 2001-2008 và định hướng tới năm 2015.
Kết cấu chuyên đề gồm ba phần:
Chương I: KTTN và sự cần thiết phải hỗ trợ KVKTTN
Chương II: Đánh giá tình hình thực thi chính sách hỗ trợ phát triển KTTN trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
Chương III: Phương hướng hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển KVKTTN trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Nguyễn Thị Kim Dung và đồng chí Nguyễn Khắc Sang (chuyên viên phòng Đăng ký kinh doanh) đã giúp đỡ tận tình để em có thể hoàn thành bài chuyên đề tốt nghiệp này. Do thời gian và kiến thức bản thân còn hạn chế, nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót, em mong cô và các bạn góp ý để em có thể hoàn thiện bài chuyên đề.
Chương I: KTTN và sự cần thiết phải hỗ trợ KVKTTN.
1.1.KTTN và vai trò của KTTN trong quá trình phát triển kinh tế.
1.1.1.Khái niệm về KTTN.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, lực lượng sản xuất phát triển chưa cao và có nhiều trình độ khác nhau. Do đó, trong nền kinh tế tồn tại ba hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Trên cơ sở ba hình thức sở hữu cơ bản đó, hình thành 5 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tại Đại hội X, Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận sự tồn tại của năm thành phần kinh tế này trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập, mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành phần kinh tế.
Trong mỗi thành phần kinh tế, tồn tại các hình thức tổ chức kinh tế với quy mô và trình độ công nghệ nhất định, chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế nhất định. Các thành phần kinh tế được thể hiện ở các hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật chung co mọi phương thức sản xuất. Trong nền kinh tế chưa thật sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau; tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do đó, tồn tại cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan của nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam hiện nay.
Thành phần kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước; các tài nguyên quốc gia và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ, rừng, biển, ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết câu hạ tầng kinh tế - xã hội; phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc những thành phần kinh tế khác. “ Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế” (Trích: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX).
Tại Đại hội Đảng VI (1986) Đảng ta đã thừa nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế. Kinh tế tư nhân bao gồm: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ: là hình thức cá thể dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình. Kinh tế cá thể, tiểu chủ đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành, nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng người lao động, từng gia đình. Do đó, việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế cá thể, tiểu chủ cần được khuyến khích. Hiện nay, ở nước ta, các hình thức kinh tế này phần lớn hoạt động dưới hình thức hộ gia đình, đang là bộ phận đông đảo, có tiềm năng lớn, có vị trí quan trọng, lâu dài, nó góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, giải quyết nhiều việc làm cho người lao động - một vấn đề bức xúc hiện nay của đời sống kinh tế- xã hội. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, kinh tế cá thể, tiểu chủ dù cố gắng đến mức nào cũng không thể loại bỏ được những hạn chế vốn có như: manh mún, tự phát, hạn chế về mặt kỹ thuật.
Kinh tế tư bản tư nhân là hình thức kinh tế mà sản xuất, kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, kinh tế tư bản tư nhân còn có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hoán sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội. Thành phần kinh tế nhỏ này rất năng động, nhạy bén với sự thay đổi của thị trường, do đó đã có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn ( một hoặc hai thành viên), công ty cổ phần (mà tư nhân chiếm 51% số vốn trở lên), công ty hợp danh.
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm về toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giay chứng nhân đăng ký kinh doanh, có con dấu riêng nhưng không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào và mỗi cá nhân chỉ được thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm sở hữu (sau đây gọi chung là chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu công ty tự chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Công ty TNHH một thành viên có tư cách pháp nhân khi nhận được Giay chứng nhân đăng ký kinh doanh. Công ty TNHH một thành viên không được quyền phát hành cổ phần.
Công ty TNHH hai thành viên là doanh nghiệp trong đó thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá năm mươi người. Các thành viên chịu trách nhiệm về khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp. Công ty TNHH có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty TNHH không được phát hành cổ phần.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; cổ đông có thể quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giay chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại có thể huy động vốn.
Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty và thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giay chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
(Các định nghĩa về các loại hình doanh nghiệp thuộc khối khu vực tư nhân được trích từ cuốn Cẩm nang pháp luật kinh doanh dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất bản năm 2007)
Như vậy, ở nước ta hiện nay, KVKTTN không phải là một thành phần kinh tế mà là một khu vực kinh tế gồm hai thành phần kinh tế là thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và thành phần kinh tế tư bản tư nhân.
Vậy, quan niệm của Việt Nam về KTTN là:”KTTN gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân” (Trích: Hội nghị 5 Ban chấp hành TW – khóa IX).
Trong xã hội có giai cấp và trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sự phát triển của lực lượng sản xuất không thể tách rời sự phát triển hài hoà giữa hai khu vực kinh tế cơ bản: kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân. Kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân luôn gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau, tạo điều kiện để cùng tồn tại và phát triển. Ở nước ta hiện nay, trong mối quan hệ giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, quyết định bản chất và định hướng cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, còn kinh tế tư nhân là “chỗ dựa thiết yếu”, “có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”.
Do hình thức phát triển của kinh tế cá thể, tiểu chủ nhỏ lẻ, manh mún chủ yếu là hộ gia đình rất khó có thể kiểm soát được được thực trạng đăng ký kinh doanh, nên rất khó thống kê. Mặt khác, hình thức kinh doanh của các DN trong KVKTTN rất đa dạng và phong phú: sản xuất hay thương mại dịch vụ nhưng phần lớn tập trung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và kinh doanh động sản; đầu tư vào lĩnh vực sản xuất còn ít và chủ yếu là qui mô vừa và nhỏ. Thực tế cho thấy, lĩnh vực sản xuất kinh doanh chưa phát triển do vấp phải nhiều khó khăn: vốn, mặt bằng sản xuất, lao động....do vậy để giảm bớt phần nào những khó khăn này, đề tài chỉ hướng vào hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuộc KVKTTN là các: doanh nghiệp tư nhân (DNTN), công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty cổ phần (CP).
1.1.2. Đặc trưng của KTTN.
Thứ nhất, KTTN gắn liền với lợi ích cá nhân và là động lực cho phát triển kinh tế.
Chế độ tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường trên thế giới đã tạo ra một hệ thống kinh tế mạnh mà nền tảng chủ yếu dựa trên lợi ích cá nhân. Theo học thuyết “Bàn tay vô hình” của Adam Smith, con người luôn theo đuổi và làm việc để đạt được lợi ích cá nhân của mình, và trong quá trình thực hiện lợi ích cá nhân đó con người đồng thời thực hiện lợi ích xã hội, đó chính là động lực cho phát triển kinh tế.
Trước năm 1986, nước ta duy trì nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp dựa theo nguyên tắc “pháp lệnh”, đề cao quá mức lợi ích tập thể, coi nhẹ lợi ích cá nhân, nên đã thui chột động lực phát triển xã hội.
Thực tế quá trình phát triển kinh tế trên thế giới cho thấy, các cường quốc kinh tế; Mỹ, Nhật, Đức... đều là những nước có khu vực kinh tế tư nhân phát triển và chính sách nhà nước đều tập trung vào khu vực này để khai thác hơn nữa tiềm năng vốn có ..
Thứ hai, hình thức đa dạng phong phú( DNTN, công ty TNHH, công ty cổ phần…) nhưng là mô hình sản xuất kinh doanh của nền sản xuất hàng hóa ở trình độ cao.
Có được đặc điểm này là do mục tiêu sản xuất khác nhau giữa các chủ thể doanh nghiệp. Cách thức lựa chọn quy mô phụ thuộc vào quy luật lợi ích – chi phí sao cho mang lại hiệu quả nhất. Chính đặc điểm nhạy cảm với sự thay đổi của thị trường mà khu vực này đã len lỏi vào từng ngách, từng phân đoạn thị trường và đáp ứng linh hoạt nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng.
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao hơn của nến sản xuất hàng hóa. Kinh tế hàng hóa đã thực sự thay đổi về chất gắn liền với nền sản xuất lớn. Trong đó, cơ cấu của kinh tế thị trường chủ yếu dựa trên cơ sở của mô hình tổ chức doanh nghiệp. Mô hình tổ chức doanh nghiệp là mô hình tổ chức kinh doanh có hiệu quả nhất bởi nó có nhiều thế mạnh: linh hoạt, mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực mới. Vì thế, trong cơ chế thị trường hiện đại, mô hình tổ chức doanh nghiệp đã và đang còn lầ mô hình tổ chức kinh tế có hiệu quả nhất và phù hợp.
Cơ chế thị trường là cách thức tốt nhất và duy nhất đến nay để có một nền sản xuất hiện đại, hiệu quả cao, kinh tế thị trường là một phương tiện để đạt được một nền sản xuất lớn, bởi nó hoạt động theo quy luật cung cầu, tiền tệ, cạnh tranh với mục tiêu là lợi nhuận. Sự tự do tham gia kinh doanh của kinh tế tư nhân, sự cạnh tranh của cả người mua và người bán chính là động lực của sự tìm tòi, sáng tạo.
Thứ ba, KTTN phát triển không đồng đều giữa các vùng, lãnh thổ.
KTTN được hình thành ở các nước khác nhau, ở những giai đoạn lịch sử khác nhau nên mang những đặc trưng khác nhau mà nổi cộm là vấn đề phát triển không đều giữa các nước trên thế giới, giữa các vùng trong cùng một quốc gia, hay trong cùng một vùng.
Nếu như ở các nước tư bản chủ nghĩa, quan hệ sở hữu tư nhân đã có từ lâu và gắn KTTN với sự phát triển kinh tế, nên KTTN có mặt ở hầu hết các lĩnh vực, đóng góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển và trở thành các cường quốc trên thế giới. Trong khi đó, ở các nước xã hội chủ nghĩa, thành phần kinh tế tư nhân mới được công nhận trong mấy thập kỷ qua, và ở Việt Nam thì thành phần kinh tế này thực sự vẫn còn non nớt.
Thực tế cho thấy rằng, KTTN mới chỉ có mặt trong một số ngành mang lại lợi nhuận kinh tế cao hay chỉ tập trung ở những ngành, vùng có điều kiện cơ sở vật chất phát triển...Ngay ở những quốc gia khác nhau, sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, xã hội, thế chế, chính sách ....cũng tạo nên sự khác biệt rất lớn ( KTTN ở Mỹ phát triển hơn KTTN ở Đức).Thậm chí, ngay trong cùng một quốc gia, tình trạng này diễn ra tương tự., cùng thực hiện chính sách của Nhà nước, song quá trình vận dụng chính sách linh hoạt, sáng tạo giữa các cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh cũng tạo ra sự khác biệt ( KTTN ở Bình Dương phát triển nhanh và mạnh hơn cả so với các tỉnh, thành trong cả nước).
Ngoài ra, KTTN cũng phát triển không đều giữa các ngành trong nền kinh tế, thể hiện ở chỗ DN chỉ tham gia vào lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao. Do đó, một số lượng lớn DN hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp – xây dựng, dịch vụ và nông nghiệp thì hạn chế thậm chí hầu như không có.
1.1.3. Đặc điểm của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam.
Thứ nhất, nguồn vốn của doanh nghiệp được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn tín dụng.
Nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm vốn góp ban đầu và nguồn vốn từ lợi nhuận không chia hoặc nguồn vốn góp bổ sung từ các thành viên.
Vốn góp ban đầu hay gọi là vốn pháp định. Là số vốn được hình thành khi bắt đầu thành lập doanh nghiệp doanh nghiệp. Chẳng hạn như đối với doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty TNHH khi đăng ký thành lập phải có một số vốn ban đầu còn đối với công ty cổ phần, nguồn vốn do các cổ đông đóng góp, mỗi cổ đông sẽ là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ.
Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia hay là lợi nhuận giữ lại doanh nghiệp là phần vốn được bổ sung từ lợi nhuận có được trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả của doanh nghiệp. Đó chính là lợi nhuận được giữ lại để tái đầu tư.
Nguồn vốn gia tăng từ vốn góp bổ sung của các thành viên hoặc từ phát hành thêm cổ phiếu, trong quá trình hoạt động khi có nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải tăng nguồn vốn bằng nguồn vốn tự có của chủ doanh nghiệp.
Như vậy, nguồn vốn chủ sở hữu đóng vai trò quan trọng là lá chắn phòng ngừa rủi ro, nhất là khi doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản. Đó là nguồn vốn dài hạn tạo nên một nền tảng ổng định cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân phần lớn đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ, quá trình tích tụ và tập trung tư bản của doanh nghiệp còn hạn chế. Ngày nay, sự phát triển nhanh chóng thị trường vốn ( thị trường chứng khoán) đã tạo ra cơ hội mới cho các doanh nghiệp huy động vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên, do đặc thù của thị trường chứng khoán mà chỉ có những doanh nghiệp lớn, có uy tín trên thị trường mới có khả năng tiếp cận được với kênh huy động vốn này. Hơn nữa, ở giai đoạn này 2007-2009, thị trường Việt Nam đang trên đà xuống dốc, đã gây cản trở lớn cho các doanh nghiệp tư nhân.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại. Nguồn vốn vay ngân hàng chiếm vị trí khá quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân. Sự phát triển của các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng vốn. Với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì việc huy động vốn trên thị trương vốn là rất hạn chế, do vậy nguồn vốn tín dụng chủ yếu là vay từ các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của các doanh nghiệp này thường có những hạn chế nhất định do điều kiện vay và chi phí sử dụng vốn cao (lãi suất vay).
Bên cạnh đó, có một kênh huy động vốn tín dụng nữa đó là tín dụng của chính những nhà cung cấp. Đặc điểm của nguồn vốn này là được hình thành tự nhiên trong quá trình mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp từng tháng. Đây là một phương thức huy động vốn tín dụng rất phổ biến với những ưu điểm là tiện dụng, linh hoạt, chi phí rẻ. Hơn nữa, nó tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh.
Ngoài hai nguồn hình thành vốn trên thì có một hình thức huy động nguồn vốn nữa là phát hành trái phiếu công ty. Đây là một công cụ nợ mà doanh nghiệp sử dụng để huy động vốn trên thị trường vốn. Do vậy,nhà đầu tư sẽ quan tâm đến các thông tin ghi trên trái phiếu như: lãi suất, thời gian đáo hạn, kỳ hạn, uy tín doanh nghiệp và tính thanh khoản. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp thuộc khối khu vực tư nhân rất khó huy động vốn bằng hình thức này do không đủ điều kiện và uy tín phát hành trái phiếu công ty.
Qua thống kê của các nhà nghiên cứu kinh tế, nguồn vốn hình thành của doanh nghiệp thuộc khối tư nhân cho thấy rằng: đa số đều được thành lập với số vốn tự có nhỏ, khu vực này chưa được đầu tư phát triển đúng mức và không có tích tụ tư bản nên hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực này là nhỏ và vừa đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân do cá nhân làm chủ. Với số vốn nhỏ rất khó để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, nếu huy động từ các nguồn phi chính thức thì lãi cao, thời hạn ngắn và bất ổn định. Như vậy, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn thì nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài, đặc biệt là nguồn vốn tín dụng có ý nghĩa vô cùng quan trọng để khu vực kinh tế này phát triển.
Thứ hai, lao động và công nghệ lạc hậu. Đa số các doanh nghiệp thuộc khối tư nhân có quy mô vừa và nhỏ (chiếm gần 90% tổng số doanh nghiệp), nên số lượng lao động ở các doanh nghiệp này thường ít và có trình độ thấp, một người có thể tham gia nhiều khâu trong quá trình sản xuất cũng như quản lý ( không có sự chuyên môn hóa sản xuất). Mặt khác, trình độ công nghệ thường thấp và lạc hậu, máy móc cũ kỹ . Sự yếu kém này bắt nguồn từ chính sự thiếu nguồn vốn sản xuất, không có nguồn vốn quay vòng và đầu tư vào công nghệ. Thực tế chỉ ra rằng, công nghệ lạc hậu, cùng với máy móc cũ kỹ ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, tăng chi phí sản xuất, hạn chế khả năng cạnh tranh và đồng thời là lực cản trong giao lưu buôn bán với nước ngoài.
Thứ ba, tổ chức và trình độ quản lý của doanh nghiệp thuộc khối tư nhân thường có bộ máy gọn nhẹ, năng động. Nhưng có một bất cập lớn đó là phần lớn các chủ doanh nghiệp không được đào tạo bài bản, yếu cả về chuyên môn và kinh nghiệm quản lý.
1.1.4. Quá trình hình thành và các giai đoạn phát triển của KTTN Việt Nam.
1.1.4.1.Giai đoạn 1986-1999.
Nhờ có Luật công ty và Luật DN (1990) tạo hành lang pháp lý đầu tiên cho khu vực KTTN phát triển. Nếu như năm 1991, chỉ có 414 DN thì đến năm 1992 là 5189 DN và năm 1995 là 15276 DN, tính đến năm 1999 tổng số DNTN là 45601. Tốc độ tăng trưởng và phát triển của KVKTTN, năm 1994 tăng 60%, nhưng các năm tiếp theo giảm dần: năm 1995 là 41%, năm 1996 là 24%, năm 1997 là 32% và đạt bình quân 37% cả thời kỳ 1994-1997.
Bên cạnh đó, giá trị tài sản cố định của một DNTN (một chủ)cũng tăng lên năm 1991 là 0,1 tỷ đồng – mức thấp, sau đó giữ vững mức 0,2 tỷ đồng trong suốt giai đoạn 1994-1997. Giá trị này của công ty TNHH cũng tăng nhưng không đều và có năm giảm: năm 1991 là 0,6 tỷ đồng, năm 1992 là 0,7 tỷ đồng và giảm xuống 0,5 tỷ đồng năm 1997. Số lượng lao động trong DNTN tăng từ 8 người năm 1991 lên 17 người năm 1997 và 19 người năm 1998.
1.1.4.2. Giai đoạn 2000-2005
Cùng với chính sách sửa đổi, Luật DN 1999 ra đời (có hiệu lực 1/1/2000) là khâu đột phá trong cải cách kinh tế. Sau 6 năm thi hành Luật DN, từ 1/1/2000 đến 31/12/2005 tổng số DN đăng ký mới là 158153 DN, đưa tổng số DN hoạt động theo Luật lên 203.115 DN. Số DN đăng ký mới giai đoạn 2000-2005 cao gấp 9 lần so với giai đoạn 1991-1999 (tổng số DN trong giai đoạn 1991-1999 là 44.962). Mặc dù vậy, DN thuộc KVKTTN vẫn chủ yếu là DN vừa và nhỏ( chiếm 96%) theo tiêu chí xác định tại Nghị định 90/2001/NĐ-CP.
Số vốn đăng ký mới và mở rộng quy mô sản xuất của khối DNTN tăng lên nhanh chóng, trong 5 năm 2001-2005 lên tới 293.878 tỷ đồng. Nguồn vốn đầu tư của KVKTTN đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế đất nước, thậm chí là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế địa phương, ở tất cả các vùng nghèo với điều kiện kinh tế khó khăn.
1.1.4.3. Giai đoạn 2006- 2008
Sự ra đời của Luật DN 2005, đã tạo thêm một bước tiến mới cho KVKTTN năng động này. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết tháng 6 năm 2008, cả nước có 349.309 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với số vốn 1.389.000 tỉ đồng, tương đương 84 tỉ USD.
1.1.5. Vai trò của KTTN trong nền kinh tế.
1.1.5.1. Huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh.
Chính sách Nhà nước thường xuyên được ban hành, sửa đổi, bổ sung đã phần nào tạo ra một sân chơi mới cho KVKTTN hoạt động và phát triển: giảm bớt các hàng rào gia nhập và rút lui khỏi thị trường sao cho khu vực kinh tế này trở nên năng động.
Nếu như trước kia, nguồn vốn tín dụng của các DN phụ thuộc chủ yếu thị trường tài chính đó là : các ngân hàng và các tổ chức tín dụng, thì hiện nay cùng với sự phát triển sôi nổi của thị trường vốn: thị trường trái phiếu,cổ phiếu, các giấy tờ có giá...đã tăng thêm một kênh huy động vốn hữu hiệu cho khu vực kinh tế này.
Ngoài ra, các chủ DNTN có thể huy động vốn vay dựa trên mối quan hệ họ hàng, bạn bè.... chính hành động này đã góp phần không nhỏ vào huy động nguồn vốn nhàn rỗi nằm im trong dân cư thành các khoản vốn đầu tư.
Các DN thuộc KVKTTN nằm rải rác khắp vùng, miền của cả nước, và trong quá trình hoạt động đã tận dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như lực lượng lao động tại chỗ vào sản xuất kinh doanh.
1.1.5.2. Đóng góp vào tăng trưởng GDP và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH.
Xét về cơ cấu GDP, tỷ lệ đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân tăng theo thời gian. Năm 2000 khu vực KTTN chiếm 7,32% GDP của cả nước và tỷ lệ này năm 2005 là 8,89% trong cơ cấu GDP, tăng so với đóng góp của năm 2004 là 8,48%. Khi Luật DN 2005 có hiệu lực thi hành bắt đầu từ ngày 01/01/2006, đã tạo ra một cơ hội mới cho khu vực này phát triển hơn nữa. Tỷ lệ đóng góp vào GDP năm 2006 tăng lên 9,41% và năm 2007 là 10,11% GDP.
Bên cạnh việc đóng góp một phần đáng kể vào GDP, khu vực kinh tế năng động này đã góp phần không nhỏ vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH đó là: Gía trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân tăng mạnh, năm 2000 là 47.861,1 tỷ đồng (chiếm 14,24% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước), năm 2005 là 225.033,4 tỷ đồng ( chiếm 22,70%), năm 2008 là 29,45%. Tốc độ bình quân cả giai đoạn 2000-2008 là hơn 25% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Doanh nghiệp tư nhân hiện chiếm một phần không nhỏ trong hầu hết các ngành công nghiệp chủ yếu: chiếm 50% giá trị công nghiệp chế biến thủy sản, 30% công nghiệp may mặc.
Các loại hình kinh tế trong doanh nghiệp phát triển đa dạng gồm nhiều thành phần, thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nhưng các loại hình doanh nghiệp và kinh tế tư nhân tuy còn nhỏ nhưng phát triển mạnh mẽ rộng khắp ở các ngành và các địa phương trong cả nước.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân ở tất cả các ngành, lĩnh vực đã góp phần không nhỏ trong việc thực hiện các chiến lược kinh tế dài hạn của Đảng và Nhà nước ta.
1.1.5.3. Đóng góp vào xuất khẩu và tăng thu NSNN.
Đóng góp của các DNTN vào NSNN đang có xu hướng tăng nhanh, từ khoảng 6,39% (5.802 tỷ đồng) năm 2000 đến 6,8% năm 2003 và 7,42% năm 2005(16.938 tỷ đồng) và năm 2007 là 8,1%. Con số này ngày càng tăng trong những năm gần đây. Tốc độ bình quân trong giai đoạn 2000-2007 là khoảng 7%.
Ngoài ra, KVKTTN còn góp phần tăng nguồn thu ngân sách như thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp và các khoản phí khác ở nhiều địa phương, đóng góp vào ngân sách địa phương. Ở TP. Hồ Chí Minh khoảng 15%, Tiền Giang 24%, Hưng Yên 20%...
Trong những năm qua, khu vực này đã có những đóng góp tích cực vào tăng kim ngạch xuất khẩu. Nhiều sản phẩm xuất khẩu của nước ta hiện nay đều do khu vực kinh tế tư nhân sản xuất như: hàng may mặc, giầy dép, đồ da, hàng thủy hải sản, cà phê, cao su, hạt điều…Theo đánh giá của Bộ Thương mại, KVKTTN, mà chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm và thành phố trực thuộc trung ương, đóng góp gần một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong các năm qua. Với xu thế phát triển này, KTTN sẽ là khu vực tạo nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước trong tương lai.
1.1.5.4. Tạo việc làm cho người lao động và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.
Có thể nói đây là đóng góp quan trọng nhất của thành phần KTTN. Đến năm 2007, nước ta có 44,17 triệu lao động đang làm việc trong toàn bộ nền kinh tế. Hàng năm, chúng ta có khoảng hơn 1 triệu người đến tuổi lao động, ngoài ra số lao động nông nghiệp có nhu cầu chuyển sang làm việc trong các ngành phi nông nghiệp cũng rất lớn. Vì thế mỗi năm chúng ta phải tạo thêm hơn 1 triệu việc làm đang là một áp lực lớn cho xã hội. Thế nhưng, trên thực tế hệ thống các doanh nghiệp nhà nước đang trong quá t._.rình cổ phần hóa, điều này đã đẩy một lượng lớn lao động của khu vực nhà nước ra thị trường lao động. Vì thế, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chính là nơi hấp thụ và tạo việc làm mới cho người lao động.
Năm 2002, lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chiếm 35,167 triệu người ( chiếm 89,01%), trong đó lao động thuộc thành phần kinh tế tư nhân là 9,616 triệu người, chiếm 24,4% tổng số lao động (tổng số lao động năm 2002 là 39,507 triệu người
Trong giai đoạn 2001-2005, KVKTTN thu hút khoảng gần 26% lực lượng lao động xã hội. Giai đoạn 2006-2008 thu hút khoảng 30% lực lượng lao động xã hội.
Việc tạo thêm nhiều công ăn việc làm mới cho người lao động – đây là sự đóng góp tích cực vào ổn định chính trị xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao nhận thức của người lao động ở nông thôn
1.1.6. Một số hạn chế của KVKTTN.
Bên cạnh sự phát triển và đóng góp trên, KTTN Việt Nam trong những năm còn bộc lộ nhiều yếu kém và hạn chế đó là:
Vấn đề nổi cộm nhất hiện nay là trong lĩnh vực vốn, tín dụng khiến cho doanh nghiệp tư nhân rất khó tiếp cận. Về vốn, có đến 7- 80% vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại quốc doanh được dành cho doanh nghiệp nhà nước; doanh nghiệp tư nhân rất khó vay vốn; trong đó ngoài những nguyên nhân khác, có một nguyên nhân không kém quan trọng là: ngân hàng cho doanh nghiệp nhà nước vay, nếu không thu hồi được thì Nhà nước sẽ thực hiện nhiều biện pháp để khắc phục, ngân hàng có thể yên tâm, nhưng nếu cho doanh nghiệp tư nhân vay mà không thu hồi được vốn, ngân hàng rất dễ bị "hình sự hóa", bị xét hỏi về lập trường, quan điểm ... Do vậy phải vay ở thị trường phi chính thức với lãi suất cao và thời hạn ngắn nên không có khả năng quay vòng vốn. Hình thức vay vốn của những người trong gia đình được các nhà doanh nghiệp ưa chuộng hơn cả: theo thống kê có tới 16,5% thường xuyên vay và 67,7% thỉnh thoảng vay vốn từ gia đình (Tạp chí tâm lý học, số 6 (87),6-2006). Các nhà doanh nghiệp kinh tế tư nhân cho rằng, vốn vay được theo kênh naỳ không được nhiều, không ổn định, không làm chủ được về mặt thời gian, đôi khi phải hoàn trả vốn một cách đột xuất gây nhiều khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp.
Bảng 1.1: Hình thức vay vốn kinh doanh
Đơn vị:%
Vốn vay Nhà nước
Vay trong gia đình
Vay từ bạn bè
Vay tư nhân
Huy động vốn
từ những người cùng làm
Phát hành trái phiếu
Không bao giờ
20,3
15,8
26,1
69,7
63,4
94,1
Thỉnh thoảng
66,2
67,7
66,4
21,2
29,9
5,9
Thường xuyên
13,5
16,5
7,5
9,1
6,7
Tổng
100
100
100
100
100
100
Nguồn: Tạp chí tâm lý học, số 6 (87),6-2006.
Khi khó khăn về vốn thì các chủ doanh nghiệp cũng thỉnh thoảng vay của bạn bè (664%). Cũng như vay của người thân trong gia đình, vay của bạn bè có một khó khăn là không vay được nhiều, thời gian vay hạn chế, phải xây dựng được mối quan hệ tin cậy tốt, vì vậy mà chỉ có 7,5% chủ doanh nghiệp vay của bạn bè. Vay vốn của tư nhân và phát hành trái phiếu cũng như cổ phiếu là những hình thức mà chủ doanh nghiệp ít dùng nhất. Hơn 60% các chủ doanh nghiệp không bao giờ dùng các hình thức vay vốn này không không đủ điều kiện niêm yết, thiếu lòng tin, uy tín, khó góp vốn và chia lợi nhuận, khó thuyết phục kế hoạch kinh doanh thành công. Vay vốn của tư nhân thường phải trả lãi cao, nhất là vay trong thời hạn ngắn nên các chủ doanh nghiệp cũng hạn chế vay.
Rất khó tiếp cận với các nguồn tín dụng của các Ngân hàng thương mại, nhất là vốn ưu đãi của Nhà nước. Nguyên nhân của hạn chế này là do các doanh nghiệp này không có tài sản thế chấp vay vốn và thậm chí là thiếu thông tin về nguồn vốn ưu đãi của Chính phủ.
Thứ hai, tuy các doanh nghiệp tư nhân hiện đang chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế song chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ( chiếm 90% tổng số doanh nghiệp tư nhân), công nghệ lạc hậu, quá yếu ớt để có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Thứ ba, Vấn đề khó khăn về đất đai và mặt bằng sản xuất kinh doanh cũng tương tự như vấn đề vốn, tín dụng. Điều 60 Luật đất đai năm 2003 quy định miễn giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất cho doanh nghiệp sử dụng đất vào mục đích sản xuất kinh doanh thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư. Khi doanh nghiệp có dự án kinh doanh khả thi sẽ được tạo điều kiện về giá thành, địa điểm kinh doanh có tính chất ưu đãi của các tỉnh. Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc cho thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh, và các doanh nghiệp tư nhân được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên,việc áp dụng chính sách vĩ mô của Nhà nước về ưu tiên đất đai cho các doanh nghiệp kinh tế tư nhân được áp dụng ở từng địa phương còn bất cập và thiếu thống nhất. Dù được ưu tiên nhưng các doanh nghiệp kinh tế tư nhân vẫn còn gặp một số khó khăn về vấn đề đất đai. Thực tế cho thấy, các khu công nghiệp ở một số nơi đất vẫn còn bỏ hoang. Một số doanh nghiệp thực sự đang rất cần mặt bằng để sản xuất kinh doanh thì không có, do họ không có “quan hệ” trong khi doanh nghiệp tư nhân khác có mối “quan hệ” tốt lại xin được cấp đất nhưng lại không có khả năng kinh doanh. Đó là một bức xúc trong các khu công nghiệp ở nước ta hiện nay. Giữa vốn và đất đai có một mối quan hệ đó là: doanh nghiệp càng có khó khăn về vốn thì càng gặp khó khăn trong vấn đề đất đai, mặt bằng sản xuất. Điều này thật đơn giản, vì muốn có đất đai thì phải có chi phí. Đất đai, mặt bằng sản xuất phụ thuộc vào vốn. Chính những khó khăn về tài chính này là nguyên nhân gây ra những khó khăn về tinh thần cho các chủ doanh nghiệp kinh tế tư nhân, như nhiều người nói “khó khăn chồng chất khó khăn” và đây là một trong những nguyên nhân làm cho một số DNKTTN phải đầu hàng.
Mặt khác, hỗ trợ mặt bằng sản xuất kinh doanh, nhìn chung, chất lượng quy hoạch của nhiều địa phương còn kém, do vậy các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có mặt bằng sản xuất kinh doanh vẫn là vấn đề bức xúc. Nhiều địa phương áp dụng chính sách ưu đãi về thuế sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế chuyển mục đích sử dụng đất với các mức chênh lệch tương đối cao nhằm thu hút đầu tư đã gây ra tình trạng không đáng có. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các cơ quan trong lĩnh vực đất đai còn rất hạn chế, do quy định về phân cấp quản lý đất đai chưa rõ ràng.
Thứ tư, khó khăn về thị trường tiêu thụ và xuất khẩu. Thị trường trong nước còn quá nhỏ bé và tăng trưởng chậm do thu nhập của dân cư còn quá thấp và tăng trưởng chậm chạp. Chiến lược công nghiệp hóa kiểu thay thế nhập khẩu với các dự án đầu tư lớn bằng ngân sách nhà nước nhưng lại tạo được rất ít việc làm đã làm cho thu nhập của tầng lớp dân cư chậm được cải thiện. Ngoài ra, Nhà nước là một hộ tiêu thụ lớn, nhưng hàng hóa mà Nhà nước mua sắm thì hầu hết không phải là sản phẩm của các doanh nghiệp tư nhân sản xuất. Kết quả là thị trường tiêu thụ trong nước chậm.
Về xuất khẩu, những khó khăn chính mà tư nhân gặp phải là: tiếp cận hạn ngạch xuất khẩu còn hạn chế và dường như doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều lợi thế; thiếu thông tin về thị trường và bạn hàng nước ngoài, thiếu mạng lưới tiếp thị; tín dụng xuất khẩu và bảo lãnh xuất khẩu chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp tư nhân; thủ tục hải quan còn phức tạp, phiền toái, việc thực hiện thuế xuất nhập khẩu tùy tiện do mã số thuế không đầy đủ.
Bên cạnh đó, vấn đề xúc tiến thương mại cũng có nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp tư nhân như: ít được tham gia vào các đoàn doanh nghiệp ra nước ngoài, không có điều kiện trưng bày và quảng cáo sản phẩm để xuất khẩu, thiếu nhân viên có năng lực, kiến thức và kinh nghiệm thương mại quốc tế.
Ngoài ra, chúng ta còn phải kể đến năng lực quản lý của chính chủ các doanh nghiệp, do tính chất tự phát, manh mún và trình độ lao động của công nhân còn hạn chế nhiều ở lao động thủ công.
1.2. Sự cần thiết phải có các chính sách hỗ trợ phát triển KTTN.
Chính sách là tổng thể các quan điểm, các giải pháp và các công cụ mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định của hệ thống theo định hướng mục tiêu cụ thể.
Chính sách hỗ trợ phát triển phát triển kinh tế tư nhân là những quyết sách của Nhà nước nhằm giải quyết những vấn đề “chín muồi” đặt ra trong KVKTTN của đất nước thông qua hoạt động thực thi các ngành, các cấp có liên quan trong bộ máy Nhà nước.
Có thể nói rằng, chính sách hỗ trợ của Nhà nước là một công cụ hữu hiệu để Nhà nước can thiệp nhằm hỗ trợ sự phát triển cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nói chung và khu vực kinh tế tư nhân nói riêng nhất là trong điều kiện như hiện nay đó là: kinh tế tư nhân Việt nam còn non trẻ, mới được công nhận và phát triển từ giai đoạn đổi mới (từ năm 1986 đến nay); khu vực kinh tế này ra đời và phát triển trong điều kiện đó là: nền kinh tế Việt nam đang phát triển, nền kinh tế chủ động hội nhập khu vực và quốc tế và sự phát triển chóng mặt của khoa học công nghệ.
Xuất phát từ những điều kiện hoàn cảnh trên, do vậy sự cần thiết phải có các chính sách hỗ trợ phát triển KTTN nhằm thực hiện các mục tiêu sau:
1.2.1. Đảm bảo KVKTTN vận hành trơn tru và hoạt động có hiệu quả.
Nhìn chung, tuy các DNTN hiện đang chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, song quy mô còn nhỏ bé và yếu ớt ( khoảng 95%) là các DNVVN: yếu kém về đầu tư vốn, trình độ công nghệ, tay nghề của công nhân… nên khó có thể cạnh tranh với thị trường trong nước cũng như thị trường thế giới.
Từ những đóng góp tích cực của khu vực KTTN vào quá trình phát triển kinh tế, chúng ta có thể nhận thấy tầm quan trọng của khu vực này trong nền kinh tế. Vì thế, để tăng thêm “ lực” cho khu vực này cần phải có các chính sách, chủ trương của Chính phủ để cho khu vực này phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
1.2.2. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Một trong những yếu tố quan trọng kìm hãm sức phát triển của khu vực tư nhân là những quy định đối xử chưa bình đẳng giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Năm 2005, Việt Nam ban hành Luật Doanh nghiệp mới áp dụng chung cho các loại hình doanh nghiệp, với hy vọng tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, chỉ với Luật Doanh nghiệp thì không thể bảo đảm có môi trường cạnh tranh bình đẳng theo đúng nghĩa. Vì vẫn còn nhiều luật, quy định khác, kể cả những luật bất thành văn, mà khối doanh nghiệp nhà nước có thể dựa vào để giành lấy ưu thế cho mình.
Thực tế thấy rằng, lợi thế lớn nhất của doanh nghiệp nhà nước là có cơ quan chủ quản, do mối quan hệ giữa hai chủ thể này khá gần gũi. Hơn nữa, trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp thường dựa vào mối quan hệ nhiều hơn là hệ thống luật pháp. Đây là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp nhà nước và một số đơn vị có vỏ bọc tư nhân nhưng thực chất là “sân sau” của một số cán bộ có chức, có quyền.
Thế mạnh thứ hai của các doanh nghiệp nhà nước là quy hoạch ngành. Về hình thức, quy hoạch do các bộ ban hành, nhưng nó lại được soạn thảo bởi các tổng công ty nhà nước. Họ đã đưa vào quy hoạch những quy định để hạn chế người khác nhằm tạo thuận lợi cho mình. Ngoài ra, quốc doanh còn được nhiều ưu ái về đất đai, tín dụng, quyền khai thác tài nguyên. Các nông trường quốc doanh hiện đang kiểm soát đến 25% diện tích đất nông nghiệp của quốc gia, nhưng chỉ tạo ra khoảng 1% tổng sản phẩm trong nước (GDP). Việc dành nhiều ưu đãi cho doanh nghiệp nhà nước đã tác động trực tiếp tới khả năng phát triển của khu vực tư nhân.
Để tạo cơ hội cho doanh nghiệp trong nước phát triển về quy mô, đặc biệt là khu vực tư nhân, cần phải xét lại từ luật pháp, yếu tố nền tảng. Luật pháp phải được thiết kế sao cho thực sự trở thành công cụ hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế.
1.3. Kinh nghiệm của một số địa phương lân cận về chính sách hỗ trợ phát triển.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, chúng ta chỉ xem xét vấn đề trên khía cạnh chính sách.
1.3.1.Kinh nghiệm của một số địa phương.
1.3.1.1.Kinh nghiệm của thành phố Hà Nội trong thực thi chính sách hỗ trợ phát triển KVKTTN.
Từ năm 2000 đến nay, Hà Nội có khoảng 21.235 DN với số vốn đăng ký gần 50.845 tỷ đồng . Tỷ trọng đóng góp vào NS thành phố liên tục tăng từ 11% năm 2000 lên 20.8% năm 2006 và 21.5% năm 2008. Doanh nghiệp tư nhân chiếm khoảng 8% kim ngạch xuất khẩu, 75% tổng mức bán lẻ trên thị trường cung cấp 60% lượng hàng hóa bán buôn cho các tỉnh lân cận và thu hút khoảng 50% lao động trên địa bàn. Để có được những thành tựu trên có rất nhiều lý do song không thể không kể đến sự thông thoáng của Luật doanh nghiệp 2005 và vận dụng linh hoạt các chính sách hỗ trợ phát triển của Chính phủ. Để đảm bảo công bằng cho các DN thuộc khối tư nhân, lãnh đạo thành phố đã thực hiện tách chức năng quản lý doanh nghiệp với chức năng quản lý nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn thành phố và tiến tới thực hiện quy chế đấu thầu quyền sử dụng đất để bình đẳng hóa về điều kiện tiếp cận đất đai.
Để thực hiện chính sách hỗ trợ vốn tín dụng cho tất cả các doanh nghiệp, Tthủ đô đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ như: cho các DNVVN vay vốn ưu đãi từ Qũy hỗ trợ phát triển thành phố, hỗ trợ kinh phí đào tạo và khởi sự doanh nghiệp, miễn giảm tiền thuê đất, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong vài năm đầu, hỗ trợ mặt bằng sản xuất kinh doanh, xây dựng các công trình xúc tiến điện tử.
Bảng 1.2. Dư nợ cho vay KVKTTN của các Ngân hàng thương mại Nhà nước trên địa bàn thành phố.
Đơn vị: triệu đồng
Nội dung
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Các NHTMNN
1.754.579
3.294.266
5.844.956
10.083.711
21.776.445
24.755.044
32.184.941
Toàn địa bàn Hà nội
4.961.095
8.025.214
15.063.644
22.472.723
47.834.708
53.236.654
68.478.598
% so với địa bàn
35%
41%
39%
45%
46%
46,5%
47%
% so với tổng dư nợ tại các NHTMNN
6,44%
9,57%
11,81%
16,39%
27,58%
28%
29,2%
Nguồn: Báo cáo tín dụng theo thành phần kinh tế năm 2001-2007.
Từ bảng số liệu ta thấy rằng, tỷ lệ các ngân hàng thương mại Nhà nước trên địa bàn thành phố chiếm một tỷ lệ vốn tín dụng rất lớn, chiếm khoảng hơn 40% vốn tín dụng trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Mặc dù, tỷ lệ cho vay của các ngân hàng thương mại nhà nước cho các doanh nghiệp tư nhân vay rất ít, chỉ có 6,44% năm 2001, nhưng có một dấu hiệu đáng mừng đó là tỷ lệ này gia tăng trong những năm gần đây, phần nào đã thể hiện được sự công bằng trong tiếp cận các nguồn vốn tín dụng của các doanh nghiệp thuộc khối tư nhân
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều bất cập như: Về mặt bằng, doanh nghiệp tư nhân đi tìm đất cũng rất khó khăn. Hiện nay, thành phố có khoảng hơn 40.000 doanh nghiệp tư nhân, nhưng có đến 8.000 doanh nghiệp thiếu mặt bằng sản xuất nghiêm trọng; thành phố có 20 cụm công nghiệp nhỏ và vừa nhưng cũng chỉ thu hút có 143 doanh nghiệp tư nhân, giải quyết được hơn 10% nhu cầu. Nếu tìm đất ngoài khu công nghiệp, thì quy trình cũng rất phức tạp: từ việc doanh nghiệp tự đi tìm đất, tự thỏa thuận đền bù với dân, xin địa phương phê duyệt dự án đầu tư, v.v... đến khi có đất, tất cả tới 8 bước, vài chục con dấu, chữ ký và nhanh nhất cũng mất gần một năm. Trong khi đó, có nhiều doanh nghiệp nhà nước lại đang thừa đất, doanh nghiệp tư nhân buộc phải thuê lại, nhưng với giá cả khá cao và thời gian không hạn định chắc chắn. Riêng năm 2008, chỉ số tiếp cận đất đai và tính ổn định trong sử dụng đất đứng ở cuối bảng 64/64 chỉ đạt 4,73 điểm (Nguồn:chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2008).
Theo báo cáo về chỉ số CPI (chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh) của các tỉnh,thành phố trong cả nước hàng năm như sau: chi phí gia nhập thị trường của Hà Nội được đánh giá là cao gần nhất cả nước ( năm 2006:đạt 5,73 điểm xếp 61/64) cả nước, năm 2007 là 63/64 với số điểm 6,23 và cao hơn so với mức trung bình của thế giới, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2005 Hà Nội là 7/64, nhưng chỉ số này năm 2006 tụt xuống 40/64, tụt hạng này chủ yếu là do sự giảm sút chỉ số tính năng động và tiên phong của chính quyền cấp tỉnh (năm 2006 đạt 4,23 điểm, xếp 46/64) năm 2007 là 28/64, bên cạnh đó là sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, cho vay chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Hải Dương trong thực thi chính sách hỗ trợ phát triển KVKTTN.
Tính đến 31/10/2008, tổng số DN hoạt động trên địa bàn HD là 1.304 DN, với tổng số vốn đăng ký là 3.396,192 tỷ đồng. Tổng giá trị sản phẩm trong tỉnh của các DNTN khoảng 2.850 tỷ đồng (chiếm khoảng gần 25% tổng sản phẩm của tỉnh). Năm 2007, các DNTN nộp NS 32 tỷ đồng. Các đơn vị kinh tế hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau, song bước đầu hình thành nên một số ngành mũi nhọn như: công nghiệp sản xuất hàng may mặc, giày dép xuất khẩu, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến hàng nông sản xuất khẩu, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.
Cùng với các thành phần kinh tế khác, các doanh nghiệp dân doanh đã tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động. Để có được những thành tựu trên, đó là sự vận dụng linh hoạt chính sách hỗ trợ phát triển KVKTTN của Chính phủ.
CS tín dụng: ưu đãi về lãi suất vay vốn ( giảm 10%), giảm 30% đối với các dự án đầu tư vào các cụm công nghiệp và làng nghề.
CS đất đai: ưu đãi về giá thuê đất và miễn giảm tiền thuê đất. Nhà đầu tư được thuê đất với mức giá thấp nhất của khung giá đất, được miễn tiền thuê đất trong 10 năm và giảm 50% cho các năm tiếp theo.
CS thuế: ưu đãi về thuế TNDN. Các dự án đầu tư được hỗ trợ từ NS tỉnh được hưởng ưu đãi là 100% số thuế TNDN phải nộp trong 2 năm đầu và 50% số thuế TNDN phải nộp trong một năm tiếp theo vào khu công nghiệp và 2 năm tiếp theoo vào cụm CN và làng nghề.
CS lao động: NS tỉnh hỗ trợ 50% kinh phí đào tạo nghề nhưng tối đa không quá 1 triệu đồng/người trong cả khóa đào tạo
Nhưng bên cạnh đó còn tồn tại nhiều bất cập: trong CS lao động chỉ hỗ trợ kinh phí đào tạo cho những DN có từ 100 lao động trở lên. Theo báo cáo về chỉ số CPI (chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh) của các tỉnh,thành phố trong cả nước hàng năm như sau : Chỉ số đào tạo lao động thấp chỉ đạt 3,99 điểm xếp 50/64. Chi phí gia nhập thị trường cao (năm 2008 chỉ số gia nhập thị trường là 7,81 điểm, xếp 50/64) chính điều này đã ngăn cản các DN tham gia vào nền kinh tế.
1.3.1.3. Kinh nghiệm của Phú Thọ trong thực thi chính sách hỗ trợ phát triển KVKTTN.
Hiện nay, trên địa bàn toàn tỉnh có 1024 DN với tổng số vốn đăng ký là 1.500 tỷ đồng, gấp 8,5 lần số vốn đăng ký trước đó. Tăng trưởng GDP khu vực KTTN giai đoạn 200-2004 là 11%( cả tỉnh là 9,5%), giai đoạn 2005-2008 là 13%. Tổng GDP khu vực KTTN năm 2004 chiếm 28% tổng GDP toàn tỉnh, năm 2007 là 30,5%. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh theo hướng công nghiệp hóa: tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong GDP , tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp giảm xuống.
Ngoài những chính sách ưu đãi đầu tư chung của Nhà nước, tỉnh còn có những ưu đãi riêng nhằm thu hút mạnh các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các doanh nghiệp được hưởng giá thuê đất theo giá thấp nhất của khung giá thuê đất; được chậm nộp tiền thuê đất 5 năm; được tỉnh cấp ngân sách hỗ trợ số tiền tương đương với số thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm và giảm 50% cho 4 năm tiếp theo; được hỗ trợ đền bù giải phóng mặt bằng, xây dựng công trình hạ tâng ( điện, đường, nước).. đặc biệt, tỉnh còn có chính sách hỗ trợ về học nghề cho mỗi lao động địa phương được doanh nghiệp thu hút vào làm việc với kinh phí đào tạo công nhân từ 500 nghìn đồng đến 1 triệu đồng/người. Hàng năm, tỉnh dành 10%-12% ngân sách tỉnh để đầu tư cho phát triển.
Tuy nhiên, kết quả khai thác vốn đầu tư, nhất là đầu tư trong dân và các doanh nghiệp ở Phú Thọ vẫn còn hạn chế. Các dự án đầu tư trong thời gian qua mới chủ yếu ở quy mô vừa và nhỏ, chưa thu hút được vốn vào lĩnh vực công nghệ cao. Bên cạnh đó, việc đào tạo nguồn nhân lực vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Một số công ty vẫn chưa tuân thủ các quy định của pháp luật lao động về ký kết hợp đồng lao động, đóng BHXH, bảo đảm an toàn và vệ sinh an toàn lao động. Quản lý Nhà nước về quy hoạch, kiến trúc đô thị, tài nguyên đất đai còn nhiều hạn chế, thiếu sót; quy hoạch các khu, cụm công nghiệp còn chưa đồng bộ, nhất là chưa xây dựng nhà ở và khu vui chơi giải trí cho người công nhân, tình trạng ô nhiễm môi trường chưa được khắc phuc. Theo báo cáo về chỉ số PCI hàng năm cho thấy: trong năm 2006, PCI là 226/64 ( chỉ số tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh đạt 4,59 – thấp và chính sách phát triển KTTN là 5,7 điểm), năm 2007 chỉ số PCI tụt hạng xuống còn 33/64, sự sụt giảm này là do chỉ số chính sách phát triển KTTN xuống còn 4,39 điểm.
1.3.2.Bài học kinh nghiệm cho HY.
Từ quá trình thực thi các chính sách hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế tư nhân của các địa phương trên, có thể rút ra một số bài học và vận dụng vào tỉnh Hưng Yên như sau:
Rà soát lại và sửa đổi, bổ sung toàn bộ hệ thống thể chế, chính sách cho phù hợp với tư duy mới, loại bỏ những thể chế, chính sách còn phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân là hết sức cấp bách. Đương nhiên, đi đôi với việc hình thành hệ thống thể chế, chính sách, phải đẩy mạnh cải cách hành chính, khắc phục những hành vi tiêu cực, sách nhiễu doanh nghiệp tư nhân của những công chức trong bộ máy công quyền đang làm tăng chi phí, hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Những nhiệm vụ này đã được nói đến nhiều lần, ở nhiều diễn đàn, vấn đề hiện nay là sự chỉ đạo thực hiện với quyết tâm ở tất cả các ngành, các cấp quản lý nhà nước.
Áp dụng chính sách tín dụng linh hoạt trên các khía cạnh như: giảm bớt thủ tục cho vay (vấn đề về tín chấp và thế chấp); linh hoạt về lãi suất cho vay và không có sự phân biệt đối xử với mọi loại hình trong khu vực kinh tế tư nhân.
Thực hiện đúng các chủ trương chính sách hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế tư nhân, không nên đưa ra các ưu đãi “vượt khung” giới hạn cho phép, tránh gây ra hiện tượng “ vượt rào” trong thu hút đầu tư của tỉnh.
Tạo điều kiện thuận lợi để các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân có thể tiếp cận với các Qũy hỗ trợ phát triển DNVVN của Chính phủ, không nên giới hạn ở việc biết thông tin nhưng không được “chạm tay” tới các gói hỗ trợ từ Chính phủ.
Giam chi phí gia nhập thị trường ( năm 2006, chỉ số này của HY là 6,65 xếp 51/64) và chỉ số này năm 2007 không có biến chuyển, năm 2008 là 59/64. Bên cạnh đó, còn phải cải thiện chỉ số tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh.
Chương II: Đánh giá tình hình thực thi chính sách hỗ trợ phát triển KTTN trên địa bàn tỉnh HY.
2.1. Thực trạng phát triển KVKTTN
2.1.1. Thực trạng phát triển về lượng.
Hầu hết các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn tỉnh Hưng Yên thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội mà Đảng và chính quyền địa phương đã đề ra như xóa đói giảm nghèo, và tạo việc làm.
Từ ngày tái lập tỉnh (01/01/1997), do được quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích thành lập doanh nghiệp nên nhân dân đã mạnh dạn đầu tư thành lập doanh nghiệp. Đặc biệt từ sau ngày Luật doanh nghiệp có hiệu lực thi hành, nhiều hạn chế đối với khu vực kinh tế tư nhân được bãi bỏ, quy định thành lập doanh nghiệp, thủ tục đăng ký kinh doanh đơn giản với chính sách Nhà nước khuyến khích đầu tư, các doanh nghiệp này được tiếp cận và được hưởng nhiều ưu đãi đầu tư như các thành phần kinh tế khác, kinh tế tư nhân đã phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng.
Từ ngày 01/01/2000, Luật DN năm 2000 có hiệu lực thi hành, ngay trong năm 2000 toàn tỉnh có 38 DN đăng ký với số vốn là 140,762 tỷ đồng. Tiếp đó số doanh nghiệp mỗi năm được đăng ký tăng gấp 1,5 lần đến 2 lần năm trước đó. Đến tháng 12/2004, số DN này là 723 với tổng số vốn đăng ký là 182196 triệu đồng với số vốn đăng ký trung bình là 252 triệu đồng.
Sự ra đời của Luật DN 2005, là một bước tiến mới cho DNTN cả nước nói chung và tỉnh HY nói riêng. Số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng, bình quân giai đoạn 2003 -2007 mỗi năm tăng khoảng 300 doanh nghiệp. Đặc biệt, đến tháng 12/2008, tổng số DNTN hoạt động trên địa bàn là 2379 DN, tăng so với năm 2007 là 537 doanh nghiệp, tương ứng tăng 29,15%. Tốc độ tăng trung bình cả thời kỳ 2001-2008 là vào khoảng 50,7%/năm. Thành phần của các loại hình doanh nghiệp trong khối tư nhân cũng thay đổi nhanh chóng theo hướng tăng tỷ trọng của hai loại hình doanh nghiệp là công ty cổ phần và công ty TNHH giảm tỷ trọng của loại hình doanh nghiệp tư nhân.
Bảng 2.1: Số DN thuộc KVKTTN đang hoạt động trên địa bàn tỉnh tại
thời điểm 31/12 hàng năm.
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Tổng số DN
111
228
407
723
1050
1397
1842
2379
%DNTN
54,05
37,72
28,99
28,35
25,52
26,41
25,62
23,37
%Công ty CP
9,9
10,52
10,81
13,14
18
18,39
19,27
20,93
%Công ty TNHH
36,05
51,76
60,20
58,51
56,48
55,2
55,11
55,7
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hưng Yên năm 2007
Biểu đồ 2.1. Tăng trưởng doanh nghiệp thuộc KVKTTN trên địa bàn tỉnh HY giai đoạn 2001-2008.
Theo thống kê các DN thuộc khối tư nhân trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, khu vực phía bắc của tỉnh số lượng doanh nghiệp tăng trưởng mạnh cụ thể là ở 3 huyện: Văn Lâm:474 DN (19,92%), Mỹ Hào: 375DN (15,76%), Yên Mỹ: 323 DN (13,57%); Khoái Châu: 340DN (14,29); Thị xã Hưng Yên: 389DN (16,35%). Tổng số doanh nghiệp của 4 huyện và thị xã Hưng Yên chiếm 79,89% số DN toàn tỉnh và chiếm khoảng 81% số vốn đăng ký. Sự phân bố không đều giữa các vùng là do lợi thế cạnh tranh giữa các huyện khác nhau. Vùng phía Bắc của tỉnh có lợi thế cạnh tranh tốt, có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế như giao thông thuận lợi, còn lại các huyện xa trung tâm, có kinh tế khó khăn còn hạn chế phát triển doanh nghiệp hoặc có phát triển thì các doanh nghiệp cũng nhỏ lẻ (ví dụ: Ân Thi:44 DN, Phù Cừ:50 DN…). Trong thành phần doanh nghiệp ở từng huyện, thị xã thì thành phần doanh nghiệp thuộc công ty TNHH chiếm tỷ trọng lớn vào khoảng gần 50% tổng số doanh nghiệp trong toàn huyện, thị xã.
Bảng 2.2: Sự phân bố DN đang hoạt động năm 2008 phân theo huyện, thị xã.
Đơn vị: %
Chia ra
DNTN
Công ty
CP
Công ty
TNHH
Tổng số
100
23,37
20.93
55,7
Thị xã H.Yên
16,35
22,36
30,85
46,79
Văn Lâm
19,92
5,9
21,94
72,16
Văn Giang
8,32
30,3
26,26
43,44
Yên Mỹ
13,57
40,86
21,05
38,09
Mỹ Hào
15,76
16,26
22,13
70,61
Ân Thi
1,85
29,55
11,36
59,09
Khoái Châu
14,29
51,76
8,23
40,01
Kim Động
4,03
34,38
18,75
46,87
Phù Cừ
2,14
31,37
19,6
49,03
Tiên Lữ
3,77
43,82
12,36
43,82
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hưng Yên năm 2007
Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân, đã tạo ra nhiều việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh nhất là khi Nhà nước có chủ trương cổ phần hóa các DN nhà nước, chính động thái này đã đẩy một lượng lớn lao động sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Bảng 2.3: Số lao động trong các DN đang hoạt động tại thời điểm 31/12 phân theo loại hình doanh nghiệp.
Đơn vị: Người
2001
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Tổng
20.320
44.302
50.639
59.086
67.197
81.427
98.670
DN nhà nước
10.391
14.499
11.343
7.915
3.047
2.471
2.080
Trung ương
3.923
5.273
4.053
5.267
1.765
1.407
1.200
Địa phương
6.468
9.226
7.290
2.648
1.282
1.064
880
DN ngoài quốc doanh
8.583
19.779
27.962
36.996
45.904
56.222
70.277
Tập thể
2.748
1.936
1.591
2.090
1.575
1.890
2000
Tư nhân
1.031
2.262
3.225
4.134
3.080
3.178
3.580
Công ty hợp danh
-
-
-
-
-
39
56
Công ty TNHH
4.021
11.283
15.988
20.010
22.248
25.194
29.562
Công ty CP có vốn NN
276
2.478
1.150
1.828
4.615
3.343
3.300
Công tyCP không có vốn NN
507
1.820
6.008
8.934
14.386
22.578
31.779
DN có vốn đầu tư nước ngoài
1.346
10.024
11.334
14.175
18.246
22.734
26.313
DN 100% vốn nước ngoài
340
6.234
8.017
9.508
12.415
16.534
19.257
DN liên doanh
1.006
3.790
3.317
4.667
5.831
6.200
7.056
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hưng Yên năm 2007.
Từ bảng số liệu trên cho ta thấy, bắt đầu từ năm 2004 trở đi, số lượng lao động làm việc trong các DN Nhà nước giảm đi rõ rệt nhưng đồng thời số lao động làm việc trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên đột biến, từ 27.962 lao động năm 2004 lên dến 36.996 lao động năm 2005 ( tăng 32,3%)và năm 2008 số lao động này là 70.277 lao động ( tăng so với năm 2007 là 25%).
Các đơn vị KTTN đã thu hút được hơn 70.000 lao động ( trong đó 2000 lao động trong các hộ kinh doanh cá thể và gần 68000 lao động trong các doanh nghiệp), chiếm gần 71,22% tổng số lao động toàn tỉnh.
Bảng 2.4: GDP trên địa bàn theo giá hiện hành phân theo thành phần kinh tế.
Đơn vị: triệu đồng.
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Tổng số
5.994.320
7.012.494
8.238.568
9.829.529
12.271.735
13.563.356
Kinh tế NN
1.241.719
1.212.929
1.726.455
2.040.889
2.404.095
2.369.523
Kinh tế ngoài quốc doanh
4.204.135
5.138.621
5.711.064
6.772.059
8.330.482
9.689.426
Kinh tế tập thể
48.591
43.136
51.231
47.372
46.157
45.632
Kinh tế tư nhân
1.014.304
1.288.900
1.392.691
1.943.789
2.949.313
3.123.365
Kinh tế cá thể
3.141.250
3.806.595
4.267.142
4.780.898
5.335.012
6.520.429
Kinh tế có vốn ĐTNN
548.466
660.944
801.049
1.016.581
1.537.158
1.504.407
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hưng Yên năm 2007
Tỷ trọng của khối KTTN trong GDP tăng qua các năm: năm 2003 là 16,92%; năm 2004 là 18,3%; năm 2007 là 24,03% và con số này năm 2008 là 23,03%. Tỷ trọng đóng góp bình quân của KTTN trong giai đoạn 2003-2008 vào khoảng gần 20% GDP toàn tỉnh.
2.1.2. Sự thay đổi về chất
Đi cùng với sự phát triển về số lượng DN, đó là sự thay đổi về chất của khu vực kinh tế năng động này. Sự biến đổi về chất được biểu hiện ở các mặt sau: cơ c._.ng và các tổ chức tín dụng, cần xác định giá đất sát với mức giá thị trường.
Thứ tư, triển khai tốt gói hỗ trợ lãi suất 4%/năm của Chính phủ để nguồn vốn hỗ trợ này có thể đến tận tay các DNVVN trên địa bàn tỉnh Hưng Yên. Nhưng một thực tế xảy ra là đa số doanh nghiệp không tiếp cận được với chính sách hỗ trợ lãi suất 4%/năm, vì các DN đã nợ ngân hàng nhiều với các món vay lớn nên bây giờ không còn tài sản để thế chấp và cũng không vay ở đâu được để trả nợ cũ, nếu như vậy thì gói hỗ trợ lãi suất này của Chính phủ không hiệu quả do chỉ cho vay được những doanh nghiệp có hợp đồng vay mới, mới được hỗ trợ lãi suất này. Do vậy, để khắc phục tình trạng này, chúng ta nên xem xét việc cho vay đối với các doanh nghiệp đã có nợ cũ là vẫn cho vay nhưng hạn chế mức cho vay ở một ngưỡng nào đó.
Tổ chức thực hiện.
Đối với chương trình triển khai gói hỗ trợ lãi suất 4%/năm.
+ Đối với chính quyền địa phương, để thực hiện gói hỗ trợ lãi suất này, lãnh đạo tỉnh đã đưa ra các “Chương trình hành động” và Quyết định của UBND tỉnh về hướng dẫn cụ thể quá trình thực hiện. Phổ biến rộng rãi tới các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh về đối tượng và điều kiện được hưởng gói hỗ trợ này. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng, Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên kết hợp với Sở Tài nguyên môi trường tỉnh thanh tra, rà soát và thực hiện quá trình cấp sổ đỏ cho các doanh nghiệp kịp thời, hợp lý tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể thế chấp vay vốn ngân hàng.
+ Đối với bên đi vay là các doanh nghiệp: khi vay vốn ngân hàng doanh nghiệp phải đưa ra mục đích vay vốn vay và phải đưa ra phương án kinh doanh khả thi từ nguồn vốn vay đó. Nếu doanh nghiệp vay để mua tài sản cố định thì thường các ngân hàng chỉ yêu cầu thế chấp bằng chính tài sản dùng tiền vay để mua đó; nếu doanh nghiệp vay để dùng làm vốn lưu động thì phải thế chấp bằng các tài sản hiện có của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải nộp báo cáo tài chính trong một vài năm trở lại đây cho ngân hàng. Ngoài ra thì uy tín của doanh nghiệp, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ là tiêu chí rất quan trọng để Ngân hàng xét duyệt xem có cho vay hay không.
+ Đối với bên cho vay là hệ thống các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng như sau:
Thực hiện việc hỗ trợ lãi suất cho khách hàng vay theo đúng quy định của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
Áp dụng cơ chế và lãi suất cho vay thông thường khi ký kết hợp đồng tín dụng; đến kỳ hạn thu lãi tiền vay của khách hàng, các ngân hàng thương mại thực hiện việc giảm trừ số tiền lãi bằng 4%/năm tính trên số tiền vay và thời hạn cho vay thực tế phát sinh trong năm 2009; các ngân hàng thương mại được hoàn trả số tiền lãi giảm trừ này từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trên cơ sở báo cáo định kỳ hàng quý;
Hàng quý gửi báo cáo số tiền hỗ trợ lãi suất và đăng ký số tiền hỗ trợ lãi suất của quý tiếp theo cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Đối với hình thức Bảo lãnh tín dụng, quyền và nghĩa vụ của các Bên như sau:
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc khối KVKTTN phát triển, UBND tỉnh chủ trì và kết hợp với Ngân hàng phát triển Việt Nam chi nhánh tại Hưng Yên xúc tiến nhanh việc thành lập Qũy Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp.
+ Đối với các ngân hàng và tổ chức tín dụng:
Yêu cầu Bên bảo lãnh cung cấp các tài liệu thuộc hồ sơ đề nghị bảo lãnh và tài liệu liên quan chứng minh đủ điều kiện được bảo lãnh
Thực hiện thẩm định bảo lãnh vay vốn.
Thu phí bảo lãnh vay vốn theo quy định.
Phối hợp với Bên nhận bảo lãnh kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và hoàn trả nợ của Bên được bảo lãnh. Khởi kiện theo quy định của pháp luật khi Bên được bảo lãnh vi phạm Hợp đồng bảo lãnh vay vốn, Hợp đồng tín dụng.
Yêu cầu Bên được bảo lãnh và Bên nhận bảo lãnh cung cấp thông tin và báo cáo định kỳ, hoặc đột xuất về tình hình hoạt động của Bên được bảo lãnh liên quan đến việc bảo lãnh vay vốn.
Yêu cầu bên nhận bảo lãnh chấm dứt việc cho vay và thu hồi nợ trước hạn nếu thấy Bên được bảo lãnh vi phạm Hợp đồng bảo lãnh vay vốn, Hợp đồng tín dụng hoặc vi phạm pháp luật.
Từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi Bên được bảo lãnh hoặc Bên nhận bảo lãnh vi phạm một trong các trường hợp sau:
- Vi phạm Hợp đồng bảo lãnh vay vốn hoặc Chứng thư bảo lãnh;
- Bên được bảo lãnh không sử dụng vốn vay đúng mục đích vay vốn đã ghi trong Hợp đồng tín dụng đã ký với Bên nhận bảo lãnh;
- Bên nhận bảo lãnh không thông báo cho Bên bảo lãnh khi Bên được bảo lãnh rơi vào tình trạng kinh doanh thua lỗ hoặc không thanh toán được nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước;
- Bên nhận bảo lãnh không thông báo cho Bên bảo lãnh trong vòng 7 ngày làm việc kể từ khi Bên được bảo lãnh rơi vào tình trạng không trả được nợ hoặc không trả nợ đầy đủ, đúng thời hạn.
Có trách nhiệm cung cấp thông tin, báo cáo định kỳ, hoặc đột xuất về tình hình thực hiện bảo lãnh vay vốn đối với Bên được bảo lãnh cho các cơ quan quản lý nhà nước theo quy định.
+ Đối với bên nhận bảo lãnh (các tổ chức, cá nhân)
Yêu cầu Bên được bảo lãnh thực hiện đúng các cam kết trong Hợp đồng tín dụng và các quy định hiện hành có liên quan.
Kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay của Bên được bảo lãnh để đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích theo cam kết tại Hợp đồng tín dụng, an toàn và có hiệu quả.
Chấm dứt ngay việc cho vay và thu hồi nợ trước hạn khi Bên được bảo lãnh vi phạm các quy định tại Hợp đồng tín dụng và các quy định hiện hành có liên quan.
Thông báo ngay cho Bên bảo lãnh khi Bên được bảo lãnh vi phạm Hợp đồng tín dụng và các quy định hiện hành có liên quan.
Thông báo cho Bên bảo lãnh trong vòng 7 ngày làm việc kể từ khi Bên được bảo lãnh rơi vào tình trạng không trả được nợ hoặc không trả nợ đầy đủ, đúng thời hạn.
Thực hiện các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng thương mại đối với Bên được bảo lãnh vay vốn theo quy định của pháp luật (điều chỉnh thời hạn trả nợ, mức trả nợ, gia hạn nợ cho khoản vay) khi Bên được bảo lãnh gặp khó khăn tạm thời.
Yêu cầu Bên bảo lãnh thực hiện các cam kết trong Chứng thư bảo lãnh vay vốn.
Phối hợp với Bên bảo lãnh trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho Bên được bảo lãnh.
Có trách nhiệm cung cấp thông tin, báo cáo định kỳ, hoặc đột xuất về tình hình thực hiện bảo lãnh vay vốn cho các cơ quan quản lý nhà nước theo quy định.
+ Đối với bên được bảo lãnh (Doanh nghiệp)
Cung cấp đầy đủ các tài liệu liên quan đến việc bảo lãnh vay vốn theo yêu cầu của Bên bảo lãnh, Bên nhận bảo lãnh và chịu trách nhiệm về tính chính xác, hợp pháp của các thông tin và tài liệu đã cung cấp.
Sử dụng vốn vay đúng mục đích, đảm bảo hiệu quả.
Không được sử dụng tài sản đã thế chấp để bảo đảm bảo lãnh vay vốn trong các hoạt động tín dụng và bảo lãnh khác.
Chịu sự kiểm tra, giám sát của Bên bảo lãnh và Bên nhận bảo lãnh.
Thực hiện đầy đủ các cam kết trong Hợp đồng bảo lãnh vay vốn, Hợp đồng bảo đảm bảo lãnh và Hợp đồng tín dụng.
Nộp phí bảo lãnh cho Bên bảo lãnh đầy đủ, đúng thời hạn quy định.
Yêu cầu Bên bảo lãnh, Bên nhận bảo lãnh thực hiện cam kết trong Hợp đồng bảo lãnh vay vốn, Hợp đồng tín dụng.
Hoàn trả đầy đủ cho Bên bảo lãnh những khoản nợ (gốc và lãi) phát sinh mà Bên bảo lãnh đã trả thay và các chi phí liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của Bên bảo lãnh.
Có trách nhiệm cung cấp thông tin và báo cáo định kỳ, đột xuất về tình hình thực hiện dự án đầu tư, tình hình sản xuất kinh doanh, chấp hành nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước, tình hình vay vốn và trả nợ vay cho Bên bảo lãnh, Bên nhận bảo lãnh, các đơn vị liên quan, cơ quan quản lý theo quy định.
3.2.2. CS đất đai.
Vấn đề chuyển đổi đất đai, nhất là đất canh tác sang làm mặt bằng sản xuất kinh doanh đang là vấn đề nan giải, phức tạp vì lao động ở HY hoạt động trong ngành nông nghiệp rất lớn, do vậy để tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp thuộc KTTN trong những năm tới chính quyền tỉnh cần làm tốt các công việc sau:
Thứ nhất, tăng quỹ đất cho DNTN bằng cách rút bớt, thu hồi đất của các DNNN và các tổ chức khác bán hoặc cho DNTN thuê với giá ưu đãi do hiện nay tổng diện tích đất cung cấp cho các doanh nghiệp chỉ chiếm 6,5% tổng diện tích toàn tỉnh.
Thứ hai, quy hoạch và phát triển các khu, cụm công nghiệp, các cụm tiểu thủ công nghiệp. Hoàn thiện và công bố công khai quy hoạch bố trí và sử dụng đất trên toàn tỉnh. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuê mặt bằng ổn định, lâu dài. Việc bố trí và phát triển các khu công nghiệp tập trung phải tuân theo đúng quy hoạch của tỉnh, động thái này sẽ tạo tâm lý yên tâm và góp phần tăng trưởng đầu tư cho doanh nghiệp. Khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vào các khu công nghiệp tập trung để hạn chế ô nhiễm môi trường. Kiểm soát chặt chẽ việc cho thuê đất phát triển các doanh nghiệp công nghiệp ở ngoài khu công nghiệp. Để thực hiện công tác này, chúng ta phải dựa vào “Quy hoạch sử dụng đất đai của UBND tỉnh giai đoạn 2001-2010”. Cụ thể như sau:
Đất các công trình công nghiệp từ 60 ha năm 2000 lên 1.187 ha vào năm 2010, tăng 1.127 ha tập trung chủ yếu tại các khu, cụm, điểm công nghiệp và các vị trí có điều kiện phát triển công nghiệp ven các đường giao thông chính, ven thị trấn, thị tứ, cụ thể như:
Khu công nghiệp Phố Nối A (thuộc các xã Trưng Trắc, Lạc Hồng, Đình Dù - huyện Văn Lâm, Giai Phạm - huyện Yên Mỹ, thị trấn Bần Yên Nhân - huyện Mỹ Hào nằm ở phía Bắc đường 5A): Năm 2000 hiện có 7 ha, quy hoạch đến năm 2010 là 450 ha, tăng 443 ha.
Khu công nghiệp Phố Nối B (thuộc các xã Nghĩa Hiệp, Liêu Xá, Tân Lập - huyện Yên Mỹ, Dị Sử - huyện Mỹ Hào nằm ở phía Nam đường 5A và phía Đông đưòng 39A): Năm 2000 hiện có là 5 ha, quy hoạch đến năm 2010 là 300 ha, tăng 295 ha.
Khu công nghiệp Như Quỳnh A (thuộc địa phận thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm): Năm 2000 hiện có là 25 ha, quy hoạch đến năm 2010 là 50 ha, tăng 25 ha.
Khu công nghiệp Như Quỳnh B (thuộc địa phận các xã Đình Dù, Trưng Trắc, huyện Văn Lâm phía Đông đường 5A): Năm 2000 hiện có là 3 ha, quy hoạch đến năm 2010 là 30 ha, tăng 27 ha.
Khu công nghiệp Minh Đức (phía Nam đường 5A tại xã Bạch Sam, Minh Đức, Ngọc Lâm, huyện Mỹ Hào) năm 2000 hiện có 2 ha, quy hoạch đến năm 2010 là 200 ha, tăng 198 ha.
Thị xã Hưng Yên năm 2000 hiện có 15 ha, quy hoạch đến năm 2010 là 50 ha, tăng 35 ha.
Các điểm ven đường 5A của các huyện Văn Lâm (đường 197 và đường trục xã Tân Quang, phía Tây và phía Nam đường 5A xã Trưng Trắc), Yên Mỹ (phía Nam đường 5A đối diện với khu công nghiệp Phố Nối A của xã Giai Phạm, phía Nam đường 5A và phía Tây đường 39A của xã Nghĩa Hiệp), Mỹ Hào (phía Nam đường 5A của xã Bạch Sam, Phùng Chí Kiên); ven đường 39A của các huyện Yên Mỹ (phía Đông và phía Tây đưòng 39A của các xã Tân Lập, Trung Hưng, thị trấn Yên Mỹ), Khoái Châu, Kim Động (phía Tây và phía Đông đưòng 39A của các Phạm Ngũ Lão, thị trấn Lương Bằng); đường 206 thuộc các xã Vĩnh Khúc, huyện Văn Giang, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ và xã Trưng Trắc, huyện Văn Lâm và các trung tâm kinh tế ở các huyện năm 2000 hiện có là 3 ha, quy hoạch đến năm 2010 là 207 ha, tăng 204 ha.
Ngoài ra, đất quy hoạch phát triển tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và thương mại tại tất cả các trung tâm kinh tế của tỉnh, huyện, xã, phường, thị trấn từ 81 ha năm 2000 lên 719 ha vào năm 2010 tăng 638 ha được phân bổ đều cho 10 huyện, thị xã trong tỉnh.
Thứ ba, phát triển thị trường bất động sản tại HưngYên với giá cạnh tranh. Giai pháp này rất mới mẻ nhưng nó là một biện pháp hữu hiệu để việc thuê mua đất trở nên công khai và minh bạch hơn tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể tiếp cận được với những lô đất có vị trí thuận lợi cho sản xuất và vận tải hàng hóa, nguyên nhiên vật liệu giúp làm giảm chi phí sản xuất. Để làm được việc này, đầu tiên chúng ta phải tạo được hàng hóa cho thị trường này tức là quỹ đất. Chúng ta nên chuyển đổi mục đích sử dụng đất, thu hẹp đất nông nghiệp (năm 2008 có tới 65,8% tổng quỹ đất dành cho nông nghiệp) và tăng cường quỹ đất cho thị trường bất động sản để chuyển vào mục đích sử dụng đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp (năm 2008 quỹ đất dành cho mục đích này chỉ chiếm 2,23% tổng quỹ đất toàn tỉnh). Mặt khác, đưa thêm đất chưa sử dụng (chiếm 0,55% tổng quỹ đất) vào thị trường bất động sản. Tiếp theo chúng ta phải thành lập một ban điều khiển thị trường này thuộc về UBND tỉnh phối hợp với Sở Tài nguyên và môi trường đưa ra thông tin về đất đai và giá đất theo đúng quy định của Nhà nước.
Thứ tư, đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhằm tạo điều kiện quản lý về đất đai và phát triển các quan hệ giao dịch chính thức trên thị trường bất động sản và vay vốn tín dụng. Thành lập và tổ chức thực hiện tốt các văn phòng, trung tâm giao dịch bất động sản, từ đó, các doanh nghiệp có thể tự tìm kiếm đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh trên thị trường này mà không phải qua một trung gian nào.
Tổ chức thực hiện.
+ UBND tỉnh.
Uỷ ban nhân dân tỉnh hoàn thiện bản đồ quy hoạch sử dụng đất rõ ràng và hiệu quả.
Bên cạnh đó, chỉ đạo và phối hợp với Ban quản lý các khu công nghiệp có quy hoạch các khu công nghiệp và khuyến khích các doanh nghiệp công nghiệp vào các khu công nghiệp để được hưởng nhiều ưu đãi: dây chuyền xử lý nước thải công nghiệp hiện đại, thân thiện với môi trường.....
Uỷ ban nhân dân tỉnh kết hợp với Sở Tài nguyên môi trường hình thành và phát triển thị trường bất động sản, thông báo thông tin về thị trường này trên các phương tiện thông tin đại chúng: tivi, phát thanh, báo của tỉnh….Đồng thời giao dịch công khai, đấu giá quyền sử dụng đất trên thị trường này nhằm giúp cho thị trường mới này phát hoạt động có hiệu quả.
+ Các với các doanh nghiệp
Thực hiện đúng các nguyên tắc của thị trường bất động sản, mua bán giao dịch công khai, không thực hiện giạo dịch ngầm, không thực hiện giao dịch qua trung gian (cò đất) làm lợi cho một bộ phận cá nhân khác.
Thường xuyên cập nhật thông tin giá đất trên thị trường bất động sản để tiến hành giao dịch, đấu giá quyền sử dụng đất đạt hiệu quả.
Thực hiện đúng nghĩa vụ nộp thuế đất cho Nhà nước theo quy định.
3.2.3. CS lao động.
Nguồn nhân lực là một bộ phận không thể thiếu của bất kỳ nền sản xuất nào. Đây là một yếu tố tác động trực tiếp tới trình độ phát triển của nền kinh tế. Từ thực trạng yếu kém về nhân lực của khu vực KTTN Hưng Yên trong những năm qua cho thấy phát triển nguồn nhân lực là một yêu cầu bức thiết.
Chất lượng nguồn nhân lực biểu hiện không chỉ ở trình độ chuyên môn kỹ thuật mà còn ở thể lực, sức khỏe.
Thứ nhất, quan tâm phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nghề. Giao dục và đào tạo đóng một vai trò quan trọng, quyết định trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chúng ta cần nâng cao trình độ chuyên môn và tay nghề của người lao động dựa vào hệ thống giáo dục quốc dân từ phổ thông, dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, giáo dục cao đẳng, đại học và sau đại học.
Trong những năm tới, tỉnh cần có một định hướng, quy hoạch cụ thể trong phát triển các cơ sở đào tạo nghề, tránh phát triển tràn lan, không hiệu quả, không phù hợp với nhu cầu thị trường. Cần xác định rõ nhu cầu của thị trường trong tương lai để định hướng cho các cơ sở đào tạo. Bên cạnh đó, cũng phải chú tâm đào tạo theo chiều sâu giúp người học nghề có thể thích ứng với sự thay đổi của khoa học, công nghệ.
Thứ hai, tiếp tục phát triển nhiều hình thức liên kết trong dạy nghề với các doanh nghiệp trong đó các doanh nghiệp tư nhân năng động, giữ vai trò quyết định. Hình thức này vừa tranh thủ được đội ngũ giáo viên dạy lý thuyết trong các trường dạy nghề, vừa tranh thủ được hệ thống máy móc hiện đại của các doanh nghiệp giúp giảm chi phí đào tạo.
Thứ ba, bên cạnh việc phát triển các trung tâm đào tạo thợ, cũng cần phát triển các trung tâm bồi dưỡng kiến thức quản lý cho các chủ doanh nghiệp. Trên thực tế, ở địa phương chương trình đào tạo giám đốc doanh nghiệp rất yếu và không hoàn chỉnh. Do tính chất kinh doanh nhỏ lẻ, manh mún và đi học lại phải nộp tiền mà lại tốn thời gian cho nên phần lớn chủ doanh nghiệp kinh tế tư nhân không muốn đi học, không có động cơ đi học. Vì vậy, ngoài việc hỗ trợ kinh phí đào tạo cần phải tạo động cơ cho chủ doanh nghiệp đi học.
Đa dạng hóa hình thức nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chủ doanh nghiệp bằng cách thông qua các hiệp hội, câu lạc bộ và tổ chức chuyên môn như ( Hiệp hội các DNVVN, câu lạc bộ doanh nghiệp trẻ, một số hiệp hội ngành nghề khác). Hoạt động của hiệp hội có tác động rất tích cực tới các doanh nghiệp.
Thứ tư, nâng cao thể lực và sức khỏe cho người lao động bằng cách là xây dựng một hệ thống phòng bệnh và chữa bệnh hợp lý, hiện đại, đồng bộ về nhân lực cũng như cơ sở vật chất, trang thiết bị để đáp ứng nhu cầu của người lao động. Đồng thời, phát triển các phong trào thể dục thể thao quần chúng, xã hội hội hóa công tác giáo dục thể dục thể thao. Thường xuyên mở các hội thi thể thao trong các doanh nghiệp và các hội diễn văn nghệ.
Thứ năm, đảm bảo cho người lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân được hưởng đầy đủ chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ cấp thất nghiệp... giống như lao động thuộc mọi thành phần kinh tế khác.
Tổ chức thực hiện
+ Người lao động.
Đóng một vai trò là thành tố trong quan hệ lao động. Khi tham gia vào các lớp đào tạo nghề, các học viên phải thực hiện nghĩa vụ đóng học phí đầy đủ và nghiêm túc trong học tập và thực hành. Thực hiện tốt quy định của doanh nghiệp.
Thực hiện đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.
Nếu người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp phải đăng ký thất nghiệp với tổ chức bảo hiểm xã hội, thông báo hàng tháng với tổ chức bảo hiểm xã hội về việc tìm kiếm việc làm trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp và nhận việc làm hoặc tham gia khoá học nghề phù hợp khi tổ chức bảo hiểm xã hội giới thiệu.
+ Chủ doanh nghiệp.
Tham gia tích cực với Sở Lao động và thương binh xã hội và UBND tỉnh trong liên kết đào tạo nghề trong doanh nghiệp.Trong thời gian học nghề tại doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải trả lương sản phẩm hoàn thành cho học viên khi tham gia các giờ thực hành để giúp học viên chi trả học phí đào tạo.
Bên cạnh đó, các chủ doanh nghiệp cũng không ngừng nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp bằng cách tham gia đầy đủ các lớp tập huấn về kỹ năng quản lý cho chủ doanh nghiệp
Đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ cho người lao động theo Luật Bảo hiểm xã hội quy định tại điều 92 và hàng tháng trích từ tiền lương, tiền công của người lao động theo quy định tại khoản 1 điều 91 của Luật này để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội.
Tại doanh nghiệp, các chủ doanh nghiệp phải quan tâm, chăm lo cho đời sống vật chất và văn hóa cho người lao động. Trang bị đầy đủ các trang thiết bị y tế hiện đại, khám bệnh định kỳ tại các phòng y tế của doanh nghiệp, thực hiện cấp thuốc đầy đủ, thường xuyên mở các buổi ca nhạc phục vụ đời sống tinh thần cho người lao động Để giúp người lao động có tâm lý yên tâm lao động sản xuất, các doanh nghiệp phải đảm bảo chỗ ăn ở thuận tiện cho người lao động, bằng cách là xây dựng các khu nhà tập thể gần công ty cấp phát hoặc cho công nhân thuê với giá mềm.
Ngoài ra, hằng tháng người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 102 và trích từ tiền lương, tiền công của người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 102 của Luật này để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
+ Các bên liên quan khác.
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Sở Tài chính, Công đoàn tỉnh và các sở, ngành có liên quan trình chủ tịch UBND tỉnh ban hành Nghị định về chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động làm việc tại hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân.
Sở Lao động Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Sở Tài chính và các sở, ngành có liên quan trình chủ tịch UBND tỉnh ban hành Nghị định về chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp, người sử dụng lao động và người lao động cùng đóng góp, có sự hỗ trợ một phần của Nhà nước.
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp Thanh tra Tỉnh, Công đoàn tỉnh và các sở, ngành có liên quan trình chủ tịch UBND tỉnh ban hành Nghị định quy định về xử lý các vi phạm của doanh nghiệp về việc ký kết hợp đồng lao động, tiền lương, tiền công, thời gian làm việc, bảo đảm các điều kiện vệ sinh và an toàn lao động.
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với các sở, ngành có liên quan trình chủ tịch UBND tỉnh Đề án sử dụng một phần nguồn vốn từ ngân sách nhà nước và một phần tín dụng ưu đãi hỗ trợ cho người lao động học chuyển đổi nghề phục vụ cho mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế và tạo việc làm; xây dựng cơ chế chia sẻ trách nhiệm ba bên: Nhà nước-Doanh nghiệp-Người lao động trong trang trải chi phí dạy và học nghề; hỗ trợ mở các lớp ngắn hạn miễn phí bồi dưỡng kiến thức khoa học, công nghệ cho hộ kinh doanh, doanh nghiệp của tư nhân.
3.2.4. CS thuế.
Hoàn thiện các chính sách về thuế bảo đảm sự công bằng và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế được thực hiện như sau:
Thứ nhất, thống nhất 1 phương pháp tính thuế VAT (thay vì hai phương pháp như trước kia) để tạo cơ hội bình đẳng giữa hộ kinh doanh cá thể và các doanh nghiệp thuộc KVKTTN.
Thứ hai, cải thiện thủ tục xin miễn giảm thuế theo hướng đơn giản hóa đối với các doanh nghiệp thuộc đối tượng được bồi hoàn thuế, giúp cho thời gian được bồi hoàn thuế được rút ngắn lại, điều này làm giảm đáng kể chi phí của doanh nghiệp nhất là đối với các doanh nghiệp đi vay để đóng thuế.
Thứ ba, nâng cao năng lực và trách nhiệm của cán bộ thuế, động thái này nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của Cục thuế Hưng Yên giam chi phí thời gian chờ đợi được cấp mã số thuế của các doanh nghiệp. Đồng thời, giảm tình trạng cấu kết của cán bộ thuế với doanh nghiệp buôn bán hóa đơn, nhằm gian lận thuế.
Tổ chức thực hiện.
+ Đối với các chủ doanh nghiệp.
Thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp với Nhà nước, đóng thuế đúng thời gian quy định và không gian lận thuế.
Thường xuyên trao đổi cởi mở về tình hình thực tế của doanh nghiệp với Cục thuế tỉnh Hưng Yên để thống nhất một phương pháp tính thuế VAT, có những sắc thuế đơn giản, phù hợp với thực trạng tại doanh nghiệp
+ Trách nhiệm của Cục thuế tỉnh:
Phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư rà soát, đối chiếu danh sách doanh nghiệp đã đăng ký mã số thuế với danh sách doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh; Đồng thời Cục thuế tỉnh trình đề xuất về các loại thuế và sắc thuế lên UBND tỉnh Hưng Yên sao cho phù hợp với tình hình thực tế tại doanh nghiệp, cần thống nhất một phương pháp tính thuế để tạo cơ hội cạnh tranh bình đẳng với hộ kinh doanh cá thể.
Cục thuế tỉnh trình lên UBND tỉnh về cải thiện thủ tục miễn giảm thuế theo hướng đơn giản hóa, rút ngắn thời gian bồi hoàn thuế, giảm chi phí cho doanh nghiệp.
Hàng quý, năm bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng về nghiệp vụ thuế cho các cán bộ thuế để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Đồng thời, thực hiện thanh tra, giám sát gắt gao thường xuyên kết quả làm việc của từng cán bộ thuế tránh tình trạng cán bộ thuế câu kết với doanh nghiệp buôn bán hóa đơn đỏ nhằm gian lận thuế.
Trực tiếp kiểm tra hoặc chỉ đạo các đợn vị thuộc nhành kiểm tra, xử lý về đăng ký mã số thuế, kê khai nộp thuế; tổ chức tập huấn, hướng dẫn, cung cấp các thông tin về Luật thuế và chính sách, pháp luật hiện hành của nhà nước có liên quan cho doanh nghiệp. Tham gia phối hợp với cơ quan ĐKKD xác minh trụ sở giao dịch của doanh nghiệp và giám sát việc chấp hành qui định về góp vốn điều lệ, chuyển quyền sở hữu tài sản, thực hiện cam kết góp vốn của các thành viên, cổ đông theo qui định tại điều 22 Luật doanh nghiệp.
Thông báo kịp thời cho cơ quan ĐKKD, các ngành có liên quan, UBND huyện nơi doanh nghiệp đặt trụ sở giao dịch về những trường hợp vi phạm luật nhưng không thuộc thẩm quyền xử lý của ngành.
Thông báo cho Sở Kế hoạch và Đầu tư, Công an tỉnh danh sách các doanh nghiệp vi phạm luật doanh nghiệp mà cơ quan thuế phát hiện được, danh sách các doanh nghiệp bị thu hồi mã số thuế, doanh nghiệp không hoạt động, ngừng hoạt động hoặc đã giải thể mà vẫn kinh doanh hoặc kinh doanh không đúng ngành nghề, trụ sở đăng ký.
Chỉ đạo Chi cuc thuế các huyện, thị xã quản lý, theo dõi, đánh giá hoạt động t kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn;
Định kỳ 6 tháng, năm đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả chấp hành thuế của doanh nghiệp báo cáo UBND tỉnh qua cơ quan ĐKKD;
Thực hiện nhiệm vụ khác theo qui định của pháp luật.
+ Trách nhiệm của Công an tỉnh:
Tiếp nhận xử lý thông tin doanh nghiệp do cơ quan ĐKKD cung cấp, tham gia quản lý, theo dõi hoạt động của doanh nghiệp theo chức năng nhiệm vụ của ngành;
Chỉ đạo kiểm tra, xác minh nhân thân của người tham gia thành lập và quản lý doanh nghiệp khi xét thấy cần thiết, đồng thời thông báo cho cơ quan ĐKKD để xử lý theo qui định. Trường hợp phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật của DN thì thực hiện thì thực hiện các biện pháp xử lý theo qui định, đồng thời thông báo kịp thời cho cơ quan ĐKKD, các cơ quan có liên quan để phối hợp xử lý;
Chỉ đạo Công an các huyện, thị xã tham gia quản lý đối với các doanh nghiệp trên địa bàn. Kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm, kịp thời xử lý các hành vi vi phạm của doanh nghiệp và báo cáo cấp trên (ngành dọc), cơ quan ĐKKD và UBND huyện nơi DN đặt trụ sở giao dịch;
Định kỳ 6 tháng, năm báo cáo UBND tỉnh về công tác kiểm tra, xác minh các thông tin DN qua cơ quan ĐKKD.
+ Trách nhiệm của Thanh tra tỉnh:
Xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra đối với doanh nghiệp trên cơ sở hướng dẫn của Tổng Thanh tra nhà nước và yêu cầu quản lý của tỉnh, trình ccchủ tich UBND xem xét, phê duyệt trước ngày 25/12 hàng năm;
Hướng dẫn các Sở, Ban , Ngành, UBND các huyện, thị xã xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra của ngành, địa phương;
Rà soát kế hoạch thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước, tránh trùng lặp, gây khó khăn cho doanh nghiệp; tổng hợp chương trình, kế hoạch kiểm tra của các Sở, Ban, Ngành, UBND huyện, thị xã;
Định kỳ 6 tháng tổng hợp kết quả thanh tra, kiểm tra đôis với các doanh nghiệp, báo cáo UBND tỉnh qua cơ quan ĐKKD.
Việc thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với doanh nghiệp phải thực hiện đúng qui định của pháp luật.
Cục Thuế tỉnh HY phối hợp với Sở KHĐT tỉnh Hưng Yên rà soát, đối chiếu danh sách doanh nghiệp đã đăng ký mã số thuế với danh sách doanh nghiệp đã ĐKKD.
Thông báo cho Sở KHĐT, Công an tỉnh danh sách vi phạm luật doanh nghiệp mà cơ quan Thuế phát hiện được, thu hồi mã số thuế.
Công an tỉnh Hưng Yên kiểm tra, xác minh nhân than của người tham gia thành lập và quản lý doanh nghiệp khi xét thấy cần thiết. Định kỳ 6 tháng, báo cáo UBND tỉnh về công tác kiểm tra, xác minh các thông tin doanh nghiệp qua cơ quan ĐKKD.
KẾT LUẬN
Từ khi tái lập tỉnh, do được quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích thành lập doanh nghiệp, cùng với sự ra đời của Luật doanh nghiệp đặc biệt là Luật doanh nghiệp năm 2005 nhiều hạn chế đối với KVKTTN được bãi bỏ, quy định thành lập doanh nghiệp, thủ tục đăng ký kinh doanh đơn giản và chính sách Nhà nước khuyến khích đầu tư, các doanh nghiệp này được tiếp cận và thụ hưởng các ưu đãi đầu tư như các thành phần kinh tế khác, kinh tế tư nhân ở Hưng Yên phát triển tương đối mạnh mẽ về quy mô, số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động còn vấp phải nhiều khó khăn về môi trường kinh doanh, thể chế chính sách của Nhà nước và hạn chế ngay trong chính bản thân khu vực kinh tế này nên có sự phát triển không đều giữa các huyện, thị xã trong tỉnh. Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho KVKTTN phát triển, trong đó cần phải hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển sao cho phù hợp với thực tiễn hiện nay của khu vực kinh tế này nhất là về chính sách vốn, tín dụng; đất đai; lao động; thuế….để xứng với tiềm năng vốn có của nó.
Với mục tiêu tìm ra phương hướng hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển KVKTTN trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, đề tài đã tập trung làm rõ nội dung cơ bản của chính sách phát triển KVKTTN cũng như tác động của nó tới quá trình phát triển doanh nghiệp ở Hưng Yên. Dựa trên cơ sở lý luận, đề tài tiếp tục phân tích, đánh giá trình thực thi chính sách trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, chỉ rõ được những kết quả đạt được, tồn tại và những nguyên nhân của tồn tại. Từ đó, đề xuất những phương hướng hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển KVKTTN trên địa bàn tỉnh sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế của nó.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Nhà xuất bản Lao động xã hội – Sách tham khảo “KTTN Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới - Thực trạng và những vấn đề” – TS. Đinh Thị Thơm, 2006
2. Cục thống kê Hưng Yên - Niên giám thống kê năm 2007.
3. htpt:// www.hungyen.gov.vn, Cổng thông tin doanh nghiệp Hưng Yên.
4. htpt:// www.hungyen.gov.vn, Cục thống kê Hưng Yên.
5. htpt:// www.pci.gov.vn
6. Nhà xuất bản Bộ tư pháp - Cẩm nang pháp luật kinh doanh dành cho DNVVN tập 1 - Vụ pháp luật dân sự - kinh tế, Bộ tư pháp và GTZ.
7. Nhà xuất bản Hà Nôi năm 2007 – Tài liệu tham khảo: “ Tìm hiểu luật đầu tư năm 2005” – CIEM và GTZ.
8. Báo cáo hoạt động tiền tệ - tín dụng – ngân hàng tỉnh Hưng Yên các năm từ năm 2007 đến quý I/2009 – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh Hưng Yên.
9. Nghị quyết số 14/2009/ QĐ – TTg ngày 21 tháng 1 năm 2009.
10. Nghị quyết số 13/2009/ QĐ – TTg ngày 23 tháng 1 năm 2009.
11.Quyết định số 193/2001/QĐ-CP ngày 20/12/2001.
12. Kế hoạch phát triển DNVVN tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2010 - UBND tỉnh Hưng Yên.
13. Tạp chí Lao động – Xã hội - số 278 năm 2006. và số 336 năm 2008.
14. Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết TW 5 khóa IX về “ Tiếp tục, đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển khu vực kinh tế tư nhân” - Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XV, quyển V – UBND tỉnh Hưng Yên.
15.Tạp chí Tâm lý học, số 6 (87), tháng 6/2006.
16. Vai trò của KVKTTN trong quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi - Tạp chí Kinh tế dự báo, số 9 năm 2004.
17. Nghị quyết TW 5 khoá IX .
18. Luật Doanh nghiệp năm 2005 – Nhà xuất bản Tư pháp.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22037.doc