Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Con người là chủ thể của quá trình sản xuất - kinh doanh. Con người khuôn mẫu gắn liền với hiệu quả của mọi quá trình lao động xã hội.
Nguồn nhân lực là tiềm năng lao động trong một thời kỳ xác định của một quốc gia, cũng có thể xác định trên một địa phương, một ngành, hay một vùng. Theo đó, nguồn nhân lực được xác định bằng số lượng và chất lượng của bộ phận dân số có thể tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế xã hội.
Tiềm năng lao động của con người bao
124 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1639 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở Huyện Đông Anh giai đoạn 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trùm cả thể lực, trí lực và tâm lực (như đạo đức, lối sống, nhân cách và truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc).
Số lượng, chất lượng của bộ phận dân số có thể tham gia vào hoạt động kinh tế xã hội chính là số lượng, chất lượng của bộ phận dân số trong độ tuổi đang có việc làm, chưa có việc làm nhưng có khả năng làm việc. Chất lượng nguồn nhân lực để thể hiện bằng các chỉ tiêu: về tình trạng phát triển thể lực; trình độ học vấn; kiến thức; tay nghề; tác phong nghề nghiệp; v.v.. Số lượng, chất lượng nguồn nhân lực gắn bó chặt chẽ với quá trình đào tạo phát triển. Quá trình đào tạo làm biến đổi nguồn nhân lực cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu nhằm phát huy, khơi dậy những tiềm năng của con người, thúc đẩy phát triển con người về tri thức, kỹ năng, phẩm chất; thúc đẩy sáng tạo v.v..
Trong những năm tới, yêu cầu CNH, HĐH, đô thị hoá nhanh của thủ đô Hà Nội, đặc biệt ở một huyện ngoại thành như Đông Anh. Yêu cầu số lượng, chất lượng nguồn nhân lực có những đòi hỏi mới. Nhiệm vụ của đào tạo phát triển phải có những đổi mới thích ứng nhằm bảo đảm yêu cầu của tình hình mới.
Những năm qua, Hà Nội trong đó có Đông Anh có nhiều cố gắng trong việc thực hiện kế hoạch đào tạo. Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề tồn tại, cần nghiên cứu giải quyết, trong đó, vấn đề đào tạo giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất để phát triển công nghiệp và đô thị với quy mô lớn, tốc độ nhanh đang được đặt như một nhiệm vụ cấp bách. Với cương vị công tác của mình tôi chọn vấn đề: "Hoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở Huyện Đông Anh giai đoạn 2006-2010" làm đề tài luận văn Thạc sỹ Kinh tế quản lý Công, với mong muốn tham gia ý kiến vào việc giải quyết những vấn đề nêu trên.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài này
Vấn đề nhân lực, nguồn nhân lực, chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực… là những đề tài mới được nhiều tác giả quan tâm. Tuy nhiên, chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở huyện ngoại thành Đông Anh Hà Nội giia đoạn 2000-2005-2010 theo chúng tôi chưa có tác giả nào nghiên cứu và viết bài.
Trường Đại học Lao động xã hội năm 2005 có một đề tài
Trong đó đề cập đến việc lập kế hoạch và tổ chức triển khai quá trình đào tạo đối với các huyện ngoại thành Hà Nội. Trong luận văn này chúng tôi có tham khảo một số tài liệu của đề tài này. Tuy nhiên, chúng tôi tập trung theo hướng chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực (tức là tiếp cận từ phía các cấp chính quyền Nhà nước đối với nhiệm vụ đào tạo phát triển nguồn nhân lực), trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đi sâu vào vấn đề đào tạo phát triển nguồn nhân lực, gắn với giải quyết việc làm cho nông dân vùng bị thu hồi đất.
- Tác giả Nguyễn Quốc Hùng trong cuốn sách: "Đổi mới chính sách về chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai trong quá trình CNH, ĐTH ở Việt Nam" (chủ yếu từ thực tiễn Hà Nội) NXB CTQG 2006. Cũng có những ý kiến chung về đào tạo, giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất để phát triển khu công nghiệp tập trung và đô thị mới. Đề tài cũng là tài liệu tham khảo tốt đối với chúng tôi.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn được triển khai với mục đích đề xuất những kiến nghị hoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở huyện Đông Anh giai đoạn 2006-2010 chủ yếu đối với nông dân, vùng Nhà nước thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề đào tạo phát triển nguồn nhân lực của huyện Đông Anh, chủ yếu đối với nông dân vùng Nhà nước thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
Thời gian nghiên cứu từ 2000-2010.
5. Luận văn đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: điều tra, phân tích, khái quát hoá, v.v.. trong quá trình triển khai nghiên cứu.
6. Các đóng góp của luận văn
- Luận văn đã hệ thống hoá các vấn đề lí luận về nguồn lực, nguồn nhân lực, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, đặt trong bối cảnh của một huyện ngoại thành CNH, HĐH, đô thị hoá nhanh.
- Luận văn đã phân tích thực trạng phát triển kinh tế - xã hội; thực trạng nguồn nhân lực và thực trạng đào tạo phát triển nguồn nhân lực và các chính sách thúc đẩy quá trình đó. Từ đó rút ra những nhận xét về thành công và những vấn đề cần nghiên cứu giải quyết, những yêu cầu phải hoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực của huyện Đông Anh giai đoạn 2006-2010.
- Luận văn đã dự báo nhu cầu đào tạo, đề xuất 3 quan điểm và 3 yêu cầu, các chính sách và nội dung cụ thể hoàn thiện chính sách, các kiến nghị về điều kiện để thực hiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực của huyện và hiệu quả cao. Điều cần nhấn mạnh là các dự báo, các đề xuất được cụ thể hoá theo 3 khu vực: khu vực thuần phát triển nông nghiệp; khu vực phát triển ngành nghề truyền thống; khu vực đô thị hoá nhanh và cho các đối tượng cụ thể thụ hưởng chính sách: người được đào tạo; các cơ sở đào tạo và hệ thống quản lý đào tạo.
7. Luận văn, ngoài phần mở đầu, kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, mẫu phiếu hỏi, điều tra đã kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Nguồn nhân lực và đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chương 2: Thực trạng chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội giai đoạn 2000 - 2005.
Chương 3: Phương hướng, biện pháp hoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở huyện Đông Anh giai đoạn 2006 - 2010.
Chương 1
Nguồn nhân lực và đào tạo phát triển
nguồn nhân lực trong điều kiện CNH, ĐTH
1.1. Nguồn nhân lực và các đặc điểm cơ bản nguồn nhân lực trong quá trình CNH, ĐTH nhanh
1.1.1. Nguồn nhân lực và các đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực
a) Nhân lực: Theo C.Mác con người là một thực thể xã hội, đồng thời là một thực thể tự nhiên, một cấu trúc sinh học. Vì vậy, con người chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên và xã hội.
Trước hết, con người là một sinh vật, với các thuộc tính sinh học. Ngày nay, khoa học nghiên cứu về cơ thể con người đã đạt được những thành tựu xuất sắc trong việc khám phá những quy luật của hoạt động thần kinh cao cấp, di truyền, sinh hoá, tâm sinh lý v.v.. chi phối hành vi con người.
Con người không chỉ là một thực thể sinh học mà còn là một thực thể xã hội. Con người là trung tâm của sự phát triển xã hội. Trong học thuyết về hình thái xã hội, Các Mác đã chỉ rõ tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, trong đó, con người là lực lượng quan trọng có tính quyết định và năng động nhất. Con người là chủ thể của quá trình sản xuất, sáng tạo ra lịch sử.
Theo quan niệm kinh tế học thì con người khuôn mẫu gắn liền với hiệu quả hoạt động kinh tế - xã hội của họ. Phục vụ con người là mục đích của sản xuất. Nhưng con người lại là yếu tố động nhất, quyết định hiệu quả của mọi quá trình lao động xã hội. Ngày nay, khoa học kỹ thuật tiến nhanh như vũ bão, thì vai trò của con người ngày càng quan trọng. Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người. Nó chính là khả năng lao động của con người.
Sức lao động tồn tại ngay trong chính bản thân người lao động dưới các dạng sức cơ bắp, sức thần kinh, trí óc. Người sở hữu sức lao động, chính là người tiêu dùng sức lao động. Trong quá trình sử dụng sức lao động khi có các điều kiện về tư liệu sản xuất, đối tượng lao động, môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội, pháp lý sức lao động mới biến thành hoạt động lao động. Do đó, hoạt động lao động là quá trình sử dụng sức lao động xảy ra trong quá trình lao động. Sự bù đắp các hao phí về sức cơ bắp, sức thần kinh thông qua việc tiêu dùng tư liệu sinh hoạt vật chất, tinh thần và học tập.
b. Nguồn nhân lực: là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định của một quốc gia, cũng có thể được xác định trên một địa phương, một ngành hay một vùng (Bộ Lao động - Thương binh và xã hội: Thuật ngữ lao động - Thương binh và xã hội. NXB Lao động - xã hội, Hà Nội, 1999, tr13). Theo đó, nguồn nhân lực được xác định bằng số lượng và chất lượng của bộ phận dân số có thể tham gia vào hoạt động kinh tế xã hội.
Tiềm năng lao động của con người bao hàm cả thể lực, trí lực và tâm lực (như đạo đức, lối sống, nhân cách và truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc).
Số lượng, chất lượng của bộ phận dân số có thể tham gia vào hoạt động kinh tế xã hội chính là số lượng, chất lượng của bộ phận dân số trong độ tuổi đang có việc làm, chưa có việc làm nhưng có khả năng làm việc. Độ tuổi được theo Luật tính từ 15 tuổi đến 60 tuổi (cho nam giới) và 15-55 tuổi (cho nữ giới). Về chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện bằng các chỉ tiêu về tình trạng phát triển thể lực; trình độ học vấn, kiến thức, tay nghề, tác phong nghề nghiệp; cơ cấu tuổi tác, giới tính, thiên hướng, tình trạng phân bổ theo lãnh thổ và khu vực hoạt động là thành thị, hay nông thôn.
Có ý kiến đề nghị về mặt số lượng nên tính cả những người trên độ tuổi lao động đang tham gia hoạt động kinh tế. Theo Tổng cục Thống kê nguồn lao động gồm những người trong độ tuổi có khả năng lao động và cả những người ngoài độ tuổi đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân (số ngoài độ tuổi được quy đổi để tính toán cân đối nguồn lao động xã hội). Theo Công ước 138 của ILO thì số ngoài độ tuổi chỉ nên tính những người trên độ tuổi lao động.
Vậy, nguồn lao động và nguồn nhân lực có ý nghĩa tương đồng.
Theo Bộ Lao động Thương binh và xã hội khái niệm lực lượng lao động là bộ phận hoạt động của nguồn lao động. Nguồn lao động rộng hơn lực lượng lao động. Nó không chỉ bao gồm lực lượng lao động; mà còn bao gồm cả bộ phận dân số từ đủ 15 tuổi trở lên có khả năng lao động, nhưng chưa tham gia hoạt động kinh tế (đang đi học; nội trợ gia đình; không có nhu cầu làm việc, nghỉ hưu nhưng vẫn có khả năng lao động v.v..)
Sơ đồ 1: Mối quan hệ giữa quy mô dân số từ đủ 15 tuổi trở lên với lực lượng lao động và nguồn lao động ở Việt Nam
Dân số từ đủ 15 tuổi trở lên
Không có khả năng lao động
Có khả năng lao động
Tình trạng khác
Không có nhu cầu làm việc
Nội trợ cho gia đình mình
Đi
học
Thất nghiệp
Đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân
Lực lượng lao động
Nguồn lao động (Nguồn nhân lực)
Nguồn nhân lực được phân chia thành: Nguồn nhân lực sẵn có; nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế; nguồn nhân lực dự trữ.
Quan hệ giữa 3 khái niệm này mô hình hoá trong sơ đồ 2
Sơ đồ 2: Quan hệ giữa các bộ phận trong nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực sẵn có trong dân cư
Nguồn nhân lực
dự trữ
Nguồn nhân lực tham gia trong hoạt động kinh tế
Đi học
Nội trợ
Chưa có nhu cầu làm việc
Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân
Lực lượng lao động đang thất nghiệp
Đang làm nghĩa vụ quân sự
c. Đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực
Có thể quy tụ vào 3 đặc trưng cơ bản sau:
- Đặc trưng về mặt sinh học và xã hội con người. Con người sống trong môi trường tự nhiên và xã hội, nên các yếu tố tự nhiên và xã hội gắn bó khăng khít, hoà quyện vào nhau. Hoạt động của con người chủ yếu là hoạt động sản xuất, hoạt động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và thông qua những hoạt động đó, con người cải tạo chính bản thân mình, làm cho con người ngày càng trở nên hoàn thiện hơn. Lao động, do đó, đã sáng tạo ra con người.
- Đặc trưng về số lượng: về mặt số lượng, quy mô nguồn nhân lực phụ thuộc vào phạm vi lãnh thổ tính toán, các quy định pháp luật về giới hạn tuổi tác và cơ cấu dân số theo độ tuổi và giới tính v.v.. Theo quy định ở Việt Nam nguồn nhân lực được tính với những người có độ tuổi từ 16 á 60 (đối với nam giới), 15 á 55 (đối với nữ giới) (Nếu những quy định này thay đổi sẽ ảnh hưởng tới quy mô nguồn nhân lực). Sự gia tăng tổng dân số là cơ sở hình thành và gia tăng nguồn nhân lực. Nhưng nhịp độ tăng giảm dân số phải sau 15 năm mới tác động đến nhịp tăng, giảm nguồn nhân lực.
- Đặc trưng về chất lượng: Chất lượng nguồn nhân lực là tổng thể những nét đặc trưng phản ánh bản chất, tính đặc thù liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất và phát triển con người. Những nét đặc trưng đó bao gồm: những nét đặc trưng về trạng thái thể lực, trí lực, năng lực, phong cách đạo đức, lối sống và tinh thần của nguồn nhân lực, thí dụ trạng thái sức khoẻ, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu nghề nghiệp, thành phần xã hội cũng như các lĩnh vực bảo đảm dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, đào tạo, lao động việc làm, trả công cũng như nhiều mối quan hệ xã hội khác.
Chất lượng là một đặc trưng quan trọng của nguồn nhân lực, cần vượt trước trình độ phát triển của cơ sở vật chất - kỹ thuật để sáng tạo, cũng như, sẵn sàng đón nhận những tiến bộ kỹ thuật - công nghệ mới.
1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực
a) Bản chất của phát triển nguồn nhân lực
Có thể tìm hiểu vấn đề phát triển nguồn nhân lực theo các cách tiếp cận khác nhau:
- Tiếp cận theo hướng tìm hiểu nội dung thì phát triển nguồn nhân lực là quá trình gia tăng về số lượng; nâng cao về chất lượng của nguồn nhân lực bao gồm ba nội dung cơ bản: phát triển quy mô và cơ cấu dân số thích hợp; đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá; giải quyết việc làm, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực.
- Phát triển nguồn nhân lực đòi hỏi mỗi một thành viên của nguồn nhân lực phải phát triển nhân cách; phát triển năng lực vật chất và năng lực tinh thần; tạo dựng, hoàn thiện và ngày càng nâng cao cả về đạo đức và tay nghề; cả tâm hồn và hành vi (tức là phải phát triển cả kiến thức lẫn kỹ năng; cả thể lực lẫn tinh thần, đạo đức nhân cách…).
- ở tầm vĩ mô phát triển nguồn nhân lực là tạo ra nguồn nhân lực có khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ phát triển cả về mặt quy mô, cơ cấu số lượng và chất lượng. Tiếp cận theo tiêu chức "Mục đích" ở nước ta phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay là nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhanh, vững chắc. Các yêu cầu đó là:
Một, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại có khả năng tạo năng suất lao động xã hội cao. Trong điều kiện nước ta cần chú ý mối quan hệ giữa công nghệ hiện đại sử dụng ít lao động với công nghệ sử dụng được nhiều lao động; giữa việc sử dụng yếu tố vốn và yếu tố lao động. Do vậy, khái niệm lựa chọn công nghệ và công nghiệp thích hợp ra đời.
Hai, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế và tổ chức lại nền sản xuất xã hội. Về đại thể thì tỷ trọng nông nghiệp sẽ giảm, tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ sẽ tăng lên trong tổng thể nền kinh tế quốc dân; nền kinh tế tự cung tự cấp trước đây sẽ được tổ chức lại theo kiểu sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa có sự phân công hợp tác chặt chẽ, song song với quá trình trang bị công nghệ tiên tiến hiện đại.
Theo hướng đó cơ cấu lao động xã hội sẽ thay đổi, trình độ kiến thức, tay nghề, tư duy, quan hệ xã hội sẽ thay đổi cùng với sự phát triển của sự phân công lao động và tổ chức lại nên sản xuất xã hội.
Ba, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là quá trình kinh tế - kỹ thuật; mà còn là các quá trình kinh tế - xã hội, quá trình kinh tế và bảo vệ, tái tạo môi trường sống. Do vậy cùng với quá trình thực hiện trang bị lại, tổ chức lại lao động xã hội, thì phải rất chú trọng các vấn đề tổ chức lại đời sống xã hội về bảo vệ, tái tạo môi trường sống cho thế hệ hiện tại và cho các thế hệ tương lai.
Bốn, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình đô thị hoá, đồng thời phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đất đai giành cho kinh doanh nông nghiệp giảm trong khi đất chuyên dùng phục vụ đô thị hoá tăng nhanh. Cùng với xu hướng di cư từ nông thôn ra thành thị thì nhiều vùng nông thôn bị đô thị hoá, lao động nông thôn chuyển thành lao động thành thị.
Vấn đề giải quyết việc làm cho lao động ở đô thị trở nên cấp bách. Cần có những chính sách thích hợp để giải quyết nhu cầu này trong ngắn hạn và trong dài hạn. Trong nông thôn cùng với việc phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ cùng phát triển. Cơ cấu ngành nghề biến động, thúc đẩy quá trình đổi mới cơ cấu lao động, và đời sống kinh tế xã hội nông thôn.
Năm, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền với quá trình phân công sản xuất kinh doanh quốc tế. Thị trường lao động cũng được quốc tế hoá. Vấn đề đặt ra là phải làm gì để có thể hội nhập thị trường lao động quốc tế.
b) Các nhân tố tác động đến quá trình phát triển nguồn nhân lực
Có ba nhóm nhân tố ảnh hưởng:
- Nhóm nhân tố "tự nhiên" gồm quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng dân số. Các nhân tố này được xem xét trong mối quan hệ qua lại giữa sự biến dộng dân số, với nguồn nhân lực và giải quyết việc làm.
Quy mô dân số được biểu thị khái quát bằng tổng số dân cư của một khu vực vào thời điểm nhất định. Quy mô dân số là nhân tố quan trọng là căn cứ để hoạch định chiến lược phát triển. Mỗi một nước (cũng như một vùng, địa phương) cần có một quy mô dân số thích hợp, tương thích với điều kiện tự nhiên, cũng như trình độ phát triển kinh tế xã hội của mình.
Cơ cấu dân số thích hợp bảo đảm cho sự phát triển ổn định, được nhiều nhà dân số học nhất trí: Tỷ lệ trẻ em dưới tuổi lao động là 26%á28%; Tỷ lệ người trong độ tuổi lao động là 60á64%; Tỷ lệ người già trên độ tuổi lao động là: 10á12%. Muốn vậy, thì tỷ suất sinh (TFR) phải giữ ở mức thay thế.
Gia tăng dân số là cơ sở để hình thành và phát triển nguồn nhân lực. Nhưng nếu dân số có tăng nhanh trong điều kiện nước nghèo, khi mà không có khả năng cung cấp đầy đủ dinh dưỡng và chăm sóc y tế, trình độ học vấn thấp v.v.. Năng suất lao động thấp, sản phẩm quốc dân tăng chậm thì rất bất lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Cơ cấu dân số theo độ tuổi có tác động đến số lượng nguồn nhân lực: tăng nhanh hay chậm.
Cơ cấu dân số theo giới tính có vai trò trong cân bằng sinh thái của cộng đồng, trong những mối liên hệ xã hội và kinh tế.
Cơ cấu dân số theo khu vực thành thị, nông thôn thể hiện mức độ đô thị hoá.
Di dân là một trạng thái vận động của dân cư. Di dân (theo nghĩa đơn giản, trực tiếp) là sự di chuyển dân cư từ đơn vị lãnh thổ này tới một đơn vị lãnh thổ khác. Di dân là một hiện tượng chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố có những yếu tố khó kiểm soát.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện tượng di dân từ nông thôn ra thành thị là một tất yếu.
- Nhóm nhân tố về kinh tế xã hội:
Các nhân tố này liên quan chặt chẽ với chất lượng nguồn nhân lực.
Trình độ phát triển con người (HDI): HDI được tính căn cứ: GDP hoặc GNP bình quân đầu người; trình độ dân cư, tuổi thọ bình quân.
GNP (GDP)/người phụ thuộc vào tốc độ tăng của GDP (GNP) và quy mô, tốc độ tăng dân số. Chỉ tiêu này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống, thể lực của nguồn nhân lực. Chỉ tiêu này được cụ thể hoá trong các chỉ tiêu: sức khoẻ; dinh dưỡng; mức tiêu thụ điện năng v.v..
Sức khoẻ là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội. Nó được tạo nên bởi sự hoà hợp của nhiều yếu tố như thể chất, tinh thần, nội tạng, môi trường v.v.. Sức khoẻ là nhân tố rất quan trọng tác động đến thể chất của nguồn lao động. Sức khoẻ và dinh dưỡng được cải thiện sẽ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, là cơ sở để phát triển. Tình trạng sức khoẻ và dinh dưỡng tác động đến tuổi thọ trung bình.
Trình độ dân trí được thể hiện qua các chỉ tiêu: Tỷ lệ người biết chữ; số năm đi học bình quân (có thể chi tiết đến từng nhóm tuổi, giới tính) tình hình giáo dục phổ thông, trung học chuyên nghiệp; cao đẳng đại học và đào tạo công nhân kỹ thuật. Trình độ học vấn thể hiện mặt bằng dân trí. Trình độ học vấn là cơ sở quan trọng để nâng cao trình độ và kỹ năng làm việc của người lao động.
Trình độ học vấn nâng cao càng tạo thuận lợi mang tính nội sinh để phát triển giáo dục, đào tạo nghề, là nhân tố quan trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật là sự hiểu biết, khả năng thực hành về lĩnh vực ngành nghề nào đó của người lao động.
Chất lượng nguồn nhân lực còn phụ thuộc vào quy mô, cơ cấu đội ngũ học viên, sinh viên đang được đào tạo trong các trường cao đẳng, đại học, học nghề.
Các yếu tố về văn hoá truyền thống:
Yếu tố văn hoá và truyền thống dân tộc chi phối mạnh mẽ hành vi ứng xử của con người trong công việc và cuộc sống, do đó, trực tiếp ảnh hưởng đến tính cách, phẩm chất riêng của lao động mỗi vùng trong một nước, cũng như từng bước. Trong điều kiện kinh tế thị trường, cơ chế mới có tác dụng tích cực như kích thích người lao động vươn lên, tích cực học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ nghề nghiệp thích ứng với đòi hỏi của thị trường; đồng thời ma lực của đồng tiền ảnh hưởng đến nhân cách và lối sống, đến quan niệm và nhận thức về trách nhiệm và nghĩa vụ. Do vậy, yếu tố văn hoá truyền thống dân tộc ngày càng có vai trò quan trọng, góp phần tạo nên những con người có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, tay nghề, kỹ năng giỏi, đồng thời có tâm hồn, tinh thần lành mạnh.
Các nhân tố thuộc về cơ chế, chính sách: Chính sách là một công cụ hết sức quan trọng trong việc tạo điều kiện và thúc đẩy sự phát triển của nguồn nhân lực.
Mục tiêu hướng tới của các chính sách là phải phát huy được nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội; chú trọng nâng cao đời sống vật chất, đồng tời với đời sống tinh thần; quan hệ giữa cá nhân, tập thể với cộng đồng xã hội được giải quyết hợp lý, hài hoà. Việc đáp ứng nhu cầu của thể chế hiện tại không được làm tổn hại việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.
Đối với con người, trước hết cần quan tâm giải phóng khả năng lao động sáng tạo, do đó cần khắc phục những quan niệm, những lề luật trói buộc, hạn chế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất. Cần tập trung xoá đói, giảm nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo chủ động tạo việc làm, tăng thu nhập bằng cách phát triển sản xuất - dịch vụ hợp pháp. Mục tiêu chiến lược của các chính sách là:
"Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại…"
Vậy phải rất coi trọng "tăng trưởng" nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ v.v.. (Báo cáo chính trị tại Đại hội IX).
Theo đó, phải "chuyển biến mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH (Văn kiện Đại hội IX. Báo cáo Chính trị trang 90). "Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo… Phát huy nhân tố con người". Cụ thể hơn Đại hội nhấn mạnh "Tạo nhiều việc làm, cơ bản xoá đói, giảm hộ nghèo v.v.. (Văn kiện Đại hội IX, BCCT trang 90) và: "Bằng nhiều giải pháp, tạo nhiều việc làm mới, tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng, nhất là trong nông nghiệp và nông thôn. Các thành phần kinh tế mở mang các ngành nghề, các cơ sở sản xuất, dịch vụ có khả năng sử dụng nhiều lao động. Khôi phục phát triển các làng nghề, đẩy mạnh phong trào lập nghiệp của thanh niên và đào tạo lao động có nghề. Tổ chức quản lý chặt chẽ hoạt động xuất khẩu lao động…"(Báo cáo chính trị - ĐH IX trang 104).
Quan điểm giải quyết vấn đề trên là: Tạo lập, phát triển và sớm hoàn thiện thị trường lao động. Văn kiện Đại hội IX nhấn mạnh: "Mở rộng thị trường lao động trong nước có sự kiểm tra giám sát của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của người là và người sử dụng lao động. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động có tổ chức, có hiệu quả. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách tạo cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích người lao động tự tìm việc làm, nâng cao trình độ đào tạo lại, học nghề mới.
Để tạo nhiều việc làm (tăng cầu) Đảng ta chủ trương "giải phóng lực lượng sản xuất", "thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần" các thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển lực lượng sản xuất, tạo nhiều chỗ làm việc, tăng thu nhập cho người lao động. Cụ thể là:
- Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Một mặt, tiếp tục đưa nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp lên một trình độ mới. Mặt khác, đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới ngay trên địa bàn các vùng nông thôn.
- Về công nghiệp, một mặt tranh thủ đi nhanh vào các lĩnh vực công nghệ cao, cần phát triển các ngành nghề sử dụng nhiều lao động.
Phát triển mạnh các ngành dịch vụ. Thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn. Phát triển mạnh các hình thức tổ chức doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở đô thị v.v..
Về các chính sách phát triển sản xuất và tạo việc làm Đảng, Nhà nước quan tâm đến đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế. Cụ thể là:
- Nhà nước tạo môi trường pháp lí thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển.
- Phát triển thị trường vốn và tiền tệ nhất là thị trường vốn trung và dài hạn. Giải phóng và phát triển các nguồn lực tài chính, tiềm năng sản xuất của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư. Kết hợp chặt chẽ các công cụ kế hoạch hoá với các chính sách kinh tế, tài chính để định hướng và khuyến khích nhân dân, doanh nghiệp đầu tư kinh doanh. Đối với các công cụ tài chính thì Nhà nước chủ trương "Đa dạng hoá các công cụ và hình thức tổ chức tài chính, tiền tệ phi ngân hàng và các quỹ đầu tư nhằm động viên các nguồn lực" (Văn kiện Đại hội IX. BCCT trang 194).
- Tiếp tục cải cách hệ thống thuế cho phù hợp theo hướng: áp dụng hệ thống thuế thống nhất không phân biệt thành phần kinh tế khác nhau, trong nước hay ngoài nước.
- Tiếp tục đổi mới các chính sách tài trợ giải quyết việc làm, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, v.v..
- Tạo điều kiện thuận lợi để tăng nhanh thu hút vốn đầu tư, công nghệ từ bên ngoài.
- Tăng ngân sách Nhà nước cho giáo dục đào, tạo theo nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Hiện đại hoá một số trường dạy nghề, tăng nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội. Khuyến khích phát triển hệ thống các trường, lớp dạy nghề tư thục.
1.2. Những vấn đề cơ bản của chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực
1.2.1. Cấu trúc, chức năng và yêu cầu của chính sách
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm phát huy những ưu thế và khắc phục các khuyết tật của kinh tế thị trường. Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý sử dụng những công cụ quản lý truyền dẫn các tác động quản lý lên các đối tượng và khách thể quản lý. Các công cụ quản lý bao gồm: công cụ kế hoạch; pháp luật; các chính sách kinh tế, xã hội; bộ máy Nhà nước, cán bộ công chức; các tài sản nhà nước (như: ngân sách, đất đai, tài nguyên, công khố, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội); các doanh nghiệp Nhà nước; hệ thống thông tin Nhà nước; văn hoá dân tộc. Trong đó, chính sách kinh tế - xã hội là một công cụ hết sức quan trọng. Chính sách kinh tế - xã hội là một tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế - xã hội nhằm giải quyết các vấn đề (đặt ra cho chính sách) nhằm thực hiện các mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của đất nước.
Cấu trúc của một chính sách gồm có: Mục tiêu của chính sách, các nguyên tắc thực hiện mục tiêu của chính sách, các phân hệ của chính sách, các giải pháp và các công cụ của chính sách.
Là một công cụ quan trọng nhất, các chính sách có các chức năng: chức năng định hướng, chức năng điều tiết, chức năng tạo tiền đề cho sự phát triển chức năng khuyến khích sự phát triển.
Để thực hiện các chức năng trên, các chính sách phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
ã Tính khách quan: Nghĩa là phải tuân thủ các yêu cầu của quy luật khách quan, cũng có nghĩa nội dung chính sách phải dựa trên cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn vững vàng. Điều đó đòi hỏi phải khắc phục tính chủ quan, giản đơn, duy ý chí. Cán bộ hoạch định chính sách phải là những người có năng lực và hết lòng vì dân, vì nước.
ã Tính chính trị: Đòi hỏi chính sách phải quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước và thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng.
ã Tính đồng bộ và hệ thống: Các vấn đề kinh tế - xã hội không tồn tại độc lập mà luôn có sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Cho nên các chính sách cần được xem xét tất cả các khía cạnh, giải quyết phải đồng bộ mới có hiệu lực.
ã Tính thực tiễn: Mọi chính sách kinh tế- xã hội đều phải được hoạch định trên cơ sở quy luật khách quan và ý chí nguyện vọng của nhân dân. Chính sách chỉ có giá trị khi nó đi vào cuộc sống, được cuộc sống chấp nhận. Cán bộ hoạch định chính sách phải gần dân, lắng nghe ý kiến của dân, rung động trước nguyện vọng, khó khăn của dân để hoàn thiện đổi mới chính sách.
ã Tính hiệu quả kinh tế, xã hội: Yêu cầu này đòi hỏi phải xem xét, tiếp cận các vấn đề chính sách một cách toàn diện, hệ thống, chú trọng các vấn đề kinh tế, các vấn đề xã hội trong một thể thống nhất.
ã Chính sách cần được liên tục xem xét, phân tích để đổi mới hoặc hoàn thiện cho phù hợp với các điều kiện môi trường luôn luôn biến động.
ở trên chúng ta đã nói đến tính thực tiễn của chính sách. Một khi thực tiễn đã biến đổi thì chính sách phải đổi mới. Vấn đề là cần liên tục nghiên cứu xem xét để từng bước hoàn thiện và chọn đúng thời điểm đổi mới chính sách. Chính sách bản thân nó cũng có đời sống của mình. Vòng đời của mỗi chính sách thường có 4 giai đoạn: giai đoạn 1: Đưa chính sách vào thực hiện; giai đoạn 2: Chính sách phát huy được với hiệu quả, hiệu lực cao. Đỉnh cao của giai đoạn này là điểm ngưỡng hiệu lực của chính sách. Qua điểm ngưỡng này chính sách bước vào giai đoạn 3: Với hiệu quả, hiệu lực của chính sách giảm dần cần có những điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với sự biến động của môi trường. Cuối cùng chính sách bước vào giai đoạn 4: Giai đoạn chính sách trở nên lạc hậu, cần đổi mới, nếu không nó sẽ thành trở lực của phát triển kinh tế, xã hội.
1.2.2. Đô thị hóa nhanh và các yêu cầu đối với nhiệm vụ đào tạo phát triển nguồn nhân lực
Công nghiệp hóa, gắn liền với quá trình tập trung sản xuất, hình thành các trung tâm kinh tế của một vùng l._.ãnh thổ hay cả nước. Do đó, công nghiệp hóa tất yếu dẫn tới đô thị hóa.
Đô thị có thể là một trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành, đạt được các tiêu chuẩn về trình độ phát triển và được công nhận về pháp lý.
Quá trình đô thị hóa thực chất là một quá trình biến đổi và phân bổ lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí lại dân cư, hình thành, phát triển các hình thức và các điều kiện sống đô thị trên cơ sở kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế, xã hội và quy mô dân cư tương xứng.
Xu hướng đô thị hóa ở nước ta đang diễn ra theo các hướng: Hình thành các trung tâm công nghiệp dịch vụ lớn trong các đô thị lớn; Hình thành các đô thị vệ tinh trên cơ sở phát triển các trung tâm công nghiệp dịch vụ ngoại thành, mở rộng các đô thị hiện có chuyển các vùng nông thôn thành các đô thị mới với quy mô khác nhau.
Quá trình đô thị hóa tác động mạnh mẽ đến thị trường lao động ở các đô thị theo các hướng sau:
Từ phía cung: cùng với việc mở rộng đô thị lực lượng lao động cần phải có việc làm ở các đô thị tăng lên nhanh chóng. Trước hết, phải kể đến lao động nông nghiệp ở các vùng nông thôn nay chuyển thành phường, quận của đô thị. Họ bị thu hồi mất toàn bộ tư liệu sản xuất quan trọng nhất là đất đai, do đó, không thể tiếp tục nghề nông, phải chuyển sang nghề khác.
Thứ đến phải tính tới là làn sóng di dân vào các đô thị tìm kiếm việc làm (nhất là các đô thị lớn thí dụ ở thành phố Hồ Chí Minh 70% công nhân các khu công nghiệp là người nhập cư). Những người này bị đô thị thu hút bởi hai lí do: một là, khoảng chênh về thu nhập giữa các đô thị với các vùng nông thôn. Hai là, kỳ vọng về chất lượng của đời sống đô thị.
Thứ ba, cùng với việc mở rộng các trường dạy nghề, các trường trung học chuyên nghiệp và đại học v.v.. số học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường ngày một đông đảo. Số này tập trung ở đô thị với kỳ vọng tìm được việc làm xứng đáng với ngành nghề và trình độ mình được đào tạo.
Từ phía cầu:
Nhu cầu lao động gia tăng cùng với việc phát triển của đô thị theo các hướng sau:
Một là, từ sự phát triển của các khu công nghiệp tập trung (thí dụ ở Đồng Nai có 707 dự án đầu tư nước ngoài, thu hút gần 23 vạn lao động).
Hai là, đô thị có cơ cấu ngành nghề phong phú, đa dạng nhất là các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Thành thị cũng là nơi có nhiều người có khả năng về vốn, tay nghề và có tinh thần kinh doanh đứng ra thành lập các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh nhỏ có khả năng thu hút nhiều loại lao động.
Ba là, đời sống thành thị cũng tạo ra nhiều nghề dịch vụ (thí dụ: dịch vụ môi trường đô thị, dịch vụ giúp việc gia đình,… cần có nhiều lao động mà chi phí vào nghề lại thấp.
Từ quan hệ cân bằng cung cầu: có thể nêu lên các nhận xét sau:
Một là, cơ cấu ngành nghề sản xuất, dịch vụ của đô thị đa dạng đòi hỏi cơ cấu đội ngũ lao động khả năng thích ứng kịp thời. Kế hoạch hóa cung ứng lao động theo kiểu bao cấp không có khả năng cân đối kịp thời. Vai trò điều hòa, cân bằng là của thị trường thông qua sự nhạy cảm của mức tiền công. Tuy nhiên, Nhà nước cần tổ chức trực tiếp, hay cho phép các thành phần kinh tế tổ chức các dịch vụ giới thiệu việc làm làm cầu nối giữa cung và cầu lao động.
Hai là, khác với tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, ở các đô thị thất nghiệp "thật sự" là một thực trạng đáng được lưu tâm. Nhất là, tình trạng thất nghiệp do không được đào tạo nghề. Thất nghiệp "không ăn khớp" khá đông đảo do sự biến động cơ cấu ngành nghề, do trình độ nghề chưa đáp ứng kịp với yêu cầu của công nghệ mới; do kỳ vọng có việc làm mới, mức lương cao mà tự nguyện bỏ việc làm cũ một cách tự nguyện.
Từ đó đặt ra cho nhiệm vụ đào tạo phát triển nguồn nhân lực các vùng ven thành phố đang đô thị hóa nhanh các yêu cầu sau:
- Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phải đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đô thị hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp, ở các vùng ven đô đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lại lao động xã hội, tỷ trọng lao động làm việc trong các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng nhanh. Tính chất lao động nông nghiệp cũng thay đổi do đó, yêu cầu đối với đào tạo lao động CMKT phải đáp ứng được cho quá trình này, cụ thể:
ã Đảm bảo quy mô và chất lượng đào tạo lao động CMKT các cấp trình độ, các nghề cho nhu cầu sử dụng các loại hình doanh nghiệp nông thôn (doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, Công ty CP, HTX, Doanh nghiệp có vốn FDI), nhu cầu lao động của trang trại sản xuất hàng hóa nông thôn.
ã Đảm bảo quy mô và chất lượng đào tạo lao động CMKT các cấp trình độ, các nghề cho phát triển các làng nghề truyền thống, phát triển các ngành nghề mới trong các vùng đang đô thị hóa.
ã Đảm bảo quy mô và chất lượng đào tạo lao động CMKT các cấp trình độ, loại hình nghề cho phát triển ngành nghề dịch vụ, thí dụ: Du lịch làng nghề, du lịch sinh thái v.v..
ã Đảm bảo quy mô và chất lượng đào tạo lao động CMKT các cấp trình độ, loại nghề để đáp ứng lao động CMKT cho các khu công nghiệp, khu chế xuất.
ã Đảm bảo quy mô và chất lượng đào tạo lao động CMKT các cấp trình độ (đặc biệt là CNKT) đáp ứng nhu cầu xuất khẩu lao động.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động ở các vùng ven đô là chuyển dịch từ lao động kỹ thuật thấp, lạc hậu, năng suất lao động thấp sang lao động có công nghệ - kỹ thuật, trang thiết bị hiện đại hơn, năng suất lao động cao hơn. Đây thực chất là quá trình đổi mới chất lượng lao động, bao gồm cả về trình độ văn hóa, chuyên môn - kỹ thuật, tập quán sản xuất, trình độ quản lý, khả năng tiếp thị… Do đó, đào tạo phải luôn bám sát các đặc trưng đổi mới lao động phù hợp với tiến trình đô thị hóa, CNH, hiện đại hóa, chuyển đổi tính chất hoạt động kinh tế của vùng.
- Đào tạo đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành nông nghiệp tại các vùng ven đô.
ở các huyện ven đô, nông nghiệp bị thu hẹp, những cơ cấu cây, con thay đổi cùng với tính chất của hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, xu hướng chuyển dịch lao động trong nội bộ ngành nghiệp theo hướng từ độc canh, thuần lúa sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa, đa canh theo hướng phục vụ nhu cầu của thành với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Một bộ phận lao động nông nghiệp chuyển từ hoạt động trồng trọt sang chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thủy sản mang tính hàng hóa cao. Người lao động trong các lĩnh vực trình độ được đổi mới cơ bản về chất lượng. Người lao động phải đảm bảo có trình độ văn hóa cao hơn, yêu cầu phải qua đào tạo CMKT để đáp ứng chuyển dịch hiệu quả trong nội bộ ngành nông nghiệp.
- Đào tạo lao động đáp ứng cầu lao động trên thị trường lao động. Đô thị hóa, CNH, hiện đại hóa và sự di chuyển của lao động nông thôn trên thị trường lao động vùng, cả nước và kể cả thị trường lao động quốc tế là xu thế khách quan. Quá trình di chuyển lao động nông thôn đặt ra các yêu cầu đối với đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nông thôn phải đáp ứng được tính cạnh tranh, tính linh hoạt và thích ứng của thị trường lao động. Đào tạo,phát triển nguồn nhân lực nông thôn phải không ngừng nâng cao chất lượng, gắn với yêu cầu của thị trường lao động. Cơ cấu cấp trình độ và ngành nghề đào tạo phải hợp lý, phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của thị trường lao động.
- Hệ thống đào tạo phát triển nguồn nhân lực vùng ven, đô thị hóa nhanh phải thực sự tạo được sự bình đẳng, cơ hội, cho người lao động của mình tham gia đào tạo. Nội dung, chương trình, đào tạo kiến thức, kỹ năng phải phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động và nhu cầu của những người tham gia đào tạo, học nghề để tìm việc, tự tạo việc làm, tạo lập doanh nghiệp. Sự biến động của cầu lao động về số lượng, chất lượng, cơ cấu lao động theo nghề, cấp trình độ CMKT trên thị trường lao động phải được quan sát và có sự điều chỉnh.
- Đào tạo, phát triển nhân lực vùng ven, đô thị hóa nhanh phải nhấn mạnh đào tạo, dạy nghề. Trong đó, bao gồm cả đào tạo công nhân lành nghề và lành nghề có trình độ cao (đào tạo mũi nhọn) và đào tạo nghề đại trà (bán lành nghề). Đào tạo mũi nhọn cung cấp cho khu vực phi nông nghiệp nông thôn những công nhân kỹ thuật bậc cao, các nghệ nhân, có khả năng sáng tạo, thiết kế sản phẩm mới có khả năng tiếp thu và sử dụng thiết bị, công nghệ hiện đại, sản xuất những sản phẩm chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Đào tạo đại trà nhằm phổ cập nghề cho người lao động, trang bị cho họ những kiến thức, kỹ năng nghề đơn giản, để lao động nông thôn có năng lực tiếp nhận phương pháp làm việc, phương tiện sản xuất trong các cơ sở sản xuất nông nghiệp, xây dựng, dịch vụ có khả năng chuyển từ hoạt động nông nghiệp sang hoạt động phi nông nghiệp.
- Hình thức đào tạo, phương thức đào tạo phải đa dạng, linh hoạt thích hợp với điều kiện và trình độ của lao động nông thôn đang đô thị hóa, tạo được môi trường cho người lao động nông thôn tham gia vào đào tạo, học nghề. Trên cơ sở đó để khắc phục các nhân tố ảnh hưởng đến đào tạo, học nghề của lao động nông thôn như không đủ điều kiện vật chất do kinh tế eo hẹp, không thể bỏ hẳn việc làm để tham gia đào tạo ở các trường lớp xa địa phương và chính quy, không thể tham gia đào tạo với thời gian dài nếu không có hình thức đào tạo thích hợp, thiếu trình độ văn hóa để tham gia đào tạo…
- Ngoài đào tạo nghề tại các trường đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực nông thôn đòi hỏi phải mở rộng các lớp khuyến ngư, khuyến nông, khuyến lâm nhằm chuyển giao khoa học - công nghệ mới cho chuyển dịch nội bộ ngành nông nghiệp hiệu quả. Đồng thời, phát triển chuyển giao khoa học, công nghệ để tăng cường năng lực CMKT của người lao động nông thôn trong tự tạo việc làm, tìm việc làm tại thị trường lao động nông thôn.
- Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực vùng ven, đô thị hóa nhanh đòi hỏi phải có sự hỗ trợ, quan tâm của Đảng, Nhà nước thông qua các chủ trương, chính sách. Vì các hộ ở đây khả năng kinh tế đang hạn hẹp, lại bị thu hồi đất, đời sống bị xáo trộn, khó khăn trong chi trả để đào tạo, học nghề. Nhà nước hỗ trợ trên cơ sở thực hiện các biện pháp như chính sách đầu tư phát triển hệ thống đào tạo tại địa phương, mở rộng mạng lưới tín dụng đào tạo và dạy nghề tại chỗ, lồng ghép các chương trình đào tạo với các chương trình, dự án phát triển khác.
1.3. Kinh nghiệm đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở các nước châu á và khu vực Đông Nam á
1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc là một nước thực hiện hiện đại hóa, công nghiệp hóa khá thành công trong hơn hai thập kỷ qua, các năm 1995-2000 có tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước 7,9-10%/năm. Dân số Trung Quốc với trên 1.271,9 triệu người (2001), hàng năm có khoảng 11 triệu lao động bước vào độ tuổi lao động, (trong đó nông thôn 6-7 triệu người). Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra nhanh chóng tại nhiều vùng nông thôn, diện tích canh tác ngày càng bị thu hẹp đã dẫn tới có khoảng 100-120 triệu lao động nông thôn không có việc làm và thiếu việc làm ở mức nghiêm trọng. Dòng lao động nông thôn nhập cư vào các thành phố rất lớn trong các năm đầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề giải quyết việc làm ở các thành phố trở nên gay gắt. Trước tình hình đó, chính phủ Trung Quốc rất coi trọng công tác đào tạo, dạy nghề, phát triển nguồn nhân lực cho nông thôn để tạo việc làm cho lao động nông thôn ngay tại địa phương- nhất là các vùng ngoại thành, đô thị hóa nhanh. Các kinh nghiệm chính của Trung Quốc trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực là:
- Đào tạo nhân lực phục vụ cho phát triển công nghiệp hương trấn, để thực hiện phương châm "ly nông bất ly hương". Các doanh nghiệp hương trấn đã có sự phát triển rất mạnh mẽ, từ 1978-1991 số doanh nghiệp hương trấn công nghiệp Trung Quốc đã tăng từ 1,5 triệu doanh nghiệp lên 18,5 triệu doanh nghiệp thu hút 92 triệu lao động, bằng 13,8% lực lượng lao động nông thôn.
Đặc điểm sử dụng lao động của các doanh nghiệp hương trấn là lấy hiệu quả làm đầu, tự chủ sản xuất kinh doanh, hoạt động theo cơ chế thị trường, rất coi trọng vấn đề phát triển nguồn nhân lực. Mặc dù là nước đông dân, nhưng Trung Quốc rất chú trọng giáo dục phổ thông, năm 2000 tỷ lệ biết đọc, biết viết của những người 15 tuổi trở lên là 92% (nữ 76%). Do đó, phát triển doanh nghiệp hương trấn có thuận lợi là nguồn nhân lực ở nông thôn có trình độ văn hóa khá cao có thể tham gia đào tạo CMKT. Chính phủ có chính sách hỗ trợ, phát triển hệ thống các lớp, cơ sở dạy nghề ở các vùng nông thôn nhằm đáp ứng cho phát triển doanh nghiệp hương trấn. Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp hương trấn mở các lớp dạy nghề bên cạnh doanh nghiệp để đào tạo lao động CMKT. Doanh nghiệp hương trấn đã sử dụng những người lao động nông thôn có CMKT, dám nghĩ, dám làm, trưởng thành từ thực tiễn để đào tạo tay nghề cho những người vừa tốt nghiệp các cấp phổ thông trung học. Tuy nhiên, khó khăn của các doanh nghiệp hương trấn là thiếu lao động CMKT trình độ cao (một cuộc điều tra cho thấy có 75% doanh nghiệp, HTX, 60% doanh nghiệp tư nhân ở Triết Giang thiếu lao động CMKT cao) để có thể nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Hệ thống đào tạo ở nông thôn chưa cung ứng được đầy đủ lao động CMKT cao cho các doanh nghiệp hương trấn.
- Chính phủ có chính sách khuyến khích các cơ sở đào tạo, dạy nghề, tích cực đào tạo nhân lực CMKT cho các khu vực đô thị hóa nhanh như Thẩm Quyến, ngoại thành Bắc Kinh, Thượng Hải… để tạo điều kiện cho lao động nông thôn chuyển sang làm việc tại các doanh nghiệp FDI, khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, các cụm kinh tế mở… Các thành phố mới phát triển của Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao (30-35%/năm) nên thu hút một lượng lao động nông thôn rất lớn vào các ngành công nghiệp và dịch vụ. Trong khi đó, nguồn lao động nông thôn dồi dào, có trình độ văn hóa khá cao. Vì vậy, đào tạo lao động cho nông thôn để đáp ứng nhu cầu sử dụng của các vùng đô thị hóa nhanh, ngành mới phát triển mạnh như điện tử, công nghiệp lắp ráp, chế tạo, chế biến thực phẩm, vật liệu xây dựng, ngành sắt thép… được Chính phủ và chính quyền các địa phương rất quan tâm.
Phát triển doanh nghiệp công nghiệp hương trấn tại Trung Quốc
Năm
Số DN công nghiệp hương trấn
Giá trị sản lượng (triệu NDT)
Số lao động được giải quyết việc làm (nghìn người)
1980
1.425
66.950
29.997
1985
12.225
272.839
69.790
1990
18.504
958.110
92.648
Nguồn: Việc làm nông thôn, thực trạng và giải pháp, Viện NCQLKTTW, 2001
- So với các nước khác, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì Trung Quốc đã thực hiện chính sách kiểm soát được ở mức độ nhất định dòng di chuyển lao động đến các thành phố lớn. Tuy nhiên, hạn chế của chính sách này là làm giảm khả năng cạnh tranh lao động trên phạm vi lớn của thị trường lao động, bao gồm cả thành thị và nông thôn. Do đó, ở mức độ nhất định đã làm giảm tính kích thích lao động nông thôn tham gia đào tạo, học nghề. Để khắc phục tình trạng này, chính phủ Trung Quốc có chính sách phát triển các đô thị loại vừa và nhỏ ở nông thôn để phát triển ngành nghề công nghiệp, dịch vụ, thúc đẩy đào tạo, dạy nghề cho lao động trong quá trình đô thị hóa. Ngoài ra, chính phủ còn có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nông thôn hợp tác với các doanh nghiệp Nhà nước để đào tạo lao động CMKT đáp ứng nhu cầu đổi mới lao động trong các trường hợp tiếp nhận công nghệ sản xuất mới.
1.3.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật Bản là một nước có quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra khá mạnh từ các năm cuối của thế kỷ XIX. Sau chiến tranh thế giới thứ hai mở cửa liên kết vào nền kinh tế thế giới, du nhập công nghệ tri thức từ Phương Tây và với tinh thần học tập của người Nhật, nước Nhật đã nhanh chóng trở thành một nước công nghiệp phát triển thuộc loại bậc nhất thế giới. Trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, nước Nhật rất coi trọng phát triển, giáo dục và đào tạo nhân lực cho nông thôn. Hệ thống giáo dục phổ cập tiểu học, giáo dục trung học được Chính phủ đặc biệt quan tâm trong chính sách phát triển, làm nền móng cho đào tạo nguồn nhân lực. Tỷ lệ đến trường so với nhóm tuổi, trung học 66% vào năm 1950 và 93% vào năm 1980; con số này ở đại học là 6% và 31%.
Thời kỳ đầu công nghiệp hóa, đô thị hóa, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cơ sở sản xuất gia đình, nhà buôn bán ở các thị trấn và ở nông thôn Nhật Bản có vai trò quan trọng trong dạy nghề bậc thấp cho lao động nông nghiệp chuyển sang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại. Lao động lành nghề được đào tạo tại các nhà máy có quy mô lớn, khi ra trường được các doanh nghiệp tư nhân tuyển dụng vào làm việc.
Đặc điểm nổi bật nhất của đào tạo, dạy nghề của Nhật Bản là chính phủ khuyến khích phát triển hệ thống đào tạo nghề tại công ty. Trong ba hình thức cơ bản để đào tạo nghề cho lao động nông thôn là đào tạo tại trường, đào tạo tại công ty, đào tạo kết hợp tại trường và công ty, thì thành công hơn cả tại Nhật Bản là hình thức đào tạo tại công ty. Sự phát triển của hình thức đào tạo này thường bắt nguồn từ truyền thống đào tạo, dạy nghề, văn hóa và hệ thống quản lý trước đây của người Nhật Bản. Hơn nữa, đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại công ty, tạo điều kiện cho người lao động học được các kiến thức, kỹ năng phù hợp với công nghệ sử dụng, sát với yêu cầu, nhu cầu sử dụng của các công ty. Chính phủ khuyến khích hình thức đào tạo này vì ngoài yếu tố chất lượng đào tạo, đáp ứng thị trường lao động, đào tạo nghề tại công ty còn tiết kiệm được đầu tư cho chính phủ. Nhiều công ty lớn của Nhật Bản đã đầu tư xây dựng các trung tâm đào tạo nghề chất lượng cao, bao gồm đào tạo cả trình độ bậc thấp, công nhân lành nghề và lành nghề cao đáp ứng cho thị trường lao động thành phố và thị trường các vùng nông thôn.
Đào tạo nghề tại công ty có vai trò rất lớn đối với lao động nông thôn Nhật Bản trong quá trình chuyển sang công nghiệp hiện đại. Đa số lao động nông thôn sau khi tốt nghiệp phổ thông được đào tạo đại học và học nghề. Số học sinh nông thôn học nghề bao gồm những người sau tốt nghiệp phổ thông được các công ty thuê vào làm việc, được công ty lên danh sách và cho tham gia trực tiếp vào các khóa đào tạo do chính công ty tổ chức. Trong đào tạo tại công ty các nội dung chính được đặt ra là:
ã Đào tạo về truyền thống hoạt động kinh doanh, truyền thống văn hóa của công ty, các giá trị công việc và thái độ làm việc, các quyền, lợi ích, trách nhiệm của nhân viên; tăng cường niềm tin và lòng tự hào của người tham gia đào tạo đối với công ty.
ã Đào tạo các kiến thức lý thuyết chung liên quan tới công nghệ sản xuất của các nghề đào tạo, chú trọng cập nhật các kiến thức về máy móc thiết bị mới đang sử dụng và sẽ được công ty đổi mới trong tương lai. Các tài liệu đào tạo do các trung tâm, cơ sở đào tạo của công ty chuẩn bị, hoặc do những người hướng dẫn, kèm cặp đào tạo của công ty soạn ra.
ã Chương trình thực hành trong đào tạo nghề cho lao động nông thôn đặc biệt được chú trọng, chương trình học kiến thức thực hành được thực hiện thông qua chỉ dẫn trong quá trình sản xuất của công ty, phát hành các cuốn cẩm nang tự học cho học viên, tăng thời lượng các buổi thảo luận kỹ thuật, thảo luận chất lượng, chuyển đổi vị trí làm việc và tự học.
Một điều cần chú ý là hệ thống giáo dục phổ thông của Nhật Bản rất hiệu quả, giáo dục khá toàn diện, nên chất lượng học sinh nông thôn tốt nghiệp phổ thông không có khoảng cách lớn so với học sinh thành phố. Đây là cơ sở rất quan trọng để đào tạo được đội ngũ lao động CMKT lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của các công ty.
Ngoài đào tạo nghề, để đáp ứng nhu cầu phát triển nền công nghiệp hiện đại và phát triển nông thôn, Nhật Bản còn rất chú trọng đào tạo lao động trình độ đại học của khu vực nông thôn. Đến nay, Nhật Bản có nền giáo dục đại học rất phát triển với 460 trường đại học và 1,8 triệu sinh viên. Trước năm 1950, học sinh nông thôn theo học đại học chiếm tỷ lệ thấp, đến năm 1980 tỷ lệ học sinh đến trường đại học so với nhóm tuổi là 31% và hiện nay có gần 50% học sinh nông thôn tốt nghiệp phổ thông trung học theo học các chương trình đại học. Các trường đại học của Nhật Bản thường được trang bị hiện đại, kết hợp đào tạo và nghiên cứu khoa học, cập nhật được các tri thức mới của thế giới và trong nước nhờ CNTT phát triển mạnh nên chất lượng đào tạo lao động trình độ đại học nói chung và cho nông thôn nói riêng rất cao. Để tạo điều kiện cho học sinh nông thôn học đại học, chính phủ khuyến khích phát triển hệ thống các chương trình giảng dạy đại học qua truyền hình, có khích lệ quá trình tự học và một số trường tiến hành tuyển sinh thông qua bảng điểm của quá trình học và thư giới thiệu.
1.3.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc là con rồng châu á đã đạt được những thành tựu huyên diệu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa. Cơ cấu kinh tế của Hàn huyền diệuQuốc năm 1966 là nông nghiệp 34,9%; công nghiệp là 25,6%; dịch vụ 39,5%, đến năm 1980 con số này là 16,0%; 41% và 43%. Trong các năm 1960-1970 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc thuộc loại cao nhất thế giới, GNP bình quân đầu người của Hàn Quốc tăng trung bình 6,7% một năm và vào năm 1990 đã đạt 2.370 đô la Mỹ/người. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động đã đặt ra nhiệm vụ lớn cho chính phủ Hàn Quốc là phải tăng cường đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Có thể nói Hàn Quốc là nước thành công trong kết hợp được hài hòa giữa chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế với chính sách phát triển nguồn nhân lực. Công trình nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (1993) đã nhấn mạnh đến thành tựu đào tạo nguồn nhân lực của Hàn Quốc, trong đó có vai trò to lớn của tập trung đầu tư cho giáo dục, đảm bảo cho mọi người dân được giáo dục, đào tạo với quy mô lớn, ở tất cả các ngành lĩnh vực của nền kinh tế. Tỷ lệ đăng ký đi học theo nhóm tuổi tương ứng của Hàn Quốc năm 1971 tiểu học là 103%, năm 1992 là 105%; trung học năm 1970 là 42%; năm 1992 là 90%; đại học năm 1980 là 16%; năm 1992 là 42%. Hệ thống giáo dục đào tạo luôn mở ra cơ hội cho người lao động nông thôn theo học các trường, lớp đào tạo CMKT theo nhu cầu của bản thân để tìm kiếm việc làm phù hợp trên thị trường lao động.
Trong những năm đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, chính phủ Hàn Quốc phát triển hệ thống đào tạo, thu hút lao động vào đào tạo các ngành nghề hàm lượng lao động cao như ngành dệt, may, giầy da, đồ chơi, công nghiệp chế biến, nhà hàng… (cuối những năm 1960). Các thời kỳ sau, công nghiệp phát triển mạnh mẽ, lao động được đào tạo với quy mô lớn trong các lĩnh vực sắt thép, hóa chất, đóng tàu, xây dựng công nghiệp, xây dựng dân dụng, xe lửa, điện tử, viễn thông, máy tính và chất bán dẫn… Sự phát triển mạnh các ngành công nghiệp xuất khẩu, dịch vụ đã giải quyết được việc làm cho lao động nông thôn mất việc làm trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động; trong lực lượng lao động, lao động nông nghiệp đã giảm từ 74,1% năm 1950 xuống còn 38,6% năm 1980. Đời sống dân cư và người lao động không ngừng được nâng cao nhờ tăng nhanh lao động kỹ năng và việc làm có năng suất lao động cao hơn nhiều.
Chính phủ Hàn Quốc có chính sách khuyến khích các công ty tham gia đào tạo nghề, hướng dẫn thực tập nghề nghiệp cho người lao động, đặc biệt là cho lao động nông thôn theo học nghề ban đầu, để đảm bảo cung ứng cho nhu cầu của các ngành công nghiệp có tốc độ phát triển nhanh. Chính phủ quy định các công ty sử dụng hơn 150 công nhân hàng năm phải tham gia đào tạo nghề cho người lao động trong vùng, chú trọng đào tạo lao động từ nông thôn. Các kế hoạch đào tạo phải được đệ trình hàng năm lên Bộ Lao động, nếu công ty nào không thực hiện thì phải nộp khoản thuế từ 0,25% đến 0,67% quỹ lương. Trên thực tế một số công ty không muốn đào tạo mà thay vào đó là nộp thuế để khỏi phải thực hiện nhiệm vụ đào tạo nghề. Chính phủ sử dụng khoản thuế này vào mục đích hỗ trợ đào tạo cho lao động nông thôn và hỗ trợ đào tạo đối với các ngành thiếu hút lao động kỹ năng, đang cần đào tạo khẩn cấp cho nhu cầu áp dụng công nghệ mới, mở rộng quy mô hoạt động.
Chính phủ cũng khuyến khích phát triển hình thức tín dụng, giảm thuế và trợ cấp, nhằm tạo điều kiện cho lao động nghèo, lao động nông thôn có thể tham gia các khóa đào tạo, học nghề, học đại học.
Trong giai đoạn chuyển dịch cơ cấu công nghiệp hướng vào phát triển các ngành kinh tế có hàm lượng tri thức và công nghệ cao hơn. Hàn Quốc đã có chính sách tăng cường quy mô và chất lượng giáo dục trung học phổ thông kể cả ở nông thôn, để đảm bảo cơ sở cho đào tạo nhân lực trình độ cao, đáp ứng giai đoạn phát triển của các ngành kinh tế. Trong đó, đặc biệt là nhân lực trong ngành công nghệ thông tin, dược phẩm, chế tạo ô tô, điện tử cao cấp, viễn thông, chế tạo máy móc chính xác, tự động hóa, công nghệ sinh học…
1.3.4. Kinh nghiệm của các nước ASEAN
Các nước ASEAN có nền kinh tế tăng trưởng cao (Singapor, Thái Lan, Malaixia) đều có chung đặc điểm trong đào tạo, phát triển nhân lực. Trong giai đoạn đầu thực hiện chính sách phát triển mạnh mẽ các ngành sử dụng nhiều lao động như công nghiệp chế biến làm tăng giá trị hàng nông sản và khai khoáng, công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu, các ngành xây dựng hạ tầng cơ sở, năng lượng… Trong giai đoạn này, việc phát triển nguồn nhân lực được chú trọng vào phổ cập giáo dục tiểu học là ưu tiên hàng đầu để tạo điều kiện cho lực lượng lao động nông thôn bị mất việc làm trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa có thể chuyển dịch sang hoạt động ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đa số các nước ASEAN đều thực hiện chính sách miễn phí cho giáo dục tiểu học và loại bỏ sự phân biệt về sắc tộc và giới tính trong giáo dục - đào tạo. Chính sách phổ cập tiểu học có vai trò quan trọng làm cơ sở cho phát triển trung học phổ thông và đào tạo nhân lực CMKT cho chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp trong giai đoạn phát triển kinh tế sau này của các nước ASEAN.
Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa mạnh mẽ ở các nước ASEAN (1970-1980) lao động dôi dư trong nông nghiệp là rất lớn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thúc đẩy phát triển mạnh các ngành như công nghiệp điện tử, viễn thông, hàng dệt may cao cấp, giầy da, chế biến nông sản xuất khẩu; dịch vụ tài chính, ngân hàng và cảng biển (Singapor, Malaixia, Thái Lan)… Để đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngành này, chính phủ các nước ASEAN đã chuyển sang chiến lược tăng tốc giáo dục phổ thông trung học, cải cách sâu rộng nền giáo dục phổ thông theo yêu cầu phát triển của thời kỳ mới. Do quy mô học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học tăng lên nhanh chóng ở nông thôn, hệ thống giáo dục đào tạo của một số nước ASEAN (Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia…) đã có bước thay đổi là mở rộng thêm các trường đào tạo tư nhân để tạo điều kiện tiếp nhận thêm học sinh, sinh viên nông thôn vào học, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
Một số nước ASEAN (Thái Lan, Inđônêxia…) mở rộng giáo dục nghề, giáo dục kỹ thuật ngay trong bậc trung học. Chương trình giảng dạy được đổi mới và đưa các môn học kỹ thuật vào trong chương trình học phổ thông, lao động được tiếp cận với tri thức ngành nghề và có định hướng nghề nghiệp tốt để tham gia vào đào tạo CMKT sau khi tốt nghiệp phổ thông.
Các cố gắng về tăng cường mở rộng giáo dục trung học phổ thông, giáo dục nghề và giáo dục cao đẳng, đại học làm tăng tỷ lệ qua đào tạo và chất lượng của nguồn nhân lực ở các nước này, đặc biệt là các vùng ven các đô thị lớn như Culămpua, Băng Cốc, Manila… tạo điều kiện rất thuận lợi cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa.
Chính phủ Malaixia đã xây dựng quỹ phát triển nguồn nhân lực (HDRF) quy định vai trò của chủ doanh nghiệp trong một số lĩnh vực công nghiệp, chế tạo, dịch vụ phải có nghĩa vụ đóng góp cho quỹ đào tạo hàng năm 1% quỹ lương. Chính phủ dùng quỹ này để trợ giúp đào tạo, dạy nghề đối với các ngành nghề có nhu cầu lớn về lao động kỹ thuật, đào tạo lao động nông thôn cho chuyển dịch từ khu vực nông nghiệp năng suất lao động thấp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ có năng suất lao động cao hơn trong quá trình đô thị hóa và đầu tư nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề. Các lĩnh vực được đào tạo từ quỹ tài trợ phát triển nguồn nhân lực của Malaixia như chế tạo, khách sạn, du lịch, bưu chính viễn thông, vận tải, quảng cáo, máy tính… Chính phủ Malaixia khuyến khích hệ thống cơ sở đào tạo nghề tư nhân thu hút đào tạo nhân lực phục vụ cho các chương trình phát triển các ngành nghề mới như chế tạo, lắp ráp và sửa chữa ô tô, điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin, vận tải, quảng cáo…
Singapor mặc dù là nước nhỏ, đa số lao động hoạt động trong ngành dịch vụ (năm1980 là 58,9%), năm 1950 lao động nông nghiệp chiếm tỷ lệ 8,1% và qua quá trình cơ cấu lại nền kinh tế đã giảm xuống 2,2% vào năm 1980 nhưng chính phủ đã tích cực triển khai chương trình phát triển nguồn nhân lực, xây dựng quỹ phát triển kỹ năng (SDF) và chương trình tái phát triển kỹ năng (SRP- là chương trình sáng kiến của ba bên làm tăng kỹ năng làm việc của lực lượng lao động) để có nguồn cung cấp các khoản tài chính khuyến khích các chủ sử dụng lao động tham gia các chương trình đào tạo, nâng cao kỹ năng cho người lao động, tạo ra khả năng cống hiến suốt đời cho người lao động. Đặc biệt đối với người lao động nông thôn thông thường có trình độ CMKT thấp, không có chứng chỉ nghề thì chương trình SRP có vai trò quan trọng giúp người lao động nông thôn nâng cao trình độ và nhận được chứng chỉ nghề, tạo cơ hội khi cần thiết họ có thể chuyển nghề hoặc tìm việc trên thị trường lao động.
Một số nước ASEAN như Singapor, Thái Lan có dịch vụ du lịch rất phát triển, kể cả ở nông thôn (du lịch sinh thái, văn hóa…), trong đó vai trò của các công ty du lịch rất quan trọng đối với đào tạo nghiệp vụ du lịch cho lao động nông thôn, đảm bảo phát triển và thực hiện các dịch vụ này mang tính văn minh và hiệu quả. Đối với một số vùng ngoại ô thủ đô của nhiều nước ASEAN, phần lớn lao động nông thôn đã chuyển sang các hoạt động dịch vụ, trong đó có dịch vụ du lịch (Băng Cốc, Culămpua…).
Trong chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nông thôn, Chính phủ các nước Philipin, Thái Lan… còn rất chú trọng lựa chọn những học sinh nông thôn tốt nghiệp trung học phổ thông và trung học cơ sở để đào tạo nghề phục vụ cho xuất khẩu lao động. Hàng năm, xuất khẩu lao động đã giải quyết được hàng trăm nghìn việc làm cho lao độ._.c làm rất cấp bách, trong một thời gian ngắn. Nên mức độ tác động của chính sách cần phải mạnh mẽ, khẩn trương cùng với chính sách vai trò tổ chức quá trình đào tạo của chính quyền cần được coi trọng.
- Chính sách hỗ trợ đào tạo đối với lao động chuyển đổi nghề khi Nhà nước thu hồi, đền bù đất, trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa.
- Chính sách hỗ trợ đào tạo đối với các đối tượng xã hội (người nghiện ma túy, mại dâm…), vì ở khu vực đô thị hóa nhanh của các đối tượng này có xu hướng phát triển hơn các khu vực khác.
- Chính sách sử dụng sau đào tạo: Chính sách thu hút, sử dụng sau đào tạo có vai trò quan trọng trong kích thích sự tham gia đào tạo của người lao động khu vực đô thị hóa nhanh. Đặc biệt là đối với lao động nghèo, lao động chuyển đổi nghề trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Các chính sách cụ thể như: việc làm, tiền lương, thu nhập nhà ở, điều kiện lao động… của lao động CMKT. Đặc biệt cần quan tâm có chính sách đầu tư hợp lý khuyến khích các chủ đầu tư bỏ vốn mở mang nhiều cơ sở sản xuất, dịch vụ. Để thu hút lao động thất nghiệp. Nhà nước phải hướng dẫn tạo điều kiện (nhất là phải giành đất đai) và đi đầu trong việc bỏ vốn đầu tư phát triển các ngành nghề, cơ sở mới ở các khu vực này.
c. Các chính sách Đào tạo đối với cơ sở đào tạo
Với các cơ sở đào tạo Nhà nước cần hoàn thiện và bổ xung các chính sách theo các hướng sau:
- Nhà nước cần có quy hoạch, kế hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân lực, từ đó làm rõ hướng phát triển, hệ thống cơ sở đào tạo từng địa phương. Có chính sách chỉ rõ hướng, quy chế đầu tư.
- Chính sách mặt bằng cho phát triển các cơ sở đào tạo trên địa bàn Huyện như chính sách ưu tiên bán đất, cho thuê để xây dựng các cơ sở đào tạo các nghề công nghệ cao, nghề kinh tế mũi nhọn, nghề truyền thống, trong đó, kể cả đối với cơ sở đào tạo của tư nhân , cơ sở đào tạo của nhà đầu tư nước ngoài.
- Chính sách tạo môi trường bình đẳng về mọi mặt (cấp tín dụng, tuyển dụng, bằng cấp…) giữa các loại hình đào tạo công lập với loại hình đào tạo tư nhân, bán công, dân lập…, để thúc đẩy phát triển mạng lưới các cơ sở đào tạo, đặc biệt là phát triển các cơ sở đào tạo nghề ngoài công lập.
- Chính sách ưu đãi về đầu tư, cung ứng trang thiết bị đào tạo, đào tạo giáo viên đối với các cơ sở đào tạo nhân lực cho các ngành nghề chủ lực, có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nông thôn ngoại thành Hà Nội như: công nghiệp chế biến, công nghệ sinh học, dệt may, da giầy, công nghệ thông tin, điện tử, cơ khí, sản xuất vật liệu mới.
- Chính sách thu hút học sinh tốt nghiệp loại giỏi và những người có năng lực đang làm việc trong thực tiễn sản xuất - kinh doanh để đào tạo nhân lực CMKT cao (cao đẳng, đại học, trên đại học…) và sử dụng làm giáo viên các cơ sở đào tạo, dạy nghề. Trên cơ sở đó nhằm bổ sung giáo việc chất lượng cao, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực CMKT cho nông thôn ngoại thành.
- Chính sách đảm bảo đầu tư từ ngân sách thành phố để xây dựng các cơ sở đào tạo nghề kỹ thuật cao, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng của trung tâm đào tạo nghề tại các huyện, để nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cho nông thôn ngoại thành.
Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đào tạo nghề cho nông thôn ngoại thành. Hiện nay trên địa bàn nông thôn ngoại thành có số lượng lớn các doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao (DN FDI, DN Nhà nước…), nhiều DN có cơ sở, lớp đào tạo nghề, là thuận lợi cho người lao động nông thôn ngoại thành trong tiếp cận dịch vụ đào tạo của các doanh nghiệp. Cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đào tạo nhiều hơn cho lao động nông thôn ngoại thành.
- Chính sách hỗ trợ (thuế, mặt bằng, thu hút giáo viên, nghề nhân…) để phát triển một số cơ sở đào tạo nghề truyền thống có giá trị kinh tế - xã hội và xuất khẩu cao, tạo được nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao động nông thôn ngoại thành.
- Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài để xây dựng các cơ sở đào tạo nhân lực CMKT chất lượng cao (kể cả cơ sở đào tạo 100% vốn nước ngoài) và miền thuế nhập khẩu thiết bị, công nghệ mới dùng cho phát triển các cơ sở đào tạo. Trên cơ sở đó để nâng cao năng lực đào tạo nhân lực CMKT cao cho nông thôn ngoại thành Hà Nội.
Cụ thể hóa đối với từng khu vực cần nhấn mạnh một số vấn đề:
Đối với, khu vực thuần phát triển nông nghiệp
Thành phố cần có cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư ưu tiên đầu tư cho khu vực này thí dụ ưu đãi về thuế. Về mặt bằng, các cơ sở đào tạo các nghề nông nghiệp đều cần diện tích lớn cho việc phát triển các nhà kính, các phòng, và ruộng thí nghiệp, đối chứng… vì vậy đề nghị được ưu tiên cấp đất.
Đối với khu vực phát triển nghề truyền thống
Hiện nay trong các làng nghề các lớp truyền nghề, vừa học, vừa làm là hình thức chủ yếu trong đào tạo lớp thợ mới. Nhà nước chưa có chính sách nào khuyến khích và kiểm soát sự năng động này. Do đó trong thời gian tới cần nghiên cứu để chuẩn hóa, chính quy hóa, nâng cao chất lượng các khóa học này.
Cần có chế độ cấp đất đai, hỗ trợ kinh phí, xây dựng trường lớp theo tiêu chuẩn. Cơ chế độ đãi ngộ ưu ái, khuyến khích các nghệ nhân, các thợ lành nghề mở rộng đào tạo. Đặc biệt với các nghệ nhân thành phố cần có những hình thức tôn vinh thích hợp.
Với các ngành nghề truyền thống có doanh số xuất khẩu cao có tương lai phát triển cần thành lập quỹ đào tạo nghề, khuyến khích các cơ sở sản xuất mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
Đối với khu vực đô thị hóa nhanh, Nhà nước phải quan tâm ngay từ khâu quy hoạch và trong kế hoạch đầu tư đến việc ổn định, nâng cao đời sống của nông dân bị mất đất. Đổi mới bộ mặt kinh tế xã hội của các vùng bị thu hồi đất. Hiện có tình trạng các nhà quy hoạch kế hoạch chỉ biết thu hồi đất phục vụ các dự án. Đầu tư cho các dự án phát triển các khu công nghiệp hoặc đô thị mới (trong "hàng rào") mà không có đầu tư xứng đáng cho toàn bộ khu vực (ngoài hàng rào). Sự "vô tình" đó làm cho đời sống của nhân dân các khu vực này càng khó khăn.
Vì vậy, các quy hoạch kế hoạch đầu tư phải được lập cho toàn bộ khu vực (trong đó có có khu công nghiệp, đô thị mới). Trước hết, phải giành diện tích đất đai cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội cho cả khu vực, phát triển các cơ sở sản xuất, kinh doanh, công nghiệp, nông nghiệp dịch vụ thương mại, du lịch, các trường học, trường dạy nghề, các cơ sở y tế, thông tin liên lạc…
Cần có các chính sách, cơ chế khuyến khích đủ mạnh để thu hút việc phát triển các ngành nghề mới, các cơ sở đào tạo nghề với nhiều hình thức tổ chức và các chủ sở hữu khác nhau.
Hiệu quả của công tác đào tạo nhân lực CMKT cho khu vực có phụ thuộc nhất định vào việc hình thành và thực hiện cơ chế phối hợp giữa các cơ sở đào tạo. Các cơ chế chủ yếu phải thực hiện là:
- Cơ chế phối hợp giữa các cơ sở đào tạo để đảm bảo đào tạo đủ số lượng người được đào tạo, đào tạo đúng cơ cấu ngành nghề, cấp trình độ, chất lượng đào tạo cao, đáp ứng được nhu cầu sử dụng của nông thôn ngoại thành hàng năm và theo các giai đoạn.
- Cơ chế đảm bảo mối quan hệ phối hợp giữa các cơ sở đào tạo trong thực hiện các hình thức, phương thức đào tạo phù hợp với yêu cầu đào tạo nhân lực CMKT cho nông thôn ngoại thành.
- Cơ chế hợp tác cung ứng thông tin thị trường lao động giữa các cơ sở đào tạo về nhu cầu đào tạo, nhu cầu sử dụng lao động trên thị trường lao động theo cấp trình độ CMKT, ngành, nghề, chất lượng… để các cơ sở đào tạo hoàn thiện, điều chỉnh kịp thời chương trình đào tạo nhân lực phù hợp cho nông thôn ngoại thành, trong mối quan hệ cung - cầu nhân lực CMK của thành phố và các vùng khác.
- Cơ chế hợp tác cung ứng thông tin về thành tựu khoa học - công nghệ (trong và ngoài nước) về lĩnh vực, ngành nghề cơ sở đào tạo, để có chương trình cùng cập nhật, ứng dụng vào thực tiễn, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực CMKT cho nông thôn ngoại thành.
d. Cần hoàn thiện lại hệ thống tổ chức quản lý công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực
Nhiệm vụ đào tạo phát triển nguồn nhân lực của thủ đô quá lớn, đa dạng và phức tạp. Công tác quản lý hiện tại không theo kịp yêu cầu. Thực sự chưa có cơ quan nào theo sát được hệ thống đào tạo phục vụ cho nhu cầu nhân lực của thủ đô. Sở giáo dục đào tạo, số lao động thương binh xã hội, các huyện, quận, đặc biệt quận, huyện chưa có thực sự chi phối được quá trình đào tạo, chủ động bảo đảm yêu cầu lao động cho mọi nhu cầu.
Trong điều kiện hiện nay cần có một cơ quan theo tập trung bao quát thường xuyên công tác này: theo tôi đó là Ban chỉ đạo công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực của thành phố, PCT. UBND thành phố chủ trì, Sở Lao động thương binh xã hội thường trực, các thành viên là Sở KH - ĐT, Sở Tài chính, Sở GD - ĐT, Ban chỉ đạo GPMB thành phố, và đại diện các huyện, quận, đặc biệt là các huyện ngoại thành (như Đông Anh).
Nhiệm vụ của Ban chỉ đạo là lên cân đối lao động xã hội 5 năm và hàng năm của thành phố và từng quận huyện. Từ đó, chỉ rõ nhu cầu đào tạo phát triển nguồn nhân lực 5 năm và hàng năm. Cân đối nhu cầu và khả năng đào tạo, phát hiện ra khoảng cách cần có biện pháp khắc phục từ đó đề xuất kịp thời các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển các cơ sở đào tạo dưới nhiều hình thức và đa dạng chủ đầu tư; các chính sách điều chỉnh cơ cấu ngành nghề đào tạo; các chính sách và cơ chế kiểm soát, nâng cao chất lượng đào tạo…
3.3. Một số kiến nghị về điều kiện để bảo đảm việc thực thi các chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở huyện Đông Anh trong giai đoạn 2006 - 2010
Nhiệm vụ đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở đâu, giai đoạn nào cũng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Trong giai đoạn 2006 - 2010 ở Hà Nội và Đông Anh càng bức thiết vì nó gắn với quá trình đô thị hóa nhanh của thủ đô Hà Nội quy mô, tính đa dạng, yêu cầu bức thiết về thời gian của đào tạo gắn với quá trình thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất; hàng trăm ngàn lao động phải chuyển đổi nghề nghiệp: yêu cầu việc làm mới và thu nhập, nâng cao đời sống sau khi bị thu hồi đất làm cho quá trình này trở nên cấp bách.
Vì vậy, muốn thực hiện được các chính sách, đào tạo có hiệu quả cần có nhiều điều kiện trong đó phải hoàn thiện các chính sách về đất đai, thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai; các chính sách và giải quyết việc làm cho nông dân mất đất. Luận văn, xin kiến nghị một số vấn đề trên hướng này.
3.3.1. Nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là căn cứ quan trọng phục vụ cho việc Nhà nước tiến hành thu hồi đất. Luật đất đai quy định việc thu hồi đất để chuyển sang mục đích khác phải theo đúng quy hoạch và kế hoạch đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Quy hoạch kế hoạch ở đây không chỉ là quy hoạch kế hoạch tổng thể, mà phải là quy hoạch, kế hoạch chi tiết (đo vẽ trên bản đồ 1/2000 và 1/500). Chính phủ lập quy hoạch kế hoạch cho cả nước. ủy ban nhân dân các cấp lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho địa phương thông qua trước khi trình các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt; các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai do ngành (lĩnh vực) phụ trách để trình Chính phủ xét duyệt.
ở nhiều địa phương việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010 ở cấp huyện, xã chưa hoàn thành, chất lượng chưa cao. ở những địa phương này việc khoanh định các loại đất, định hướng sử dụng đất nhiều lúc không sát với thực tế, số liệu đo đạc lại không chính xác gây nên những khó khăn, lúng túng, bị động trước tình hình, thậm chí làm đảo lộn kế hoạch thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai của các dự án.
ở Hà Nội việc lập bản đồ địa chính trên địa bàn thành phố đã hoàn thành về cơ bản. Khu vực ngoại thành đã được đo đạc và lập bản đồ tỷ lệ 1/500 đất nông nghiệp lập với tỷ lệ 1/1000, riêng huyện Sóc Sơn được lập bản đồ tỷ lệ 1/1000 đối với khu vực dân cư và 1/2000 ở khu vực đất nông nghiệp và 1/5000 ở vùng núi; khu vực nội thành được đo đạc và lập bản đồ tỷ lệ 1/200. Khó khăn của Hà Nội lúc này lại là việc cập nhật trên bản đồ và hồ sơ địa chính chưa được quan tâm đúng mức và do trình độ chuyên môn còn thấp, lại chưa có đủ phương tiện hiện đại nên thông tin nhà, đất đã không đảm bảo độ chính xác và kịp thời cần có.
Một khía cạnh nữa cần nhìn nhận là tính đồng bộ của hệ thống quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế; quy hoạch sử dụng đất; quy hoạch thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất; quy hoạch tái định cư; quy hoạch phát triển nguồn nhân lực không đồng bộ với nhau; thậm chí có những quy hoạch chưa được quan tâm xây dựng và phát triển thực hiện. Chúng ta không có được một tầm nhìn tổng thể xuyên suốt nên trong thực tiễn có hiện tượng lúng túng, chắp vá, làm đi làm lại giải quyết các khâu của quá trình thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
Việc nâng cao chất lượng quy hoạch cụ thể cần khắc phục các hiện tượng.
- Quy hoạch treo, thu hồi đất sau đó bỏ hoang lãng phí. Tuyên bố quy hoạch rồi không thực hiện "treo dây theo quy hoạch" gây mất lòng tin của nhân dân.
- Quy hoạch chậm, quy hoạch lạc hậu, quy hoạch bất hợp lý.
- Quy hoạch không bàn bạc với dân, không công khai với dân.
- Quy hoạch sử dụng đất, không được xây dựng trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế xã hội; không gắn liền với quy hoạch đào tạo, tạo việc làm mới cho dân cư.
3.3.2. Sớm khắc phục các trở ngại để hình thành thị trường đất đai
Đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt, gắn liền với sự phát triển của các ngành sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Là nguồn nội lực, nguồn vốn to lớn, rất quý giá của đất nước. Đất đai, quan hệ giao dịch đất đai có ý nghĩa kinh tế, chính trị xã hội sâu sắc.
Đã có nhiều học thuyết kinh tế - xã hội nghiên cứu về đất đai như W.Petty (1623 - 1687), Ađam Smit (1723 - 1790), D.Ricácđô (1772 - 1823), Các Mác (1818 - 1883). Các học thuyết đều coi đất đai (từng thửa cụ thể, có kích thước, vị trí xác định) là hàng hóa. (Đất đai nói chung, hiểu theo nghĩa là bề mặt lãnh thổ một quốc gia hay trái đất chúng không phải là đối tượng giao dịch hàng hóa). Tuy nhiên đất đai là hàng hóa đặc biệt, nên việc mua bán đất đai phải chịu sự chi phối của pháp luật và được thực hiện theo những hình thức và thủ tục theo quy định của Nhà nước. Thí dụ ở Pháp, mua bán đất đai được thực hiện công khai ở tòa thị chính địa phương giữa người mua, người bán, Hội quy hoạch đất đai, đại diện chính quyền. ở úc việc mua bán được thực hiện trên thị trường nhưng phải qua các thủ tục: người bán đăng ký tại cơ quan quản lý. Cơ quan này công bố công khai thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng qua các tổ chức tư vấn tiếp cận với cơ quan quản lý để xem xét thực địa, hồ sơ giá cả và các vấn đề khác nếu có. Bên bán, bên mua thỏa thuận thì ký hợp đồng cụ thể tại cơ quan quản lý và thanh toán tài chính với nhau trực tiếp hay qua ngân hàng.
Kinh nghiệm của các nước đều thấy giao dịch đất đai thông qua mua bán thỏa thuận là đỡ phức tạp nhất. Mua bán không có nghĩa là bỏ qua sự quản lý của chính quyền, bỏ qua các thủ tục pháp luật. Ngược lại, không phải muốn quản lý được đất đai, thì Nhà nước phải sở hữu đất đai. Cần có những quan niệm biện chứng về mối quan hệ giữa tăng cường quản lý Nhà nước và sở hữu Nhà nước về đất đai trong điều kiện đã chuyển sang cơ sở thị trường để làm chỗ dựa cho việc hình thành thị trường đất đai và hoàn thiện chính sách thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
3.3.3. Hoàn thiện các chính sách tạo việc làm cho nông dân gắn liền với thực hiện các chính sách về đào tạo
Theo hướng này cần chú trọng:
Một là, Nhà nước tạo điều kiện khởi nghiệp cho các hộ nông dân bị thu hồi đất thực hiện chuyển đổi nghề nghiệp.
Hầu hết các tổ chức, cá nhân khi khởi nghiệp đều gặp những khó khăn, trở ngại phải vượt qua. Đối với hộ nông dân bị thu hồi đất, khi khởi nghiệp để thực hiện chuyển đổi nghề nghiệp, việc tạo điều kiện này càng gay gắt, nặng nề hơn. Để trợ giúp họ trong khởi nghiệp, việc tạo điều kiện từ phía Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng, trong đó nổi lên một số sự trợ giúp sau:
* Lập vườn ươm cho sự khởi nghiệp. Đây là sự trợ giúp thiết thực cho những hộ nông dân bị thu hồi đất có thể chuyển đổi nghề nghiệp bằng việc xác lập một cơ sở có qui mô nhỏ trong những ngành nghề phi nông nghiệp. Mô hình vườn ươm này đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia trên thế giới và đã được quảng bá tại Việt Nam. Với Đông Anh, tại mỗi khu công nghiệp tập trung và khu đô thị mới, Nhà nước cần dành ra một diện tích (một vài ha) để lập vườn ươm này, trong đó tại khu vực công nghiệp; tại các khu đô thị là vườn ươm cho các hộ khởi nghiệp bằng các ngành nghề dịch vụ.
* Bổ xung đối tượng thụ hưởng chính sách của ngân hàng chính sách xã hội.
Việc khởi nghiệp đối với các hộ nông dân bị thu hồi đất sẽ dựa chủ yếu vào nguồn tài chính từ việc bồi thường của Nhà nước. Tuy nhiên, kinh tế bồi thường không đủ nên các hộ này rất cần được sự hỗ trợ của thị trường vốn để bắt đầu lập nghiệp mới. Do vậy cần có một tổ chức tín dụng đặc biệt để các hộ này có thể tiếp cận, và đó chính là Ngân hàng chính sách xã hội. Cho các hộ nông dân bị thu hồi đất đến Ngân hàng này vay vốn lập nghiệp, vay vốn kinh doanh, không đơn thuần là những vấn đề kinh tế mà còn là những vấn đề chính trị xã hội.
Nhằm khai thông việc này, chính quyền địa phương cần có sự can thiệp đối với hệ thống ngân hàng chính sách xã hội để các hộ nông dân bị thu hồi đất và thực hiện khởi nghiệp trong chuyển đổi nghề nghiệp cũng được thụ hưởng các chính sách của ngân hàng này.
Hai là, Nhà nước ban hành chính sách đồng bộ cho loại hình "Kinh tế hộ".
Trong hệ thống chính sách dành cho các loại hình tổ chức kinh doanh hiện nay, Nhà nước đã có chính sách doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã, Doanh nghiệp khu vực tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, đối với các hộ nông dân bị thu hồi đất và việc thực hiện việc chuyển đổi nghề nghiệp theo đó hình thành loại hình "hộ kinh doanh" phi nông nghiệp hoặc nông nghiệp đô thị với qui mô "cực nhỏ", thì điều kiện để thụ hưởng các chính sách của Nhà nước dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại ở ngoài tầm đối với các hộ kinh doanh này. Sự thiếu vắng chính sách cho các hộ kinh doanh nói chung và cho các hộ kinh doanh phi nông nghiệp, hộ kinh doanh nông nghiệp đô thị đối với các hộ nông dân bị thu hồi đất tại các vùng Nhà nước phát triển khu công nghiệp, khu đô thị nói riêng cần được bù đắp trong thời gian tới trong đó nổi lên là:
- Ban hành văn bản Luật về loại hình "kinh tế hộ" , tạo căn cứ pháp lý cho sự phát triển không chỉ đối với các hộ nông nghiệp, hộ kinh doanh phi nông nghiệp tại khu vực thành thị, hộ kinh doanh phi nông nghiệp tại khu vực nông thôn mà cả với hộ kinh doanh phi nông nghiệp, và hộ kinh doanh nông nghiệp đô thị hình thành từ các hộ nông dân bị thu hồi đất và thực hiện chuyển đổi nghề.
- Bổ sung chính sách đất đai trong đó không chỉ chú trọng tới nhu cầu đất làm mặt bằng kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ mà cả với loại hình "cực nhỏ" tránh duy trì tình trạng các hộ này phải sử dụng đất ở, nhà ở vào mục đích kinh doanh, gây những bất lợi cho bảo vệ môi trường và sự phát triển mở rộng kinh doanh của các hộ này.
- Tạo điều kiện để các hộ kinh doanh nói chung và các hộ kinh doanh phi nông nghiệp, và hộ kinh doanh nông nghiệp đô thị hình thành từ các hộ nông dân bị thu hồi đất nói riêng được tham gia vào thị trường tài chính, tín dụng bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác.
Kết luận
Đối chiếu với mục đích nghiên cứu đã công bố trong phần mở đầu, Luận văn đã hoàn thành các nhiệm vụ sau đây:
1. Luận văn đã hệ thống các vấn đề cơ bản của lí luận về nguồn nhân lực và đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện công nghiệp hóa và đô thị hóa, bao gồm: Nguồn nhân lực và các đặc điểm cơ bản của nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh. Những vấn đề cơ bản của chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực, trong đó luận văn trình bày cả cơ sở lí luận và phương pháp luận xây dựng các phương án kế hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở một huyện.
2. Luận văn đã phân tích thực trạng chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội thời kỳ 2000 - 2005
Trong đó, đã tổng quan về sự phát triển kinh tế xã hội huyện Đông Anh thời kỳ 2000 - 2005; thực trạng nguồn nhân lực, thực trạng đào tạo nguồn nhân lực; thực trạng chủ trương chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực của Huyện thời kỳ 2000 - 2005. Từ đó, nêu lên các nhận xét:
2.1. Đông Anh có tốc độ đô thị hóa rất nhanh; kinh tế có những bước phát triển đáng kể; Dân số tăng nhanh chủ yếu là đi nhập cư; số lượng, cơ cấu, chất lượng lao động có những thay đổi theo yêu cầu của đô thị hóa nhanh.
2.2. Công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực đã được thành phố và Hà Nội chú trọng. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết.
Một là, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch kế hoạch đào tạo không đồng bộ. Trong đó, bức xúc nhất là đào tạo nghề mới và giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp tập trung và các khu đô thị mới.
Hai là, cơ chế, chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực và cơ chế thị trường còn có những khoảng cách cần khắc phục. Do các cơ quan quản lý (tham mưu của chính quyền thành phố) không theo sát được nhu cầu đào tạo nên thành phố và huyện không có được các chính sách. Biện pháp phù hợp nhằm khuyến khích, tạo điều kiện để phát triển các hình thức đào tạo đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa và đô thị hóa nhanh đặt ra.
Ba là, công tác quản lý Nhà nước còn nhiều bất cập thiếu một cơ quan (tổ chức) theo dõi tập trung, bao quát và thường xuyên công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực.
3. Luận văn đã dự báo một cách tổng quát nhu cầu đào tạo phát triển nguồn nhân lực, đề xuất một hệ thống ba quan điểm bao quát và nhấn mạnh ba yêu cầu bức xúc đối với Đông Anh; Đề xuất một loạt nội dung cần hoàn thiện đối với hệ thống các chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Điều cần nhấn mạnh là phương pháp luận xuyên suốt trong các dự báo và đề xuất của Luận văn là phải chia Đông Anh thành 3 khu vực: Khu vực thuần phát triển nông nghiệp; khu vực phát triển ngành nghề truyền thống; khu vực đô thị hóa nhanh. Việc hoàn thiện chính sách cũng được tính tới cho các chính sách cho người được đào tạo; các cơ sở đào tạo; hệ thống cơ quan quản lý đào tạo.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Lê Xuân Bá (2003). Sự hình thành và phát triển thị trường bất động sản trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam - NXB Khoa học và Kỹ thuật.
2. Bộ Lao động Thương binh xã hội (1999). Thuật ngữ Lao động TBXH: NXB CĐXH 1999.
3. Bộ Tài nguyên - Môi trường: gồm các Thông tư sau:
- Thông tư số 18/2004/TT-BTNMT ngày 1/11/2004 v/v: Hướng dẫn thực hiện thống kê, kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất.
- Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT ngày1/1/2004 v/v: Lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính.
- Thông tư số 30/2004/TT-BTNMT ngày 1/11/2004 v/v: Hướng dẫn lập, điều chỉnh, thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Quyết định số 25/2004-BTNMT ngày 1/11/2004 v/v: Ban hành kế hoạch và phát triển khai thi hành Luật Đất đai.
4. Bộ Luật Lao động nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1994), NXB Chính trị quốc gia và hệ thống các văn bản hướng dẫn thực hiện Bộ luật lao động tập 1,2 (2002) - NXB Lao động.
5. George T.Milkovich, John W.Boudreau (2002), Quản trị nguồn nhân lực, Nxb Thống kê, TP. Hồ Chí Minh.
6. Trần Kim Dung (2001), Quản trị nguồn nhân lực, Nhà xuất bản giáo dục.
7. Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam, Nhà xuất bản lao động - xã hội, Hà Nội.
8. GS.Geoffrey B.Hainsworth (bản dịch), "Tăng cường sử dụng lực lượng lao động và mở rộng sự lựa chọn nghề nghiệp", Tạp chí phát triển kinh tế số 161 tháng 03/2004.
9. GS.VS. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia.
10. TS. Trần Đức Hạnh, "Vấn đề con người trong bài toán nâng cao năng lực cạnh tranh", Tạp chí phát triển kinh tế số 138 tháng 04/2002.
11. Nguyễn Thanh Hội (1999), Quản trị nhân sự, NXB Thống kê Hà Nội.
12. ThS. Võ Xuân Hồng "Lựa chọn phương pháp đào tạo nhân viên cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam", Tạp chí phát triển kinh tế số 161 tháng 03/2004.
13. ThS. Nguyễn Hữu Lam, "Mô hình năng lực trong giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực", Tạp chí phát triển kinh tế số 161 tháng 03/2004.
14. C.Mác, Tư bản - quyển thứ nhất, tập 3 - NXB Sự thật - 1960.
15. TS. Phan Công Nghĩa (1999), Giáo trình thống kê lao động, NXB Thống kê.
16. PGS.TS. Phạm Đức Thành (1998), Giáo trình quản trị nhân lực, NXB Thống kê.
17. Nguyễn Hữu Thân (2001), Quản trị nhân sự, Nxb Thống kê, TP.Hồ Chí Minh
18. Viện nghiên cứu và đào tạo về quản lý (2004), Phương pháp và kỹ năng quản lý nhân sự, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
19. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 108/1998/QĐ-TTg 20/6/1998 phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung thủ đô Hà Nội đến 2020.
20. Tổng cục thống kê (2004), Số liệu thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam 2003, NXB Lao động xã hội.
21.TS. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hóa - hiện đại hóa, NXB lao động xã hội.
22. Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 11/2006/CT-TTg ngày 27/3/2006 - V/v: Giải pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp.
23. UBND thành phố Hà Nội, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng năm 2004, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2005 của thành phố Hà Nội (11/2004).
24. UBND thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng kết chính sách đất đai kiến nghị về chủ trương sửa đổi đất đai 29/7/2002.
25. UBND thành phố Hà Nội, Quyết định 199/2004/QĐ-UB ngày 29/12/2004 v/v ban hành các loại đất trên địa bàn thành phố Hà Nội.
26. UBND thành phố Hà Nội, Quyết định 137/2005/QĐ-UB ngày 9/9/2005 v/v Ban hành quy định về đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất trên địa bàn thành phố Hà Nội.
27. UBND thành phố Hà Nội, Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện NQ số 20 NQ-TU của Thành ủy, NQ số 09/2000/NQQHD của HĐND thành phố và nhiệm vụ giải phóng mặt bằng 2005.
28. Nguyễn Thị Hải Vân, Việc làm cho nông dân khi thu hồi đất - Thời báo Kinh tế Việt Nam 13/7/2005.
29. Nguyễn Thị Hải Vân - Việc làm cho nông dân hết đất sản xuất - Phối hợp chặt chẽ giữa TW và địa phương - Thời báo kinh tế, 19/8/2005.
30. Thanh Vân, Dự án đường vành đai 3 (Hà Nội) - chậm vì thiếu nhà tái định cư - Báo Giao thông vận tải 22/8/2005.
31. Nguyễn Hoàng Vinh, Việc làm cho nông dân hết đất sản xuất, kết hợp đồng bộ các giải pháp - Thời báo kinh tế 19/8/2005.
32. Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Hà Nội, kỷ yếu hội thảo khoa học - thị trường nhà đất ở Hà Nội - Thực trạng và giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước 4/2002.
33. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế TW, kỷ yếu hội thảo "Phát triển thị trường bất động sản ở Việt Nam" 2/2002.
34. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2004), Kinh tế Việt Nam 2004, NXB Khoa học kỹ thuật.
35. Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia.
36. Văn kiện Đại hội Đảng Bộ huyện Đông Anh lần thứ 26.
Lời cảm ơn
Trong quá trình nghiên cứu viết Luận văn Thạc sĩ tôi đã được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của GS.TS. Đàm Văn Nhuệ, của các cơ quan, Ban, ngành của huyện Đông Anh, và thành phố Hà Nội; của các thầy trong Trường, trong Khoa; của bạn bè và gia đình. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Đức Biền
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan:
Đây là tác phẩm nghiên cứu độc lập của tôi. Mọi tài liệu sử dụng có nguồn gốc rõ ràng.
Nguyễn Đức Biền
danh mục bảng biểu sử dụng trong Luận văn
Số TT
Tên bảng biểu
Trang
Biểu số 1:
Tình hình giá trị sản xuất các ngành kinh tế thực hiện thời kỳ 2000 - 2005
37
Biểu số 2:
Sự biến đổi về cơ cấu kinh tế của Đông Anh thời kỳ 2000 - 2005 (GDP)
38
Biểu số 3:
Sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp qua các năm 2000 - 2005
39
Biểu số 4:
Số lượng các cơ sở sản xuất CN + TTCN qua các năm 2000 - 2005
40
Biểu số 5:
Tình hình phát triển các khu CNTT đến năm 2005
40
Biểu số 6:
Tình hình phát triển các cụm CN vừa và nhỏ, làng nghề đến năm 2005
41
Biểu số 7:
Tình hình phát triển của các làng nghề chủ yếu 2001 - 2005
42
Biểu số 8:
Mức độ trao đổi hàng hoá
44
Biểu số 9:
Tình hình đầu tư XDCB
44
Biểu số 10:
Tình hình thu chi ngân sách
46
Biểu số 11:
Tình hình dân số 2000 - 2005
47
Biểu số 12:
Quy mô và cơ cấu theo tuổi của lao động qua các năm
49
Biểu số 13:
Trình độ học vấn của lực lượng lao động huyện Đông Anh năm 2001 - 2005
50
Biểu số 14:
Cơ cấu và xu hướng biến động của lao động có chuyên môn kỹ thuật thời kỳ 2001 - 2005
51
Biểu số 15:
Cơ cấu trình độ văn hoá trong đội ngũ lao động 2001 - 2005
52
Biểu số 16:
Kết quả đào tạo của Hà Nội (và Đông Anh) trong 5 năm 2001 - 2006
59
Biểu số 17:
Số lượng học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở/trung học phổ thông/bổ túc văn hoá/ vào đại học; trung học nghiệp vụ, dạy nghề 2001 - 2005
60
Biểu số 18:
Các khó khăn khi tham gia đào tạo của Lao động ở Đông Anh
61
Biểu số 19:
Số lượng cơ sở đào tạo trên địa bàn Hà Nội trong đó có Đông Anh năm 2001 - 2005
61
Biểu số 20:
Cơ cấu ngành nghề đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề ở Hà Nội
63
Biểu số 21:
Tình hình thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất ở huyện Đông Anh
65
Biểu số 22:
Tình hình việc làm của dân cư vùng bị thu hồi đất sau khi thực hiện thu hồi
66
Biểu số 23:
Các khu công nghiệp tập trung và lực lượng lao động dự kiến
76
Biểu số 24:
Dự kiến phân loại 3 khu vực 2005 - 2010
87
Biểu số 25:
Dân số chia theo 3 khu vực: Nông nghiệp; Có ngành nghề; Đô thị hoá nhanh của Huyện Đông Anh vào năm 2010
90
Biểu số 26:
Nhu cầu sử dụng lao động qua các đào tạo đến 2010 của huyện Đông Anh (khu vực phát triển nông nghiệp)
91
Biểu số 27:
Nhu cầu sử dụng qua đào tạo đến 2010 của Đông Anh (khu vực phát triển ngành nghề)
91
Biểu số 28:
Nhu cầu sử dụng đã qua đào tạo đến 2010 của huyện Đông Anh (khu vực đô thị hoá nhanh)
92
Biểu số 29:
Nhu cầu sử dụng đã qua đào tạo đến 2010 của huyện Đông Anh (cả 3 khu vực phát triển)
92
Mục lục
Trang
Phần mở đầu
Tóm tắt Luận văn
Phần mở đầu 1
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThS-T07.doc