Hoàn thiện chế độ pháp lý về ký kết & thực hiện hợp đồng Xuất khẩu ở Công ty XNK Hà Tây

LỜI NÓI ĐẦU Ngày nay, với xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế các quốc gia đang tích cực tham gia vào sự phân công và hợp tác quốc tế. Mỗi một quốc gia đang trở thành một mắt xích của nền kinh tế thế giới, không một quốc gia nào dù mạnh đến đâu đi ngược với xu thế trên lại có thể phát triển. Trong điều kiện này thương mại quốc tế mở rộng cánh cửa để nền kinh tế các nước hướng ra thị trường bên ngoài. Để đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất mỗi nước đều dựa vào những tiềm năng như tài nguyên, vị trí

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện chế độ pháp lý về ký kết & thực hiện hợp đồng Xuất khẩu ở Công ty XNK Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
địa lý, lao động. Nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Các doanh nghiệp có chủ động sản xuất kinh doanh. Ngày càng nhiều các công ty tham gia vào giao dịch thương mại quốc tế. Trong trong quá trình buôn bán quốc tế, nhiều công ty, tổ chức... đã đạt được nhiều kết quả tốt. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Cụ thể là do trình độ nghiệp vụ ngoại thương còn non kém, cán bộ sản xuất nhập khẩu chưa được đào tạo một cách có hệ thống, chưa am hiểu về tập quán thương mại, luật buôn bán quốc tế v.v... Đặc biệt là về chế độ ký kết và thực hiện. Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là một trong nhiều công ty tham gia sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu. Công ty luôn luôn phấn đấu vượt mọi khó khăn hoàn thành tốt mục tiêu nhiệm vụ của mình. Song bên cạnh đó mới bước vào hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Khả năng còn hạn chế dẫn đến trong kinh doanh công ty còn vấp váp ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của công ty. Qua thời gian thực tập ở công ty xuất nhập khẩu Hà Tây, tôi thấy các công ty sản xuất kinh doanh xuất khẩu trực tiếp thì việc ký kết và thực hiện hợp đồng là rất cần thiết và quan trọng trong quá trình làm ăn buôn bán với nước ngoài. Chính vì vậy mà tôi mạnh dạnh nghiên cứu đề tài. "Hoàn thiện chế độ pháp lý về ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu ở công ty xuất nhập khẩu Hà Tây" với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc hoàn thiện việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ở công ty. Nội dung gồm các phần sau: Phần A: Chế độ ký kết và thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu hiện nay. Phần B: Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu ở công ty xuất nhập khẩu Hà Tây. Phần C: Hướng hoàn thiện việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu tại công ty. PHẦN A CHẾ ĐỘ KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU HIỆN NAY I. KHÁI NIỆM VỀ HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU 1/ Tính tất yếu của hợp đồng xuất nhập khẩu Ngày nay sự phát triển kinh tế của một quốc gia không thể tách rời với các quốc gia khác trên thế giới. Thực tế đã chứng minh rằng các quốc gia không thể tồn tại tách biệt với thế giới bên ngoài mà có thể đảm bảo đầy đủ điều kiện vật chất và có thể phát triển. Vì thế cần phải phát triển thương mại quốc tế để phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong kinh doanh nói chung và trong kinh doanh thương mại quốc tế nói riêng cũng rất nhiều phức tạp. Mặc dù, đã được bàn bạc, thoả thuận kỹ nhưng nếu không có hợp đồng thì nhiều khi vẫn có thể bị huỷ bỏ. Điều này dễ xảy ra nếu thực tế sẽ không có lợi cho một bên nào đó. Trên thực tế giao dịch bằng miệng nhiều khi vẫn có hiệu lực và bị ràng buộc. Nhưng nếu có tranh chấp sẽ không có chứng cứ cụ thể để giải quyết. Trường hợp giao kết bằng điện thoại, telex thông thường phải lưu giữ những nội dung chào hàng xác định và các thông báo gửi tin ưng thuận, nếu có tranh chấp thì đó là chứng cứ. Tuy nhiên nếu có tranh chấp xảy ra không có hợp đồng là rất khó xử. Vì thế trong kinh doanh thương mại quốc tế hợp đồng là rất cần thiết vì: - Trong kinh doanh thương mại quốc tế giữa các nước với nhau, nếu có sự khác nhau về chủ thể ngôn ngữ, chính trị, luật pháp, tôn giáo, tập quá. Đồng thời có sự hiểu nhầm về thuật ngữ thống nhất đã dùng trong bản hợp đồng. Vì thế khi có hợp đồng và các điều khoản qui định trong hợp đồng thì các bên có thể hiểu một cách thống nhất với nhau. - Hợp đồng là văn bản bằng chứng ghi rõ những điều khoản trên giấy trắng mực đen và chữ ký của 2 bên tham gia hợp đồng. Vì thế sẽ là căn cứ pháp lý ràng buộc các bên thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã thoả thuận. Đồng thời nó là cơ sở để thực hiện và kiểm tra việc thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp đã ký kết - Hợp đồng sẽ là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp xảy ra nếu như các bên không thực hiện đúng và đầy đủ trong hợp đồng. Nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên. 2/ Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng xuất nhập khẩu a) Khái niệm Hợp đồng mua bán ngoại thương còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu. Trước hết nó là hợp đồng mua bán nói chung. Thuật ngữ "hợp đồng mua bán" được hiểu là sự thoả thuận về việc di chuyển quyền sở hữu đối với hàng hoá từ người bán sang người mua nhằm phân biệt với các hợp đồng khác như hợp đồng cho thuê, hợp đồng vận tải, hợp đồng bảo hiểm... là những hợp đồng không có sự chuyển quyền sở hữu đối với hàng hoá mà đối tượng của hợp đồng hoặc là quyền sử dụng hàng hoá hoặc là dịch vụ. Từ những vấn đề khái quát trên chúng ta có thể rút ra một số điểm sau: - Hợp đồng mua bán là sự thoả thuận của các bên ký kết, hình thức của sự thoả thuận có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản. - Chủ thể hợp đồng mua bán là người bán và người mua. Những người bán, người mua này có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc Nhà nước. - Nội dung của hợp đồng đề cập tới quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá, trả tiền và nhận tiền. - Tính chất pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hoá mang những nét đặc trưng của hợp đồng ước hẹn, hợp đồng song vụ, hợp đồng di chuyển quyền sở hữu. Pháp luật các nước nói chung đều có những quan điểm thống nhất về những điểm nêu trên. Nhưng khác với hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước, hợp đồng mua bán ngoại thương có tính chất quốc tế. Tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán ngoại thương được luật pháp các nước cũng như các điều ước quốc tế qui định một cách khác nhau. * Công ước Lahaye 1964 về mua bán quốc tế động sản hữu hình qui định tại điều 1 rằng: "Hợp đồng ngoại thương là hợp đồng được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và hàng hoá được chuyển từ nước này sang nước khác hoặc là việc trao đổi ý chí để ký kết hợp đồng giữa các bên ký kết được lập ở các nước khác nhau". Từ điều 1 của công ước này cho ta thấy tính quốc tế được thể hiện như sau: - Chủ thể tham gia ký kết hợp đồng là các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau. Vấn đề quốc tịch của chủ thể không được công ước đề cập và không coi là yếu tố xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán ngoại thương. - Đối tượng của hợp đồng là hàng hoá được di chuyển từ nước này qua nước khác. - Chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể lập ở các nước khác nhau. * Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì hợp đồng xuất nhập khẩu là các bên ký kết hợp đồng có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau (điều 1). Việc áp dụng công ước Viên cho phép ngoại trừ những quan điểm khác biệt, bất đồng trong luật quốc gia các nước, làm giảm bớt các khó khăn trở ngại và tăng hiệu quả trong đàm phán ký kết hợp đồng. Công ước Viên 1980 đã đơn giản hoá những yếu tố quốc tế của hợp đồng xuất nhập khẩu. Việc có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau dẫn đến việc có thể áp dụng nhiều hệ thống pháp luật khác nhau nhưng trong trường hợp hai chủ thể có quốc tịch khác nhau lại có trụ sở thương mại trên lãnh thổ của một nước thì việc giải thích yếu tố quốc tế của hợp đồng xuất nhập khẩu là bế tắc. Do đó quan điểm về tính quốc tế của hợp đồng xuất nhập khẩu trong công ước Viên mang tính chất chung và phù hợp với thực tế hiện nay. * Quan điểm của Việt Nam về hợp đồng xuất nhập khẩu được qui định tại điều 80 luật Thương mại được Quốc hội thông qua ngày 10/5/1997: "Hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước ngoài". Tại điều 5 khoản 6 luật Thương mại qui định "Thương nhân" được hiểu là "các cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên". Để xác định hợp đồng xuất nhập khẩu thì chỉ có một qui định đó là hợp đồng được ký kết với thương nhân nước ngoài. Vấn đề đặt ra là xác định thương nhân nước ngoài như thế nào? Theo điều 81 khoản 1 luật thương mại qui định "Chủ thể bên nước ngoài là thương nhân và tư cách pháp lý của họ được xác định căn cứ theo pháp luật mà thương nhân đó mang quốc tịch". Như vậy cho thấy khái niệm về hợp đồng xuất nhập khẩu của Việt Nam trái với công ước Viên 1980 ở chỗ công ước Viên qui định chủ thể phải có trụ sở thương mại ở các quốc gia khác nhau chứ không xét đến quốc tịch của chủ thể. Ngày nay nước ta đang từng bước hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế để phát triển. Muốn vậy pháp luật không thể có những qui định trái ngược với những điều ước quốc tế và cần phải nghiên cứu sửa đổi cho phù hợp với các điều ước và thông lệ quốc tế. b) Đặc điểm. Từ tính chất quốc tế nói trên mà làm nên đặc điểm của hợp đồng xuất nhập khẩu. Nó được thể hiện ở một số đặc điểm sau: Thứ nhất: Chủ thể hợp đồng xuất nhập khẩu là những bên có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau. Điều này được quy định ở công ước Lahaye 1964 và công ước Viên 1980 chứ không bắt buộc phải khác quốc tịch. "Chủ thể hợp đồng mua bán ngoại thương bên Việt Nam phải là thương nhân được phép hoạt động thương mại trực tiếp với nước ngoài" (điều 81, khoản 1 luật thương mại). Hai là: Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng xuất nhập khẩu. Hàng hoá này phải được chính phủ các nước hữu quan cho phép vận chuyển, buôn bán và trao đổi từ nước này sang nước khác. Tức là không thuộc diện hàng hoá cấm nhập, cấm xuất của các quốc gia đó. Ví dụ ở Việt Nam theo quyết định số 11 năm 1998/QĐ-TTg ngày 23/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ về mặt hàng cấm xuất, cấm nhập năm 1998 thì có 6 nhóm mặt hàng cấm xuất và 9 nhóm mặt hàng cấm nhập. Những mặt hàng này không phải là đối tượng của hợp đồng mua bán ngoại thương. Ba là: Tiền tệ dùng để thanh toán giữa hai bên có thể là ngoại tệ đối với một hoặc hai bên. Bởi vì đồng tiền thanh toán này được ghi trong hợp đồng mà mỗi quốc gia lại có đồng tiền riêng của mình. Hơn nữa trong thanh toán quốc tế người ta thường dùng đồng tiền mạnh. Do vậy các bên trong hợp đồng phải lưu ý về vấn đề tỷ giá hối đoái của đồng tiền thanh toán để tránh được những thiệt thòi có thể xảy ra do sự biến động về giá trị của đông tiền thanh toán. Bốn là: Tranh chấp phát sinh giữa các bên xung quanh việc ký kết và thực hiện hợp đồng có thể do một trung tâm trọng tài quốc tế nào đó xét xử theo thoả thuận trong hợp đồng hoặc toà án có thẩm quyền của một trong các nước có liên quan. Tuy nhiên trước khi đưa tranh chấp ra trọng tài hoặc toà án thì các bên phải giải quyết thông qua thương lượng, hoà giải. Nếu việc thương lượng, hoà giải không thành công thì mới giải quyết theo hai hình thức trên. Ở Việt Nam, hình thức giải quyết tranh chấp thương mại được qui định tại điều 239 của Luật thương mại "Trong trường hợp thương lượng hoặc hoà giải không đạt kết quả thì tranh chất thương mại được giải quyết tại trọng tài hoặc toà án. Thủ tục giải quyết tại trọng tài hoặc toà án được tiến hành theo các thủ tục tố tụng của trọng tài, toà án mà các bên lựa chọn" và thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại với thương nhân nước ngoài được qui định tại điều 240 "Đối với thương nhân nước ngoài, nếu các bên không thoả thuận hoặc điều ước quốc tế mà nước ta ký kết hoặc tham gia không có qui định thì tranh chấp được giải quyết tại toà án Việt Nam" Năm là: Luật điều chỉnh hợp đồng xuất nhập khẩu được các bên ký kết thoả thuận chỉ định, bổ sung cho những điều chưa được quy định chi tiết trong hợp đồng. Nguồn luật đó có thể là luật quốc gia giữa các bên ký kết hoặc có liên quan, có thể là luật quốc tế hoặc có thể là tập quán quốc tế. II. NGUỒN LUẬT ÁP DỤNG CHO HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU Hợp đồng xuất nhập khẩu dù được ký kết hoàn chỉnh chi tiết đến đâu, bản thân nó cũng không thể dự kiến đầy đủ, chứa đựng tất cả các vấn đề, các tình huống phát sinh trong thực tế. Do đó cần phải có cơ sở pháp lý cụ thể để bổ sung cho hợp đồng. Thực tế cho thấy những trường hợp tranh chấp xảy ra giữa các bên lại không được quy định hoặc quy định không đầy đủ trong hợp đồng. Trường hợp này phải dựa vào luật điều chỉnh của hợp đồng để giải quyết tranh chấp. Không chỉ nghiên cứu luật áp dụng hợp đồng mua bán mà còn cả toà án (hoặc trọng tài) giải quyết tranh chấp phát sinh. Trong mua bán quốc tế các đương sự hoàn toàn có quyền tự do thoả thuận nguồn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng của mình. Nguồn luật đó có thể là luật quốc gia, điều ước quốc tế, tập quán quốc tế. Tuy nhiên nghiên cứu áp dụng luật nào cho phù hợp để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. 1) Điều ước quốc tế Khi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng xuất nhập khẩu liên quan đến vấn đề không được quy định hoặc quy định không đầy đủ trong hợp đồng các bên có thể dựa vào các điều ước quốc tế về ngoại thương. Đối với những điều ước quốc tế mà nước ta ký kết hoặc thừa nhận thì chúng có giá trị bắt buộc đối với hợp đồng xuất nhập khẩu có liên quan. Những điều ước quốc tế này là nguồn luật đương nhiên, các bên ký kết có thể dựa vào đó mà không cần phải có sự thoả thuận riêng nào khác. Tức là, dù các bên mua và bán có dẫn chiếu hay không hì các điều ước quốc tế về ngoại thương mà ta ký kết hoặc thừa nhận vẫn đương nhiên được áp dụng. Những điều ước quốc tế về ngoại thương mà Nhà nước ta không ký, chưa ký hoặc không thừa nhận thì không có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể Việt Nam trong hợp đồng xuất nhập khẩu. Những điều ước quốc tế này không phải là nguồn luật đương nhiên của hợp đồng xuất nhập khẩu do các chủ thể Việt Nam ký kết với các thể nhân và pháp nhân nước ngoài. Chúng chỉ trở thành nguồn luật điều chỉnh hợp đồng xuất nhập khẩu nếu các bên thoả thuận dẫn chiếu tới trong hợp đồng. Ví dụ: Việt Nam chưa thừa nhận công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Cho nên công ước này chỉ được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng xuất nhập khẩu mà chủ thể Việt Nam với bên nước ngoài trong hợp đồng xuất nhập khẩu có quy định áp dụng công ước Viên hoặc hai bên thoả thuận với nhau sẽ dựa vào công ước Viên để giải quyết các tranh chấp về hợp đồng xuất nhập khẩu. Nếu không có sự thoả thuận đó công ước Viên sẽ không có ý nghĩa và không có giá trị pháp lý nào đối với Việt Nam. Khi áp dụng điều ước quốc tế để điều chỉnh cần phải chú ý tới tính chất pháp lý của các loại quy phạm pháp luật đó. Nếu là loại quy phạm có tính chất mệnh lệnh các đương sự phải tuyệt đối tuân thủ. Nếu là quy phạm có tính chất tuỳ ý các bên có thể tuân theo hoặc không tuân theo. 2) Nghị định song phương và đa phương. Các nghị định song phương hoặc đa phương về thương mại quốc tế được ký kết giữa hai hoặc nhiều quốc gia với nhau. Các nước cùng nhau bàn bạc thoả thuận để ký kết về một hiệp định chung về thương mại và các vấn đề liên quan. Nghị định được ký kết giữa các quốc gia thì nó trở thành nguồn luật đương nhiên đối với các bên của các quốc gia đó và nó có giá trị bắt buộc đối với hợp đồng xuất nhập khẩu có liên quan. Các bên có thể dựa vào đó mà không phải dựa vào đó mà không phải dựa và đó mà không cần phải có sự thoả thuận nào đó. Tức là chỉ các bên có dẫn chiếu hay không thì các hiệp định, nghị định song phương hoặc đa phương về ngoại thương mà ta ký kết đương nhiên được áp dụng. Khi tranh chấp xảy ra giữa các bên về hợp đồng mua bán ngoại thương thuộc các quốc gia đã ký kết nghị định, hiệp định song phương hoặc đa phương thì có thể dựa vào các hiệp định nghị định này để giải quyết. Thông qua các Nghị định, Hiệp định song phương hoặc đa phương tạo điều kiện thuận lợi cho việc buôn bán thương mại quốc tế thuận tiện nhanh chóng tiết kiệm chi phí, thời gian mà hợp đồng vẫn có giá trị. Nếu trong điều ước quốc tế về ngoại thương có những quy định khác với pháp luật Việt Nam (mà nước ta chưa tham gia ký kết hoặc công nhận) thì có quyền bảo lưu. Tức là chỉ áp dụng từng chương, mục của công ước mà không trái với pháp luật Việt Nam. Thông qua điều ước quốc tế mà các chủ thể của hợp đồng xuất nhập khẩu dù ở các nước khác nhau có thể có sự hiểu thống nhất trong việc giải quyết nhanh chóng tranh chấp phát sinh, tiết kiệm thời gian, chi phí. 3) Tập quán quốc tế Tập quán quốc tế về thương mại cũng là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng xuất nhập khẩu. Đặc biệt trong nhiều trường hợp tập quán thương mại quốc tế không chỉ giúp cho việc giải quyết tranh chấp phát sinh một cách dễ dàng hơn. Tập quán thương mại là những thói quen thương mại được công nhận rộng rãi. Những thói quen thương mại sẽ được công nhận và trở thành tập quán thương mại khi thoả mãn những yêu cầu sau: - Là một thói quen phổ biến được nhiều nước áp dụng và áp dụng thường xuyên. - Là thói quen độc nhất về từng vấn đề và ở từng địa phương. - Là một thói quen có nội dung rõ ràng mà người ta có thể dựa vào đó để xác định quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Tập quán thương mại quốc tế sẽ được áp dụng cho hợp đồng xuất nhập khẩu trong các trường hợp sau: - Khi chính hợp đồng xuất nhập khẩu quy định áp dụng tập quán đó - Khi các điều ước quốc tế có liên quan quy định. - Khi luật quốc gia do các bên thoả thuận lựa chọn, không có hoặc có không đầy đủ còn thiếm khuyết về vấn đề tranh chấp vấn đề cần được điều chỉnh. Khi áp dụng tập quán quốc tế thường có nhiều loại. Cho nên để tránh sự nhầm lẫn hoặc hiểu không thống nhất về một tập quán nào đó, nhất thiết hợp đồng phải ghi rõ sẽ áp dụng tập quán nào. Ngoài ra khi áp dụng tập quán thương mại quốc tế các bên đương sự cần phải chứng minh nội dung của tập quán đó. Nội dung có thể lấy trong các văn bản của phòng thương mại, sách báo, bản án v.v... Trong số các tập quán thương mại quốc tế có vai trò quan trọng trong ngoại thương phải kể đến Incoterms 1990 của phòng thương mại quốc tế soạn thảo. Có thể nói Incoterms 1990 là công cụ trợ giúp đắc lực quan trọng có tính chất chung nhất cho giao dịch quốc tế khi mà của luật pháp các nước còn quy định khác nhau về kinh doanh thương mại. Tuy nhiên khi áp dụng Incoterms cần nắm vững các nguyên tắc sau: Thứ nhất: Incoterms không có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể của hợp đồng xuất nhập khẩu. Nó chí có giá trị bổ sung cho sự thiếu chính xác trong hợp đồng. Do đó nó chỉ áp dụng khi không có quy định cụ thể của hợp đồng về một vấn đề nào đó. Điều này được khẳng định ở điều 5 của Incoterms. "Mọi quy định trong quy tắc phải nhường bước cho các quy định riêng được các bên đưa vào hợp đồng". Thứ hai: Phải ghi rõ là phải hiểu theo Incoterms nào. Ví dụ: giao hàng theo điều kiện FOB (CIF) Incoterms 1990, để tránh hiểu nhầm với các tập quán khác. Thứ ba: Incoterms không giải quyết tất cả các vấn đề mà chỉ giải quyết bốn vấn đề sau: - Chuyển rủi ro vào thời điểm nào - Ai lo liệu chứng từ hải quan - Ai trả chi phí bảo hiểm - Ai chịu trách nhiệm về phí vận tải. Ngoài ba nguồn luật nói trên, thực tiễn buôn bán quốc tế (phương Tây) còn thừa nhận cả án lệ và điều luật chung, các hợp đồng mẫu chuyên nghiệp làm nguồn luật điều chỉnh hợp đồng xuất nhập khẩu. 4) Án lệ Án lệ cũng được xem là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán ngoại thương. án lệ được áp dụng ở hầu hết các nước phương Tây. Thông qua các vụ án kinh tế mà đặc biệt là vụ án kinh tế về mua bán ngoại thương đã được xét xử để người ta có thể áp dụng cho các trường hợp tương tự tiếp theo xảy ra. Án lệ được áp dụng trong các trường hợp sau: - Khi các bên thoả thuận trong hợp đồng là sẽ áp dụng án lệ. Tuy nhiên các bên phải quy định cụ thể trong những trường hợp cụ thể trong hợp đồng. - Khi mà các bên thảo thuận điều khoản trọng tài trong việc lựa chọn trung tâm trọng tài trong việc lựa chọn trung tâm trọng tài mà trung tâm trọng tài có áp dụng án lệ vào xét xử thì ác bên đương sự phải áp dụng. Ở Việt Nam nói chung là chưa áp dụng án lệ vào các loại hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán ngoại thương nói riêng. Và cũng không có một văn bản pháp luật nào quy định án lệ là nguồn luật điều chỉnh các hành vi vi phạm. 5) Luật quốc gia Luật quốc gia trở thành nguồn luật điều chỉnh hợp đồng xuất nhập khẩu khi các chủ thể của hợp đồng xuất nhập khẩu thoả thuận chọn luật của một nước nào đó. Nhằm bổ sung những thiếu sót của hợp đồng. Luật quốc gia của một nước sẽ được lựa chọn khi: - Các bên thoả thuận trong hợp đồng. Có nghĩa là ngay từ lúc đàm phán ký kết hợp đồng, các bên đã thoả thuận, đưa vào hợp đồng điều khoản luật áp dụng ví dụ "mọi vấn đề không được quy định hoặc quy định không đầy đủ thì áp dụng theo luật Việt Nam". - Các bên thoả thuận lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng sau khi hợp đồng xuất nhập khẩu đã được ký kết. Trường hợp này được áp dụng cho xuất nhập khẩu được ký kết trước đó. Vì lý do nào đó (khách quan hoặc chủ quan) không có điều khoản luật áp dụng. Mặc dù lúc này thường là tranh chấp đã xảy ra nhưng các bên vẫn có thể đàm phán với nhau để lựa chọn luật nào đó để giải quyết. - Khi luật đó đã được quy định trong các điều ước quốc tế hữu quan. Có nghĩa là nếu trong điều ước quốc tế mà quốc gia mình tham gia ký kết (hoặc thừa nhận) có quy định điều khoản về luật áp dụng cho các hợp đồng mua bán quốc tế thì luật đó đương nhiên được áp dụng. Các chủ thể hợp đồng xuất nhập khẩu không phải đàm phán về vấn đề đó nữa. Luật quốc gia được lựa chọn là do các bên của hợp đồng xuất nhập khẩu tự thoả thuận và quyết định, nó có thể là luật nước người bán, nước người mua, nước thứ ba luật nói ký kết, nói thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu... Việc lựa chọn luật nước nào phụ thuộc vào sự đàm phán vào thế vào lực "của mỗi bên. Và đặc biệt là sự hiểu biết về luật cần lựa chọn. Vì khi đàm phán chọn luật áp dụng bao giờ các bên cũng muốn chọn luật nước mình. Nếu không đạt được việc lựa chọn của một trong hai nước thì có thể chọn luật nước thứ ba. Tuy nhiên cần phải am hiểu sâu sắc về luật cần chọn. Khi luật quốc gia là nguồn luật điều chỉnh không phải là toàn bộ hệ thống luật quốc gia được đem áp dụng mà chỉ áp dụng những ngành luật có liên quan tới hoạt động xuất nhập khẩu. Bên cạnh những bộ luật còn có các văn bản dưới luật áp dụng cho mua bán hàng hoá quốc tế. Mà những văn bản dưới luật này nó thường hay thay đổi. Vì thế cần phải ghi rõ ràng hợp đồng rằng "Hợp đồng có hiệu lực điều chỉnh từ khi nào thì do các quy phạm pháp luật thời điểm đó điều chỉnh". III. KÝ KẾT HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU. 1) Điều kiện để hợp đồng xuất nhập khẩu có hiệu lực a) Chủ thể phải hợp pháp: Đối với nước ngoài, chủ thể của hợp đồng xuất nhập khẩu có thể là thể nhân hoặc pháp nhân. Các chủ thể này phải có năng lực pháp lý và năng lực hành vi. Năng lực hành vi của thể nhân nước ngoài về nguyên tắc chung là do luật quốc tịch nước ngoài quy định. Muốn biết xem thương nhân nước ngoài có năng lực hành vi hay không thì phải biết người đó thuộc quốc tịch nào rồi căn cứ vào luật nước đó để xem xét năng lực hành vi. Tương tự một tổ chức nước ngoài có là một pháp nhân hay không, cũng phải biết tổ chức đó thuộc nước nào, rồi căn cứ vào luật nước đó xem xét có đủ tư cách pháp nhân hay không. Đối với Việt Nam chủ thể cũng có thể là thể nhân hoặc pháp nhân: * Thể nhân Việt Nam ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu phải có năng lực hành vi và năng lực pháp lý. Tuổi của năng lực hành vi là 18 tuổi. Điều 20 Bộ luật dân sự qui định "Người có đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên" và điều 21 qui định "Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp qui định tại điều 24 và 25 của Bộ luật này". Ở Việt Nam chủ thể hợp đồng mua bán là thương nhân, mà "Thương nhân gồm cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên" (điều 5 khoản 6 Luật Thương mại). Điều 17 qui định điều kiện để trở thành thương nhân "Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở nên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều kiện để kinh doanh thương mại theo qui định của pháp luật nếu có yêu cầu hoạt động thương mại thì được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân. Theo điều 18 Luật Thương mại, những người không được công nhận: "- Người không có năng lực hành vi dân sự, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. - Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đang phải chấp hành hình phạt tù. - Người đang trong thời gian bị toà án tước quyền hành nghề vì phạm các tội buôn lậu, đầu cơ, buôn bán hàng cấm, làm hàng giả, buôn bán hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và các tội khác theo qui định của pháp luật. * Tổ chức Việt Nam có tư cách pháp nhân phải thoả mãn các điều kiện sau (Điều 94 Bộ luật dân sự): "- Là tổ chức được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận. - Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. - Có tài sản độc lập với cá nhân hoặc tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. - Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập" Song không phải mọi thể nhân và pháp nhân Việt Nam được thừa nhận là chủ thể của hợp đồng kinh tế mà chủ thể này phải có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ thương mại cấp (Nghị định 33/CP của Chính phủ ngày 19/4/1994 về quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu). Điều kiện để được cấp giấy phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu được qui định tại điều 6 của Nghị định 33/CP. Đối với doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu thì: - Thành lập theo đúng luật pháp và cần kinh doanh tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành. - Doanh nghiệp phải có mức vốn lưu động tối thiểu tính bằng tiền việt nam tương đương 200000 USD tại thời điểm đăng ký kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu. Riêng đối với các doanh nghiệp kinh doanh nghiệp kinh doanh những mặt hàng cần khuyến khích xuất khẩumà không đòi hỏi nhiều vốn, mức lưu động nêu trên được quyết định tương đương 100000U S D. - Hoạt động theo đúng ngành hàng đã đăng ký khi thành lập doanh nghiệp. - Có đội ngũ cán bộ đủ trình độ quy định, khuyến khích và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương. Đối với doanh nghiệp sản xuất : Các doanh nghiệp được thành lập theo đúng luật pháp, cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu ổn định và có thị trường tiêu thụ ở nước ngoài, có đội ngũ cán bộ đủ trình độ kinh doanh, khuyến khích thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương, có quyền trực tiếp xuất khẩu hàng hoá do mình sản xuất và nhập khẩu vật tư nguyên liệu cần thiết cho sản xuất của chính doanh nghiệp. Trường hợp khách hàng nước ngoài thanh toán bằng hàng (đổi hàng), phải được Bộ thương mại xem xét giải quyết hợp lý cho từng trường hợp cụ thể. b) Hình thức hợp đồng xuất nhập khẩu phải hợp pháp. Về vấn đề hình thức hợp đồng nói chung chưa có sự thống nhất giữa các nước. Hầu hết các nước phương Tây như Anh, Pháp v.v... cho rằng hình thức có thể được ký kết bằng miệng, văn bản hay bằng bất cứ hình thức nào khác tuỳ các bên thoả thuận. Công ước Viên 1980 tại điều 11 quy định rằng: "Hợp đồng mua bán không cần phải được ký kết bằng văn hoặc xác nhận bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức của hợp đồng". Còn đối với Việt Nam và một số nước khác quy định rằng hợp đồng xuất nhập khẩu phải được ký kết bằng văn bản thì mới có hiệu lực. Chính vì thế mà điều 96 của công ước Viên 1980 cho phép các quốc gia bảo lưu điều 11 như luật pháp các nước quy định hình thức văn bản là bắt buộc. Ở Việt Nam hợp đồng xuất nhập khẩu phải được ký kết bằng văn bản mới có hiệu lực. Tại điều 81 khoản 4 Luật Thương mại qui định rằng "Hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài phải được lập thành văn bản" vì thế các doanh nghiệp Việt Nam phải tuyệt đối tuân thủ. Ngoài ra "Đối với các hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật qui định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các qui định đó: điện báo, telex, fax, thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác cũng được coi là hình thức văn bản" (điều 49 khoản 3 Luật Thương mại). c) Nội dung của hợp đồng xuất nhập khẩu phải hợp pháp. Một hợp đồng xuất nhập khẩu để có hiệu lực phải có nội dung hợp pháp. Tính hợp pháp của nó được thể hiện ở các vấn đề sau: Thứ nhất: hợp đồng xuất nhập khẩu phải có các điều khoản chủ yếu. Các điều khoản này được quy định tại Điều 50 Luật Thương mại gồm có tên hàng; số lượng; quy cách phẩm chất; thời hạn, địa điểm giao hàng; giá cả và điều kiện giao hàng; phương thức thanh toán và chứng từ thanh toán. Thứ hai: Ngoài những điều khoản chủ yếu trên bất kỳ các điều khoản nào khác được các bên đưa vào hợp đồng xuất nhập khẩu gọi là điều khoản thông thường. Các điều khoản này được quy định như bao bì; giám định, mẫu cách, chế tài, tranh chấp, bảo hành, hiệu lực hợp đồng v.v... Tuy nhiên phải xem xét rằng đối tượng của hợp đồng xuất nhập khẩu có thuộc diện cấm xuất cấm nhập không. d) Hợp đồng xuất nhập khẩu được ký kết trên cơ sở tự nguyện. Nguyên tắc tự nguyện cho phép các bên được hoàn tự do thoả thuận về một vấn đề có liên quan tới quyền và nghĩa vụ của các bên trong khuôn khổ pháp luật. Nguyên tắc tự nguyện loại bỏ tất cả các hợp đồng được ký kết trên cơ sở dùng bạo lực, do bị đe doạ, bị lừa đảo hoặc do sự nhầm lẫn. 2) Thủ tục ký kết a) Người ký kết Người đứng tên tham gia ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu phải là người đúng chức năng thẩm quyền phù hợp với quy định của pháp luật. Nếu là hợp đồng được ký kết giữa các cá nhân, doanh nghiệp tư nhân với nhau thì thẩm quyền ký kết là người chủ doanh nghiệp đó. Họ là cá nhân có đăng ký kinh doanh (Việt Nam) hoặc có tên trong sổ đăng ký thương nhân (các nước phương Tây) hoặc những người được chủ doanh nghiệp, cá nhân đăng ký kinh doanh uỷ quyền. Nếu là hợp đồng được ký kết giữa các pháp nhân luật pháp sẽ quy định ai là người có quyền ký kết hợp đồng. Thông thường là những người đại diện cho công ty như: Tổng giám đốc, giám đốc, chủ tịch hãng tập đoàn. Những người này là đại diện theo luật định. Ngoài ra còn có những người đại diện theo luật định uỷ quyền. Việc uỷ quyền được thực hiện trên giấy uỷ quyền hoặc hợp đồng uỷ thác (việc này rất phổ biến trong ngoại thương). Những người được uỷ quyền, nếu vượt qua phạm vi được uỷ quyền thì hợp đồng xuất nhập khẩu sẽ không có giá trị. b) Trình tự ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu. Có hai hình thức ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu: - Ký kết trực tiếp: Các bên của hợp đồng xuất nhập khẩu trực tiếp gặp gỡ nhau cùng đàm phàn thoả thuận. Nếu các bên thống nhất các vấn đề nêu ra thì cùng ký vào hợp đồng. Hợp đồng được coi là ký kết từ lúc các bên cùng ký vào hợp đồng đó. Tại điều 55 Luật Thương mại qui định "Hợp đồng mua bán hàng hoá được coi là ký kết kể từ thời điểm các bên có mặt ký vào hợp đồng" - Ký kết gián tiếp: Khi các bên ở xa nhau không đàm p._.hán trực tiếp được mà hợp đồng được ký kết bằng cách gửi trao đổi đề nghị ký kết hợp đồng và chấp nhận ký kết hợp đồng: - Giai đoạn đề nghị ký kết hợp đồng (chào hàng) người đề nghị phải tuân thủ pháp luật về điều kiện hiệu lực của chào hàng. Ở Việt Nam Điều 51 Luật Thương mại quy định rằng: Chào hàng là đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá trong một thời hạn nhất định được chuyển cho một hay nhiều người xác định và phải có nội dung chủ yếu của hợp đồng. Tuân thủ thời hạn hiệu lực và điều kiện để tuyên bố đề nghị ký kết hợp đồng có hiệu lực. Thời hạn hiệu lực hợp đồng của bên chào hàng bắt đầu từ thời điểm chào hàng được chuyển đi cho đến được chào hàng đến hết thời hạn chào hàng. Trong trường hợp không xác định thời hạn chấp nhận chào hàng thì thời hạn có hiệu lực của chào hàng tuỳ thuộc luật pháp các nước. ở Việt Nam là 30 ngày kể từ ngày chào hàng được chuyển đi cho bên được chào hàng (điều 53 khoản 1 Luật Thương mại). Theo điều 15 khoản 1 Công ước Viên 1980 thì "Chào hàng có hiệu lực khi nó tới tay người được chào hàng". Tuy nhiên chào hàng cũng có thể bị huỷ bỏ, vấn đề này được qui định tại điều 15 Công ước Viên "Chào hàng dù là loại chào hàng cố định vẫn có thể bị huỷ nếu như thông báo về việc huỷ chào hàng đến người được chào hàng trước hoặc cùng lúc với chào hàng", ngoài ra chào hàng cũng có thể bị mất hiệu lực khi: Người chào hàng đưa ra hoàn giá; thời hạn có hiệu lực qui định trong chào hàng kết thúc; trường hợp bất khả kháng như thiên tai, lệnh cấm của Chính phủ. - Giai đoạn chấp nhận chào hàng: pháp luật đa số của các nước quy định rằng: Hợp đồng được coi là ký kết khi đề nghị ký kết hợp đồng được chấp nhận vô điều kiện. Điều 55 Luật Thương mại Việt Nam quy định rằng: "Trong trường hợp các bên không cùng có mặt để ký hợp đồng, hợp đồng mua bán hàng hoá được coi là ký kết từ thời điểm bên chào hàng nhận được thông báo chấp nhận toàn bộ các điều kiện đã ghi trong chào hàng trong thời hạn trách nhiệm của người chào hàng". Vấn đề chào hàng có hiệu lực khi nào là rất quan trọng tại điều 18 khoản 2 của Công ước Viên 1980 thì "Chấp nhận chào hàng có hiệu lực từ khi người chào hàng nhận được chấp thuận. Chấp nhận chào hàng không phát sinh hiệu lực nếu sự chấp thuận ấy không được gửi tới người chào hàng trong thời hạn mà người này đã qui định trong chào hàng...". Chấp nhận chào hàng cũng có thể được huỷ bỏ và nó được qui định tại điều 22 Công ước Viên "Chấp nhận chào hàng có thể bị huỷ bỏ nếu thông báo về việc huỷ chào hàng tới tay người được chào hàng trước hoặc cùng một lúc khi chấp nhận có hiệu lực". Nếu có sự sửa sang, sửa đổi chào hàng thì coi như đã từ chối, và được coi là ký kết khi người chào hàng chấp nhận các sửa đổi này. Công ước Viên 1980 quy định ký kết hợp đồng là ngày đề nghị ký kết hợp đồng được chấp nhận vô điều kiện và nói ký kết là nói nhận được chấp nhận vô điều kiện. 3) Các điều khoản của hợp đồng xuất nhập khẩu. a) Những điều khoản liên quan tới đối tượng Về tên hàng. Tên hàng thể hiện qua ngôn ngữ tiếng Anh là thông dụng nên hai bên cần ghi rõ tên thương mại, tên khoa học và tên thông dụng của nó để tránh sự hiểu nhầm. Về quy cách phẩm chất. Đây là khâu yếu nhất của hợp đồng xuất nhập khẩu, nó phải bảo đảm tính dự định về phẩm chất qua từng thời gian và từng chuyến hàng xuất nhập. Có rất nhiều cách xác định phẩm chất (mẫu hàng, hàm lượng, nhãn hiệu, trọng lượng tự nhiên, thông số kỹ thuật v.v...) Mỗi cách xác định đó khi không tuân thủ sẽ gánh chịu các hậu quả pháp lý khác nhau. - Về số lượng: Đây là điều khoản quan trọng góp phần xác định rõ đối tượng mua bán và liên quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ của người mua và người bán. Do vậy việc lựa chọn đơn vị đo lường nào lại căn cứ vào tính chất của bản thân hàng hoá, vừa phải căn cứ vào tập quán buôn bán quốc tế về đo lường mặt hàng nào đó. Về số lượng khi lập hợp đồng cần thoả thuận các vấn đề cơ bản sau: + Lựa chọn đơn vị đo lường. Tuỳ theo tính chất loại hàng hoá mà sử dụng các đơn vị đo lường như kg, tấn..., lít, m3, cái, chiếc, hộp, chai. + Về quy tắc xác định khối lượng, có thể được xác định cố định, hoặc trong một giới hạn quy định. + Cần phải xem xét hệ thống đo lường ở các quốc gia khác nhau để tránh có sự hiểu lầm. Ví dụ 1 thước theo hệ Trung Quốc bằng 40cm; còn theo hệ đo quốc tế là 100cm. b) Điều khoản liên quan tới giá cả và thanh toán. - Về điều khoản giá cả cần phải ghi rõ đơn vị tính giá cả (căn cứ vào tính chất hàng hoá và tập quán buôn bán mặt hàng đó trên thị trường quốc tế). + Giá cơ sở: Căn cứ vào chi phí chuyên chở, phí BH phí lưu kho. Thường qua các thuật ngữ FOB, CIF, FAS kèm theo địa danh giao hàng. + Đồng tiền tính giá: Có thể là đồng tiền của nước xuất khẩu, nước nhập khẩu hoặc nước thứ 3. + Phương pháp tính giá: được hai bên thoả thuận vào thời diểm ký kết hợp đồng hoặc trong thời gian hợp đồng đang có hiệu lực, hoặc thời diểm thực hiện thanh toán. Có thể tính theo các loại giá sau: giá cố định, giá di động, giá trượt, giá quy định sau: - Điều khoản thanh toán + Về phương thức thanh toán. Trong mua bán quốc tế thường áp dụng các phương thức thanh toán như: Thanh toán bằng đổi hàng hoá, thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán theo từng phần, thanh toán ứng trước v.v... + Hình thức thanh toán, có thể qua hình thức nhờ thu, thư tín dụng, séc và thanh toán hồi phiếu. Nhưng phần lớn thanh toán HĐTMQT thường qua hình thức nhờ thu và thư tín dụng. + Đồng tiền thanh toán có thể là đồng tiền của nước xuất khẩu hoặc nước nhập khẩu hoặc nước thứ ba. Đồng tiền thanh toán có thể không trùng với đồng tiền tính giá, nếu vạy trong hợp đồng phải quy định tỷ giá chuyển đổi để thuận lợi cho việc thanh toán. + Thời hạn thanh toán có thể được xác định cụ thể hoặc việc thanh toán được tiến hành trong một số ngày nhất định. c) Điều khoản về thời hạn, địa điểm giao hàng: - Về thời hạn giao hàng có thể được qui định thời gian giao hàng cụ thể hoặc giao hàng trong một khoảng thời gian nhất định. - Về điều kiện giao hàng nhằm qui định rõ hàng được giao ở đâu, ai thuê tàu, ai mua bảo hiểm. Điều kiện này có thể được qui định rõ trong hợp đồng hoặc có thể được hai bên dẫn chiếu đến các điều kiện thương mại quốc tế nha FOB, CIF... Incoterms 1990. d) Các điều khoản khác của hợp đồng. Ngoài các điều khoản chủ yếu được nêu trên trong hợp đồng xuất nhập khẩu còn có các điều khoản khác bao gồm: - Điều khoản về đóng gói bao bì và ký mã hiệu. Để đảm bảo cho lộ trình vận chuyển và bảo quản hàng hoá, mặt khác nâng cao tính hấp dẫn cho người tiêu dùng. Hợp đồng thường có điều khoản quy định về đóng gói bao bì. Bên cạnh đó để thuận tiện cho việc giao nhận bốc dỡ, bảo quản hợp đồng còn quy định về ký mã hiệu của hàng hoá, nó có thể bằng chữ hoặc bằng số. - Điều khoản về bất khả kháng. Những trường hợp gây thiệt hại nhưng không do lỗi của các bên ảnh hưởng tới hậu quả không thực hiện được hợp đồng, làm chậm thời gian thực hiện hợp đồng gây thiệt hại về số lượng hoặc chất lượng hàng hoá. Vì thế trong hợp đồng xuất nhập khẩu thường ghi điều khoản bất khả kháng như: hoả hoạn, lụt lội, thiên tai, biển đóng băng, đóng cửa các eo biển, đi trệch đường, do các hoạt động quân sự gây ra, chiến tranh, phong toả hoặc các biện pháp khác của chính phủ ngăn cấm. - Điều khoản về bảo hành, nhằm xác định về khối lượng hàng hoá phải bảo hành, thời hạn bảo hành, nghĩa vụ của người bán trong từng trường hợp phát hiện có khuyết tật hoặc không phù hợp thì người bán phải thực hiện nghĩa vụ gì. Ví dụ như bồi hoàn chi phí cho người mua. Trường hợp không khắc phục được thì người mua có quyền gì. Ví dụ như từ chối hợp đồng, hoặc yêu cầu giảm giá, đổi thiết bị mới. - Điều khoản khiếu nại. Đây là những yêu sách của người mua đưa ra đối với người bán. Vì vậy điều khoản này phải quy định rõ trình tự khiếu nại, thời hạn có thể nộp đơn khiếu nại; quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan tới việc phát đơn khiếu nại; các phương pháp điều chỉnh khiếu nại (bù hàng thiếu, giao thêm, trả lại hàng và hoàn tiền cho người mua, sửa chữa khuyết tật và người bán chịu phí tổn, đổi hàng khác). - Điều khoản về thời gian địa điểm phương tiện giao hàng. Trong hợp đồng thường phải quy định các nguyên tắc giao nhận hàng cụ thể như sau: + Thời gian giao nhận hàng, về cả số lượng và chất lượng nhằm người mua kiểm tra cả số lượng lẫn chất lượng. Thông thường thời gian đó tiếp nhận chất lượng thường lâu hơn số lượng. + Địa điểm giao hàng phải được quy định cụ thể là sẽ giao ở đâu, tại kho hay công ty của người bán; cảng giao hàng đã thoả thuận; ga gửi, sân bay, kho người mua, v.v... + Phương tiện giao hàng: Có thể thoả thuận rõ ràng về phương tiện chuyên chở đến các địa điểm giao nhận hàng. Ngoài ra còn phải nêu rõ: cảng bốc hàng, dỡ hàng, địa địa điểm phải qua, thể thức hoá đơn, vận đơn; Trình tự thông báo xảy đến cảng bốc, dỡ hàng. - Điều khoản về trách nhiệm lập hồ sơ chứng từ cho lô hàng xuất nhập khẩu. Thông thường bên bán có nghĩa vụ chuẩn bị chứng từ hoàn hảo bao gồm: + Bộ hoá đơn thương mại. + Tờ khai hải quan. + Giấy chứng nhận đóng gói, bao bì + Giấy chứng nhận kiểm dịch + Giấy chứng nhận nguồn gốc xuất xứ của lô hàng + Giấy chứng nhận sát trùng (nếu bên mua yêu cầu) + Bộ vận đơn đường biển Ngoài các giấy tờ trên, tuỳ theo loại hàng xuất khẩu mà phải xin thêm giấy tờ cần thiết khác. - Điều khoản trọng tài: Theo điều khoản này của hợp đồng quy định thể thức giải quyết tranh chấp có thể phát sinh giữa các bên mà không thể điều chỉnh bằng các biện pháp tự hoà giải được. Các bên có thể chọn trọng tài thương mại quốc tế của một nước nào đó để giải quyết. Thời hạn đưa tranh ra trọng tài được các bên thoả thuận quy định rõ trong hợp đồng. Tuy nhiên việc lựa chọn trọng tài phải cân nhắc tới thời gian, chi phí thủ tục tố tụng của trung tâm trọng tài đó nhằm mang lại hiệu quả cho mỗi bên nhằm tạo nên sự đầy đủ của nội dung hợp đồng đảm bảo sự thực hiện hợp đồng của các bên. IV. THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU 1) Nguyên tắc thực hiện Hợp đồng xuất nhập khẩu sau khi ký kết các bên phải thực hiện theo những thoả thuận được ký kết trong hợp đồng. Việc thực hiện phải tuân thủ các nguyên tắc nhất định. Nó là tư tưởng chỉ đạo có tính chất bắt buộc các bên phải tuân theo trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu đã ký kết. Bao gồm các nguyên tắc sau: - Nguyên tắc thực hiện hiện thực là thực hiện đúng về mặt đối tượng, không được thay thế việc thực hiện đó bằng việc đưa một khoản tiền nhất định hoặc dưới một hình thức khác. - Nguyên tắc thực hiện đúng: tức là thực hiện tất cả các điều khoản đã cam kết. Tất cả các quy định trong hợp đồng đều phải được thực hiện đúng và đầy đủ như số lượng phải đủ chất lượng phải phù hợp với quy định, đúng thời gian, phương thức thanh toán, giao hàng v.v... - Nguyên tắc thực hiện trên tinh thần hợp tác và cùng có lợi. Nguyên tắc này tạo nên sự quán triệt trong suốt quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng, cũng như giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng xuất nhập khẩu. Các bên có nghĩa vụ hợp tác chặt chẽ, thường xuyên theo dõi và giúp đỡ lẫn nhau để thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh cam kết, cùng nhau khắc phục những khó khăn trong quá trình thực hiện hợp đồng. Ngay cả khi có tranh chấp xảy ra các bên phải cùng nhau giải quyết các vấn đề phát sinh. 2) Thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu Sau khi ký kết hợp đồng, các bên phải tổ chức thực hiện hợp đồng đã ký kết. Căn cứ vào các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng để tiến hành sắp xếp công việc phải làm. Việc thực hiện cũng phải tuân thủ theo pháp luật bao gồm các bước sau: a) Thực hiệp hợp đồng xuất khẩu: a1. Xin giấy phép xuất khẩu Đây là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu khác của quá trình xuất khẩu. Người xuất khẩu phải thực hiện nghĩa vụ xin giấy phép xuất khẩu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để hàng được xuất khẩu. Ở Việt Nam theo Nghị định số 89/CP ngày 15/12/1995 qui định bãi bỏ thủ tục Bộ Thương mại cấp giấy phép xuất nhập khẩu cho từng chuyến hàng (lô hàng). Kể từ ngày 1/2/1996 trở đi trường hợp sau đây phải xin giấy phép xuất khẩu chuyến đi hàng xuất nhập khẩu mà Nhà nước quản lý bằng hạn ngạch (theo quyết định số 11-1998/QĐ-TTg ngày 23/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ thì còn hai mặt hàng được Nhà nước quản lý bằng hạn ngạch đó là gạo, hàng dệt may xuất khẩu vào EU, Canada, Nauy, Thổ Nhĩ Kỳ. Việc xin giấy phép xuất khẩu phải lập tờ khai (6 bản) trên mẫu do Bộ thương mại và du lịch phát hành. Ngoài ra cần xuất trình: Hợp đồng hoặc những văn bản có giá trị như hợp đồng; thư tín dụng (L/C) nếu thanh toán bằng thư tín dụng; phiếu lạm ngạch đối với hàng quản lý bằng hạn ngạch (Điều 2 quy định số 297/TMDL-XNK ngày 9-4-1992 của Bộ thương mại và Du lịch). Những mặt hàng xuất với mục đích khác như nhận uỷ thác xuất khẩu hoặc dự hội chợ triển lãm... thì ngoài 6 tờ khai còn có văn bản cho phép của Bộ Thương mại và Du lịch, hợp đồng uỷ thác (uỷ thác xuất khẩu); Danh mục và số lượng hàng được Bộ Thương mại và Du lịch xác nhận (hàng dự hội chợ, triển lãm). a2. Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu Theo yêu cầu của người nhập khẩu về hàng hoá như quy cách, số lượng, chủng loại thì người xuất khẩu phải tổ chức sản xuất hoặc thu gom hàng hoá để tập trung xuất khẩu. Đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thì việc chuẩn bị hàng hoá thường gồm các công việc sau: - Thu gom tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu thông qua các hợp đồng kinh tế như hợp đồng mua đứt bán đoạn, hợp đồng gia công, hợp đồng đổi hàng, hợp đồng đại lý thu mua, hợp đồng nhận uỷ thác xuất khẩu. Tuân thủ theo pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 25-9-1989. - Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu nhằm bảo đảm phẩm chất chất lượng, thuận lợi cho việc bốc xếp di chuyển, giao nhận. - Có ký mã hiệu hàng hoá xuất khẩu bằng số hoặc bằng chữ, bằng hình vẽ để nhận biết dễ dàng. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì phải tiến hành lập kế hoạch, tổ chức sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng và số lượng để tiến hành thực hiện các công việc như doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. a3. Kiểm nghiệm chất lượng hàng hoá. Hàng hoá xuất khẩu đảm bảo được yêu cầu về chất lượng, số lượng và các yêu cầu khác theo như thoả thuận trong hợp đồng. Vì vậy trước khi xuất khẩu người xuất khẩu phải tiến hành kiểm tra hàng hoá: kiểm nghiệm về số lượng chất lượng bao bì; hoặc là kiểm dịch đối với động thực vật. Việc kiểm tra có thể do khách hàng, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (ví dụ Vinacontrol...) hoặc tổ chức quốc tế nào đó thực hiện nhằm đảm bảo quyền lợi cho công ty nhập khẩu và đảm bảo uy tín công ty xuất khẩu. Đồng thời ngăn chặn hậu quả xấu. Những mặt hàng bắt buộc phải kiểm tra theo quy định của pháp luật trong nước hoặc quốc tế thì phải tiến hành kiểm tra. a4. Thuê tàu Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu việc thuê tàu chở hàng dựa vào các điều khoản cụ thể được quy định trong hợp đồng. Người xuất khẩu có phải thuê tàu hàng hay không tuỳ thuộc vào thoả thuận trong hợp đồng, tuỳ thuộc vào điều kiện giao hàng. Ví dụ nếu thoả thuận giao hàng theo điều kiện CFR, CIF, CIP... Incoterms 1990 thì người xuất khẩu phải thuê tàu. Người xuất khẩu phải tiến hành các thủ tục với các hãng tàu đi thuê tàu chuyên chở hàng hoá tới nơi quy định theo quy định trong hợp đồng xuất nhập khẩu. a5. Bảo hiểm. Người xuất khẩu phải tiến hành bảo hiểm hàng hoá nếu quy định trong hợp đồng hoặc theo điều kiện giao hàng. Ví dụ nếu là CIF, CIP thì người xuất khẩu phải tiến hành bảo hiểm hàng hoá. Nếu người xuất khẩu phải bảo hiểm hàng hoá thì phải làm các thủ tục về bảo hiểm với các công ty bảo hiểm để bảo hiểm hàng hoá theo quy định. Việc mua bảo hiểm đối với các đơn vị kinh doanh ngoại thương ở Việt Nam thường được mua bảo hiểm tại công ty bảo hiểm Việt Nam. Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm: (Bản quy tắc chung về bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển năm 1995 do Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam ban hành 12-2-1994). - Bảo hiểm mọi rủi ro (Điều kiện A) - Bảo hiểm có bồi thường tổn thất riêng (Điều kiện B) - Bảo hiểm miễn bồi thường tổn thất riêng (Điều kiện C) Ngoài ra còn có một số điều kiện bảo hiểm phụ và một số điều kiện bảo hiểm đặc biệt như bảo hiểm chiến tranh, bảo hiểm đình công, bạo động và nổi loạn a6. Làm thủ tục hải quan Đây là yêu cầu bắt buộc đối với bất kỳ hàng hoá xuất khẩu nào. Người xuất khẩu phải tuân thủ theo quy định của pháp luật để xuất khẩu hàng hoá. ở Việt Nam nó được quy định tại quyết định của tổng cụ trưởng tổng cục Hải quan về việc phát hành sách và tờ hướng dẫn thủ tục hải quan đối với các loại hình hàng hoá xuất nhập khẩu ngày 10-3-1998. Thủ tục hải quan gồm: - Bộ hồ sơ nộp cho Hải quan. + Tờ khai hàng xuất khẩu: 3 bản chính + Hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc giấy tờ có giá trị như hợp đồng: 1 bản sao + Bảng kê chi tiết hàng (Packing list): 3 bản chính + Giấy giới thiệu của doanh nghiệp: 1 bản chính. Đối với trường hợp sau thì nộp thêm: + Hợp đồng uỷ thác (hàn xuất khẩu uỷ thác): 1 bản sao + Văn bản cho phép xuất khẩu của Bộ Thương mại (hàng thuộc diện có văn bản). + Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu loại 7 chữ do Bộ Thương mại cấp (một lần đầu cho đăng kí): 1 bản sao. + Văn bản cho phép xuất khẩu của Bộ chuyên ngành cấp (hàng thuộc diện quản lý chuyên ngành): 1 bản sao. + Giấy chứng nhận kiểm dịch (hàng nhà nước quy định phải kiểm dịch): 1 bản chính. - Giấy tờ xuất trình. + Văn bản cho phép xuất khẩu của Bộ Thương mại: 1 bản chính đối chiếu với bản sao. + Văn bản cho phép xuất khẩu của Sở chuyên ngành cấp 1 bản chính đối chiếu 1 bản sao. a7: Giao hàng: Giao hàng xuất khẩu được thực hiện tuỳ theo hình thức vận chuyển quốc tế nếu hàng hoá xuất khẩu được giao bằng đường biển thì bên xuất nhập khẩu phải tiến hành các việc sau: Căn cứ vào các chi tiết hàng xuất khẩu để lập bảng "Đăng ký hàng chuyên chở" cho người vận tải để lấy sơ đồ xuất hàng lên tàu. Sau khi hàng đã giao xong các bên gồm Cảng và Tàu lập biên bản tổng kết việc giao nhận hàng và lập sơ đồ đã xếp hàng lên tàu cho người gửi hàng. Thuyền phó sẽ cấp cho người gửi hàng biên lai thuyền phó xác nhận đã được giao. Trên cơ sở biên lai thuyền phó, chủ hàng đổi lấy vận đơn đường biển. a8. Thanh toán: Thanh toán quốc tế là khâu quan trọng trong hoạt động ngoại thương và cũng rất phức tạp. Trong thực tế có rất nhiều phương thức thanh toán được sử dụng, nhưng chủ yếu hiện nay người ta thường dùng phương thức thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) và phương thức nhờ thu. - Thanh toán bằng L/C. Người xuất khẩu đôn đốc người nhập khẩu ở nước ngoài mở L/C đúng hạn và nội dung như hợp đồng quy định. Sau khi nhận được L/C người xuất khẩu phải kiểm tra, so sánh với nội dung ghi trong hợp đồng, nêu rõ chỗ nào chưa phù hợp thì yêu cầu sửa chữa bằng văn bản. Có L/C người xuất khẩu tiến hành những công việc thực hiện hợp đồng. Đến thời hạn giao hàng cùng với việc giao hàng xuất khẩu phải lập bộ chứng từ này phải cẩn thận, tỷ mỷ, chính xác và phù hợp với yêu cầu của L/C về cả nội dung và hình thức. Có nhiều loại thư tín dụng mỗi loại có đặc điểm riêng của nó bao gồm: + L/C có xác nhận + L/C không xác nhận + L/C huỷ ngang + L/C không thể huỷ ngang + L/C tuần hoàn + L/C chia nhỏ + L/C không thể chia nhỏ. - Thanh toán bằng nhờ thu. Nếu hợp đồng xuất khẩu quy định thanh toán bằng nhờ thu thì ngay sau khi giao hàng, bên xuất khẩu phải hoàn thành việc lập chứng từ và phải xuất trình đủ các chứng từ thích hợp như hối phiếu séc và các chứng từ chi trả khác cho ngân hàng để uỷ thác cho ngân hàng để ngân hàng thu tiền hộ. Chứng từ thanh toán phải hợp lệ, chính xác và nhanh chóng giao cho ngân hàng để thu hồi vốn. Bộ chứng từ thanh toán thường sử dụng trong xuất khẩu: - Hoá đơn thương mại (Commercial Invoice) - Vận đơn đường biển (Bill of lading - B/L) - Đóng gói (Packing - List) - Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá. - Chứng từ bảo hiểm - L/C (nếu thanh toán bằng L/C). - Giấy chứng nhận chất lượng và số lượng hàng hoá. - Giấy chứng nhận kiểm dịch và giấy chứng nhận vệ sinh. b) Thực hiện hợp đồng nhập khẩu: b1: Xin giấy phép nhập khẩu: Để đảm bảo chứng từ cho việc nhận hàng người nhập khẩu phải xin giấy phép nhập khẩu. Đây là một biện pháp quan trọng để Nhà nước quản lý nhập khẩu. Tuỳ theo pháp luật của từng nước mà các mặt hàng cần phải xin giấy phép nhập khẩu khác nhau. Việc xin giấy phép nhập khẩu thuộc hàng hoá phải xin giấy phép nhập khẩu thì doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải xuất trình bộ hồ sơ xin giấy phép như xin giấy phép xuất nhập khẩu. b2. Mở thư tín dụng (L/C): Sau khi ký kết hợp đồng nhập khẩu bên nhập khẩu phải viết đơn xin mở thư tín dụng theo qui định của hợp đồng (nếu hợp đồng qui định phương thức thanh toán bằng L/C). Nội dung của L/C cần bảo đảm thống nhất với hợp đồng và lấy hợp đồng là căn cứ để đưa ra quyết định đối với từng vấn đèe trong thư tín dụng. Thời gian mở thư tín dụng cần phải tuân theo hợp đồng. Sau khi bên xuất khẩu nhận được thư tín dụng mà có yêu cầu sửa đổi, nếu đồng ý thì tới ngân hàng làm thủ tục sửa đổi và cuối cùng bên nhập khẩu làm thủ tục ký quỹ mở L/C tại ngân hàng mở thư. Nếu người mua không mở hoặc mở chậm thì người bán không giao hàng và họ được miễn trách nhiệm. b3. Thuê tàu: Nếu bên nhập khẩu ký hợp đồng mua bán theo các điều kiện như EXW, FAS, FOB Incoterms 1990 thì bên nhập khẩu có nghĩa vụ ký hợp đồng vận tải đến các người bán để tiếp nhận và vận chuyển hàng hoá. Bên mua sau khi đã thuê tàu đặt khoang phải có nghĩa vụ thông báo kịp thời cho bên bán tên tàu, thời gian tàu đến để bên bán chuẩn bị hàng bốc lên tàu. Bên mua cần đôn đốc bên bán bốc xếp hàng đúng thời hạn nếu cần thiết bên mua cần cử người đến địa điểm xuất khẩu để kiểm tra, giám sát. b4. Bảo hiểm: Tuỳ theo nội dung hợp đồng mua bán ngoại thương được ký kết giữa các bên xuất nhập khẩu để xác định nghĩa vụ mua bảo hiểm thuộc bên nào. Nếu người mua ký kết hợp đồng với điều kiện giao hàng theo tập quán CIF Incoterms 1990 thì người mua phải mua bảo hiểm, nếu người mua ký hợp đồng thoả thuận theo giá FOB hoặc CFR thì không phải mua bảo hiểm. b5. Thủ tục hải quan: Để hàng hoá được nhập khẩu thì người nhập khẩu phải thực hiện đầy đủ các qui định pháp luật của hải quan. Ở Việt Nam thực hiện thủ tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu được qui định tại quyết định của Tổng cục trưởng tổng cục hải quan ngày 10/3/1998 về hướng dẫn thủ tục hải quan đối với hàng xuất nhập khẩu. Thủ tục hải quan gồm: * Bộ hồ sơ nộp cho hải quan - Tờ khai hàng nhập khẩu: 3 bản chính - Hợp đồng mua bán ngoại thương hoặc các giấy tờ có giá trị như hợp đồng: 1 bản sao - Vận đơn (B/L hoặc Air way Bill): 1 bản coppy hoặc bản sao từ Original. - Bản kê chi tiết hàng (Packing List): 1 bản chính và 2 bản sao. - Hoá đơn thương mại: 1 bản chính - Giấy giới thiệu của doanh nghiệp: 1 bản chính Đối với hàng sau đây thì phải nộp thêm. - Hợp đồng uỷ thác (nếu là nhập khẩu uỷ thác): 1 bản chính - Văn bản cho phép nhập khẩu của Bộ Thương mại (đối với hàng thuộc diện phải có văn bản này): 1 bản sao. - Văn bản cho phép nhập khẩu của Bộ chuyên ngành cấp (Đối với hàng thuộc quản lý chuyên ngành): 1 bản sao. - Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu 7 chữ số do Bộ Thương mại cấp (chỉ nộp một lần đầu khi đăng ký): 1 bản sao. - Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá - C/O (Đối với hàng của nước Việt Nam cho hưởng ưu đãi hoặc hàng thuộc diện tính thuế theo giá tối thiểu): 1 bản chính. - Giấy đăng ký kiểm tra chất lượng (đối với hàng Nhà nước qui định kiểm tra về chất lượng): 1 bản chính. - Giấy đăng ký kiểm định (đối với hàng yêu cầu kiểm dịch) 1 bản chính - Giấy phép nhập khẩu về an toàn lao động (đối với hàng phải kiểm tra an toàn lao động): 1 bản chính. - Đơn xin chuyển tiếp hàng nhập khẩu (đối với hàng thuộc diện được chuyển tiếp về làm thủ tục tại cục HQ tỉnh, thành phố khác): 2 bản chính. - Giấy tờ xuất trình - Văn bản cho phép nhập khẩu của Bộ Thương mại: 1 bản chính đối chiếu với bản sao - Văn bản cho phép xuất nhập khẩu của Bộ chuyên ngành cấp: 1 bản chính để đối chiếu với bản sao. b6. Nhận hàng: Đây là nghĩa vụ của người mua. Trước khi tàu đến, đại lý tàu biển hoặc chủ tàu sẽ gửi cho người nhập khẩu giấy báo tàu đến. Căn cứ vào giấy này người nhận hàng biết thời gian nhận hàng thích hợp và đến đại lý tàu để nhận "lệnh giao hàng". Khi nhận lệnh giao hàng người nhận cần mang theo vận đơn gốc, đại lý tàu sẽ giữ lại vận đơn gốc và trao cho bản lệnh giao hàng cho chủ hàng. Trong thực tế có trường hợp hàng đã đến cảng nhưng chưa nhận được chứng từ để nhận hàng, trong trường hợp này người nhận hàng có thể liên hệ ngân hàng mở L/C xin giấy cam kết của họ, trao cho bên vận tải để nhận hàng kịp thời. b7. Thanh toán: Khi ngân hàng mở thư tín dụng nhận được hối phiếu được ký phát hối phiếu ban và bộ chứng từ giao hàng gửi tới. Ngân hàng sẽ đối chiếu với qui định của thư tín dụng, kiểm tra số bản và nội dung giá trị pháp lý của các loại chứng từ. Nếu không có gì sai sót thì ngân hàng sẽ thanh toán tiền cho bên bán. Đồng thời bên nhập khẩu sẽ giao tiền cho ngân hàng để lấy bộ chứng từ. Nếu bên mua kiểm tra hối phiếu chứng từ mà người bán gửi tới phát hiện thấy không phù hợp thì cần phải có biện pháp xử lý kịp thời như ngày thanh toán, thanh toán phần phù hợp và từ chối phần không phù hợp, đưa ra yêu cầu đòi bên bán bồi thường. V. TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU. Sau khi hợp đồng được ký kết thì các bên phải thực hiện hợp đồng. Nếu các bên chấp hành tốt mọi quy định trong hợp đồng thì quyền lợi được bảo đảm. Tuy nhiên nếu có sự vi phạm sẽ có tác động không nhỏ tới lưu thông của mỗi nước nói riêng và thương mại quốc tế nói chung. Vì vậy sau khi ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu các bên đương sự cần phải lưu ý một số quy định của pháp luật đối với việc thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu. 1) Cấu thành trách nhiệm. Không phải mọi vi phạm đều cấu thành trách nhiệm mà chỉ có những vi phạm được cấu thành với 4 yếu tố sau: Thứ nhất: Người thụ trái (người vi phạm) có hành vi vi phạm hợp đồng, hành vi này nó thể hiện ở việc không thực hiện, hoặc thực hiện không tốt hợp đồng. Tuy nhiên trái chủ phải chứng minh về hành vi trái pháp luật của người thụ trái. Thứ hai: Thụ trái có lỗi, lỗi của người thụ trái khi vi phạm hợp đồng xuất nhập khẩu là lỗi suy đoán. Tức là pháp luật dựa vào nguyên tắc suy đoán lỗi chứ không dựa vào lỗi cố ý hay vô ý. Thứ ba: Trái chú (người bị vi phạm) có thiệt hại về tài sản. Thiệt hại mà trái chủ gánh chịu có thể là thiệt hại về vật chất về tinh thần. Thiệt hại đó phải tính toán được một cách cụ thể. Muốn đòi bồi thường được thì trái chủ phải chứng minh được là họ có thiệt hại thực tế. Thứ tư: Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của người thụ trái với thiệt hại thực tế mà trái chủ gánh chịu. Hành vi trái pháp luật là nguyên nhân dẫn đến hậu quả của sự thiệt hại. Các yếu tố cấu thành trách nhiệm nêu trên được quy định ở hầu hết các văn bản pháp luật ở các nước và các công ước quốc tế. Ở Việt Nam nó được quy định tại điều 230 Luật Thương mại. 2) Miễn trách nhiệm của người thụ trái. Khi vi phạm hợp đồng xuất nhập khẩu người vi phạm sẽ được miễn trách nhiệm nếu họ chứng minh được họ gặp được một trong các căn cứ miễn trách sau: - Lỗi của người bị vi phạm tức là trái chủ vi phạm hợp đồng là do lỗi của người trái chủ gây ra. - Lỗ của người thứ ba: Tức là hợp đồng bị vi phạm là do lỗi của người thứ ba gây ra chứ không phải do người thụ trái. Trong trường hợp này người thứ ba gây ra đó phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên sẽ không phải chịu trách nhiệm nếu gặp phải các trường hợp miễn trách nêu ở phần này: - Gặp trường hợp bất ngờ. Nếu vi phạm mà do các trường hợp bất ngờ gây ra thì thụ trái được miễn trách nhiệm. - Gặp trường hợp bất khả kháng như: không lường trước được, không thể vượt qua được, xảy ra bên ngoài và độc lập với các bên. Ví dụ: tàu đang trên đường hành trình thì gặp bão lớn nhấn chìm toàn bộ con tàu. Trong trường hợp gặp bất khả kháng phải trực tiếp báo cho bên kia bằng văn bản và về khởi đầu và kết thúc sự việc. 3) Chế độ trách nhiệm do vi phạm. Khi vi phạm hợp đồng xuất nhập khẩu người vi phạm phải chịu trách nhiệm trước người bị vi phạm. Trách nhiệm này được thể hiện qua 4 chế tài sau: Một là: Phạt vi phạm hợp đồng. Luật pháp các nước đều cho phép người bị vi phạm có quyền yêu cầu người vi phạm trả một khoản tiền phạt nhất định do vi phạm hợp đồng. Nếu quy định trong hợp đồng hoặc các bên có liên quan quy định mức phạt. Mức phạt được quy định trong hợp đồng có thể là phạt do không thực hiện hợp đồng hoặc do chậm thực hiện hợp đồng. Điều quan trọng là các bên phải thoả thuận, dự kiến trước mức phạt trong hợp đồng xuất nhập khẩu. Ở Việt Nam: căn cứ phạt vi phạm được quy định ở điều 227 Luật Thương mại, mức phạt vi phạm quy định tại điều 228 Luật Thương mại trong đó quy định mức phạt không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm. Hai là chế tài bồi thường thiệt hại. Chế tài này được thực hiện nếu như các bên không ấn định mức phạt trong hợp đồng thì khi có vi phạm hợp đồng, người bị vi phạm có quyền yêu cầu người vi phạm bồi thường thiệt hại. Để áp dụng chế tài này người bị vi phạm phải chứng minh được thiệt hại thực tế của mình gánh chịu. Thiệt hại này gồm cả tổn thất thực sự và nguồn lợi bị bỏ lỡ. Bồi thường thiệt hại được quy định tại điều 74, 75, 76, 77 công ước Viên 1980. Còn ở Việt Nam được quy định tại điều 299 Luật Thương mại "Số tiền bồi thường thiệt hại gồm cả giá trị tổn thất thực tế trực tiếp và khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm hợp đồng gây ra. Số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn giá trị tổn thất và khoản lợi đáng lẽ được hưởng". Ba là: Chế tài thực hiện thực sự Chế tài này được các bên thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng, nhằm vào đối tượng hợp đồng. Chế tài này được áp dụng khi: - Người bán không giao hàng, người mua có quyền mua hàng của người khác và bắt bù khoản chênh lệch. Điều 75 Công ước Viên 1980, khoản 3 Điều 223 Luật Thương mại Việt Nam. - Người bán giáo hàng kém phẩm chất thì người mua có quyền yêu cầu người bán sửa chữa khuyết tật của hàng hoặc thay thế bằng hàng có phẩm chất tốt. Giao thiếu thì phải giao đủ. Luật Thương mại Việt Nam quy định tại khoản 2, 4 điều 223. Bốn là: Chế tài huỷ hợp đồng: Chế tài này được coi là nặng nhất của người bị vi phạm có q._.à giao hàng chưa đủ để đóng vào container, có thể trục trặc về thủ tục hợp đồng về xe vận tải. 2) Giải quyết các tranh chấp Nói chung tranh chấp xảy ra giữa công ty xuất nhập khẩu Hà Tây và phía khách hàng trong hợp đồng mua bán ngoại thương đều được giải quyết triệt để. Trên cơ sở giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp trong kinh doanh, giữ gìn bí mật kinh doanh, tiết kiệm thời gian chi phí, đảm bảo hiệu quả kinh tế. Tôn trọng nhau và hợp tác làm ăn lâu dài. Vì thế công ty luôn chủ động trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh thông qua thương lượng trực tiếp giữa các bên. Do đó, công ty xuất nhập khẩu Hà Tây chưa phải đứng trước Toà án hay Trung tâm Trọng tài với tư cách là nguyên đơn hay bị đơn trong việc giải quyết các tranh chấp về ký kết và thực hiện hợp đồng. Các tranh chấp xảy ra đều được giải quyết thông qua thương lượng. Cách giải quyết tuỳ thuộc vào loại tranh chấp cụ thể * Tranh chấp về chất lượng: Nếu do lỗi của công ty xuất nhập khẩu Hà Tây mà dẫn tới chất lượng bị giảm sút thì có thể có các hình thức giải quyết sau: - Loại trừ khuyết tật hàng: do công ty xuất nhập khẩu Hà Tây tự sửa chữa khuyết tật và chịu chi phí hoặc khách hàng sửa chữa và công ty hoàn lại phí. - Thay thế hàng khuyết bằng hàng mới có chất lượng phù hợp với các quy định của hợp đồng. - Giảm giá hàng * Tranh chấp về số lượng, nếu công ty xuất nhập khẩu nhận thấy mình có lỗi và tuỳ theo yêu cầu của khách hàng mà công ty có thể giải quyết bằng cách giao đủ số hàng thiếu hoặc trả lại số tiền hàng giao thiếu. * Tranh chấp về giao hàng chậm cũng tuỳ theo trường hợp cụ thể nếu do lỗi của mình thì công ty xuất nhập khẩu Hà Tây có thể giải quyết bằng cách nộp phạt hoặc bồi thường thiệt hại. V. ĐÁNH GIÁ VỀ KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY 1) Nhận xét về ký kết hợp đồng xuất khẩu a) Những mặt đã đạt được. Trong quá trình tham gia xuất khẩu công ty xuất nhập khẩu Hà Tây nói chung và cán bộ công nhân viên nói riêng đã gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp như: - Trình độ cán bộ làm công tác xuất khẩu đã được nâng cao, cả về nghiệp vụ ngoại thương lẫn hiểu biết pháp luật. Đặc biệt là sự am hiểu về mặt pháp lý ngày càng vững vàng lớn. Kể cả pháp luật trong nước và quốc tế về ngoại thương. - Quá trình đàm phán, và ký kết diễn ra nhanh chóng thuận lợi. Vì việc đàm phán ký kết các hợp đồng được dựa trên cơ sở đã thoả thuận từ các hợp đồng trước (nếu là bạn hàng đã quan hệ làm ăn với nhau rồi, nếu có thay đổi cũng chỉ là chút xíu, còn đối với bạn hàng mới làm ăn thì đó cũng là cơ sở cho việc đàm phán và kí kết hợp đồng. Nếu là bạn hàng lâu năm có uy tín thì có thể ký kết thông qua Fax, không phải thoả thuận đàm phán vừa tốn kém lại mất thời gian. - Nâng cao sự hiểu biết về các đối tác, về thị trường như: tình hình tài chính, tình hình kinh doanh của đối tác; tình hình nhu cầu của thị trường, về giá cả hàng xuất khẩu... Từ đó mà có thông tin tốt cho việc ký kết hợp đồng xuất khẩu. b) Những mặt còn hạn chế Bên cạnh những mặt đã đạt được trong việc ký kết hợp đồng xuất khẩu công ty cũng có một số hạn chế; - Chưa nghiên cứu đánh giá đúng đối tác. Bởi vì trong những khách hàng đến với công ty thì họ rất nhiều mục đích chứ không chỉ có mình mục đích là ký kết hợp đồng. Nhưng nhiều khi đã không hiểu biết được mục đích của đối tác. Vì thế công ty có những phương sách ứng xử không khoa học dẫn tới nhiều khi không đạt được thoả thuận gì cả và lại mất thời gian và chi phí. - Tuy trình độ của cán bộ công nhân viên công ty đã được nâng cao song vẫn còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được tình hình thực tế, chưa nắm bắt được tình hình sản xuất của Việt Nam, Thế giới cũng như các chế độ chính sách, pháp luật được ban hành. Mà thực tế trong kinh doanh đòi hỏi phải có tính cập nhật. Đội ngũ văn thư của công ty còn có nhiều sai sót trong việc soạn thảo hợp đồng dẫn tới các hậu quả đáng tiếc. Trong kinh doanh thương mại quốc tế ngoại ngữ là rất quan trọng, song số lượng cán bộ thành thạo ngoại ngữ của công ty là rất ít chỉ vài người có thể giao tiếp được. - Quá trình đàm phán là bước chuẩn bị cho việc ký kết hợp đồng, song nhiều khi không có sự chuẩn bị kỹ càng. Vì thế dẫn tới sự không thống nhất trong quá trình đàm phán, hoặc có sự lúng túng trong khi đàm phán. Nhiều khi công ty tiến hành đàm phán để ký kết hợp đồng song lại không nắm được tình hình thực tế sản xuất ở Việt Nam, thời gian thu hoạch. Chưa nghiên cứu kỹ về thời gian có thể giao hàng cho khách hàng. Dẫn tới không thực hiện đúng thời hạn, và bị mất uy tín. - Công ty đã hoạt động xuất khẩu mấy chục năm nay song đến nay vẫn chưa có hợp đồng mẫu để áp dụng cho từng mặt hàng của công ty nên nhiều khi không dự liệu hết các vấn đề, các điều khoản của hợp đồng, bỏ sót những chi tiết đáng tiết. - Mặt hàng xuất khẩu của công ty chủ yếu là hàng thủ công mỹ nghệ, hàng nông sản, chủ yếu được sản xuất bằng lao động thuần tuý. Những loại mặt hàng này không có sự ổn định trên thị trường, biến động thất thường theo mùa vụ, tăng giảm giá thất thường. Vì thế khi giá xuống thấp có khi không xuất khẩu được nếu xuất khẩu thì lỗ mà không suất thì bị hỏng. Hơn nữa mặt hàng nông sản Việt Nam nhiều mặt hàng còn kém về chất lượng, cạnh tranh rất kém trên thị trường. Vì thế rất cần sự giúp đỡ từ phía nhà nước - Các văn bản pháp luật, dưới luật, cơ chế chính sách của Nhà nước thường xuyên thay đổi, ảnh hưởng tới tình hình hoạt động kinh doanh của công ty, tạo tâm lý không an tâm trong kinh doanh. Luật thương mại ra đời và có hiệu lực song vẫn chưa có văn bản dưới luật này để hướng dẫn cụ thể về tình hình hoạt động kinh doanh ngoại thương. Mặt khác luật pháp quốc tế về ngoại thương như công ước viên Liên hiệp quốc 1988 về mua bán hàng hoá nước ta chưa ký kết, thừa nhận. Tuy đã tham gia ký kết một số các hiệp định thương mại song phương và đa phương, với một số nước song vẫn còn quá ít so với tình hình thực tế cần thiết. - Ngày nay phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại như telex, fax, thư điện tử và việc ứng dụng nó vào việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu đã làm cho công ty bước đầu còn gặp phải nhiều khó khăn lúng túng. - Hiện nay hoạt động thông tin về pháp luật về thị trường của các nước ở Việt Nam còn quá rời rạc, phân tán và chưa phong phú làm cho công ty chưa nắm bắt được những thay đổi của pháp luật cũng như chính sách cơ chế... về hợp đồng xuất nhập khẩu ở các nước khác cũng như các mặt hàng và thị trường xuất nhập khẩu. 2) Nhận xét về tình hình thực hiện hợp đồng xuất khẩu a) Những mặt đạt được - Trải qua những năm tham gia xuất khẩu với nước ngoài. Năng lực cán bộ công tác xuất nhập khẩu đã từng bước được nâng cao. Công ty đã chủ động hơn về các mặt thủ tục như: Đăng ký Hải quan, đăng ký hợp đồng, xin phép xuất khẩu, tiến độ thực hiện hợp đồng nhanh hơn. - Mối quan hệ giữa công ty với cơ quan quản lý xuất nhập khẩu ngày càng chặt chẽ hơn trên cơ sở ngày càng hiểu biết và tạo điều kiện giúp đỡ công ty khi cần thiết như: hợp đồng làm việc ngoài giờ hành chính v.v... - Năm lịch tàu, quan hệ với các hãng tàu được rộng rãi hơn thành thiện hơn tạo điều kiện cho quá trình giao hàng. - Thuê xe điều động các hãng vận tải và tính toán số container đã phù hợp với tiến độ sản xuất thu gom hàng hoá. - Công tác kiểm hoá phần lớn đã được công ty cùng Hải Quan phối hợp một cách khoa học cụ thể về kế hoạch xuất hàng, lượng hàng xuất, tạo điều kiện cho công tác kiểm tra được nhanh chóng, chính xác bảo đảm đúng hàng xuất khẩu. - Quá trình thu thập thông tin để làm chứng từ thanh toán như Invoice, packing list, giấy chứng nhận xuất xứ, B/L... chính xác, chặt chẽ, kịp thời để làm cơ sở thanh toán sau này. b) Những mặt còn hạn chế - Chuẩn bị hàng hoá Một trong những tồn tại phổ biến nhất của quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu là chuẩn bị hàng xuất khẩu dẫn tới giao hàng chậm. Từ việc chuẩn bị không đúng, không kịp thời như vậy dẫn đến phát sinh nhiều khoản chi phí gây lãng phí cho công ty. Nguyên nhân chủ yếu trong khâu này là do + Trình độ cán bộ quản lý + Trình độ tay nghề công nhân, ý thức + Cơ sở sản xuất còn yếu kém lạc hậu + Nhiều mặt hàng còn phụ thuộc vào mùa vụ + Một số nguyên nhân khác - Công tác bảo quản hàng hoá và công nghệ hấp sấy chưa được bảo đảm dẫn đến chất lượng sản phẩm không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu và có nhiều khiếu nại. Hệ thống nhà kho được xây dựng từ lâu không đủ những tiêu chuẩn cần thiết cho nên có nhiều trường hợp do mưa ẩm dẫn đến hàng bị mốc. Nguyên nhân + Do hệ thống nhà kho xuống cấp + Công nghệ sấy hấp lạc hậu + Do quá trình vận chuyển thu gom - Mặt hàng mây tre đan, thêu len đều được sản xuất thông qua mẫu. Mà chủ yếu bằng thủ công nên đối thủ còn sai lệch về kích cỡ kiểu dáng, dẫn tới nhiều sản phẩm không đạt tiêu chuẩn. - Trong khi thực hiện hợp đồng giữa hai bên thì quá trình cung cấp cho khách hàng về các chi tiết để lập vận đơn đường biển nhiều khi còn chậm cho nên thường xuyên chứng từ thanh toán bị chậm. Do đó không thể thanh toán ở ngân hàng được. - Thủ tục hành chính cho việc xuất khẩu còn phức tạp ảnh hưởng tới tình hình thực hiện hợp đồng xuất khẩu của công ty. Đợi khi gây hậu quả nghiêm trọng đối với công ty. Gây lãng phí thời gian và chi phí cho công ty. Nguyên nhân + Phải thực hiện thủ tục xuất khẩu qua nhiều cấp nghiên cứu + Nhiều cán bộ hành chính trong XNK còn xách nhiễu, gây khó dễ cho công ty XNK, chưa am hiểu luật pháp. + Chức năng nhiệm vụ quản lý của các cơ quan quản lý không rõ ràng. - Sự yếu kém về các công ty phục vụ cho hoạt động ngoại thương như: hãng tàu, bảo hiểm... Vì thế nhiều khi công ty phải ký kết với hãng nước ngoài lãng phí thời gian chi phí cho việc nghiên cứu xem xét về các hãng đó để đàm phán ký kết hợp đồng. Cho nên nhiều khi gây khó khăn cho công ty. Nguyên nhân: + Nước ta chưa có các công ty chuyên ngành đủ mạnh như hãng tàu, bảo hiểm v.v... + Chưa am hiểu luật pháp các nước về hoạt động của các công ty. + Một số nguyên nhân khác. PHẦN C HƯỚNG HOÀN THIỆN VIỆC KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT KHẨU TẠI CÔNG TY I. HOÀN THIỆN KÝ KẾT HỢP ĐỒNG XUẤT KHẨU 1) Hoàn thiện hợp đồng pháp luật về ký kết hợp đồng xuất khẩu Trong ký kết hợp đồng xuất khẩu nhà nước đóng vai trò rất quan trọng tới sự thành công của các công ty. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc ký kết hợp đồng xuất khẩu diễn ra nhanh chóng dễ dàng, tiết kiệm thời gian và chi phí dựa trên những cơ sở pháp lý mà nhà nước ban hành hay công nhận. Do đó Nhà nước cần phải thực hiện những vấn đề sau để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu tốt: a) Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp xuất khẩu về giá, thuế v.v... Đặc biệt là đối với những doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm từ nông nghiệp như các hàng nông sản, hàng thủ công mỹ nghệ, nhằm tạo sức cạnh tranh của các mặt hàng này trên thị trường quốc tế mặt khác khai thác tiềm năng của đất nước (vì 80% dân số đất nước làm nông nghiệp), tạo công ăn việc làm cho người lao động. b) Nhà nước cần ban hành những các văn bản pháp luật như bộ luật, luật, nghị định, thông tư, quyết định về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và đặc biệt là về ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu một cách chi tiết và cụ thể. Nhằm tạo cơ sở pháp lý hành lang, môi trường an toàn cho các doanh nghiệp tự do hoạt động kinh doanh, sản xuất trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Ngày nay đã có luật thương mại ra đời và có hiệu lực kể từ ngày 1.1.1998. Nhưng đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và đặc biệt là ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu thì cần phải có những văn bản pháp luật như nghị định thông tư dưới luật này để quy định chi tiết và hướng dẫn cụ thể để các doanh nghiệp hiểu rõ và thuận tiện cho việc áp dụng. Ban hành các văn bản pháp luật vừa tạo điều kiện thuận lợi cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong và ngoài nước áp dụng vừa tạo tâm lý an tâm làm ăn của các doanh nghiệp này. Đồng thời các văn bản pháp luật được Nhà nước ban hành này phải phù hợp với thông lệ hoạt động kinh tế xuất nhập khẩu quốc tế. Nhằm thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở các nước khác nhau mà vẫn có thể hiểu một cách thống nhất với nhau dẫn đến việc ký kết và thực hiện được nhanh chóng và có hiệu quả kinh tế. c) Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về xuất nhập khẩu cần phải nghiên cứu xem xét pháp luật quốc tế về ngoại thương, về tình hình thực tế của thị trường trong và ngoài nước, để tham gia ký kết hoặc công nhận các công ước quốc tế, các hiệp định nghị định thư song phương hoặc đa phương hoặc chung về hoạt động ngoại thương và những ngành liên quan. Tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp xuất khẩu khi tham gia vào ký kết hợp đồng thì đó là nguồn luật đương nhiên hoặc là nguồn luật để dẫn chiếu vào hợp đồng mà không cần phải tốn kém thời gian, chi phí cho những thoả thuận về các điều khoản của hợp đồng. 2) Hoàn thiện công tác tổ chức ký kết hợp đồng xuất khẩu Hợp đồng sau khi được ký kết có giá trị ràng buộc các bên đương sự. Vì vậy chúng ta cần coi trọng việc ký kết hợp đồng. Cần tránh tình trạng chưa nắm vững giá cả thị trường, thương nhân, thương nhân đã vội ký kết hợp đồng để rồi lại xin huỷ, xin điệu chính, hoặc không nghiêm chỉnh thực hiện. Đây vừa là vấn đề pháp lý vừa là lòng tin đối với khách. Vì thế để cho việc ký kết hợp đồng được tốt đối với các công ty nói chung và công ty xuất nhập khẩu Hà Tây nói riêng cần thực hiện những vấn đề sau: a) Tìm hiểu và lựa chọn đối tác Thực tế việc sản xuất và kinh doanh xuất khẩu của công ty được thực hiện qua từng mùa. Bởi chủ yếu là hàng nông sản và thi công nghệ, trừ mặt hàng thêu len, dệt len vào mùa vụ có hàng xuất khẩu khách hàng đến giao dịch trao đổi mua bán rất nhiều. Tuy nhiên khách hàng đến không phải chỉ đòi để ký kết hợp đồng mua bán mà còn có khi khách hàng đến để thăm dò mẫu mã, giá cả v.v. Chính vì vậy mà công ty cần nghiên cứu, tìm hiểu kỹ lưỡng từng đối tượng đến công ty để có phương sách ứng xử hợp lý nhất. Đối với các khách hàng muốn đến đặt quan hệ mua bán nên bố trí thời gian làm việc thật khoa học vừa đảm bảo được bí mật vừa đảm bảo trình độ đàm phán tiến tới ký kết hợp đồng. b) Bảo dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ xuất nhập khẩu. Công ty phải đào tạo nâng cao chuyên môn cho cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu. Người được quyền ký kết hợp đồng cần phải là người có trình độ hiểu biết về các mặt như: kỹ thuật sản xuất của thương phẩm học nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại và ngoại ngữ. Bên cạnh những hiểu biết này họ cần phải biết về tình hình thực tiễn Việt Nam như thể lệ thanh toán của ngân hàng Việt Nam, nắm vững tình hình tập quán cảng cửa khẩu của Việt Nam; về thời vụ sản xuất và đặc điểm của hàng Việt Nam v.v... Ngoài việc nâng cao trình độ cho những cán bộ chủ chốt trong công tác hợp đồng thì những người làm việc văn thư, đánh máy cũng cần có hiểu biết chút ít về hợp đồng xuất nhập khẩu. Có như vậy mới tránh được những sai sót đáng buồn cười như quên ghi ngày ký hợp đồng, đóng dấu ngược, đặt chữ ký không đúng chỗ, xếp lộn xộn thứ tự trang hợp đồng. Để đạt được như vậy công ty cần thực hiện các biện pháp sau: - Mở lớp nghiệp vụ ngắn ngày tại công ty - Chọn cán bộ đi học các lớp do Bộ Thương mại, Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư nước ngoài tổ chức và liên hợp quốc tài trợ. - Có chính sách cụ thể về sử dụng và thu hút cán bộ có năng lực chuyên môn và nghiệp vụ cao. c) Chuẩn bị tốt các công việc cho quá trình đàm phán Để cho việc ký kết diễn ra nhanh và thuận lợi thì công ty cần phải chuẩn bị tốt các công việc để chuẩn bị cho đàm phán. - Trước khi ký kết hợp đồng xuất khẩu cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa giám đốc và các phòng ban như: phòng kế hoạch thị trường, phòng kinh doanh, để đưa đến một ý kiến chung nhất về tất cả các điều khoản trong hợp đồng. Qua đó giám đốc có thể quyết định đồng ý hay không đồng ý khi ký kết hợp đồng đó. - Các phòng ban như phòng kinh doanh, phòng kế hoạch thị trường phải tính chính xác giá thành sản phẩm ở một mức nào đó. Dựa trên cơ sở trong quá trình đàm phán để ký kết hợp đồng ta có thể quyết định ở một mức giá nào đó là có thể chấp nhận được để hai bên cùng có lợi. - Các phòng ban dựa trên những kế hoạch sẵn có, năng lực của công ty và thực tiễn Việt Nam để tính toán thời gian sản xuất, thu gom là bao nhiêu và ngày nào có thể giao hàng được. Tránh tình trạng là cứ ký kết hợp đồng xuất nhưng lại không thực hiện đúng thời hạn, dẫn đến mất lòng tin của khách hàng và gây thiệt hại về kinh tế cho công ty. d) Công ty nên có hợp đồng mẫu Hoạt động mua bán ngoại thương là rất phức tạp và nhiều vấn đề phát sinh mà trong quá trình đàm phán ký kết chúng ta không lường hết được những điều cần quy định. Vì thế doanh nghiệp cần phải có những bản hợp đồng hoặc những bản điều kiện chung cho từng loại mặt hàng để giúp cho người ký khỏi bỏ sót những khoản này hoặc điều khoản khác. - Ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu phải tuân thủ những qui định của pháp luật về mặt pháp lý và kỹ thuật nghiệp vụ như khi soạn thảo hợp đồng cần phải cân nhắc kỹ và có phương án dự liệu đề phòng những tình huống bất lợi có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng; hạn chế tối đa những từ ngữ, lời văn có tính chất mập mờ, khó giải thích; không nên cam kết những điều mà mình không biết và không đủ thẩm quyền giải quyết. - Các công ty phải có cán bộ đủ năng lực về mặt pháp lý để tư vấn cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty nhằm ký kết hợp đồng chặt chẽ về mặt pháp lý và hiệu quả về mặt kinh tế. II. HOÀN THIỆN THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT KHẨU 1) Hoàn thiện văn bản pháp luật về thực hiện hợp đồng. Để việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu được nhanh chóng thuận lợi không chỉ riêng doanh nghiệp xuất khẩu thực hiện tốt những yêu cầu các hợp đồng là đủ mà cần phải có sự trợ giúp của Nhà nước. Nhà nước có vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua các chức năng quản lý của mình. Muốn vậy Nhà nước cần thực hiện một số biện pháp sau: a) Cải cách về mặt hành chính Nhà nước Ngày nay, với cơ chế mới doanh nghiệp được tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Các doanh nghiệp xuất khẩu cũng được tự do sản xuất, kinh doanh trong phạm vi lĩnh vực cho phép. Vì thế Nhà nước phải tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu thực hiện tốt bằng cách thông qua các chính sách chế độ quản lý, đặc biệt là thông qua bộ máy thủ tục hành chính của Nhà nước. Với sự chuyển đổi cơ chế, Nhà nước cũng phải cải cách triệt để về mặt hành chính để các doanh nghiệp thực hiện tốt các hợp đồng xuất khẩu. Muốn vậy, Nhà nước phải: - Đẩy mạnh công tác giáo dục cán bộ công chức hành chính trong lĩnh vực XNK về mọi mặt như luật pháp, quản lý hành chính, đạo đức, nâng cao tinh thần trách nhiệm, trật tự kỷ cương xã hội, chống quan liêu, tham nhũng v.v... - Cải cách triệt để về mặt thủ tục hành chính trong việc XNK như xin phép kinh doanh xuất khẩu, xin giấy phép xuất khẩu, thủ tục hải quan, thuế v.v... đến tới chế độ một cửa đơn giản hoá về mặt thủ tục nhưng vẫn hiệu quả, tránh phiền hà, xách nhiễu, tạo sự thông thoáng trong XNK, đảm bảo thời gian chi phí cho việc thực hiện hợp đồng. - Phân định rõ ràng thẩm quyền của cơ quan Nhà nước quản lý về mặt Nhà nước tránh hiện tượng chức năng nhiệm vụ chồng chéo, quyền hạn không được phân công rõ ràng. b) Thành lập các công ty chuyên ngành phục vụ xuất khẩu đất nước ta hiện nay nói chung nền kinh tế còn nghèo. Vì thế sự có mặt của các công ty lớn đủ điều kiện phục vụ tốt cho hoạt động XNK ít hoặc chưa có. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hợp đồng thì Nhà nước nên thành lập các công ty hoặc đầu tư cho các công ty đã có sẵn đủ sức phục vụ cho hợp đồng XNK như: - Đầu tư cho Tổng công ty hàng hải Việt Nam, mua sắm thêm thiết bị, phương tiện tạo sự an toàn trong chuyên chở. Mua sắm tàu lớn có khả năng đi biển tốt, vận chuyển với khối lượng lớn, có khả năng cạnh tranh cao. Có như thế vừa tạo sự thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu dễ dàng trong thuê tàu, và hiểu biết được những quy định của hãng tàu. Vừa khai thác được tiềm năng trong nước, tăng thêm ngoại tệ. - Đầu tư xây dựng các cảng biển đủ sức cho các tàu lớn ra vào cảng cũng như các hoạt động khác của cảng như bốc dỡ, vận chuyển trong cảng. - Đầu tư vào các công ty bảo hiểm, ngân hàng đủ sức mạnh để tiếp nhận và chi trả cho khối lượng xuất khẩu lớn. - Nhà nước cần ban hành các qui định về quản lý vốn và ngoại tệ một cách chặt chẽ để đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán, ổn định tỷ giá, bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp. - Nhà nước cần hạn chế ban hành và đi đến loại bỏ các văn bản dưới luật không cần thiết để tránh chồng chéo mâu thuẫn nhau làm cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu không biết thực hiện văn bản nào. - Nhà nước cần bảo đảm sự ổn định, bình đẳng của pháp luật, không phân biệt đối với các bên kinh doanh xuất nhập khẩu tạo điều kiện để các thành phần kinh tế được xuất nhập khẩu trực tiếp không phụ thuộc vào vốn pháp định, sản xuất hay lưu thông miễn là đủ điều kiện thành lập doanh nghiệp. 2) Hoàn thiện công tác thực hiện hợp đồng của công ty. Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu thì công ty phải tiến hành thực hiện các nghĩa vụ của hợp đồng. Thực hiện hợp đồng vừa là lòng tin đối với khách hàng vừa là nâng cao uy tín của công ty. Mặt khác nó cũng gắn liền với trách nhiệm pháp lý mà công ty phải thực hiện. Để thực hiện tốt hợp đồng xuất khẩu công ty cần phải thực hiện các vấn đề sau. a) Chuẩn bị giấy tờ và các chứng từ khác tốt. Việc chuẩn bị giấy tờ và các chứng từ xuất khẩu phải đảm bảo các thủ tục đầy đủ, chính xác kịp thời tránh những trường hợp làm gấp chồng chéo trong quá trình làm chứng từ. Muốn vậy. - Công ty phải yêu cầu khách hàng cung cấp sớm, kịp thời và phải có thời gian đủ dài trước khi xuất hàng. - Tiến hành theo dõi từng mặt hàng, xử lý các thông tin phải chính xác như ngày giao hàng, cảng đến, số hiệu tàu, điều kiện thanh toán. - Ghi chép rõ ràng tiến trình thực hiện hợp đồng tránh làm việc chồng chéo. b) Tổ chức sản xuất thu gom hàng hoá chuẩn bị cho xuất khẩu. Công ty XNK Hà Tây vừa sản xuất lại vừa kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy: - Đối với hàng tự sản xuất thì công ty phải tổ chức sản xuất sao cho kịp thời về số lượng, thời gian và quy cách phẩm chất. Muốn vậy phải thực hiện. + Triển khai công tác chuẩn bị vật tư đầy đủ đồng bộ kịp thời. + Tổ chức sản xuất hợp lý theo kế hoạch đặt ra. + Tiến hành kiểm tra chất lượng sản phẩm - Đối với kinh doanh xuất khẩu thì công ty phải tiến hành kế hoạch tìm nguồn hàng, nghiên cứu lại vấn đề về thị trường như giá cả, nhu cầu v. v... để tiến hành gom hàng cho xuất khẩu. Mặt hàng kinh doanh xuất khẩu của công ty chủ yếu là hàng nông sản. Vì thế để chuẩn bị hàng tốt công ty cần thực hiện: + Phải liên hệ đặt hàng với các vùng sản xuất. + Giới thiệu giống cây trồng, kỹ thuật trồng, và nếu cần cung cấp cả vốn. + Quan hệ tốt với lãnh đạo địa phương để có kế hoạch trồng theo vùng những sản phẩm xuất khẩu c) Cơ cấu tổ chức hoạt động kinh doanh chặt chẽ. Công ty cần phải phối hợp chặt chẽ, hơn nữa các phòng ban để đảm bảo hàng cho xuất khẩu cả về số lượng chất lượng và thời gian giao hàng. Nhằm tạo ra sự thống nhất giữa các phòng ban trong việc thực hiện xuất khẩu mang lại hiệu quả kinh tế cao. Muốn vậy yêu cầu công ty thực hiện tốt các vấn đề sau: - Các phòng ban phải thường xuyên báo cáo chính xác tình hình thực hiện hợp đồng cho giám đốc. Qua đó giám đốc trực tiếp chỉ đạo thống nhất cùng các phòng ban đưa ra các giải pháp tối ưu nhất để đảm bảo hàng xuất khẩu. - Giữa các phòng ban phải thường xuyên hàng ngày trao đổi thông tin cho nhau để cùng giải quyết và khắc phục những nảy sinh trong tiến trình thực hiện hợp đồng. d) Thanh toán tiền hàng Để quá trình thanh toán được nhanh chóng đúng quy định thì công ty XNK Hà Tây cần phải thực hiện tốt các biện pháp sau: - Xử lý các thông tin trên L/C phải chính xác như số lượng, giá cả, phẩm chất, ký mã hiệu, thời hạn có hiệu lực, thời hạn trả tiền, thời hạn giao hàng điều kiện giao hàng để cung cấp cho hãng vận tải lập chứng từ thanh toán. - Thường xuyên liên lạc yêu cầu khách hàng trả tiền, liên lạc với ngân hàng về tiến độ trả tiền. KẾT LUẬN Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế hiện nay thương mại quốc tế trở thành điều kiện tồn tại và phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia, cho phép mở rộng khả năng sản xuất, tiêu dùng và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế đất nước. Nhận thức rõ tầm quan trọng của nó Đảng và Nhà nước ta khẳng định không ngừng mở rộng phân công và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật đẩy mạnh các hoạt động XNK đó là những đòi hỏi khách quan của thời đại". Thực tế trong thời gian qua nền kinh tế đã từng bước khắc phục được những khó khăn và đã có những bước phát triển rõ rệt. Công ty XNK Hà Tây cũng như nhiều công ty sản xuất kinh doanh XNK khác. Trong quá trình tham gia hoạt động kinh doanh với nước ngoài đã từng bước tháo gỡ khó khăn về vốn, phương pháp quản lý mới tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, quan hệ làm ăn với nhiều bạn hàng. Hiện nay sản phẩm của công ty đang có mặt trên thị trường nhiều nước. Uy tín của công ty ngày càng được nâng cao do chất lượng, sản phẩm được tín nhiệm và luôn luôn thực hiện tốt các hợp đồng xuất khẩu. Với hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu, thương lượng đàm phán ký kết và tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu là công việc có vai trò cực kỳ quan trọng, có quyết định thành hay bại của một chuyến kinh doanh. Trong thời gian qua tuy gặp không ít những khó khăn về khách quan cũng như chủ quan công ty luôn phấn đấu vượt qua mọi trở ngại thực hiện tốt các hợp đồng xuất khẩu và hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh doanh xuất khẩu của mình. Công ty tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất khẩu của nước ngoài nên việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu vẫn còn một số hạn chế nhất định. Nếu khắc phục được những hạn chế này phát huy hơn nữa những ưu điểm vốn có thì công ty sẽ càng thực hiện tốt hơn nữa hợp đồng xuất khẩu của mình. Muốn vậy điều vô cùng quan trọng là công ty tự trang bị cho mình đầy đủ những kiến thức tìm hiểu và nghiên cứu kỹ lưỡng những vấn đề có liên quan tới pháp lý, nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu. Chuyên đề đã được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn PTS. Trần Thị Hoà Bình và các cán bộ thuộc công ty XNK Hà Tây. TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Pháp luật quốc tế về ngoại thương. 1. Công ước New York về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài 1958. 2. Công ước Lahaye 1964 về mua bán động sản hữu hình. 3. Công ước viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế 4. Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ năm 1983. 5. INCOTERMS 1990. II. Pháp luật Việt nam về ngoại thương 1. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế được HĐNN thông qua ngày 25.9.1989. Công báo số 20 năm 1989 2. Quy định 296 TM-DL/XNK ngày 9.4.1992 về cấp giấy phép xuất khẩu nhập khẩu hàng hoá. Các văn bản pháp luật về quản lý kinh doanh XNK thương mại và du lịch tập 1. NXB Pháp lý năm 1992. 3. Quy định 297 TM-DL/XNK ngày 9.4.1992 về giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá. Các văn bản pháp luật về quản lý kinh doanh XNK thương mại và du lịch tập 1. NXB Pháp lý năm 1992. 4. Nghị định 33/CP ngày 19.4.1994 của Chính phủ về quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Công báo số 11 năm 1994 5. Bộ luật dân sự được Quốc hội thông qua ngày 28.10.1995. 6. Luật thương mại được Quốc hội thông qua ngày 10.5.1997. Công báo số 13 năm 1997 7. Quyết định số 11/1998 QD-TTg ngày 23.1.1998. Về cơ chế điều hành XNK năm 1998. Công báo số 7 năm 1998 8. Quy định của Tổng cục trưởng tổng cục hải quan ngày 10.3.1998 về tờ hướng dẫn thủ tục hải quan đối với h7àng hoá xuất nhập khẩu. III. Tài liệu khác: 1. Giáo trình pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại. PGS. PTS Nguyễn Thị Mơ. Trường ĐH Ngoại thương Hà Nội - xuất bản 1994. 2. Tạp chí luật học năm 1996-1998. 3. Tạp chí thương mại năm 1995-1998 4. Tài liệu của công ty xuất nhập khẩu Hà Tây MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU PHẦN A: CHẾ ĐỘ KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU HIỆN NAY I/ Khái niệm về hợp đồng xuất nhập khẩu 1. Tính tất yếu của hợp đồng xuất nhập khẩu 2. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng xuất nhập khẩu II/ Nguồn luật áp dụng cho hợp đồng xuất nhập khẩu 1. Điều ước quốc tế 2. Nghị định song phương và đa phương 3. Tập quán quốc tế 4. Án lệ 5. Luật quốc gia III/ Ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu 1. Điều kiện để hợp đồng xuất nhập khẩu có hiệu lực 2. Thủ tục ký kết 3. Các điều khoản của hợp đồng xuất nhập khẩu IV/ Thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu 1. Nguyên tắc thực hiện 2. Thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu V/ Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng xuất nhập khẩu 1. Cấu thành trách nhiệm 2. Miễn trách nhiệm của người *** 3. Chế độ trách nhiệm do vi phạm VI/ Qiải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế 1. Khái niệm về tranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. 2. Các phương thức giải quyết tranh chấp PHẦN B: THỰC TIỄN KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT KHẨU Ở CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU HÀ TÂY 1. Quá trình hình thành và phát triển 2. Nhiệm vụ quuyền hạn của Công ty. 3. Cơ cấu tổ chức của Công ty 4. Tình hình hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty trong thời gian qua. II/ Ký kết hợp đồng xuất khẩu 1. Nghiên cứu thị trường và lập phương án kinh doanh 2. Những vấn đề chung về hợp đồng xuất khẩu 3. Các điều khoản của hợp đồng xuất khẩu III/ Thực hiện hợp đồng xuất khẩu 1. Xin phép xuất khẩu 2. Chuẩn bị hàng xuất khẩu 3. Kiểm tra chất lượng 4. Thuê tàu 5. Mua bảo hiểm 6. Làm thủ tục hải quan 7. Giao hàng với tàu 8. Thanh toán IV/ Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng xuất khẩu 1. Các vấn đề tranh chấp 2. Giải quyết tranh chấp V/ Đánh giá về ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu của Công ty 1. Nhận xét về ký kết hợp đồng xuất khẩu 2. Nhận xét về tình hình thực hiện hợp đồng xuất khẩu PHẦN C: HƯỚNG HOÀN THIỆN VIỆC KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY. I/ Hoàn thiện việc ký kết hợp đồng xuất khẩu 1. Hoàn thiện về ký kết hợp đồng xuất khẩu 2. Hoàn thiện công tác tổ chức ký kết hợp đồng xuất khẩu. II/ Hoàn thiện thực hiện hợp đồng xuất khẩu 1. Hoàn thiện pháp lý về thực hiện hợp đồng xuất khẩu 2. Hoàn thiện công tác thực hiện hợp đồng xuất khẩu KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0047.doc
Tài liệu liên quan