Hoàn thiện chính sách lãi suất huy động vốn ở Ngân hàng thương Mại Cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn, một hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Nguồn vốn chính là nền tảng cho sự phát triển của ngân hàng, đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của mỗi ngân hàng. Hoạt động này chính là cơ sở tồn tại và phát triển của ngân hàng. Vì thế, ngân hàng luôn phải quan tâm đến nâng cao chất lượng hoạt động huy động vốn của mình. Chính sách lãi suất huy động vốn là chính sách có tác động rất lớn đến hiệu quả của hoạt động huy

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1490 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện chính sách lãi suất huy động vốn ở Ngân hàng thương Mại Cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động vốn của ngân hàng. Lãi suất huy động ảnh hưởng đến chi phí trả lãi, đây là chi phí chiếm tỷ lệ lớn trong tổng chi phí hoạt động của ngân hàng, nên chính sách lãi suất có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của ngân hàng. Mặt khác, chính sách lãi suất có tính quyết định đối với việc mở rộng nguồn vốn, hay huy động một nguồn vốn mới. Với một chính sách lãi suất phù hợp ngân hàng có thể mở rộng huy động vốn với chi phí tiết kiệm, cũng như mở rộng các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng. Nghiên cứu để có được một chính sách lãi suất huy động vốn phù hợp luôn là mục đích hướng tới của mỗi ngân hàng. Với ý nghĩa thực tế của vấn đề, và sau một thời gian thực tập, tìm hiểu hoạt động tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam, em chọn đề tài sau: “Hoàn thiện chính sách lãi suất huy động vốn ở Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam” để nghiên cứu. Chuyên đề gồm 3 phần: Chương 1. Tổng quan về chính sách lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại. Chương 2. Chính sách lãi suất huy động vốn của Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam. Chương 3. Hoàn thiện chính sách lãi suất huy động vốn ở Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của PGS-TS Phan Thị Thu Hà - Giáo viên hướng dẫn, cùng các cô chú cán bộ tại Hội sở - Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam đã giúp đỡ em hoàn thành bản chuyên đề này. Sinh viên Nguyễn Thị Thu Hương. Chương 1 Tổng quan về chính sách lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại. 1.1.Tổng quan về ngân hàng thương mại. 1.1.1.Sự ra đời và phát triển của ngân hàng thương mại. Sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa đã kéo theo sự hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng, đến lượt mình, hệ thống ngân hàng cũng tác động trở lại thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Có thể khẳng định một nền kinh tế hưng thịnh phải đi liền với một hệ thống ngân hàng vững mạnh, bởi ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Trên toàn thế giới, ngân hàng cung cấp những khoản tín dụng trả góp cho người tiêu dùng với quy mô lớn nhất, là tổ chức cung cấp lượng vốn lưu động quan trọng nhất cho các doanh nghiệp, là thành viên quan trọng nhất trên thị trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành để tài trợ cho các công trình công cộng, và gần đây đã mở rộng cho vay dài hạn đối với doanh nghiệp để hỗ trợ mua sắm máy móc thiết bị mới... Ngân hàng thương mại (dưới đây sẽ viết tắt là: NHTM) ra đời trên cơ sở kinh doanh tiền tệ của những người thợ kim hoàn bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Bằng uy tín và sự giàu có của mình họ nhận cất trữ hộ tiền để thu phí, từ đó nhận thanh toán hộ và thanh toán không dùng tiền mặt cho người gửi tiền. Họ nhận thấy, có nhiều người đang có nhu cầu vốn để kinh doanh trong khi họ đang nắm giữ rất nhiều tiền, nên họ đã dùng chính số tiền này để cho vay lấy lãi, do đó nảy sinh nghiệp vụ cho vay. Lợi nhuận cao thu được từ lãi tiền cho vay đã kích thích họ mở rộng cho vay bằng cách thay vì thu phí của người gửi tiền họ trả lãi cho người gửi tiền để kích thích người gửi tiền nhằm thu hút thêm qui mô tiền gửi. Khi tồn tại nghiệp vụ nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán hộ có thể nói ngân hàng thương mại đã ra đời. Bằng cách cung cấp thêm các tiện ích khác nhau, các dịch vụ khác nhau mà ngân hàng đã huy động được ngày càng nhiều tiền gửi, đây là điều kiện để mở rộng cho vay và giúp ngân hàng tồn tại và phát triển. Cùng với sự phát triển kinh tế, tiến bộ khoa học kỹ thuật, hệ thống ngân hàng đã có nhiều bước tiến quan trọng, thay đổi rất nhanh chóng để kịp đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế và làm động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Từ chỗ đa dạng hóa các loại hình ngân hàng, đa dạng hóa các hoạt động của ngân hàng, các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp làm tăng số lượng cũng như qui mô của ngân hàng dẫn đến tích tụ và tập trung vốn đã tạo ra các ngân hàng cực lớn với số vốn tự có rất lớn. Quá trình phát triển của các ngân hàng đang tạo ra mối liên hệ chặt chẽ, ràng buộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa các ngân hàng. Các hoạt động xuyên quốc gia, đa quốc gia của các ngân hàng thúc đẩy hình thành các hiệp hội , các tổ chức liên kết các ngân hàng nhằm tạo ra các chính sách chung để kết nối và tạo sự thống nhất trong sự vận hành điều hành hệ thống ngân hàng của mỗi quốc gia, khu vực và quốc tế. Ngân hàng thương mại đầu tiên ở Việt Nam là Ngân hàng Đông Dương của Pháp, được thành lập vào giữa thế kỷ XIX để phục vụ cho giới thương gia pháp trên thị trường Việt Nam. Sau đó có thêm các ngân hàng nước ngoài của Trung Quốc, Anh,... nhưng những ngân hàng này chưa đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước mà chỉ phục vụ cho giai cấp thống trị. Đến năm 1945, ngân hàng nhà nước sơ khai được thành lập. Đến năm 1990 Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước ra đời chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp là Ngân hàng Trung ương (dưới đây sẽ được viết tắt là: NHTƯ) và NHTM. Theo luật các tổ chức tín dụng được Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/12/1997 thì: “tổ chức tín dụng là một tổ chức hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cho vay cung ứng các dịch vụ thanh toán chi trả hộ...”. Tóm lại NHTM là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng cụ thể là các hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và thực hiện các dịch vụ chi trả hộ, cung ứng các phương tiện thanh toán cùng các hoạt động kinh doanh khác. Mục tiêu của ngân hàng là tối đa hóa lợi nhuận đồng thời đảm bảo được an toàn cho hoạt động của mình với đối tượng kinh doanh là tiền tệ. 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. NHTM có các hoạt động cơ bản: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn, hoạt động cung cấp các dịch vụ trung gian và các hoạt động khác có liên quan. Hoạt động huy động vốn hay là hoạt động tạo vốn cho NHTM đóng vai trò rất quan trọng và ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động, quy mô hoạt động của ngân hàng. - Trước hết là hoạt động huy động vốn tạo nguồn vốn chủ sở hữu cho ngân hàng, đây là nguồn vốn có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng, bảo đảm an toàn cho hoạt động và thể hiện sức mạnh tài chính của ngân hàng. Sự hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy theo loại hình sở hữu của ngân hàng, năng lực tài chính của ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Nguồn này thông thường gồm: nguồn vốn hình thành ban đầu, nguồn vốn góp bổ sung trong quá trình hoạt động (nguồn từ lợi nhuận, bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm,...), các quỹ của ngân hàng (quỹ bảo toàn vốn, quỹ thặng dư, quỹ dự phòng rủi ro, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi,...), nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần. - Hoạt động huy động tiền gửi là hoạt động quan trọng nhất, tạo tiền đề chính cho các hoạt động của ngân hàng. Hoạt động huy động tiền gửi nhằm thu hút các khoản tiền nhàn rỗi từ dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội. Huy động các nguồn tiền gửi khác nhau trong xã hội là cần thiết và tất yếu cho sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Nguồn tiền gửi luôn chiếm tỷ trọng nhiều nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Và để gia tăng nguồn này với chất lượng cao trong môi trường cạnh tranh, các ngân hàng đã thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau với những tiện ích cho khách hàng ngày càng nhiều. Nguồn tiền này gồm: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các tổ chức kinh tế xã hội, tiền gửi của các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác... - Huy động vốn từ đi vay của ngân hàng thương mại có thể giúp ngân hàng vượt qua khó khăn trong giai đoạn khả năng huy động bị hạn chế. NHTM có thể vay từ NHTƯ, vay từ các tổ chức tín dụng khác, hoặc phát hành các loại giấy nợ trên thị trường vốn. - Ngoài ra, ngân hàng có thể huy động vốn từ các nguồn khác như: nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán,... Hoạt động sử dụng vốn của NHTM bao gồm: hoạt động ngân quỹ, hoạt động cho vay, hoạt động bảo lãnh, hoạt động chiết khấu, hoạt động cho thuê, hoạt động đầu tư,... - Hoạt động ngân quỹ là hoạt động sử dụng vốn cơ bản của ngân hàng, nhằm duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng và đáp ứng nhu cầu rút tiền cũng như thanh toán thường xuyên cho khách hàng. Nguồn đảm bảo hoạt động này là các khoản tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại NHNN (khoản dự trữ bắt buộc do NHNN quy định theo tỷ lệ phần trăm tổng số dư tiền gửi tại ngân hàng bắt buộc phải dự trữ trong thời kỳ nhất định), tiền gửi tại ngân hàng khác, tiền mặt trong quá trình thu. - Hoạt động cho vay là hoạt động thường xuyên và là hướng cơ bản trong hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong thời gian xác định. Có thể phân chia các khoản cho vay theo nhiều tiêu thức khác nhau như phân chia theo thời gian, theo đối tượng cho vay, theo mục đích cho vay,... Ngân hàng có thể thực hiện cho vay theo các phương thức: cho vay thấu chi, cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp. Đây là hoạt động mang lại phần lớn thu nhập từ lãi cho ngân hàng, giúp tăng vốn chủ sở hữu từ đó tăng thế mạnh, uy tín của ngân hàng, giúp ngân hàng có thể phát triển. - Hoạt động chiết khấu thương phiếu là hoạt động mà trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu những thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng thương mại để nhận lấy một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi tức và hoa hồng phí. Đây là hoạt động khá đơn giản, gây ít phiền phức cho ngân hàng, đồng thời cũng là hoạt động gây ít rủi ro và khả năng thu hồi nợ của ngân hàng là chắc chắn. - Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Thực chất đây là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho khách hàng bằng uy tín của mình qua đó khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. Nếu phân theo mục tiêu, hoạt động bảo lãnh bao gồm các loại: bảo lãnh tham gia dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay, bảo lãnh đảm bảo thanh toán, bảo lãnh hoàn trả vốn vay,... - Hoạt động cho thuê tài sản là hoạt động trong đó ngân hàng mua tài sản sau đó cho khách hàng thuê với thời gian sao cho ngân hàng phải thu được đủ hoặc gần đủ giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi. Hết hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó. Hoạt động này giống hoạt động cho vay thông thường ở chỗ ngân hàng phải xuất tiền với kỳ vọng thu về cả gốc và lãi sau thời hạn nhất định; khách hàng phải trả gốc và lãi dưới hình thức tiền thuê hàng kỳ, tuy nhiên tài sản cho thuê vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng. - Hoạt động đầu tư của ngân hàng bao gồm: đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn, chủ yếu là chứng khoán Chính phủ; mua cổ phiếu và trái phiếu của các tổ chức kinh tế khác; ... Ngoài ra NHTM còn thực hiện các hoạt động dịch vụ trung gian như thực hiện thanh toán hộ, mua bán hộ chứng khoán,... Đây là hoạt động ngân hàng thực hiện theo yêu cầu của khách hàng, hoạt động này ngày càng đa dạng phong phú, đem lại thu nhập, đồng thời củng cố thêm uy tín cho ngân hàng. Đối với dịch vụ thanh toán hộ, theo yêu cầu của khách hàng, ngân hàng cung cấp cho khách hàng phương tiện thanh toán như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thư tín dụng. Đối với dịch vụ mua bán hộ chứng khoán: do có uy tín nên ngân hàng có thể bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các công ty cổ phần muốn huy động vốn, tư vấn đầu tư chứng khoán cho khách hàng. Ngoài ra ngân hàng thực hiện các dịch vụ trung gian khác như: kinh doanh mua bán ngoại tệ; dịch vụ ủy thác, đại lý tài sản vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng; dịch vụ quản lý tài sản, cho thuê két sắt, ... 1.1.3. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại. 1.1.3.1. Huy động vốn chủ sở hữu. Ban đầu khi thành lập ngân hàng, vốn chủ sở hữu được hình thành từ các nguồn khác nhau dựa theo hình thức sở hữu của ngân hàng. Nếu là ngân hàng tư nhân thì vốn đó là do cá nhân tự bỏ ra; nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước thì do ngân sách Nhà nước cấp; nếu là ngân hàng cổ phần thì do các cổ đông đóng góp thông qua mua các cổ phần; nếu là ngân hàng liên doanh thì do các bên tham gia liên doanh góp. Vốn chủ sở hữu ban đầu thường phải tuân theo các quy định của các nhà chức trách tiền tệ. Theo đó, quy định rõ số vốn tối thiểu – vốn pháp định mà ngân hàng cần phải tuân thủ khi bắt đầu kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Điều này xuất phát từ an toàn cho hoạt động ngân hàng, nhằm hạn chế rủi ro phá sản của ngân hàng, tạo ra và duy trì niềm tin của công chúng đối với ngân hàng, hạn chế những tổn thất đối với Chính phủ do những yêu cầu về bảo hiểm tiền gửi. Trong quá trình hoạt động, vốn chủ sở hữu của ngân hàng được gia tăng nhờ chủ sở hữu góp thêm hoặc kêu gọi thêm chủ sở hữu; lợi nhuận sau thuế sau khi bù đắp được chi phí thường được giữ lại một phần bổ sung vào vốn chủ sở hữu dưới tên gọi: “lợi nhuận tích lũy lại”; ngân hàng trích lập các quỹ: quỹ dự phòng, quỹ thặng dư, quỹ bảo tồn vốn, các quỹ này làm gia tăng vốn chủ sở hữu; hay ngân hàng phát hành giấy nợ có khả năng chuyển dổi thành cổ phiếu. Mỗi phương thức làm gia tăng vốn chủ sở hữu của ngân hàng đều có mặt lợi thế và mặt khó khăn, nhưng sự gia tăng vốn chủ trong quá trình hoạt động của ngân hàng là điều mà các ngân hàng nhất thiết phải nghĩ đến. Quy mô của vốn chủ sở hữu cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và của những tài sản rủi ro khác của ngân hàng hay nói cách khác vốn chủ sở hữu như “ấm đệm”chống đỡ những thua lỗ của ngân hàng cần phải được củng cố bổ sung tương ứng với quy mô rủi ro của ngân hàng. 1.1.3.2. Hoạt động huy động tiền gửi. Có thể nói, tiền gửi là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Tiền gửi là nguồn tài nguyên quan trọng nhất để ngân hàng thực hiện các hoạt động của mình như: cho vay, đầu tư, bảo lãnh, chiết khấu,... Nó là nguồn tài trợ chủ yếu cho các hoạt động mang lại thu nhập cho ngân hàng, vì thế nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng. Ngân hàng thường cung cấp các loại hình tiền gửi khác nhau cho khách hàng để gia tăng quy mô nguồn vốn trong môi trường cạnh tranh và mong muốn có được nguồn tiền gửi với chất lượng cao. Tiền gửi thanh toán là một trong những loại hình tiền gửi lâu đời nhất mà ngân hàng cung cấp. Đây là tiền của khách hàng gửi vào ngân hàng bằng đồng tiền nội tệ hoặc ngoại tệ để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ khi có nhu cầu. Khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán trong ngân hàng có thể là cá nhân, hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác... Khi sử dụng loại hình tiền gửi này họ có nhu cầu chi trả tiền hàng hóa, dịch vụ thông qua ngân hàng bởi thanh toán qua ngân hàng giúp quá trình thanh toán của họ diễn ra an toàn hơn, nhanh chóng hơn, và tiện dụng hơn. Tiền gửi thanh toán đòi hỏi ngân hàng thanh toán ngay lập tức các lệnh rút tiền cho bên thứ ba được chỉ rõ là người thụ hưởng, vì vậy họ luôn phải giữ mức dự trữ cao cho loại tiền gửi này để sẵn sàng cho nhu cầu thanh toán. Mặt khác do tính không ổn định của loại tiền gửi này mà ngân hàng có khả năng sử dụng chúng rất hạn chế, vì thế ngân hàng trả lãi cho khách hàng trên tài khoản tiền gửi này rất ít thậm chí là bằng không. Tuy nhiên, việc phát triển loại hình tiền gửi này về phía ngân hàng không những góp phần phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, tiết kiệm chi phí cho việc phát hành và lưu thông tiền mặt cho nền kinh tế, mà còn tạo nguồn chi phí rẻ do ngân hàng trả lãi thấp khi sử dụng số dư trên loại tài khoản này để tiến hành kinh doanh. Tiền gửi thanh toán có thể chia thành tiền gửi thanh toán không hưởng lãi và tiền gửi thanh toán được hưởng lãi. - Tiền gửi thanh toán không hưởng lãi là nguồn vốn biến động nhất do ngân hàng gặp khó khăn nhiều nhất trong việc dự báo quy mô tiền gửi có thể sử dụng vào mục đích kinh doanh của mình. Kỳ hạn thực tế của loại tiền gửi này là ngắn nhất vì nó có thể được rút ra bất kỳ lúc nào mà không có sự báo trước. Vì sự rút ra thanh toán mà không báo trước nên số dư của tài khoản này để trong ngân hàng không được hưởng lãi. Tuy nhiên, nó giúp cho mục đích thanh toán của khách hàng được đảm bảo nhanh chóng, an toàn, kịp thời và đây chính là nguyện vọng của khách hàng gửi tiền. - Tiền gửi thanh toán được hưởng lãi là tài khoản tiền gửi có số dư được hưởng lãi theo thỏa thuận giữa khách hàng với ngân hàng và tùy thuộc vào chính sách lãi suất của ngân hàng.Tiền gửi thanh toán được hưởng lãi đã xuất hiện dưới hình thức tài khoản NOW- tài khoản lệnh rút tiền có thể thương lượng. Với tài khoản giao dịch được hưởng lãi cho phép ngân hàng được đòi hỏi khách hàng phải thông báo trước về việc rút tiền. Nhưng những thao tác rút tiền bất ngờ như tài khỏan NOW, với những khoản tiền lớn dễ đẩy ngân hàng đến khó thanh toán và khủng hoảng.Vì vậy sự tồn tại của tài khoản tiền gửi thanh toán không hưởng lãi vẫn tỏ ra vô cùng cần thiết cho những giao dịch lớn, tránh sự bị động cho ngành ngân hàng. Tiền gửi có kỳ hạn là một hình thức huy động của ngân hàng dựa trên sự đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền. Thực chất đây là loại hình tiết kiệm thông thường có kỳ hạn. Người sử dụng loại hình tiền gửi này không được sử dụng các hình thức thanh toán áp dụng đối với tiền gửi thanh toán. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Khi khách hàng đến gửi tiền vào ngân hàng theo tài khoản tiền gửi có kỳ hạn thì điều ngân hàng cần biết trước tiên là khách hàng gửi vào thời gian bao lâu. Thông thường định kỳ có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1năm hoặc hơn nữa. Tài khoản tiền gửi loại này sẽ có kỳ hạn tối thiểu theo thỏa thuận của ngân hàng và khách hàng, khách hàng không được rút trước hạn đã định khi thỏa thuận. Nếu có nhu cầu phải rút trước thì ngân hàng có một trong các cách xử lý là: từ chối không cho khách hàng rút, yêu cầu khách hàng phải thông báo trước một thời gian đã thống nhất, hoặc khách hàng sẽ phải chịu lãi suất phạt vì đã làm ảnh hưởng đến kế hoạch của ngân hàng. Căn cứ vào hình thức trả lãi, loại tiền gửi này có thể chia thành những loại sau: + Loại trả lãi sau: là hình thức tiết kiệm trả lãi khi hết hạn. Nếu đến hạn người gửi tiền không đến lấy, thì tiền lãi được nhập vào vốn và coi như người gửi tiền đã gửi kỳ hạn tiếp theo. + Loại trả lãi trước: là hình thức tiết kiệm trả lãi ngay khi khách hàng gửi tiền. Khi đến hạn, khách hàng sẽ được lĩnh phần gốc đúng như số tiền ghi trên thẻ tiết kiệm. Nếu khách hàng không rút gốc trước hạn thì sẽ giải quyết theo quy định hiện hành của ngân hàng. + Loại trả lãi theo định kỳ: là hình thức trả lãi theo từng kỳ hạn khách hàng đăng ký với ngân hàng. Kể từ ngày đến kỳ tính lãi, khách hàng có thể rút phần lãi của kỳ đã đăng kí vào bất cứ ngày làm việc nào của ngân hàng. Nếu khách hàng không lĩnh lãi theo kỳ hạn đã đăng kí thì ngân hàng chỉ thực hiện sao kê tính lãi. Hết kì tính lãi cuối cùng, số lãi còn lại chưa lĩnh của các kì tính lãi trong kì hạn tiền gửi sẽ được nhập vào gốc. + Loại trả lãi theo thời gian gửi thực: là hình thức trả lãi theo khoảng thời gian mà số tiền gửi của khách hàng tồn tại thực sự trong ngân hàng. Căn cứ theo thời gian gửi tiền, loại tiền gửi này có thể chia thành: + Tiền gửi kỳ hạn loại ngắn hạn: là loại tiền gửi có kỳ hạn được phân chia theo thời gian gửi tiền, thường có thời gian rất ngắn từ 1 ngày đến vài tuần, tối đa là 3 tháng. Đây là hình thức huy động để ngân hàng giải quyết những nhu cầu cấp bách về tiền mặt trong ngắn hạn. Vì vậy các ngân hàng chỉ phát hành phiếu nợ với thời gian ngắn để huy động tiền gửi của nhân dân như chứng chi tiền gửi có kỳ hạn, trái phiếu đô la – euro,... + Tiền gửi có kỳ hạn loại trung hạn: thường có thời gian đáo hạn từ 6 tháng, 9 tháng, đến 12 tháng. Loại tiền gửi này thường là tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế xã hội, đó là các tài khoản khấu hao, quỹ khen thưởng, phúc lợi, lợi nhuận, thu nhập doanh nghiệp chưa chi, các quỹ dự phòng chưa phải sử dụng. Mặt khác, các cá nhân gửi tiền vào loại tài khoản này có số tiền nhàn rỗi khá lâu, không có nhu cầu rút ngay. + Tiền gửi có kỳ hạn loại dài hạn: thường có thời gian đáo hạn dài hơn, từ 1 năm đến 10 năm. Thông thường ngân hàng phát hành những trái phiếu tiết kiệm, trái phiếu euro – đô la loại lớn, các chứng chỉ có giá trị cao. Tiền gửi tiết kiệm là tài khoản tiền gửi được lập ra để thu hút vốn của những khách hàng muốn dành riêng một khoản tiền cho những mục tiêu hay cho một nhu cầu về tài chính được dự tính cho tương lai. Loại tiết kiệm này nhằm thu hút số tiền nhàn rỗi trong thời hạn dài và chỉ được rút khi đến hạn. Ngân hàng trả lãi cho khoản tiền gửi tiết kiệm cao nhưng đổi lại chi phí duy trì và quản lý đối với tài khoản tiền gửi này nói chung thấp. Khách hàng gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng với mục đích là an toàn và sinh lời. Khi gửi tiền vào ngân hàng, khách hàng sẽ được ngân hàng cấp sổ hoặc thẻ tiết kiệm, khách hàng không được sử dụng tiền trong tài khoản để thanh toán. Tuy nhiên ngân hàng vẫn cho phép khách hàng sử dụng sổ tiết kiệm như tài sản đảm bảo để vay vốn tại ngân hàng. Khoản tiền gửi này có kỳ hạn dài và là nguồn tương đối ổn định đối với ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng thường cạnh tranh nhau thu hút nguồn tiền gửi này để nâng cao chất lượng nguồn vốn của mình. 1.1.3.3. Hoạt động đi vay vốn. Nhiều ngân hàng trong những giai đoạn cụ thể, lâm vào tình trạng không đáp ứng được nhu cầu chi trả khi khả năng huy động các nguồn tiền gửi bị hạn chế. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ NHTM thường vay NHTƯ. Hình thức cho vay chủ yếu của NHTƯ là tái chiết khấu. Các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu trở thành tài sản của họ, khi cần tiền, các NHTM mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại NHTƯ. Hoạt động này đã làm cho thương phiếu của NHTM giảm đi, dự trữ của ngân hàng lại tăng lên đủ đáp ứng dự trữ bắt buộc hay dự trữ thanh toán. Hoặc NHTƯ cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. Khi tiền trở lên khan hiếm, nhiều NHTM cùng muốn vay thì khả năng đáp ứng các nhu cầu vốn này của NHTƯ bị hạn chế. Việc cho vay của NHTƯ phụ thuộc vào chính sách tiền tệ mà nó theo đuổi trong từng thời kỳ. NHTM có thể thực hiện vay mượn lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng thông qua thị trường liên ngân hàng. Những ngân hàng có dự trữ vượt nhu cầu, hoặc có nguồn vốn dư thừa so với nhu cầu cho vay sẽ sẵn lòng cho ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Khoản vay có thể không cần phải đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng chứng khoán kho bạc. Các khoản vay này tuy lãi suất thấp song thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời cho ngân hàng. Khi các ngân hàng đang thiếu phương tiện thanh toán thì việc vay mượn các ngân hàng trên cùng địa bàn sẽ gặp khó khăn. Cách khác, NHTM cũng có thể vay mượn trên thị trường vốn bằng cách phát hành các giấy nợ: kỳ phiếu, trái phiếu,... Kỳ phiếu là một phiếu nợ ngắn hạn, ngân hàng phát hành kỳ phiếu có mục đích nhằm huy động vốn trong dân cư một cách linh hoạt, nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư cho sản xuất kinh doanh, dự án kinh tế hoặc cho hoạt động của NHTM. Kỳ phiếu gồm các loại mệnh giá khác nhau và có thể chuyển nhượng được. Còn trái phiếu ngân hàng là công cụ nợ trung và dài hạn, mệnh giá trái phiếu là số tiền ghi trên trái phiếu để cam kết trả cho người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu có thể được phát hành bằng đồng nội tệ hoặc đồng ngoại tệ mạnh, với những kỳ hạn khác nhau, có thể chuyển nhượng, cầm cố thế chấp hoặc có thể được ngân hàng mua lại theo thể thức chiết khấu. Đây là hình thức mà ngân hàng có thể chủ động huy động được lượng vốn mong muốn trong thời gian ngắn. Các loại kỳ phiếu trái phiếu làm đa dạng hơn cho sản phẩm huy động vốn của ngân hàng và tạo ra nhiều lựa chọn cho khách hàng. Nguồn huy động vốn từ phát hành các giấy nợ có tính ổn định cao hơn tiền gửi tiết kiệm. Những ngân hàng có uy tín lớn hoặc trả lãi suất cao sẽ huy động được nhiều hơn các ngân hàng không có uy tín hoặc trả lãi thấp hơn. Đặc biệt là các ngân hàng có quy mô nhỏ, thường gặp khó khăn trong vay mượn bằng cách này, họ thường phải vay qua ngân hàng đại lý hoặc có sự bảo lãnh của Ngân hàng đầu tư. 1.1.3.4. Huy động vốn từ các nguồn khác. NHTM thực hiện các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác giải ngân, thu hộ,...các hoạt động này tạo nên nguồn ủy thác tại ngân hàng, làm gia tăng nguồn vốn ở ngân hàng. Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành các nguồn trong thanh toán. Nhìn chung việc huy động từ các nguồn khác này thường mang lại nguồn vốn không lớn trừ một số ngân hàng có các dịch vụ ủy thác cho Nhà nước hoặc cho các tổ chức quốc tế,... 1.2. Chính sách lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại. 1.2.1. Lãi suất huy động vốn của ngân hàng. Theo quan điểm của K.Marx: “Lãi suất là phần giá trị thặng dư được tạo ra do kết quả bóc lột lao động làm thuê bị tư bản – chủ ngân hàng chiếm đoạt”. Theo ông, lãi suất là một bộ phận của lợi nhuận. Như vậy, lãi suất nhìn chung sẽ thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân. Hạn chế của quan điểm này là chỉ đề cập đến lãi suất trong quan hệ cho vay và đi vay của các mối quan hệ tài chính ở thời kỳ đó. Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, đại diện là J.M.Keynes cho rằng: “Lãi suất là khoản thù lao cho số tiền vay, nó là phần thưởng cho sở thích chi tiêu hay sở thích thanh khoản”; “Lãi suất do đó còn được gọi là sự trả công cho sự chia lìa với của cải, tiền tệ.”. Như vậy theo quan điểm này lãi suất chính là chi phí cơ hội của việc giữ tiền, là kết quả của hoạt động tiền tệ. Đây có thể nói là một bước tiến mới trong việc xác định các hình thức biểu hiện và những nhân tố tác động lãi suất. Tóm lại, có thể hiểu lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng vốn vay trả cho người sở hữu. Đối với NHTM, là trung gian tài chính cung cấp các dich vụ tài chính cho nền kinh tế như huy động tiền gửi, cho vay, bảo lãnh, thanh toán hộ,...Ngân hàng đã thực hiện kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ thông qua giá: giá đó chính là lãi suất và các khoản phí khác. Ngân hàng phải trả giá cho khách hàng về phần lớn nguồn tiền mà ngân hàng huy động được, đó là chi phí của ngân hàng. Mặt khác khách hàng cũng phải trả giá cho việc sử dụng các sản phẩm mà ngân hàng cung cấp, từ đó cấu thành nên doanh thu của ngân hàng. Lãi suất ngân hàng gồm lãi suất huy động vốn (lãi suất đầu vào) và lãi suất cho vay (lãi suất đầu ra): Lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại là lượng giá trị mà ngân hàng phải trả cho người sở hữu số vốn mà ngân hàng đã huy động được thông qua huy động tiền gửi, vay mượn trên thị trương liên ngân hàng, vay khác... Lãi suất huy động thay đổi thường xuyên dưới ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: tỷ lệ lạm phát, khả năng tiết kiệm và gia tăng tiết kiệm của quốc gia, nhu cầu đầu tư của xã hội, tỷ lệ sinh lời của hoạt động đầu tư khác, sự phát triển của thị trường tài chính, khả năng sinh lời của ngân hàng, độ an toàn của ngân hàng... Lãi suất huy động tại mỗi ngân hàng được phân biệt theo các hình thức huy động khác nhau, theo các tiêu thức: loại tiền huy động, thời gian huy động, mục đích huy động, mức rủi ro của ngân hàng, các dịch vụ đi kèm, và quy mô vốn huy động. Lãi suất tiền gửi là tỷ lệ giữa số tiền lãi so với số tiền gốc mà NHTM phải trả cho các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng. Lãi suất tiền gửi là lãi suất danh nghĩa mà ngân hàng công bố. Hiện nay các ngân hàng đang đối mặt với sự cạnh tranh thu hút khách hàng của các đối thủ ngày càng đông trên thị trường. Một mặt ngân hàng phải trả một mức lãi suất đủ lớn để thu hút, duy trì sự ổn định trong lượng tiền gửi của khách hàng. Mặt khác, ngân hàng lại phải cố gắng hạn chế trả lãi quá cao để tránh làm giảm mức lợi nhuận của ngân hàng. Đối với mỗi loại hình tiền gửi ngân hàng có mức lãi suất riêng phụ thuộc vào quy mô và chất lượng nguồn vốn sẽ huy động được từ loại hình tiền gửi này và phụ thuộc vào chính sách lãi suất huy động của mỗi ngân hàng. Lãi suất huy động được phân biệt theo các loại hình tiền gửi khác nhau. + Đối với tiền gửi thanh toán được ngân hàng trả lãi thì lãi suất áp dụng cho loại hình này thấp hơn lãi suất áp dụng cho loại hình tiền gửi có kỳ hạn. Lý do là vì, khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với mục đích chủ yếu là sử dụng dịch vụ thanh toán của ngân hàng, vì vậy lãi suất không phải là vấn đề hấp dẫn nhất đối với họ mà vấn đề ở đây là họ cần chất lượng dịch vụ thanh toán tốt của ngân hàng. Thêm nữa, những khoản tiền gửi này có tính ổn định không cao bởi ngân hàng có thể bất cứ lúc nào phải thực hiện thanh toán với khối lượng tiền lớn, làm ngân hàng không chủ động trong việc sử dụng nguồn này. + Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm là những nguồn tiền khách hàng gửi vào ngân hàng với mục đích không phải để thanh toán thường xuyên mà chủ yếu để hưởng lãi. Vì vậy, lãi suất là điều họ rất quan tâm và bộ phận tiền gửi này rất nhạy cảm với lãi suất. Đây là những nguồn tiền thường có tính ổn định cao trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng thường trả lãi suất cho những nguồn vốn này cao hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn để cạnh tranh trong huy động nguồn vốn có chất lượng tốt cho hoạt động kinh doanh của mình. Hình thức áp dụng tiền gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng là rất đa dạng, có loại có kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, thậm chí lâu hơn. Tiền gửi có kỳ hạn với thời gian càng dài lãi suất càng cao bởi ngân hàng hoàn toàn có thể dùng tiền gửi này đem đầu tư vào những dịch vụ hoặc sản xuất có tính lâu dài hơn, với lợi tức ổn định hơn. Hiện nay để thu hút khách hàng gửi tiền các ngân hàng đã sử dụng lãi suất rất linh hoạt là chia nhỏ lãi suất theo nhiều thời hạn khác nhau. Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn c._.ó thể tính theo phương pháp lãi suất đơn hoặc lãi suất kép và lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi. Ngoài ra, khi huy động mà chưa đủ vốn thì ngân hàng còn đi vay từ các tổ chức tín dụng khác. Việc vay mượn này được thực hiện thông qua thị trường liên ngân hàng. Ta xem xét lãi suất vay trên thị trường liên ngân hàng: Thị trường liên ngân hàng là thị trường mà các ngân hàng thương mại thực hiện việc vay và cho vay lẫn nhau sau khi họ đã tự cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn tại ngân hàng mình. Lãi suất huy động, hay cho vay liên ngân hàng là lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, nó là mức lãi suất chỉ dẫn khá chính xác về chi phí vốn vay của các ngân hàng thương mại và cung cầu vốn trên thị trường; Điển hình là lãi suất cho vay liên ngân hàng London (LIBOR). Về thực chất, đối với ngân hàng, đó là lãi suất tiền vay qua phương thức huy động tiền gửi; còn đối với khách hàng thì đó là lãi suất tiền gửi. LIBOR được xác định hàng ngày giữa một nhóm 5 ngân hàng ở London có hoạt động kinh doanh hàng đầu về hối đoái, gồm National Westeminster Bank (Anh), Chi nhánh ngân hàng Morgan (Mỹ), Chi nhánh ngân hàng Banque National de Paris (Pháp), Chi nhánh ngân hàng Detsche Bank (CHLB Đức), và Chi nhánh ngân hàng Bank of Tokyo Misubishi (Nhật). LIBOR áp dụng các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ tự do, tức là ngoại tệ không thuộc quản lý của nhà nước hữu quan, thường được gọi là: “ngoại tệ Châu Âu”, như Euro USD, Euro GBP, Euro JPY, ...Các khoản vay lớn và có tính quốc tế thường áp dụng LIBOR, trừ khi có thỏa thuận riêng vì rằng London là trung tâm tài chính truyền thống lớn nhất thế giới và những ngân hàng thuộc nhóm đề ra LIBOR là những ngân hàng có nhiều hoạt động và kinh nghiệm trên thị trường vốn quốc tế. Ngày nay, Singapore đã trở thành một trung tâm tài chính tầm cỡ ở Đông Á và SIBOR là lãi suất cho vay liên ngân hàng Singapore cũng đã được nhiều ngân hàng sử dụng trong nhiều quan hệ tín dụng lẫn nhau. Trước đây, Việt Nam thường chỉ sử dụng LIBOR trong quan hệ vay mượn với các ngân hàng nước ngoài, còn bây giờ việc sử dụng LIBOR hay SIBOR là do thỏa thuận của hai bên cho vay và đi vay, thông thường đó là sự đề xuất của bên cho vay. Khi phát hành kỳ phiếu hay trái phiếu, ngân hàng nhằm thu hút một khoản vốn nhất định, và nguồn vốn thu hút được từ việc phát hành kì phiếu, trái phiếu có tính ổn định cao hơn so với tiền gửi tiết kiệm. Do đó lãi suất ngân hàng trả cho kì phiếu, trái phiếu cũng thường cao hơn, làm gia tăng chi phí của ngân hàng. Khi NHTM đi vay NHNN, lãi suất cho vay sẽ do NHNN công bố, lãi suất này phụ thuộc vào cơ chế điều hành lãi suất chủ đạo của NHNN trong từng giai đoạn kinh tế. Lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại: là tỷ lệ giữa số tiền lãi mà khách hàng phải trả cho ngân hàng với số tiền gốc mà khách hàng vay được từ ngân hàng. Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động của ngân hàng là một chỉ tiêu phản ánh mức sinh lời từ lãi của ngân hàng. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng cần xem xét khi định giá khoản cho vay của ngân hàng đối với khách hàng như: lãi suất tiền gửi của ngân hàng, chi phí quản lý, chi phí điều hành cho khoản vay, quy mô lượng tiền cho vay, loại tiền vay, rủi ro của khoản vay, rủi ro lãi suất của khoản vay,...Và nguyên tắc là xác định lãi suất cho vay dựa theo quan hệ cung cầu. Lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn, vì vậy, ngân hàng thường cố gắng thu hút lượng vốn có kỳ hạn dài để làm nguồn cho vay đối với các dự án có thời gian dài. Hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Ngày nay, sự cạnh tranh trên thị trường cho vay ngày càng gay gắt, các ngân hàng phải cố gắng duy trì các khoản tín dụng của mình với mức giá hợp lý, phù hợp mức giá chung trên thị trường tài chính. Sự cạnh tranh cũng đã làm giảm khả năng sinh lời của các ngân hàng từ chênh lệch lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. 1.2.2. Sự cần thiết của chính sách. Chính sách lãi suất huy động vốn của mỗi ngân hàng là việc ra quyết định của các nhà lãnh đạo ngân hàng về các mức lãi suất cho các hình thức huy động vốn của mình. Việc ra quyết định này được dựa trên sự tính toán phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến loại lãi suất này. Để tạo nhiều vốn đáp ứng nhu cầu sử dụng của mình, các ngân hàng phải có chính sách lãi suất hợp lý. Một chính sách lãi suất hợp lý là đưa ra được các mức lãi suất vừa đảm bảo kích thích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, vừa đảm bảo cho việc tính toán đưa ra mức lãi suất đầu ra cạnh tranh, để tránh tình trạng huy động với giá cao mà đầu tư với giá thấp. Sự cần thiết của chính sách lãi suất được thể hiện qua các điểm sau: Thứ nhất, giúp ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động của mình. Chi phí huy động vốn của ngân hàng bao gồm tất cả các khoản chi mà ngân hàng phải bỏ ra để có được nguồn tiền, nó bao gồm tiền lãi và các chi phí có liên quan đến huy động như chi phí thuê quầy tiết kiệm, lương của cán bộ ngân hàng, chi phí sổ sách, chi phí phát hành đối với các công cụ nợ như kì phiếu, trái phiếu, chi phí marketing...Trong đó, chi phí trả lãi cho khách hàng luôn chiếm phần lớn. Như vậy chính sách lãi suất huy động quyết định chi phí trả lãi của ngân hàng từ đó ảnh hưởng đến chi phí hoạt động của ngân hàng, ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Mặt khác, nguồn huy động được ngân hàng đem đi cho vay lấy lãi, như vậy vốn huy động cũng chính là nguồn gốc sinh ra lợi nhuận cho ngân hàng. Ngân hàng phải tìm cách đặt lãi suất huy động của mình ở một mức hợp lý để một mặt thu hút được lượng lớn nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, mặt khác tiết kiệm chi phí cho ngân hàng; nâng cao lợi nhuận của mình. Thứ hai, giúp ngân hàng diều tiết lượng vốn phù hợp mục đích sử dụng của mình. Trong mỗi giai đoạn phát triển của từng ngân hàng, nguồn vốn được sử dụng theo các chiến lược khác nhau để phục vụ cho chiến lược kinh doanh mang lại lợi ích cao nhất cho ngân hàng. Ví dụ: Trong giai đoạn ngân hàng đang thiếu vốn trung và dài hạn để cho vay các dự án kinh tế, sau khi cân đối giữa chi phí và thu nhập của mình ngân hàng có thể gia quyết định tăng lãi suất huy động đối với tiền gửi tiết kiệm kì hạn dài, hoặc phát hành trái phiếu với lãi suất hấp dẫn. Điều này sẽ thu hút những người có tiền nhàn rỗi, hoặc những người gửi tiền ở nơi có lãi suất thấp hơn chuyển tiền vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi suất cao hơn. Vấn đề là huy động với mức lãi suất cao hơn là bao nhiêu để có được số vốn ngân hàng dự định thu hút? Điều này đòi hỏi ngân hàng nghiên cứu và đưa ra được chính sách lãi suất huy động hợp lý. Thứ ba, giúp ngân hàng ổn định được vốn kinh doanh của mình. Để mở rộng và phát triển kinh doanh, ngân hàng phải có chiến lược đảm bảo sự gia tăng và sự ổn định của các nguồn tiền một cách thường xuyên. Một trong những tiêu chí để đánh giá tính hiệu quả trong quản lý ngân hàng là khả năng huy động vốn với mức lãi suất hợp lý cũng như khả năng đáp ứng các yêu cầu xin vay. Hiện nay, trong tình trạng cạnh tranh gay gắt của một số lượng lớn các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác, thì chi phí để huy động tiền gửi lẫn quy mô huy động tiền gửi mà một ngân hàng có thể huy động đều phụ thuộc vào chính sách định giá và chính sách Marketing của ngân hàng. Nếu chính sách định giá và chính sách Marketing của ngân hàng mà không theo kịp các đối thủ cạnh tranh sẽ phải chịu tổn thất về thu nhập cũng như về cơ sở khách hàng. Ví dụ như lãi suất cảu ngân hàng thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh đồng thời không có chiến lược giữ khách hàng tốt thì khách hàng sẽ dần rút vốn của mình sang gửi tại ngân hàng khác. Chính vì những lý do nêu trên, ta thấy một ngân hàng muốn giải quyết tốt khâu nguồn vốn, cần phải có một chính sách lãi suất huy động hợp lý, từ đó giúp tăng hiệu quả hoạt động huy động vốn, kiểm soát được chi phí của ngân hàng, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. 1.2.3. Mục tiêu của chính sách. Mục tiêu của chính sách lãi suất huy động vốn là đưa ra được các mức lãi suất cá biệt ứng với các hình thức huy động trong từng thời kỳ của ngân hàng, giúp tăng hiệu quả của hoạt động huy động vốn. Các nhà quản lý ngân hàng phải đưa ra mức lãi suất danh nghĩa phù hợp với xu hướng lãi suất chung của thị trường, phù hợp với tình hình mỗi ngân hàng. Tính hiệu quả của hoạt động huy động vốn thể hiện ở: quy mô, cơ cấu nguồn vốn đáp ứng được các yêu cầu xin vay; sự ổn định của nguồn vốn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng được an toàn; chi phí huy động vốn được tiết kiệm đảm bảo mức lợi tức yêu cầu cho chủ ngân hàng. Để đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn ta có thể sử dụng các chỉ tiêu: Chỉ tiêu 1: Vốn huy động / Vốn tự có của ngân hàng Đây là chỉ số giúp xác định khả năng thu hút vốn của một đồng vốn tự có của ngân hàng, nhìn vào chỉ số này, nhà quản trị có thể biết được quy mô huy động của ngân hàng mình trong một thời gian nhất định. Chỉ tiêu 2: Số dư từng loại vốn huy động *100% Tỷ trọng từng loại nguồn vốn = Tổng số vốn huy động Chỉ số này giúp nhà quản trị ngân hàng xác định kết cấu của nguồn vốn huy động để thấy được nguồn nào chiếm tỷ trọng cao và nguồn nào chiếm tỷ trọng thấp, từ đó thấy được cơ cấu nguồn đã phù hợp với kết cấu tài sản hay chưa, có đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng hay không. Mặt khác tỷ số này còn cho phép xác định lãi suất bình quân đầu vào của ngân hàng. Với một biểu lãi suất như nhau, nhưng cơ cấu nguồn huy động lại khác nhau dẫn đến lãi suất bình quân của các ngân hàng là khác nhau. Từ đó cũng cho ta thấy, muốn giảm chi phí đầu vào không nhất thiết phải giảm lãi suất huy động của các nguồn mà chỉ cần điều chỉnh cơ cấu nguồn cho hợp lý. 1.2.4. Nội dung chính sách. Huy động tiền gửi của các chủ thể trong nền kinh tế là kênh mà các ngân hàng luôn tập trung khai thác triệt để, bởi đây là nguồn lực dồi dào cho các NHTM nếu biết tận dụng năng lực, uy tín của mình để thu hút. Bên nguồn vốn trong bảng cân đối tài sản của các NHTM, khoản mục tiền gửi là khoản mục có số lượng chiếm tỷ trọng lớn, là khoản được sử dụng để đầu tư chủ yếu cho hoạt động kinh doanh và để mở rộng cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mặt khác sự biến động của khoản mục này cũng chịu tác động rất lớn của chính sách lãi suất huy động vốn của ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng thường tập trung chủ động nâng cao việc huy động tiền gửi của các chủ thể trong nền kinh tế, và nghiên cứu chính sách lãi suất huy động chủ yếu đưa ra bảng biểu lãi suất đối với huy động tiền gửi. 1.2.4.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách. * Cơ sở hình thành lãi suất huy động: Giống như giá cả được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu hàng hóa, lãi suất cũng được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Lãi suất cân bằng là điểm tại đó cung vốn trên thị trường thỏa mãn vừa đủ cầu vốn trong một thời kỳ nhất định. Bất kỳ một sự thay đổi nào của lượng cung và lượng cầu vốn sẽ dẫn tới sự thay đổi lãi suất. Lượng cung vốn là lượng vốn dùng để cho vay kiếm lời của các chủ thể khác nhau trong xã hội, tương ứng với nhiều mức lãi suất khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định với giả thiết các yếu tố khác tác động đến cung không thay đổi. Lãi suất S Cung vốn Đường cung Lượng cung vốn bao gồm các nguồn: tiền gửi tiết kiệm của dân cư; nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp như quỹ khấu hao cơ bản, lợi nhuận chưa chia, quỹ khác chưa sử dụng; khỏan chưa sử dụng đến của ngân sách nhà nước; nguồn vốn của chủ thể nước ngoài,... Bất cứ các yếu tố nào trên đây thay đổi sẽ làm cho lượng cung vốn thay đổi. Độ dốc của đường cung vốn thể hiện sự nhạy cảm của lượng cung với lãi suất, nghĩa là đường này càng dốc thì lượng cung càng nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất. Khi lãi suất tăng, độ dốc càng lớn, thì lượng cung vốn tăng càng lớn. Lượng cầu vốn là nhu cầu về một lượng vốn của ngân hàng cần thiết phải huy động thêm cho hoạt động kinh doanh của mình. Nhu cầu này xuất phát từ nhu cầu đầu tư của nền kinh tế, nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp các cá nhân và một số chủ thể khác có nhu cầu sử dụng vốn mà phải đi vay ở ngân hàng. lãi suất D lượng cầu Đường cầu Đường cầu về vốn theo lãi suất là một đường dốc xuống thể hiện quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lãi suất và lượng cầu về vốn. Độ dốc của đường cầu thể hiện sự nhạy cảm của lượng cầu với sự thay đổi của lãi suât. Khi lãi suất tăng, độ dốc của đường cầu lớn thì lượng cầu giảm càng nhiều. Điểm cắt nhau giữa đường cung và cầu vốn huy động của ngân hàng chính là điểm tại đó lãi suất cân bằng. lãi suất S lãi suất cân bằng D Lượng vốn Những yếu tố làm dịch chuyển đường cung vốn và cầu vốn dẫn đến làm thay đổi lãi suất cân bằng. Ta có thể xem xét các yếu tố làm dịch chuyển đường cung vốn và đường cầu vốn như sau: Các yếu tố làm dịch chuyển đường cung vốn: Thứ nhất là thu nhập bình quân và tài sản quốc gia. Trong nền kinh tế tăng trưởng, thu nhập bình quân và tài sản của quốc gia tăng lên, từ đó làm gia tăng khả năng tiết kiệm và gia tăng tiết kiệm cho quốc gia. Lượng cung vốn tăng lên, đường cung vốn dịch chuyển sang phải, làm lãi suất cân bằng giảm xuống. Thực vậy, nếu nhu cầu tiết kiệm của người dân tăng lên, ngân hàng có thể thực hiện giảm nhẹ lãi suất huy động mà vẫn thu hút được lượng vốn lớn. Thứ hai, là tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế. Khi mức lạm phát được dự tính là sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, đường cung vốn dịch chuyển sang trái, lãi suất sẽ có xu hướng tăng lên. Có thể nói lạm phát là kẻ thù của lãi suất; lạm phát sẽ làm cho lãi suất của các loại tài sản mà ngân hàng và người dân có được bằng không thậm chí là âm. Thông thường, lãi suất được công bố trên báo chí, trên các phương tiện thông tin đại chúng khác hoặc công bố tại các ngân hàng là lãi suất danh nghĩa. Loại này đơn thuần chỉ đưa ra số tiền sẽ thu được với giá trị danh nghĩa từ mỗi 100 đơn vị tiền đem đầu tư trong khoảng thời gian nhất định của thông báo. Còn lãi suất thực mà người đầu tư nhận được từ hoạt động đầu tư đưa ra giá trị thực mà nhà đầu tư nhận được. Lãi suất thực được tính bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát trong cùng thời gian của hoạt động đầu tư. Vì thế, trong cùng một đơn vị thời gian, nếu tỷ lệ lãi suất (nói đến lãi suất danh nghĩa) bằng tỷ lệ lạm phát thì lãi suất thực bằng không; nếu tỷ lệ lãi suất nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát thì lãi suất thực âm; nếu tỷ lệ lãi suất lớn hơn tỷ lệ lạm phát thì lãi suất thực dương. Lãi suất càng lớn hơn lạm phát, lợi nhuận thực thu được càng lớn, vì vậy mỗi chủ thể khi thực hiện đầu tư thì họ luôn quan tâm đến tỷ lệ lạm phát để đảm bảo rằng lãi suất đầu tư phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát. Khi công chúng dự đoán lạm phát tăng, họ sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hóa hoặc những dạng thức tài sản phi tài chính khác như vàng, ngoại tệ mạnh... điều này làm giảm cung vốn và gây áp lực tăng lãi suất của các ngân hàng cũng như trên thị trường. Thứ ba, là tình hình thu chi củ Ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước là nguồn cung tiền gửi đối với ngân hàng, do đó sự thay đổi giữa thu chi ngân sách nhà nước là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến sự dịch chuyển đường cung vốn , từ đó làm thay đổi lãi suất huy động của ngân hàng. Khi ngân sách bội chi, để bù đắp, Chính phủ sẽ vay dân bằng cách phát hành trái phiếu, lượng tiền trong dân chúng sẽ bị thu hẹp, tác động này làm đường cung vốn dịch chuyển vể bên trái, làm lãi suất có xu hướng tăng lên. Thứ tư, là do sự đa dạng hóa của các công cụ nợ trong nền kinh tế. Khi lợi tức dự tính của các công cụ nợ khác trên thị trường cao hơn so với lãi suất huy động của ngân hàng, người dân sẽ bị thu hút bởi các công cụ nợ đó, làm giảm nguồn cung vốn tiền gửi của ngân hàng, từ đó làm cho ngân hàng có xu hướng phải gia tăng lãi suất huy động để cạnh tranh thu hút vốn. Các yếu tố làm dịch chuyển đường cầu vốn. Thứ nhất, là tình hình kinh tế. Lãi suất rất nhạy cảm với những biến động của tình hình kinh tế. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, nhu cầu đầu tư giảm mạnh, lợi tức dự tính của các cơ hội đầu tư rất thấp dẫn đến cầu vốn cho vay giảm, đường cầu dịch chuyển sang trái làm lãi suất có xu hướng giảm. Từ cuối những năm 2000 nền kinh tế Mỹ rơi vào tình trạng suy thoái, các nền kinh tế khác trên thế giới như Tây Âu, Nhật Bản,... cũng rơi vào tình trạng trì trệ. Để cứu vãn xu thế đó, Cục dự trữ liên bang Mỹ FED đã 11 lần hạ lãi suất chủ đạo của mình xuống 6,5%/năm lần lượt xuống còn 1,75%/tháng thấp nhất trong vòng hơn 30 năm qua trong lịch sử kinh tế Mỹ. Tương tự như vậy, Ngân hàng trung ương Nhật Bản cũng hạ lãi suất của mình xuống còn 0. Ngân hàng trung ương Châu Âu cũng hạ thấp lãi suất của mình nhiều lần. Tác động dây chuyền của lãi suất trên các thị trường chủ chốt của thế giới: Thị trường liên ngân hàng London, Thị trường liên ngân hàng Xing-ga-por, ...cũng liên tục giảm. Ở Việt Nam, trong thời gian ấy, Ngân hàng Nhà nước đã liên tục cắt giảm lãi suất cơ bản đối với đồng Việt Nam từ mức 0,75%/tháng xuống còn 0,65%/tháng, 0,6%/tháng (tháng 11/2001); đồng thời cắt giảm lãi suất tái cấp vốn từ mức 0,5%/tháng xuống 0,45%/tháng, rổi 0,40%/tháng, hai lần cắt giảm lãi suất tái chiết khấu từ 0,45%/tháng còn 0,35%/tháng. Thứ hai, là yếu tố tỷ giá. Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như cán cân thanh toán quốc tế, cung cầu ngoại tệ, lạm phát,... Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, không một quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển lại không tham gia thực hiện phân công lao động và thương mại quốc tế. Thông qua quá trình trao đổi buôn bán giữa các nước, tỷ giá của một nước tăng, xuất khẩu tăng lên, nguồn thu ngoại tệ tăng lên. Điều đó làm tăng cung ngoại tệ, tương đương với việc tăng cầu nội tệ. Cầu nội tệ tăng, đường cầu vốn của ngân hàng dịch chuyển sang phải, làm lãi suất huy động của ngân hàng có xu hướng tăng lên. Thị trường liên ngân hàng là nơi giao dịch vốn cơ bản giữa các ngân hàng, thông thường các giao dịch này được thực hiện thông qua tài khoản tiền gửi của các ngân hàng thương mại tại NHNN. Lãi suất giao dịch bình quân của thị trường liên ngân hàng được xác định bằng bình quân gia quyền của các khoản chào trên thị trường liên ngân hàng bao gồm các lãi suất chào vay và lãi suất chào cho vay. Khi thị trường tiền tệ thực sự phát triển, lãi suất giao dịch trên thị trường liên ngân hàng là lãi suất cơ bản, phản ánh chính xác lãi suất thị trường dựa trên quan hệ cung cầu. Vì vậy lãi suất hình thành trên thị trường liên ngân hàng được coi là cơ sở để các tổ chức tín dụng làm căn cứ xác định lãi suất huy động của mình một cách đúng hướng. Khi lãi suất này tăng giảm có thể cho thấy mức tăng, giảm tương ứng của lãi suất thị trường tiền tệ trong thời gian trước mắt. * Nhân tố ảnh hưởng đến chính sách lãi suất huy động vốn: Ngoài những nhân tố là cơ sở hình thành của lãi suất huy động như đã nói ở trên, việc đưa ra chính sách lãi suất huy động của mỗi ngân hàng, tại mỗi thời điểm còn phụ thuộc vào một số những nhân tố thuộc về tầm vi mô của ngân hàng. Thứ nhất, là tính chất của các nguồn tiền huy động được. Các nguồn vốn mà ngân hàng huy động được có sự khác nhau về thời gian đáo hạn, quy mô, đối tượng gửi, mục đích gửi của khách hàng. Thời gian đáo hạn là độ dài về giờ, ngày, tháng, năm của khoản nợ từ khi ngân hàng nhận cho đến khi nó được hoàn trả lại. Sự khác nhau về thời gian của các nguồn vốn này làm cho lãi suất của mỗi nguồn cũng có sự khác nhau, hình thành lãi suất ngắn hạn và lãi suất dài hạn. Lãi suất ngắn hạn thường thấp hơn lãi suất dài hạn, vì những khoản đầu tư ngắn hạn có lợi tức không ổn định, làm lãi suất này biến động khá thường xuyên và với biên độ khá lớn. Ngân hàng muốn huy động được nguồn vốn ổn định cho hoạt động kinh doanh của mình thì phải chịu chi phí huy động vốn cao để đổi lại ngân hàng có được cơ cấu nguồn vốn tốt đáp ứng được nhu cầu cho vay, đầu tư trung, dài hạn hoặc chi trả cho các doanh nghiệp và dân chúng. Thời gian của nguồn huy động khác nhau là nhân tố tạo sự khác biệt về lãi suất huy động của ngân hàng. Ngoài ra lãi suất huy động của ngân hàng còn phân biệt theo loại tiền mà ngân hàng huy động, mục đích gửi tiền của khách hàng, mục đích huy động của ngân hàng, dịch vụ đi kèm ví dụ như tiết kiệm có thưởng..., theo qui mô của lượng tiền mà ngân hàng huy động được. Nhìn chung, tiện ích mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng gửi tiền và người cho vay càng cao thì lãi suất huy động của ngân hàng càng thấp; qui mô của lượng tiền mà ngân hàng huy động được càng lớn thì lãi suất cho khoản vốn này càng có xu hướng cao hơn. Mục đích gửi tiền vào ngân hàng của khách hàng không chỉ nhằm tiết kiệm mà còn nhằm hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Nếu với mục đích sử dụng các dịch vụ của ngân hàng cung cấp là chủ yếu thì lãi suất không phải là yếu tố thu hút khách hàng gửi tiền. Vì vậy lãi suất loại tiền gửi này thấp. Thứ hai, là uy tín của ngân hàng. Một ngân hàng hoạt động trên thị trường tài chính phát triển có rất nhiều công cụ nợ khác nhau để ngân hàng có thể huy động vốn cho ngân hàng mình, vì vậy sự cạnh tranh về lãi suất để huy động tiền gửi từ nền kinh tế sẽ không gay gắt nữa, mà sẽ chuyển sang các hình thức huy động khác để tiết kiệm chi phí huy động của mình. Một nhân tố vô cùng quan trọng quyết định chính sách lãi suất huy động vốn của ngân hàng là uy tín của ngân hàng, độ an toàn của ngân hàng, vị thế cạnh tranh của ngân hàng so với các ngân hàng khác và các tổ chức kinh tế cũng đang thu hút vốn từ nền kinh tế để đầu tư khác. Nếu ngân hàng có uy tín và khả năng cạnh tranh tốt so với các đối thủ thì có thể trong tình huống lãi suất mặt bằng chung đang có xu hướng gia tăng nhưng ngân hàng không cần phải gia tăng lãi suất mà hoạt động huy động vốn vẫn không bị hạn chế. Nhờ uy tín và sự cạnh tranh tốt của mình mà ngân hàng sẽ không cần phải có một chính sách cạnh tranh thu hút vốn bằng cách đẩy mạnh lãi suất huy động vốn của ngân hàng mình lên cao hơn so với mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường. Ví dụ, các ngân hàng ở New York, London nhờ vào quy mô lớn và sức mạnh tài chính nên có thể thu hút tiền gửi ở mức lãi suất bình quân thấp nhất, trong khi lãi suất thông báo của các ngân hàng khác thường cao hơn. Thứ ba là căn cứ vào tình hình kinh doanh của ngân hàng. Khi cân đối giữa chi phí huy động nguồn với lợi nhuận đạt được khi dùng nguồn huy động được đó đầu tư, có thể ngân hàng sẽ chấp nhận huy động với lãi suất cao để đạt được mục tiêu về lợi nhuận của mình. Có thể lấy ví dụ minh họa như sau: trường hợp A, ngân hàng huy động với lãi suất là 5% được 5000 đơn vị tiền tệ, 5000 này được đầu tư với lãi suất là 8%. Như vậy ngân hàng thu được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra là: 150 đơn vị tiền tê. Đối với trường hợp B, ngân hàng huy động với mức lãi suất là 6% được 7000 đơn vị tiền tệ, 7000 này được đem đầu tư với lãi suất là 8%, như vậy lợi nhuận ngân hàng thu được nhờ chênh lệch lãi suất là: 210 đơn vị tiền tệ. Tất nhiên là coi những yếu tố khác không đổi. Như vậy có thể thấy, chấp nhận một mức lãi suất cao hơn nhưng với khả năng sinh lời tốt của ngân hàng có thể còn mang lại cho ngân hàng một lợi nhuận cao hơn khi áp dụng mức lãi suất thấp. Nhưng mặt ngược lại là ngân hàng cũng không thể đội lãi suất của mình lên quá cao bởi còn sự khống chế bởi lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ việc đầu tư, lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng, các khỏan chi phí khác mà ngân hàng còn phải bù đắp. Vấn đề là ngân hàng phải tính toán cái được và cái mất khi áp dụng hình thức cạnh tranh bằng lãi suất này. Về mặt vĩ mô, cơ chế quản lý lãi suất của Ngân hàng Nhà nước chi phối chính sác lãi suất huy động của các NHTM. Đối với những nước theo đuổi chính sách tài chính kiềm chế và đặc biệt là nước có nền kinh tế được tổ chức theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, vai trò của lãi suất không được nhìn nhận một cách đúng đắn: lãi suất mang nặng tính bao cấp về tài chính cho toàn bộ nền kinh tế quốc doanh và đảm bảo cho yêu cầu về “giới hạn ngân sách mềm” trong các hoạt động chi tiêu của Chính phủ. Đây là một cơ chế mang tính áp đặt hành chính lên sự hình thành của lãi suất. Lãi suất huy động được ấn định và các NHTM chỉ được áp dụng theo, cơ chế quản lý này đã hạn chế rất nhiều khả năng huy động vốn của các NHTM và làm hoạt động kinh doanh của ngân hàng không thực sự hiệu quả, hạn chế sự phát triển của nền kinh tế. Ngược lại với cơ chế quản lý lãi suất trên là có chế tự do hóa lãi suất, tức là lãi suất được tự do biến động để phản ứng theo cá lực lượng cung cầu vốn trên thị trường. Các quốc gia theo đuổi chính sách này cho phép các NHTM được tự chủ trong việc ấn định mức lãi suất nói chung và lãi suất huy động vốn của mình. NHNN chỉ công bố lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu, tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm của mình đối với các tổ chức tín dụng. NHTƯ sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ tác động đến lãi suất huy động của NHTM, nhất là đối với công cụ dự trữ bắt buộc. Việc điều hành công cụ này có tác động làm tăng hay giảm lãi suất đầu vào của các ngân hàng. Khi NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với nguồn vốn nào đó sẽ không khuyến khích ngân hàng huy động nguồn vốn đó và tăng lãi suất đối với nguồn vốn này, và xu hướng lãi suất huy động nguồn vốn này sẽ giảm xuống. Trên cơ sở phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất và chính sách lãi suất huy động vốn, các ngân hàng đưa ra nhiều mức lãi suất danh nghĩa khác nhau tùy theo tính chất của từng khoản nợ, đó là các mức lãi suất cá biệt. 1.2.4.2. Cách xác định lãi suất huy động vốn. Một mặt ngân hàng phải trả một mức lãi suất đủ lớn để thu hút và duy trì ổn định nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của mình, mặt khác ngân hàng phải cố gắng hạn chế việc trả lãi suất quá cao cho nguồn vốn vì điều này làm giảm thu nhập của ngân hàng. Ngày nay, sự gia tăng cạnh tranh đã làm giảm khả năng sinh lời từ nghiệp vụ tiền gửi và cho vay của ngân hàng, vì vậy, nghiên cứu các phương pháp xác định lãi suất huy động của ngân hàng là một điều rất cần thiết, giúp cho ngân hàng đưa ra các mức lãi suất cá biệt vừa có thể cạnh tranh được với các đối thủ trong thu hút nguồn vốn, vừa có thể đem lại thu nhập như mong muốn cho ngân hàng. Ngày nay các ngân hàng thương mại thường xác định lãi suất huy động dựa trên lãi suất gốc. Những lãi suất gốc quan trọng là lãi suất tái chiết khấu của NHNN, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất tín phiếu kho bạc Nhà nước. Những ngân hàng lớn ở các trung tâm tài chính thường lấy các lãi suất này làm điểm xuất phát khi tính lãi suất huy động của mình bởi những lãi suất gốc này đưa ra những chỉ dẫn chính xác về lãi suất trên thị trường tiền tệ. Lãi suất nguồn = Lãi suất gốc + tỷ lệ thu nhập kì vọng của người gửi tiền NHTM sử dụng lãi suất gốc để xác định lãi suất trả cho các nguồn tiền gửi ngắn hạn. Từ lãi suất gốc, ngân hàng đa dạng hóa các tỷ lệ lãi suất khác nhau theo nguyên tắc: + Lãi suất bình quân thực dương, tương quan về an toàn và sinh lời với các hoạt động đầu tư khác như mua vàng, bất động sản, chứng khoán. + Lãi suất tiền gửi nhỏ hơn lãi suất cho vay cùng kỳ hạn. + Lãi suất tỷ lệ thuận với kỳ hạn. + Lãi suất tỷ lệ thuận với quy mô. + Lãi suất tỷ lệ nghịch với tính thanh khoản. + Lãi suất tỷ lệ nghịch với độ an toàn của ngân hàng và các tiện ích mà ngân hàng cung cấp. Thu nhập kỳ vọng của người gửi tiền phụ thuộc vào tình hình nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế, và vào khả năng sinh lời của ngân hàng. Về lý thuyết, có nhiều phương pháp trong quản lý lãi suất huy động, chủ yếu bao gồm: Phương pháp chi phí trung bình theo nguyên giá, phương pháp xác định lãi suất biên, phương pháp xác định lãi suất để đạt mục tiêu của ngân hàng. Phương pháp chi phí trung bình theo nguyên giá. Đây là phương pháp tập trung nguồn vốn, được xây dựng trên giả định rằng ngân hàng không quan tâm đến chi phí của mỗi loại nguồn vốn mà chỉ quan tâm đến chi phí trung bình của tất cả các nguồn vốn. Theo phương pháp này, cách tính toán như sau: Tổng chi phí trả lãi = Tổng (nguồn vốn thứ i *lãi suất huy động của nguồn thứ i) Với “i” là các loại nguồn vốn mà ngân hàng huy động. Tổng chi phí trả lãi Chi phí trả lãi bình quân gia quyền = Tổng nguồn vốn ngân hàng huy động. Mức thu từ lãi mà ngân hàng cần đạt được trên cơ sở chi phí gia quyền phải bù đắp được chi phí trả lãi, chi phí khác để huy động vốn và phải còn phần dư để đảm bảo mức lợi nhuận trên vốn cổ phần của chủ sở hữu ngân hàng. Chi phí trả lãi + chi phí khác huy động vốn Tỷ lệ thu nhập để hòa vốn = Tổng tài sản sinh lời Thu nhập trên vốn cổ phần mong muốn Tỷ lệ thu nhập đảm bảo ROE = (ROE: lợi nhuận trên vốn cổ phần) Tổng tài sản sinh lời Vậy tỷ lệ thu nhập mà ngân hàng cần đạt là: Chi phí trả lãi + chi khác + thu nhập trên vốn cổ phần mong đợi Tổng tài sản có sinh lời Như vậy nhà quản lý ngân hàng phải đảm bảo rằng ngân hàng sẽ có được tỷ lệ thu nhập ít nhất là tỷ lệ trên thì mới đạt được mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Đây là phương pháp tập trung nguồn vốn giúp nhà quản lý ngân hàng có thể xác định được ảnh hưởng của bất kỳ sự thay đổi nào trong chi phí huy động vốn. Các nhà quản lý có thể thử nghiệm với các cách huy động với lãi suất khác nhau cho bất kỳ kế hoạch huy động vốn nào của ngân hàng và đánh giá ảnh hưởng của chúng đến chi phí huy động vốn của ngân hàng, đến lợi nhuận của ngân hàng. Phương pháp xác định lãi suất huy động biên. Nhiều nhà phân tích tài chính cho rằng nếu như điều kiện cho phép, các ngân hàng không nên dùng chỉ tiêu chi phí bình quân mà nên sử dụng chỉ tiêu chi phí cận biên: chi phí tăng thêm cho một đồng vốn mới, trong việc xác định lãi suất huy động vốn của mình. Lý do là sự thay đổi lãi suất liên tục sẽ làm cho chi phí trung bình không là tiêu chuẩn đúng trong việc xác định chi phí huy động vốn. Ví dụ như khi lãi suất đang giảm, chi phí cận biên để huy động thêm một nguồn vốn mới có thể giảm đáng kể, xuống dưới mức chi phí nguồn vốn bình quân của ngân hàng. Một khoản tín dụng và đầu tư có thể bị xem là không sinh lời khi đánh giá theo chi phí nguồn vốn trung bình, nhưng lại có thể sinh lợi khi đánh giá theo chi phí lãi cận biên vì ngân hàng đang huy động ._.nhu cầu người dân, vừa đảm bảo ngân hàng tiết kiệm được chi phí huy động. 2.2.3.3. Chỉ tiêu quản lý lãi suất huy động. Để quản lý việc chi trả lãi suất huy động đầu vào, Ngân hàng sử dụng chỉ tiêu lãi suất bình quân: Lãi suất của nguồn i * tổng nguồn i Lãi suất bình quân đầu vào = Tổng nguồn huy động Mức lãi suất nguồn i là mức lãi suất danh nghĩa cá biệt của nguồn huy động i cá biệt. Giả sử tổng chi phí trả lãi là 65 tỷ, tổng vốn huy động là 1000 tỷ, như vậy lãi suất bình quân đầu vào là: 65/1000 = 6,5%/năm. Ước tính chi phí khác phát sinh cùng hoạt động huy động vốn là: 10 tỷ, tổng tài sản sinh lời là 700 tỷ, như vậy Tỷ lệ thu nhập chi phí trả lãi + chi phí khác 65 + 10 hòa vốn đối với = = = 10,7% tài sản sinh lời tổng tài sản sinh lời 700 10,7% được gọi là tỷ lệ thu nhập hòa vốn của ngân hàng bởi vì thu nhập từ tài sản sinh lời của ngân hàng tối thiểu phải bằng tỷ lệ này mới đủ bù đắp chi phí huy động vốn. Tiếp theo, giả sử tỷ lệ thu nhập cổ đông đòi hỏi là 12% sau thuế, thuế suất là 40%, đầu tư của cổ đông là 100 tỷ, vậy: Chi phí bình quân cho vốn = tỷ lệ thu nhập hòa vốn + tỷ lệ chi phí trước thuế cho cổ đông chủ sở hữu Chi phí sau Đầu tư của thuế cho cổ đông cổ đông = tỷ lệ thu nhập hòa vốn + * ( 1 – thuế suất ) tài sản sinh lời = 10,7% + [12%/ (1 – 0,4)] * 100/ 700 = 13,5%(/năm) Vậy 13,5% là tỷ lệ thu nhập tối thiểu mà ngân hàng phải cố gắng tạo ra từ các tài sản nếu các cổ đông đầu tư vào ngân hàng 100 tỷ đồng. Chênh lệch lãi suất bình quân đầu vào và đầu ra lúc này là 13,5% - 6,5% = 7% (thực tế thì chênh lệch này của ngân hàng thường tính toán vào khoảng 3 đến 5%). Chênh lệch lãi suất này làm cơ sở đánh giá cho nhà quản lý ngân hàng khi huy động được nguồn vốn mới. Sử dụng chỉ tiêu này Ngân hàng có thể tính được lãi phải trả bình quân tại một thời điểm hoặc trong một thời kỳ. Từ chỉ tiêu này ngân hàng có thể thấy xu hướng thay đổi lãi suất của nguồn, ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất đối với lãi suất bình quân, sự kết hợp giữa lãi suất cá biệt và tỷ trọng mỗi nguồn làm thay đổi như thế nào đến lãi suất bình quân của nguồn. Mặt khác nó cho thấy nguồn nào có chi phí đắt tương đối (lãi suất cá biệt lớn hơn lãi suất bình quân của nguồn) và nguồn nào có chi phí rẻ tương đối (lãi suất cá biệt nhỏ hơn lãi suất bình quân của nguồn). Từ đó mà ngân hàng hoạch định chiến lược nguồn vốn cho mình, tính toán mức lãi suất huy động hợp lý với mình để có thể đạt được lợi nhuận mong muốn. Với cách xác định lãi suất cho các khoản tiền gửi thông qua chỉ tiêu lãi suất bình quân này, đôi khi ngân hàng sẽ bỏ qua cơ hội đầu tư tốt mang lại lợi nhuận cao hơn cho mình. Ngân hàng mới chỉ quan tâm đến lãi suất danh nghĩa nên khi tính toán chi phí đã không thấy được chi phí thực mà ngân hàng phải trả cho khách hàng, dẫn tới không biết được thu nhập lãi thực sự mà ngân hàng có được. Điều này dẫn đến việc kiểm soát chi phí của ngân hàng là chưa chính xác. Chương 3 Hoàn thiện chính sách lãi suất huy động vốn ở Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam. 3.1. Mục tiêu phát triển của Ngân hàng trong những năm tới: Trong những năm tới, Ngân hàng đề ra những mục tiêu chiến lược cơ bản để phấn đâu như sau: Phấn đấu trở thành ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu khu vực phia bắc trên cơ sở định hướng mục tiêu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và dân cư; trở thành một ngân hàng có công nghệ hiện đại, tiên tiến, hội nhập tốt vào khu vực và thế giới trong quá trình Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Trên cơ sở đó, nâng cao thương hiệu, hình ảnh của Ngân hàng, thu hút sự chú ý và sự tin cậy của khách hàng trong và ngoài nước. Về công tác huy động vốn, Ngân hàng đặt ra mức phấn đấu mỗi năm tăng trưởng khoảng 35% so với năm trước, chú trọng mở rộng các biện pháp tăng cường huy động vốn để nâng cao quy mô, chất lượng nguồn vốn, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng tín dụng và nâng cao uy tín cho Ngân hàng. 3.2. Các giải pháp. Một chính sách lãi suất huy động tốt của ngân hàng là chính sách hướng đến các giải pháp nhằm làm hạ thấp lãi suất đầu vào, tiết kiệm chi phí cho ngân hàng, không gây áp lực cho việc tăng lãi suất đầu ra, nhưng đồng thời vấn phải đảm bảo mở rộng được quy mô vốn huy động, từ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh của ngân hàng, đưa ngân hàng phát triển mạnh mẽ hơn. Xây dựng được một chính sách lãi suất huy động vốn hoàn thiện hiện nay là yếu tố cơ bản trong việc duy trì và mở rộng tiền gửi. Tùy thuộc vào mục tiêu trong ngắn hạn và mục tiêu trong dài hạn về hoạt động huy động vốn, ta có các giải pháp trong ngắn hạn và dài hạn để hoàn thiện chính sách lãi suất huy động vốn như sau. 3.2.1. Các giải pháp trong ngắn hạn. Ngày nay, cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các NHTM trong huy động vốn mà còn cạnh tranh với các tổ chức tiết kiệm, công ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân,... Với quy mô cạnh tranh này, chính sách lãi suất huy động vốn đưa ra có thể làm gia tăng nguồn vốn nhưng cũng có thể tiền gửi sẽ tự rò rỉ bằng cách chuyển đến những nơi đầu tư khác. Vì thế nghiên cứu thị trường để đưa ra một chính sách lãi suất hợp lý có ý nghĩa quyết định đến việc gia tăng tiền gửi. Với mục đích trong ngắn hạn của Ngân hàng là mở rộng huy động để tăng trưởng thì cần phải có các chiến lược sau: Duy trì lãi suất cạnh tranh trong thời gian trước mắt. Lãi suất của tiền gửi tiết kiệm và tài khoản có kỳ hạn của ngân hàng cao hơn mặt bằng lãi suất trên thị trường là điều dễ hiểu. Đây là chiến lược cạnh tranh bằng lãi suất của ngân hàng để thu hút lượng tiền gửi nhàn rỗi lớn trong dân cư với các đối thủ cạnh tranh hơn hẳn về mọi ưu thế. Đây là nguồn tiền có tính ổn định cao cho hoạt động tín dụng và đầu tư của ngân hàng, vì vậy, trong thời gian tới, ngân hàng vẫn phải tiếp tục huy động với mức lãi suất cao như vậy. Việc duy trì lãi suất huy động vốn cạnh tranh trong giai đoạn hiện nay đối với Ngân hàng là rất quan trọng. Đặc biệt là trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ, dù cho những khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng thúc đẩy người gửi tiền và nhà đầu tư chuyển vốn từ công cụ này sang công cụ khác. Hiện nay, sức cạnh tranh của Ngân hàng còn nhỏ bé so với các NHTM quốc doanh cả về quy mô, uy tín, và các lợi thế cạnh tranh khác. Nên sức mạnh hút vốn về ngân hàng mình còn chưa mạnh mẽ. Chiến lược duy trì lãi suất cạnh tranh đối với ngân hàng sẽ gây sự chú ý của người gửi tiền và các nhà đầu tư, từ đó để nâng dần hình ảnh của ngân hàng, mang lại sức mạnh cạnh tranh. Cùng với việc duy trì lãi suất cạnh tranh, cần kết hợp với các chiến lược khác để khách hàng gửi tiền thấy yên tâm hơn, thoải mái hơn khi đến với ngân hàng.Việc duy trì lãi suất cạnh tranh cần trên cơ sở tính toán doanh thu chi phí họat động của Ngân hàng, có như vậy mới đảm bảo lãi suất đầu ra đủ khả năng cạnh tranh đồng thời đảm bảo an toàn cho hoạt động của mình. Nhưng việc duy trì lãi suất cạnh tranh chỉ nên thực hiện trong thời gian ngắn hạn, bởi trong thời gian khan hiếm tiền tệ, sự cạnh tranh gay gắt, các ngân hàng quốc doanh cũng có thể sẽ thực hiện tăng lãi suất huy động, mà Ngân hàng thì không thể cứ đẩy mãi lãi suất của mình lên cao được do còn bị khống chế bởi lãi suất đầu ra. Vì vậy, trong dài hạn, cần tăng các lợi thế cạnh tranh khác của Ngân hàng để giảm bớt áp lực tăng lãi suất huy động vốn. Phải duy trì mối tương quan giữa lãi suất đầu vào và chỉ số lạm phát. Do có sự tăng chỉ số giá tiêu dùng trong thời gian qu, Ngân hàng cần phải đảm bảo mức lãi suất huy động sao cho lãi suất được hưởng của người gửi tiền thực dương. Có như vậy, người gửi tiền vào ngân hàng mới yên tâm và tin tưởng gửi các khoản tiền nhàn rỗi của mình vào ngân hàng. Điều chỉnh mức lãi suất tại các kỳ hạn: Do cơ cấu kỳ hạn các khoản tiền gửi còn chưa phong phú đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, trong thời gian tới Ngân hàng cần nghiên cứu đưa ra các kỳ hạn mới, với các mức lãi suất chia nhỏ hơn, để bảng biểu lãi suất có sự hấp dẫn về tính đa dạng cho khách hàng nhiều sự lựa chọn. Đối với mức lãi suất VNĐ tại các kỳ hạn 1 tháng và 2 tháng ngân hàng có thể giảm xuống một chút ít để góp phần tiết kiệm chi phí trả lãi cho các khoản tiền gửi, và có thể khuyến khích khách hàng bằng cách tăng lãi suất cho kỳ hạn gửi thực tế, nếu khách hàng gửi với kỳ hạn gửi thực trên 3 tháng sẽ được hưởng mức lãi của kỳ hạn 3 tháng. Mục đích của việc tính như vậy là do: mức lãi suất hiện tại ở ngân hàng của 2 kỳ hạn này đang ở mức không chênh lệch so với kỳ hạn 3 tháng và 6 tháng là mấy. Mà như ta thấy, trong thực tế, khách hàng khi đến ngân hàng để gửi với kỳ hạn này thường đã có mục đích tiêu dùng sẵn có của mình, nên lãi suất thấp hơn một chút thì họ vẫn có nhu cầu gửi. Mặt khác đồng thời, ngân hàng cũng phải tạo ra tiện ích và sự thuận lợi cho khách hàng để họ đạt được sự hài lòng trong việc sử dụng vốn vào mục đích của mình. Lãi suất tiền gửi USD của ngân hàng tại các kỳ hạn là thấp hơn so với mặt bằng lãi suất trên thị trường hiện nay từ 0,2 đến 0,5% do vậy, để thu hút thêm nguồn tiền này, ngân hàng cần tăng lãi suất của tiền gửi tiết kiệm USD lên. Từng bước thay đổi cơ cấu nguồn tiền gửi huy động để tăng thêm hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Tình hình nguồn tiền gửi trong thanh toán của ngân hàng chiếm tỷ trọng rất thấp so với tổng nguồn vốn huy động. Vì vậy, ngân hàng có thể tăng lãi suất của nguồn không kỳ hạn lên một chút, đây sẽ là động lực kích thích người gửi tiền vào ngân hàng với mục đích thanh toán. Đồng thời kết hợp với tăng cường nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán của Ngân hàng. Ta có thể thấy, nếu ngân hàng thu hút được lượng lớn các doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng với mục đích thanh toán, trước hết sẽ thu hút được một lượng vốn rất lớn, thứ hai là lượng vốn này doanh nghiệp chỉ có nhu cầu rút hoặc sử dụng khi đến các kỳ hạn thanh toán như trả lương, trả tiền mua nguyên vật liệu, ... nếu tính toán được các kỳ hạn rút hay phải thanh toán của các doanh nghiệp thì ngân hàng sẽ tránh không gặp phải rủi ro trong việc sử dụng nguồn vốn này. Hơn nữa, việc thực hiện thanh toán hộ cho các doanh nghiệp ngân hàng có thể thu phí dịch vụ để bù đắp vào chi phí trả lãi khoản này. Đây là giải pháp để hướng tới phát triển tài khoản giao dịch của ngân hàng. Kết hợp với giải pháp này ngân hàng cần đẩy mạnh các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, mở nhiều tài khoản thanh toán hướng đến người lao động có thu nhập đều đặn hàng tháng,... từ đó đẩy mạnh huy động tiền gửi thanh toán cho ngân hàng. Đây cũng là chiến lược lâu dài để phát triển của Ngân hàng, vì trong vài năm tới, người dân sẽ sử dụng các tài khoản thanh toán thông qua ngân hàng thay cho việc sử dụng nhiều tiền mặt trong lưu thông như hiện nay. Cải tiến cách quản lý lãi suất: Hiện nay, lãi suất của Ngân hàng vẫn là các bảng biểu cố định, mặc dù ở hình thức tiết kiệm có kỳ hạn đã đưa vào hình thức lãi suất thả nổi dựa vào lãi suất kỳ hạn 6 tháng của ngân hàng cộng với biên độ do ngân hàng tính, nhưng về thực chất đây vẫn là lãi suất cố định cho khoản huy động. Nên khi khách hàng đến giao dịch tại ngân hàng, các nhân viên ngân hàng chỉ đưa những bảng biểu lãi suất cho khách hàng, từ đó khách hàng có chấp nhận gửi tiền với mức đó hay không là tùy ở khách hàng. Có thể ngân hàng nên thay đổi cách quản lý lãi suất này một chút tức là mỗi nhân viên giao dịch được quyền điều chỉnh mức lãi suất cho hợp lý với khách hàng gửi tiền theo tiêu chí về qui mô số tiền gửi, mục đích gửi tiền của khách hàng, đối tượng khách hàng. Biên độ có thể khoảng cộng trừ 0,02%/tháng đối với khoản tiền gửi bằng đồng Việt Nam, và 0,2%/năm của khoản tiền gửi USD, và được nhân viên giao dịch xử lý linh hoạt các biên độ này. Điều này sẽ tạo cho khách hàng sự thoải mái khi giao dịch với ngân hàng, và khách hàng sẽ thấy hài lòng hơn, vì mình đã được thỏa thuận mức giá mà mình được hưởng. Đối với chỉ tiêu quản lý lãi suất, ngân hàng có thể tham khảo phương pháp tính lãi suất huy động biên đã được trình bày ở phần lý thuyết (Phần 1.2.4.3). Đối với phương pháp tính lãi suất huy động bình quân như ngân hàng thực hiện đôi khi ngân hàng bỏ lỡ cơ hội kinh doanh tốt của mình. Ví dụ như, khi lãi suất trên thị trường có xu hướng giảm đáng kể, chi phí huy động biên đối với nguồn vốn mới này giảm đáng kể,có thể xuống dưới mức chi phí nguồn vốn bình quân của ngân hàng. Một khoản tín dụng và đầu tư có thể bị xem là không sinh lời khi đánh giá theo chi phí nguồn vốn trung bình, nhưng lại có thể sinh lợi khi đánh giá theo chi phí lãi cận biên vì ngân hàng đang huy động bới lãi suất thấp hơn để thực hiện các khoản đầu tư, tín dụng này. Mặt khác, với cách đánh giá này, Ngân hàng đã bỏ qua một bộ phận trong nguồn vốn huy động không mang lại thu nhập cho ngân hàng, đó là phần dự trữ bắt buộc, từ đó chi phí huy động bao hàm cả chi phí khác liên quan đến huy động. Nên chi phí này thiếu độ tin cậy nếu Ngân hàng sử dụng làm cơ sở để quyết định huy động theo loại nào khi lãi suất có sự biến động lớn. Nhưng điều cần thiết để thực hiện theo phương pháp này là ngân hàng phải đánh giá được chi phí huy động biên của mỗi nguồn vốn mới, rất phức tạp, đòi hỏi ngân hàng có kỹ thuật cao để đánh giá được chính xác và cụ thể. Để tính toán chi phí huy động vốn của mình một các chính xác, biết được chi phí huy động thực của ngân hàng là bao nhiêu và thu nhập thực đạt được trong hoạt động kinh doanh của mình thì ngân hàng cần sử dụng chỉ tiêu lãi suất hiệu dụng để tính toán chứ không phải dùng các mức lãi suất danh nghĩa được công bố ở ngân hàng. Thực tế là vốn huy động được có nhiều mức lãi suất khác nhau, kỳ hạn khác nhau, nên Ngân hàng phải tính toán chi phí khi trả lãi trên tổng thể nguồn huy động. Việc tính toán phải mang tính chất thường xuyên và định kỳ nhằm đánh giá tổng quan về chi phí đầu vào từ đó mới có cơ sở hoạch định lãi suất đầu ra. Thêm vào đó, Ngân hàng nên công khai và hướng dẫn khách hàng phương pháp tính lãi của mình để làm tăng thêm sự tin tưởng của khách hàng đối với Ngân hàng. Sự rõ ràng minh bạch trong kinh doanh là vấn đề mang tính đạo đức nghề nghiệp, tạo điều kiện cho Ngân hàng phát triển ổn định vững chắc trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh bình đẳng. Một vấn đề cũng rất quan trọng đó là chính sách lãi suất của ngân hàng cần kết hợp với các chính sách khác tạo thành một tổng thể thống nhất, từ đó mới đem lại sự hoàn thiện cho các chính sách. 3.2.2. Giải pháp trong dài hạn. Hướng đến mục tiêu dài hạn của ngân hàng trong tương lai là phát triển bề vững và chỉ tiêu sinh lời cao, để hoàn thiện chính sách lãi suất huy động thì ngân hàng cần giải quyết các vấn đề vĩ mô có ảnh hưởng đến việc ra quyết định của chính sách lãi suất. Đó là các vấn đề về nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngân hàng. Năng lực cạnh tranh ở đây muốn nói tới những mặt cạnh tranh khác của ngân hàng mà không bao hàm cạnh tranh bằng lãi suất. Năng lực cạnh tranh của một ngân hàng là một tài sản vô hình nhưng lại có giá trị vô cùng to lớn đối với một ngân hàng. Một ngân hàng có năng lực cạnh tranh tốt sẽ huy động được lượng vốn lớn từ dân cư và các tổ chức kinh tế với chi phí rẻ hơn ngân hàng có năng lực cạnh tranh kém. Năng lực cạnh tranh tốt là cơ sở để khách hàng đánh giá, so sánh và lựa chọn ngân hàng để gửi tiền, từ đó, ngân hàng có thể cạnh tranh bằng uy tín của mình với chất lượng sản phẩm dịch vụ tốt mà không cần phải cạnh tranh bằng lãi suất đẩy chi phí huy động của ngân hàng gia tăng. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng được cấu thành từ nhiều yếu tố, đòi hỏi ngân hàng phải nỗ lực trong thời gian dài, cần thực hiện từng bước các giải pháp sau: Thứ nhất, tăng cường sức mạnh nội tại – khả năng tự bảo vệ của ngân hàng, trong đó chú trọng nâng cao quy mô vốn chủ sở hữu của ngân hàng, chủ động đảm bảo tiêu chuẩn an toàn quốc tế (Bộ quy tăc về an toàn vốn Basel 1, Basel 2). Quy mô vốn chủ thể hiện tiềm lực, năng lực kinh doanh cũng như khả năng chống đỡ mọi rủi ro của ngân hàng. Vì thế, với một quy mô vốn chủ lớn ngân hàng sẽ tạo được lòng tin đối với khách hàng. VPBank là ngân hàng thương mại cổ phần, vốn chủ sở hữu của ngân hàng là do các cổ đông đóng góp khi ban đầu thành lập, được mở rộng bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, lợi nhuận kinh doanh được giữ lại. Như vậy, phát hành thêm cổ phiếu để gia tăng vốn chủ là việc làm cần ngay trước mắt. Thông thường khi ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán sẽ được công chúng tín nhiệm hơn, khi đó một mặt có thể phát hành cổ phiếu ra công chúng để huy động vốn chủ, mặt khác, khi được công chúng tín nhiệm hơn thì chi phí huy động vốn của ngân hàng có thể được tiết kiệm hơn. Để có thể đăng ký niêm yết và phát hành cổ phiếu ra công chúng tại Trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc sở giao dịch chứng khoán Ngân hàng phải phấn đấu đáp ứng đủ các điều kiện trong Quyết định số 787/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN (Ban hành về Quy định tạm thời về việc NHTM CPđăng ký niêm yết và phát hành cổ phiếu ra công chúng); đặc biệt yêu cầu về tỷ lệ nợ xấu trong Ngân hàng trong 2 năm liền gần nhất. Thứ hai, đẩy mạnh hoạt động marketing của ngân hàng để thu hút nhiều khách hàng hơn nữa về giao dịch tại ngân hàng. Đây là điều rất cần thiết để giới thiệu Ngân hàng đến với công chúng, giới thiệu sản phẩm cùng đặc tính của sản phẩm đến với khách hàng. Hoạt động này được gọi là thành công khi ngân hàng giới thiệu được sản phẩm của mình cho khách hàng mục tiêu, với chất lượng và hình thức phù hợp với nguyện vọng của khách hàng. Ngoài các phương tiện thông tin đại chúng, ngân hàng nên có các hoạt động tài trợ, cấp học bổng, trợ giúp khó khăn, hay các chương trình khuyến mại tặng quà thường xuyên hơn. Đặc biệt, trong thời buổi cạnh tranh ngày càng gay gắt để giành giật khách hàng như hiện nay, công tác chăm sóc khách hàng cần được quan tâm hơn nữa. Đồng thời chú ý đến mở rộng mạng lưới có chọn lọc tại các địa phương có kinh tế phát triển, mở rộng thêm các điểm giao dịch mới tại các địa bàn hoạt động hiện có để sản phẩm của ngân hàng cung cấp được đến với quần chúng một cách thuận tiện hơn. Thứ ba, cần phải đón đầu các công nghệ tiên tiến, ứng dụng hiệu quả cho hoạt động ngân hàng, tạo nên hình ảnh của một ngân hàng hiện đại, có uy thế trong cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh. Đây là xu hướng tất yếu quyết định sự tồn tại và phát triển của các tổ chức tín dụng. Việc ứng dụng công nghệ phải tránh trường hợp khi mới áp dụng thì nó đã trở thành lạc hậu so với thị trường. Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng là ứng dụng những kỹ thuật tiên tiến, phù hợp với hoạt động ngân hàng, để quá trình xử lý nghiệp vụ được diễn ra nhanh chóng chính xác, an toàn và tiện lợi. Trước mắt ngân hàng cần liên kết với Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam trong việc phát hành và thanh toán thẻ hoặc với Công ty tài chính cổ phần chuyển mạch quốc gia (Banknet Việt Nam) sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng phát triển công nghệ cũng như phát triển dịch vụ thẻ và các dịch vụ ngân hàng điện tử có liên quan. Thứ tư, cần xây dựng “Văn hóa kinh doanh” cho ngân hàng, đây là điểm mấu chốt trong việc khách hàng phân biệt ngân hàng này với ngân hàng khác khi cùng đưa ra một loại sản phẩm. “Văn hóa kinh doanh” của ngân hàng là tổng thể phương thức mà ngân hàng thể hiện tính cách của mình tới mọi đối tượng giao tiếp, thể hiện nét riêng trong kinh doanh để thấy được bản sắc của ngân hàng. Để xây dựng “Văn hóa kinh doanh” cần phải chú ý: xây dựng hình ảnh chung về ngân hàng, xây dựng mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, mối quan hệ giữa ngân hàng và nhân viên ngân hàng, mối quan hệ giữa các nhân viên trong ngân hàng. Thứ năm là: nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ. Nhân tố con người có tính chất quyết định đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Để có được chính sách lãi suất huy động tốt, có nghĩa là đội ngũ cán bộ bộ phận hoạch định chính sách lãi suất phải nghiên cứu và đưa ra các kết luận cho ngân hàng mình, và chính sách có tốt hay không là phụ thuộc ở trình độ của họ. Đối với nhân viên giao dịch, khả năng giao tiếp tốt, nhanh nhẹn kết hợp với kiến thức chuyên sâu của họ chắc chắn sẽ tạo được niềm tin, sự thoải mái lôi cuốn khách hàng. Đội ngũ nhân viên sẽ chính là hình ảnh của ngân hàng trong lòng khách hàng, góp phần quyết định việc có gây ấn tượng tốt đối với khách hàng hay không, có tạo nên niềm tin đối với khách hàng hay không. Vì vậy đây cũng là một mặt tăng hình ảnh của ngân hàng, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Thứ sáu là phát triển các loại hình huy động vốn mà ngân hàng hiện đang có đồng thời mở rộng các hình thức huy động vốn bằng kỳ phiếu ngân hàng, phát hành chứng chỉ tiền gửi.... Đó là cách hoàn thiện sản phẩm để nâng cao chất lượng phục vụ hơn cho khách hàng, thỏa mãn hơn nữa những nguyện vọng của khách hàng. Ví dụ như về rút tiền tiết kiệm, hiện tại, khách hàng gửi ở đâu thì rút tiền ở đó, ngân hàng nên nhanh chóng thực hiện hình thức gửi một nơi mà có thể rút tiền ở nhiều nơi, để khi khách hàng có nhu cầu chuyển đi xa sẽ không ngại bất tiện. Trong thời gian tới, ngân hàng cũng phải nhanh chóng áp dụng hình thức giao dịch một cửa khi công nghệ cho phép để tạo sự thuận tiện nhanh chóng cho khách hàng giao dịch. 3.3. Một số kiến nghị. Trong thời gian tới, việc điều hành lãi suất trên thị trường tiền tệ của NHNN cần được đổi mới về cơ chế: Thứ nhất: Hiện nay, NHNN Việt Nam điều hành lãi suất thông qua hàng loạt các loại lãi suất như lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất trên thị trường mở và lãi suất liên ngân hàng qua đêm. Mối liên hệ giữa các loại lãi suất này còn lỏng lẻo, nhiều khi tách rời nhau, biến động chưa phù hợp với cơ chế lãi suất thị trường. Có thể nói, cơ chế lãi suất hiện nay còn phức tạp và chưa đủ sức hướng dẫn lãi suất thị trường. Thứ hai, lãi suất trên thị trường nội tệ liên ngân hàng của Việt Nam hiện nay chưa phản ánh đúng quan hệ cung cầu vốn trên thị trường, quan hệ vay mượn trên thị trường diễn ra một chiều giữa các ngân hàng thương mại nhà nước có vốn dư thừa là bên cho vay đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng thương mại cổ phần. Thứ ba, lãi suất VNIBOR chưa phản ánh cung cầu vốn ngắn hạn trên thị trường nên cũng chưa có tác dụng tham chiếu. Do cơ cấu các ngân hàng tham gia chào lãi suất trên màn hình xác định lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng chưa hợp lý, chất lượng các loại lãi suất chào chưa cao do các ngân hàng chưa tham gia thường xuyên trên thị trường, chưa có cơ chế ràng buộc trách nhiệm đối với các ngân hàng tham gia chào vốn. Trong tương lai, khi thị trường liên ngân hàng Việt Nam phát triển, việc lựa chọn lãi suất liên ngân hàng làm lãi suất mục tiêu định hướng lãi suất thị trường là phù hợp. Vì lãi suất liên ngân hàng là lãi suất bán buôn và có thể tác động tới mặt bằng lãi suất thị trường thông qua các lãi suất bán lẻ. Mặt khác lãi suất liên ngân hàng có thể đo lường được, quyết định lãi suất dài hạn; có liên hệ trực tiếp với công cụ của chính sách tiền tệ để có thể điều hành lãi suất ngắn hạn; có quan hệ với mục tiêu trung gian mà NHNN lựa chọn. Nhưng để lãi suất liên ngân hàng thực sự phù hợp với cung cầu vốn thị trường, có thể làm lãi suất mục tiêu của NHNN, cần phải thực hiện đổi mới như sau: thứ nhất các ngân hàng thương mại tham gia chào lãi suất cần được mở rộng hơn và các ngân hàng này phải đáp ứng được các điều kiện về khả năng tài chính mạnh, thường xuyên tham gia trên thị trường liên ngân hàng, có trách nhiệm trong việc đưa ra lãi suất chào trên thị trường; thứ hai là việc đưa ra lãi suất chào cần căn cứ vào lãi suất bình quân đầu vào của từng ngân hàng, vào nhu cầu vốn khả dụng của ngân hàng cung cầu vốn trên thị trường. Khi lãi suất mục tiêu là lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng đủ sức làm lãi suất định hướng cho lãi suất thị trường tiền tệ, ngân hàng có thể căn cứ vào lãi suất này cùng với chi phí liên quan của ngân hàng mình mà đưa ra lãi suất huy động của mình đối với khách hàng. Lãi suất được dựa trên cơ sở như vậy sẽ đem lại hiệu quả hơn cho chính sách lãi suất huy động vốn của ngân hàng mình. KẾT LUẬN Xu hướng phát triển và hội nhập với nền kinh tế thế giới hiện nay đòi hỏi các ngân hàng thương mại hơn bao giờ hết phải nỗ lực hoàn thiện mình để có thể tồn tại trong môi trường cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt. Cơ chế điều hành lãi suất tự do của NHNN là tiền đề để các ngân hàng tự chủ trong định giá cả sản phẩm ngân hàng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng mình. Có một chính sách lãi suất huy động hợp lý phù hợp với chiến lược phát triển của ngân hàng không những làm mở rộng nguồn vốn cho ngân hàng với chi phí rẻ mà còn làm cho ngân hàng phát triển thinh vượng hơn. Những năm gần đây, Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam đang trong giai đoạn phục hồi và phát triển, nên công tác huy động vốn cần phải đặc biệt quan tâm. Việc hoàn thiện chính sách lãi suất huy động vốn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả cho hoạt động tạo vốn của Ngân hàng. Mặc dù việc hoàn thiện chính sách này của Ngân hàng còn một số những hạn chế nhưng trong thời gian tới việc nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của chính sách Ngân hàng sẽ từng bước tháo gỡ những vướng mắc đó. Trên cơ sở phân tích hoạt động huy động vốn và tình hình lãi suất huy động của Ngân hàng, em xin đưa ra những giải pháp tổng thể với hy vọng góp một phần nhỏ để góp phần hoàn thiện chính sách này tại Ngân hàng. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn - PGS.TS Phan Thị Thu Hà, cùng toàn thể cán bộ trong Ngân hàng đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Ngân hàng thương mại – Quản trị và nghiệp vụ (NXB Thống kê). Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại (David Cox). Quản trị Ngân hàng thương mại (Peter S.Rose). Báo cáo tổng hợp kết quả kinh doanh của Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (2002-2003-2004). Báo cáo tình hình lãi suất của Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (2003-2004). Các báo: Thời báo Ngân hàng, Tạp chí Tài chính Việt Nam, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, Tạp chí Khoa học Ngân hàng, Thời báo kinh tế Sài Gòn, Tạp chí Đầu tư chứng khoán (2003-2004). MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU......................................................................................................1 Chương 1: Tổng quan về chính sách lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại.....................................................................3 1.1.Tổng quan về ngân hàng thương mại.....................................................3 1.1.1.Sự ra đời và phát triển của ngân hàng thương mại................................3 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại...............................5 1.1.3. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại...........................8 1.1.3.1. Huy động vốn chủ sở hữu.............................................................8 1.1.3.2. Hoạt động huy động tiền gửi.........................................................9 1.1.3.3. Hoạt động đi vay vốn...................................................................13 1.1.3.4. Huy động vốn từ nguồn khác.......................................................14 1.2. Chính sách lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại..........14 1.2.1. Lãi suất huy động vốn của ngân hàng................................................14 1.2.2. Sự cần thiết của chính sách..................................................................19 1.2.3. Mục tiêu của chính sách.......................................................................20 1.2.4. Nội dung chính sách.............................................................................21 1.2.4.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách........................................22 1.2.4.2. Cách xác định lãi suất huy động vốn...........................................29 Chương 2: Chính sách lãi suất huy động vốn của Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam.....................................35 2.1. Giới thiệu về Ngân hàng...........................................................................35 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng.............................35 2.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng................................................37 2.1.3. Tình hình huy động vốn của Ngân hàng..............................................41 2.1.3.1. Tình hình huy động tiền gửi........................................................41 2.1.3.2. Tình hình huy động từ nguồn khác..............................................44 2.2. Chính sách lãi suất huy động vốn của Ngân hàng.................................45 2.2.1. Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ....................................................................................................................45 2.2.2. Mục tiêu của Ngân hàng đối với chính sách.......................................46 2.2.3. Thực trạng chính sách của Ngân hàng................................................47 2.2.3.1. Tình hình lãi suất huy động ........................................................47 2.2.3.2. Chi phí lãi suất huy động.............................................................59 2.2.3.3. Chỉ tiêu quản lý lãi suất huy động...............................................61 Chương 3: Hoàn thiện chính sách lãi suất huy động vốn ở Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam..........................................64 3.1. Mục tiêu phát triển của Ngân hàng trong những năm tới.....................64 3.2. Các giải pháp...................................................................................64 3.2.1. Các giải pháp trong ngắn hạn............................................................65 3.2.2. Giải pháp trong dài hạn.......................................................................69 3.3. Một số kiến nghị.....................................................................................72 KẾT LUẬN........................................................................................................75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................76 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0268.doc
Tài liệu liên quan