MụC LụC
Lời nói đầu
Chương I : Khái quát về kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHNN
Việt nam.
Khái niệm về kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHNN Việt nam.
Đối tượng và nội dung kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHNN
Chương II : Thực trạng về hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ
NHNN Việt nam
Mô hình kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHNN Việt nam
Thực trạng về tình hình kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHNN Việt
nam
Chương III : Hoàn thiện giải pháp nhằn nâng cao hiệu quả công tác
Kiểm soát, kiểm toán n
25 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1422 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát, kiểm toán nội bộ Ngân hàng nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội bộ NHNN Việt nam
1. Sự cần thiết để hoà thiện các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHNN Việt nam.
2. Hoàn thiện các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát,
kiểm toán nội bộ NHNN Việt nam.
Kết luận
Tài liệu tham khảo.
LờI NóI ĐầU
Sau 3 năm Luật NHNN đi vào cuộc sống, NHNN Việt nam ngày càng phất huy vai trò đầu tàu của mình: ổn định giá trị đồng tiền quốc gia, kiềm chế lạm phát, xây dựng và thực hiện các chính sách tiền tệ với nỗ lực góp phần tăng trưởng kinh tế...
Tuy nhiên trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá, khu vực hoá hiện nay, nhiệm vụ của NHNN Việt nam trở nên phức tạp hơn bao giờ hết. Để tiếp tục duy trì uy tín hoạt động của mình trong một môi trường cạnh tranh và phát triển , NHNN Việt nam càng phải kiểm soát, kiểm toán chặt chẽ hơn, có khoa học và hiệu quả hơn các hoạt động nghiệp vụ NHTW của mình với tinh thần sẵn sàng hội nhập trong tương lai. Qua đó, ta thấy rằng những nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tới cho công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ nói riêng và các cấp các ngành có liên quan là rất lớn. Rõ ràng vấn đề này còn rất nhiều điều phải bàn tới.
Với mong muốn được tìm hiểu sâu thêm về một vấn đề thời sự đang ngày càng trở thành mối quan tâm sâu sắc của nhiều người, em đã chọn đề tài :
Hoàn thiện các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHNN Việt nam
Mặc dù em rất mong muốn được tìm hiểu sâu hơn nữa về đề tài này nhưng thời gian, trình độ chỉ có hạn, mặt khác, công tác thực tiễn kiểm chứng lại không thể thực hiện được nên đề tài này còn rất nhiều sai sót và hạn chế,em rất mong nhận được những ý kiến, chỉ bảo của thầy cô giáo để hoàn thành đề tài tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thanh Nhàn đã tận tình giảng dạy cho em có được những kiến thức cơ sở và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này .
Chương I
khái quát về kiểm soát, kiểm toán nội bộ nhnn việt nam
1- Khái niệm về kiểm soát, kiểm toán nội bộ của NHNN Việt nam :
Kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHTW có lịch sử tồn tại và phát triển khá lâu ở các nước , đặc biệt là các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. điều này chứng tỏ hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của các NHTW.Trong điều kiện nền kinh tế toàn cầu hội nhập và phát triển ,thị trường tài chính _tiền tệ ở mỗi quốc gia lại được nâng lên ở một tầng cao mới ,vai trò kiểm tra hướng dẫn của NHTW là không thể thiếu ,để làm được điều đó ,tổ chức và hoạt động của NHTW phải thực sự lớn mạnh ,theo đó công tác kiểm soát nội bộ phải được thực hiện ngày càng chặt chẽ và hiệu quả hơn .
Để đáp ứng nhu cầu của sự phát triển, Uỷ ban các chuẩn mực kiểm soát quốc tế Basel đã nêu lên khái niệm của kiểm soát, kiểm toán nội bộ :
Kiểm soát nội bộ là toàn bộ các biện pháp kiểm tra ,kế toán hoặc các biện pháp khác do ban giám đốc chịu trách nhiệm xây dựng, áp dụng và giám sát nhằm mục đích bảo vệ tài sản của doanh nghiệp, tính tin cậy của các ghi chép kế toán và của các báo cáo tài chính năm được lập trên cơ sở các ghi chép đó, việc tuân thủ các quy chế và thủ tục hiện hành, kiểm tra việc sử dụng các nguồn lực của ngân hàng .
Theo Uỷ ban Basel công tác kiểm soát phải thực hiện được các nhiệm vụ sau:
+ Đơn vị được kiểm soát có hình thành các mục tiêu và mục đích đề ra, sử dụng nguồn lực có hiệu quả hay không?
+ Kiểm soát được các rủi ro có thể xảy ra và bảo vệ tài sản
+ Tính đáng tin cậy và thống nhất của các thông tin quản lý và tài chính
+ Tuân thủ pháp luật và quy định cũng như các chính sách, kế hoạch, các thủ tục và quy chế nội bộ
Còn kiểm toán nội bộ là quá trình một hoặc một số cá nhân độc lập có thẩm quyền, có kỹ năng nghiệp vụ thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một hoặc một số đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo các mức độ phù hợp giữa các thông tin có thể định lượng đó với các chuẩn mực đã được xây dựng
Trong đó, các chuẩn mực kiểm toán NHTW thường là các quy định , quy phạm pháp luật, các biện pháp nghiệp vụ, các chuẩn mực về các nghiệp vụ ngân hàng đã được xây dựng trước, các quy định về kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước , của Chính phủ.
Như vậy, công tác kiểm soát , kiểm toán nội bộ NHNN Việt nam cũng mang những đặc điểm cơ bản của công tác kiểm soát , kiểm toán nội bộ NHTW quốc tế; cụ thể, theo Quy chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHNN ban hành theo Quyết định số 93/1999/QĐ-NHNN 4 ngày 20.03.1999 của Thống đốc NHNN thì:
Kiểm soát hoạt động của các đơn vị thuộc hệ thống NHNN là quá trình kiểm tra và giám sát các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng, tình hình thực hiện chức năng nhiệm vụ của các đơn vị và chấp hành pháp luật, các chính sách, chế độ của Nhà nước, của NHNN,nhằm:
* Đảm bảo an toàn tài sản của Nhà nước do NHNN quản lý
* Kiểm tra, giám sát tính chính xác, độ tin cậy của các số liệu hạch toán kế toán, phát hiện, ngăn chặn kịp thời các sai lầm, thiếu sót có thể xảy ra trong quá trình tác nghiệp toàn bộ hoạt động của NHNN.
* Thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của NHNN trong việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và thực hiện chức năng NHTW mang lại hiệu quả cao.
* Đảm bảo tuân thủ đúng đường lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chế độ, thể lệ nghiệp vụ của NHNN.
Kiểm toán nội bộ NHNN là việc tiến hành đánh giá và xác nhận một cách độc lập tính trung thực, đúng đắn, hợp lý các bảng cân đối kế toán và báo cáo tài chính của toàn bộ hệ thống NHNN
2- Đối tượng, nội dung của kiểm soát, kiểm toán nội bộ:
Mỗi nước khác nhau, kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHTW có nhiệm vụ khác nhau tùy thuộc vào tính độc lập của NHTW, tùy thuộc vầo các kế hoạch, chiến lược và quá trình quản lý cụ thể, theo đó các đối tượng của công tác kiểm soát nội bô là khác nhau .
Tại các nước phát triển , kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHTW có thẩm quyền kiểm soát tất cả các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng. Phạm vi kiểm soát bao gồm:
+ Tất cả các bộ phận, đơn vị
+ Tất cả các loại thu nhập, chi phí
+ Tất cả các loại hoạt động ( ví dụ: các thủ tục và hệ thống in ấn, phát hành, tiêu hủy và các hệ thống thanh toán, các dự án đầu tư).
Tại Việt nam, từ 1/10/1998 NHNN Việt nam chính thức hoạt động theo Luật NHNN Việt nam và theo Điều 57 Luật NHNN thì đối tượng kiểm soát , kiểm toán của NHNN là hoạt động của tất cả các đơn vị trực thuộc NHNN, các chi nhánh NHNN tỉnh , thành phố trực thuộc và các doanh nghiệp trực thuộc NHNN.Vụ Tổng Kiểm soát, theo Điều 16 Pháp lệnh NHNN Việt Nam, là đơn vị tham mưu của Thống đốc NHNN Việt Nam, thực hiện kiểm toán nội bộ toàn bộ các đơn vị thuộc hệ thống tổ chức bộ máy của NHNN, nội dung của công tác kiểm soát nội bộ bao gồm:
Giám sát việc chấp hành luật pháp trong hệ thống NHNN
Giám sát sự an toàn kho quỹ của NHNN
Giám sát hoạt động in, giao, nhận tiền của nhà máy in tiền
Tham gia xây dựng kế hoạch thu chi tài chính và giám sát việc chấp hành chế độ chi tiêu, xây dưng, mua sắm, thu nhập, trích lập, và sử dụng các quỹ
Đề xuất các biện pháp xử lý với các cấp lãnh đạo các vi phạm đã phát hiện khi kiểm soát tại đơn vị
Đề xuất ý kiến đóng góp với các dự thảo văn bản do các đơn vị trong hệ thống NHNN xây dựng
Soạn thảo các quy chế hoạt động kiểm soát để trình Thống đốc phê duyệt.
Các loại hình Vụ Tổng kiểm soát thực hiện kiểm toán nội bộ :
* Kiểm toán báo cáo tài chính
* Kiểm toán hoạt động
* Kiểm toán dự án đầu tư xây dựng và mua sắm tài sản
* Kiểm toán hoạt động kho quỹ
* Kiểm toán hoạt động quản lý quỹ dự trữ Nhà nước, kinh doanh ngoại hối, thị trường mở, đầu tư tín dụng,kiểm toán tin học
Kiểm toán báo cáo tài chính là việc kiểm soát viên NHNN tiến hành kiểm toán một cách độc lập báo cáo tài chính , các thông tin có liên quan đến các báo cáo tài chính của NHNN để xác định tính chính xác, tính trung thực, tính đầy đủ và phù hợp với các nguyên tắc, chế độ hạch toán kế toán, quản lý tài chính hiện hành của NHNN.
Kiểm toán hoạt động là quá trình kiểm soát viên NHNN căn cứ vào hồ sơ, tài liệu do đơn vị cung cấp để đánh giá một cách độc lập việc triển khai thực hiện nhiệm vụ của đơn vị được kiểm toán trên các mặt: tổ chức bộ máy biên chế cán bộ, quản lý và sử dụng các nguồn lực, các biện pháp tổ chức, thực hiện mục tiêu nhiệm vụ, qua đó đánh giá tính hiệu lực trong chỉ đạo điều hành của lãnh đạo đơn vị và hiệu quả hoạt động của đơn vị được kiểm toán .
Kiểm toán tuân thủ là quá trình kiểm soát viên NHNN căn cứ vào kết quả xử lý công việc của công chức, đơn vị; đối chiếu với các quy định hiện hành để đánh giá mức độ tuân thủ quy định pháp luật, quy chế, chế độ, quy trình xử lý nghiệp vụ nhằm phát hiện vi phạm, ngăn chặn rủi ro đảm bảo an toàn tài sản trong hoạt động ngân hàng .
Thực tế, kiểm toán hoạt động và kiểm toán báo cáo tài chính là hai nội dung kiểm toán thường được quan tâm nhất trong các quy chế, quy định về kiểm toán nội bộ của NHNN. Kiểm toán hoạt động và kiểm toán báo cáo tài chính có những sự khác biệt chủ yếu:
+Về mục tiêu kiểm toán :
Kiểm toán hoạt động quan tâm đến những gì đang xảy ra, đánh giá chất lượng tác nghiệp và quản lý để lượng đoán một kết quả trong tương lai. Kiểm toán hoạt động NHNN tìm hiểu xem các mục tiêu có được đặt ra không và có được thực hiện một cách hiệu quả không.
Kiểm toán báo cáo tài chính lại luôn hướng về quá khứ, đánh giá độ tin cậy của các thông tin trên báo cáo tài chính thông qua việc tái hiện lại những giao dịch đã phát sinh và thu thập những thông tin đã xảy ra có liên quan đến các giao dịch đó.
+Về phạm vi kiểm toán :
Kiểm toán báo cáo tài chính chỉ liên quan đến những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến lĩnh vực tài chính, mục đích chính là để chứng thực các tài khoản của ngân hàng .
Kiểm toán hoạt động liên quan đến mọi lĩnh vực hoạt động của ngân hàng, bao gồm cả lĩnh vực phi tài chính, nhằm đánh giá tính hiệu lực và hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực trong việc thực hiện các mục tiêu.
Đối với các chi nhánh, kiểm toán hoạt động đòi hỏi phải đánh giá được hiệu quả hoạt động của các phòng, ban, đơn vị trong chi nhánh và mối liên hệ giữa các bộ phận đó để thực hiện mục tiêu tổng thể. Một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính chỉ có thể đưa ra những nhận xét, đánh giá về hoạt động tài chính của bản thân chi nhánh mà không đánh giá được hiệu quả hoạt động của chi nhánh trong lĩnh vực quản lý Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng trên địa bàn .
Phạm vi một cuộc kiểm toán hoạt động tại chi nhánh có thể bao gồm: đánh giá hoạt động kiểm soát nội bộ của chi nhánh, phân tích điều kiện thực hiện các nhiệm vụ và thi hành các văn bản chỉ đạo của NHNN; phân tích, đánh giá cách thức tổ chức thực hiện nhiệm vụ; đánh giá việc sử dụng người và phương tiện vật chất ; phòng ngừa sai sót và gian lận; đánh giá hiệu quả của cơ chế kiểm soát nội bộ trong việc thực hiện nghiệp vụ đối với các nghiệp vụ dễ gặp rủi ro; thanh toán, kho quỹ, tín dụng , tiền gửi ... đánh giá chất lượng, độ an toàn của hệ thống thông tin (bao gồm cả chất lượng các báo cáo gửi NHNN); lưu giữ và xử lý thông tin qua mạng máy tính; kiểm tra an toàn tin học; thông qua kiểm toán, kiến nghị chỉnh sửa những tồn tại của chi nhánh và những bất hợp lý của cơ chế chính sách.
Còn phạm vi của kiểm toán báo cáo tài chính bao gồm: Kiểm toán việc chấp hành kỷ luật dự toán thu-chi; kiểm tra nội dung thu- chi chủ yếu là : Tính hợp pháp của các khoản thu-chi ; tính hợp lệ của các thủ tục, chứng từ, sổ sách mở tài khoản và hạch toán, sự chính xác trong việc tính toán các khoản thu- chi, kiểm tra các tài khoản ngoại bảng, kiểm tra việc chấp hành chế độ báo cáo quyết toán.
Kiểm toán nội bộ NHNN không nhằm mục đích kiến nghị, xử lý kỷ luật (ngoại trừ vi phạm nghiêm trọng) mà thông qua hoạt động của mình đảm bảo cho hệ thống NHNN tuân thủ đúng quy định của pháp luật, hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn tài sản, đảm bảo uy tín của ngành, tạo thế ổn định và phát triển của NHNN trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2
Thực trạng về hoạt động kiểm soát, kiểm toán
nội bộ NHNN Việt nam
Mô hình tổ chức của Vụ Tổng kiểm soát NHNN Việt nam:
Tháng 12/1990, Vụ Tổng kiểm soát được thành lập, thực hiện chức năng kiểm soát hoạt động của các đơn vị thuộc hệ thống NHNN theo quy định tại Điều 16 Pháp lệnh NHNN Việt nam. Đến tháng 10/1998, Luật NHNN chính thức đi vào cuộc sống. Theo đó, tại Điều 57 quy định Vụ Tổng kiểm soát NHNN có nhiệm vụ kiểm soát hoạt động của các đơn vị thuộc NHNN và kiểm toán nội bộ đối với các đơn vị thực hiện nghiệp vụ NHTW. Để thực hiện được nhiệm vụ được giao, Vụ Tổng kiểm soát NHNN đã được tổ chức theo mô hình tập trung dân chủ nhằm phát huy năng lực của các bộ phận, nâng cao tính hiệu quả, khách quan và trung thực của công việc đồng thời nhấn mạnh vai trò tổ chức, chỉ đạo của cấp lãnh đạo.
Sơ đồ tổ chức tổng kiểm soát NHNN Việt Nam
Phòng Tổng hợp và
chế độ
Phòng Kiểm soát Trung ương
Phòng Kiểm soát Địa phương
Phòng Kiêm soát các DN trực thuộc
Phòng Giám sát an toàn
Phòng, bộ phận kiểm soát, kiểm toán nội bộ tại một số Vụ, Cục, các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố
Ban lãnh đạo
Vụ Tổng Kiểm soát
Với mô hình tổ chức như trên, công tác kiểm soát của NHNN đã được thực hiện hiệu quả hơn, các quy trình, các nghiệp vụ có thể dẫn tới rủi ro đã được xây dựng hệ thống kiểm soát. Các cấp độ kiểm soát đã được hình thành và thực hiện theo các nội dung kiểm soát từ cấp 1 và cấp 2 (một số nghiệp vụ phát sinh hằng ngày, tham gia công tác quản lý) đến cấp 3(kiểm toán) như mô hình :
Thường do những người trực tiếp thực hiện nghiệp vụ thực hiện
Sơ đồ hoạt động kiểm soát NHNN Việt nam hiện nay
Một số Vụ, Cục chức năng
Vụ Tổng Kiểm soát
Kiểm soát cấp độ I
Phòng hoặc bộ phận kiểm soát
Kiểm soát cấp độ II
Kiểm soát cấp độ III
Thường do những người quản lý ở các cấp thực hiện
Thường do kiểm toán nội bộ, kiểm toán Nhà nước thực hiện
Vụ Tổng Kiểm soát thực hiện kiểm toán nội bộ
Vụ Tổng Kiểm soát chỉ đạo nghiệp vụ kiểm soát, kiểm toán nội bộ cho các phòng, bộ phận kiểm soát ở một số đơn vị và ở 61 chi nhánh NHNN tỉnh , thành phố
Vụ Tổng Kiểm soát tham gia giám sát trực tiếp hàng ngày về xuất nhập tiền tại kho tiền Trung ương 1, tại Nhà máy in tiền quốc gia, tham gia giám sát, tiêu huỷ tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông
Phòng hoặc bộ phận kiểm soát tham gia kiểm toán nội bộ
Phòng hoặc bộ phận kiểm soát tham gia giám sát trực tiếp một số nghiệp vụ về tiền tệ, kho quỹ, mua sắm tài sản, kiểm soát một số công việc của kế toán, tài chính
Phòng hoặc bộ phận kiểm soát tham gia quản lý một số công việc nghiệp vụ
Một số Vụ, Cục chức năng NHTW tham gia kiểm tra theo chuyên ngành quản lý (chức năng kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động)
Thống đốc NHNN chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ trong NHNN, thủ trưởng các đơn vị thuộc hệ thống NHNN chịu trách nhiệm về hệ thống kiểm soát nội bộ trong đơn vị của mình
Theo thống kê (31/12/1999), toàn hệ thống NHNN có 182 kiểm soát viên, trong đó:
ãTại Vụ Tổng kiểm soát có 05 phòng , 47 kiểm soát viên
ã Phòng hoặc bộ phận kiểm soát tại 61 chi nhánh NHNN tỉnh , thành phố là: 123 kiểm soát viên
ãTại các đơn vị thuộc NHNN Trung ương là: 12 kiểm soát viên
Thực trạng về tình hình kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHNN Việt nam :
Giai đoạn từ 1991 đến 2000
Trong thời kỳ từ 1991 đến 1998, với chức năng kiểm toán hoạt động theo quy định của Pháp lệnh NHNN Việt nam, có thể nói hoạt động của Vụ Tổng kiểm soát chủ yếu tập trung vào kiểm tra, kiểm soát chỉ tiêu tài chính và công tác an toàn kho quỹ. Hiện nay, trong điều kiện hoạt động của NHNN ngày càng phức tạp, nội dung công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ của NHNN đã có nhiều đổi mới cơ bản; ví dụ như : đã có sự đổi mới trong công tác tổ chức và thực hiện công tác kiểm toán nội bộ. Các đợt kiểm toán nội bộ được thực hiện theo trình tự: Lập kế hoạch- thực hiện kiểm toán- Bái cáo kiểm toán – theo dõi thực hiện các kiến nghị của kiểm toán. Không hoàn toàn như phưong pháp kiểm tra, kiểm soát theo kinh nghiệm “ truyền thống “ ; đối với kiểm toán nội bộ thì đánh giá rủi ro trong hệ thống kiểm soát nội bộ được coi là điểm xuất phát của kiểm soát viên. Từ kinh nghiệm thu được qua những lần kiểm toán trước và quá trình thu thập, khai thác thông tin hoạt động của các đơn vị, nhất là thông tin về tài chính trên mạng, kiểm soát viên có những đánh giá ban đầu về những rủi ro có thể xảy ra. Đây là một căn cứ hết sức cần thiết để định hướng mục tiêu và phạm vi kiểm toán khi xây dựng kế hoạch. Việc đánh giá rủi ro được kiểm soát viên tiếp tục thực hiện trong khi kiểm toán để điều chỉnh phạm vi và phương pháp kiểm toán phù hợp nếu có sự thay đổi về mức độ rủi ro so với những đánh giá ban đầu. Thời gian qua, quy trình kiểm toán báo cáo tài chính đã được tiến hành trên cơ sở này; theo đó, các khoản mục trên bảng cân đối các tài khoản kế toán được kiểm soát viên đánh giá mức độ rủi ro mà hệ thống kiểm soát nội bộ có thể không phát hiện được. Sự đổi mới này đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Nếu như trước đây, thời gian kiểm toán báo cáo tài chính tại mỗi đơn vị khoảng 3 tuần thì nay rút xuống còn 1 tuần, nhưng điều quan trọng là vẫn đảm bảo yêu cầu đặt ra. Trong 3 năm trở lại đây, mỗi năm Vụ Tổng kiểm soát thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính khoảng 25 – 30 đơn vị. Như vậy, có thể định kỳ 2 năm sẽ kiểm toán báo cáo tài chính đơn vị một lần. Kết thúc mỗi đợt kiểm toán , việc lập báo cáo kết quả kiểm toán thực hiện theo mẫu thống nhất, đáp ứng yêu cầu tổng hợp chung và việc theo dõi thực hiện các kiến nghị của kiểm toán nội bộ... Ngoài ra, cơ quan kiểm toán Nhà nước đã thành lập Phòng kiểm toán Ngân hàng thuộc Vụ Kiểm toán doanh nghiệp thuộc bộ máy tổ chức của Kiểm toán Nhà nước. Phòng Kiểm toán Ngân hàng có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm của NHNN và kiểm toán các NHTM nhà nước; được sự trợ giúp của Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) cơ quan kiểm toán Nhà nước đang xây dựng Cẩm nang
Kiểm toán báo cáo tài chính NHNN . Trong năm 1997, Vụ Tổng kiểm soát đã tiến hành kiểm toán báo cáo tài chính cả năm của 18 chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố và đã phát hiện có sai sót là 6.560 triệu đồng như : hạch toán sai tài khoản, chi tiêu chưa đúng chế độ, tạm ứng sai nguyên tắc ... Trong năm 1998, Vụ Tổng kiểm soát đã tiến hành kiểm toán báo cáo tài chính của 20 chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố, kiểm toán báo cáo tài chính toàn bộ hệ thống NHNN tại Vụ Kế toán tài chính đã phát hiện có sai sót là 4250 triệu đồng. Năm 1999, Vụ Tổng kiểm soát đã thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính năm của 19 chi nhánh tỉnh, thành phố va phát hiện có sai sót là 3.180 triệu đồng. Sang năm 2000, cơ quan kiểm toán Nhà nước đã tiến hành kiểm tra với 40 chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố, 04 Vụ, Cục liên quan và thực hiện kiểm tra toàn hệ thống NHNN tại Vụ Kế toán tài chính.
Một số chỉ tiêu kiểm toán nội bộ NHNN 3 năm
(1997,1998, 1999)
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
1997
1998
1999
1-Giám sát trực tiếp các kho tiền, các nhà máy thực hiện in tiền.
Các kho tiền:
+ Các kho tiền TƯ
+ Các kho tiền đặt tại các chi nhánh tỉnh, thành phố
- Các Nhà máy thực hiện in tiền
Cuộc
Thường xuyên theo mỗi lần xuất nhập kho
Giám sát, kiểm kê vào cuối kỳ mỗi lần xuất nhập kho
Từng lần xuất nhập giấy in tiền, mực in,xuất, nhập tiền
Thường xuyên theo mỗi lần xuất nhập kho
Giám sát, kiểm kê vào cuối kỳ mỗi lần xuất nhập kho
Từng lần xuất nhập giấy in tiền, mực in,xuất, nhập tiền
Thường xuyên theo mỗi lần xuất nhập kho
Giám sát, kiểm kê vào cuối kỳ mỗi lần xuất nhập kho
Từng lần xuất nhập giấy in tiền, mực in,xuất, nhập tiền
2-Số lượng kiểm soát viên
Tại Vụ Tổng kiểm soát
Tại các chi nhánh
Tại các đơn vị phụ thuộc
Người
186
50
120
16
190
48
125
17
182
47
123
12
Số lượng cuộc kiểm toán
-Kiểm toán báo cáo tài chính
-Kiểm toán xây dưng cơ bản
-Kiểm toán tuăn thủ, kiểm toán hoạt động.
Trong đó:
*quản lý ngoại hối
*tín dụng
*chi nhánh NHNN
*ban quản lý dự án
Cuộc
32
18
11
03
01
01
01
25
21
02
02
02
20
19
0
01
01
4-Tổng giá trị kiểm toán phát hiện có sai sót
Triệu đồng
6.560
4.250
3.180
ã Giai đoạn từ 2001 đến nay :
Thực hiện chương trình công tác kkđã được Thống đốc NHNN phê duyệt, trong 3 năm trở lại đây, Vụ Tổng kiểm soát đã chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ trong hệ thống NHNN đã đạt các kết quả sau :
Xây dựng mới và bổ sung, sửa đổi cơ chế, quy chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ:
Trong năm 2002, Vụ Tổng Kiểm soátđã tiến hành dự thảo và trình Thống đốc ký ban hành Quyết định số 271/2002/QĐ-NHNN, quyết định 1144/QĐ-NHNN ngày 18/10/2002 cho phép áp dụng quyết định số1481/2001/QĐ-NHNN để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của NHNN đối với Xí nghiệp in Dịch vụ Ngân hàng của Công ty đầu tư thương mại dịch vụ của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt nam... Đồng thời,Vụ cũng ban hành các văn bản hướng dẫn quy trình nghiệp vụ, đó là:
Hướng dẫn thực hiện quy chế kiểm tra, giám sát của NHNN đối với Nhà máy in tiền Quốc gia ban hành theo Quyết định số 1481/2001/QĐ-NHNN ngày 26/11/2001 của Thống đốc NHNN
Công văn số 20/CV-TKS ngày 22/01/2002 bổ sung, sửa đổi một số điểm trongcông văn số 237/HD-TKS ngày 5/6/2001 hướng dẫn quy trình kiểm toán báo cáo tài chính năm NHNN
Công văn 248/Cv-TKS1 ngày 22/5/2002 về việc triển khai thực hiện QĐ số 271/2002/QĐ-NHNN ngày 1/4/2002 của Thống đốc ban hành quy định về việc cung cấp, khai thác và sử dụng tài liệu, thông tin báo cáo thực hiện công tác kiêm soát, kiểm toán nội bộ NHNN
Công văn số 250/CV-TKS1 ngày 23/5/2002 về việc hướng dẫn quy trình kiểm toán nội bộ đối với các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố
Thay thế các công văn 345/CV-TKS3 ngày 24/5/2000, công văn 346/CV-TKS4 ngày 24/5/2000 với nội dung quy trình giám sát, kiểm toán an toàn kho quỹ NHNN...
Hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ trong hệ thống NHNNđược chú trọng:
Trên cơ sở các văn bản hướng dẫn thi hành, trong năm 2002, Vụ Tổng Kiểm soát đã triển khai kiểm toán tại Vụ Kế toán-Tài chính, Thời báo Ngân hàng, Tạp chí Ngân hàng và tại 24 chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Qua cuộc kiểm tra, Vụ đã phát hiện nhữnh vấn đề tồn tại về việc chậm trễ trong việc ban hành các quy định về quản lý thu chi tài chính, hạch toán tài khoản chênh lệch tỷ giá và đảm bảo quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước và các công việc có liên quan, về những vấn đề cần chấn chỉnh trong điều hành, xử lý nợ phải thu của Tạp chí Ngân hàng và Thời báo Ngân hàng trước năm 2002; kiến nghị về việc hoàn chỉnh các quy định nội bộ.
Cũng trong năm 2002, Vụ đã tiến hành 24 cuộc kiểm toán báo cáo tài chính tại 24 chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Qua kiểm tra đã phát hiện những tồn tại chủ yếu là : Chậm quyết toán trong khâu mua sắm tài sản cố định, việc hạch toán, thanh toán, kiểm kê và thanh lý tài sản cố định còn chậm và có sai sót. Các khoản phải thu, phải trả : tại một số chi nhánh còn để tồn đọng những khoản tạm ứng lâu ngày chưa thu hồi, đặc biệt có nhữnh khoản tạm ứng mà cán bộ đã nghỉ hưu hoặc chuyển công tác sang đơn vị khác nên việc thu hồi gặp khó khăn. Hoạt động thu chi tài chính tại 24 chi nhánh được kiểm tra nhìn chung là tốt, hầu hết các đơn vị đều thu đúng, thu đủ các khoản thu theo chế độ quy định. Các khoản chi thực hiện trong phạm vi được duyệt và tiết kiệm. So với năm 2000, tình trạng vận dụng chi sai chế độ như chi hỗ trợ ngoài ngành, chi mua bảo hiểm cho cán bộ ... đã giảm nhiều. Tuy nhiên, qua kết quả kiểm toán phát hiện một số dạng sai sót trong việc chi khấu hao tài sản cố định, trong số 24 chi nhánh được kiểm toán có đến 12 chi nhánh trích khấu hao tài sản cố định không đúng, có nơi tính thiếu, có nơi tính thừa. Nguyên nhân tính không chính xác khấu hao tài sản cố định là do các đơn vị không thực hiện đúng quy định về thời gian tính khấu hao, tỷ lệ tính khấu hao các loại tài sản cố định
* Về kết quả kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ:
Đối với các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố : Qua kết quả kiểm toán tuân thủ tại 13 chi nhánh cho thấy nhìn chung, các đơn vị đã đảm bảo tuyệt đối an toàn kho quỹ; chấp hành nghiêm túc việc chấn chỉnh sau kiểm toán của kiểm toán Nhà nước và kiểm toán nội bộ. Tuy nhiên, qua kiểm toán phát hiện một số tồn tại về việc chậm thi hành theo các quyết định 25/1999/QĐ-NHNN9 của Thống đốc hoặc chưa chỉnh sửa bổ sung quy định về các chức năng của các Phòng, Ban theo quyết định này mà vẫn thực hiện theo QĐ 361/QĐ-NH9 ngày 31/12/1996... trong công tác thanh toán: Hệ thống mạng máy của các chi nhánh được làm từ năm 1993, theo thiết kế mạng BUS, nay đã xuống cấp. Một số chi nhánh đã tiến hành cải tạo, nâng cấp nhưng mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ. Với thực trạng hệ thống mạng như hiện nay sẽ ảnh hưởng đến công tác thanh toán, việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo và triển khai kiểm soát qua mạng máy của kiểm soát viên theo quyết định số 271/2002/QĐ-NHNN. Trong công tác an toàn kho quỹ: tồn tại nổi lên là còn có chi nhánh chưa chấp hành nghiêm túc chế độ sử dụng bảo quản chìa khoá kho, như : chìa khoá dự phòng két, tủ sắt chưa được niêm phong và bảo quản tại két của Giám đốc; giấy uỷ quyền của Giám đốc cho Phó Giám đốc thực hiện nhiệm vụ quản lý tiền mặt và kho tiền không quy định thời gian cụ thể; khi bàn giao chìa khoá kho tiền không kiểm kê bàn giao tài sản theo quy định. Tại một số chi nhánh kho tiền được xây dựng từ những năm trước nên diện tích hẹp, không có gian đệm , vị trí và cấu trúc kho chưa đáp ứng tiêu chuẩn quy định hiện hành nhạn thức rõ tầm quan trọng của công tác an toàn kho quỹ nên Vụ đã thương xuyên chỉ đạo các chi nhánh giám sát, kiểm tra kho đều đặn, cho đến nay, qua đánh giá và kiểm toán kho quỹ của NHNN đảm bảo an toàn, không mất mát tài sản. Mặt khác Vụ đã giám sát chặt chẽ hoạt động xuất nhập tài sản tại Kho tiền trung ương 1; thực hiện chế độ kiểm kê tài sản tại Kho tiền Trung ương theo đúng quy định; tham gia cùng Bộ Tài chính, Bộ Công an giám sát, đảm bảo an toàn tài sản trong công tác tiêu huỷ tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông
* Tăng cường phối hợp với kiểm toán Nhà nước trong triển khai kiểm toán báo cáo tài chính năm và việc thực hiện nhữnh kiến nghị sau kiểm toán. Trong năm 2002, giữa Vụ Tổng kiểm soát và Vụ kiểm toán Doanh nghiệp thuộc Kiểm toán Nhà nước đã có sự chủ động phối hợp triển khai thực hiện kiểm toán có hiệu quả. Kiểm toán Nhà nước đã sử dụng báo cáo kiểm toán của kiểm toán nội bộ tại các chi nhánh vào báo cáo kết quả chung của Kiểm toán Nhà nước làm giảm kiểm toán tại các chi nhánh. Năm 2002, kiểm toán Nhà nước chỉ kiểm toán báo cáo tài chính năm 2001 tại 3 chi nhánh, điều này cho thấy cơ quan Kiểm toán Nhà nước đã đánh giá chất lượng công tác kiểm toán báo cáo tài chính của kiểm toán nội bộ ngày càng được nâng lên, phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán chung. Ngoài ra, để chấn chỉnh những tồn tại sau kiểm toán báo cáo tài chính năm, Vụ đã trình Thống đốc NHNN ký công văn số 261/NHNN- TKS.m ngày 26/8/2002 chỉ đạo các đơn vị trong hệ thống NHNN thực hiện kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước, Kiểm toán nội bộ.
Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại trong tổ chức và hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHNN phải khắc phục nếu muốn duy trì được uy tín hoạt động của mình trong một môi trường ổn định và đáng tin cậy :
Hiện nay, Vụ Tổng kiểm soát thực hiện kiểm toán nội bộ NHNN theo Quy chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHNN ban hành theo Quyết định số 93/1999/QĐ-NHNN4 ngày 20/3/1999 của Thống đốc NHNN. Quy chế này quy định : “Kiểm toán nội bộ NHNN là việc tiến hành đánh giá và xác nhận một cách độc lập tính trung thực, đúng đắn, hợp lý các bảng cân đối kế toán và báo cáo tài chính của các đơn vị, các báo cáo quyết toán xây dựng cơ bản và báo cáo tài chính của toàn hệ thống NHNN”. Như vậy, về phạm vi kiểm toán nội bộ, Quy chế kiểm soát và kiểm toán nội bộ NHNN chưa quy định đầy đủ theo Luật NHNN.
Trình độ đội ngũ cán bộ của Vụ Tổng kiểm soát vừa thiếu về số lượng vừa yếu về trình độ chuyên môn. Hiện tại, đa số cán bộ, công chức chưa được đào tạo bài bản, phần đông cán bộ được đào tạo tại chức, tỷ lệ đào tạo chính quy dài hạn thấp. Việc khảo sát, học tập kinh nghiệm về kiểm toán nội bộ NHTW các nước quá ít. Số cán bộ có năng lực nghiên cứu đưa các phương pháp kiểm toán theo chuẩn mực Quốc tế áp dụng vào điều kiện Việt nam còn rất hạn chế.
Chức năng kiểm soát nội bộ vàkiểm toán nội bộ chưa được phân định rõ ràng, do đó, trách nhiệm của các thành viên liên quan đến hoạt động của NHNN chưa thấy hết rõ trách nhiệm của mình trong công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ.
Kiểm soát, kiểm toán nội bộ lĩnh vực ngoại hối và tin học của NHNN tuy đã có nhưng chưa đầy đủ và đồng bộ; có thể nói trong hai lĩnh vực này các cơ chế, chính sách còn thiếu, các quy trình kiểm toán chưa được ban hành, cán bộ tác nghiệp cũng như cán bộ trực tiếp kiểm soát, kiểm toán lĩnh vực này còn yếu về nghiệp vụ, bất cập với những công việc liên quan.
Phần lớn các chuẩn mực kiểm toán NHNN chưa được xây dựng, nhất là các chuẩn mực quan trọng chưa được ban hành như : chuẩn mực về mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối cuộc kiểm toán... , công tác kiểm toán nội bộ cũng mới đang ở giai đoạn ban đầu nên chưa phát huy hết hiệu quả của nó
Các Vụ, Cục chức năng NHTW chịu trách nhiệm tham mưu cho Thống đốc NHNN về các nghiệp vụ của mình, có những trường hợp thừa lệnh Thông đốc ban hành các văn bản, cấp kinh phí, điều chuyển tiền....nhưng sau đó lại trực tiếp đi kiểm tra, kiểm soát, thì nó không có tính khách quan, trung thực và đã xảy ra tình trạng bản thân họ không thấy được những ván đề sai sót thuộc về trách nhiệm của họ
Ngân hàng Nhà nước Việt nam hiện nay chưa có Uỷ ban Kiểm toán, do đó các báo cáo Kiểm toán được trình cho Phó Thống đốc hoặc Thống đốc. Trong một số trường hợp báo cáo kiểm toán liên quan đến nhiều đơn vị, nhiều cơ chế, chính sách, do đó Phó Thống đốc, Thống đốc không quyết định xử lý ngay khi có kết quả kiểm toán mà phải tổ chức họp ban lãnh đạo NHNN hoặc phối hợp với các Vụ chức năng sau đó mới quyết định xử lý kết quả kiểm toán.
Tóm lại, hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHNN đã có sự chuyển bién tích cực về số lượng và chất lượng, cụ thể như sau :
Nhận thức về vai trò của kiểm soát, kiểm toán nộ bộ tại các đơn vị Vụ, Cục, Chi nhánh NHNN đã được nâng lên, tạo môi trường kiểm soát tốt.
Hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHNN đã đi vào khuôn khổ , ban đầu đã đạt được một số kết quả nhất định._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV064.doc