Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư

Lời mở Đầu Tính cấp thiết của đề tài Quỹ hỗ trợ phát triển ra đời và hoạt động từ ngày 1/1/2000 đã đánh dấu một bước phát triển mới trong lĩnh vực đầu tư phát triển của Việt Nam. Với chức năng tập trung, huy động các nguồn lực tài chính trong và ngoài nước để hỗ trợ các dự án đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế mà Nhà nước cần khuyến khích đầu tư thông qua các hình thức cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, Quỹ hỗ trợ phát triển trở thành trung gian tài chí

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh lớn nhất thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Trong 3 hình thức hỗ trợ đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là một chính sách mới có nhiều ưu điểm vượt trội so với cho vay đầu tư và bảo lãnh tín dụng đầu tư, có khả năng mang lại nhiều lợi ích cho cả Nhà nước và doanh nghiệp. Về phía Nhà nước, chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư không đòi hỏi nguồn vốn lớn mà vẫn đảm bảo hỗ trợ cho nhiều doanh nghiệp, chi phí quản lý thấp, không gặp phải rủi ro tín dụng đồng thời xoá bỏ được sự bao cấp vốn đầu tư như những năm trước đây. Về phía doanh nghiệp, chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư một mặt giảm bớt gánh nặng lãi suất tín dụng cho doanh nghiệp trong quá trình đầu tư, mặt khác nó phát huy tính chủ động, sáng tạo của chủ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm nguồn vốn, đồng thời gắn việc vay vốn với trách nhiêm sử dụng vốn có hiệu quả và hoàn trả đúng hạn. Tuy nhiên, sau hơn hai năm thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, kết quả đã hoàn toàn không được như mong đợi. Trong năm 2000 và 2001, toàn bộ hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển chỉ thực hiện được 143 hợp đồng với tổng số tiền hỗ trợ là 68 tỷ đồng đạt 34% kế hoạch Nhà nước giao. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là do chính sách chưa hoàn thiện đã gây cho doanh nghiệp và Quỹ Hỗ trợ phát triển không ít khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện. Sự không hoàn thiện thể hiện trên nhiều mặt: đối tượng được hưởng chính sách, quy trình lập và thông báo kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, điều kiện thủ tục còn rườm rà và đặc biệt là cơ chế tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư không hợp lý nên không hỗ trợ thoả đáng cho doanh nghiệp. Trong quá trình thực tập tại Vụ Tài chính các ngân hàng và các tổ chức tài chính, thuộc Bộ tài chính, là cơ quan Nhà nước trực tiếp quản lý hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển; đồng thời có tham khảo kinh nghiệm thực tế tại chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà nội, em đã tập trung nghiên cứu về chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và tiến hành làm luận văn tốt nghiệp với đề tài: " Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư", với hy vọng rằng những kiến nghị do em đề xuất có thể ứng dụng được trong thực tiễn góp phần đưa chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư thực sự đi vào cuộc sống. Mục đích nghiên cứu -Nghiên cứu tình hình thực tế việc thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển, tìm ra những điểm còn chưa hợp lý gây cản trở đến việc thực thi chính sách. -Đưa ra những kiến nghị có căn cứ khoa học và thực tiễn đễ sửa đổi những điểm còn chưa hợp lý của chính sách. Nội dung của luận văn: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương: - Chương I: Khái quát về đầu tư phát triển, hoạt động hỗ trợ đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển đồng thời trình bày chi tiết về chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. - Chương II: Phân tích chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và tinh hình thực hiện chính sách hỗ trợ laĩ suất sau đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển trong hai năm 2000 và 2001; đánh giá những thành tựu đạt được và những tồn tại cần phải khắc phục. - Chương III: Đề xuất những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng- Tài chính; các cô chú, anh chị trong Vụ Tài chính-Ngân hàng, Bộ Tài Chính đã giúp đỡ nhiệt tình và tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành luận văn này. Đặc biệt là các anh Trương Hùng Long, Nguyễn Đức Chi, chị Ngô Lan Phương cùng các anh chị thuộc Phòng Các tổ chức tài chính và thị trường chứng khoán đã hướng dẫn và giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực tập và làm luận văn tại cơ quan. Em cũng xin cảm ơn chú Nguyễn Thanh Chuân, Trưởng Ban Bảo lãnh-Hỗ trợ lãi suất, Quỹ hỗ trợ phát triển; anh Đan Bảo Thắng, trưởng Phòng Tín dụng địa phương, chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà Nội đã tạo điều kiện cho em tham khảo kinh nghiệm thực tiễn và sưu tầm tài liệu. Đặc biệt, em xin cảm ơn thầy giáo Lục Diệu Toán, Vụ trưởng Vụ Tài chính-Kế toán, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường là người đã tận tâm hướng dẫn em trong suốt quá trình thực tập và hoàn thành luận văn này. Chương I Khái quát về đầu tư phát triển và hoạt động hỗ trợ đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển I. Đầu tư phát triển và vai trò của đầu tư phát triển đối với tăng trưởng kinh tế 1. Khái niệm về đầu tư phát triển * Khái niệm: Thuật ngữ " đầu tư " (investment) có thể được hiểu đồng nghĩa với "sự bỏ ra", "sự hi sinh" những cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Chẳng hạn, chúng ta xem xét các tình huống sau dây: Một công ty đã chi 100 triệu đồng để xây dựng thêm một kho chứa nguyên vật liệu. Một nhân viên văn phòng đã chi tổng cộng hết 4 triệu đồng cho việc học đại học tại chức trong thời gian bốn năm. Một thương gia bỏ ra 200 triệu mua hàng dự trữ trong thời vụ tết. Một giáo viên hàng tháng để dành 500.000 đồng đem gửi tiết kiệm để hưởng lãi suất. Một doanh nhân bỏ ra 50 triệu đồng để mua lại cổ phần của hãng A từ một cổ đông của hãng. Công ty B bán 400 triệu đồng chứng khoán và dùng tiền này để xây thêm một phân xưởng mới. Trường đại học X đã chi hàng chục triệu đồng để mời các chuyên gia kinh tế giỏi đến để báo cáo về thành quả đổi mới chính sách và quản lý kinh tế ở Việt Nam cho giáo viên của trường. Tất cả những hành động bỏ tiền ra để tiên hành các hoạt động trên đây đều nhằm mục đích chung là thu được lợi ích (về tài chính, về cơ sở vật chất, về nâng cao trình độ, bổ sung kiến thức...) trong tương lai, lớn hơn những chi phí bỏ ra. Và vì vậy, nếu xem xét trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị đã bỏ tiền ra thì các hành động này đều được gọi là đầu tư. Tuy nhiên, nếu xem xét trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả hành động trên đây đều đem laị lợi ích cho nền kinh tế và được coi là đầu tư của nền kinh tế. Các hoạt động gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần, mua hàng tích trữ không hề làm tăng tài sản (tài chính, vật chất, trí tuệ...) cho nền kinh tế. Các hành động này thực chất chỉ là việc chuyển giao quyền sử dụng tiền (gửi tiết kiệm) quyền sở hữu cổ phần và hàng hoá (mua lại cổ phần và mua tích luỹ hàng hoá) từ người này sang người khác và do đó chỉ làm cho số tiền thu về của người đầu tư lớn hơn số tiền mà họ đã bỏ ra tuỳ thuộc vào lãi suất tiết kiệm, lợi tức cổ phần hoặc giá hàng vào dịp Tết. Giá trị tăng thêm của người đầu tư ở đây lại chính là giá trị mất đi của quỹ tiết kiệm (lãi suất phải trả); của cổ đông đã bán lại cổ phần ( lợi tức cổ phần); của người mua hàng vào dịp tết (với giá cao). Tài sản của nền kinh tế trong trường hợp này không có sự thay đổi một cách trực tiếp. Các hoạt động bỏ tiền xây dựng thêm kho chứa nguyên vật liệu, chi 4 triệu để đi học đại học tại chức, phát hành chứng khoán để xây dựng thêm một phân xưởng mới, tổ chức báo cáo khoa học, đã làm tăng thêm các tài sản vật chất (xây thêm kho chứa nguyên vật liệu, thêm một phân xưởng mới) tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực (học đại học tại chức, bồi dưỡng giáo viên) cho nền kinh tế. Các hoạt động này gọi là đầu tư phát triển hay đầu tư trên giác độ nền kinh tế. Như vậy, đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân, các tổ chức không phải là đầu tư đối với nền kinh tế. * Phân biệt đầu tư phát triển với các hoạt động đầu tư khác: Từ sự phân tích trên đây, xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể phân biệt các loại đầu tư sau đây: - Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiêm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư (đánh bạc nhằm mục đích thu lời cũng là một loại đầu tư tài chính nhưng bị cấm do gây nhiều tệ nạn xã hội. Công ty mở sòng bạc để phục vụ nhu cầu giải trí của người đến chơi nhằm thu lại lợi nhuận về cho công ty thì đây lại là đầu tư phát triển, nếu được Nhà nước cho phép và tuân theo đầy đủ các quy chế hoạt động do Nhà nước quy định để không gây ra các tệ nạn xã hội). Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng. Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư. Để giảm độ rủi ro, họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. - Đầu tư thương mại: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch gía khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến hoạt động ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. - Đầu tư phát triển: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ta tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo một tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. 2. Vai trò của đầu tư phát triển đối với nền kinh tế 2.1. Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước: * Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu: Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Trong ngắn hạn, tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường d1 dịch chuyển sang d2) kéo theo sản lượng cân bằng tăng theo từ Q0 -Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ Po-P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 -E1 Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư tác phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên (đường tổng cung dịch chuyển từ vị trí s1 sang s2), kéo theo sản lượng tiềm năng tăng từ Q1-Q2 và do đó gía cả sản phẩm giảm từ P1-P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại kích thích sản xuất tăng hơn nữa. Sản xuất phát triển là là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. p s1 s2 E1 P1 E0 P0 E3 P2 d2 d1 Qo Q1 Q2 q Hình 1: Tác động của đầu tư đến tổng cung và tổng cầu *Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn đình vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá của các hàng hoá có liên quan tăng (giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư) dến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Đầu tư giảm cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng ngược lại so với các tác động trên đây. Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. * Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế Hàm sản xuất đơn giản nhất và nổi tiếng nhất dược sử dụng để phân tích sự phát triển kinh tế do các nhà kinh tế Roy Harrod (Anh) Và Evsey Domar (Mỹ) nêu ra từ những năm 1940 đã chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tỷ lệ đầu tư và hệ số gia tăng tư bản- đầu ra (ICOR - Incremental Capital-Output Ratio) như sau: i g= ----- k Trong đó: g là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế i: Tỷ lệ đầu tư trong GDP k: Hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (ICOR), k = Dk/Dy, (Dk-mức tăng của vốn, Dy-mức tăng của sản lượng) Như vậy, theo phương trình trên thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tỷ lệ thuận với tỷ đầu tư của nền kinh tế và tỷ lệ nghịch với hệ số ICOR. Điều đó có nghĩa là để duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và lâu dài của nền kinh tế cần phải giữ vững và gia tăng tỷ lệ đầu tư đồng thời khống chế ở mức chấp nhận được đối với hệ số ICOR. Nếu hệ số ICOR không đổi thì tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào tỷ lệ đầu tư. Hệ số ICOR của Việt Nam thời kỳ 1986-2000 86-90 91-95 96-98 1999 2000 Tăng trưởng GDP (%) 4,34 8,2 7,77 4,8 6,7 Đầu tư so GDP (%) 13,4 22,03 28,37 26,0 28,3 ICOR 3,0 2.7 3,7 5,4 4,3 Bảng 1: Nguồn niên giám thống kê, www.vneconomy.vn ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5-7 do thừa vốn thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng nhiều công nghệ có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển, ICOR thấp từ 2 - 3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Bảng trên cho thấy có sự thay đổi rõ ràng giữa tốc độ tăng trưởng, đầu tư và hệ số ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1986-2000. Hệ số ICOR của Việt Nam có xu hướng tăng, đặc biệt có sự tăng lên mạnh mẽ kể từ năm 1996 do nhiều nguyên nhân, các nhà kinh tế dự báo rằng hệ số ICOR của Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục tăng. Do vậy để có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 7% trong những năm tới chúng ta cần đảm bảo tỷ lệ đầu tư đạt trên 30% GDP mỗi năm. * Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để có thể tăng trưởng (từ 9-10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển quá trình chuyển dịch cơ cấu kiinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế , kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển. * Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO, nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt Nam đang nằm ở giai đoạn 2 và 3. Việt Nam đang là 1 trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra dược một chiến lược phát triển nhanh và vững chắc. Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi nới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. 2.2. Đối vớ các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ Đầu tư quyết định sự ra đời , tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà, xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy nóc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền vớ sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất - kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại; sau một thời gian hoạt động các cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ sở này bị hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn hoặc đổi mới để thích ứng với diều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội., phải mua sắm các trang thiết bị mới, thay thế cho các trang thiết bị cũ cũng có nghĩa là phải đầu tư. 3. Tín dụng Nhà nước cho đầu tư phát triển và vai trò của nó đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tín dụng Nhà nước là quan hệ tín dụng mà trong đó Nhà nước vừa là người đi vay để đảm bảo các khoản chi tiêu của Ngân sách Nhà nước, đồng thời là người cho vay để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình trong quản lý kinh tế-xã hội và phát triển quan hệ đối ngoại. Hình thức huy động của tín dụng Nhà nước thể hiện như: công trái quốc gia, công phiếu kháng chiến trong những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; hay trái phiếu kho bạc, trái phiếu địa phương, trái phiếu đầu tư trong giai đoạn hiện nay. Tín dụng Nhà nước cho đầu tư phát triển là một bộ phận của tín dụng Nhà nước. Đây cũng là một hình thức tín dụng, trong đó Nhà nước là người cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế vay để thực hiện đầu tư phát triển trên cơ sở hoàn trả cả gốc và lãi cho Nhà nước theo quy định của hợp đồng tín dụng đã ký giữa cơ quan Nhà nước được Uỷ quyền thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước với đơn vị vay vốn. Mục đích của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là trợ giúp và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tăng cường đầu tư phát triển, thúc đẩy việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một nguồn vốn quan trọng của đầu tư phát triển. ở nước ta, trước năm 1990 vốn Ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển chủ yếu được thực hiện thông qua con đường cấp phát trực tiếp cho các doanh nghiệp, tín dụng Nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ quản lý và điều tiết nền kinh tế. Đến giai đoạn 1991-2000 vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã tăng trưởng tương đối nhanh cả về giá trị tuyệt đối lẫn giá trị tương đối. Trong năm 1991-1995, nguồn vốn tín dụng Nhà nước chiếm 5-6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tăng lên không ngừng đạt 14,5% giai đoạn 1996-1998. Riêng năm 2000, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước chiếm tới 17% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. * Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong việc xoá bỏ bao cấp trong đầu tư: Trước năm 1996, khi luật ngân sách chưa ra đời, việc đầu tư trực tiếp từ Ngân sách Nhà nước đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp là một trong những hình thức bao cấp trong đầu tư. Do việc cấp phát không hoàn lại trực tiếp, các doanh nghiệp, dân cư thường trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, không chú trọng tìm kiếm giải pháp kinh doanh hữu hiệu làm cho hiệu quả sử dụng vốn thấp. Sự bao cấp trong đầu tư là một trong những nguyên nhân của sự trì trệ và các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Từ năm 1996 trở lại đây, Ngân sách Nhà nước chỉ cấp phát trực tiếp cho những công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Còn đối với những dự án đầu tư, những công trình có khả năng thu hồi vốn trực tiếp nhưng lại chưa có đủ khả năng đứng vững trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh tự do mà Nhà nước vẫn cần phải nắm giữ hoặc dự án có hiệu quả kinh tế xã hội gián tiếp cao mà chỉ có khả năng thu hồi một phần vốn đầu tư thì Nhà nước thông qua hình thức vốn tín dụng Nhà nước để đầu tư phát triển. * Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong điều tết vĩ mô nền kinh tế Thông qua vốn tín dụng đầu tư phát triển, Nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực nhất định theo ý đồ chủ trương của chiến lược của mình. Bên cạnh các công cụ kinh tế khác như chính sách đất đai, thuế, chính sách tiền tệ, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là công cụ đắc lực, trực tiếp, rất hiệu quả trong điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng công cụ tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được thể hiện như sau: Bằng công cụ tín dụng đầu tư phát triển, Nhà nước thu hút một lượng vốn lớn tồn đọng trong dân cư vào đầu tư phát triển nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá: Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước trong giai đoạn 1991-2000 chủ yếu tập trung ở ngành công nghiệp như điện, than, xi măng, thép, dệt, da, may, hoá chất, cơ khí điện tử, nhà máy nước, phương tiện vận tải tải, thiết bị thi công... Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đầu tư vào các ngành công nghiệp chiếm trên 60% tổng số vốn đầu tư (gần 55% số dự án) đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu đầu tư cho công nghiệp từ 34,6% (năm 1993) lên 36,6% (năm 1995) 40% (năm 1998) và 40,2% (năm 2000). Việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung vào ngành công nghiệp đã làm cho giá trị sản xuất của ngành công nghiệp tăng đáng kể, ngay cả khi nền kinh tế đất nước bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của khu vực và trên thế giới, tăng từ 12,7% (năm 1993) lên 14,5% (năm 1996) và 15,5% ( năm 2000). Hàng loạt các công trình quan trọng đưa vào khai thác, sử dụng nâng cao năng lực sản xuất của đất nước. Ngoài đầu tư vào ngành công nghiệp, một lượng đáng kể vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tập trung vào ngành công nghiệp chế biến. Nhiều cơ sở chế biến đông lạnh xuất khẩu, chế biến chè, 3 nhà máy đường và nhiều nhà máy chế biến nông sản khác vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã tạo được bước đi ban đầu vững chắc cho sự nghiệp phát triển. II. Quỹ hỗ trợ phát triển và chính sách hỗ trợ đầu tư của quỹ hỗ trợ phát triển: 1. Quỹ hỗ trợ phát triển: Quỹ hỗ trợ phát triển là tổ chức tài chính Nhà nước được thành lập trên cơ sở tiếp nhận chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, tài sản của hệ thống Tổng cục đầu tư phát triển và Quỹ Hỗ trợ đầu tư quốc gia trước đây. Văn bản pháp quy quy định mô hình tổ chức và hoạt động của Quỹ là Nghị định của Chính Phủ số 50/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999. Nội dung các hoạt động của Quỹ được quy định trong Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 và nghị định số 50 nói trên. Quỹ hỗ trợ phát triển là cơ quan thuộc chính phủ, là công cụ tài chính giúp chính phủ thực hiện chính sách ưu tiên phát triển theo định hướng chung, Quỹ có chức năng huy động vốn trung và dài hạn, tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn của Nhà nước dành cho đầu tư phát triển để thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển của Nhà nước. Hoạt động nghiệp vụ của Quỹ hỗ trợ phát triển bao gồm: cho vay đầu tư trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế xã hội trong đó hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu trong giai đoạn hiện nay. Hoạt động nghiệp vụ của Quỹ tương tự như hoạt động của một ngân hàng thương mại tuy nhiên Quỹ không phải là một ngân hàng thương mại do đó không phải chịu sự điều chỉnh của các luật liên quan về hoạt động tín dụng và tổ chức ngân hàng cũng như không phải chịu sự giám sát trực tiếp của Ngân hàng Trung Ương như các ngân hàng thương mại khác. Cơ chế tài chính trong hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển có thể tóm tắt như sau: Quỹ là tổ chức hoạt động theo nguyên tắc không vì mục tiêu lợi nhuận nhưng có bảo đảm hoàn vốn và bù đắp chi phí. Theo đó, lãi suất cho vay mà Quỹ hỗ trợ phát triển thực hiện được quy định bởi Chính phủ, Quỹ được miễn nộp thuế và các khoản phải nộp Ngân sách khác để giảm lãi xuất cho vay và giảm chi phí bảo lãnh. Quỹ được Nhà nước cấp bù chênh lệch lãi suất , được bù đắp rủi ro do nguyên nhân khách quan khi thực hiện các nhiệm vụ Nhà nước giao. Nguồn vốn hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển bao gồm vốn điều lệ, vốn tiếp nhận và các nguồn vốn huy động từ các cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài. Vốn điều lệ trong thời gian đầu của Quỹ do tiếp nhận từ Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, và được Ngân sách Nhà nước cấp bổ sung hàng năm là 3000 tỉ đồng (theo quy định của Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999). Cho đến nay vốn điều lệ của Quỹ đã lên đến 5000 tỷ đồng. Vốn tiếp nhận của Quỹ hỗ trợ phát triển bao gồm vốn tiếp nhận từ Ngân sách nhà nước cấp hàng năm cho các mục tiêu được bố trí trong dự toán chi hỗ trợ đầu tư của Ngân sách Nhà nước: tăng nguồn vốn đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và hỗ trợ việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (trong trường hợp có phát sinh); toàn bộ nguồn nguồn vốn vay nợ, viện trợ nước ngoài của Chính phủ dùng để cho vay lại các dự án đầu tư phát triển. Ngoài ra, Quỹ còn được tiếp nhận vốn của các ngành, cơ quan, tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng, các quỹ đầu tư trong nước uỷ thác cho Quỹ để cho vay đầu tư và thu hồi nợ hoặc cấp phát vốn đầu tư cho các chương trình dự án đầu tư phát triển. Bên cạnh các nguồn vốn do Ngân sách Nhà nước cấp và nguồn vốn tiếp nhận từ các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước, Quỹ hỗ trợ còn được phép huy động vốn trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế, trong tương lai đây sẽ là nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển. Hiện nay, vốn huy động của Quỹ hỗ trợ phát triển chủ yếu là huy động từ các quỹ: Quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài, Tiết kiệm bưu điện, vốn tạm thời nhàn rỗi của Bảo hiểm xã hội Việt nam, khối lượng, kỳ hạn và lãi suất của các khoản vốn trên do chính phủ quy định. Ngoài ra, vốn huy động của Quỹ còn bao gồm vốn từ phát hành trái phiếu chính phủ, vốn do Quỹ tự huy động từ thị trường tài chính hầu như chưa có . 2. Các chính sách hỗ trợ đầu tư của Quỹ Hỗ trợ phát triển: Các hình thức hỗ trợ của Quỹ hỗ trợ phát triển được quy định tại nghị địng 43/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ bao gồm: Cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. 2.1. Cho vay đầu tư: Cho vay đầu tư bằng vốn tín dụng phát triển của Nhà nước là một trong các hình thức hỗ trợ đầu tư của Nhà nước đối với các dự án đầu tư của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư. * Đối tượng cho vay: Đối tượng cho vay là các dự án đầu tư phát triển có khả năng thu hồi vốn trực tiếp (bao gồm cả dự án cho vay thành lập doanh nghiệp mới, cho vay đổi mới thiết bị công nghệ mở rộng sản xuất) của các thành phần kinh tế. Bao gồm: Những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn thuộc các ngành: - Sản xuất điện, khai thác khoáng sản ( trừ dầu khí, nước khoáng, vàng, đá quý); hoá chất cơ bản, phân bón, thuốc trừ sâu vi sinh - Chế tạo máy công cụ, máy động lực phục vụ nông nghiệp - Xây dựng cơ sở chế biến: nông sản, lâm sản, thuỷ sản, xây dựng cơ sở làm muối. - Sản xuất hàng xuất khẩu - Trồng rừng nguyên liệu tập trung, trồng cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả. - Cơ sở hạ tầng về giao thông, cấp nước, nhà ở - Các dự án nuôi trồng thuỷ sản, trăn nuôi bò sữa. - Các dự án thực hiện chủ trương của Chính phủ về xã hội hoá y tế, giáo dục, văn hóa, thể dục thể thao. * Lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay của Quỹ hỗ trợ phát triển là lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước quy định tại nghị định 43/1999/NĐ-CP bằng 9%, khi lãi suất thị trường tăng hay giảm 10% trở lên, Thủ tướng Chính phủ sẽ ra quyết định điều chỉnh lãi suất cho vay. 2.2. Bảo lãnh tín dụng đầu tư Bảo lãnh tín dụng đầu tư là cam kết bằng văn bản của Quỹ hỗ trợ phát triển với tổ chức tín dụng cho vay vốn về việc trả nợ đầy đủ , đúng hạn của bên đi vay . Trong trường hợp bên đi vay không trả được toàn bộ hay một phần nợ vay ( cả gốc và lãi ) khi đến hạn, Quỹ hỗ trợ phát triển sẽ chịu trách nhiệm trả nợ thay cho bên đi vay. Bên đi vay vốn phải nhận nợ bắt buộc và hoàn trả cho Quỹ số tiền được trả nợ thay Đối tượng được bảo lãnh là các chủ đầu tư có dự án đầu tư thuộc diện được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn thi hành luật khuyến khích đầu tư trong nước nhưng không được vay đầu tư hoặc mới được vay một phần vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Chủ đầu tư muốn được bảo lãnh phải có đủ các điều kiện: Đã được tổ chức tín dụng thẩm đinh cho vay và có văn bản yêu cầu bảo lãnh. Được Quỹ hỗ trợ phát triển chấp thuận phương án tài chính, phướng án trả nợ vốn._. vay và phải có tài sản bảo đảm cho bảo lãnh. Nếu là doanh nghiệp Nhà nước có thể dùng tài sản hình thành từ vốn vay để làm tài sản bảo đảm còn nếu là doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì ngoài việc phải dùng tài sản hình thành từ nguồn vốn tín dụng làm tài sản bảo đảm còn phải thế chấp tài sản trị giá tối thiểu bằng 50% mức vốn được bảo lãnh. Hàng năm, Quỹ hỗ trợ phát triển được trích 5% tổng số vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước (trừ vốn ODA cho vay lại) để dự phòng trả cho các tổ chức tính dụng khi chủ đầu tư được bảo lãnh không trả nợ đúng hạn. Hàng năm, chủ đầu tư phải trả cho Quỹ phí bảo lãnh bằng 0,5% tính trên tổng số tiền đang được bảo lãnh Tóm lại, với Việt Nam, việc hình thành hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển là một bước đi phù hợp để hình thành một tổ chức tài chính chính sách có tiềm lực mạnh có thể giúp chính phủ thực hiện tốt chủ trương, đường lối và chính sách phát triển kinh tế-xã hội ở các ngành, các địa phương, vùng địa bàn trọng yếu theo các nội dung: Tín dụng đầu tư phát triển với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư. Đồng thời, có thể trở thành đầu mối quản lý một số chương trình mục tiêu của Nhà nước như xoá đói giảm nghèo, các chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng sâu, vùng xa, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. III. Chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là việc Nhà nước thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển để hỗ trợ một phần laĩ suất cho chủ đầu tư các dự án thuộc diện hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định của Chính phủ về hướng dẫn thi hành luật khuyến khích đầu tư trong nước do chủ đầu tư vay vốn của các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam để đầu tư, đã hoàn thành đưa vào sử dụng và đã hoàn trả được vốn vay. Xét về mặt bản chất, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư chính là trợ cấp một phần chênh lệch lãi suất cho các dự án đã đầu tư thuộc đối tượng khuyến khích đầu tư trong nước. Việc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư sẽ thay thế việc chủ dư án vay vốn tín dụng từ Ngân sách Nhà nước với lãi suất ưu đãi bằng việc chủ dự án được chủ động vay vốn từ bất kỳ tổ chức tín dụng nào thuận tiện nhất để đầu tư mà vẫn được hưởng lãi suất ưu đãi của Nhà nước. Nguồn vốn hỗ trợ lãi suất sau đầu tư được Ngân sách Nhà nước cấp hàng năm theo kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và được bố trí trong dự toán chi đầu tư phát triển của Nhà nước hàng năm. 1. Đối tượng được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: Theo quy định của nghị định 43, đối tượng được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư bao gồm: - Các dự án thuộc diện được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định tại danh mục A ban hành kèm theo nghị định số 51/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1997 quy định chi tiết thi hành luật khuyến khích đầu tư trong nước, bao gồm: + Các dự án thuộc lĩnh vực trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng, trồng cây lâu năm trên đất hoang hoá đồi núi trọc, khai hoang, làm muối, nuôi trồng thuỷ sản ở vùng chưa được khai thác. + Các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển vận tải công cộng, phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá dân tộc. + Sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu + Đánh bắt hải sản xa bờ, chế biến nông sản, lâm sản, thuỷ sản, dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. + Nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ, dịch vụ khoa học công nghệ, tư vấn pháp lý, đầu tư, kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. + Đầu tư mở rộng dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải thiện sinh thái và môi sinh, vệ sinh đô thị, di chuyển cơ sở sản xuất ra khỏi đô thị, đa dạng hoá ngành nghề, sản phẩm. + Một số ngành nghề khác cần ưu tiên phát triển như: Chăn nuôi có quy mô công nghiệp, cơ khí nông nghiệp... - Bên cạnh các dự án thuộc lĩnh vực ngành nghề quy định tại danh mục A thì các dự án khác được thực hiện ở các địa bàn kinh tế xã hội khó khăn, dặc biệt khó khăn quy định ở các danh mục B và C của Nghị định số 51/1999/NĐ-CP cũng thuộc diện được Nhà nước ưu đãi đầu tư và cũng có thể được hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. -Tại quyết đính số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10/9/2001 của Tthủ tướng Chính phủ đã mở rộng đối tượng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các doanh nghiệp sản xuất chế biến, gia công hàng xuất khẩu mà phương án tiêu thụ sản phẩm của dự án đạt kim ngạch xuất khẩu ít nhất bằng 30% doanh thu hàng năm. 2. Điều kiện để được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư Các doanh nghiệp muốn được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư ngoài việc phải thuộc đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi như nêu ở trên còn phải đáp ứng đầy đủ một số điều kiện khác như: - Được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Thủ tục cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư theo quy định của Nghị định 51/1999/NĐ-CP thì tại địa phương, sở kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố tiếp nhân hồ sơ đề nghị ưu đãi đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiêm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp doanh, liên hiệp hợp tác xã, hợp tác xã kinh doanh ngành nghề, các doanh nghiệp nhà nước thuộc địa phương quản lý, doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị, chính trị- xã hội nghề nghiệp do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh cho phép thành lập, cơ sở giáo dục, y tế, văn hoá có giấy chứng nhận đăng ký hoạt động, các doanh nghiệp do người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc người nước ngoài thường trú tại Việt Nam thành lập theo luật của Việt Nam... Riêng Uỷ ban nhân dân cấp quận, huyện được phép tiếp nhận hồ sơ xin ưu đãi đầu tư của các hợp tác xã (không thuộc đối tượng do Sở Kế hoạch và đầu tư giải quyết) của các cá nhân và nhóm kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập hoặc do Thủ tướng Chinh phủ uỷ quyền, phân cấp cho Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền của Trung ương quyết định thanh lập thì Bộ Kế hoạch và đầu tư là cơ quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. - Dự án xin hỗ trợ lãi suất sau đầu tư phải là dự án chưa được vay đầu tư hoặc bảo lãnh tín dụng đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước. - Dự án đã đăng ký và được bố trí kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư trong kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển hàng năm của Nhà nước. - Dự án phải được Quỹ Hỗ trợ phát triển chấp thuận và ký hợp đồng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. - Chủ đầu tư phải lập và gửi đầy đủ hồ sơ đến Quỹ Hỗ trợ phát triển. Hồ sơ gồm: + Giấy đề nghị hỗ trợ lãi suất sau đầu tư (Theo mẫu do Quỹ Hỗ trợ phát triển quy định). + Quyết định đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. + Hợp đồng tín dụng ký giữa chủ đầu tư và tổ chức tín dụng cho vay vốn. - Biên bản thanh lý hợp đồng tín dụng hoặc chứng từ gốc trả nợ trong năm. 3. Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư được quy định tại điều 28 Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và được cụ thể hoá trong quyết định số 14/2000/QĐ-HĐQL ngày 2/3/2000 của Hội đồng quản lý Quỹ hỗ trợ phát triển về việc ban hành tạm thời quy chế hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Theo đó mức hỗ trợ được tính như sau: -Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho cả dự án: Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho cả dự án được xác định một lần căn cứ vào tổng số vốn đã vay đầu tư của các tổ chức tín dụng và mức lãi suất vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được tính tại thời điểm vay vốn và ổn định trong suốt thời hạn vay vốn (theo quy định của Nghị địng 43/1999/NĐ-CP, mức lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là 9%/năm và khi lãi suất thị trường tăng giảm 10% Thủ tướng Chính phủ sẽ quyết định thay đổi lãi suất cho vay) được xác định như sau: Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho dự án = Tổng số vốn đã vay đầu tư của tổ chức tín dụng x 50% mức lãi suất vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước - Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư hàng năm: Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư hàng năm của dự án = Số nợ gốc đã trả trong năm x 50% mức lãi suất vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước Mức hỗ thợ lãi suất sau đầu tư hàng được tính trên cơ sở số nợ gốc chủ đầu tư trả cho tổ chức tín dụng theo hợp đồng tín dụng đã ký và được xác định như sau: 4.Trình tự lập và thông báo kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: Kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là một bộ phận của kế hoạh tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được Thủ tướng chính phủ quyết định giao hàng năm cho Quỹ Hỗ trợ phát triển về nguồn vốn, tổng mức vốn hỗ trợ lãi suất sau đầu tư theo cơ cấu ngành, lĩnh vực vụng kinh tế. Trình tự lập và thông báo kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư như sau: * Lập kế hoạch: Hàng năm vào thời gian lập dự toán Ngân sách Nhà nước, căn cứ vào tiến độ hoàn thành dự án, hợp đồng tín dụng đã ký giữa chủ đầu tư và tổ chức tín dụng cho vay vốn, hợp đồng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đã ký giữa Quỹ hỗ trợ phát triển với chủ đầu tư, văn bản hướng dẫn lập kế hoạch của Nhà nước, chủ đầu tư lập kế hoạch vốn hỗ trợ lãi suất sau đầu tư gửi Bộ, Cơ quan ngang Bộ, các Tổng công ty Nhà nước, Uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương. Đầu tháng 9 hàng năm, các Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố và các tổ chức có liên quan tổng hợp kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước thuộc phạm vi quản lý trong đó có kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư có chia ra theo cơ cấu ngành, lĩnh vực, vùng gửi Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính và Quỹ hỗ trợ phát triển. * Thông báo kế hoạch: Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Thủ tướng chính phủ quyết định giao kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển cho Quỹ hỗ trợ phát triển, Quỹ sẽ thông báo bằng văn bản kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố và các tổ chức có liên quan Trong thời hạn 30 ngày kể từ khi nhận được thông báo của Quỹ, các Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố và các tổ chức có liên quan phải đăng ký kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư với Quỹ (danh mục dự án và mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của từng dự án). Việc bổ sung, điều chỉnh kế hoạch năm được thực hiện vào quý 3 năm đó. 5. Cấp vốn và quyết toán vốn hỗ trợ lãi suất sau đầu tư Việc cấp tiền hỗ trợ lãi suất sau đầu tư được thực hiện một năm một lần vào cuối năm trên cơ sở số nợ gốc chủ đầu tư đã trả cho tổ chức tín dụng. Để được cấp tiền hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, chủ đầu tư phải trình cho Quỹ hỗ trợ phát triển hồ sơ cấp vốn gồm: Biên bản kiểm nghiệm thu bàn giao công trình hoặc hạng mục công trình hoàn thành đưa vào sử dụng, khế ước nhận nợ có xác định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, chứng từ gốc trả nợ trong năm của chủ đầu tư cho tổ chức tín dụng cho vay vốn. . 6. Tính ưu việt của chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư so với các hình thức hỗ trợ đầu tư khác. Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là một hình thức hỗ trợ đầu tư đã được ứng dụng từ rất lâu ở nhiều nước trên thế giới để hỗ trợ cho các dự án đầu tư phát triển tuy nhiên lại rất mới mẻ đối với Việt Nam. Đây là hình thức hỗ trợ đầu tư có nhiều ưu điểm so với các hình thức hỗ trợ đầu tư mà Nhà nước ta đã áp dụng trước đây và hiện nay. Các ưu điểm đó thể hiện trên các mặt sau: Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư kích thích tính chủ động trong hoạt động kinh doanh, phát huy năng lực của chủ đầu tư. Nếu được hỗ trợ bằng hình thức này, chủ đầu tư được chủ động tìm kiếm nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng bất kỳ thuận lợi nhất, có thể rút vốn vay bất kỳ lúc nào tuỳ thuộc vào tiến độ của dự án. Chủ đầu tư không phải trông chờ ỷ lại vào nguồn vốn tín dụng của nhà nước mà vẫn được hưởng ưu đãi về lãi suất như các dự án được vay vốn. Mặt khác, khi vay vốn từ các tổ chức tín dụng chủ đầu tư phải tính toán kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm vì phải hoàn trả vốn và lãi đúng hạn cho tổ chức tín dụng. Chính việc phải hoàn trả vốn vay trong thời hạn vay vốn làm cho các nhà đầu tư phải tư duy động não, suy tính để hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh có hiệu quả, hoàn trả được vốn vay. Ngoài ra, việc vay vốn từ các tổ chức tín dụng làm cho luồng vốn tiết kiệm trong dân cư được vận động đưa vào sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu suất sinh lời của đồng vốn, làm cho hoạt động trên thị trường tài chính thêm phần sôi động. Vốn hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là loại vốn "mồi" có tính đòn bẩy rất mạnh. Chỉ với một lượng vốn nhỏ dùng để hỗ trợ lãi suất sau đầu tư Nhà nước có thể lôi kéo được một lượng vốn lớn hơn gấp nhiều lần đang tồn tại dưới "trạng thái nghỉ" trong túi dân chúng và trong két sắt của các tổ chức tín dụng. Ví dụ: Giả sử Nhà nước bỏ ra 2 tỷ đồng để hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các dự án, theo nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999, mức lãi suất hỗ trợ toàn dự án là 50% lãi suất vay vốn tín dụng Nhà nước, nếu mức lãi suất này bằng 7% như hiện nay thì với 2 tỷ đồng đó Nhà nước đã lôi kéo được 2tỷ/(50%x7%)=54,14 tỷ đồng đầu tư cho nền kinh tế. Trong bối cảnh rất thiếu vốn đầu tư phát triển như nước ta hiện nay và Nhà nước không đủ tiềm lực tài chính để hỗ trợ cho các doanh nghiệp thì tính đòn bẩy cao của hỗ trợ lãi suất sau đầu tư quả thật là rất hữu ích. Đó thực sự là một công cụ tài chính mạnh của Nhà nước để thực hiện chính sách kích thích đầu tư phát triển. Bên cạnh các ưu điểm nêu trên, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư còn là một giải pháp nhằm làm giảm gánh nặng cho Nhà nước, trước hết là gánh nặng về huy động vốn. Nếu Nhà nước hỗ trợ cho doanh nghiệp bằng hình thức cấp vốn trực tiếp như những năm trước đây hoặc cho vay đầu tư thì Nhà nước sẽ phải huy động một lượng vốn lớn hơn rất nhiều so với trường hợp hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Ngoài ra, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư không đòi hỏi Nhà nước phải tham gia vào quá trình thẩm định dự án, giám sát đầu tư- công việc này đã được các tổ chức tín dụng tài trợ cho dự án làm thay, việc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư chỉ diễn ra khi việc trả nợ vốn gốc của chủ đầu tư cho tổ chức tín dụng đúng như hợp đồng tín dụng- do đó giảm được chi phí quản lý cho Nhà nước. Việc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cũng không đòi hỏi công tác thu hồi vốn nên cũng không tiềm tàng các rủi ro tín dụng cho Nhà nước so với các hình thức cấp vốn trực tiếp hay cho vay đầu tư. Chương 2 Thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của Quỹ Hỗ trợ phát triển và sự cần thiết phải hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư I. Khái quát về tình hình hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển trong hai năm 2000 và 2001. 1. Hoạt động cho vay đầu tư Bảng 2: Kết quả hoạt động cho vay đầu tư Nguồn vốn Năm 2000 Năm 2001 Kế hoạch Chính Phủ giao Thực hiện Mức đạt kế hoạch (%) Kế hoạch Chính Phủ giao Thực hiện Mức đạt kế hoạch (%) Vốn trong nước 7407 6583 89 13600 11397 83.8 Vốn ODA cho vay lại 11500 9061 79 9800 8103 82.7 Tổng vốn cho vay trong năm 18907 15644 82.7 23400 19497 83.32 Kết quả hoạt động cho vay đầu tư trong hai năm 2000 và 2001 được tóm tắt trong bảng sau Nhìn vào bảng trên ta thấy: Mặc dù trong hai năm hoạt động, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đều chưa đạt được kế hoạch Chính Phủ giao (năm 2000 đạt 82,7 %, năm 2001 đạt 83,32%) nhưng vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao. Số vốn năm 2001 tăng 81% so với năm 2000, nâng tổng dư nợ đến ngày 31/12/2001 của Quỹ Hỗ trợ phát triển lên trên 45000 tỷ đồng, trong đó vốn trong nước hơn 15000 tỷ đồng tăng 69% so với đầu năm. Vốn đầu tư của Quỹ Hỗ trợ phát triển đã và đang tham gia vào gần 6000 dự án lớn nhỏ trên phạm vi cả nước, thuộc nhiều ngành nghề lĩnh vực cần khuyến khích; trong đó năm 2001 có 1350 dự án của cả kinh tế Trung Ương và kinh tế Địa Phương với tổng mức vốn đầu tư là 11026 tỷ đồng được thực hiện chủ yếu bằng vốn vay của Quỹ Hỗ trợ phát triển, đã hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng, thu hút được 170000 lao động, tăng thu ngân sách trên 700 tỷ đồng + Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn Quỹ đã đầu tư trên 2200 tỷ đồng vào trên 600 dự án sản xuất nông lâm thuỷ sản, trong đó có 167 dự án chế biến, 164 dự án nuôi trồng, 206 dự án trồng cây công nghiệp, cây lâu năm, góp phần chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu. Nhờ được đầu tư hàng nghìn tỷ đồng đánh bắt hải sản xa bờ, hàng trăm tỷ đồng nuôi trồng thuỷ hải sản và hàng nghìn tỷ đồng cho công nghiệp chế biến, kim ngạch xuất khẩu thuỷ hải sản của Việt Nam đã đạt tới 1,76 tỷ USD trong năm 2001 tăng 24% so với năm 2000 Ngoài ra, trong hai năm 2000 và 2001, Quỹ đã thẩm định và cho gần 200 dự án với tổng số vốn 133 tỷ đồng để khôi phục và phát triển làng nghề sản xuất thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thuỷ tinh... tại các tỉnh có làng nghề truyền thống như: Bắc Ninh, Hà Tây, Nam Định, Thái Bình, Đà Nẵng...nhờ đó một số làng nghề truyền thống từng bước được khôi phục, doanh nghiệp có vốn đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ để nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm nhằm nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Bên cạnh việc đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh, Quỹ còn chú trọng đầu tư cho các dự án thuộc chương trình kiên cố hoá kênh mương, đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản, cơ sở hạ tầng làng nghề nông thôn ở 59 tỉnh thành phố nâng tổng số vốn đầu tư cho các chương trình này trong 3 năm 1999, 2000 và 2001 lên 2300 tỷ đồng + Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng Trong hai năm 2000 và 2001, Quỹ Hỗ trợ phát triển đã thẩm định và cho vay trên 1000 tỷ đồng để đầu tư 57 dự án của ngành dệt may. Một số dự án lớn, có tầm quan trọng nhằm đảm bảo cho ngành dệt may đạt kim ngạch xuất khẩu 2,5 tỷ USD trong năm 2002, trong đó vào thị trường Mỹ là 250 triệu USD đã được triển khai thực hiện, đó là dự án đầu tư nhà máy kéo sợi chất lượng cao tại cụm công nghiệp Phú Bài, dự án đầu tư dây chuyền sản xuất vải không dệt, dây chuyền nhuộm sợi, dây chuyền kéo sợi...Ngoài mục tiêu xuất khẩu, những dự án này còn tạo điều kiện để phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm mũi nhọn về xuất khẩu, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo nhiều việc làm cho xã hội. Việc đầu tư cho điện lực cũng được chú trọng để phát triển nhanh, mạnh một ngành mũi nhọn của sự nghiệp công nghiệp hoá. Bên cạnh việc tiếp tục giải ngân vốn ODA và gần 2000 tỷ đồng vốn đối ứng cho các dự án đang được thực hiện, trong năm 2001, các dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện lớn như nhiệt điện Uông Bí , nhiệt điện Đại ninh, nhiệt diện Ô môn đã được khởi công xây dựng từ nguồn vốn vay của Quỹ Hỗ trợ phát triển. Đồng thời với việc đầu tư các dự án phát triển nguồn điện, Quỹ còn đầu tư cho các dự án lưới điện nông thôn, miền núi để đưa lưới điện quốc gia về đến các hộ nông dân, điển hình là ở hai tỉnh Tuyên Quang và Vĩnh Long. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải có một ngành cơ khí phát triển, hiện đại. Trong hai năm 2000-2001, Quỹ đã cho vay đầu tư đối với các doanh nghiệp cơ khí gần 2000 tỷ đồng, trong đó các doanh nghiệp đóng tàu biển và mua tàu biển trong nước trên 1000 tỷ, các doanh nghiệp sản xuất quạt điện, xe đạp, xe máy gần 300 tỷ, phần còn lại dành cho các doanh nghiệp thuộc các ngành sản xuất động cơ, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp và sửa chữa cơ khí. Giao thông vận tải- bưu điện là ngành được Quỹ quan tâm nhiều nhất. Chỉ riêng trong năm 2001, tổng số vốn Quỹ đầu tư cho ngành này gần 3000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 25,3% tổng số vốn cho vay của Quỹ trong năm 2001 đưa tổng số vốn đầu tư cho ngành này trong 3 năm 1999,2000 và 2001 lên 3500 tỷ đồng để thực hiện 183 dự án. Quỹ cũng đã thẩm định và cho vay 200 tỷ đồng thực hiện dự án đóng mới toa xe khách, toa xe hàng, đến nay các dự án đều đã sắp hoàn thành và đã có sản phẩm đưa vào khai thác sử dụng. 2. Hoạt động bảo lãnh tín dụng đầu tư Nhìn chung, hoạt động bảo lãnh tín dụng đầu tư chưa được triển khai tốt trong những năm qua. Trong năm 2000, chỉ có 4 Bộ, Tổng công ty và hai địa phương đăng ký bảo lãnh tín dụng đầu tư cho 27 dự án với tổng số tiền là 214 tỷ đồng (trong đó có một dự án xin bảo lãnh vay vốn ngoại tệ tại ngân hàng) tuy nhiên Quỹ chỉ thực hiện thẩm định được một số dự án và không tiến hành bảo lãnh cho dự án nào. Năm 2001, số dự án đăng ký bảo lãnh tín dụng đầu tư chỉ còn 11 dự án, với tổng mức vốn bảo lãnh là 56,91 tỷ đồng nhưng Quỹ mới chỉ ký hợp đồng bảo lãnh được cho 3 dự án với mức vốn là 20 tỷ đồng đạt 20% kế hoạch Chính Phủ giao. Nguyên nhân dẫn đến việc khó khăn trong triển khai chính sách bảo lãnh tín dụng đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển có nhiều nhưng nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là do điều kiện để được bảo lãnh tín dụng đầu tư quá khắt khe nên không hấp dẫn các nhà đầu tư. Trên thực tế chủ đầu tư chẳng được ưu đãi gì nhiều bởi để được bảo lãnh tín dụng đầu tư thì dự án đầu tư phải qua hai đầu mối là tổ chức tín dụng cho vay vốn và Quỹ hỗ trợ phát triển thẩm định chặt chẽ như dự án vay vốn đầu tư, vừa phải chịu lãi suất cao của tổ chức tín dụng cộng với phí bảo lãnh của Quỹ Hỗ trợ phát triển. Mặt khác, đối với các dự án có khả năng trả nợ, phương án tài chính lành mạnh thì các ngân hàng sẵn sàng cho vay không cần có sự bảo lãnh của Qũy Hỗ trợ phát triển. Các ngân hàng chỉ yêu cầu bảo lãnh đối với các dự án có tình hình tài chính không ổn định hoặc khả năng trả nợ thấp. Tuy nhiên hầu hết các dự án loại này, sau khi thẩm định lại không đủ điều kiện được bảo lãnh của Quỹ Hỗ trợ phát triển (theo như Điều 31 của Nghị định 43/1999/NĐ-CP) II. Thực trạng thực hiện hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của Quỹ Hỗ trợ phát triển. Trong hai năm đầu thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, nhìn chung kết quả đạt được không như mong đợi. Năm 2000, Quỹ được Chính phủ giao kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư với tổng giá trị các hợp đồng là 100 tỷ đồng nhưng Quỹ chỉ thực hiện được 11503 triệu đồng, đạt 11,5%. Trong năm 2001, kế hoạch Chính phủ giao là 100 tỷ đồng, Quỹ đã thực hiện được 57314 triệu đồng, đạt 57,3% kế hoạch. Tình hình hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các doanh nghiệp cụ thể như sau: 1. Tình hình đăng ký kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư Tình hình đăng ký kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của các doanh nghiệp được tóm tắt trong bảng sau: Bảng 3: Tình hình đăng ký kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư Khu vực Năm 2000 Năm 2001 Số dự án Nội tệ (triệu đồng) Ngoại tệ (USD) Số dự án Nội tệ (triệu đồng) Ngoại tệ (USD) Kinh tế Trung Ương 92 59955 1600000 109 57238 712380 Kinh tế Địa phương 319 79665.8 7245 215 63769 214570 Trong năm 2000, Quỹ Hỗ trợ phát triển đã nhận được đăng ký kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của 47 Bộ, ngành, địa phương với số vốn là 139.621 triệu đồng và 1067245 USD. Trong đó: + Có 32/59 tỉnh, thành phố đăng ký gồm 319 dự án, với số vốn là 79665,8 triệu đồng và 1600000 USD + Có 15/26 Bộ, ngành, tổng công ty đăng ký gồm 92 dự án, với số vốn là 59955 triệu đồng và 1600000 USD Trong năm 2001, số dự án đăng ký kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư giảm xuống chỉ còn 324 dự án với tổng mức vốn xin hỗ trợ là 231082,55 triệu đồng; trong đó có 109 dự án của 18/30 bộ, ngành với số vốn là 57238 triệu đồng và 7123800USD, 215 dự án của 46/61 địa phương với mức vốn là 63769 triệu đồng và 214570 USD. Số dự án đăng ký kế hoạch giảm là do chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư còn nhiều hạn chế và số dự án được hỗ trợ trong năm 2000 quá ít đã làm nản lòng các nhà đầu tư. 2. Tình hình ký kết và thực hiện hợp đồng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư Mặc dù tổng số vốn đăng ký kế hoạch trong năm 2000 lên tới 163729 triệu đồng (cả các dự án vay vốn bằng ngoại tệ) nhưng Quỹ chỉ ký được hợp đồng với 49 dự án vay vốn bằng nội tệ với tổng số tiền hỗ trợ là 11503,055 triệu đồng; trong đó Trung ương có 17 dự án với tổng mức hỗ trợ là 8657,615 triệu đồng, Địa phương có 32 dự án với tổng mức hỗ trợ là 2845,44 triệu đồng. Quỹ không ký được hợp đồng hỗ trợ cho các dự án vay vốn bằng ngoại tệ do trong năm này chưa có quy chế tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các dự án vay vốn bằng ngoại tệ. Trong năm 2001, mặc dù số dự án đăng ký kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư có giảm nhưng số hợp đồng hỗ trợ lãi suất đã ký tăng đáng kể, Quỹ đã thẩm định và chấp nhuận hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho 126 dự án với tổng mức vốn hỗ trợ là 57314 triệu đồng ( trong đó số hợp đồng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho dự án vay vốn ngoại tệ trị giá 1347000USD, chiếm 35,2%), tăng 157% về số dự án và 387% về số vốn chấp thuận hỗ trợ so với năm 2000. Trong năm này Quỹ đã thực hiện hỗ trợ cho 112 dự án theo như hợp đồng đã ký với tổng số tiền hỗ trợ là 8.5 tỷ đồng, trong đó bao gồm cả 49 dự án chuyển tiếp từ năm 2000. 3. Tình hình hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các doanh nghiệp xuất khẩu Đẩy mạnh xuất khẩu là một mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế, trong những năm qua, Nhà nước ta đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu bằng nhiều hình thức khác nhau như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới, áp dụng mức thuế suất thuế VAT và thuế tiêu thụ đặc biệt 0% đối với hàng hoá xuất khẩu, miễn và giảm thuế xuất khẩu cho phần lớn các mặt hàng xuất khẩu đồng thời đưa các dự án xuất khâủ vào danh mục đối tượng ưu đãi đầu tư để được hưởng chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước. Về tín dụng ưu đãi của Nhà nước cho các doanh nghiệp xuất khẩu, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định 133/2001/QĐ-TTg ngày 10/9/2001 về việc ban hành quy chế tín dụng xuất khẩu, trong đó quy định Quỹ hỗ trợ phát triển có trách nhiệm hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu bằng các hình thức: Cho vay đầu tư trung và dài hạn, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư và cho vay vốn ngắn hạn. Trong các hình thức hỗ trợ trên thì hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư được các doanh nghiệp xuất khẩu ưa thích bởi họ có thể chủ động vay vốn từ ngân hàng thương mại thuận tiện nhất, có thể cung cấp các dịch vụ thanh toán quốc tế đi kèm với xuất nhập khẩu ( hiện nay Quỹ hỗ trợ phát triển chưa thể cung cấp các dịch vụ này bởi Quỹ chưa được phép thanh toán trực tiếp với các ngân hàng thương mại ) mà vẫn được hưởng ưu đãi về lãi suất. Mặc dù mới triển khai thực hiện hỗ trợ xuất khẩu được 4 tháng nhưng kết quả thu được thật khả quan. Ngoài việc ký được hợp đồng cho vay đầu tư với hơn 100 dự án với tổng số vốn cho vay gần 300 tỷ đồng, Quỹ đã thẩm định và chấp thuận hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho 84 hợp đồng xuất khẩu sang 15 nước với tổng số tiền hỗ trợ là 3260 triệu đồng. Cụ thể: - Mặt hàng gạo: 7 hợp đồng, tổng số tiền hỗ trợ là 760 triệu đồng - Mặt hàng cà phê: 15 hợp đồng, tổng số tiền hỗ trợ là 360 triệu đồng -Mặt hàng thuỷ sản: 45 hợp đồng, tổng số tiền hỗ trợ là 1380 triệu đồng - Mặt hàng rau quả hộp: 4 hợp đồng, tổng số tiền hỗ trợ là 240 triệu đồng - Mặt hàng thịt lợn: 3 hợp đồng, tổng số tiền hỗ trợ là 100 triệu đồng - Mặt hàng khác: 10 hợp đồng, tổng số tiền hỗ trợ là 440 triệu đồng. Chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đã phần nào tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện giúp một số doanh nghiệp đứng vững và duy trì thị trường truyền thống đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu gạo và cà phê bởi vì trong hai năm qua các mặt hàng này bị sụt giá nhiều trên thị trường thế giới. III. Những tồn tại của chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư Mặc dù chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đã được các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách nghiên cứu, chuẩn bị một cách công phu và tỉ mỉ trong nhiều năm, nhưng vì đây là lần đầu tiên chính sách này được đưa vào áp dụng ở nước ta nên cũng không tránh khỏi những sai sót, lệch lạc so với yêu cầu của thực tiễn. Sau hai năm thực hiện, mặc dù chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đã bắt đầu đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả nhưng nó cũng đã bộc lộ những tồn tại, đây là cũng là nguyên nhân cơ bản làm cho chính này chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư và kết qủa thực hiện chính sách trong hai năm qua chưa đáp ứng được những kỳ vọng của Chính phủ với vai trò là người hoạch định chính sách và của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế với vai trò là người hưởng lợi từ chính sách này. Những tồn tại của chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư thể hiện trên những phương diện sau: 1. Điều kiện hỗ trợ lãi suất sau đầu tư còn rườm rà: Thứ nhất, về giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư: Theo quy định của điều 26, Nghị định số 43/1999/NĐ-CP và Quyết định số 14/2000/QĐ-HĐQL ngày 2/3/2000 của Hội đồng Quảnlý Quỹ hỗ trợ phát triển về quy chế hỗ trợ lãi suất sau đầu tư thì doanh nghiệp muốn được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư ngoài việc phải thuộc đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước còn phải thoả mãn một số các điều kiện. Một trong các điều kiện đó là doanh nghiệp phải có giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp. Tuy nhiên để có được giấy chứng nhận này doanh nghiệp phải tốn khá nhiều thời gian và công sức; nếu là doanh nghiệp do Trung Ương quản lý thì đơn đề nghị xin cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư phải được gửi về bộ chủ quản sau đó mới được chuyển sang Bộ Kế hoạch và đầu tư để được xem xét cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, còn nếu là doanh nghiệp do địa phương quản lý thì đơn xin cấp giấy chứng nhận này phải được gửi về Sở Kế hoạch và đầu tư hoặc Uỷ Ban Nhân Dân huyện trước khi được trình lên chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh đễ được xem xét cấp giấy. Trên thực tế đã có rất nhiều doanh nghiệp vì chưa xin được giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư mà không đăng ký được kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư phải đợi đến năm sau, do đó đã không nhận được tiền hỗ trợ lãi suất sau đầu tư kịp thời. Thứ hai, chỉ có các dự án chưa được vay đầu tư hoặc bảo lãnh tín dụng đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước mới được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Trên thực tế, có rất nhiều dự án đã vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nhưng nguồn vốn này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn đầu tư cho công trình còn một phần lớn vốn được vay từ các tổ chức tín dụng trên thị trường và theo quy định trên những dự án này không được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho phần vốn vay trên thị trường. Tất cả các dự án này khi gửi đơn đăng ký kế hoạch hỗ trợ lãi._.từ bản chất của chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là bù chênh lệch lãi suất để doanh nghiệp không được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước vẫn được hưởng ưu đãi về lãi suất. Mặt khác, đối tượng được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển là một bộ phận của đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư nên nếu mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư không thoả đáng thì đương nhiên sẽ không hấp dẫn được những đối tượng này. + Phải đảm bảo công bằng giữa các nhà đầu tư được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Công bằng ở đây không có nghĩa là " cào bằng", hỗ trợ như nhau đối với mọi dự án.Công bằng ở đây có nghĩa là dự án nào phải trả nhiều tiền laĩ thì sẽ được hỗ trợ nhiều, dự án nào phải trả ít tiền lãi thì sẽ được hỗ trợ ít. Việc nhà đầu tư phải trả tiền lãi nhiều hay ít không hoàn toàn do ý muốn chủ quan của họ mà phần nhiều là do yếu tó khách quan như đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của ngành nghè kinh doanh, thời hạn hoàn vốn của dự án..., do vậy phải hỗ trợ thoả đáng thì mới khuyến khích họ đầu tư. +Khi xây dựng cơ chế tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư phải tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến tiền lãi mà chủ đầu tư phải trả cho tổ chức tín dụng, bao gồm các yếu tố: thời hạn cho vay, lãi suất, thời hạn thực vay và phương thức trả nợ. Tuân thủ nguyên tắc này sẽ tạo điều kiện để việc hỗ trợ được chính xác, sát với yêu cầu thực tế hơn và đảm bảo công bằng giữa các nhà đầu tư. + Đảm bảo hỗ trợ đúng mức, kịp thời cho doanh nghiệp, tiết kiệm cho Ngân sách Nhà nước, ngăn ngừa khả năng câu kết giữa chủ dự án và tổ chức tín dụng lợi dụng chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư để chiếm đoạt tiền của Nhà nước. Nguyên tắc này là cần thiết bởi số tiền hỗ trợ lãi suất sau đầu tư được tính dựa trên những căn cứ trong hợp đồng tín dụng giữa chủ đầu tư và tổ chức tín dụng cho vay vốn nên nếu có sự cấu kết gian lận trong việc lập hợp đồng tín dụng thì có thể dẫn đến việc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư không đúng, gây tổn thất cho ngân sách Nhà nước. 3.2. Xây dựng cơ chế mới tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư a). Thay thế tỷ lệ lãi suất hỗ trợ Theo cách tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư như quy định của Nghị định 43/1999/NĐ-CP của Chính Phủ (công thức (1)) và Quyết định 58/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ (công thức (2)), tỷ lệ lãi suất hỗ trợ được tính bằng 50% lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Chương II đã phân tích và chứng minh rằng tỷ lệ lãi suất hỗ trợ như vậy là chưa hợp lý và không có cơ sở khoa học, làm cho việc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư thiếu đi sự công bằng và xa rời với thực tế nhu cầu cần được hỗ trợ của các doanh nghiệp. Do vậy để hoàn thiện cơ chế tính mức hỗ trợ lãi suất hợp lý, trước tiên cần thiết phải bắt đầu bằng việc thay đổi tỷ lệ lãi suất hỗ trợ. Để có thể đưa ra tỷ lệ lãi suất hỗ trợ hợp lý cần phải xuất phát từ bản chất của chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đó là cấp bù chênh lệch lãi suất để doanh nghiệp không được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước vẫn được hưởng ưu đãi về lãi suất. Do vậy, nên chăng thay vì quy định tỷ lệ lãi suất hỗ trợ bằng 50% lãi suất vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, ta lấy chênh lệch giữa lãi suất vay vốn của tổ chức tín dụng với lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước làm tỷ lệ lãi suất hỗ trợ. Nếu theo cách này ta có công thức tính mức hỗ trợ lãi suất từng năm của dự án như sau: Mức hỗ trợ LSSĐT hàng năm của dự án = Số nợ gốc đã trả trong năm theo hợp đồng tín dụng x Lãi suất cho vay tại thời điểm vay vốn của TCTD (trong phạm vi lãi suất cơ bản - Lãi suất tín dụng ĐTPT tại cùng thời điểm vay vốn của TCTD x Thời hạn thực vay đối với số nợ gốc hoàn trả trong năm theo hợp đồng tín dụng T = pk*(i - r)*nk (3) Công thức tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư toàn dự án: Trong đó: i: là lãi suất vay vốn của tổ chức tín dụng trong phạm vi lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố r: là lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước Pk: số nợ gốc đã trả trong lần trả thứ k theo hợp đồng tín dụng nk: thời hạn vay vốn thực tế (tính theo năm) của khoản vốn trả trong lần trả thứ k Công thức (3) được xây dựng trên cơ sở sửa đổi tỷ lệ lãi suất hỗ trợ của công thức (2) và nó đã khắc phục được một số hạn chế của công thức này. Cụ thể: Công thức (3) đã tính đến lãi suất thực tế cho vay của tổ chức tín dụng do đó mức hỗ trợ lãi suất tính theo công thức này sát với nhu cầu thực tế cần được hỗ trợ của các doanh nghiệp hơn. Doanh nghiệp có thể vay vốn từ tổ chức tín dụng bất kỳ khi có nhu cầu mà không phải băn khoăn nhiều về vấn đề lãi suất; nếu vay với lãi suất cao họ sẽ được hỗ trợ nhiều, vay với lãi suất thấp thì được hỗ trợ ít. Công thức này tỏ ra thông thoáng hơn nhiều so với công thức (2), nó khuyến khích doanh nghiệp mạnh dạn vay vốn để đầu tư ngay cả trong thời kỳ lãi suất trên thị trường tăng cao. Mặt khác, nó cũng tỏ ra chặt chẽ hơn theo nghĩa: nếu doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp hơn hoặc bằng lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước thì sẽ không được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Ưu điểm này cũng đã giải quyết được tình huống vô lý đã sảy ra trên thực tế đó là có những doanh nghiệp vay được vốn thấp hơn lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nhưng vẫn làm hồ sơ xin được hỗ trợ lãi suất và đã được hỗ trợ với mức hỗ trợ bằng 50% lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước (theo công thức (2)). Việc thay thế tỷ lệ lãi suất hỗ trợ như trên cũng làm cho việc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư trở nên công bằng hơn. Những dự án vay vốn tín dụng với lãi suất khác nhau giờ đây đã nhận được những mức hỗ trợ khác nhau. Dự án vay vốn với lãi suất cao được hỗ trợ nhiều, dự án vay vốn với lãi suất thấp được hỗ trợ ít, sau khi nhận được tiền hỗ trợ thì tất cả các dự án vay vốn với lãi suất khác nhau đều chỉ phải chịu mức lãi suất thực tế bằng với lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Tỷ lệ lãi suất hỗ trợ mới cũng tạo ra sự bình đẵng hơn giữa các nhà đầu tư được hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư với các nhà đầu tư được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, bởi vì giờ đây dù vay vốn tín dụng của Nhà nước hay của các tổ chức tín dụng trên thị trường thì họ đều chịu chung một mức lãi suất bằng với lãi suất tín dụng đầu tư phát triển. Sự thay đổi về tỷ lệ lãi suất hỗ trợ như trên mặc dù đã giải quyết được một số mặt hạn chế của công thức (2) nhưng đồng thời nó cũng làm phát sinh những vấn đề mới đòi hỏi phải được giải quyết. Đó là: tỷ lệ lãi suất hỗ trợ phụ thuộc vào lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng đối với từng dự án cụ thể do đó có thể dẫn đến trường hợp tổ chức tín dụng thông đồng với chủ dự án để nâng lãi suất cho vay lên cao hơn mức bình thường để cùng nhau chiếm đoạt tiền của Nhà nước bằng con đường hỗ trợ lãi suất sua đầu tư. Ngoài ra việc quy định tỷ lệ lãi suất hỗ trợ như trên cũng sẽ tạo ra tâm lý ỷ lại cho chủ dự án, không tích cực trong việc đàm phán với tổ chức tín dụng để giảm lãi suất cho vay (vì dù lãi suất cao hay thấp chủ dự án chỉ phải chịu mức lãi suất thực tế bằng với lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước), hoặc tồi tệ hơn là chủ dự án có thể chấp nhận mức lãi suất cao do tổ chức tín dụng đề xuất để dễ dàng có được khoản vay một cách nhanh chóng. Trong các trường hợp trên người bị thiệt hại cuối cùng vẫn là Nhà nước. Do vậy, để có thể sử dụng sử dụng tỷ lệ lãi suất hỗ trợ bằng chênh lệch lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng với lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước mà không gặp phải những tồn tại nêu trên, cần thiết phải ban hành kèm theo đó những quy định cụ thể như: lãi suât cho vay của tổ chức tín dụng phải bằng hoặc thấp hơn lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố hoặc giao động xung quanh laĩ suất này với biên độ hẹp hơn; hoặc cũng có thể quy định rằng trong quá trình ký kết hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và chủ đầu tư phải có sự tham gia giám sát của đại diện Quỹ hỗ trợ phát triển. b). Xây dựng công thức tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư dựa trên số dư nợ của khoản tín dụng. Như đã được phân tích ở chương II, các công thức tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư dựa trên số nợ gốc đã trả hàng năm của dự án (như các công thức (1), (2), (3) ) có rất nhiều hạn chế mà hạn chế lớn nhất đó là nó đã tạo ra những khó khăn tài chính giả tạo mà chủ dự án phải gánh chịu; tức là khi thời gian ân hạn đã hết, chủ dự án bắt đầu phải thanh toán nợ cả gốc lẫn lãi cho tổ chức tín dụng cho vay vốn, dự án lúc này có thể mới hoàn thành hoặc chưa hoàn thành, doanh thu có thể có ít hoặc chưa có nhưng số tiền lãi phải trả là nhiều do số dư nợ lớn trong khi nếu được hỗ trợ lãi suất theo các công thức trên thì số tiền nhận được sẽ nhỏ do các khoản nợ gốc trả trước có thời hạn thực vay thấp hơn thời hạn thực vay của các khoản nợ gốc trả sau. Mức hỗ trợ LSSĐT cho từng lần trả nợ của dự án = Số dư nợ đầu kỳ x Lãi suất cho vay tại thời điểm vay vốn của TCTD (trong phạm vi lãi suất cơ bản - Lãi suất tín dụng ĐTPT tại cùng thời điểm vay vốn của TCTD x Khoảng thời gian tồn tại của số dư nợ (quy đổi theo năm) Do vậy, để khắc phục hạn chế này, nên chăng thay vì sử dụng số nợ gốc đã trả từng lần để làm cơ sở tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho dự án ta sử dụng số dư nợ của khoản tín dụng tại thời điểm đầu mỗi kỳ trả nợ. Trên thực tế, chủ đầu tư phải trả lãi cho tổ chức tín dụng cho vay vốn trên số dư nợ đầu mỗi kỳ trả nợ do đó việc ta sử dụng số dư này làm căn cứ tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cũng là điều hợp lý và có cơ sở thực tiễn. Nếu theo hướng này, công thức tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của dự án có thể như sau: Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho từng lần trả nợ Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư toàn dự án: T = Dk*(i - r)*lk (4) Trong đó: Dk: số dư nợ gốc đầu kỳ k lk : thời gian tồn tại của số dư Dk (khoảng thời gian quy đổi theo năm của kỳ k) i : lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng r : lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của dự án T : mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư toàn dự án n : số lần trả nợ gốc Phương án này đã khắc phục được những mặt hạn chế của các phương án trước và nó cũng có nhiều ưu điểm hơn. Có thể thấy ưu điểm của nó thể hiện trên những mặt sau: Với phương án hỗ trợ này, chủ đầu tư có thể chủ động vay vốn ở bất kỳ tổ chức tín dụng nào trong nước với lãi suất thương mại để đầu tư, nhưng khi được Nhà nước hỗ trợ lãi suất thì lợi ích hoàn toàn giống với trường hợp vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước bởi vì số tiền hỗ trợ lãi suất sau đầu tư chủ dự án nhận được đúng bằng chênh lệch giữa tiền lãi phải trả cho tổ chức tín dụng với tiền lãi phải trả trong trường hợp vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Thực vậy, biến đổi công thức (4) ta được: T = Dk*(i - r)*lk Û T = Dk*i*lk - Dk*r*lk Trong đó Dk*i*lk chính là tổng số tiền lãi chủ dự án phải trả cho tổ chức tín dụng. Dk*r*lk chính là tổng số tiền lãi chủ đầu tư phải trả cho Nhà nước trong trường hợp vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước Như vậy có thể thấy rằng công thức (4) đã thoả mãn nguyên tắc quan trọng nhất của chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đó là đã hỗ trợ thoả đáng cho doanh nghiệp, đảm bảo lợi ích cho họ tương đương với trường hợp được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Khi dư nợ lớn thì mức trợ cấp lãi suất lớn và khi dư nợ giảm thì khoản trợ cấp cũng giảm. Như vậy, nó có tác dụng giải quyết tốt những khó khăn tài chính ban đầu cho chủ dự án. 0 1 2 3 ... ... .... .... .... ... n | | | | | p1 p2 p3 ... ... ... ... ... pn Ngoài ra, nếu áp dụng theo công thức (4) thì chi phí cho việc hỗ trợ lãi suất của Nhà nước cũng không cao hơn so với trường hợp áp dụng theo công thức (3) bởi vì mặc dù mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư theo công thức (3) có xu hướng biến đổi tăng dần trong khi mức hỗ trợ theo công thức (4) lại có xu hướng giảm dần nhưng nếu xét tổng thể số tiền hỗ trợ lãi suất sau đầu tư toàn dự án thì hai công thức (3) và (4) cho cùng một mức hỗ trợ như nhau. Thật vậy: Biến đổi công thức (3) ta có: t1 = p1*(i-r)*n1 = p1*(i-r)*l1 t2 = p2*(i-r)*n2 = p2*(i-r)*(l1+l2) t3 = p3*(i-r)*n3 = p3*(i-r)*(l1+l2+l3) ... ... ... ... ... ... tn = pn*(i-r)*nn = pn*(i-r)*(l1+l2+l3+...+ ln) --------------------------------------------------------------------------- (*) T = l1*(i-r)*(p1+p2+...pn) + l2*(i-r)*(p2+p3+...+pn) + ...+ ln*pn Biến đổi công thức (4) ta có: t1 = D1*(i-r)*l1 = (p1+p2+p3+...+pn)*l1*(i-r) t2 = D2*(i-r)*l2 = ( p2+p3+...+pn)*l2*(i-r) t3 = D3*(i-r)*l3 = ( p3+...+pn)*l3*(i-r) ... ... ... ... ... ... tn = Dn*(i-r)*ln = pn*ln*(i-r) ------------------------------------------------------------------------ (**) T = l1*(i-r)*(p1+p2+...pn) + l2*(i-r)*(p2+p3+...+pn) + ...+ ln*pn Ta thấy rằng (*)Û(**) chứng tỏ công thức (3) và công thức (4) có mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư toàn dự án như nhau. Để minh hoạ cho những nhận xét trên ta so sánh mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho dự án nhà máy SMC Composit ( đã được đề cập ở chương II) được tính theo hai cách khác nhau: tính theo công thức (3) và tính theo công thức (4). Bảng 8 : So sánh các tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư theo công thức (3) và công thức (4) Khế ước nhận nợ Mức hỗ trợ LSSĐT theo công thức (3) Mức hỗ trợ LSSĐT theo công thức (4) Ngày rút vốn vay Số tiền Ngày trả nợ vay Số tiền trả nợ gốc Số ngày thực vay tính HTLS Thời gian quy đổi (năm) Chênh lệch lãi suất (i-r) Số tiền cấp HTLS Số dư Số ngày tồn tại của số dư Thời gian quy đổi (năm) Chênh lệch lãi suất (i-r) Số tiền cấp HTLS theo công thức (3) 06/08/99 1089 06/05/00 108.9 274 0.761 2.88% 2.39 1089.0 274 0.761 2.88% 23.87 06/08/00 108.9 366 1.017 2.88% 3.19 980.1 92 0.256 2.88% 7.21 06/11/00 108.9 458 1.272 2.88% 3.99 871.2 92 0.256 2.88% 6.41 06/02/01 108.9 550 1.528 2.88% 4.79 762.3 92 0.256 2.88% 5.61 03/05/01 108.9 636 1.767 2.88% 5.54 653.4 86 0.239 2.88% 4.50 10/07/01 108.9 704 1.956 2.88% 6.13 544.5 68 0.189 2.88% 2.96 03/11/01 108.9 820 2.278 2.88% 7.14 435.6 116 0.322 2.88% 4.04 06/02/02 108.9 915 2.542 2.88% 7.97 326.7 95 0.264 2.88% 2.48 06/05/02 108.9 1004 2.789 2.88% 8.75 217.8 89 0.247 2.88% 1.55 06/08/02 108.9 1096 3.044 2.88% 9.55 108.9 92 0.256 2.88% 0.80 Mức hỗ trợ toàn dự án: 59.44 59.44 Bảng : So sánh Phương án (3) và Phương án (4) Bảng trên cho ta thấy: Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho dự án nhà máy SMC Composit được tính theo hai công thức khác nhau nhưng cho mức hỗ trợ toàn dự án như nhau; mức hỗ trợ từng lần được tính theo công thức (3) có xu hướng tăng dần, trong khi có xu hướng giảm dần nếu tính theo công thức (4). Điều này có nghĩa là nếu xét trên phạm vi hỗ trợ toàn dự án thì hỗ trợ theo hai phương pháp (3) và (4) tốn kém như nhau nhưng phương pháp (4) phù hợp và sát với nhu cầu của chủ dự án hơn bởi khi dư nợ lớn, chủ đầu tư phải trả tiền lãi nhiều thì nhận được mức hỗ trợ lớn như vậy nó có tác dụng giảm bớt khó khăn tài chính ban đầu cho chủ dự án. Phương pháp (4) cũng có một nhược điểm đó là chưa khuyến khích được công tác trả nợ vốn vay của các chủ đầu tư cho các tổ chức tín dụng bởi nếu duy trì dư nợ ở mức cao thì chủ đầu tư sẽ nhận được mức hỗ trợ lãi suất lãi suất lớn hơn. Tuy nhiên có thể khắc phục hạn chế này bằng cách bổ sung thêm một điều khoản vào hợp đồng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư giữa chủ đầu tư và Quỹ hỗ trợ phát triển, đó là:" Chủ dự án chỉ được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư khi vay vốn tín dụng với lãi suất thương mại và đã trả nợ gốc đầy đủ đúng hạn cho tổ chức tín dụng". T = Dk*(i - r)*lk (4) Tóm lại, để chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư thật sự là đòn bẩy khuyến khích các thành phần kinh tế mạnh dạn vay vốn từ các tổ chức tín dụng để đầu tư, cần thiết phải xác định bản chất đích thực của mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là bù chênh lệch lãi suất trên cơ sở số dư nợ vay của dự án ở từng thời điểm. Do vậy, để tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư chúng ta nên sử dụng phương pháp (4):với nội dung như đã trình bày ở trên. c). Sửa đổi công thức tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các dự án vay vốn bằng ngoại tệ: Như đã được phân tích ở chương II, công thức tính mức hỗ trợ lãi suất cho các dự án vay vốn bằng ngoại tệ theo thông tư số 51/2001/TT-BTC còn nhiều hạn chế do nó được xây dựng dựa trên cơ sở số nợ gốc đã trả hàng năm và một tỷ lệ lãi suất hỗ trợ chưa hợp lý. Do vậy công thức này cần phải được sửa đổi để đáp ứng nhu cầu cần được hỗ trợ lãi suất của rất nhiều các dự án vay vốn bằng ngoại tệ hiện nay. Ta nhận thấy rằng, việc hỗ trợ cho các dự án vay vốn bằng ngoại tệ có cùng bản chất và cũng phải tuân thủ theo các nguyên tắc giống như việc hỗ trợ cho các dự án vay vốn bằng nội tệ nên về cơ bản cách xác định mức hỗ trợ lãi suất cho các dự án vay vốn bằng ngoại tệ cũng giống với cách xác định mức hỗ trợ lãi suất cho các dự án vay vốn bằng nội tệ. Do vậy ta có thể xây dựng công thức tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các dự án vay vốn bằng ngoại tệ dựa trên công thức (4) như sau: T = Dk*(i' - r')*lk (4') Mức hỗ trợ LSSĐT cho từng lần trả nợ của dự án (theo nguyên tệ) = Số dư nợ đầu kỳ (theo nguyên tệ) x Lãi suất cho vay ngoại tệ của tổ chức tín dụng (tối đa bằng lãi suất SIBOR) - Lãi suất cơ sở để tính hỗ trợ lãi suât các dự án vay vốn ngoại tệ x Khoảng thời gian tồn tại của số dư nợ Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư toàn dự án: Trong đó: - i' là lãi suất cho vay ngoại tệ của tổ chức tín dụng ( tối đa bằng lãi suất SIBOR kỳ hạn 6 tháng taị thời điểm vay vốn) - r' là lãi suất cơ sở để tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các dự án vay vốn bằng nội tệ thay thế cho lãi suất tín dụng đầu tư phát triển bằng ngoại tệ của Nhà nước tạm thời chưa có. Lãi suất cơ bản của NHNN bằng VND (i) Lãi suất thị trường có sự quản lý của NHNN bằng USD (lãi suất SIBOR kỳ hạn 6 tháng) ------------------------------------- = ------------------------------------------------------ Lãi suất tín dụng ĐTPT của Nhà nước bằng VND (r) Lãi suất cơ bản để tính hỗ trợ LSSĐT cho các dự án vay vốn ngoại tệ (r') Lãi suất SIBOR * r Û r' = ---------------------------- i Trong việc xác định lãi suất r', điều quan trọng là phải đảm bảo sự tương đương giữa hỗ trợ lãi suất cho các dự án vay vốn bằng ngoại tệ và các dự án vay vốn bằng nội tệ và khi lãi suất tín dụng đầu tư phát triển bằng nội tệ thay đổi thì lãi suất r' cũng phải thay đổi theo. Do vậy ta có thể tính lãi suất r' như sau: Dựa vào tỷ lệ giữa lãi suất cơ bản bằng VND của Ngân hàng Nhà nước (i) với lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước (r), từ đó xác định tỷ lệ tương ứng giữa lãi suất thị trường có sự quản lý của Nhà nước đối với cho vay bằng USD (hiện nay lãi suất này được quy định bằng lãi suất SIBOR kỳ hạn 6 tháng) với lãi suất cơ sở để tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đối với dự án vay vốn bằng ngoại tệ (r'). Theo cách này ta có: Với cách tính trên, Quỹ Hỗ trợ phát triển xác định được mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho từng dự án bằng nguyên tệ. Trên cơ sở đó, căn cứ vào tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tại thời điểm hỗ trợ để xác định mức hỗ trợ lãi suất bằng đồng Việt Nam cho dự án. Cách tính như trên cũng cho phép điều chỉnh lãi suất r' phù hợp với sự thay đổi của lãi suất SIBOR và lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước để đảm bảo hỗ trợ thoả đáng cho doanh nghiệp và đảm bảo công bằng giữa các nhà đầu tư vay vốn ngoại tệ với các nhà đầu tư vay vốn bằng nội tệ. II. Những tiền đề để hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: 1. Hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư Kinh nghiệm nhiều năm cho thấy,bất kỳ một chính sách mới ra đời, nếu thiếu những cơ sở pháp lý sẽ không tránh khỏi những phát triển lệch lạc. Bởi vậy cần phải xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp lý về đầu tư phát triển nói chung và về chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư nói riêng để điều chỉnh các mối quan hệ giữa Quỹ hỗ trợ phát triển với các nhà đầu tư, giữa Quỹ với các cơ quan quản lý Nhà nước như Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng nhà nước..., đồng thời cần phải tạo ra sự nhất quán giữa các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đầu tư phát triển và chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư như: Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Ngị định 43/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của chính phủ và các văn bản khác của Chính phủ , Thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính và của Hội Đồng Quản lý Quỹ hỗ trợ phát triển. Mặt khác cần phải kịp thời bổ sung sung, sửa chữa những điểm chưa hợp lý trong các văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư phát triển, trước mắt cần sớm nghiên cứu để bổ sung, sửa đổi Nghị định 43/1999/NĐ-CP cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn bởi sau hai năm thực hiện Nghị định này đã bộc lộ nhiều thiếu sót và bất hợp lý, gây trở ngại không nhỏ cho việc thực hiện các chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. 2. Xây dựng bộ máy cán bộ vững về đạo đức và giỏi về nghiệp vụ Bộ máy cán bộ là một trong những tiền đề quan trọng quyết định đến sự thành công của chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư nói riêng và của chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nói chung. Phần lớn lực lực lượng cán bộ của hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển là kế thừa của Tổng cục đầu tư trước đây nên họ đều đã được đào tạo cơ bản và có nhiều năm kinh nghiệm. Tuy nhiên, chức năng và nhiệm vụ của hệ thống Quỹ hỗ triển được mở rộng hơn rất nhiều so với Tổng cục đầu tư trước đây, đặc biệt có thêm những hoạt động nghiệp vụ mới và khá phức tạp như bảo lãnh tín dụng đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và các hoạt động có liên quan đến quan hệ quốc tế; do đó đòi hỏi bộ máy cán bộ cũng phải được phát triển để có thể đảm đương được những yêu cầu của nhiệm vụ mới. Để thực hiện được mục tiêu trên, Quỹ hỗ trợ phát triển cần phải có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực phù hợp, kết hợp giữa đào tạo mới và đào tạo lại, giữa đào tạo trong nước và nước ngoài, giữa đào tạo về chuyên môn với giáo dục về đạo đức nghề nghiệp, tinh thần và thái độ phục vụ. 3. Thực hiện tuyên truyền rộng rãi cho các nhà đầu tư Các nhà đầu tư là đối tượng của chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và các chính sách tín dụng đầu tư phát triển khác nhưng đồng thời họ cũng là lực lượng trực tiếp tham gia vào quá trình thực hiện chính sách. Chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc nó có được các nhà đầu tư hưởng ứng hay không. Đây cũng là một chính sách hoàn toàn mới mẻ đối với các Nhà đầu tư, do vậy cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi đối với các nhà đầu tư, làm cho họ thấy được những lợi ích thiết thực của chính sách này khhông chỉ đối với bản thân họ mà cả đối với Nhà nước và toàn xã hội. Đồng thời cũng cần phải khuyến khích các nhà đầu tư tham ra góp ý để hoàn thiện chính sách bởi họ chính là những người tiếp cận trực tiếp với chính sách nên có thể phát hiện sớm những thiếu sót, hạn chế của chính sách và có thể đề xuất các giải pháp thích hợp để hoàn thiện chính sách này. Kết luận Sự ra đời của Quỹ hỗ trợ phát triển nói chung và chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư nói riêng là một chủ trương đúng đắn và sáng suốt của Đảng và Chính phủ trong chiến lược phát triển kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là một công cụ mạnh để điều tiết vĩ mô nền kinh tế trong lĩnh vực đầu tư phát triển, nó có nhiều ưu điểm mà một nền kinh tế đang trong hoàn cảnh thiếu vốn như nước ta rất cần đến, đó là: thúc đẩy các nhà đầu tư chủ động tìm kiếm nguồn vốn trên thị trường cho đầu tư phát triển, từng bước xóa bỏ bao cấp của NSNN cho hoạt động đầu tư, hỗ trợ có hiệu quả để giải quyết các khó khăn tài chính ban đầu cho các chủ đầu tư... Tuy nhiên kết quả thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư trong hai năm đầu 2000 và 2001 đã không được như mong muốn mà nguyên nhân cơ bản nhất đã được luận văn phân tích và chỉ ra đó là những tồn tại của bản thân chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư thể hiện trên các mặt: điều kiện được hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư , quy trình lập và thông báo kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu và đặc biệt là những bất hợp lý trong cơ chế tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Trên cơ sở phân tích các mặt tồn tại của chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, luận văn đã đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách này. Các giải pháp tập trung tháo gỡ các khó khăn vướng mắc trong điều kiện, thủ tục được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, trong quy trình lập và thông báo kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, và đặc biệt luận văn đã đề xuất các công thức mới để tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư thay thế cho công thức đang sử dụng hiện nay, phân tích và lựa chọn công thức hợp lý nhất, có cơ sở khoa học và phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên đây là lĩnh vực nghiên cứu còn nhiều mới mẻ, kinh nghiệm thực tiễn và trình độ chuyên môn của em còn nhiều hạn chế nên tất nhiên luận văn sẽ không tránh khỏi khiếm khuyết, em rất mong nhận được các ý kiến đóng góp, phê bình của các thầy cô giáo các nhà chuyên môn và của các bạn sinh viên. Em xin chân thành cảm ơn. Mục lục Lời nói đầu: 1 Chương I Khái quát về đầu tư phát triển và hoạt động 4 hỗ trợ đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển I. đầu tư phát triển và vai trò của đầu tư phát triển với tăng trưởng kinh tế 4 1. Khái niệm về đầu tư phát triển: * Khái niệm: 4 * Phân biệt đầu tư phát triển với các hoạt động đầu tư khác: 5 2. Vai trò của đầu tư phát triển đối với nền kinh tế 7 2.1. Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước: 7 * Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu: 7 * Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế 9 * Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 10 * Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. 11 2.2. Đối vớ các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ 11 3. Tín dụng Nhà nước cho đầu tư phát triển và vai trò của nó đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 12 * Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong việc xoá bỏ bao cấp trong đầu tư: 13 * Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong điều tết vĩ mô nền kinh tế 14 II. Quỹ hỗ trợ phát triển và chính sách hỗ trợ đầu tư của quỹ hỗ trợ phát triển: 15 1. Quỹ hỗ trợ phát triển: 15 2. Các chính sách hỗ trợ đầu tư của Quỹ Hỗ trợ phát triển: 17 2.1. Cho vay đầu tư: 17 2.2. Bảo lãnh tín dụng đầu tư 18 III. Chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: 19 1. Đối tượng được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: 20 2. Điều kiện để được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư 21 3. Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư 22 4.Trình tự lập và thông báo kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: 23 5. Cấp vốn và quyết toán vốn hỗ trợ lãi suất sau đầu tư 25 6. Tính ưu việt của chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư so với các hình thức hỗ trợ đầu tư khác. 25 Chương II Thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của Quỹ Hỗ trợ phát triển và sự cần thiết phải hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư 28 I. Khái quát về tình hình hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển trong hai năm 2000 và 2001. 28 1. Hoạt động cho vay đầu tư 28 2. Hoạt động bảo lãnh tín dụng đầu tư 31 II. Thực trạng thực hiện hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của Quỹ Hỗ trợ phát triển. 32 1. Tình hình đăng ký kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư 32 2. Tình hình ký kết và thực hiện hợp đồng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư 33 3. Tình hình hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các doanh nghiệp xuất khẩu 34 III. Những tồn tại của chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư 36 1. Điều kiện hỗ trợ lãi suất sau đầu tư còn rườm rà: 36 2. Quy trình lập và thông báo kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư quá phức tạp và tốn nhiều thời gian 37 3. Cơ chế tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư còn nhiều bất hợp lý. 39 3.1. Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư quy định tại nghị định 43/1999/ NĐ-CP 39 a) Chưa có sự phân biệt giữa các dự án có thời hạn tín dụng khác nhau 41 b) Chưa có sự phân biệt giữa các dự án có phương án trả nợ khác nhau: 43 c) Tỷ lệ lãi suất hỗ trợ chưa có cơ sở khoa học: 45 3.2. Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư theo Quyết định số 58/QĐ-TTg và thông tư số 51/TT-BTC: 46 a) Đối với các dự án vay vốn bằng đồng Việt Nam 47 b) Đối với các dự án vay vốn bằng ngoại tệ: 53 Chương III Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư 56 I. Những kiến nghị và giải pháp 55 1. Nới lỏng điều kiện được hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư 55 2. Đơn giản hoá quy trình lập và thông báo kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: 56 3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: 58 3.1. Các nguyên tắc trong việc xác định mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: 58 3.2. Xây dựng cơ chế mới tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư 60 a). Thay thế tỷ lệ lãi suất hỗ trợ 60 b). Xây dựng công thức tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư dựa trên số dư nợ của khoản tín dụng. 63 c). Sửa đổi công thức tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các dự án vay vốn bằng ngoại tệ: 72 II. Những tiền đề để hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: 74 1. Hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư 74 2. Xây dựng bộ máy cán bộ vững về đạo đức và giỏi về nghiệp vụ 75 3. Thực hiện tuyên truyền rộng rãi cho các nhà đầu tư 76 Kết luận 77 Danh mục tài liệu tham khảo 1. Hệ thống các văn pháp quy về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước - Bộ Tài Chính - 2000 2. Giáo trình Kinh tế Đầu tư - Đại học Kinh Tế Quốc Dân - 1999 3. Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước - Viện nghiên cứu Kinh tế Trung Ương - 1998 4. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Nguyễn Ngọc Hùng -1998 5. Tạp chí Tài Chính - các số năm 1999, 2000,2001, 2002 6. Tạp chí Thị trườn tài chính tiền tệ - các số năm 2000, 2001 7. Thời báo Tài chính - các số năm 2000, 2001, 2002 8. Thời báo Kinh tế Việt Nam - các số năm 2000, 2001,2002 9. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế - các số năm 2000,2001 10. Báo cáo hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển 11. Hồ sơ hỗ trợ lãi suất dự án nhà máy SMC Composit - Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà Nội 12. Hệ thống kế toán Quỹ hỗ trợ phát triển ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28746.doc