Lời nói đầu
Trong lịch sử phát triển kinh tế của các nước, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) luôn có vai trò và tác dụng rất quan trọng. Gần đây, chính trong thời điểm khoa học và công nghệ tiến triển rất mạnh mẽ, xu hướng toàn cầu hoá kinh tế diễn ra khá sôi nổi, thực tiễn quản lý kinh tế và quản lý doanh nghiệp có những chuyển biến sâu sắc, thì các DNNVV lại càng được chú trọng ở các nước.
ậ nước ta, DNNVV cũng có vai trò quan trọng như vậy, do sự phát triển còn thấp của nền kinh tế quốc
24 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1294 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện Chính sách nhà nước nhằm phát triển doanh nghiệp vừa & nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dân, do tiềm năng rất lớn của nội lực dân tộc, do yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong 20 năm đổi mới vừa qua, DNNVV ngày càng được coi trọng. Đầu năm 2001, báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương đảng tại Đại hội IX của Đảng một lần nữa vạch rõ: “Chú trọng phát triển các DNNVV...” Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010 nhấn mạnh: “ Phát triển rộng khắp các cơ sở sản suất công nghiệp nhỏ và vừa với nghành nghề đa dạng...”
Chọn đề tài : “ Hoàn thiện Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam ’’ . em muốn góp thêm tiếng nói nhỏ của mình vào việc nhận thức đúng về vai trò và sự cần thiết của việc khuyến khích, thúc đẩy phát triển các DNNVV ở Việt Nam hiện nay. Đề án được chia làm 3 phần :
Phần I Vai trò của DNVVN và Nội dung chính sách nhà nước phát triển DNV& N
Phân II : Chính sách nhà nước nhằm phát triển DNNVV ở Việt Nam.
Phần III : Hoàn thiện chính sách Nhà nước phát triển DNNVV ở Việt Nam.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do hạn chế về trình độ và thời gian, đề án vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự giúp đỡ của cô giáo và các bạn.
Phần I
Những điểm mạnh của DNNVV
1.Dễ khởi nghiệp, lúc ban đầu không đòi hỏi nhiều gì về mọi mặt. Một số doanh nghiệp lớn hiên nay đã khởi nghiệp từ DNNVV.
2.Giàu tính mềm mại, linh hoạt, năng động để thích ứng nhanh, thậm chí đón đầu những biến chuyển của công nghệ quản lý, nhưng dao động lâm thời từng lúc hoặc cơ bản lâu dài của thị trường, những thay đổi có khi đột ngột của môi trường thể chế, chế độ kinh tế, xã hội.
3.Đặc biệt thích nghi với việc phát huy mọi tiềm năng của địa phương và cơ sở. Có ưu thế của sự gần kề với các nguồn lực đầu vào (lao động, tài nguyên, nguồn vốn tại chỗ) và với thị trường tiêu thụ. Sự “gần kề” này (proximity) là một lợi thế so sánh lớn để cạnh tranh ngay trong thời đại toàn cầu hoá, được nghiên cứu về khoa học và vận dụng nhiều thực tế ở các nước.
4.Giàu hơn về những hiệu quả tràn ra ngoài tích cực và ít hơn hẳn về những tích cực và ít hơn hẳn về những hiệu quả tràn ra ngoài tiêu cực so với doanh nghiệp lớn.
5.Thuận lợi để kết hợp kinh tế với công bằng xã hội, để thể hiện trong kinh tế bản sắc văn hoá dân tộc và những nét riêng ưu trội của địa phương.
6.Là sự bổ sung thiết yếu cho chính sự sinh tồn và phát triển của các doanh nghiệp lớn. Về nghiên cứu- triển khai, có thể là nơi thử nghiệm những đổi mới, phát minh, sáng chế. Về sản sản xuất, là người đảm nhiệm có hiệu quả cao những công đoạn cả ở phần đầu, phần giữa và phần cuối của quá trình chế tác, mà doanh nghiệp lớn không cần và không nên làm. Về phía dịch vụ, với ưu thế của sự “ gần kề”, tạo nên những hiểu biết qua tiếp xúc trong ” thế giới thực” với khách hàng. Về thương mại, DNNVV có tính cơ động, nhanh nhậy thâm nhập vào những thị trường tốt và rút lui khỏi những thị trường xấu, từ những thị trường nghách đến những thị trường lớn.
Những điểm yếu của DNNVV
1.Thiếu nguồn lực để tiến hành những công trình nghiên cứu. Triển khai lớn, đáp ứng yêu cầu và tận dụng khả năng của cách mạng khoa học và công nghệ.
2.Không đủ sức thực hiện những dự án lớn về đầu tư về chuyển đổi cơ cấu, về tiếp thị, về đào tạo… để theo kịp, thúc đẩy và tận thu lợi ích của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
3.Không có ưu thế của kinh tế qui mô (ecomomy of scale), tức là những thành quả và lợi ích đặc biệt mà chỉ từ một qui mô thích hợp (thường là đủ lớn) thì mới là có được. DNNVV là ”mèo nhỏ”, nên chỉ làm và chỉ bắt được ”chuột con”.
4.Nói chung vẫn lép vế trong các mối quan hệ (với Nhà nước, với thị trường, với ngân hàng, với các trung tâm khoa học, với giới báo chí, với đối tác, đối thủ, với khách hàng…). Thậm chí, thường phải dựa cậy và phụ thuộc vào các doanh nghiệp lớn, như doanh nghiệp con của doanh nghiệp mẹ, như chân rết ngoại vi của trung tâm.
5.Thiếu sức phòng, tránh và chống các rui ro, thường xuyên có nhiều, rất nhiều DNNVV ra đời, thì cũng có nhiều, rất nhiều DNNVV phá sản.
6.Ngay trong trường hợp thực tế là và được công nhận là động lực chính hoặc động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, DNNVV rất khó tự tập hợp hoặc được tập hợp thành lực lượng thống nhất và rất mạnh để có thể có thể có vị thế chi phối về kinh tế-xã hội và chính trị. Nói chung, DNNVV là” người ăn theo” chứ không phải là người đề xuất, là người tuân lệnh chứ không phải là người ra lệnh (về điểm này) hiện nay trên thế giới và nhiều nước còn có sự tranh cãi.
Khi đánh giá DNNVV cần tránh sự thiên lệch, hoặc quá nặng về những điểm mạnh hoặc quá nặng về những điểm yếu. Thấy đúng, thấy rõ mặt mạnh để phát huy và thấy đúng, thấy rõ mặt yếu để tìm cách khắc phục, đó là sự đánh giá cần thiết để có chính sách và hành động sáng suốt, có hiệu quả cao.
3.Quan hệ giữa DNNVV với doanh nghiệp lớn
Nếu nói một cách đơn giản, thì đó là mối quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh, với những phương pháp phức tạp do sự cùng tồn tại trong các tổ hợp sản xuất, kinh doanh khổng lồ hoặc các cụm kinh tế có tầm cỡ quốc gia hoặc toàn cầu.
Đại thể của mối quan hệ đó là: Doanh nghiệp lớn vừa giúp đỡ, hướng dẫn, sử dụng vừa kiềm chế, chèn ép, thậm chí bãi bỏ (thủ tiêu DNNVV); còn DNNVV thì vừa tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác, vừa thủ thế, giành giật đối với doanh nghiệp lớn. Động cơ ở đây chính là lợi nhuận, cuộc đấu tranh để sinh tồn và phát triển vì lợi nhuận trong kinh tế thị trường.
Phân tích cụ thể hơn có thể thấy mối quan hệ trên đây diễn biến nhiều hình vẻ, nhiều mức độ, nhiều phạm vi, có lúc nặng hơn về hợp tác, có lúc nặng hơn về cạnh tranh, do tác động của mấy yếu tố sau:
1.Tuỳ ở chỗ DNNVV là doanh nghiệp độc lập hay là doanh nghiệp con, nằm trong tổ chức của doanh nghiệp lớn.
2.Tuỳ ở chỗ DNNVV thuộc nghành sản suất, nghành kinh doanh, nghành dịch vụ nào, hoạt động trên thị trường nào (chú ý rằng mối quan hệ của DNNVV với doanh nghiệp lớn cùng nghành, cùng thị trường có khá nhiều mối quan hệ của DNNVV với doanh nghiệp lớn khác nghành, khác thị trường).
3.Tuỳ ở mục tiêu, chiến lược, phương pháp và tài năng xoay sở của doanh nghiệp lớn cũng như của DNNVV. Nói rõ hơn cả hai bên giống nhau hoặc mỗi bên khác nhau trong sự lựa chọn, và có khả năng đến đây để thực hiện sự lựa chọn ấy: giành giật hay là cộng tác, hay là pha trộn cả hai.
4.Tuỳ ở chính sách Nhà nước và tác động của dư luận xã hội tại từng nước, dẫn đến chỗ thị trường được hướng dẫn đúng hay sai, bị bóp méo nhiều hay ít, mặt tích cực được phất huy và mặt tiêu cực được khắc phục thế nào.
Như vậy, về quan hệ giữa DNNVV với doanh nghiệp lớn, trên cơ sở một số không nhiều các nét chung dễ nhận thấy, cần phải phân tích cụ thể với từng thời kỳ, từng quốc gia, từng ngành, từng vùng, từng doanh nghiệp.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, ngay dù chỉ vì mục đích thu thật nhiều lợi nhuận, doanh nghiệp lớn và DNNVV đều cần đến nhau. Dù giỏi kìm chế và chèn ép đến đâu, doanh nghiệp lớn cũng không thể thủ tiêu hết DNNVV, chính từ lợi ích của bản thân mình. Cũng như vậy, dù giỏi xoay sở và giành giật đến đâu, DNNVV cũng không thể thay thế được, càng không thể loại bỏ được doanh nghiệp lớn, chính từ yêu cầu tồn tại của bản thân mình. Cả hai loại doanh nghiệp là những bộ phận hợp thành không thể thiếu của một nền kinh tế ở thế kỷ 21.
II. Chính sách phát triển DNNVV
1. Khái niệm chính sách và chính sách phát triển các DNNVV
Trước hết, ta cần hiểu thế nào là”chính sách”. Thuật ngữ “chính sách” được sử dụng phổ biến trên báo chí, các phương tiện thông tin và đời sống xã hội. Mọi chủ thể kinh tế- xã hội đều có những chính sách của mình. Ví dụ, có chính sách của các cá nhân, chính sách của doanh nghiệp , chính sách của Đảng, chính sách của một quốc gia, chính sách của một liên minh các nước hay tổ chức quốc tế .v.v..
Theo quan điểm phổ biến, chính sách là phương thức hành động được một chủ thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại.
Tuyên bố chính sách có nghĩa là một tổ chức hay một cá nhân đã quyết định một cách thận trọng và có ý thức cách giải quyết những vấn đề tương tự.
Chính sách xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết định. Chúng vạch ra phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết định, nhắc nhở những nhà quản lí quyết định nào là có thể và những quyết định nào là không thể. Bằng cách đó, các chính sách hướng suy nghĩ và hành động của mọi thành viên trong tổ chức vào việc thực hiên các mục tiêu chung của tổ chức.
Chính sách kinh tế- xã hội (chính sách công), xét theo nghĩa rộng, là tổng thể các quan điểm tư tưởng phát triển, những mục tiêu tổng quát và những phương thức cơ bản để thực hiện mục tiêu phát triển của đất nước.
Chính sách theo quan niệm trên là đường nối phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. ở Việt Nam, đường nối do Đảng Cộng Sản Việt Nam- lực lượng chính trị lãnh đạo Nhà nước và xã hội xây dựng.
Theo nghĩa hẹp, có nhiều khái niệm khác nhau về chính sách phát triển kinh tế- xã hội (chính sách công) được đưa ra. Nhìn chung lại, ta có thể đưa ra khái niệm cơ bản sau: chính sách kinh tế- xã hội là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động nên các chủ thể kinh tế- xã hội nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của đất nước.
Từ những quan điểm về chính sách nói chung và chính sách kinh tế- xã hội (chính sách công) nói riêng, ta có thể rút ra khái niệm về chính sách phát triển hệ thống DNNVV ở Việt Nam như sau: Chính sách phát triển hệ thống DNNVV là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để nhằm khuyến khích, thúc đẩy sự phát triển của các DNNVV, góp phần phát huy và nâng cao hiệu quả cho hệ thống các doanh nghiệp này, nhằm phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Nói cách khác, chính sách phát triển DNNVV là sự thể chế hoá pháp luật của Nhà nước đối với các vấn đề về các DNNVV, là hệ thống các quan điểm, phương hướng, mục tiêu và các giải pháp nhằm phát triển hệ thống này.
Chưa bao giờ và không ở đâu sự phát triển của DNNVV lại chỉ do bàn tay vô hình, tức là sự hoạt động tự phát của thị trường, ở mọi quốc gia và trong mọi thời kỳ, bàn tay hữu hình luôn luôn hiện hữu, tức là tác động của Nhà nước rất quan trọng, rất cơ bản, thậm chí có tính quyết định. Đối với toàn bộ khu vực DNNVV, Nhà nước là người khởi xướng, ngưòi khuyến khích, người giúp đỡ, người bảo vệ, người cứu trợ (khi khó khăn) người điều tiết thoả đáng (khi cần thiết).
Hầu hết các Nhà nước chẳng những đối xử với DNNVV bình đẳng như với doanh nghiệp lớn, mà còn dành ưu đãi rõ rệt cho DNNVV, với nhận thức đúng đắn rằng sự bất bình đẳng có lợi cho DNNVV là dân chủ, là con đường và biện pháp tốt để thực hiện bình đẳng xã hội.
Bàn tay hữu hình của Nhà nước thể hiện qua hệ thống luật lệ của Nhà nước, từ chính quyền trung ương đến chính quyền địa phương và chính quyền cơ sở, có thể hiện hữu ngay trong hiến pháp, và từ hệ thống luật lệ toả ra trong mọi công việc mà Nhà nước tiến hành.
Tóm tắt những chính sách thể hiện trong luật lệ của Nhà nước về DNNVV là như sau:
1. Tạo dễ dàng việc khởi nghiệp và việc hành nghề của DNNVV.
2. Cho vay vốn với điều kiện thuận lợi( như Nhà nước góp phần thế chấp hoặc bảo lãnh) với lãi suất thấp, với ân hạn dài, với sự trợ giúp khi gặp khó khăn trong việc trả nợ.
3. Cho hưởng nhiều ưu đãi về thuế.
4. Chuyển giao và giúp làm chủ công nghệ và quản lý tiên tiến.
5. Giúp đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực, từ giám đốc đến kĩ thuật viên, nhân viên quản lý, kế toán và công nhân hành nghề.
6. Cho nhận thầu công việc sản xuất, kinh doanh; cho đảm nhận từng dự án hoặc bộ phận dự án kinh tế ( của Nhà nước ); cho hạn ngạch hoặc tỷ phần trong việc cung ứng hàng hoá hoặc dịch vụ cho thị trường trong nước và cho xuất khẩu. 7. Giúp tiếp cận thị trường, cung cấp thông tin kịp thời và chuẩn xác về thị trường, cho tham gia nhiều hình thức thiết lập và phát triển quan hệ với các đối tác trong và ngoài nước.
8. Đặc biệt chăm sóc và giúp đỡ:
+ Các DNNVV nhiều triển vọng
+ Các DNNVV bị thiệt thòi hoặc gặp nhiều khó khăn
+ Các DNNVV do phụ nữ làm chủ
+ Các DNNVV trong một số nghành và vùng ưu tiên v.v...
9. Hoạch định, thông qua và thực hiện những chiến lược trung hạn và dài hạn, những chương trình quốc gia từng năm hoặc vài năm về phát triển DNNVV.
10. Theo dõi tình hình, thường thì làm thống kê riêng về DNNVV, kiểm điểm việc thực hiện các luật lệ, chiến lược và chương trình nói trên, phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề nảy sinh để phát triển DNNVV.
11. Lập cơ quan Nhà nước chuyên trách về DNNVV, có nơi là cơ quan cấp bộ hoặc là một bộ trong Chính Phủ.
12. Giúp thành lập và hoạt động có hiệu quả của các hiệp hội DNNVV. Dành cho các hiệp hội ấy cơ hội và vị trí đích đáng trong các Hội đồng, các Uỷ ban, các hội nghị quan trọng của Nhà nước để hoạch định các chính sách kinh tế quốc gia.
Qua nghiên cứu luật lệ của nhiều nước, thì rõ ràng mỗi nước bắt đầu từ một số luật lệ nhằm vào những vấn đề bức xúc và quan trọng nhất của sự phát triển DNNVV, do vậy còn chưa hoàn thiện và chưa đầy đủ, rồi từng bước các luật lệ đó được bổ sung hoàn chỉnh dần, đến khi bao quát khắp các mặt như vừa giới thiệu trong 12 diều nêu trên.
Sự khác nhau giữa các nước chủ yếu là ở mức độ khuyến khích, ưu đãi, giúp đỡ nhiều hay ít, cao hay thấp đối với DNNVV, và một phần nữa là ở một số biện pháp khuyến khích cụ thể, có nét riêng biệt của từng nước.
Phần 2
chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
tại Việt Nam
I.Tình hình phát triển DNNVV ở Việt Nam
Theo tổng kết cuộc tổng điều tra các cơ sở kinh tế hành chính sự nghiệp trên phạm vi cả nước tại thời điểm ngày 1/7/1995 tiến hành ở 23.708 doanh nghiệp, thì có 20.856 doanh nghiệp, tức là 87,6% trong tổng số là DNNVV, dựa vào tiêu chí phân loại theo tổng giá trị vốn đã qui định. Doanh nghiệp có số vốn dưới 5 tỷ đồng: 20.856, chiếm 88%, doanh nghiệp có số vốn trên 5 tỷ đồng: 2.852, chiếm 12%.
Trong những doanh nghiệp có số vốn dưới 5 tỷ đồng:
+Doanh nghiệp có số vốn dưới 1tỷ đồng: 16.673, chiếm 70,3%.
+Doanh nghiệp có số vốn từ 1 đến 5 tỷ đồng: 4.183, chiếm 17,6%.
Như vậy là, theo tiêu chí vốn, năm 1995, các DNNVV chiếm 99,56% trong tổng số các doanh nghiệp tư nhân, chiếm 97,38% trong tổng số các hợp tác xã, chiếm 94,72% trong tổng số các công ty TNHH, chiếm 42,37% trong tổng số các công ty cổ phần và 65,88% trong tổng số các doanh nghiệp Nhà Nước. Trong tổng số doanh nghiệp được điều tra là 23.708, có tới 20.856 DNNVV.
Theo số liệu thống kê đến 30/6/1998, trong tổng số các doanh nghiệp dân doanh là 25.517, có 17.535 doanh nghiệp tư nhân, 6.900 công ty TNHH, 153 công ty cổ phần và 2.900 hợp tác xã.
Xét về lĩnh vực kinh doanh, cũng theo số liệu của cuộc điều tra nói trên, trong số 20.856 DNNVV có 77,6% hoạt động trong các ngành thương nghiệp, sửa chữa và công nghiệp chế biến, trong đó các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp, sửa chữa chiếm 42,2% và các doanh nghiệp hoạt động trong công nghiệp chế biến chiếm 35,4%. Doanh nghiệp hoạt động trong xây dựng chiếm gần 10%; trong khách sạn, nhà hàng 44,4%; trong ngành vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc 3,3%; trong ngành kinh doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn 2,1%; trong ngành khai thác mỏ 1,2%; còn lại dưới 1% là những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác.
Về phân bố giữa các địa phương, DNNVV tập chung chủ yếu tập ở vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long chiếm 55% tổng số DNNVV của cả nước, ngoài ra là Đồng bằng sông Hồng chiếm 18,1%, Duyên hải miền Trung 10,1%.
2.Vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế Việt Nam
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay DNNVV có vị trí đặc biệt quan trọng thể hiện qua các mặt dưới đây:
-Tạo việc làm cho người lao động. Đây là một thế mạnh rõ rệt của DNNVV và là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta phải đặc biệt chú trọng phát triển DNNVV ở nước ta hiện nay.
Số liệu điều tra lao động và việc làm (7/2000) cho thấy ở Việt Nam, dân số trong độ tuổi lao động (nam từ 15 đến 60, nữ từ 15 đến 55) là 46,2 triệu người chiếm 59,2% tổng dân số (năm 1989 mới chỉ là 55%). Việt Nam đang chuyển từ giai đoạn cấu trúc dân số trẻ sang "cơ cấu dân số vàng", nghĩa là tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động ở mức cao trong khi tỷ lệ dân số phụ thuộc giảm. Dự báo trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tiếp tục tăng và đạt đỉnh cao nhất là gần 70% vào năm 2009 (56 triệu người). Từ năm 1999 đến năm 2009 mỗi năm sẽ có thêm 1,8 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Đây là mức tăng nguồn nhân lực cao nhất từ trước đến nay trong lịch sử dân số Việt Nam, là tiềm năng, cơ hội lớn về nguồn nhân lực và cũng là thách thức rất lớn về giải quyết việc làm.
Khu vực DNNVV thuộc các thành phần kinh tế hiện thu hút khoảng 25-26% lực lượng lao động phi nông nghiệp của cả nước, nhưng triển vọng thu hút thêm lao động rất lớn vì suất đầu tư cho một làm việc ở đây thấp hơn rất nhiều so với doanh nghiệp lớn, chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn rải rác trong dân. Theo tài liệu "Một số chỉ tiêu chủ yếu về qui mô và hiệu quả của 1,9 triệu cơ sở sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam " của Tổng Cục Thống Kê xuất bản năm 1997, lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc trong doanh nghiệp tư nhân chỉ có 35 triệu đồng và trong công ty TNHH là 45 triệu đồng, trong khi lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc tại doanh nghiệp Nhà Nước là 87,5 triệu đồng. Các DNNVV đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động nhất là ở nông thôn tăng mỗi năm; đồng thời còn tiếp nhận số lao động từ các doanh nghiệp Nhà nước dôi ra qua việc cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê, phá sản doanh nghiệp hiện đang được triển khai.
-Đóng góp tăng trưởng kinh tế. Mỗi năm DNNVV đóng góp khoảng 25-26% GDP của cả nước. Năm 1995, DNNVV tạo ra 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng khối lượng vận chuyển hàng hoá, 100% giá trị sản lượng hàng hoá của một số ngành nghề như chiếu cói, giầy dép, hàng thủ công mỹ nghệ ...
Xét về tương quan giá trị TSCĐ với doanh thu để xem xét hiệu quả sử dụng đồng vốn, có thể thấy hiệu quả sử dụng đồng vốn ở khu vực DNNVV đang rất khả quan: để tạo ra một đồng doanh thu, các doanh nghiệp Nhà nước thuộc Trung ương quản lý phải đầu tư 0,562 đồng vốn cố định, trong khi đó các doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý chỉ đầu tư 0,220 đồng; doanh nghiệp tập thể 0,298 đồng; doanh nghiệp tư nhân 0,197 đồng; công ty TNHH 0,188 đồng. Nếu so sánh các doanh nghiệp Nhà nước Trung ương quản lý số vốn cố định mà doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý sử dụng cho một đồng doanh thu chỉ bằng 39%; tương tự như vậy, các doanh nghiệp tập thể bằng 53%; các doanh nghiệp tư nhân băng 35%; còn công ty TNHH chỉ bằng 33%.
-Bảo đảm cho nền kinh tế năng động hơn. Do yêu cầu vốn ít, qui mô nhỏ, DNNVV có nhiều khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ làm cho nền kinh tế năng động hơn. Một số nền kinh tế như Đài Loan vừa qua ít chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực, chủ yếu do dựa vào DNNVV. Đối với doanh nghiệp lớn, DNNVV cũng có thể làm đại lý, vệ tinh, tiêu thụ hàng hoá hoặc cung cấp vật tư đầu vào với giá rẻ hơn do đó góp phần hạ giá thành nâng cao hiệu quả sản xuất cho doanh nghiệp lớn.
-Tăng thu nhập cho dân cư. Thu nhập của nhân dân ta còn quá thấp do kinh tế chậm phát triển; ngay trong nông nghiệp, dù sản lượng thóc có tăng nhanh thì cũng chỉ đủ no, chứ không giầu được nếu không có công nghiệp chế biến. Phát triển DNNVV ở thành thị cũng như nông thôn là biện pháp chủ yếu để tăng thu nhập, đa dạng hoá thu nhập của các tầng lớp nhân dân khắp các vùng trong nước. Việc phát triển DNNVV chế biến nông, lâm, thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ truyền thống phân bố rộng khắp trong các vùng nông thôn sẽ tạo nên bộ mặt mới cho nông thôn cả về kinh tế, văn hoá, xã hội, góp phần rất quan trọng thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
-Góp phần thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế xóa đói giảm nghèo theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Xét về các loại cơ cấu, như cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu lãnh thổ, phân bố dân cư... Việc phát triển DNNVV sẽ tạo ra những chuyển biến hết sức quan trọng về cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế, từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, thuần nông là chủ yếu sang một nền kinh tế có đủ cơ cấu theo hướng tiến lên xã hội văn minh, hiện đại. Rất dễ nhận thấy là mấy năm gần đây, bộ mặt kinh tế, xã hội của nhiều vùng đã có thay đổi theo hướng đó: nhiều thị trấn, thị tứ, đông đúc hợn trước, nhiều cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mới được hình thành, đi đôi với giao thông nông thôn phát triển và nhiều đường dẫn toả ra nhiều vùng nông thôn...
-Và cuối cùng là góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện trong thực tế một đội ngũ doanh nhân mới trong kinh tế thị trường. Trong thực tế, có những DNNVV vẫn tiếp tục giữ tổ chức của mình là nhỏ hoặc vừa vì qui mô này phù hợp với khả năng kinh doanh ngành, nghề đang theo đuổi, nhưng cũng có những doanh nghiệp phát triển lên thành những doanh nghiệp có qui mô lớn. Đã có những gương doanh nhân thành đạt xuất thân từ những công việc rất đơn giản, do ý chí và quyết tâm rất đáng khích lệ, dù ở qui mô nào, DNNVV cũng vẫn là những vườn ươm nhân tài cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước.
II.Hệ thống thể chế, chính sách khuyến khích trợ giúp DNNVV ở Việt Nam.
DNNVV ở nước ta hiện nay đang còn nhiều yếu kém, việc trợ giúp là hết sức cần thiết.
Đối với các doanh nghiệp, trong đó có DNNVV, từ những năm đổi mới, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản qui phạm pháp luật để từng bước hình thành hệ thống thể chế, chính sách khuyến khích phát triển.
Có thể kể ra đây những văn bản quan trọng nhất.
-Hiến pháp năm 1992 công nhận quyền tự do kinh doanh của mọi công dân theo qui định của pháp luật; công nhận quyền được đối xử bình đẳng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
-Luật đất đai năm 1993, được sửa đổi hai lần bằng các luật sửa đổi, bổ xung một số điều của luật đất đai của năm 1998 và năm 2001, qui định các doanh nghiệp có quyền hợp pháp về sử dụng đất, có quyền chuyển nhượng hoặc thế chấp quyền sử dụng đất.
-Luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 qui định khung pháp luật cho các doanh nghiệp này hoạt động hoặc tham gia thị trường trong nước và nước ngoài.
-Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao năm 1994 được sửa đổi bằng các pháp lệnh năm 1997 và năm 2001.
-Luật dân sự năm 1995 qui định nhiều quyền dân sự, trong đó có quyền kinh doanh thông qua hợp đồng và quyền thực hiện hợp đồng thông qua tài sản cầm cố và thế chấp.
-Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997, đơn giản hoá và thực hiện thống nhất một sắc thuế thu nhập cho các loại hình doanh nghiệp trong nước.
-Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 thay thế luật thuế doanh thu bị coi là thuế chồng lên thuế bằng một sắc thuế đơn giản hơn, công bằng hơn.
-Luật thương mại năm 1997 tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại của các doanh nghiệp.
-Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) năm 1998 và nghị định số 51 (tháng 7/1999) cụ thể hoá điều kiện luật đó đã đề ra khá nhiều chính sách cụ thể áp dụng cho tất cả loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh, kể cả cá nhân, nhằm kinh doanh theo nghị đinh 66-HĐBT ngày 2/3/1992.
-Nghị địng số 57 (7/1998) qui định tất cả các doanh nghiệp đã đăng ký có quyền xuất khẩu và xuất khẩu các mặt hàng đã đăng ký kinh doanh (mà trước đây cần phải có giấy phép) trừ một số ít sản phẩm còn qui định hạn ngạch hoặc xuất nhập khẩu có điều kiện.
-Luật doanh nghiệp năm 1999 (có hiệu lực thi hành từ 1/1/2000) qui định tổ chức và hoạt động của 4 loại hình doanh nghiệp: công ty TNHH, đào tạo cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, trên cơ sở hợp nhất hai luật về công ty và doanh nghiệp tư nhân trước kia.
-Quyết định số 46/2001 ngày 4/4/2001 của Thủ tướng Chính Phủ về xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2005 đề ra một số cơ chế 5 năm thay cho cơ chế hàng năm trước đây, giảm bớt các biện pháp phi quan thuế, tăng các biện pháp kinh tế.
Rõ ràng là, trải qua 15 năm đổi mới theo đường lối của Đảng, thể chế kinh tế nước ta đã từng bước chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, một hệ thống các văn bản pháp luật theo thể chế kinh tế thị trường đã từng bước hình thành, tuy chưa thật hoàn chỉnh; nhờ đó kinh tế dân doanh bước đầu bừng nở, mọi lực lượng sản xuất được giải phóng đã đem lại sức phát triển mới của kinh tế nước ta, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Thế nhưng, trên con đường kinh doanh, DNNVV đang còn gặp không ít khó khăn. Để khuyến khích phát triển mạnh hơn nữa nhiều DNNVV, việc tiếp tục đổi mới công tác quản lý của Nhà nước là hết sức quan trọng, mà trước hết là cải cách thể chế kinh tế. Trong khi các yếu tố của kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang rất sơ khai, không đồng bộ, thể chế ấy phải bảo đảm hình thành, phát triển và hoàn thiện các loại thị trường, nhất là thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học- công nghệ. Điều quan trọng trong thể chế là phải dứt khoát xoá bỏ cơ chế "xin cho" tràn lan đã ăn sâu trong nếp nghĩ cũng như cung cách quản lý của không ít cơ quan và công chức, đôi khi lại còn vì cơ chế cũ đã đem lại cho họ những bổng lộc mà họ không sao dứt bỏ được.
Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IX của Đảng đã đề ra nhiệm vụ "trong 5 năm tới, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế quản lý kinh tế thị trường định hướng XHCN, khắc phục những yếu kém, tháo gỡ những vướng mắc" và đến năm 2010, "thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN phải được định hướng về cơ bản".
Như vậy, việc cần thiết là tiếp tục cụ thể hóa thêm thể chế, chính sách đó và vận dụng phù hợp với đặc điểm DNNVV trong tình hình hiện nay. Dưới đây là một số chính sách cụ thể nhất cần được quan tâm.
1.Chính sách khuyến khích đầu tư:
Lâu nay, phần lớn DNNVV tập trung đầu tư vào lĩnh vực thương mại và dịch vụ đời sống (chiếm tới 46,2% số doanh nghiệp), còn lĩnh vực công nghiệp thì quá ít. Điều đó thể hiện rõ tâm lý của người dân chưa thật sự tin tưởng vào kinh doanh dài hạn, nhiều rủi ro. Vì vậy, việc khuyến khích đầu tư vào công nghiệp, nhất là phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu rất cần được chú trọng. Công nghiệp chế biến nông sản, lâm sản cần được đầu tư nhiều hơn nữa, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Nghị định 51-CP ngày 8/7/1999 đã đề ra nhiều chính sách khuyến khích đầu tư phát triển doanh nghiệp trong nước, về ngành, nghề, vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn, thế nhưng hiệu lực thi hành nghị định này rất kém thể hiện ở hai mặt: một là, có những ngành (ví dụ thuế) không những không thực hiện đúng qui định trong nghị định 51 lại còn đòi hỏi những điều kiện trái với nghị định; hai là, còn nhiều thủ tục hành chính hạn chế doanh nghiệp dân doanh tiếp cận các chính sách ưu đãi. Vì vậy, rất cần kiểm điểm để đẩy mạnh việc thi hành Nghị định 51, bổ xung những qui định cần thiết.
Đồng thời, rất cần thiết rà soát lại toàn bộ thể chế, chính sách đối với doanh nghiệp, xoá bỏ những trở ngại trong sản xuất kinh doanh, những bất bình đẳng, sửa đổi, bổ xung những qui định mới có tác dụng khuyến khích mạnh hơn nữa, tiến đến một cơ chế chung cho doanh nghiệp dân doanh với doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Việc này cần có thời gian, tiến hành từng bước, trước mắt, cần sớm sửa đổi, bổ xung những cơ chế, chính sách đã rõ là không hợp lý, tiếp tục tạo thuận lợi cho doanh nghiệp (kể cả DNNVV).
2. Chính sách về mặt bằng kinh doanh:
Hiện nay đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động có hiệu quả mong muốn mở rộng sản xuất kinh doanh đều nằm trong tình trạng thiếu đất để làm mặt bằng . Việc xin cấp đất hoặc thuê đất của doanh nghiệp đều bị cảm trở bởi hồ sơ và thủ tục phức tạp tuy nhiên có vài địa phương làm tốt điều này nhưng chỉ là số ít . Trước sức ép tất đất tất vàng có chủ doanh nghiệp thốt lên : Nghỉ đến chuyện xin cấp đất , thuê đất tôi như nhìn thấy trên con đường có những tấm dào cản không thể vượt qua .Làm con đường chỉ cho người ta đích nhưng lại xây dào qua cao thì còn nói chuyện gì nữa .( Báo Doanh nghiệp – Doanh ngày 17/11/2004 “ DNV&N Sáu bước rào cản “ . Đó là do các qui định về quyền sử dụng đất thường không rõ ràng, quyền mua bán, thế chấp chuyển nhượng đất công nghiệp vẫn chưa được thừa nhận. Khó khăn đang còn rất lớn. Một ví dụ: năm 1997 trong cuộc điều tra 452 dự án đầu tư mới, chỉ có 17 dự án thuộc khu vực tư nhân; mặc dù các dự án này đã nộp đơn xin cấp quyền sử dụng đất hoặc thuê đất nhưng chỉ có duy nhất một dự án được thuê đất. Do những khó khăn trong việc xin quyền sử dụng đất, cho nên nhiều DNNVV thường phải dùng ngay nơi ở của mình để làm cơ sở sản xuất, gây ô nhiễm môi trường, cũng do đó thị trường ngầm về đất đai hoạt động khá nhộn nhịp, tuy bị coi là bất hợp pháp, nhưng DNNVV không thể không tiếp cận để có mặt bằng cho sản xuất kinh doanh.
Vì vậy, các thủ tục về quyền chuyển nhượng sử dụng đất cho DNNVV, thủ tục thuê địa điểm lập doanh nghiệp cần được cải tiến, giảm bớt khó khăn về mặt bằng. Để giải quyết địa điểm cho các doanh nghiệp phải di chuyển từ nội thành, nội thị ra ngoại ô nhằm tránh ô nhiễm môi trường, đồng thời cũng để chuẩn bị mặt bằng cho doanh nghiệp mới, thực hiện qui hoạch đô thị hoá, tạo nên bộ mặt mới cho nông thôn, một số địa phương như các thành phố: Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Hà Nội, đã hình thành những khu công nghiệp nhỏ và vừa, hoặc cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cho DNNVV. Khó khăn hiện nay là chi phí di chuyển quá sức chịu đựng của doanh nghiệp, giá thuê đất không phù hợp, chi phí đầu tư vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp cũng còn cao.
Quốc hội khoá X trong kỳ họp thứ 9 ( tháng 5 năm 2001) đă thông qua một số điều sửa đổi luật đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp dân doanh trong việc thuê đất, giải phóng mặt bằng. Tuy vậy vẫn là những sửa đổi chưa thật cơ bản, hy vọng rằng trong những năm tới, sẽ có những đổi mới mạnh mẽ hơn trong lĩnh vực đất đai, giải quyết cơ bản yêu cầu của DNNVV trong lĩnh vực mặt bằng cho sản xuất kinh doanh.
3.C._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0107.doc