Hoàn thiện các hình thức trả lương tại nhà máy xi măng Lam Thạch – Công ty cổ phần xi măng và xây dựng Quảng Ninh

Tài liệu Hoàn thiện các hình thức trả lương tại nhà máy xi măng Lam Thạch – Công ty cổ phần xi măng và xây dựng Quảng Ninh: ... Ebook Hoàn thiện các hình thức trả lương tại nhà máy xi măng Lam Thạch – Công ty cổ phần xi măng và xây dựng Quảng Ninh

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện các hình thức trả lương tại nhà máy xi măng Lam Thạch – Công ty cổ phần xi măng và xây dựng Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong công cuộc đổi mới cải cách nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường cùng hoà nhập với nền kinh tế trong khu vực và nền kinh tế Thế Giới. Tiền lương là một trong những vấn đề khó khăn và phức tạp, nó luôn luôn thay đổi để phù hợp với cơ chế thị trường. Nó là nguồn tái tạo sức lao động và đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. Nếu giải quyết tốt mối quan hệ tiền lương giữa người lao động và người sử dụng lao động thì nó sẽ thúc đẩy được sản xuất phát triển khuyến khích được ngưòi lao động hăng say lao động sản xuất, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp. Để có thể tồn tại và phát triển trước những cạnh tranh gay gắt của thị trường doanh nghiệp phải đổi mới và lựa chọn cho mình các hình thức trả lương sao cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế xã hội phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật và năng lực hiện có của doanh nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế là doanh thu, lợi nhuận cao cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Nhà máy xi măng Lam Thạch thuộc Công ty cổ phần xi măng và xây dung Quảng Ninh nơi em đang thực tập được khởi công và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 9/1997. Cũng như nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác tiền lương luôn là vấn đề cần phải đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện thực tế. Sau một thời gian thực tập tìm hiểu nghiên cứu và tham khảo ý kiến của cán bộ công nhân viên nhà máy, đặc biệt là cán bộ phòng tổ chức lao động tiền lương Công ty em thấy các hình thức trả mà nhà máy đang áp dụng còn có một số hạn chế cần phải hoàn thiện. Bằng những kiến thức đã được trang bị trong quá trình học tập tại trường cùng với sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy giáo PGS - TS. Trần Xuân Cầu giảng viên trường ĐHKTQD và các cán bộ nhân viên phòng tổ chức lao động tiền lương và một số phòng ban Công ty em đã lựa chọn chuyên đề tốt nghiệp đề tài về: “Hoàn thiện các hình thức trả lương tại nhà máy xi măng Lam Thạch – Công ty cổ phần xi măng và xây dựng Quảng Ninh". 2. Mục đích nghiên cứu Sau quá trình thực tập tại Phòng tổ chức lao động tiền lương và tìm hiểu thực tế tại nhà máy xi măng Lam Thạch – Công ty cổ phần xi măng và xây dựng Quảng Ninh, bằng những kiến thức tổng hợp cơ sở lý luận kết hợp với tìm hiểu, phân tích các hình thức trả lương tại Nhà máy xi măng Lam Thạch - Công ty cổ phần xi măng xây dựng Quảng Ninh. Qua đó nhằm tìm ra những ưu điểm, nhược điểm còn tồn tại và nguyên nhân gây ra để đề ra những biện pháp hoàn thiện hơn các hình thức trả lương cho người lao động tại Nhà máy. 3. Phương pháp nghiên cứu Trong khoảng thời gian thực tập có hạn để tận dụng thời gian thu lượm kiến thức thực tế và số liệu để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp em đã sử dụng các phương pháp như: - Phương pháp tiếp cận hệ thống - Phương pháp thống kê - Phương pháp tiếp cận thực tiễn các vấn đề lý luận - Phương pháp lịch sử - Phương pháp logic - Tham khảo ý kiến của các bộ công nhân viên làm việc trực tiếp trong Phòng Tổ Chức và một số phòng ban khác trong Công ty. Cùng với các kiến thức đã được học ở trường để từ đó tiếp cận hiểu được công tác tổ chức quản lý tiền cũng như các hình thức trả lương tại Nhà máy. Qua đó đưa ra một số biện pháp hoàn thiện hơn nữa các hình thức trả lương cho người lao động. Tuy nhiên do thời gian có hạn cũng như kiến thức kinh nghiệm của bản thân còn có hạn nên khó tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy, cô, các bạn sinh viên, sự tham gia đóng góp ý kiến của cán bộ công nhân viên trong Nhà máy và công ty để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Qua đây em xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn chỉ bảo nhiệt tình của PGS TS Trần Xuân Cầu, giảng viên trường đại học Kinh tế quốc dân, sự đóng góp quý báu của cán bộ công nhân viên Nhà máy – Công ty đã giúp em hoàn thành đề tài này. Để phù hợp với mục đích, phương pháp nghiên cứu chuyên đề được chia thành 3 phần (3 chương) chính sau: Chương I: Cơ sở lý luận chung về tiền lương Chương II: Thực trạng các hình thức tả lương tại Nhà máy xi măng Lam Thạch – Công ty cổ phần Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh. Chương III: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện các hình thức trả lương tại Nhà máy xi măng Lam Thạch – Công ty cổ phần Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG VÀ CÔNG TÁC TRẢ LƯƠNG TRONG DOANH NGHIỆP 1. Khái niệm và bản chất của tiền lương: 1.1. Một số khái niệm về tiền lương : Trong thực tế khái niệm tiền lương hiện nay rất đa dạng và phong phú. ở các quốc gia khác nhau và trong các thời kỳ khác nhau thì người ta đưa ra các khái niệm khác nhau về tiền lương. Ở Nhật Bản tiền lương là chỉ thù lao lao động mà người lao động nhận được từ người sử dụng lao động. Theo tổ chức lao động quốc tế ILO, tiền lương là sự trả công hoặc thu nhập biểu hiện bằng tiền và được ấn định bằng thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động. Ở Việt Nam : Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung: tiền lương là một phần thu nhập quốc dân biểu hiện dưới hình thức tiền tệ được Nhà nước phân phối một cách có kế hoạch cho người lao động theo số lượng và chất lượng lao động mà họ đã cống hiến. Tiền lương vừa được trả bằng tiền vừa được trả bằng hiện vật, dịch vụ thông qua chế độ về nhà ở, y tế giáo dục và các khoản phúc lợi không mất tiền hoặc mất tiền nhưng không đáng kể. Theo quan điểm này thì: Nguồn trả lương lấy từ thu nhập quốc dân ( GDP ) và người trả lương là Nhà nước. Sức lao động không phải là hàng hoá nên tiền lương không phản ánh đúng giá trị sức lao động. Mặt khác do không gắn lợi ích với hiệu quả mà người lao động tạo ra vì vậy tiền lương không đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động. Trong nền kinh tế thị trường: Tiền lương là giá cả sức lao động được hình thành thông qua sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động, phù hợp với quan hệ cung cầu sức lao động trong nền kinh tế thị trường, được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Tiền lương là một bộ phận của thu nhập quốc dân, là giá trị mới sáng tạo ra mà người sử dụng lao động trả cho người lao động phù hợp với giá trị sức lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất. Như vậy, tiền lương là một bộ phận của giá trị hàng hoá, phản ánh giá trị sức lao động, được thể hiện trong giá cả hàng hoá thực hiện. Theo quan điểm này thì tiền lương đã được tiền tệ hoá, nó không còn mang nặng tính bao cấp, không còn mang tính bình quân, nhờ đó nó đã khắc phục được nhược điểm của tiền lương trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung. Giờ đây tiền lương đã trở thành đòn bẩy kích thích người lao động hăng say lao động và học tập nâng cao trình độ lao động. Ngoài ra các nhà kinh tế học phương Tây còn đưa ra một số khái niệm khác về tiền lương như: Tiền lương danh nghĩa: được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc vào năng xuất lao động, hiệu quả làm việc của người lao động. Trên thực tế mọi mức lương trả cho người lao động đều là tiền lương danh nghĩa. Song bản thân tiền lương danh nghĩa lại không phản ánh được đầy đủ về mức trả công lao động thực tế cho người lao động. Lợi ích mà người lao động nhận được không chỉ phụ thuộc vào tiền lương danh nghĩa, mà nó còn phụ thuộc vào giá cả của hàng hoá dịch vụ ở các vùng khác nhau vào những thời điểm khác nhau, thuế thu nhập và các khoản phải nộp khác theo quy định. Tiền lương thực tế: được hiểu là số lượng các loại hàng hoá tiêu dùng và các loại dịch vụ cần thiết mà người lao động hưởng lương có thể mua được bằng tiền lương danh nghiã của họ. Như vậy tiền lương thực tế phụ thuộc vào số tiền lương danh nghĩa mà người lao động nhận được và giá cả các loại hàng hoá tiêu và dịch vụ tiêu dùng cần thiết mà họ muốn và có thể mua được. Mối quan hệ của tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế thể hiện ở công thức sau: ITLTT = Ltldn / Igc Trong đó: Itltt : Chỉ số tiền lương thực tế Itldn : Chỉ số tiền lương danh nghĩa Igc : chỉ số giá cả. Như vậy nếu tiền lương danh nghĩa tăng lên nhưng tăng chậm hơn so với mức tăng của giá cả hàng hoá thì tiền lương thực tế lại giảm xuống. Trong xã hội, tiền lương thực tế mới là mục đích lao động trực tiếp của người lao động hưởng lương và đó cũng là đối tượng quản lý trực tiếp trong các chính sách về thu nhập tiền lương và đời sống. 1.2. Bản chất của tiền lương: Để tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần phải có các yếu tố cơ bản như: Lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó lao động luôn luôn là yếu tố chính và có tính chất quyết định nhất. Tiền lương là một phạm trù gắn liền với với phạm trù lao động. Song lao động là một phạm trù vĩnh viễn còn tiền lương là một phạm trù lịch sử. Tiền lương là hình thức trả công lao động. Để đo lường hao phí lao động trong sản xuất kinh doanh người ta chỉ có thể sử dụng thước đo giá trị thông qua tiền tệ vì vậy khi trả công cho người lao động người ta sử dụng hình thức tiền lương. Tiền lương là giá cả sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động, nó chịu sự chi phối bởi rất nhiều quy luật kinh tế như quy luật cung - cầu sức lao động, quy luật giá trị ... Nếu cung lao động lớn hơn cầu lao động thì tiền lương sẽ giảm xuống và ngược lại nếu cầu lao động lớn hơn cung lao động thì tiền lương sẽ tăng lên. Theo C . Mác: '' giá trị sức lao động bằng ( bao gồm ) giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để phù đắp lại sức lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất cộng với giá trị của những chi phí nuôi dưỡng con người trước và sau tuổi có khả năng lao động và giá trị chi phí học hành. '' Những chi phí này không chỉ phụ thuộc vào nhu cầu tự nhiên và sinh lý của con người mà nó còn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và trình độ văn minh đạt được. Chính vì vậy khi xác định chính sách tiền lương cần phải xuất phát từ những yêu cầu sau đây: Một là, tiền lương phải được giải quyết trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân cho tất cả các thành phần kinh tế theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Hai là, trong sản xuất kinh doanh phải xem xét tiền lương trên hai phương diện: Tiền lương là sự biểu hiện bằng tiền của chi phí sản xuất kinh doanh do đó phải tính đúng, tính đủ các yếu tố hợp thành tiền lương có như vậy mới tính đúng giá thành sản xuất kinh doanh và góp phần củng cố chế độ hạch toán kinh doanh. Mặt khác tiền lương là bộ phận thu nhập của doanh nghiệp phân phối cho người lao động bởi vậy nguồn tiền lương phải do chính doanh nghiệp tự tạo ra từ kết quả hoạt động kinh doanh và việc trả lương phải kết hợp hài hoà 3 lợi ích: Đảm bảo cho doanh nghiệp hoàn thành các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Đảm bảo duy trì và phát triển doanh nghiệp. Bảo toàn được vốn và tái tạo tài sản cố định. Đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình của họ. Tiền lương được hình thành thông qua sự thoả thuận giữa người có sức lao động và người sử dụng lao động về yếu tố sức lao động trên cơ sở pháp luật và các quy định của Nhà nước , là thu nhập chủ yếu của người sở hữu sức lao động. Với quan điểm này thì tiền lương đo lường số lượng và chất lượng sức lao động cung ứng trên thị trường đồng thời xác định khả năng tối đa của tái sản xuất sức lao động ở mỗi quy trình sản xuất kinh doanh. Nếu trìu tượng hoá các quan hệ khác trên thị trường lao động thì tiền lương cao hay thấp tuỳ thuộc vào số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực đó. Tiền lương là một chính sách kinh tế - xã hội lớn của quốc gia. Tiền lương là bộ phận trọng yếu của phân phối thu nhập quốc dân, chi phối trực tiếp vấn đề công bằng về xã hội giữa các tầng lớp dân cư, là tiêu điểm cho các chính sách kinh tế - xã hội khác của Nhà nước. Do đó nó là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. 2.Các chức năng của tiền lương: 2.1. Chức năng thước đo giá trị: Do tiền lương là giá cả sức lao động, là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động nên nó phản ánh được giá trị sức lao động. Nhờ khả năng phản ánh này mà tiền lương có chức năng thước đo giá trị sức lao động, nó dùng làm căn cứ xác định mức tiền trả công cho các loại lao động và đơn giá tiền lương đồng thời là cơ sở để điều chỉnh giá cả sức lao động khi giá cả tư liệu sinh hoạt có sự biến động. 2.2. Chức năng tái sản xuất sức lao động: Trong nền kinh tế hàng hoá: sức lao động là một trong những yếu tố thuộc chi phí đầu vào của sản xuất kinh doanh. Muốn cho tái sản xuất sức lao động xã hội được diễn ra bình thường thì cần phải khôi phục và tăng cường sức lao động cá nhân để bù đắp sức lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất, ngoài ra còn phải đảm bảo tái sản xuất mở rộng sức lao động. Tiền lương là một trong những tiền đề vật chất có khả năng đảm bảo tái sản xuất sức lao động trên cơ sở đảm bảo bù đắp lại sức lao động hao phí thông qua việc thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho người lao động. Vì vậy các yếu tố cấu thành tiền lương phải đảm bảo được yêu cầu là không ngừng nâng cao đời sống cho người lao động và gia đình của họ. 2.3. Chức năng kích thích lợi ích vất chất đối với người lao động: Tiền lương là bộ phận thu nhập chính của người lao động nhằm thoả mãn phần lớn nhu cầu vật chất và tinh thần của người lao động. Do đó sử dụng các mức tiền lương khác nhau sẽ là đòn bẩy kinh tế quan trọng để định hướng sự quan tâm và động cơ trong lao động của người lao động trên cơ sở lợi ích cá nhân và tiền lương có khả năng tạo động lực vật chất trong lao động. Vì vậy khi người lao động làm việc có hiệu quả cao thì phải trả lương cao hơn. Những người làm công việc đòi hỏi trình độ chuyên môn cao hơn, phức tạp hơn, trong điều kiện khó khăn, nặng nhọc, độc hại hơn thì phải được trả mức lương cao hơn. Đối với người lao động: nhận được tiền lương thoả đáng sẽ tạo động lực, kích thích năng lực sáng tạo để làm tăng năng suất lao động. Khi năng suất lao động cao thì lợi nhuận doanh nghiệp sẽ tăng lên do đó nguồn phúc lợi của doanh nghiệp mà người lao động nhận được cũng sẽ tăng lên và nó là phần bổ sung thêm cho tiền lương, làm tăng thu nhập và tăng lợi ích cho người cung ứng sức lao động. Hơn nữa khi lợi ích của người lao động được đảm bảo thì nó sẽ tạo ra sự gắn kết cộng đồng giữa người lao động với mục tiêu và lợi ích của doanh nghiệp, xoá bỏ sự ngăn cách giữa người sử dụng lao động và người lao động, làm cho người lao động có trách nhiêm hơn, tự giác hơn với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy tiền lương là động lực kích thích để người lao động không ngừng nâng cao kiến thức và tay nghề. 2.4. Chức năng bảo hiểm tích luỹ: Chức năng này được thể hiện ở chỗ: tiền lương không những giúp người lao động duy trì được cuộc sống hàng ngày trong thời gian còn khả năng lao động và đang làm việc mà nó còn được trích ra một phần để dự phòng cho cuộc sống sau này khi họ hết khả năng lao động hoặc chẳng may gặp phải rủi ro bất trắc trong cuộc sống. Có nghĩa là trong quá trình lao động người lao động phải trích một phần tiền lương để mua bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... thông qua hệ thống chính thức (bảo hiểm của các công ty bảo hiểm) hoặc hệ thống không chính thức (tự bảo hiểm). 2.5. Chức năng xã hội: Tiền lương gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh của người lao động do đó sẽ thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau và nâng cao hiệu quả cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện của con người thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng dân chủ văn minh. Chức năng xã hội còn được biểu hiện ở góc độ điều phối thu nhập trong nền kinh tế quốc dân, tạo ra sự công bằng xã hội trong việc trả lương cho người lao động trong cùng một ngành nghề, một khu vực và giữa các ngành nghề và khu vực khác nhau. 3.Những nguyên tắc cơ bản của tổ chức tiền lương Để xây dựng được một cơ chế trả lương, quản lý tiền lương và chính sách thu nhập thích hợp trong cơ chế thị trường hiện nay thì ta cần đảm bảo những nguyên tắc sau: Trả lương ngang nhau cho những lao động như nhau. Đây là một nguyên tắc rất quan trọng vì nó đảm bảo được sự công bằng, đảm sự bình đẳng trong trả lương. Nó được dùng như là một thước đo đánh giá, so sánh và thực hiện trả lương. Điều này sẽ có tác dụng khuyến khích rất lớn đối với người lao động Đảm bảo tăng năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân. Năng xuất lao động không ngừng tăng lên đó là một quy luật. Đồng thời tiền lương của người lao động tăng lên không ngừng. Giữa tăng năng suất lao động và tăng tiền lương có liên quan chặt chẽ với nhau qua công thức sau: Z = Itlbq - 1 Iw Theo công thức trên khi tiền lương bình quân tăng thì dẫn đến chi phí tăng, tăng năng xuất lao động lại giảm chi phí. Khi năng xuất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân thì chi phí cũng không tăng và ngược lại. Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao động làm các nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao động làm việc trong các ngành nghề khác nhau nhằm tạo sự công bằng, bình đẳng trong sự trả lương cho người lao động. Nguyên tắc này dựa trên: Trình độ lành nghề bình quân của người lao động ở mỗi ngành, điều kiện lao động, ý nghĩa kinh tế của ngành trong nền kinh tế quốc dân và sự phân bố trong khu vực sản xuất. 4. Quỹ tiền lương, các hình thức trả lương và các loại tiền thưởng: 4.1 Quỹ tiền lương trong doanh nghiệp. Căn cứ vào kết quả thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, đơn giá do cơ quan có thẩm quyền theo phân cấp quản lý thẩm định. Các doanh nghiệp xác định nguồn quỹ lương tương ứng để trả cho người lao động. Nguồn này bao gồm: Quỹ tiền lương theo đơn giá tiền lương được giao Quỹ tiền lương bổ xung theo chế độ quy định của Nhà nước. Quỹ các khoản phụ cấp lương và các khảon trợ cấp khác nếu có. Quỹ tiền lương từ các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ khác ngoài đơn giá tiền lương được giao. Quỹ tiền lương dự phòng từ năm trước chuyển sang. Þ Là tổng quỹ tiền lương. Như vậy cán bộ công nhân viên sẽ được nhận tiền lương phụ cấp từ quỹ tiền lương của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp việc quản lý quỹ lương đòi hỏi phải hết sức chặt chẽ, hợp lý, hiệu quả và việc cấp phát lương phải đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động, tốc độ tăng xuất lao động phải nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân... nhằm tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Quản lý và kiểm tra việc thực hiện quỹ lương ở các doanh nghiệp phải do cơ quan chủ quản của doanh nghiệp tiến hành trên cơ sở đối chiếu, so sánh thường xuyên quỹ lương thực hiện với quỹ lương kế hoạch của doanh nghiệp, kiểm soát việc chi trả quỹ lương trong mối quan hệ với việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, thực hiện việc quản lý tiền lương là xác định mối quan hệ giữa người sử dụng lao động với người lao động và Nhà nước. Việc xác định giá trị hao phí sức lao động cho một đơn vị sản phẩm, cho 1 đơn vị doanh thu hay lợi nhuận là hết sức quan trọng và cần thiết. Đó là chi phí được tính trong giá thành, là công cụ để Nhà nước quản lý tiền lương và thu nhập trong các doanh nghiệp. Cụ thể, Nhà nước quyết định đơn giá tiền lương của các sản phẩm trọng yếu, đặc thù, các sản phẩm còn lại thì doanh nghiệp tự tính giá tiền lương theo hướng dẫn chung (Thông tư số 05/TT-BLĐTBXH ban hành ngày 29/01/2001). Doanh nghiệp sẽ tự quyết định đơn giá tiền lương nhưng phải đăng ký với cơ quan chủ quản. Việc xác định đơn giá tiền lương có thể dựa trên các chỉ tiêu sau: Tổng sản phẩm (kể cả sản phẩm quy đổi) bằng hiện vật. Tổng doanh thu. Tổng thu trừ tổng chi trong tổng chi khôngcó lương Lợi nhuận. Doanh nghiệp sẽ xác định đơn giá tiền lương căn cứ vào tính chất, đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh, cơ cấu tổ chức và chỉ tiêu kinh tế gắn với việc trả lương có hiệu quả của doanh nghiệp. Sử dụng tổng quỹ tiền lương: Để đảm bảo quỹ tiền lương không vượt chi so với quỹ tiền lương được hưởng, dồn chi quỹ tiền lương vào các tháng cuối năm hoặc để dự phòng quỹ tiền lương quá lớn cho năm sau, có thể quy định phân chia tổng quỹ tiền lương theo các quỹ sau: Quỹ tiền lương trả trực tiếp cho người lao động theo lương khoán, lương sản phẩm, lương thời gian: ít nhất bằng 76% tổng quỹ lương. Quỹ khen thưởng từ quỹ lương đối với người lao động có năng suất chất lượng cao, có thành tích tốt trong công tác tối đa không quá 10% tổng quỹ tiền lương. Quỹ khuyến khích người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, tay nghề giỏi: tối đa không quá 2% tổng quỹ tiền lương. Quỹ dự phòng cho các năm sau: tối đa không vượt quá 12% tổng quỹ lương 4.2 Các hình thức trả lương. Hiện nay trong các doanh nghiệp sản xuất và hành chính sự nghiệp người ta thường áp dụng hai hình thức trả lương chủ yếu sau: 4.2.1. Trả lương theo thời gian. Hình thức tiền lương theo thời gian là hình thức tiền lương mà số tiền trả cho người lao động căn cứ vào thời gian làm việc và tiền lương của một đơn vị thời gian ( giờ hoặc ngày). Như vậy tiền lương theo thời gian phụ thuộc vào 2 yếu tố: Mức tiền lương trong một đợn vị sản phẩm. Thời gian đã làm việc. Tiền lương trả theo thời gian chủ yếu áp dụng đối với những người làm công tác quản lý, còn đối với công nhân sản xuất chỉ nên áp dụng ở những bộ phận không thể tiến hành định mức một cách chặt chẽ và chính xác hoặc vì tính chất hạn chế do việc trả công theo sản phẩm sẽ không đảm bảo được chất lượng sản phẩm, không đem lại hiệu quả thiết thực. Tuỳ theo yêu cầu và đặc thù sản xuất việc tính và trả lương theo thời gian có thể thực hiện theo hai cách: Trả lương theo thời gian giản đơn: ( giờ, ngày, tháng...) Chế độ trả lương theo thời gian giản đơn là chế độ trả lương mà tiền lương nhận được của mỗi người công nhân do mức lương cấp bậc cao hay thấp và thời gian làm việc thực tế ít hay nhiều quyết định. Tiền lương trả cho người lao động được tính theo công thức: L = LCB x T Trong đó: L: Lương nhận được. LCB: Lương cấp bậc. T: Thời gian làm việc thực tế. Chế độ trả lương này chỉ áp dụng ở những nơi khó định mức lao động, khó đánh giá công việc một cách chính xác. Có 3 loại tiền lương theo thời gian đơn giản: - Lương giờ: Tính theo mức lương cấp bậc và số giờ làm việc. - Lương ngày: Tính theo mức lương cấp bậc và số ngày làm việc thực tế. - Lương tháng: Tính theo mức lương cấp bậc tháng. + Ưu điểm của hình thức này là: Đơn giản, dễ tính toán. Hơn nữa người công nhân có thể tự tính được tiền công mà mình được lĩnh. + Nhược điểm là: Bên cạnh những ưu điểm, hình thức trả lương này còn mang tính chất bình quân nên không khuyến khích việc sử dụng hợp lý thời gian làm việc, tiết kiệm nguyên vật liệu, không tập trung công suất của máy móc thiết bị để tăng năng suất lao động. b. Trả lương theo thời gian có thưởng: Theo hình thức này thì tiền lương người lao động nhận được gồm tiền lương thời gian giản đơn và một khoản tiền thưởng khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng hoặc chất lượng đã quy định như: nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm vật tư hoặc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao... Hình thức này chủ yếu áp dụng đối vói công nhân phụ, làm việc phục vụ như công nhân sửa chữa, điều chỉnh thiết bị... Ngoài ra còn áp dụng cho công nhân chính làm việc ở những khâu sản xuất có trình độ cơ khí hoá cao, tự động hoá hoặc những công việc tuyệt đối phải đảm bảo chất lượng. Chế độ trả lương này phản ánh trình độ thành tích công tác thông qua các chỉ tiêu xét thưởng đã đạt được. Do vậy nó khuyến khích người lao động quan tâm đến trách nhiệm và kết quả công tác của mình. Do đó cùng với ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật chế độ tiền lương này ngày càng được mở rộng hơn. 4.2.2. Trả lương theo sản phẩm. Do có sự khác nhau về đặc điểm sản xuất kinh doanh, công đoạn chế biến nên các doanh nghiệp đã áp dụng rộng rãi các hình thức tiền lương theo sản phẩm với nhiều chế độ linh hoạt. Đây là hình thức tiền lương mà số tiền người lao động nhận được căn cứ vào đơn giá tiền lương, số lượng, chất lượng sản phẩm hoàn thành và được tính theo công thức: Lsp = ( Qi x Đgi) Trong đó: Lsp: Lương theo sản phẩm. Qi: Khối lượng sản phẩm i sản xuất ra. Đgi: Đơn giá tiền lương một sản phẩm loại i. i: Số loại sản phẩm i. + Ưu điểm: Tiền lương tính theo sản phẩm căn cứ trực tiếp vào kết quả lao động sản xuất của mỗi người. Nếu họ làm được nhiều sản phẩm hoặc sản phẩm làm ra có chất lượng cao thì sẽ được trả lương cao hơn và ngược lại. Chính vì vậy nó có tác dụng khuyến khích người lao động quan tâm đến kết quả lao động sản xuất của mình, tích cực cố gắng hơn trong quá trình sản xuất, tận dụng tối đa khả năng làm việc, nâng cao năng suất và chất lượng lao động. Hơn nữa trả lương theo sản phẩm còn có tác dụng khuyến khích người lao động học tập nâng cao trình độ văn hoá kỹ thuật, tích cực sáng tạo và áp dụng khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất. Điều này tạo điều kiện cho họ tiến hành lao động sản xuất với mức độ nhanh hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm với chất lượng cao hơn. + Nhược điểm: Trả lương theo sản phẩm đòi hỏi phải có sự chuẩn bị nhất định như: Định mức lao động, xây dựng đơn giá tiền lương cho một sản phẩm, thống kê, nghiệm thu sản phẩm, đảm bảo ttỏ chức và phục vụ tốt nơi làm việc ... Căn cứ vào đơn giá sản phẩm và đối tượng trả công, hình thức trả lương theo sản phẩm có các loại sau: a. Trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân: Chế độ trả lương này được áp dụng rộng rãi với người trực tiếp sản xuất trong điều kiện quá trình sản xuất của họ mang tính độc lập tương đối, công việc có định mức thời gian, có thể thống kê, kiểm tra nghiệm thu sản phẩm một cách cụ thể và riêng biệt. Đơn giá tiền lương có tính chất cố định được tính theo công thức: Đg = L x T Hoặc Đg = L Q Trong đó: Đg: Đơn giá sản phẩm L: Lương theo cấp bậc công việc hoặc mức lương giờ T: Mức thời gian hoàn thành một đơn vị sản phẩm Q: Mức sản lượng của người lao động trong kỳ Khi đó tiền công của công nhân được tính theo công thức: Lcn =Đg x Q1 Trong đó: Lcn: Tiền lương của công nhân Q1 : Khối lượng sản phẩm thực tế hoàn thành + Ưu điểm nổi bật của chế độ này là: Kết hợp được mối quan hệ giữa tiền công và kết quả lao động của họ được thể hiện rõ ràng làm cho quyền lợi và trách nhiệm của người lao động gắn chặt với nhau do đó kích thích công nhân cố gắng nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao năng suất lao động. Đồng thời hình thức này cũng dễ hiểu nên công nhân có thể tính được số tiền nhận được khi hoàn thành nhiệm vụ sản xuất. + Nhược điểm: Tuy nhiên chế độ lương này còn làm cho người lao động dễ chạy theo số lượng mà coi nhẹ chất lượng sản phẩm, ít quan tâm đến việc sử dụng tốt máy móc thiết bị và nguyên vật liệu, ít quan tâm chăm lo đến công việc của tập thể. b. Trả lương theo sản phẩm tập thể: Chế độ trả lương này áp dụng để trả cho một nhóm lao động thường áp dụng đối với những công việc đòi hỏi tập thể công nhân cùng thực hiện, có định mức thời gian dài, khó xác định kết quả của từng cá nhân. Công thức tính đơn giá tiền lương như sau: Đg = Lcb Q Nếu tổ hoàn thành một sản phẩm trong kỳ Đg = Lcb x T Trong đó: Đg: Đơn giá tính theo sản phẩm tập thể Lcb: Tổng tiền lương theo cấp bâc công công nhân Q: Mức sản lượng của cả tổ T: Mức thời gian của cả tổ Tiền công của cả tổ, nhóm công nhân tính theo công thức: LNCN = ĐG x Q Trong đó: LNCN : tiền lương của nhóm công nhân ĐG: đơn giá tính theo sản phẩm Q: khối lượng sản phẩm sản xuất được Sau khi xác định được tiền lương cả đơn vị thì tiến hành chia lương cho từng công nhân. Tuỳ theo tính chất công việc mà doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong hai phương pháp chia lương sau: * Chia lương theo giờ – hệ số: Tiến hành qua 3 bước: Quy đổi giờ thực tế làm việc của từng công ở từng bậc khác nhau ra số giờ làm việc của công nhân bậc nhân bậc 1. Tổng số giờ hệ số được tính bằng cách lấy giờ làm việc của công nhân nhân với hệ số cấp bậc của người đó sau đó tổng hợp cho cả tổ. Tính tiền lương 1 giờ theo hệ số bằng cách lấy tiền lương cả tổ chia cho tổng số giờ hệ số của cả tổ đã tính đổi. Tính tiền lương cho từng công nhân bằng cách lấy tiền lương thực tế của một giờ nhân với số giờ làm việc. * Chia lương theo hệ số điều chỉnh: Làm 3 bước: Xác định hệ số điều chỉnh cho cả tổ bằng cách lấy tổng tiền lương thực lĩnh chia cho số tiền lương thực tế nhận được. Tính tiền lương cho từng người căn cứ vào hệ số điều chỉnh và tiền lương đã cấp bậc của mỗi người. + Ưu điểm: Hình thức này khuyến khích công nhân trong tổ, nhóm nâng cao trách nhiệm trước tập thể, quan tâm đến kết quả của tổ, đồng thời quan tâm đến nhau hơn để giúp nhau cùng hoàn thành công việc, khuyến khích các tổ lao động làm việc theo mô hình tổ chức lao động theo tổ tự quản. + Nhược điểm: Sản lượng của mỗi công nhân không trực tiếp quyết định tiền công của họ nên ít kích thích công nhân nâng cao năng suất cá nhân. c. Trả lương theo sản phẩm gián tiếp. Thực chất của hình thức này là dựa vào công nhân chính để tính lương cho công nhân phụ. Hình thức này được áp dụng trong trường hợp công việc của công nhân chính và công nhân phụ gắn liền với nhau nên không trực tiếp tính được lương sản phẩm cho các cán bộ và công nhân khác. Căn cứ vào định mức sản lượng và mức độ hoàn thành định mức của công nhân chính để tính đơn giá sản phẩm gián tiếp và tiền lương sản phẩm gián tiếp của công nhân phụ. Tiền lương theo sản phẩm gián tiếp dược tính theo hai bước: Bước 1: Tính đơn giá: Đg= L x Q M Trong đó: Đg: Đơn giá tính theo sản phẩm gián tiếp. L: Lương cấp bậc tháng công nhân phụ, phục vụ. M: Mức phục vụ của công nhân phụ-phụ trợ. Q: Sản lượng của một công nhân chính. Bước 2: Tính lương sản phẩm gián tiếp: L1 = Đgx Q TH Trong đó: L1: Tiền lương thực tế của công nhân phụ. Đg: Đơn giá tiền lương phục vụ. Q TH: Sản lượng thực hiện trong tháng của công nhân chính. Ngoài ra: Tiền lương thực tế của công nhân phục vụ còn được tính theo công thức: L = Đg x L x In M Trong đó: In: Là chỉ số hoàn thành năng xuất lao động của công nhân chính + Ưu điểm cơ bản của hình thức này: Là làm cho mọi cán bộ công nhân viên đều quan tâm đến vấn đề nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, có tác dụng làm cho người lao động phát huy sáng kiến và tích cực cải tiến lao động để tối ưu hoá quá trình làm việc. Đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp đạt được hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. + Nhược điểm: Việc xác định đơn giá giao khoán phức tạp, nhiều khi khó chính xác, nhiều khi dẫn đến bi quan cho người lao động … d. Tiền lương theo sản phẩm luỹ tiến. Chế độ trả lương này áp dụng ở những khâu trọng yếu của sản xuất hoặc khi sản xuất đang khẩn trương m._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3598.doc
Tài liệu liên quan