Hoàn thiện chính sách cổ tức tại Công ty Cổ phần Hanel xốp nhựa

Lời mở đầu Nền kinh tế ngày càng phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới, các thành phần kinh tế cũng trở nên đa dạng và hoạt động có hiệu quả hơn. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế của nước ta năm 2005 là thực hiện cổ phần hoá thành công hơn 2000 doanh nghiệp Nhà nước, nhằm tạo nên một môi trường bình đẳng để các doanh nghiệp phát triển. Đồng thời, Đảng và Nhà nước cũng đưa ra một loạt chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước để hỗ trợ phần nào cho các doanh nghiệp tr

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1703 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện chính sách cổ tức tại Công ty Cổ phần Hanel xốp nhựa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong quá trình tiến tới hội nhập AFTA cũng như hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Được hình thành từ dự án mở rộng sản xuất của Tổng Công ty điện tử Hanel, ngay từ giai đoạn mới hình thành, Công ty cổ phần Hanel xốp nhựa đã nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ phía Nhà nước và đặc biệt là Tổng Công ty Hanel. Với hơn 40% vốn điều lệ là do sự góp vốn của cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty Hanel, Công ty đã làm hài lòng các cổ đông bởi kết quả kinh doanh liên tục có lãi trong 8 năm liên tiếp. Đồng thời, các sản phẩm của Công ty đã chiếm lĩnh được thị trường xốp nhựa, xốp chèn và mục tiêu đặt ra trong năm 2005 là tham gia thành công trên thị trường chứng khoán. Để có được sự thành công như vậy, Công ty đã kết hợp rất nhiều quyết định tài chính, trong đó có sự thành công của chính sách cổ tức. Trong khi rất nhiều công ty cổ phần còn lúng túng trong việc phân chia lợi nhuận sau thuế thì Công ty đã xây dựng một chính sách cổ tức khá hoàn chỉnh và cụ thể, vừa đảm bảo lợi ích cho các cổ đông, vừa đáp ứng nhu cầu phát triển của Công ty trong tương lai. Tuy nhiên, để phù hợp với nhu cầu phát triển cuả nền kinh tế, Công ty cũng phải hướng tới một chính sách cổ tức hoàn thiện hơn. Chính vì vậy, em xin được chọn đề tài: “ Hoàn thiện chính sách cổ tức tại Công ty cổ phần Hanel xốp nhựa” với hi vọng qua thời gian thực tập tại Công ty có thể giúp em nâng cao hiểu biết, góp phần hoàn thiện hơn những kiến thức đã được nghiên cứu tại giảng đường Đại học. Ngoài mục lục, kết luận và danh mục tham khảo, nội dung chuyên đề gồm có 3 chương : Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về chính sách cổ tức của Công ty cổ phần; Chương 2: Thực trạng của chính sách cổ tức tại Công ty cổ phần Hanel xốp nhựa; Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách cổ tức tại Công ty. Em xin chân thành cảm ơn PGS. TS Lưu Thị Hương, cũng như toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng – Tài chính đã giúp em hoàn thành đề tài này. Chương 1 Một số vấn đề cơ bản về chính sách cổ tức của Công ty cổ phần 1.1 Khái niệm và đặc điểm của Công ty cổ phần: Nền kinh tế thị trường trên thế giới từ khi thai nghén đến lúc phát triển trong mấy trăm năm đã từng bước hình thành ba loại hình doanh nghiệp cơ bản: Doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp theo chế độ hùn vốn và doanh nghiệp theo chế độ Công ty. Sự diễn biến của các loại doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường cận đại và hiện đại đã thể hiện sự hoàn thiện từng bước và sự chín muồi của loại hình Công ty. Sự phôi thai của Công ty bắt đầu từ thế kỷ 15. Thời đó, thương mại, buôn bán ở vùng ven biển Địa Trung Hải tương đối phát triển, chiếm địa vị chi phối trên thị trường. Tới thế kỷ thứ 16, do ảnh hưởng của thương mại quốc tế phát triển và chính sách của chủ nghĩa trọng thương đã xuất hiện ở Anh một loạt Công ty thương mại góp cổ phần nhằm phát triển buôn bán hải ngoại và cướp đoạt các nước thuộc địa. Cùng với nước Anh, ở Hà Lan và Pháp cũng lần lượt xuất hiện những công ty như vậy là pháp nhân độc lập, có năng lực pháp lý, một loại hình tổ chức công ty góp cổ phần ổn định, vốn cổ phần trở thành đầu tư dài hạn, cổ phiếu chỉ có thể chuyển nhượng mà không được rút vốn, lợi tức cổ phiếu được trả theo định kỳ, thị trường buôn bán chuyển nhượng cổ phiếu cũng bắt đầu xuất hiện- tiền thân của thị trường chứng khoán. Từ thế kỷ thứ 18 đến nửa cuối thế kỷ 19 loại hình công ty cổ phần đã được phát triển nhanh chóng ở Pháp, Đức, Mỹ không những chỉ kinh doanh thương mại mà còn ở các ngành ngân hàng, giao thông vận tải , xây dựng đường sắt, các ngành chế tạo cơ khí, khai thác mỏ, sự nghiệp công cộng và bảo hiểm ở các nước tư bản phát triển, về sau xuất hiện ở các nơi trên thế giới. Gần 400 năm đã trôi qua kể từ ngày công ty cổ phần đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1600 ở nước Anh. Do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất lúc bấy giờ đòi hỏi một số ngành phải thành lập những doanh nghiệp mà số vốn để hoạt động vượt quá số vốn riêng lẻ của từng doanh nghiệp tư nhân. Ngay cả số vốn mà tư nhân đi vay cũng không thể đáp ứng được vì những doanh nghiệp này phải sau một thời gian hoạt động sản xuất kinh doanh dài mới có thể đem lại một lượng lợi nhuận tối đa. Trong khi đó ở từng cá nhân trong xã hội vẫn luôn có những khoản tiền nhàn rỗi ngắn hạn và dài hạn. Sự tồn tại khách quan đó đã giúp các nhà doanh nghiệp giải quyết được mâu thuẫn về tiền vốn bằng một hình thức sáng tạo là thành lập các công ty cổ phần mà Mác đã chỉ rõ: "...Ngay trong buổi đầu của nền sản xuất đã đòi hỏi một số tư bản tối thiểu mà lúc bấy giờ từng cá nhân riêng lẻ chưa thể có được. Tình hình đó một mặt dẫn đến việc Nhà nước phải trợ cấp cho những tư nhân như ở Pháp dưới thời Côn- Be, như một số công quốc ở Đức cho tới ngày nay. Mặt khác, nó dẫn đến việc thành lập những hội nắm giữ độc quyền do pháp luật thừa nhận để kinh doanh trong những ngành công nghiệp thương nghiệp nhất định. Đó là tiền thân của những công ty cổ phần hiện đại..." 1.1.1 Khái niệm công ty cổ phần: Công ty cổ phần hay còn gọi là công ty hữu hạn cổ phần, ở Anh và Mỹ gọi là Công ty công khai hay Công ty công chúng. Vốn đăng ký của công ty trên cơ sở các loại cổ phần khác nhau góp vốn và thông qua phát hành cổ phiếu để thu góp vốn. Công ty dùng toàn bộ tài sản của mình để bảo đảm tính pháp nhân đối với tài sản nợ của công ty. So sánh với các loại hình công ty khác thì công ty cổ phần là công ty góp vốn điển hình, pháp luật các nước xem nó là pháp nhân độc lập. Nói một cách khác, công ty cổ phần là công ty được hình thành trên cơ sở huy động vốn cá nhân bằng cách phát hành và bán cổ phiếu, trái phiếu, mỗi chủ sở hữu chỉ hưởng quyền lợi và trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình. Lợi nhuận của công ty cổ phần được phân phối cho các cổ đông theo số lượng cổ phiếu. Vai trò, địa vị và tín nhiệm của cổ đông không có ý nghĩa khi gia nhập công ty, vì bất kỳ người nào muốn bỏ vốn vào đều có thể trở thành cổ đông, không hạn chế tư cách, cổ đông trở thành người chủ sở hữu cổ phiếu đơn thuần, quyền lợi của họ chủ yếu thể hiện trên cổ phiếu, nó thay đổi tuỳ theo sự thay đổi của cổ phiếu. Vậy công ty cổ phần là một công ty có số vốn được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần và được thành lập gồm nhiều thành viên là cổ đông, chỉ chịu lỗ lãi trong số vốn mà họ đã góp. Giấy chứng nhận cổ phần gọi là cổ phiếu. Công ty cổ phần là tế bào của nền kinh tế thị trường, là tổ chức rất phát triển ở các nước tư bản chủ nghĩa như Mác đã đánh giá vai trò của công ty cổ phần: ".. Nếu phải chờ đợi tư bản tư nhân tích tụ cho đến lúc nó đủ sức làm các con đường sắt thì có lẽ cho đến ngày nay châu Âu vẫn chưa có đường sắt, nhưng nhờ việc thành lập các công ty cổ phần cho nên việc ấy đã làm được dễ dàng như trở bàn tay vậy..". Công ty cổ phần với tư cách là công ty hợp vốn hay còn gọi là công ty đối vốn, chứ không phải là công ty hợp doanh (công ty đối nhân) và yếu tố chủ yếu là cần có tiền để mua cổ phiếu và trở thành cổ đông của công ty, là một tổ chức kinh doanh do nhiều người cùng góp vốn lập ra để cùng hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ khái niệm trên, ta thấy có 3 nội dung pháp lý cần đặc biệt chú ý: 1. Công ty cổ phần phải do nhiều người thành lập (tối thiểu là 3) 2. Các hội viên đưa vốn của mình ra và góp vốn chung lại để kinh doanh. Đó là vốn của các thành viên góp, không thể chuyển thành tài sản sở hữu chung của các thành viên, song quyền sở hữu cá nhân của vốn góp không thay đổi. Có nghĩa là công ty cổ phần trở thành người đi vay đặc biệt của các thành viên, còn các thành viên lại trở thành người cho vay đối với công ty cổ phần. Như vậy quyền sử dụng vốn của các thành viên cũng không còn nữa. Vậy ai là người được sử dụng vốn chung đó? Người này là một chủ thể được lập ra theo khế ước thành lập công ty cổ phần, đó là pháp nhân công ty, cho nên công ty cổ phần phải được pháp luật thừa nhận thì mới có tư cách là một pháp nhân. Tổng số vốn của công ty chia đều cho từng cổ phần có mức tiền bằng nhau, cổ đông bỏ nhiều vốn sẽ chiếm nhiều cổ phiếu nhưng không thể tăng riêng lẻ mức tiền vốn của từng cổ phiếu. 4. Mục đích của việc thành lập công ty cổ phần là để thu lợi nhuận và chia cho các cổ đông. Cổ đông của công ty bất kể họ là ai đều phải có trách nhiệm đối với công ty, không thể trả cổ phiếu nhằm bảo đảm ổn định vốn của công ty. Đây là những nội dung cơ bản gắn liền với công ty cổ phần, từ lúc hình thành, phát triển cho đến khi giải thể. Ngoài ra, cũng như các thành phần kinh tế khác, công ty cổ phần cũng có những đặc điểm chung tương tự như các công ty trách nhiệm hữu hạn và những đặc trưng riêng của loại hình công ty cổ phần. 1.1.2 Đặc điểm của Công ty cổ phần Mô hình tổ chức các doanh nghiệp dưới dạng công ty có một lịch sử phát triển lâu dài đi từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ giản đơn đến phức tạp, từ một người sở hữu đến nhiều người sở hữu, từ công ty hợp doanh đến Công ty hợp vốn, từ Công ty trách nhiệm vô hạn đến công ty trách nhiệm hữu hạn, từ công ty quốc gia đến công ty đa quốc gia. Công ty cổ phần là một doanh nghiệp được thành lập theo đúng pháp luật của nhà nước, nhà nước phê duyệt điều lệ hoạt động của công ty, đó là tài liệu pháp lý mà nhà nước cho phép thành lập công ty cổ phần. Công ty cổ phần có 4 đặc trưng cơ bản sau: Trách nhiệm pháp lý hữu hạn: Nghĩa là những cổ đông chỉ trịu trách nhiệm về những công nợ của công ty trong phần vốn đóng góp của mình. Nếu công ty bị phá sản hoặc giải thể, chủ nợ của công ty chỉ có thể đòi nợ trên cơ sở số tài sản của công ty chứ không có quyền đòi nợ trực tiếp cổ đông. Tính có thể chuyển nhượng của cổ phiếu: Nói chung các cổ phiếu có thể tự do mua bán, khi người ta có tiền nhàn rỗi họ có thể mua cổ phiếu để hi vọng kiếm được cổ tức. Song khi họ cần tiền, họ không thể bắt công ty hoàn lại vốn đã mua cổ phiếu, nhưng họ có thể bán cổ phiếu ấy cho một người khác trên thị trường chứng khoán. Tư cách pháp nhân: Mọi công ty cổ phần đều có tư cách pháp nhân, có đăng ký hoạt động, có con dấu riêng, có quyền ký kết các hợp đồng sản xuất kinh doanh với các đơn vị khác. Công ty có quyền đi kiện và bị kiện (nếu vi phạm pháp luật). Công ty được trao đổi ở Sở giao dịch chứng khoán trên thị trường, công ty có thể công khai phát hành cổ phiếu và có thể chuyển nhượng tự do trên thị trường chứng khoán. Thời gian không hạn định: Nói chung thời gian tồn tại của một công ty cổ phần dài hơn khả năng đóng góp của từng cổ đông. Đó chính là ưu thế quan trọng của công ty cổ phần. Nhờ ưu thế này mà các công ty mới có khả năng tập trung sức lực vào việc đẩy mạnh hiệu quả sản xuất - kinh doanh. Ngoài 4 đặc trưng cơ bản trên, người ta còn có thể nhận thấy điểm khác biệt rõ ràng giữa công ty cổ phần với các loại hình công ty khác, đặc biệt là khi so sánh với công ty trách nhiệm hữu hạn, là ở tính "mở" của nó. Nếu như các công ty trách nhiệm hữu hạn thường là một pháp nhân mang tính "đóng"- nghĩa là các thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn thường là thành viên trong một gia đình hoặc một nhóm người có sự quen biết, tin cậy lẫn nhau thì công ty cổ phần lại được coi là có tính "mở"- thể hiện ở việc nó có thể bán cổ phần của mình cho cả nhà đầu tư mà thậm chí không mấy quan tâm đến công ty. Qua nghiên cứu, một số người cho rằng lý do khiến các nhà đầu tư lựa chọn loại hình công ty cổ phần là: thứ nhất, các nhà đầu tư không phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công ty, do đó, công ty có thể đầu tư vào ngành nghề kinh doanh mang tính rủi ro cao như ngành sản xuất, chế biến; thứ hai, nhà đầu tư có thể chỉ đơn thuần là người góp vốn, không phải chịu trách nhiệm vô hạn, không cần phải tham gia quản lý, điều hành công ty, đồng thời dễ dàng rút lui khỏi hoạt động kinh doanh bằng việc chuyển nhượng phần vốn góp của mình một cách tự do. Mặc dù những đặc trưng của công ty cổ phần đã thể hiện những lợi thế, song bên cạnh đó, công ty cổ phần cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro cho những người tham gia góp vốn và người quản lý công ty hay mua bán cổ phiếu, thậm chí có thể gây ra những rủi ro cho nền kinh tế nếu như việc sử dụng các phương tiện tài chính mạnh mẽ này không nhằm vào mục đích chung. * Các công ty cổ phần ở Việt Nam: Nước ta do ảnh hưởng của nền kinh tế Liên Xô và Đông Âu xây dựng theo một mô hình tổ chức quản lý thống nhất từ Trung ương tới cơ sở doanh nghiệp với cơ chế gắn chặt bộ máy của Đảng, đoàn thể quần chúng và Nhà nước (người ta thường gọi là "bộ tứ"), lấy tinh thần làm chủ tập thể trên cơ sở động viên chính trị làm chính. Do vậy bộ máy điều hành từ Trung ương đến các doanh nghiệp trên cơ sở kế hoạch hoá tập trung bao cấp, lao động được coi là có tính chất xã hội trực tiếp, Nhà nước thu tất cả và chi tất cả. Với các tiền đề trên, mỗi doanh nghiệp quốc doanh có nhiệm vụ sản xuất được chuyên môn hoá theo ngành kinh tế - kỹ thuật; Giám đốc chỉ biết điều hành sản xuất và lo giao nộp sản phẩm đúng số lượng và thời gian quy định, không cần biết các sản phẩm đó được tiêu thụ ra sao (việc tiêu thụ hàng hoá trong nước là do các công ty thương nghiệp, hoặc công ty vật tư... đảm nhiệm; còn hàng hoá xuất nhập khẩu thì do cơ quan xuất nhập khẩu thuộc Bộ Ngoại thương cũ phụ trách), hoàn toàn tách biệt sản xuất với tiêu thụ ngược hẳn với cơ chế thị trường. Ngày 21/12/1990 Quốc Hội ta đã thông qua Luật Công ty. Đây là một mốc quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Ngày 02/01/1991 Hội đồng Nhà nước đã công bố Luật công ty của Việt Nam quy định hai hình thức tổ chức công ty ở Việt Nam: công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần. Cả hai loại công ty này đều được định nghĩa theo Luật là " doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chia lỗ tương ứng với phần góp vốn và chỉ chịu các khoản nợ của công ty trong phần vốn của mình góp vào công ty" Để phát huy nội lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà các kỳ họp Đại hội Đảng toàn quốc đề ra, đẩy mạnh quyền tự do bình đẳng trứoc pháp luật trong kinh doanh của các doanh nghiệp, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh, Quốc hội đã thông qua Luật doanh nghiệp ngày 12/6/1999 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2000. Kể từ đó, Luật doanh nghiệp được coi là văn bản pháp quy có giá trị lớn nhất quy định trách nhiệm và quyền lợi của các loại hình doanh nghiệp, trong đó bao gồm cả công ty cổ phần. 1.2 Chính sách cổ tức của công ty cổ phần 1.2.1 Khái niệm cổ tức và chính sách cổ tức: Trước khi nghiên cứu những vấn đề về cổ tức, ta hãy xem cổ phần, cổ phiếu trong công ty cổ phần được định nghĩa như thế nào. * Cổ phần: Vốn điều lệ của Công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau và mỗi phần này được gọi là cổ phần. Công ty cổ phần phải có cổ phần phổ thông; người sở hữu cổ phần phổ thông gọi là cổ đông phổ thông. Công ty cổ phần cũng có thể có cổ phần ưu đãi; người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi. Cổ phần ưu đãi gồm có: Cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông, do điều lệ công ty quy định. Cổ phần ưu đãi cổ tức là cổ phần được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm. Cổ phần ưu đãi hoàn lại là cổ phần sẽ được công ty hoàn lại vốn góp bất kỳ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được ghi lại tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại. Cổ phần ưu đãi khác do công ty quy định. Sở dĩ phải nghiên cứu các loại cổ phần bởi vì khi phân chia cổ tức, hội đồng quản trị của công ty cổ phần luôn luôn phải đảm bảo lợi ích của các cổ đông đặc biệt, tức là những cổ đông đang nắm giữ những cổ phần ưu đãi. Họ có thể là cổ đông sáng lập, hoặc là những cổ đông có vai trò đặc biệt quan trọng mà công ty cần phải giữ mối quan hệ, do đó, mặc dù số lượng cổ đông này không nhiều, song họ cũng là những thành phần không thể thiếu khi nói đến công ty cổ phần. * Cổ phiếu: Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với thu nhập và tài sản của một công ty cổ phần. Cổ phiếu được chia thành 2 loại cơ bản là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi, tương ứng với cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Cổ phiếu thường là cổ phiếu mà người sở hữu có thể tham gia Đại hội cổ đông của Công ty cổ phần và được hưởng lợi tức cổ phần theo nguyên tắc " Lời ăn lỗ chịu" vì lợi tức cổ phần này phụ thuộc rất nhiều vào lợi nhuận của Công ty cổ phần trong năm đó. Người mua cổ phiếu thường phải chấp nhận tính mạo hiểm rủi ro, cho nên cần suy tính kỹ, xem xét thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển của Công ty cổ phần mà mình có ý định mua cổ phiếu (đối với các công ty cổ phần đã tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán). Cổ phiếu thường gồm có: Cổ phiếu tiền: Cổ đông góp bằng tiền mặt, góp tối thiểu là một nửa mệnh giá cổ phiếu khi thành lập công ty, phần còn lại góp theo sự góp vốn công ty. Theo luật của một số nước như Pháp thì thời hạn tối đa để gọi hết vốn công ty cổ phần là 5 năm. Còn trong luật công ty cổ phần Việt Nam chưa thấy đề cập đến giới hạn tối đa này. Cổ phiếu hiện vật: Cổ đông góp bằng hiện vật hay bản quyền sở hữu công nghiệp, phải góp đủ 100% ngay khi thành lập công ty. Theo thông lệ quốc tế các cổ phiếu hiện vật phải là cổ phiếu ký danh và không giao ngay cho cổ đông mà gửi lại tại gốc trong vòng 2 năm (để đảm bảo tính chân thực và trách nhiệm trong việc đánh giá giá trị hiện vật dùng để mua cổ phiếu). Cổphiếu ưu đãi: Là cổ phiếu mà người mua được hưởng một số quyền lợi đặc biệt nào đó về quyền lực hoặc về kinh tế. Cổ phiếu ưu đãi về quyền lực (biểu quyết) thường là của những cổ đông giữ các cương vị lãnh đạo trong các cơ quan quản lý công ty như Hội đồng quản trị, Hội đồng kiểm soát, Giám đốc hiện hành... Mức độ ưu đãi, thời gian có hiệu lực và mọi thể thức thực hiện đều do điều lệ của Công ty quyết định như được hưởng siêu lợi tức cổ phần hay được chia các khoản dự trữ và thanh lý lúc giải thể công ty. Cổ phiếu ưu đãi về quyền lực bảo đảm cho cổ đông có nhiều quyền lực hơn trong việc bàn bạc và quyết định mọi công việc của công ty. Cổ phiếu ưu đãi về kinh tế (cổ tức, hoàn lại) thường dành cho những cổ đông có nhiều cống hiến và làm việc lâu năm ở công ty, có thể đã nghỉ hưu, như được ưu tiên hoàn vốn trước cổ đông thường hoặc có thể được chia lãi theo tỷ lệ cố định theo điều lệ quy định. Ngoài 2 loại cổ phiếu trên, các công ty cổ phần còn có một loại cổ phiếu quỹ, đây là loại cổ phiếu của chính công ty đã phát hành và được công ty mua lại bằng nguồn vốn hợp pháp theo quy định. * Cổ tức: Cổ tức là số tiền hàng năm được trích từ lợi nhuận của công ty để trả cho mỗi cổ phần mà các cổ đông đang nắm giữ, phần lợi nhuận này phải tương ứng với số lượng cổ phần mà họ đang có. Theo lý thuyết, cổ tức được coi là khoản lãi chia cho mỗi cổ phần hàng năm dựa trên kết quả hoạt động kinh doanh của DN. Cổ tức theo đó là tỷ lệ phần trăm tính trên mệnh giá cổ phiếu. ở đây, cần phân biệt thị giá cổ phiếu là giá trị thị trường của mỗi cổ phiếu có thể trao đổi trên thị trường chứng khoán tại thời điểm nhất định. Hay nói cách khác, thị giá cổ phiếu là giá có thể bán hoặc mua trên thị trường chứng khoán tại một thời điểm nhất định. Thị giá cổ phiếu không phụ thuộc mệnh giá cổ phiếu mà phụ thuộc: + Hoạt động của Công ty + Tốc độ tăng trưởng của Công ty + Xu hướng phát triển của Công ty +Các chính sách kinh tế của chính phủ + Các nhân tố mang tính chất tự nhiên và xã hội. + Cũng như các loại giá cả khác, thị giá cổ phiếu cũng chịu sự điều tiết của quy luật cung cầu trên thị trường, nạn đầu cơ tích trữ... Thí dụ, mệnh giá 1 cổ phiếu của tập đoàn MICROSOFT trong thời điểm bắt đầu phát hành năm 1975 là 10$ nhưng đến năm 1998, thị giá cổ phiếu này được xác định theo chỉ số DOWNJOHN quy đổi là 189,7$, tức là có thể mua cổ phiếu đó với giá là 189,7 $. Trị giá cổ phiếu được xác định trên cơ sở xác định giá trị của doanh nghiệp và cũng chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố. Thí dụ, một DN cổ phần ban đầu phát hành 1.000 cổ phiếu với mệnh giá là 100.000 đồng, giá trị doanh nghiệp sẽ là 100.000.000 đồng. Sau ba năm hoạt động, giá trị tài sản tích luỹ được bổ sung hàng năm làm tổng tài sản của doanh nghiệp lên đến 200.000.000 đồng. Với một phép tính thuần tuý, ta có thể thấy giá trị cổ phiếu lúc này không còn là 100.000 đồng nữa mà là 200.000 đồng. Tuy nhiên, thị giá của cổ phiếu có thể không phải là con số này. Sau khi xem xét các nhân tố tác động, thị trường chứng khoán xác định thị giá cổ phiếu này. Chẳng hạn, nếu Công ty cổ phần đó có tốc độ tăng trưởng hàng năm 10% và xu hướng còn cao hơn, ngành nghề mà Công ty đang hoạt động có xu hưóng phát triển mạnh, sản phẩm có vị trí và danh tiếng trên thị trường... thì thị giá xác định có thể là 220.000 đồng.Tuy nhiên, nếu công ty bắt đầu lâm vào tình trạng làm ăn sa sút, sản phẩm không tiêu thụ được, ngành nghề đang bị Nhà nước thu hẹp, không có khả năng phát triển thì thị giá có thể xuống tới 150.000 đồng, thậm chí còn xuống thấp hơn mệnh giá. Hãng sản xuất hàng tiêu dùng nổi tiếng NESTLE (Thuỵ Sĩ), sau khi thị trường thế giới loan ra một thông tin là sản phẩm bánh ngọt của hãng này có chứa những vi khuẩn nhiễm độc, lập tức thị giá cổ phiếu tại thời điểm đóng cửa so với thời điểm mở cửa của Công ty giảm 18,9%.(Nguồn:Các thông tin thị trường chứng khoán thế giới-www.aol.com) Cũng theo nguyên tắc trên, thì cổ tức sẽ được thanh toán dựa trên cơ sở mệnh giá cổ phiếu được thẩm định qua Uỷ ban chứng khoán và được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Hàng năm, trên cơ sở lợi nhuận sau thuế,Hội đồng quản trị Công ty sẽ quyết định trích một phần lợi nhuận chia đều cho các cổ đông, phần còn lại được tái đầu tư. Hiện tại, các công ty cổ phần của Việt Nam cũng đang áp dụng hình thức này. Tuy nhiên, do còn hạn chế trong công khai tài chính, các cổ đông chỉ biết tỉ lệ cổ tức công bố chứ chưa được biết đầy đủ về tình hình kinh doanh của Công ty và theo đó không đủ cơ sở để đánh giá tỷ lệ cổ tức được công bố có hợp lý hay không, xu hướng phát triển của công ty ra sao? Việc đánh giá đúng trị giá cổ phiếu, thị giá cổ phiếu, cơ sở tính toán cổ tức hàng năm đang là vấn đề đặt ra trước Uỷ ban chứng khoán nhà nước và là vấn đề cơ bản của mỗi công ty cổ phần mặc dù một số công ty đã bắt đầu lựa chọn một chính sách cổ tức thích hợp song đây là một vấn đề khá mới mẻ đối với phần lớn các công ty. Mỗi công ty hoạt động kinh doanh có thể trả cổ tức theo một tỷ lệ nhất định hoặc giữ lại cổ tức này cho hoạt động đầu tư nếu được cổ đông chấp thuận thông qua Đại hội cổ đông hàng năm. Thậm chí các công ty cổ phần còn có quyền trả cổ tức dưới nhiều dạng, nếu được Đại hội cổ đông chấp nhận. Thông thường, các công ty cổ phần thường lựa chọn trả cổ tức bằng tiền mặt theo quý, theo tháng hoặc định kỳ. Việc trả cổ tức bằng tiền mặt có nhiều thuận lợi, nhất là đối với những cổ đông chỉ mong muốn nhận được tiền lãi hàng năm đối với phần vốn mà mình đóng góp; tuy nhiên, ở một số công ty lớn, đặc biệt là ở các nước phát triển, trả cổ tức bằng cổ phiếu lại được ưa chuộng hơn, có lẽ một phần là do thị trường chứng khoán ở các nước này khá phát triển và hấp dẫn các nhà đầu tư hơn là những khoản tiền mặt nhỏ. Mọi cổ đông đều có quyền được nhận cổ tức theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông. Tuy nhiên, tuỳ theo tính chất của số cổ phần mà cổ đông nắm giữ, cổ tức được chi trả dưới các hình thức khác nhau. Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức được ưu tiên trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm và mức cổ tức này bao gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng, trong đó cổ tức cố định hoàn toàn không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Tuy nhiên, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết lại không được nhận ưu đãi về cổ tức như cổ phần ưu đãi cổ tức. * Chính sách cổ tức: Một doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau như: tối đa hóa lợi nhuận, tối đa hoá doanh thu trong ràng buộc tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hóa hoạt động hữu ích của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp v.v.. song tất cả các mục tiêu cụ thể đó đều nhằm mục tiêm bao trùm nhất là tối đa hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. ở các công ty cổ phần, mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu này thể hiện ở giá của cổ phiếu trên thị trường, do đó, mục tiêu tăng tối đa giá cổ phiếu trên thị trường chính là cái đích cuối cùng của các công ty cổ phần khi tiến hành hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên trong thực tế, hoạt động kinh doanh không đơn thuần chỉ là việc đặt ra mục tiêu trước mắt, mà phải kết hợp chặt chẽ các quyết định tài chính, bao gồm: quyết định đầu tư, quyết định huy động vốn, quyết định về phân phối, ngân quỹ. Bản thân các quyết định tài chính này cũng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và buộc các nhà quản lý phải cân nhắc các yếu tố bên trong và bên ngoài để đưa ra các quyết định làm tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu, hay tăng giá cổ phiếu của công ty cổ phần trên thị trường. Muốn thực hiện kế hoạch đầu tư, bên cạnh việc tính toán độ khả thi của dự án, các công ty luôn phải đứng trước vấn đề nguồn vốn. Doanh nghiệp có thể có được vốn bằng cách nào để đầu tư dài hạn? Thông thường doanh nghiệp có thể lựa chọn 3 cách huy động vốn để đầu tư: Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia Phát hành cổ phiếu - trái phiếu Huy động nợ thông qua tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại. Trong thực tế, các doanh nghiệp thường sử dụng linh hoạt 3 phương thức trên sau khi đã cân nhắc lợi - hại của từng phương thức huy động. Chẳng hạn nếu như huy động nợ để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ luôn phải chịu một áp lực rất lớn từ phía các chủ nợ, ở đây có thể là ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác, thêm vào đó, thủ tục xin vay để thực hiện dự án tương đối phức tạp, đòi hỏi doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo hoặc có uy tín trên thị trường. Chấp nhận hình thức huy động này luôn đặt các doanh nghiệp ở trong tình trạng rủi ro, có thể phá sản nếu việc kinh doanh bị thua lỗ, đồng thời trách nhiệm của ban giám đốc là rất nặng nề. Các công ty cũng có thể phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu để tăng vốn tuỳ theo cơ cấu vốn của công ty ở thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, có một phương thức huy động vốn ít mạo hiểm hơn và cho đến thời điểm này được đánh giá là có ưu thế nhất trong số các phương thức huy động vốn, đó là giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia chính là phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp. Ưu thế của phương thức này là ở chỗ, doanh nghiệp vừa có thể giảm bớt chi phí của việc phát hành cổ phiếu hay trái phiếu - tức là giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, vừa giảm bớt gánh nặng nợ nần trên vai các nhà quản trị tài chính của công ty so với việc huy động nợ từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Thực tế cũng có rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại và họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng trong tương lai. Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, việc tái đầu tư không chỉ phụ thuộc vào khả năng sinh lợi của doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách tái đầu tư của Nhà nước. Tuy nhiên, đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận tiền lãi cổ phần (cổ tức) nhưng bù lại, họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của Công ty. Như vậy, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt, khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài , nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ trước mắt (ngắn hạn) do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp, hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị giảm sút. Điều này liên quan tới chính sách cổ tức của công ty, và chính bởi tính chất quan trọng của việc cân nhắc một tỷ lệ hợp lý giữa chi trả cổ tức với lợi nhuận giữ lại đã buộc các nhà hoạch định chính sách phải xem xét ở nhiều khía cạnh. Về mặt lý thuyết, chính sách cổ tức chính là quyết định cân nhắc giữa việc chi trả cổ tức cho cổ đông hay giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư. Tuỳ thuộc vào tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi công ty có thể lựa chọn cho mình một chính sách cổ tức thích hợp, sao cho vừa phải thoả mãn lợi ích của các cổ đông - những thành viên góp vốn của công ty, vừa phải đáp ứng được nhu cầu phát triển của công ty trong tương lai. Trước khi nghiên cứu tác động của chính sách cổ tức, bài viết xin được xem xét những căn cứ để xây dựng một chính sách cổ tức và nội dung của chính sách cổ tức trong các quyết định tài chính của công ty. 1.2.2 Căn cứ xây dựng chính sách cổ tức: Không giống như các doanh nghiệp Nhà nước - nếu hoạt động thua lỗ thì có thể nhờ tới sự giúp đỡ của ngân sách nhà nước, các công ty cổ phần phải tự chịu trách nhiệm với kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Chỉ khi nào công ty hoạt động có lãi mới phải chi trả cổ tức, đó là cơ sở để xây dựng chính sách cổ tức của công ty, vì bản chất của chính sách cổ tức chính là quyết định phân phối lợi nhuận. Thông thường, để xây dựng chính sách cổ tức, công ty cần phải có một số điều kiện cơ bản: Hoạt động có lãi vượt mức kế hoạch, ít nhất là trong 5 năm Thiết lập cơ cấu vốn trong từng giai đoạn tăng trưởng Xác định tỷ lệ chi trả cổ tức. Thứ nhất là công ty phải có lãi trong thời gian tối thiểu là 5 năm (thời hạn này có thể ưu tiên đối với các công ty mới thành lập), bởi vì cơ sở của việc chi trả cổ tức cũng như lợi nhuận giữ lại là phần lợi nhuận sau thuế của công ty. Nếu bản thân công ty hoạt động không có lãi thì hoàn toàn không phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán lợi tức cổ tức cho các cổ đông, và điều này có nghĩa là công ty cũng không._. thể giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư,do đó không thể thiết lập chính sách cổ tức nếu như công ty không có lợi nhuận. Căn cứ thứ hai quyết định tới việc xây dựng chính sách cổ tức chính là cơ cấu vốn hiện tại của công ty. Vấn đề này liên quan tới quyết định giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư sẽ làm thay đổi cơ cấu vốn như thế nào, và công ty phải cân nhắc kỹ lưỡng khi xây dựng chính sách cổ tức. Ngoài hai yếu tố trên, chính sách cổ tức còn được xây dựng dựa trên cơ sở công ty xác lập tỷ lệ chi trả cổ tức hợp lý. Tỷ lệ này nên là cao hay thấp, ưu thế và nhược điểm của nó như thế nào, bài viết sẽ đề cập ở phần sau, tuy nhiên có thể nói khi xây dựng chính sách cổ tức, các nhà hoạch định chính sách không thể bỏ qua những mô hình tính toán cơ bản này, bởi nó là nền tảng của quyết định phân phối lợi nhuận của công ty. 1.2.3 Nội dung cơ bản trong chính sách cổ tức của công ty cổ phần: Chính sách cổ tức bao gồm 3 nội dung cơ bản: Lợi nhuận sau thuế được phân phối như thế nào. Cổ tức được chi trả dưới dạng tiền mặt hay bằng cổ phiếu. Sự ổn định của cổ tức là như thế nào và chiều hướng của sự thay đổi diễn ra như thế nào. Phân phối lợi nhuận sau thuế như thế nào cho hợp lý không chỉ là câu hỏi đặt ra của riêng công ty cổ phần, mà là một quyết định tài chính rất quan trọng đối với hầu hết các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, do tính chất đặc biệt của công ty cổ phần - lợi nhuận sau thuế không chỉ được phân phối cho cán bộ công nhân viên của công ty mà còn phải trả một khoản lợi tức cho các cổ đông, những người đã góp vốn cho hoạt động của công ty, đây chính là khoản tiền thưởng hay còn được gọi là chi phí cơ hội của phần vốn mà các cổ đông đã góp. Vậy trong thực tế, các doanh nghiệp xử lý phần lợi nhuận sau thuế như thế nào? Trước hết, phải xác định lợi nhuận sau thuế là khoản chênh lệch giữa lợi nhuận trước thuế và thuế thu nhập doanh nghiệp. Thuế thu nhập doanh nghiệp = Lợi nhuận trước thuế * Thuế suất thuế TNDN Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế - Thuế TNDN Phân phối lợi nhuận nhằm mục đích chủ yếu là tái đầu tư mở rộng năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiêp, khuyến khích các cổ đông yên tâm về phần vốn mà họ đã bỏ ra cũng như người lao động để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và các công ty cổ phần nói riêng. Về nguyên tắc, lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp được sử dụng một phần để chia lãi cổ phần, phần còn lại là lợi nhuận không chia. ở các công ty cổ phần, tỷ lệ phần lợi nhuận chia lãi và lợi nhuận không chia tuỳ thuộc vào chính sách cổ tức mà đại hội cổ đông thông qua trong mỗi thời kỳ nhất định. Đây là nội dung cơ bản nhất được đề cập trong chính sách phân phối cổ tức, bởi vì mục tiêu chính của việc thiết lập chính sách cổ tức là tính toán và cân nhắc tỷ lệ hợp lý giữa cổ tức thanh toán cho cổ đông với phần lợi nhuận giữ lại để đầu tư. Sau khi chuyển lỗ cho các năm trước, phần lợi nhuận sau thuế được phân phối theo trình tự: Bù các khoản lỗ năm trước không được trừ vào lợi nhuận trước thuế; Trả tiền phạt vi phạm pháp luật nhà nước như: vi phạm luật thuế, luật giao thông, luật môi trường, luật thương mại và quy chế hành chính.. sau khi đã trừ tiền bồi thường tập thể hoặc cá nhân gây ra (nếu có); Trừ các khoản chi phí thực tế đã chi nhưng không được tính vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế; Phần lợi nhuận còn lại sau khi trừ đi các khoản trên được phân phối như sau: 4.1 Trích 10% vào quỹ dự phòng tài chính. Khi số dư của quỹ này bằng 25% vốn điều lệ của doanh nghiệp thì không trích nữa; 4.2 Trích tối thiểu 50% vào quỹ đầu tư phát triển; 4.3 Trích 5 % vào quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm. Khi số dư quỹ này đạt 6 tháng lương thực hiện của công ty thì không phải trích nữa; 4.4 Chia lãi cổ phần 4.5 Số lợi nhuận còn lại sau khi trích các quỹ trên được trích lập quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi. Mức trích tối đa cho cả 2 quỹ căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận trên vốn. Mục đích của việc thiết lập các quỹ này : Qũy đầu tư phát triển: quỹ này được sử dụng nhằm mục đích: Đầu tư mở rộng và phát triển kinh doanh. Đổi mới, thay thế máy móc, thiết bị dây chuyền công nghệ. Nghiên cứu khoa học, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ của công ty. Bổ sung vốn lưu động. Quỹ dự phòng tài chính: Dùng để bù đắp các khoản chênh lệch từ những tổn thất, thiệt hại về tài sản do thiên tai, hoả hoạn, những rủi ro trong kinh doanh không được tính trong giá thành và đền bù của cơ quan bảo hiểm. Việc trích lập để hình thành quỹ dự phòng tài chính theo tỷ lệ do Hội đồng quản trị của công ty quyết định hàng năm. Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm: Dùng để trợ cấp cho người lao động có thời gian làm việc tại công ty đủ một năm trở lên bị mất việc làm và chi cho việc đào tạo lại chuyên môn, kỹ thuật cho người lao động do thay đổi công nghệ hoặc chuyển sang việc mới. Hoặc dùng để trợ cấp cho người lao động mất việc làm do các nguyên nhân khách quan như: lao động dôi ra vì thay đổi công nghệ, do thay đổi tổ chức trong khi chưa bố trí công việc khác... Quỹ phúc lợi : dùng để đầu tư xây dựng hoặc sửa chữa, bổ sung vốn xây dựng các công trình phúc lợi công cộng của doanh nghiệp, góp vốn đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi chung trong ngành... Ngoài ra, công ty có thể sử dụng quỹ này để chi trợ cấp khó khăn cho người lao động của công ty đã về hưu, mất sức hay lâm vào hoàn cảnh khó khăn.. Quyết định này phải được thông qua Hội đồng quản trị và công đoàn của công ty. Quỹ khen thưởng: dùng để thưởng cuối năm hoặc thường kỳ cho cán bộ công nhân viên chức trong công ty, mức thưởng cũng ho Hội đồng quản trị và Giám đốc quyết định. Căn cứ vào tỷ lệ phân chia các quỹ như trên, phần lợi nhuận còn lại chiếm khoảng 30 -40% sẽ được quyết định chi trả cho các cổ đông dưới dạng cổ tức hay giữ lại để đầu tư. Đây là một quyết định rất nhạy cảm đối với các công ty cổ phần, vì chi trả cổ tức không chỉ liên quan tới thái độ của cổ đông mà còn tác động tới giá của cổ phiếu trên thị trường, từ đó ảnh hưởng tới uy tín và triển vọng phát triển của công ty trong tương lai mà bài viết sẽ đề cập tới khi nghiên cứu tác động của chính sách cổ tức. Nội dung thứ hai được nhắc đến khi thiết lập chính sách cổ tức đó là cách thức chi trả cổ tức mà Hội đồng quản trị của công ty phải thông qua. Bởi vì công ty cổ phần không bị giới hạn về cách thức trả cổ tức. Công ty có thể trả phần lãi cổ phần cho cổ đông dưới dạng tiền mặt (cổ tức) hoặc bằng cổ phiếu, tuy nhiên việc trả cổ tức dưới dạng tiền mặt thường được ưa chuộng hơn, nhất là đối với những cổ đông nhỏ chỉ quan tâm tới tiền lãi thu được mà không có sự tính toán lâu dài về triển vọng phát triển của công ty. Ta sẽ xem tại sao chi trả cổ tức tiền mặt lại được lựa chọn hơn cổ phiếu? Đó là do tâm lý của những người góp vốn, muốn nhanh chóng nhận được phần thưởng cho sự hy sinh quyền sử dụng phần vốn của mình. Họ là những cổ đông nhỏ, không quan tâm tới lợi thế của việc nắm giữ một số lượng cổ phiếu lớn của công ty. Thêm vào đó, với phần tiền mặt của mình, họ sẽ dễ dàng tham gia hoạt động đầu tư khác nếu muốn hoặc sử dụng lượng tiền này để gửi tiết kiệm - một biện pháp an toàn và đơn giản. Tuy nhiên, những cổ đông lớn lại ưa thích quyền lực hơn là nắm giữ một khoản tiền không đáng kể so với số vốn góp ban đầu của họ. Những cổ đông này thường là thành viên của Hội đồng quản trị, hay chí ít thì cũng quan tâm tới việc tham gia quản lý điều hành công ty mà họ là cổ đông. Do đó, chi trả cổ tức dưới dạng cổ phiếu sẽ giúp họ thực hiện được 2 mục đích: vừa tăng số cổ phiếu, vừa tăng quyền điều hành trong công ty. Rõ ràng khi công ty hoạt động có lãi, họ sẽ là những người thực sự nắm phần lời nhờ vào việc bán cổ phiếu trên thị trường hoặc hưởng cổ tức với mức giá cao hơn. Cũng giống như quyết định phân chia lợi nhuận sau thuế, quyết định về cách thức chi trả cổ tức cũng phải được Đại hội cổ đông thông qua và phải được quy định rõ trong chính sách cổ tức của công ty. Nội dung thứ ba trong chính sách cổ tức là quyết định tính toán tỷ lệ chi trả cổ tức hiện tại phải căn cứ vào tỷ lệ chi trả cổ tức của những năm trước, chiến lược phát triển của công ty trong tương lai và dự đoán hay định ra mức kế hoạch của tỷ lệ này. Sở dĩ các nhà hoạch định chính sách cổ tức đề cập tới nội dung này là vì họ cần phải xác định được mục tiêu trước mắt của công ty. Liệu công ty có thực hiện chiến dịch mở rộng đầu tư, sản xuất hay chỉ nhằm mục đích lợi nhuận tầm thường mà không lựa chọn dự án đầu tư mới? Cả hai quyết định trên đều có thể ảnh hưởng tới tỷ lệ chi trả cổ tức của công ty, và như vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới xu hướng tăng giảm của cổ tức trong tương lai. Trên đây bài viết đã đi vào những nội dung cơ bản nhất của chính sách cổ tức trong công ty cổ phần, sau khi đã phân tích những nội dung này, bài viết sẽ nhấn mạnh hơn tới vai trò hay tầm quan trọng của chính sách cổ tức mà trong thực tế chưa thực sự được lãnh đạo công ty quan tâm. 1.2.4 Vai trò của chính sách cổ tức: Chính sách cổ tức là quyết định chi trả cổ tức hay giữ lại lợi nhuận để đầu tư, hay đầy đủ hơn, nó là quyết định phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng trong từng thời kỳ nhất định. Nếu như chỉ xét ở khía cạnh trợ giúp cho công ty trong lĩnh vực phân phối lợi nhuận thì dường như không gì có thể phủ nhận rằng chính sách cổ tức thực sự là cần thiết và quan trọng đối với công ty, nhưng trong lý thuyết và ngay cả thực tế cũng chứng minh rằng ở một điều kiện kinh tế nhất định, chính sách cổ tức là hoàn toàn không thích hợp, và các nhà quản lý đang thực hiện một công việc vô ích. Có hai trường phái quan điểm đối lập nhau về tầm quan trọng của chính sách cổ tức đối với công ty. Quan điểm thứ nhất: Chính sách cổ tức là không thích hợp. Người ta giả định rằng có một thị trường hoàn hảo, tức là một môi trường không có thuế, không có chi phí giao dịch, chính sách cổ tức không ảnh hưởng tới chi phí của cổ phiếu thường đã khẳng định rằng lúc này cổ tức không phải là mục tiêu thoả mãn các cổ đông. Nếu chúng ta trả cổ tức cho các cổ đông thì tương ứng với nó là sự sụt giảm vốn đầu tư bằng nguồn lợi nhuận giữ lại, và điều này thực sự đe doạ đến khả năng phát triển của công ty trong tương lai. Luận điểm này căn cứ vào công thức dưới đây: Trong đó: P0 là giá hiện tại của cổ phiếu trên thị trường D1 là cổ tức được trả cho cổ đông Ke là tỷlệ lợi tức yêu cầu đối với cổ phiếu thường hay là chi phí của cổ phiếu thường. g là tốc độ tăng trưởng của công ty Tại một thị trường hoàn hảo như giả định, chính sách cổ tức là không thích hợp. Nếu như công ty trả cổ tức rất cao, thì các nhà đầu tư sẽ nhận phần lợi tức cổ tức này để thiết lập quỹ nhằm mục đích mua tiếp cổ phiếu của công ty, còn trong trường hợp công ty trả cổ tức rất thấp, thì các cổ đông lại bán bớt cổ phiếu để bù đắp cho phần bị mất đi. Và như vậy, thì việc thiết lập chính sách cổ tức hoàn toàn không có ý nghĩa, vì bản thân các cổ đông rất linh hoạt khi sử dụng cổ tức của mình để đầu tư thu lời trong một môi trường thuận lợi chứ không cần tới chiến lược đầu tư phát triển của công ty. Mặc dầu vậy, không thể có một thị trường hoàn hảo bởi đó chỉ là giả định của các nhà kinh tế học. Trong thực tế, chính sách cổ tức có tác động rất lớn tới chiến lược phát triển của công ty cũng như lợi ích của các cổ đông. Thứ nhất, cổ tức là một khoản lời ít rủi ro hơn so với bất kỳ một dạng đầu tư nào trên thị trường. Khi một người có tiền, họ có thể đầu tư chứng khoán, kinh doanh hoặc đơn giản nhất là gửi tiết kiệm và góp vốn vào công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. Đầu tư chứng khoán hay kinh doanh, và thậm chí là góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn thường mang tính rủi ro cao, trong khi đó việc mua cổ phần của công ty cổ phần lại đơn giản, ít mạo hiểm hơn rất nhiều. Tại sao lại như vậy? Mặc dù các công ty cổ phần chỉ phải trả cổ tức khi hoạt động có lãi, nhưng do tính chất đặc biệt của công ty cổ phần, đó là những người có số lượng cổ phần lớn nhất chính là những thành viên của Hội đồng quản trị, họ sẽ là người chịu thiệt thòi nhất khi công ty hoạt động thua lỗ hoặc bị phá sản, do đó sẽ không dễ dàng chấp nhận rủi ro. Những cổ đông nhỏ có thể hoàn toàn yên tâm với cổ phần của mình trong công ty cũng như lợi ích của mình trong tương lai. Thứ hai, lợi thế của công ty cổ phần là có thể thuyết phục các cổ đông từ chối nhận cổ tức hoặc chấp nhận một tỷ lệ chi trả cổ tức thấp hơn để sử dụng lợi nhuận giữ lại cho dự án đầu tư. Một chính sách cổ tức thích hợp sẽ giúp công ty không phải huy động nguồn vốn ở bên ngoài để đầu tư phát triển, đồng thời có thể làm hài lòng các cổ đông. Ta sẽ xem xét tác động của chính sách cổ tức tới lãi của cổ phiếu và chiến lược phát triển của công ty như thế nào. (P1- P0 + D1) Lãi của cổ phiếu = P0 P1- P0 D1 = + P0 P0 Có những tình huống sau: 1. Nếu công ty quyết định giữ lại lợi nhuận để đầu tư, khi đó cổ tức được trả D1 sẽ giảm dần tới 0 và D1/P0 cũng giảm tới 0. Nhưng đồng thời, P1-P0/ P0 lại tăng, đồng nghĩa với việc vốn cổ phần tăng lên. P1- P0 D1 = + P0 P0 2. Nếu công ty quyết định chi trả cổ tức, các cổ đông sẽ lập tức nhận được một khoản lợi tức và D1 sẽ tăng lên. Nhưng bù lại, công ty không có lợi nhuận giữ lại để đầu tư, và như thế tại thời điểm hiện tại, không có đồng vốn nào được đầu tư vào công ty. Để huy động vốn đầu tư, công ty buộc phải tìm kiếm các nguồn tài trợ bên ngoài. P1- P0 D1 = + P0 P0 3. Nếu công ty chi trả cổ tức cao cho các cổ đông, sẽ có những cổ đông ưa thích phần lợi tức mà mình nhận được hơn là chờ đợi một kết quả kinh doanh đầy rủi ro trong tương lai. Tuy nhiên, cũng có những cổ đông không hài lòng với tỷ lệ cổ tức cao này. Bởi vì họ là những cổ đông có tầm nhìn xa, họ đã nhìn thấy lợi thế của việc giữ lại lợi nhuận để đầu tư, đó chính là sự ưu tiên về thuế, một trong những nhân tố tác động trực tiếp đến chính sách cổ tức của công ty mà những cổ đông khác không nhận thấy. Vậy tác động của thuế như thế nào, và ngoài thuế ra, thì còn nhân tố nào tác động tới chính sách cổ tức của công ty? 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chính sách cổ tức của công ty cổ phần 1.3.1 Các nhân tố bên ngoài: *Thuế thu nhập doanh nghiệp: Có thể nói chính sách cổ tức của mỗi công ty chịu tác động của rất nhiều yếu tố, nhưng chủ yếu là những tác động từ phía Chính phủ. Những chính sách vĩ mô này tác động trực tiếp tới nội dung của chính sách cổ tức, mà tiêu biểu là chính sách thuế. Tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế có chính sách thuế khác nhau, nhưng về bản chất, có những quy định chung mà mọi loại hình kinh tế đều phải tuân thủ, đó chính là nghĩa vụ nộp thuế. Hiện nay có ba loại thuế được áp dụng, đó là thuế thu nhập doanh nghiệp hay còn gọi là thuế thu nhập công ty, thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân. Chính sách cổ tức không chịu tác động của thuế giá trị gia tăng, nhưng lại bị ảnh hưởng trực tiếp của thuế thu nhập doanh nghiệp và đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân. Thuế thu nhập là một loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập thực tế của các đối tượng như doanh nghiệp hoặc thể nhân. Tính chất của thuế này là có sự thống nhất giữa người nộp và người chịu thuế, tức là người nộp thuế cũng là người chịu thuế. Thuế thu nhập có phạm vi thu tương đối rộng và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của các khoản thu nhập. Thuế thu nhập trong thực tế ở các nước được đặt ra nhằm mục tiêu chính là điều tiết thu nhập, đảm bảo sự công bằng trong phân phối thu nhập xã hội nên việc đánh thuế thường dựa trên khả năng thu nhập của các chủ thể. Ngày nay, ở một phạm vi rộng, thuế thu nhập được xem là loại thuế tương đối công bằng, trước hết xuất phát từ sự đánh giá toàn cục theo bề dọc, tức người có thu nhập cao phải nộp thuế nhiều hơn người có thu nhập thấp. Khác với thuế đánh vào tiêu dùng như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt... thuế thu nhập cho phép người có thu nhập quá thấp được miễn thuế. Trong chính sách thuế, người ta có thể cố gắng thiết kế sao cho việc điều tiết thu nhập được công bằng, nhưng khi thi hành nếu không kiểm soát được và nắm chắc các khoản thu nhập phát sinh của các đối tượng để thu thuế thì sự công bằng cũng không thể được đảm bảo. Thuế thu nhập công ty (TNCT) là loại thuế trực thu được tính trên lợi nhuận của công ty trong thời kỳ kinh doanh. Lợi nhuận làm căn cứ tính thuế TNCT là tổng lợi nhuân kinh tế và lợi nhuận thông thường. Thuế suất được áp dụng để tính thuế TNCT có thể là thuế suất tỷ lệ cố định, thuế suất luỹ tiến hay thuế suất luỹ thoái trên từng đối tượng chịu thuế khác nhau. Như vậy, bản chất của thuế TNCT là thuế đánh vào thu nhập từ vốn chủ sở hữu trong khu vực công ty. Điều này gây ra nhiều tranh luận của các nhà kinh doanh trên thế giới về sự tồn tại của sắc thuế này. Cùng một khoản thu nhập từ vốn , nhưng khoản thu nhập từ vốn góp vào công ty của các cổ đông sẽ phải chịu sự điều tiết của 2 khoản thuế là thuế thu nhập công ty và thuế thu nhập cá nhân. Trong khi đó, khoản vốn này nếu đầu tư vào khu vực phi công ty thì thu nhập từ vốn chỉ phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Tuy vậy, trong nền kinh tế thị trường ở nhiều nước, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như nước ta thì sự tồn tại của thuế thu nhập công ty là một tất yếu khách quan bởi các lý do sau: Một là, thuế TNCT được coi là một sắc thuế khấu trừ đánh vào những người nhận thu nhập từ vốn góp vào công ty, do vậy sắc thuế này góp phần điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Hai là, thuế TNCT không xác định rõ ràng và cụ thể ai là người chịu thuế, nên ít gây phản ứng với cơ sở nộp thuế. Những người chủ sở hữu vốn ở công ty không biết rõ số thu nhập của mình giảm bao nhiêu khi phải nộp thuế thu nhập công ty. Ba là, thuế TNCT tạo nguồn thu quan trọng trong thu nhập của ngân sách nhà nước. *Thuế thu nhập cá nhân: Sau khi thống nhất đất nước, chế độ thuế thu nhập cá nhân dưới chính quyền Sài Gòn cũ được bãi bỏ. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã mở ra một thời kì mới cho đất nước ta: phát triển đất nước vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế của nước ta đã từng buớc phát triển vững chắc, đới sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Bên cạnh những thắng lợi đó thì sự phát triển của nền king tế thị trường ở nước ta cũng ngày một tạo nên khoảng cách giữa người giàu và người nghèo theo đúng qui luật vốn có. Sự cách biệt thu nhập giữa cá bộ phận dân cư trong xã hội đã bộc Nhà nước phải có những điều chỉnh phù hợp. Chính vì vậy, ngày 27/12/1990, Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã được Hội đồng nhà nước thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/4/1991. Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao năm 1990 ra đời đã góp phần quan trọng trong việc động viên 1 phần thu nhập của người có thu nhập cao cho ngân sách Nhà nước và từng bước góp phần thực hiện công bằng xã hội. Dưới đây ta sẽ tìm hiểu nội dung cơ bản của Pháp lệnh này. - Đối tượng nộp thuế: Công dân Việt Nam, người nước ngoài có thu nhập tại Việt Nam. - Thu nhập chịu thuế bao gồm: + Thu nhập thường xuyên dưới hình thức: tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp và tiền thưởng có tính chất tiền lương, tiền công từ trên 500.000đ/tháng/người đối với người Việt Nam hoặc trên 2.400.000đ/tháng/người đối với người nước ngoài. + Thu nhập không thường xuyên dưới hình thức tiền hoặc hiện vật của người định cư ở nước ngoài gửi về, thu nhập về chuyển giao công nghệ, thu nhập không thường xuyên khác về thiết kế kỹ thuật xây dựng, về thiết kế công nghiệp và về dịch vụ khác từ trên 1.500.000đ/lần, riêng thu nhập trúng thưởng sổ xố từ trên 10.000.000đ/lần. - Thu nhập không thuộc diện chịu thuế: + Tiền công tác phí, bồi dưỡng làm ca, nóng, độc hại, nguy hiểm, tiền phụ cấp khu vực miền núi, hải đảo, tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế phát minh. + Tiền trợ cấp xã hội, trợ cấp hưu trí, trợ cấp thôi việc, trợ cấp điều động về cơ sở sản xuất. + Lợi tức của chủ hộ kinh doanh cá thể thuộc diện chịu thuế lợi tức. + Thu nhập của công dân Việt Nam đựa cử đi công tác, hợp tác lao động, học tập ở nước ngoài đã làm tròn nghĩa vụ đóng góp với Tổ quốc. *Tác động của chính sách thuế: Trên đây là những vấn đề khái quát về thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân, hai loại thuế được xem như là 2 nhân tố có tác động trực tiếp tới chính sách cổ tức của công ty cổ phần. Vậy trong thực tế, chính sách thuế của chính phủ tác động như thế nào? Trước hết cần phải khẳng định rằng chính sách cổ tức chính là quyết định tỷ lệ giữa cổ tức chi trả cho các cổ đông và lợi nhuận giữ lại để đầu tư. Mỗi công ty cổ phần theo đuổi một chính sách cổ tức của riêng mình, nhưng khi xem xét tác động của chính sách thuế tới chính sách cổ tức, thì người ta nhận thấy rằng những ảnh hưởng của hai loại thuế trên đều tương tự như nhau. Dựa vào công thức tính lãi cổ tức, có thể thấy được tác động của thuế đến chi trả cổ tức như thế nào. Nếu thuế thu nhập doanh nghiệp của nhà nước đánh vào phần lợi nhuận của công ty tăng lên sẽ làm cho lợi nhuận sau thuế của công ty ít đi. Khi đó, công ty sẽ phải có những quyết định khó khăn hơn khi phân phối lợi nhuận, và buộc chính sách cổ tức phải thay đổi linh hoạt. Nếu như công ty theo đuổi chính sách trả cổ tức, thì phần lợi nhuận giữ lại sẽ có khả năng bằng 0 và như vậy, để đầu tư phát triển thì công ty phải huy động nguồn vốn từ bên ngoài hoặc phát hành cổ phiếu mới để huy động vốn, khiến cho chi phí vốn tăng lên rất nhiều. Trong trường hợp ngược lại, nếu Chính phủ ra quyết định giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, hay cho phép công ty được hưởng chính sách ưu đãi về thuế thì phần lợi nhuận sau thuế sẽ tăng lên, khả năng chi trả cổ tức cho cổ đông sẽ lớn hơn, đồng thời việc thuyết phục cổ đông từ bỏ một phần cổ tức để tái đầu tư cho công ty là dễ dàng hơn. Xu hướng thay đổi của tỷ lệ chi trả cổ tức theo như công thức trên sẽ ngược chiều với tốc độ tăng trưởng của công ty, tuy nhiên, trong một môi trường thuế thuận lợi, chính sách cổ tức có thể ra những quyết định đơn giản hơn mà vẫn thoả mãn được cả hai điều kiện trên. Thêm vào đó, theo quy định về thuế thì phần vốn tăng thêm được hình thành từ lợi nhuận không chia không phải chịu thuế. Chi phí của lợi nhuận không chia chính là tỷ lệ cổ tức mà các cổ đông thường yêu cầu đối với dự án doanh nghiệp đầu tư bằng lợi nhuận không chia này, và chi phí này thường không cao như chi phí huy động vốn chủ sở hữu khác. Thuế thu nhập cũng tác động tới chi phí nợ vay thông qua điều tiết phần tiết kiệm nhờ thuế, thuế suất cao sẽ khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nợ do phần tiết kiệm nhờ thuế tăng lên và sẽ ảnh hưởng tới chính sách cổ tức. Nếu như chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp tác động tới lợi nhuận, thì chính sách thuế thu nhập cá nhân lại tác động trực tiếp tới phần lợi tức cổ tức của cổ đông, đặc biệt là các cổ đông lớn, cũng chính là các thành viên của Hội đồng Quản trị của công ty cổ phần. Sở dĩ phải nhấn mạnh đặc điểm này bởi vì Hội đồng quản trị là những cổ đông đại diện cho toàn bộ cổ đông của công ty, có quyền bác bỏ những quyết định của ban giám đốc, và là bộ phận tham gia hoạch định chính sách cổ tức của công ty mà họ góp vốn. Rõ ràng những cổ đông này sẽ luôn đặt lợi ích của mình lên trên hết, và họ là những người chi phối hoạt động của chính sách cổ tức mà ở phần sau bài viết sẽ đề cập tới. Bởi vì đối tượng của thuế thu nhập cá nhân là những cá nhân Việt Nam hoặc nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam có thu nhập cao tuỳ theo mức độ quy định trong đó có cả thu nhập từ cổ phiếu, cho nên khi thuế thu nhập cá nhân thay đổi, những cổ đông lớn cũng không ưa thích tỷ lệ cổ tức cao mà chính sách cổ tức hiện thời đang đặt ra nữa. Thực tế ở các nước kinh tế phát triển đã chứng minh rằng, khi mức thuế thu nhập cá nhân tăng cao, các cổ đông sẵn sàng từ chối lãi cổ phần để đầu tư cho những dự án phát triển của công ty. Điều này có thể giải thích theo 2 lí do: một là có một số cổ đông thực sự quan tâm tới tình hình hoạt động của công ty, sẵn sàng chấp thuận quyết định giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư; hai là điều làm các cổ đông này quan tâm không chỉ là triển vọng phát triển của công ty - sự tăng giá cổ phiếu trên thị trường hay khoản lợi tức lớn hơn trong tương lai, mà là sự trốn thuế tạm thời, bởi vì nếu công ty dùng lợi nhuận không chia để đầu tư, thì thậm chí phần vốn tăng thêm này cũng không bị đánh thuế, điều này cũng đồng nghĩa với việc giá cổ phiếu của công ty trên thị trường sẽ tăng lên, lúc này khoản tiền lời từ sự chênh lệch giá cổ phiếu mới là thu nhập thực sự của các cổ đông- thu nhập không bị đánh thuế. * Sự thay đổi lãi suất trên thị trường: Lãi suất được đề cập tới ở đây chính là chi phí của nợ vay, ảnh hưởng trực tiếp tới cơ cấu vốn của công ty, và do đó tác động tới chính sách cổ tức. Nếu như chi phí của lợi nhuận không chia là tỷ suất lợi nhuận mà cổ đông mong muốn trên phần vốn này, thì lãi suất chính là chi phí của các khoản nợ vay. Trong cơ cấu vốn của mỗi doanh nghiệp, ngoài phần vốn chủ sở hữu, các khoản nợ vay luôn chiếm một tỷ lệ không nhỏ và có vai trò rất quan trọng, đặc biệt là khi doanh nghiệp xác định cơ cấu vốn tối ưu. Nếu như lãi suất trên thị trường thay đổi không đáng kể, công ty có thể duy trì tỷ lệ nợ qua các năm. Thoạt nhìn, người ta nghĩ rằng cơ cấu vốn không liên quan tới chính sách cổ tức của công ty, tuy nhiên trong thực tế, tất cả các quyết định tài chính đều liên quan chặt chẽ với nhau. Xét công thức Cổ tức = Thu nhập thực tế - [ { Tỷ lệ vốn mục tiêu }* { Tổng vốn} ] Nếu một công ty có những số liệu sau: Tổng vốn: 800,000$. Dự đoán thu nhập thực tế: 600,000$ Cơ cấu vốn mục tiêu: còn 40% nợ, 60% vốn . Liệu chúng ta nên chi trả cổ tức là bao nhiêu phần của 60% vốn? Cổ tức = Thu nhập thực tế - [ { Tỷ lệ vốn mục tiêu }* { Tổng vốn} ] = 600,000 - 0.6 * 800,000 = 120,000 Vậy tỉ lệ chi trả = 120,000/600,000= 0,2 = 20%. Nếu chi phí nợ vay tăng lên, tức là lãi suất cho vay trên thị trường tăng cao, điều gì sẽ xảy ra đối với tỷ lệ chi trả cổ tức của công ty trên? Khi lãi suất tăng, chi phí nợ tăng thì công ty sẽ không duy trì một tỷ lệ nợ như cũ mà ngay lập tức sẽ giảm nguồn tài trợ bằng phương thức đi vay. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tăng tỷ lệ nguồn vốn trong cơ cấu vốn, và theo công thức trên, tỷ lệ chi trả cổ tức của công ty sẽ giảm đi tương ứng. Lí do của việc thay đổi chính sách cổ tức là do công ty buộc phải đầu tư bằng lợi nhuận không chia để giảm bớt gánh nặng nợ. Thực tế công ty cũng có thể phát hành cổ phiếu thường mới, nhưng chi phí của việc phát hành cổ phiếu thường cũng như cổ phiếu ưu tiên là rất lớn, đồng thời vốn huy động bằng cổ phiếu mới cũng phải được sử dụng sao cho cổ tức của các cổ đông cũ ít nhất không bị giảm. Rõ ràng việc phát hành này phức tạp hơn nhiều so với thay đổi chính sách cổ tức, hơn nữa các cổ đông cũ cũng không muốn quyền kiểm soát của công ty bị thay đổi khi phát hành cổ phiếu mới, do đó, họ sẽ phải chấp nhận một chính sách cổ tức mới. * Chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước: Chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước tác động gián tiếp tới chính sách cổ tức của công ty thông qua những ưu tiên về thuế. Chính phủ đưa ra chính sách khuyến khích đầu tư nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bằng hình thức miễn thuế trong 1-2 năm hoặc giảm thuế từ 3-4 năm đầu có thể tạo tiền đề phát triển cho các công ty, đặc biệt là các công ty cổ phần. Ngoài ra, còn phải kể đến chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Bộ Tài chính đã ra Thông tư số 73/2003/TT- BTC hướng dẫn: các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần trong doanh nghiệp Việt Nam tối đa bằng 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp Việt Nam. Công ty cổ phần chưa niêm yết bán cổ phần tại doanh nghiệp hoặc thông qua tổ chức tài chính trung gian và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng về việc bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài. Việc mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài đã bắt đầu từ những năm 90, song cho đến năm 2003 vừa qua, Chính phủ mới thông qua quyết định cho phép các công ty cổ phần bán cổ phần của mình cho nhà đầu tư nước ngoài. Điều này cũng tác động không nhỏ tới chính sách cổ tức của công ty, vì đối với nhà đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm hơn, các nhà hoạch định chính sách càng phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi ra quyết định. * Phong tục tập quán Những yếu tố thuộc về con người, chẳng hạn như thói quen tiêu dùng, mức sống, trình độ văn hoá khác nhau cũng dẫn tới những quan niệm khác nhau về cổ tức và có chiều hướng tác động tới chính sách cổ tức. ở các nước phát triển, thị trường chứng khoán, kinh doanh cổ phiếu đối với đa số công chúng không có gì xa lạ, cái mà các cổ đông quan tâm không phải là tỷ lệ chi trả cổ tức hay lợi nhuận không chia mà là giá của cổ phiếu trên thị trường hay chính là triển vọng phát triển của công ty trong tương lai. Đối với các nước mà thị trường chứng khoán còn đang trong giai đoạn sơ khai, các nhà đầu tư chưa thực sự đánh giá được sự thay đổi giá của cổ phiếu có tác động như thế nào tới lợi tức của họ trong tương lai. Ví dụ như ở Việt Nam, hầu như mọi người đều còn thờ ơ với thuật ngữ cổ phiếu, những hoạt động trên sàn giao dịch chứng khoán diễn ra thưa thớt, chỉ một vài công ty tham gia niêm yết trên thị trường. Tình trạng này ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các công ty cổ phần đang và sẽ niêm yết. Nguyên nhân chính là do tâm lý của đông đảo người dân, dễ thấy nhất là sự khác biệt về tập quán ngay trong một quốc gia. Cùng ở Việt Nam, nhưng thói quen của người miền Bắc và miền Nam không giống nhau. Người dân miền Nam thường có thói quen tiêu dùng trong khi người miền Bắc lại có tính cần kiệm. Trong khi một cổ đông miền Nam muốn nhận cổ tức tiền mặt để có thể sử dụng lợi tức cổ phần của mình cho thói quen tiêu dùng và giải trí thì cổ đông miền Bắc có thể sẵn sàng từ bỏ cổ tức để kỳ vọng một khoản lợi nhuận lớn hơn khi công ty hoàn thành dự án đầu tư. Sự khác biệt này đòi hỏi chính sách cổ tức của các công ty phải linh hoạt, không thể áp đặt chung cho tất cả các công ty cổ phần đang hoạt động. 1.3.2 Các nhân tố thuộc về phía công ty: Chính sách cổ tức là quyết địn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0108.doc
Tài liệu liên quan