CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG PHẦN MỀM VIỆT NAM
1.1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG PHẦN MỀM
1.1.1. Quy mô của thị trường phần mềm
* Quá trình hình thành và phát triển của thị trường phần mềm Việt Nam
5 năm đã qua kể từ khi Bộ Chính trị ra Chỉ thị 58/CT-TW về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và Chính phủ ra Nghị quyết số 07/2000/NQ-CP về việc xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm trong đó xác định “công nghiệp phần mềm là n
61 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1520 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện chiến lược thị trường phần mềm cho Công ty S3I, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gành công nghiệp được đặc biệt khuyến khích đầu tư, Nhà nước áp dụng mức ưu đãi cao nhất cho các doanh nghiệp làm công nghiệp phần mềm”, đến nay có thể nói công nghiệp phần mềm đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ, tuy nhiên ngành công nghiệp non trẻ này cũng đang đối mặt với không ít khó khăn.
Nhờ những cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước, cùng với sự nỗ lực của các doanh nghiệp, hiệp hội, trong 5 năm qua ngành công nghiệp phần mềm đã có nhiều khởi sắc. Suốt từ năm 2000 đến nay công nghiệp phần mềm luôn giữ mức tăng trưởng với tốc độ khá cao, trung bình khoảng 35% năm, gần gấp 3 lần tốc độ phát triển trung bình của toàn ngành công nghiệp. Thống kê của hội tin học thành phố Hồ Chí Minh (HCA) cho thấy đến nay cả nước có khoảng 720 doanh nghiệp phần mềm đang thực sự hoạt động, thu hút được hơn 20.000 lao động phần mềm chuyên nghiệp. Tổng doanh thu của các doanh nghiệp phần mềm năm 2005 ước đạt khoảng 250 triệu USD, trong đó có khoảng 70 triệu USD xuất khẩu. như vậy quy mô ngành công nghiệp phần mềm nước ta cả về lực lượng lao động lẫn tổng doanh thu hiện nay đã tăng lên gấp 4 lần so với năm 2000, đó thực sự là một bước phát triển tốt với một ngành công nghiệp mới như công nghiệp phần mềm ở Việt Nam. Hơn nữa, một số chuyên gia còn cho rằng phương pháp thống kê nói trên chưa đầy đủ, còn bỏ sót một số lĩnh vực như chưa tính lực lượng làm phần mềm bán chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị không chuyên công nghệ thông tin. Lực lượng này cũng khá đông, hàng năm, sản xuất, cung cấp không ít các sản phẩm, dịch vụ phần mềm “in house” theo kiểu tự cung tự cấp để phục vụ cho hoạt động của cơ quan, đơn vị mình. Theo các chuyên gia này, nếu tính hết quy mô ngành phần mềm Việt Nam hiện đã có hơn 30.000 lao động, với doanh số quy đổi lên tới trên 350 triệu USD.
* Tình hình phát triển của các doanh nghiệp phần mềm
Đi sâu vào tình hình phát triển của các công ty phần mềm, có thể thấy vài năm gần đây công nghiệp phần mềm Việt Nam đang chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc về quy mô của nhiều doanh nghiệp, điển hình trong đó có các công ty lớn như FPT và TMA với mức tăng trưởng nhân lực 75 – 100%/năm.
Mặc dù công nghiệp phần mềm mới chỉ là một ngành công nghiệp non trẻ nhưng đã và đang có nhiều doanh nghiệp nỗ lực hết mình để được công nhận trên thị trường trong nước cũng như quốc tế bằng cách đạt được những chứng chỉ về quy trình uản lý chất lượng phần mềm uy tín trên thế giới như CMMI hoặc CMM… là những chứng chỉ uy tín được chấp nhận trên toàn thế giới.
STT
Chứng chỉ
Số doanh nghiệp
1
CMMI – 5
2 (FPT và PSV)
2
CMM – 3 hoặc CMM – 4
5
3
ISO 9001
35
Bảng thống kê số doanh nghiệp phần mềm Việt Nam đạt được các chứng chỉ uy tín về quản lý chất lượng phần mềm
(Nguồn: www.vinasa.org.vn)
Trong đó:
CMMI-5 (Capability Maturity Model Integration) là chứng chỉ cao nhất về quy trình quản lý chất lượng sản xuất phần mềm quốc tế do tổ chức Quality Assurance Institute - Ấn Độ thực hiện.
CMM (Capalility Maturity Model) là chuẩn quốc tế đánh giá năng lực sản xuất của một tổ chức phát triển phần mềm do tổ chức Quality Assurance Institute - Ấn Độ thực hiện.
ISO 9001 là chứng chỉ về quản lý chất lượng sản phẩm.
Ngoài ra, có rất nhiều doanh nghiệp khác cũng đang cố gắng phấn đấu để lấy chứng chỉ CMM, CMMI hoặc ISO vào những năm tới. Đây là những dấu hiệu rất đáng mừng về năng lực phát triển của các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam.
Theo thống kê của Hiệp hội các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam VINASA năm 2004 thì Việt Nam có khoảng 2500 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phần mềm, tuy nhiên chỉ có khoảng hơn 700 doanh nghiệp là hoạt động thực sự và có hiệu quả. Tháng 8 năm 2004, VINASA đã tiến hành một cuộc tổng điều tra tại hơn 1000 doanh nghiepẹ phần mềm trong nước và đã thu được các số liệu thống kê cụ thể về loại hình doanh nghiệp, quy mô lao động cũng như doanh thu bình quân 1 năm của các doanh nghiệp phần mềm như sau:
STT
Loại hình doanh nghiệp
Tỷ lệ
1
Công ty cổ phần
Công ty TNHH
Doanh nghiệp tư nhân
86%
2
Doanh nghiệp Nhà nước
6%
3
Công ty liên doanh
Công ty 100% vốn nước ngoài
8%
Tổng
100%
STT
Loại hình doanh nghiệp
Tỷ lệ
1
Ít hơn 50 người
82%
2
Nhiều hơn 50 người
17%
3
Từ 500 đến 1000 người
1%
Tổng
100%
STT
Doanh thu bình quân 1 năm
Tỷ lệ
1
Ít hơn 500 triệu
35%
2
Từ 500 triệu đến 75 triệu
26,5%
3
Từ 750 triệu đến 1,5 tỷ
19%
4
Từ 1,5 tỷ đến 7,5 tỷ
10%
5
Từ 7,5 tỷ đến 15 tỷ
7%
6
Từ 15 tỷ đến30 tỷ
2%
7
Trên 30 tỷ
0.5%
Tổng
100%
Bảng số liệu thống kê của hơn 1000 doanh nghiệp phần mềm Việt Nam thaáng8 năm 2004
(Nguồn: www.vinasa.ỏg.vn)
Từ những số liệu thống kê trên có thể nhận thấy một điều là các doanh nghiệp phần mềm ở Việt Nam hiện nay nhìn chung chỉ có quy mô nhỏ hoặc trung bình, quy mô nhân lực ít, doanh thu không nhiều… Những mặt yếu kém trên đã phần nào có tác động tiêu cực đến sự phát triển của cả ngành công nghiệp phần mềm trong những năm tới.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phần mềm vẫn còn một số mặt yếu kém khác như:
Chưa có nhiều sản phẩm đạt tầm giải pháp đáp ứng nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của các đối tượng khách hàng.
Chưa chú trọng khâu thiết kế, phát triển sản phẩm hướng đến người sử dụng mà chỉ thiên về công nghệ tạo sự cách biệt giữa người sử dụng và người sản xuất.
Chất lượng và độ ổn định của các sản phẩm phần mềm không cao.
Không có các qy trình kiểm tra đánh giá chất lượng sản phẩm trước khi đưa ra thị trường. Rất ít doanh nghiệp phần mềm trong nước có được quy trình triể khai ứng dụng trong doanh nghiệp một cách khoa học, dẫn đến rủi ro cao trong quá trình triển khai và thường kéo dài tiến độ.
Chưa có sự phối hợp với các đơn vị sản xuất phần cứng, dẫn đến đổ thừa trách nhiệm cho nhau khi phần mềm xảy ra sự cố, gây khó khăn cho khách hàng.
Đội ngũ chuyên gia phần mềm bậc cao còn ít.
Chưa có kinh nghiệm Marketing
Chưa đủ năng lực tài chính để có thể tăng mức đầu tư cho các hoạt động Marketing, nghiên cứu phát triển, đào tạo nhân lực nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thống kê của hội tin học thành phố Hồ Chí Minh HCA cho thấy số doanh nghiệp chi cho Marketing từ 10% đến 20% tính trên tổng chi phí chỉ vào khoảng 27%. Thống kê này cũng cho thấy có đến 33% doanh nghiệp có tổng chi phí cho cả đào tạo phát triển nguồn nhân lực lẫn chi cho nghiên cứu phát triển chỉ dưới mức 5% so với tổng chi phí, và cũng chỉ có 27% doanh nghiệp chi trên 10% cho các hoạt động này. Sự thiếu đầu tư nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm và nguồn nhân lực là nguyên nhân dẫn đến năng lực cạnh tranh yếu của các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam. Hơn nữa, tâm lý “muốn làm tất cả từ A đến Z” với mong muốn kiếm siêu lợi nhuận bán phần mềm đóng gói cho nhiều khách hàng đã khiến cho không ít doanh nghiệp phần mềm Việt Nam không lượng đúng sức mình khi tham gia thị trường phần mềm đóng gói rất cạnh tranh, mà bỏ qua thị trường làm dịch vụ phần mềm còn khá rộng.
Về năng lực hoạt động của các doanh nghiệp phần mềm thì có khoảng 29% doanh nghiệp hoà vốn sau 2 năm thành lập. Đây là một tỉ lệ tương đối tốt, nhưng cũng có tới 28% doanh nghiệp hoà vốn sau từ 3 đến 4 năm. Số doanh nghiệp phần mềm có lãi hàng năm từ 10% đến 30% chiếm tỉ lệ 42%, từ đó cho thấy đa số doanh nghiệp phần mềm có thể khẳng định sự thành công ban đầu của mình. Tuy nhiên, chỉ có 13% doanh nghiệp phần mềm có doanh thu cao hơn chi phí từ 30% đến 50%. Đây không phải là một tỉ lệ khích lệ trong bối cảnh công nghiệp phần mềm Việt Nam trong giai đoạn đầu phát triển. Thống kê cũng cho thấy các doanh nghiệp phần mềm quy mô lớn thường đã có thời gian hoạt động trên 5 năm. Sự tăng tốc đều đến ở giai đoạn sau năm hoạt động thứ 5 trở đi. Các doanh nghiệp này thường có định hướng xây dựng thị trường, chuyên môn hoá cao, rất chuyên nghiệp trong lĩnh vực gia công phần mềm và dịch vụ, từ đó qản bá được năng lực, bước đầu xây dựng được thương hiệu riêng. Nhu cầu từ thị trường ngoài nước hiện đang tăng trưởng mạnh, và doanh nghiệp phần mềm quy mô lớn càng có cơ hội kiếm được nhiều khách hàng. Với các cơ sở xây dựng được 5 năm qua, cộng thêm sự hỗ trợ của Nhà nước, chắc chắn giai đoạn tới sẽ có sự bùng nổ phát triển của các doanh nghiệp phần mềm hàng đầu.
* Hoạt động phát triển nguồn nhân lực
Chính sách của Nhà nước về đẩy mạnh đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin mấy năm qua đã bắt đầu phát huy tác dụng. Công nghệ thông tin là một trong số các ngành được mở ở nhiều trường đại học nhất hiện nay. Tất cả các trường đại học, cao đẳng dân lập và hầu hết các trường đại học công lập về khoa học, kỹ thuật tại Việt Nam đều có đào tạo cử nhân/ kỹ sư công nghệ thông tin. Hằng năm, lực lượng này có thể cung ứng cho thị trường 7.000 – 10.000 chuyên viên công nghệ thông tin, gần ngang với chỉ tiêu mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đang đặt ra cho hệ thống đào tạo chính quy tại các trường đại học.
Nhân lực phần mềm Việt Nam được đánh giá là năng động, thông minh, có kiến thức cơ bản, có khả năng đào tạo nâng cao trình độ nhanh, dễ thích nghi với điều kiện làm việc cường độ cao, và có giá nhân công thấp. Tuy nhiên lao động Việt Nam phần lớn còn thiếu kinh nghiệm, kỹ thuật chuyên sâu và trình đột iếng Anh. Đặc biệt hiện nay công nghiệp phần mềm Việt Nam rất thiếu các chuyên gia giỏi về quản trị dự án, thiết kế giải pháp, quản trị Marketing, đảm bảo chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, còn bất cập, mất cân đối, chưa có nhiều giáo viên có kinh nghiệm thực tế làm phần mềm; cơ sở phòng thí nghiệm, thiết bị cho đào tạo thực hành còn sơ sài. Điều này khiến cho nhiều sinh viên tốt nghiệp còn thiếu hoặc yếu cả về kiến thức chuyên môn lẫn kĩ năng giao tiếp, làm việc trong môi trường công nghiệp.
Vì nhân lực được coi là chìa khoá cho sự phát triển của ngành công nghiệp phần mềm vốn còn non trẻ của Việt Nam nên Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi cũng như nhiều biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng giáo dục nhân lực cho ngành phần mềm trong tương lai.
* Khái quát thị trường trong nước
Phần mềm là một bộ chương trình các chỉ thị điện tử ra lệnh cho máy tính thực hiện một điều nào đó theo yêu cầu của người sử dụng. Chúng ta không thể thấy hoặc sờ được phần mềm, mặc dầu ta có thể hiển thị được chương trình trên màn hình hoặc máy in. Phần mềm có thể được ví như hồn của máy tính mà phần cứng của nó được xem như phần xác.
Thị trường phần mềm Việt Nam có một khoảng trống rất lớn giữa người tiêu thụ có nhu cầu về phần mềm tiếng Việt (cá nhân, các cơ quan, xí nghiệp…) và những nhà lập trình sản xuất ra phần mềm phục vụ cho các nhu cầu đó. Phần mềm máy tính là một sản phẩm đặc biệt không thể bày bán và tiếp thị theo kiểu thông thường như các sản phẩm khác. Người mua cần những thông tin chính xác và đầy đủ về các tính năng, đặc điểm, cách sử dụng của chương trình hơn là dựa vào các giác quan của mình khi chọn lựa. Hầu hết các doanh nghiệp phần mềm đang kinh doanh phần mềm của mình theo kiểu hàng hoá bình thường, chỉ chú trọng quảng cáo về cảm quan hơn là cung cấp thông tin đầy đủ nên vẫn không thể làm cho nhiều người biết về phần mềm của mình. Điều này dẫn đến tình trạng cung và cầu không gặp nhau, phần mềm viết ra không bán được, còn người sử dụng thì không biết mua phần mềm nào để dùng.
* Cung phần mềm
Thị trường phần mềm Việt Nam hienẹ nay được cung ứng bởi 2 lực lượng chủ yếu là các doanh nghiệp phần mềm trong nước và các doanh nghiệp phần mềm nước ngoài.
Các doanh nghiệp phần mềm trong nước
Hiện này Việt Nam có khoảng hơn 2500 doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực phần mềm nhưng chỉ có khoảng hơn 700 doanh nghiệp là hoạt động thực sự. Phần lớn những doanh nghiệp phần mềm này là những công ty có qy mô vừa và nhỏ, quy mô lớn chỉ chiếm rất ít, khoảng 1% trong tổng số. Với năng lực quản lý và kinh doanh yếu kém, trình độ nguồn nhân lực lại có hạn nên mặc dù chiếm ưu thế là số đông các nhà cung ứng nhưng chỉ chiếm giữ được thị phần nhỏ so với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài của mình.
Khảo sát của hội tin học thành phố Hồ Chí Minh HCA cho thấy có 69% số doanh nghiệp phần mềm chủ yếu định hướng thị trường trong nước (thị trường trong nước chiếm từ 70% trở lên), và 28% số doanh nghiệp định hướng thị trường ngoài nwocs (thị trường ngoài nước chiếm từ 70% trở lên). Điều này phản ánh một thực tế phần nhiều doanh nghiệp phần mềm Việt Nam chưa dám (hoặc chưa đủ sức) vươn ra thị trường nước ngoài, tuy nhiên, nó cũng cho thấy hiện tại thị trường trong nước vẫn cần được xem là thị trường quan trọng.
Các doanh nghiệp phần mềm nước ngoài
Đây là những tập đoàn phần mềm lớn trên thế giới, có uy tín cũng như kinh nghiệm sản xuất và kinh doanh phần mềm nhiều năm. Sản phẩm phần mềm của họ tiếp cận thị trường Việt Nam chủ yếu là phân phối gián tiếp, thông qua các nhà nhập khẩu trung gian. Mặc dù số lượng các doanh nghiệp phần mềm nước ngoài không nhiều nhưng họ lại chiếm được phần lớn thị phần trong nước. Nguyên nhân là họ hơn các doanh nghiệp phần mềm trong nước về mọi mặt, từ quy mô doanh nghiệp, khả năng tài chính… cho đến các hoạt động nghiên cứu và triển khai Marketing. Có thể kể đến một số nhà cung cấp phần mềm tên tuổi như Microsoft, Oracle…
* Cầu phần mềm
Hiện nay, phần lớn cầu thị trường phần mềm chủ yếu vẫn dựa vào sức mua của các tổ chức và doanh nghiệp nhà nước bao gồm các Tổng công ty lớn, các cơ quan Chính phủ, các ngân hàng, trường học, bệnh viện hay những tổ chức khác…
Khi quyết định sử dụng một phần mềm quản lý, doanh nghiệp thường đứng trước nhiều sự lựa chọn. Bên cạnh những sự lựa chọn như sẽ sử dụng phần mềm của nhà cung cấp giải pháp nào? Mức giá phần mềm như thế nào thì phù hợp… Còn có một sự lựa chọn rất đáng quan tâm đó là nên mua một phần mềm đóng gói hay là đặt hàng giải pháp theo yêu cầu của mình và gửi đến một công ty nào đó. Phần mềm đóng gói cũng có những cái hay, cái không hay mà phần mềm đặt hàng theo yêu cầu cũng thế. Vì sự lựa chọn này sẽ có những tác động rất lớn trong quá trình khai thác và sử dụng về sau nên doanh nghiệp cần thiết phải có những nguồn thông tin tham khảo.
Phần mềm đóng gói
Phần mềm đóng gói là một phần mềm được các nhà sản xuất đầu tư nghiên cứu, tổng hợp từ những lần khảo sát nhu cầu thực tế các nghiệp vụ hoặc một số lĩnh vực nào đó của doanh nghiệp. Từ những thông tin khảo sát thu nhập các dữ liệu đồng thời kết hợp với những chuẩn mực, nghiệp vụ đặc trưng của doanh nghiệp, nhà sản xuất sẽ tập hợp thành những điểm chung và xây dựng nên một mô hình tổng thể, thống nhất khả dĩ thích ứng với các doanh nghiệp ở một mức độ nào đó.
Phần mềm đóng gói có thể được phân ra thành hai nhóm chính: Nhóm phần mềm thích ứng sử dụng được ở tất cả các ngành nghề và nhóm phần mềm chuyên dụng cho những ngành nghề riêng. Đối với nhóm thứ nhất, các phần mềm đóng gói thường chỉ đáp ứng một phần nhỏ trong toàn bộ các hoạt động của doanh nghiệp ví dụ: các phần mềm đóng gói như phần mềm bán hàng, quản lý nhân sự, quản lý công nợ…. Đối với nhóm thứ hai, các phần mềm có phạm vi ứng dụng lớn hơn trong một doanh nghiệp hoạt động trong nhóm ngành nghề đó. Ví dụ: các phần mềm đóng gói phục vụ quản lý cho ngành may mặc, xây dựng… Phần mềm đóng gói cũng giống như các sản phẩm tiêu dùng khác, nghĩa là khi doanh nghiệp mua về sẽ mang vào sử dụng mà ít được quyền yêu cầu chỉnh sửa những gì đã có và chỉ sử dụng những tiện ích đang có mà thôi.
Phần mềm đặt hàng theo yêu cầu
Số lượng doanh nghiệp đặt hàng phần mềm theo những yêu cầu riêng, xuất phát từ thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh rất lớn. Có một thực tế là đa số phần mềm đóng gói chỉ giải quyết được một phần nào đó trong hàng loạt yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc đặt hàng phần mềm cho một nhà cung cấp giải pháp, doanh nghiệp sẽ nhận được những hỗ trợ khá chu đáo trong quá trình triển khai ứng dụng vào công tác bảo trì, nâng cấp phần mềm…
Phần mềm đặt hàng theo yêu cầu sẽ được các nhà cung cấp thiết kế, xây dựng thích ứng những đặc điểm, quy trình hoạt động mà doanh nghiệp đang áp dụng. Điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp dễ tiếp cận với các tiện ích của phần mềm. Quy trình sản xuất, kinh doanh không bị xáo trộn nhiều. Vì những lợi ích mang tính thiết thực và gần gũi như thế nên các nhà cung cấp giải pháp thường tính giá khá cao, thêm vào đó là các chi phí về triển khai, nâng cao ứng dụng trong tương lai và thường thì, doanh nghiệp có thể phải đặt mối liên hệ lâu dài với nhà cung cấp phần mềm…
Phần mềm đặt hàng cũng có nhiều hình thức. Có loại chỉ đáp ứng và chuyên sâu cho một lĩnh vực hoạt động nào đó, có loại thì bao quát và hỗ trợ tổng thể toàn bộ quy trình quản lý và các công đoạn sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp.
STT
Tiêu chí
Phần mềm đóng gói
Phần mềm đặt hàng
1
Đặc điểm
1. Hướng đến những nghiệp vụ chức năng mang tính tổng quát, chung của các doanh nghiệp
2. Giải quyết những vấn đề mang tính chung đó, khó đi sâu và bao quát hết tất cả những đặc điểm của đa số doanh nghiệp.
3. Có thể áp dụng được nhiều nơi, rộng khắp cho nhiều ngành, nhiều công ty.
4. Thời gian triển khai ít, dễ cài đặt, sử dụng, với một hệ thống công cụ giúp đỡ và không phức tạp lắm về mặt chức năng.
1. Đa phần chỉ hướng đến và đáp ứng những nhu cầu đang có của khách hàng.
2. Giải quyết triệt để những yêu cầu đó.
3. Thường chỉ đáp ứng riêng cho đơn vị đặt hàng, còn rất khó đáp ứng cho các doanh nghiệp khác.
2
Mục đích ứng dụng
Hướng đến nhiều doanh nghiệp, các nghiệp vụ chuẩn, mang tính chung.
Hướng đến nhu cầu cụ thể, thực tế của một doanh nghiệp.
3
Khả năng ứng dụng
Giải quyết được một phần nào đó trong số các nhu cầu.
Giải quyết khá triệt để các yêu cầu của doanh nghiệp đặt hàng.
4
Phạm vi ứng dụng
Rộng, nhiều ngành…
Hẹp, thường chỉ một doanh nghiệp.
5
Giá cả, chi phí
Rẻ hơn, ít hơn.
Đắt hơn, nhiều hơn
6
Sự hỗ trợ
Ít hơn, kém hơn.
Nhiều hơn, tốt hơn.
7
Khả năng phát triển
Cập nhật theo phiên bản
Có thể thực hiện ngay.
Bảng so sánh giữa phần mềm đóng gói và phần mềm đặt hàng
(Nguồn: Theo tạp chí Tin học và Đời sống)
Chọn phần mềm đóng gói hay sẽ đặt hàng giải pháp cho một nhà sản xuất phần mềm nào đó? Đây là một trong những vướng mắc thường xuất hiện khi doanh nghiệp đặt ra nhu cầu tin học hoá hay ứng dụng phần mềm phục vụ công tác quản lý, điều hành. Cả hai đều có những điểm mạnh, điểm yếu riêng vì thế sẽ có những tác động khác nhau đối với doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong một lĩnh vực nhỏ, hẹp với quy mô không lớn với các nghiệp vụ, chức năng hoạt động ổn định, theo chuẩn mực như: bán hàng, dịch vụ kho bãi, xuất nhập khẩu… vì mức đầu tư cho các phần mềm quản lý có thể không nhiều, nên hướng đến các giải pháp đóng gói. Điều đó sẽ giúp cần đối giữa vấn đề chi phí và hiệu quả khai thác phần mềm. Đối với các doanh nghiệp có quá nhiều điểm riêng biệt trong hoạt động và có thể thay đổi quy trình bất cứ lúc nào thì nên hướng đến việc sử dụng phần mềm đặt hàng theo yêu cầu quản lý cho một nhà cung cấp giải pháp nào đó đồng thời thiết lập một kênh quan hệ với nhà cung cấp giải pháp này.
Tuy nhiên, để thích ứng với nhu cầu của thị trường các nhà cung cấp giải pháp ngày nay bên cạnh phân ra các sản phẩm đóng gói và các phần mềm sản xuất theo đơn đặt hàng thì họ đã tích cực kết hợp hai phân loại này thành một thể thống nhất và linh động hơn. Nghĩa làm họ vừa là sản phẩm đóng gói, đưng đồng thời cũng bỏ ra một khoản đầu tư thích ứng để các sản phẩm đóng gói đó sau một số bước chỉnh sửa, cập nhật sẽ trở thành một sản phẩm dưới dạng phần mềm theo đơn đặt hàng. Điều này vừa giúp ích cho nhà sản xuất đồng thời cũng mang lại cho người dùng nhiều tiện ích thuận lợi và dễ dàng hơn trong vấn đề lựa chọn phần mềm.
* Khái quát thị trường ngoài nước (xuất khẩu phần mềm)
Đối với thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam chủ yế cung cấp dịch vụ software outsourcing – gia công phần mềm. Một số doanh nghiệp muốn tham gia thị trường gia công phần mềm cần phải đầu tư nghiên cứu phát triển để có được một trình độ chuyên môn sâu, hiểu rõ quy trình nghiệp vụ để phân tích và thực hiện đúng yêu cầu của bài toán đặt ra, đồng thời phải có một quy trình đảm bảo chất lượng đáp ứng được yêu cầu của đối tác. Doanh nghiệp phần mềm hoàn toàn có thể thông qua các dự án làm gia công phần mềm cho đối tác nước ngoài để nâng cao năng lực sản xuất, khả năng nghiên cứu phát triển và quy trình quản lý chất lượng, từ đó có thể xây dựng được thương hiệu, khẳng định vị trí của mình trên thị trường. Kinh nghiệm của Ấn Độ, Ailen, Trung Quốc cho thấy các doanh nghiệp phần mềm lớn của các quốc gia này đều đi lên từ cung cấp dịch vụ phần mềm (gia công phần mềm) chứ không phải là làm phầm mềm đóng gói. Thực tế, ở Việt Nam các doanh nghiệp phần mềm lớn và thành công hiện nay cũng đều là những doanh nghiệp định hướng làm gia công phần mềm cho nước ngoài.
Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế xếp hạng thứ 20 trong số 25 các quốc gia hấp dẫn về gia công phần mềm. Nếu như các doanh nghiệp định hướng thị trường nội địa gặp khó khăn về thông tin (thiếu việc làm), thì khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp định hướng thị trường gia công phần mềm lại không phải là thiếu việc làm mà thiếu người làm. Quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp phần mềm làm gia công phần mềm là phát triển nguồn nhân lực và nâng cao quy trình quản lý chất lượng. Các thị trường lớn của các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam hiện nay là Bắc Mỹ và Nhật Bản, trong đó Nhật Bản đang được nhiều doanh nghiệp quan tâm do sự quan tâ của Chính phủ và doanh nghiệp Nhật đốiv ới doanh nghiệp phần mềm Việt Nam, cũng như các thuận lợi về văn hoá, địa lý. Hiện nay quan tâm chung lớn nhất của các doanh nghiệp phần mềm để phát triển thị trường nước ngoài là hỗ trợ của Nhà nước để xây dựng hình ảnh hương hiệu chung cho công nghiệp phần mềm Việt Nam trên trường quốc tế, ưu tiên thứ hai là tổ chức các hội trợ triển lãm quốc tế về phần mềm ở Việt Nam thay vì tham gia các cơ hội triển lãm ở nước ngoài.
* Vấn đề sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực phần mềm
Theo khảo sát đánh giá của Liên minh phần mềm thương mại (BSA), hiện nay Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ vi phạm sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực phần mềm cao nhất thế giới (95% năm 2002; 92% năm 2004). Sự vi phạm sở hữu trí tuệ xảy ra trong hầu hết các môi trường, từ người dùng cá nhân, doanh nghiệp và thậm chí cả trong các cơ quan Nhà nước. Vi phạm sở hữu trí tuệ không chỉ xảy ra đối với các phần mềm nước ngoài có giá bản quyền khá cao so với thu nhập bình quân của Việt Nam, mà cũng xảy ra đối với các sản phẩm trong nước với mức giá khá hợp lý. Sự vi phạm sở hữu trí tuệ về phần mềm gây ra nhiều tác động xấu về mặt kinh tế cũng như xã hội, tuy nhiên cho đến nay tình trạng này vẫn chưa được cải thiện.
* Một số Công ước về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Tính cho đến nay Việt Nam đã là thành viên chính thức của 3 tổ chức lớn trên thế giới về việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Bao gồm:
Công ước Stockholm
Đây là Công ước về việc thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, ký tại Stockholm ngày 14 tháng 7 năm 1967, tên viết tắt là WIPO. WIPO có trách nhiệm thúc đẩy việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi toàn thế giới thông qua sự hợp tác giữa các quốc gia và quản lý các hiệp định, hiệp ước khác nhau liên quan đến các khía cạnh pháp luật và quản lý sở hữu trí tuệ. Việt Nam là thành viên của WIPO từ ngày 02 tháng 7 năm 1976.
Công ước Paris
Công ước này được ký tại Paris năm 1883, tính đến ngày 22 tháng 06 năm 1999 đã có tới 155 nước thành viên. Việt Nam trở thành thành viên của Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp kể từ ngày 08 tháng 03 năm 1949.
Công ước Berne
Đây là công cụ quốc tế đầu tiên để bảo vệ bản quyền, được thông qua năm 1986 tại một Hội nghị Ngoại giao triệu tập theo sáng kiến của Chính phủ Liên bang Thuỵ Sĩ. Văn phòng liên bang Bern thành lập tại Bern năm 1887 đã nhanh chóng sát nhập với Văn phòng của Công ước Paris về Sở hữu Công nghiệp (1883) thành BIRPI (Các văn phòng thống nhất về Bảo vệ Sở hữu Trí tuệ). Việt Nam đã chính thức tham gia vào Công ước Berne từ ngày 26 tháng 10 năm 2004. Đaâ là Công ước bảo hộ quyền tác giả của không chỉ lĩnh vực văn học mà còn trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mà cụ thể là phần mềm.
Như vậy, xét về khía cạnh quản lý vĩ mô mà nói, Việt Nam đã có được những định hướng đúng đắn trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ từ rất sớm nhưng hiệu quả mang lại từ những nỗ lực trên lại không cao. Vậy nguyên nhân là từ đâu? Từ sự yếu kém trong công tác quản lý vĩ mô? Từ thái độ thờ ơ, bất chấp luật pháp của người tiêu dùng? Hay là từ chính những doanh nghiệp cung ứng phần mềm?
* Thực trạng tại việt Nam
Xét trên một số phương diện và ở một giai đoạn cụ thể nào đó, sự vi phạm sở hữu trí tuệ có thể đem lại những lợi ích nhất định cho các quốc gia đang phát triển. Vi phạm sở hữu trí tuệ phần mềm cho phép các quốc gia nghèo có thể tiếp cận với tiến bộ mới nhất trong lĩnh vực công nghệ thông tin, những thành quả của nhân loại mà họ sẽ không thể có điều kiện tiếp canạ nếu phải nghiêm chỉnh thực hiện việc chi trả phí bản quyền. Đaâ cũng là một cơ hội cho những tầng lớp dân nghèo, những người có thu nhập thấp, sinh viên, học sinh có điều kiện tiếp cận công nghệ thông tin. Tuy nhiên sự vi phạm sở hữu trí tuệ về phần mềm tràn lan cả trong các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức đã gây ra những hậuq ủa nghiêm trọng cho nền kinh tế và cho cả xã hội.
Tỷ lệ vi phạm bản quyền cao làm nhiều công ty phần mềm bị thua lỗ, điều này làm cho các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước không muốn đầu tư vào công nghiệp phần mềm tại Việt Nam, hậu quả là công nghiệp phần mềm không thể phát triển được. Kinh nghiệm của nhiều nước thành công về công nghiệp công nghệ thông tin trên thế giới cho thấy họ đều rất nỗ lực trong việc giảm tỷ lệ vi phạm sở hữu trí tuệ phần mềm. Ở Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu phối hợp của IDC và BSA, cho dù ngành công nghệ thông tin còn nhỏ cả về quy mô cũng như đóng góp cho GDP, nhưng nếu từ 2002 đến 2006 tỉ lệ vi phạm bản quyền giảm 10% thì tốc độ tăng trưởng sẽ đạt tới 146%. Ngoài ra, việc mua bán các phần mềm lậu với giá rất “bèo bọt” còn làm cho Nhà nước thất thu một khoản thuế lớn từ hoạt động kinh doanh phần mềm. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế.
Không chỉ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp, bản thân người dùng cũng bị thiệt hại do sự vi phạm sở hữu trí tuệ phần mềm quá cao. Các nhà sản xuất phần mềm không muốn nghiên cứu phát triển sản phẩm mới trong hoàn cảnh vi phạm bản quyền tràn lan, hậu quả là người dùng không có nhiều sản phẩm tốt để sử dụng, xã hội không được hưởng những thành quả lẽ ra phải có của công nghiệp phần mềm. Sự nghèo nàn về các sản phẩm phần mềm nội dung giáo dục ở Việt Nam là một minh chứng cho điều này. Việc dùng các phần mềm lậu cũng làm cho người dùng mất đi cơ hội nhận được sự hỗ trợ từ nhà sản xuất cũng như việc thảo luận với họ để phát triển tiếp các sản phẩm mà mình yêu thích. Đó là chưa kể ccs phần mềm lậu thường là những phần mềm bẻ khoá không đầy đủ, chép thiếu file và hay chứa virus, do vậy tiềm ẩn những nguy cơ có thể dẫn đến những sự cố gây thiệt hại khó lường cho người sử dụng.
Hơn nữa, sự tự do vi phạm bản quyền còn gây ra ý thức coi thường giá trị sáng tạo trí tuệ trong giới trẻ, nhất là trong tầng lớp sinh viên học sinh, điều này có thể làm nhụt chí các tài năng trẻ không muốn nỗ lực sáng tạo và do vậy kìm hãm quá trình phát triển xã hội. Sự tự do vi phạm sở hữu trí tuệ cũng có thể gây nên một thói quen không tuân thủ pháp luật trong công dân, điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh xã hội.
Tỉ lệ vi phạm bản quyền cao còn làm ảnh hưởng đến uy tín quốc gia trên trường quốc tế, làm xấu đi hình ảnh tốt đẹp của nền văn hoá của Việt Nam, đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Noài ra sự vi phạm bản quyền phần mềm cao có thể làm chậm quá trình hội nhập quocó tế của đất nước. Nặng hơn nữa, sự vi phạm sở hữu trí tuệ quá cao có thể đặt đặt đất nước trước nguy cơ phải đối đầu với sự trừng phạt kinh tế khi các hiệp định thương mại song phương và đa phương có hiệu lực thực thi.
* Nguyên nhân
Vấn đề vi phạm bản quyền phần mềm của Việt Nam đã được đề cập nhiều trên báo chí cũng như tại nhiều hội thảo, tuy nhiên trong suốt mấy năm qua tình hình bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực phần mềm của Việt Nam tiến triển rất chậm, thậm chí còn xấu đi. Nguyên nhân của vấn đề này có thể do các quan điểm chưa đầy đủ và đúng đắn của các cơ quan liên quan cũng như của người dùng trong xã hội, do những bất cập trong vấn đề quản lý Nhà nước cũng như do mức thu nhập bình quân thấp của Việt Nam.
Có thể khái quát được một số nguyên nhân chính làm cho tình trạng vi phạm bản quyền phần mềm tràn lan ở Việt Nam hiện nay như sau:
Giá bản quyền phần mềm quá cao
Hiện nay giá bản quyền phần mềm quá cao so với mức thu nhập còn khá khiêm tốn của người dân Việt Nam. Nếu so sánh giá một bản WindowXP khoảng 560USD với mức thu nhập đầu người hơn 400USD/năm thì chúgn ta có thể thấy việc vi phạm bản quyền là điều có thể hiểu được. Trong khi đó, phần mềm lậu với giá “bèo bọt” lại rất sẵn (thậm chí có thể yêu cầu nhà cung cấp máy tính cài thêm miễn phí).
Một số tổ chức, cá nhân như các cơ sở in sao băng đĩa trái phép và các cửa hàng kinh doanh băng đĩa lậu cố tình vi phạm sở hữu trí tuệ để trục lợi
Hoạt động bẻ khoá, sao chép các phần mềm lậu nhằm mục đích kiếm lời bất chính là một hoạt động kinh doanh bất hợp pháp cần bị xã hội lên án và luật pháp nghiêm trị. Hiện tại các cơ quan chức năng đã có nhiều đợt truy quét các ổ sao chép trái phép cũng như các cửa hàng kinh doanh băng đĩa lậu, tuy nhiên do nhiều lý do như sự yếu kém về trình độ của các cán bộ, quan điểm chưa thật kiên quyết cảu các cơ quan chức năng…, nên các chiến dịch này chủ yếu mới chỉ nhằm vào các tác phẩm văn hoá mà chưa thực sự hiệu quả trong lĩnh vực phần mềm.
Các nhà lắp ráp máy tính trong nước thường cài đặt sẵn nhiều phần mềm lậu nhằm giảm giá thành máy bán ra cũng như để gia tăng giá trị máy tính
Vì nếu tất cả các phần mềm cài trên máy đều được mua bản quyền thì giá máy có thể tăng thêm đến hàng trăm USD. Chỉ có một vài nhà lắp ráp máy tính thương hiệu lớn là có tuân thủ luật bản quyền, còn đại đa số các đơn vị lắp ráp máy tính thủ công (chiếm hơn 75% thị trường) thì hầu như hoàn toàn cài phần mềm lậu cho máy tính của họ. Việc chưa có các biện pháp mạnh để xử lý ._.sự vi phạm sở hữu trí tuệ của các đơn vị lắp ráp cung cấp máy tính loại này làm cho tỉ lệ vi phạm bản quyền lại càng cao.
Các doanh nghiệp phần mềm chưa thực sự chủ động trong việc chống vi phạm bản quyền
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền dân sự, do vậy các doanh nghiệp phần mềm không nên ỷ lại trong chờ vào các biện pháp của nhà nước mà phải chủ động có các bienẹ pháp phòng, chống, phát hiện xâm phạm và khiếu kiện yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền can thiệp khi canà. Cho đến nay hầu như chưa có một đơn khiếu kiện của doanh nghiệp phần mềm Việt Nam nào được gửi đến cơ quan chức năng về việc vi phạm bản quyền phần mềm (nếu người bị vi phạm không kêu thì ai xử?). Mặt khác, nhiều doanh nghiệp phần mềm cũng chưa thực sự tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ, nhiều công cụ dùng để phát triển phần mềm vẫn bị sử dụng trái phép trong các doanh nghiệp sản xuất phần mềm. Hơn nữa, người dùng bình thường không thể nào dùng được các phần mềm lậu nếu chúng chưa được bẻ khoá, và người bẻ khoá chính là các chuyên gia phát triển phần mềm.
Các cơ quan chức năng chần chừ trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực phần mềm
Hầu như cho đến nay chưa có một hoạt động “mạnh” nào được các cơ quan có chức năng thực hiện. Nhà nước cũng chưa có một văn bản hay một chế tài nào chỉ đạo bắt buộc các cơ quan Nhà nước cũng như các doanh nghiệp phải sử dụng phần mềm có bản quyền. Sở dĩ còn tình trạng này là do trong các cơ quan chức năng hiện vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược về vấn đề này. Những người có thái độ chần chừ cho rằng nếu thực thi nghiêm túc quyền sở hữu trí tuệ các sản phẩm phần mềm thì Nhà nước, các doanh nghiệp và người dân phải bỏ một khoản chi phí rất lớn để mua bản quyền các phần mềm, trong khi nước ta còn nghèo, thu nhập thấp, có rất nhiều khoản phải chi quan trọng hơn. Mặt khác, mức độ sử dụng công nghệ thông tin của nước ta chưa nhiều (chỉ khoảng 0.5USD/năm) nên dù tỉ lệ vi phạm bản quyền cao nhưng tổgn số tiền làm hại cho các hãng phần mềm lớn thế giới cũng chưa đến mức các hãng này và Chính phủ của họ phải mạnh tay đối với Việt Nam. Trong khi đó những người ủng hộ các biện pháp mạnh tay để bảo vệ bản quyền phần mềm cho rằng đó là những suy nghĩ thiển cậnh, chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt mà không tính đến những thiệt hại khổng lồ do tỉ lệ vi phạm bản quyền phần mềm quá cao gây ra cho quốc gia như đã phân tích ở trên. Hơn nữa việc thực thi các điều kiện của các hiệp định thương mại song phương, đa phương cũng như quá trình gia nhập WTO không cho phép chúng ta tránh né vấn đề này lâu hơn nữa.
Việc tổ chức quản lý Nhà nước cũng như khung pháp lý cho vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn nhiều bất cập
Hiện chưa có một văn bản pháp luật cụ thể nào cho riêng vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ về phần mềm được ban hành. Việc bảo hộ phần mềm hiện căn cứ vào nhiều phần khác nhau tại nhiều bộ luật riêng rẽ, và phần nội dung liên quan đến phần mềm khá sơ sài, ví dụ:
1. Theo luật về bảo hộ quyền tác giả, sản phẩm phần mềm được bảo hộ như một tác phẩm văn học, được quy định trong phần 6 bộ luật dân sự.
2. Theo luật về sáng chế, giải pháp hữu ích, tuy không bảo hộ bản thân phần mềm nhưng vẫn bảo hộ các quy trình, thiết bị được điều khiển bởi máy tính có cài đặt phần mềm;
3. Luật về bí mật kinh doanh bảo hộ hần mềm đang được bảo mật;
4. Luật về nhãn hiệu hàng hoá hoặc tên thương mại bảo hộ uy tín của phần mềm hoặc của doanh nghiệp.
Do vậy, rất khó có thể hiểu được một cách rõ ràng và thống nhất các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ phần mềm như:
1. Phần mềm được bảo hộ gồm những gì?
2. Ai có quyền gì đối với phần mềm?
3. Chủ phần mềm có những quyền gì?
4. Chế tài nào cho từng loại vi phạm quyền sở hữu trí tuệ phần mềm?
5. Vi phạm nào thuộc phạm vi quản lý hành chính (có thể xử lý theo chế tài hành chính)?. Vi phạm nào thuộc phạm vi xử lý của chế tài dân sự?...
Về tổ chức của các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ cũgn đang ở trong giai đoạn chuyển đổi và cơ cấu lại. Hiện có đến 3 cơ quan có chức năng quản lý về sở hữu trí tuệ, đó là Cục sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học Công nghệ, Cục bản quyền tác giả - Bộ Văn hoá thông tin, và có thể có cơ quan quản lý nhãn hiệu hàng hoá thuộc Bộ thương mại. Tuy nhiên cơ cấu này chưa hoàn toàn ổn định và đang tạo ra những khoản trống trong hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Theo các Nghị định 63/CP ban hành ngày 6/11 và Nghị định 54/CP ban hành ngày 19/5 của Chính phủ thì nhiệm vụ của Bộ Văn hoá Thông tin trong lĩnh vực bản quyền tác giả đã được giới hạn trong phạm vi các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Còn nhiệm vụ của Bộ Khoa học và Công nghệ trong lĩnh vực sỏ hữu được mở rộng thêm cả quyền tác giả (nhưng không bao gồm quyền tác giả văn học, nghệ thuật và nhãn hiệu hàng hoá). Như vậy, chức năng bảo hộ bản quyền tác giả trong lĩnh vực phần mềm được chuyển giao từ Cục Bản quyền tác giả sang Cục sở hữu trí tuệ. Cục Bản quyền tác giả đã dừng mọi công việc liên quan tới việc đăng ký bản quyền các tác phẩm khoa học. Nhưng đến nay, Cục Sở hữu trí tuệ vẫn chưa sẵn sàng tiếp nhận chức năng mới dù Nghị định 54 đã có hiệu lực từ ngày 22/6. Điều này gây ra những ách tắc trong việc đăng ký bảo hộ cho sản phẩm phần mềm trong giai đoạn vừa qua.
Ngoài những bất cập trong tổ chức và hoạt động đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ như trên, việc giám sát thực thi bảo vệ quyền sỏ hữu trí tuệ cũng liên quan đến nhiều cơ quan như Bộ Công an, Tổng cục Hải quan, các Ban quản lý thị trường và Bộ Bưu chính Viễn thông (với vai trò quản lý nhà nước về công nghệ thông tin)… Nhiều cơ quan như vậy nhưng việc phân định phạm vi thẩm quyền và quan hệ phối hợp giữa các cơ quan lại không rõ ràng. Sự phối hợp giữa các cơ quan thực thi còn yếu, có khi còn có những quan điểm xử lý trái ngược nhau, do vậy dễ xảy ra tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, không chịu trách nhiệm về những hậu quả xảy ra trong lĩnh vực mình phụ trách.
Bên cạnh đó cũng còn thiếu các quy định về trình tự, thủ tục thực hiện việc bảo hộ sở hữu trí tuệ. Hiện Việt Nam chưa có quy trình chứng minh vi phạm, (chẳng hạn muốn chứng minh có việc sao chép thì phải chức minh được có sự giống nhau về cơ bản giữa tác phẩm gốc và tác phẩm ra sau, đồng thời cũng phải chứng minh được tác giả của tác phẩm ra sau có thể tiếp cận được bằng một cách nào đó để sao chép tác phẩm gốc). Hơn nữa trình độ năng lực nghiệp vụ vèe sở hữu trí tuệ phần mềm của các cán bộ thực thi cũng chưa đủ đáp ứng yêu cầu công việc. Các hình phạt đưa ra không mang tính răn đe, không có khả năng năng ngăn chặn, mà thường chỉ phạt cho tồn tại, chỉ phạt hành chính mà không truy cứu hình sự. Điều này cùng với việc thiếu một quyết tâm cao của các cán bộ có trách nhiệm làm cho vấn đề bảo vệ bản quyền phần mềm hầu như không có tiến triển.
1.1.3 Xu hướng vận động
* Cơ hội Việt Nam gia nhập WTO, bước vào sân chơi toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp sản xuất gạch Ceramic nói riêng đang đứng trước những cơ hội mới hết sức quan trọng.
Thứ nhất đó là thị trường được mở rộng. Không những kinh tế nước nhà phát triển, sức muc của nhân dân tăng lên mà từ nay, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường rộng lớn hơn với 150 thành viên của WTO chiếm 85% thương mại hàng hoá và 90% thương mại dịch vụ toàn cầu. Trên thị trường rộng lớn ấy, những rào cản về hạn ngạch, giấy phép, thuế quan… sẽ dần bị gỡ bỏ. Hàng hoá nước ta có điều kiện đi ra nước ngoài, thâm nhập thị trường toàn cầu bình đảng với các nước khác.
Thứ hai, các doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội tiếp cận một cách bình đẳng công nghệ, vốn tín dụng và nhân lực từ bên ngoài. Đây chính là những yếu kém của các doanh nghiệp nước ta mà trước đây ta chưa giải quyết được, đặc biệt là các công nghệ hiện đại sẽ được tiếp thu từ các doanh nghiệp nước ngoài vào sản xuất kinh doanh ở Việt Nam. Riêng đối với ngành sản xuất gạch Ceramic thì đây là cơ hội rât tốt để các doanh nghiệp có thể cái tiến máy móc, thiết bị, công nghệ của mình để có thể sản xuất ra những sản phẩm chất lượng cao hơn, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Và sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ dễ dàng hơn trong việc thâm nhập thị trường quốc tế.
Cơ hội thứ ba đối với doanh nghiệp Việt Nam đó là môi trường kinh doanh sẽ được cải thiện. Hội nhập sẽ thúc đẩy các cơ quan nhà nước tích cực đổi mới thể chế, chính sách, sắp xếp lại tổ chức quản lý và làm trong sạch đội ngũ công chức, cải cách thủ tục hành chính, chống quan liêu tham nhũng… thuận lợi hơn cho việc nâng cao hiệu quảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện có và phát triển thêm nhiều doanh nghiệp tư nhân mới.
Thứ tư: đó là việc tổ chức lại sản xuất, sắp xếp lại doanh nghiệp nước phù hợp với yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp. Đây là thời cơ để doanh nghiệp tiếp thu kinh nghiệm, kể cả bố trí ngoài mà tái cấu trúc doanh nghiệp một cách thật khẩn trương, kể cả bố trí bộ máy, sắp xếp lại nhân sự, triển khai các quan hệ liên doanh, liên kết….
Một cơ hội nữa cho các doanh nghiệp Việt Nam đó là các cuộc tranh chấp thương mại sẽ được giải quyết công bằng hơn. Trước đây, doanh nghiệp Việt Nam bị kiện, đó là trên sân của nứơc sở tại, theo luật của nước họ nên thường không công bằng. Ngày nay, khi Việt Nam là thành viên của WTO, doanh nghiệp nước ta sẽ được bảo vệ trước những tranh chấp thương mại theo điều lệ của WTO, được đối xử công bằng hơn. Đây là cơ sở rất thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi xâm nhập thị trường quốc tế.
*Thách thức
Thách thức đầu tiên đối với các doanh nghiệp Thách thức đầu tiên đối với các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất gạch Ceramic ở Việt Nam hiện nay là thị trường ngành này đang bão hoà, nhu cầu đối với sản phẩm gạch men ốp lát đã giảm mạnh trong các năm qua. Do vậy mà nguy cơ thị trường trong nước của các doanh nghiệp trong thời gian tới bị thu hẹp là khó tránh khỏi.
Ngoài ra, bên cạnh những cơ hội của các doanh nghiệp khi Việt Nam ra nhập WTO thì thách thức đối với các doanh nghiệp cũng không phải ít.
Thách thức lớn nhất là việc mở cửa thị trường nội địa với thuế suất thấp, do vậy nếu doanh nghiệp không sản xuất được sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh cao thì nguy cơ bị xâm chiếm thị trường và rủi ro dẫn đến thất bại là rất cao.
Thách thức thứ hai là hầu hết các doanh nghiệp chưa nắm rõ những vấn đề mà họ có thể gặp phải sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Các thông tin mà các doanh nghiệp cần biết là: Lộ trình thực hiện công tác quản lý hành chính; lộ trình thực hiện thủ tục hải quan, các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư sau khi gia nhập WTO, những định hướng phát triển của chính phủ với từng ngành nghề. Vì vậy, việc thực hiện các chiến lược thị truờng của các doanh nghiệp sẽ rất khó khăn nếu không nắm rõ được những thông tin này. thậm chí có thể dẫn đến sai lầm, đi chệch hướng.
Thách thức thứ ba của doanh nghiệp là sức ép về thời gian. Đối với doanh nghiệp nhà nước đã quen với ưu đãi từ chính sách của chính phủ, chính sách của các tỉnh, thành phố, ngành thì việc gia nhập WTO khiến các doanh nghiệp này phải đối mặt với nhiều tập đoàn công ty quốc tế có tiềm lực mạnh. Còn đối với các doanh nghiệp tư nhân sẽ bị sức ép nhanh hơn bởi phẩn lớn các lĩnh vực Việt Nam mở cửa sớm hoặc các mặt hàng thực hiện cắt giảm thuế ngay là địa bàn chủ yếu của kinh tế tư nhân. Trong khi một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh do các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ chủ yếu lại có lộ trình mở cửa dần dần. Do đó các doanh nghiệp tư nhân sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh quốc tế ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Thời gian cho các doanh nghiệp thực hiện cải cách điều chỉnh các chiến lược kinh doanh nói chung và chiến lược thị trường nói riêng không còn nhiều, do đó nếu không có sự gấp rút chuẩn bị hội nhập thì nguy cơ không bảo toàn được thị trường có chứ chưa nói tới phát triển thị trường mới của các doanh nghiệp Việt Nam là rất dễ xảy ra.
1.3 Đối thủ cạnh tranh của các công ty phần mềm
1.3.1 Đối thủ cạnh tranh trực tiếp
Cạnh tranh luôn là một yếu tố không thể thiếu buộc các doanh nghiệp phải đương đầu khi tham gia bất cứ một thị trường nào. Cạnh tranh luôn có tính hai mặt của nó thúc đẩy và kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp. Và cũng nhờ tính hai mặt đặc thù đó mà cạnh tranh luôn thu hút được sự chú ý không nhỏ của cả hai bên: doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Phầm mềm là một loại sản phẩm đặc biệt, là sự kết hợp hài hoà giữa những tinh hoa của công nghệ thông tin và chất xám của loài người. và tính chất đó nên phần mềm trở thành một loại sản phẩm rất khó định lượng và cả định tính. Và cũng chính vì tính chất đó của phần mềm, nó làm cho việc cạnh tranh trong thị trường phần mềm trở nên phức tạp và tinh vi hơn so với việc cạnh tranh giữa những sản phẩm hàng hoá thông thường.
Hiện thị trường phần mềm Việt Nam có hàng trăm doanh nghiệp tham gia dù quy mô đa số mới chỉ là vừa và nhỏ nhưng không vì thế mà không khí cạnh tranh lại kém phần sôi động. Có thể nói, đối thủ cạnh tranh của S3I là tất cả các doanh nghiệp phần mềm còn lại trên thị trường. Nhưng nhìn chung, với mỗi một thời kỳ công ty lại tung ra thị trường những sản phẩm nhất định, cho nên những đối thủ cạnh tranh trực tiếp của công ty cũng vì thế mà thay đổi theo thời gian.
Hiện tại, công ty chú trọng vào việc bán và giới thiệu sản phẩm phần mềm S3ICRM - phần mềm quản lý quan hệ khách hàng. Đây không phải là sản phẩm hoàn toàn mới trên thị trường, vì trước đó đã có nhiều phần mềm quản lý quan hệ khách hàng tương tự nhưng là của các công ty phần mềm nước ngoài , có trình độ nhất định. Nắm được nhu cầu này, S3ICRM được tung ra như một phần mềm quản lý quan hệ khách hàng đầu tiên bằng tiếng Việt mang nhiều thuận lợi cho người sử dụng.
Ngay sau khi phần mềm S3ICRM chính thức ra mắt vào đầu tháng 7 năm 2005, công ty đã vấp phải sự cạnh tranh gay gắt từ hai công ty phần mềm khác. Hai công ty này cũng đưa ra những phần mềm quản lý quan hệ khách hàng tương tự như sản phẩm của công ty.
3.4.1 Công ty giải pháp phần mềm Đan Phong
Đây là đối thủ mạnh nhát của S3I tính ở thời điểm hiện tại. Đan Phong trước hết là một công ty có quy mô lớn và chuyên nghiệp hơn S3I. Không chỉ thế, công ty này còn có được nhiều giải thưởng công nghệ thông tin uy tín cũng như đã có sẵn một thị phần ổn định cho riêng mình. Công bằng mà nói, nếu xét trên phương diện cảm quan thì phần mềm EasyBiz CRM (Customẻ Relation Management) của công ty Đan Phong có giao diện và hình thức đóng góp hơn S3I VENUS rất nhiều. Hơn nữa, nhờ biết dựa vào ưu thế là tính chuyên nghiệp và uy tín của mình, EasyBiz ngay từ khi xuất hiện đã nhanh chóng làm lu mờ BSC VENUS và chiếm được một thị phần lớn, vốn trước đây là của công ty S3I mặc dù xét về mặt tính năng thì EasyBiz không bằng được S3I VENUS.
3.4.2 Công ty cổ phần phần mềm ESP
Đây cũng là một đối thủ cạnh tranh khác của công ty S3I tính chuyên nghiệp và quy mô thì công ty ESP không bằng công ty S3I nhưng đây cũng là đối thủ mà S3I không thể lơ là.
Công ty cổ phần phần mềm ESP mới chỉ thành lập được khoảng 5 hay 6 năm trước, thành tích cũng như sản phẩm chưa có nhiều, và nhất là chưa gây dựng được uy tín và chỗ đứng riêng của mình trên thị trường phần mềm.
Xét về mặt sản phẩm thì chắc chắn phần mềm mang tên ESP CMS (Customẻ Relation Management - Hệ thống quản lý khách hàng) không thể ngang băng về mặt chất lượng cũng như tính năng của phần mềm BSC VENUS của công ty BSC. Nhưng lợi thế của ESP CMS là giá bán rẻ, thấp hơn so với phần mềm BSC VENUS khoảng 800.000 VNĐ/1 bản cài trên máy chủ. Sở dĩ S3I coi ESP là một đối thủ cạnh tranh cần phải đề phòng vì phần mềm S3I VENUS được viết ra để nhằm vào đối tương là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Mà những doanh nghiệp như thế này thì hành vi của họ sẽ chịu tác động nhiều bởi chi phí mua sản phẩm hơn là những tính năng tích cực mà sản phẩm phầm mềm mang lại.
Sau đây là bảng so sánh tổng quan các chiến lược Marketing –mix giữa công ty S3I và hai đối thủ cạnh tranh chính của mình là Đan Phong và ESP:
Marketing –mix
Công ty
BSC
Đan Phong
ESP
P1 - Sản phẩm
Tên phần mềm
S3I CRM
EasyBiz
ESP CRM
Chất lượng
Tốt
Tốt
Trung bình
Số lượng tiêu thụ
2000
2700
850
Giao diện của phần mềm
Trung bình
Đẹp
Xấu
Thời gian bảo hành
12 tháng
12 tháng
12 tháng
Đào tạo/ Hỗ trợ sử dụng
Tốt
Tốt
Tốt
P2 - Giá
Giá 1 máy chủ
4.400.000
12.000.000
3.800.000
Giá 1 máy mạng
880.000
2.000.000
800.000
P3 – Phân loại
Trực tiếp
Có
Có
Có
Gián tiếp
Đang tìm đại lý chính thức
Đã có đại lý chính thức
Không
P4 – Xúc tiến hỗn hợp
Quan internet
Có
Có
Có
Qua các tạp chí chuyên ngành
Có
Có
Có
Telemarketing
Có
Có
Có
Tổ chức hội thảo giới thiệu sản phẩm
Có
Có
Có
Bảng so sánh những chiến lược Marketing –mix hiẹn tại giữa S3I và hai đối thủ cạnh tranh chính.
Ngoài ra, nếu như dùng 3 tiêu chí để so sánh về mọi khía cạnh của 3 công ty là S3I, Đan Phong và ESP là “Tốt”, “Trung bình”và “Kém” thì ta có bảng kết quả sau:
Chỉ tiêu so sánh
Tốt
Trung bình
Kém
Quy mô doanh nghiệp
Đan Phong
S3I
ESP
Tính chuyên môn hoá
Đan Phong
S3I
ESP
Uy tín doanh nghiệp
Đan Phong
S3I
ESP
Thị phần của doanh nghiệp
Đan Phong
S3I
ESP
Số lượng sản phẩm phần mềm
Đan Phong
S3I
ESP
Chất lượng phần mềm
Đan Phong
S3I
ESP
Trình độ nhân viên
Đan Phong
S3I
ESP
Các chứng chỉ và giải thưởng
Đan Phong
S3I
ESP
Tiềm lực tài chính
Đan Phong
S3I
ESP
Khả năng phát triển
Đan Phong
S3I
ESP
Bảng so sánh chung mọi khía cạnh của 3 công ty S3I, Đan Phong và ESP
Trên đây là những so sánh tổng quan nhất về mọi khía cạnh tương quan giữa S3I và hai đối thủ cạnh tranh trực tiếp trong nước hiện nay. Như đã nêu ở trên, phần mềm quản lý quan hệ khách hàng đã có từ lâu và rất nhiều công ty phần mềm nước ngoài quản lý quan hệ khách hàng đã có từ rất nhiều công ty phần mềm nước ngoài tham gia vào đoạn thị trường này. S3I Đan Phong vf S3I chỉ là ba công ty cung cấp phần mềm đó dưới dạng tiếng Việt mà thôi. Nếu xét về mặt uy tín, chất lượng phần mềm và mọi khía cạnh tương quan nói chung khác thì không thể so sánh ngang cùng các công ty phần mềm nước ngoà. Còn néu khác thì không thể sánh ngang cùng các công ty phần mềm nước ngoài. Còn nếu xét về ứng dụng và triển khải các chiến lược Marketing trong kinh doanh phần mềm thì các công ty phần mềm nước ngoài đã đi được cả một chặng đường dài còn các công ty phần mềm Việt Nam mới chập chững những bước đi đầu tiên…Khi các hoạt động Marketing phần mềm của các công ty nước ngoài đã đạt đến trình độ chuyên nghiệp cao thì ở Việt Nam nó mới chỉ dừng lại ở những hoạt động manh mũn, nhỏ lẻ và thiếu tính quy mô cũng như sự đầu tư lâu dài.
Nếu xét theo chiều dài của lịch sử kinh tế thì cho tới nay có thể tổng kết là có tất cả 5 quan điểm quản trị Marketing. Đó là quan điểm tập trung vào sản xuất, quan điểm tập trung vào hoàn thiện sản phẩm, quan điểm tập trung vào bán hàng, quan điểm Marketing và cuối cùng là quan điểm Marketing hướng đến dự kết hợp của 3 lợi ích: người tiêu dùng, nhà kinh doanh xã hội. Đáng tiếc là Việt Nam do bước sang nền kinh tế thị trường từ một nền kinh tế bao cấp yếu kém về mọi mặt nên quan điểm tập trung vào sản xuất và quan điểm hoàn thiện sản phẩm còn in đậm trong tiềm thức của nhiều nhà quản lý và trong nhiều quyết định kinh doanh.
Trong bối cảnh hiện nay, qua 5 năm phát triển không ngừng nghỉ của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam, không ít doanh nghiệp phần mềm đã đang và chắc chắn nhấn mạnh và tập trung vào việc hoàn thiện sản phẩm hiện có. Bởi vì theo họ, người tiêu dùng luôn ưu thích những sản phẩm có chất lượng cao nhất, nhiều công dụng và tính năng mới. Vì vậy, các doanh nghiệp phần mềm muốn thành công phải luôn tập trung mọi nguồn nhân lực vào việc tạo ra các phần mềm có chất lượng hoàn hảo nhất và thường xuyên nâng cấp chúng bằng cách tạo cho mắt những phiên bản mới tốt hơn, nhiều tính năng ưu việt hơn… Như vậy, theo quan điểm này, các doanh nghiệp phần mềm cho rằng yếu tố quyết định sự thành công chính là việc dẫn đầu về chất lượng và đặc tính sản phẩm phần mềm hiện có.
Trong điều kiện của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam hiện nay, việc nâng cao chất lượng phần mềm để tăng cường khẳ năng cạnh tranh là điều hết sức cần thiết, đặc biệt là khi chất lượng phần mềm còn thấp và yêu cầu hội nhập đặt ra gay gắt. Nhưng nếu các doanh nghiệp phần mềm cứ loay hoay vào việc nâng cao chất lượng và cải tiến các đặc tính phần mềm hiện có thì chưa có gì đảm bảo chắc chắn cho sự thành công. Bởi vì nếu chỉ theo hướng này dễ làm người ta ít chú ý đến sự biến đổi nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng của khách hàng và sự xuất hiện những phần mềm thay thế mới hiệu quả hơn.
Ai cũng biết, cạnh tranh trong lĩnh vực phần mềm thì nhân lực luôn là yếu tố chủ chốt mang tính sống còn. Thế nhưng, nếu như một công ty sản xuất ra được một phần chất lượng rất tốt nhưng các hoạt động Marketing lại yếu kém thì chắc chắn phần mềm đó không thể có một chu kỳ sống dài. Trong thời đại bùng nổ thông tin như ngày nay, giữa hàng nghìn các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ tham gia vào cùng một lĩnh vực gì…nếu như không có sự hỗ trợ của các hoạt động xúc tiến khuyếch trương của Marketing.
Trong tương lai, S3I sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức nữa để có thể tự khẳng định vị thế của mình trên thị trường phần mềm Việt Nam. Ngay từ bây giờ, Ban lãnh đạo công ty cần có những phương hướng giải quyết kịp thời những khó khăn mà công ty cần có những phương hướng giải quyết kịp thời những khó khăn mà công ty đang gặp phải, đồng thời phát huy những mặt lợi vốn có của mình. Cũng như bao doanh nghiệp phần mềm khác tại Việt Nam, S3I nên coi nhân lục là bài toán cấp bách cần giải quyết trước mắt, còn Marketing là chiến lược mang tính cạnh tranh lâu dài. Kết hợp giải quyết đồng bộ hai yếu tố nhân lực và Marketing một cách hài hoà, chắc chắn S3I sẽ tạo dựng được lợi thế cạnh tranh riêng của mình trước các đối thủ trong cùng ngành.
1.4. Các tố ảnh hưởng tác động đến thị trường phần mềm
Bất kỳ một ngành hay lĩnh vực kinh doanh nào cũng đều phải chịu những tác động khách quan không thể kiểm soát được từ bên ngoài, đó là môi trường Marketing vĩ mô. Môi trường Marketing vĩ mô bao gồm nhiều môi trường khác như kinh tế, xã hội, chính trị… và từng môi trường này có những tác động và ảnh hưởng nhất định tới việc kinh doanh và mức độ ảnh hưởng của từng môi trường cũng khác nhau tuỳ thuộc vào ngành hay lĩnh vực kinh doanh đó.
Kinh doanh trong lĩnh vực phần mềm cũng vậy, các doanh nghiệp phải chịu những tác động khách quan từ môi trường bên ngoài, và những môi trường Marketing vĩ mô chủ yếu tác động tới việc kinh doanh phần mềm bao gồm những môi trường sau đây:
1.4.1. Môi trường kinh tế
Một sản phẩm chỉ tiêu thụ được khi thị trường có nhu cầu về nó. Tuy nhiên sản lượng tiêu thụ của sản phẩm đó còn chịu nhiều tác động khách quan khác từ môi trường kinh tế như tỉ lệ lạm phát, suy thoái kinh tế… nên những người làm Marketing cần theo dõi chặt chẽ các biến số trên để có thể có những chiến lược phù hợp với tình hình phát triển kinh tế nhằm mang lại lợi ích và hiệu quả tối ưu cho khách hàng cũng như cho doanh nghiệp mình.
Một môi trường kinh tế phát triển tăng dần đều luôn tạo được những thuận lợi khách quan cho các doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ. Có thể nói trong những năm qua Việt Nam duy trì được tốc độ phát triển cao, tỷ lệ lạm phát không đáng kể, hầu như không xảy ra hiện tượng suy thoái kinh tế… là những thành tựu đáng khích lệ của kinh tế Việt Nam, được thể hiện qua bảng số liệu dưới đây:
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
%
6,89
7,04
7,24
7,69
8,40
Tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các năm
(Nguồn: Tạp chí Đầu tư số tháng 12 năm 2007)
Như vậy, sự tăng trưởng của kinh tế Việt Nam qua những năm qua không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành kinh tế nói chung và ngành công nghiệp phần mềm nói riêng phát triển, mà nó còn tạo được một cơ sở vật chất tốt như hạ tầng cơ sở viễn thông và Internet, môi trường kinh doanh lành mạnh, thu hút nhiều vốn đầu tư,… vốn là những yếu tố cơ bản rất cần thiết cho sự phát triển của một doanh nghiệp phần mềm.
1.4.2. Môi trường pháp luật
Môi trường pháp luật là một trong những môi trường Marketing vĩ mô quan trọng được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm, nhất là khi doanh nghiệp đó hoạt động trong lĩnh vực phần mềm. Việt Nam vốn được biết đến như một quốc gia có tỉ lệ vi phạm bản quyền phần mềm cao nhất thế giới, mặc dù đã tham gia vào nhiều công ước và Hiệp ước lớn trên thế giới, đồng thời cũng có cả một bộ luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nhưng cho đến nay tỉ lệ vi phạm bản quyền phần mềm vẫn không giảm là bao.
Cụ thể thì Việt Nam đã tham gia 3 công ước lớn trên thế giới có liên quan đến lĩnh vực bảo hộ bản quyền phần mềm, bao gồm:
Công ước Stockholm về việc thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (tên viết tắt là WIPO)
Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp
Công ước Berne về việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Như vậy, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là trong lĩnh vực phần mềm nhằm tạo được một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp phần mềm trong nước và cả quốc tế. Thế nhưng, do công tác quản lý và kiểm tra việc thực thi các Công ước trên còn yếu kém và tồn tại nhiều bất cập nên cho đến nay thực trạng việc kinh doanh phần mềm tại thị trường Việt Nam vẫn còn phải đương đầu với nhiều khó khăn, mà khó khăn lớn nhất là không ngăn chặn được việc vi phạm bản quyền phần mềm đang xảy ra tràn lan. Nguyên nhân chủ yếu như: các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam chủ yếu nằm trên giấy, thực tế ít được thực hiện; biện pháp thực thi chưa đúng; thiếu các quy định về trình tự, thủ tục; phân định trách nhiệm của các cơ quan giám sát chưa đồng nhất; và nhất là nhận thức của chúng còn rất hạn chế.
Các cơ quan quản lý và thực thi cần có nhiều biện pháp mạnh và cương quyết hơn nữa nhằm đối phó với nạn sao chép phần mềm bất hợp pháp đang diễn ra ngang nhiên như hiện nay… Về phía các doanh nghiệp, cách tốt nhất không phải là giảm giá mà là nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ sản phẩm cũng như các dịch vụ chăm sóc khách hàng sau khi bán. Còn về phía người tiêu dùng cũng cần nhận thức được rằng sử dụng phần mềm không có bản quyền không những là hành động bất hợp pháp mà nó còn có tác động tiêu cực đến sự phát triển của ngành công nghiệp phần mềm nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung…
1.4.3. Môi trường công nghệ, kỹ thuật
Một lực lượng quan trọng nhất, định hình cuộc sống của con người là công nghệ. Công nghệ tạo ra những điều kì diệu nhưng cũng tạo ra những thứ mang lại hậu quả không lâu dài nghiêm trọng mà không phải bao giờ cũng thấy trước được.
Công nghiệp phần mềm luôn phát triển song hành cùng công nghệ thông tin. Có thể nói, mối quan hệ giữa công nghiệp phần mềm và công nghệ thông tin là mối quan hệ biện chứng, không tách rời, cái này làm tiền đề cho cái kia phát triển.
Trong vòng hơn 10 năm trở lại đây, cả thế giới đã được chứng kiến sự phát triển và lớn mạnh như vũ bão của ngành công nghệ thông tin nói chung và của ngành công nghiệp phần mềm nói riêng. Sự lớn mạnh của công nghệ thông tin đang là nền tảng quan trọng thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp phần mềm. Qua khảo sát tại 217 doanh nghiệp trong cả nước, đã có 77% doanh nghiệp cho rằng công nghệ thông tin giúp tăng năng suất lao động; 43% cho rằng công nghệ thông tin làm tăng chất lượng sản phẩm dịch vụ; 59% đánh giá công nghệ thông tin làm tăng khả năng cạnh tranh và 6% ghi nhận công nghệ thông tin còn mang lại các hiệu quả khác… (nguồn: www.vinasa.org.vn)
Ở thập niên này, ngành công nghiệp phần mềm đang chuẩn bị có một bước chuyển biến cơ bản, từ mô thức hướng đối tượng (Object-Oriented), sang một mô thức khác, trong đó chuyên gia phần mềm vẫn giữ vị trí quan trọng để phát triển phần mềm dựa vào cấu phần (Component – Based Software). Ở ngành phần mềm dựa trên cấu phần, các chuyên gia phần mềm sẽ không chỉ phát triển những cấu phần tương đối phổ quát mà doanh nghiệp hoặc các chuyên gia thuộc từng lĩnh vực có thể mua và cải biến để tạo ra những ứng dụng đặc thù của lĩnh vực của họ. Việc tách rời hoặc chuyên môn hoá như vậy cho phép các chuyên gia phần mềm và các chuyên gia ở các ngành khác tập trung toàn bộ tâm sức vào lĩnh vực chuyên môn của mình, rất giống với những dây chuyền lắp ráp đã cho phép chuyên môn hoá lĩnh vực chế tạo.
Sự chuyển hoá tương tụ như đã từng xảy ra ở cuộc cách mạng Công nghiệp thế kỷ thứ XIX đối với ngành máy công cụ. Cách tiếp cận mới đối với ngành phần mềm sẽ thay thé những dây chuyền thủ công bằng các cấu phần hoặc bộ phận phần mềm và các quy trình tự động để lắp ráp. Điều này sẽ giúp tăng rất nhiều chất lượng, khả năng bảo trì và tính linh hoạt của phần mềm trong khi giảm được giá thành, thời gian phát triển và độ phức tạp. Nó còn giúp tạo ra một ngành mới gồm những xưởng “đúc” ra cấu phần phần mềm trung gian, có thể chuyên môn hóa dựa trên các ưu thế cạnh tranh đặc thù về tri thức tính năng phần mềm hoặc lĩnh vực chuyên ngành, tạo ra những cấu phần độc lập, có khả năng liên kết lẫn nhau và đạt được chất lượng tuyệt hảo.
1.4.4 Môi trường văn hóa
Công nghệ thông tin được nhìn nhận là một sản phẩm tiên tiến cảu khoa học công nghệ hiện đại, có tác dụng tích cực, phục vụ cuộc sống nói chung và phục vụ kinh doanh nói riêng. Nhờ có công nghệ thông tin và sự hỗ trợ của các phần mềm tương thích, việc kinh doanh và quản lý trở nên dễ dàng và khoa học hơn trước rất nhiều.
Trong những năm gần đây, sự giao thoa và hội nhập văn hóa giữa các quốc gia diẽn ra mạnh mẽ và sôi động hơn bao giờ hết. Việc toàn cầu hóa này tất yếu ảnh hưởng đến không chỉ tâm lý mà còn ảnh hưởng đến hành vi mua của mọi đối tượng khách hàng, từ người tiêu dùng đơn lẻ đến các khách hàng là những tổ chức… và sự giao thoa văn hóa này vô tình trở thành một trở ngại cho ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam phát triển. Nguyên nhân là do tâm lý tiêu dùng của khách hàng, muốn mua và dùng các phần mềm của các công ty, tập đoàn lớn có tên tuổi, thương hiệu nổi tiếng trên thế giới hơn là các công ty chưa có tên tuổi ở trong nước. Tâm lý tiêu dùng này xuất phát từ tâm lý e ngại, hay còn gọi là né tránh rủi ro, mà những rủi ro do lỗi phần mềm gây ra luôn mang lại những thiệt hại không nhỏ về kinh tế._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33025.doc