Tài liệu Hoàn thiện các điều kiện để chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp tại Công ty cổ phần may nông nghiệp: ... Ebook Hoàn thiện các điều kiện để chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp tại Công ty cổ phần may nông nghiệp
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1459 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện các điều kiện để chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp tại Công ty cổ phần may nông nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trêng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n
khoa kinh tÕ vµ kinh doanh quèc tÕ
Chuyªn ngµnh qu¶n trÞ kinh doanh quèc tÕ
&
CHUY£N §Ò ThùC TËP TèT NGHIÖP
§Ò tµi:
HOµN THIÖN C¸C §IÒU KIÖN §Ó CHUYÓN §æi tõ gia c«ng xuÊtkhÈu sang xuÊt khÈu trùc tiÕp t¹i C«ng ty cæ phÇn may n«ng nghiÖp
Gi¸o viªn híng dÉn : PGS.TS. NGUYÔN THÞ H¦êNG
Sinh viªn thùc hiÖn : vò duy biªn
Líp : KDQT A
Kho¸ : 46
HÖ : chÝnh quy
Hµ Néi - 2008
LỜI MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Xu thế hội nhập nền kinh tế quốc dân đang diễn ra mạnh mẽ, không chỉ bao trùm các khu vực mà còn diễn ra trên phạm vi toàn thế giới. Hòa cùng xu thế ấy, các quốc gia, các ngành kinh tế đang dần chuyển mình bắt nhịp với nền kinh tế chung của nhân loại. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế ấy. Từ đổi mới đến nay, đặc biệt khi Việt Nam đã là thành viên của WTO, các ngành kinh tế của Việt Nam đang thay đổi diện mạo của mình, mà đặc biệt phải kể tới ngành dệt may Việt Nam – một trong ngành phát triển nhất hiện nay của Việt Nam và có kim ngạch xuất khẩu đứng đầu trong số các mặt hàng xuất khẩu năm 2007.
Trước đây, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là gia công xuất khẩu cho các đối tác nước ngoài, nhưng trong điều kiện hội nhập và sự phát triển kinh tế vượt bậc của Việt Nam đang mở ra cơ hội xuất khẩu trực tiếp cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam để nâng cao uy tín và doanh thu cho các doanh nghiệp . Vì thế các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang từng bước hoàn thiện các điều kiện sản xuất, công nghệ, chiến lược… để chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp nhằm nâng cao vị thế của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế. Trên xu thế đó, việc tìm hiểu và nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện các điều kiện để chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp tại Công ty cổ phần may nông nghiệp” hy vọng sẽ đóng góp những ý kiến giúp công ty hoàn thiện các điều kiện cần thiết để chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp nhằm nâng cao vị thế và hiệu quả kinh doanh quốc tế của Công ty.
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.
2.1 Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các điều kiện về sản xuất, công
nghệ, chiến lược… tại công ty cổ phần may nông nghiệp để thực hiện chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về gia công xuất khẩu, xuất khẩu trực tiếp và các điều kiện chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp.
Phân tích thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu và các điều kiện hiện có để chuyển từ sang xuất khẩu trực tiếp tại Công ty cổ phần may nông nghiệp. Từ đó rút ra những khiếm khuyết trong các điều kiện chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp tại Công ty.
Đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy việc chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp của Công ty cổ phần may nông nghiệp.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phân tích và đánh giá hoạt động gia công xuất khẩu và các điều kiện về sản xuất, sản phẩm, thị trường, chiến lược kinh doanh … nhằm chuyển sang xuất khẩu trực tiếp tại Công ty cổ phần may nông nghiệp.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Về lĩnh vực: May mặc.
Về không gian: Tại Công ty cổ phần may nông nghiệp .
Về thời gian: Từ năm 2003 đến nay.
IV. KẾT CẤU CỦA CHUYÊN ĐỀ
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề tốt nghiệp được chia làm 3 chương như sau:
Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu trực tiếp và các điều kiện để chuyển từ
gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp.
Chương II: Thực trạng gia công xuất khẩu và các điều kiện cần thiết để chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp tại Công ty cổ phần may nông nghiệp.
Chương III. Một số giải pháp hoàn thiện các điều kiện cần thiết để chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp tại Công ty cổ phần may nông nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Hường và tập thể cán bộ, công nhân viên Công ty cổ phần may nông nghiệp đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU TRỰC TIẾP VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ CHUYỂN TỪ GIA CÔNG XUẤT KHẨU SANG XUẤT KHẨU TRỰC TIẾP
Lý luận chung về xuất khẩu trực tiếp
Lý luận chung về xuất khẩu
Khái niệm xuất khẩu.
Xuất khẩu là một trong những hoạt động cơ bản của các công ty tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế. Xuất khẩu được coi là một trong những hình thức thâm nhập và mở rộng thị trường kinh doanh quốc tế ít rủi ro và chi phí thấp. Đồng thời cũng là phương thức thâm nhập thị trường hiệu quả được phần lớn các công ty sử dụng trong giai đoạn đầu của hoạt động thâm nhập thị trường, đặc biệt là các công ty nhỏ, ít kinh nghiệm kinh doanh quốc tế.
“Xuất khẩu là hoạt động đưa các hàng hoá và dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác”. Theo đó, các hàng hoá và dịch vụ phải được đưa ra khỏi “biên giới” của các quốc gia. Nhưng cùng với sự phát triển của các nền kinh tế và sự xuất hiện của các khu công nghiệp, khu chế xuất của các công ty nước ngoài tại các quốc gia nhận đầu tư thì khái niệm biên giới không còn giới hạn là biên giới hữu hình ngăn cách các quốc gia mà còn là biên giới vô hình được xác định theo quốc tịch các chủ thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Hiện nay, hoạt động trao đổi buôn bán giữa các thương nhân có quốc tịch khác nhau mà không có sự lưu chuyển của hàng hoá gia khỏi quốc gia cũng được coi là hoạt động xuất khẩu.
Nguồn gốc của hoạt động xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá trong nước. Khi sản xuất phát triển, việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi hơn, mặt khác cũng nhận được những hàng hoá mà trong nước không có khả năng sản xuất, dẫn đến hoạt động xuất khẩu ra đời. Cho đến nay, hoạt động xuất khẩu đã phát triển rất mạnh mẽ và thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu tại chỗ, xuất khẩu theo nghị định thư…
Nội dung của hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu của mỗi công ty khác nhau thì thực hiện theo các cách thức và nội dung khác nhau, thông thường gồm 5 nội dung cơ bản sau:
Nghiên cứu thị trường
Bất kỳ một công ty nào khi muốn thực hiện kinh doanh trên một thị trường đều phải tiến hành khảo sát nghiên cứu thị trường đó để thu thập và xử lý những thông tin cần thiết phục vụ cho công việc kinh doanh của công ty mình.
Có hai phương pháp cơ bản để nghiên cứu thị trường là:
+ Nghiên cứu tại bàn làm việc: Đây là phương pháp nghiên cứu thị trường dựa trên nguồn thông tin thứ cấp thu được từ những báo cáo của các công ty khác hoặc từ thông tin trên các tờ báo, internet. Phương pháp nghiên cứu này tốn ít chi phí và thời gian nhưng đôi khi lại không hiệu quả vì thông tin cần thiết lại không thu thập được hoặc có thông tin nhưng không sát thực tế.
+ Nghiên cứu tại hiện trường: Đây là phương pháp nghiên cứu dựa trên nguồn thông tin sơ cấp do công ty tự thu thập từ quá trình nghiên cứu thực tế và trực tiếp tại thị trường kinh doanh mà công ty muốn kinh doanh. Phương pháp này rất tốn kém nhưng lại hiệu quả do thông tin thu thập được có tính thực tế và tính cập nhật cao.
Khi công ty thực hiện nghiên cứu thị trường cho một sản phẩm sẵn có thì những thông tin cân thiết phải thu thập là:
Dung lượng của thị trường: Tức là dự đoán nhu cầu tiêu thụ tại thị trường đó là bao nhiêu? Khả năng đáp ứng nhu cầu hiện tại của các nhà cung ứng sẵn có trên thị trường hiện tại là bao nhiêu? Thị hiếu của người tiêu dùng tại thị trường đó như thế nào? Hệ thống phân phối sản phẩm tại thị trường đó có tốt không?
Hàng hoá nào đang được tiêu thụ trên thị trường: Tức là phải tìm hiểu xem có bao nhiêu loại hàng hoá đang được tiêu thụ tại thị trường. Trong số các hàng hoá đó có hàng hoá nào giống hoặc có khả năng thay thế cho hàng hoá mà công ty của mình muốn cung ứng hay không?
Giá cả của các loại hàng hoá giống hoặc có khả năng thay thế hàng hoá của công ty trên thị trường: Điều này giúp công ty xây dựng chiến lược cạnh tranh hoặc điều chỉnh giá bán trên thị trường.
Quy định của luật pháp tại thị trường nghiên cứu: Tức là tìm hiểu các quy định của lật pháp đối với việc cung ứng hàng hóa trên thị trường.
Mức độ cạnh tranh của thị trường: nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh hiện tại và dự đoán mức độ cạnh tranh khi gia nhập thị trường, khả năng gia nhập thị trường của doanh nghiệp.
Nghiên cứu và tổ chức hàng xuất khẩu
Nghiên cứu và tổ chức hàng xuất khẩu chính là việc phải xác định xem sẽ xuất khẩu mặt hàng nào, xuất khẩu theo phương thức nào thì hiệu quả nhất? Các sản phẩm xuất khẩu có phải điều chỉnh gì cho phù hợp với thị trường hay không?
Đối với ngành hàng may mặc xuất khẩu thì kiểu dáng, kích thước, mẫu mã của sản phẩm chính là những vấn đề cần nghiên cứu khi thực hiện công tác này. Đối với hàng xuất khẩu trực tiếp thì cần nghiên cứu thêm kênh phân phối sản phẩm trên thị trường tiêu thụ để có thể lựa chọn kênh phân phối cho phù hợp với sản phẩm của mình.
Đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Nội dung này chính là việc tìm kiếm các đối tác nhập khẩu và tiến hành đàm phán về hàng hoá và đi đến kí kết hợp đồng xuất khẩu.
Đàm phán hợp đồng xuất khẩu là cuộc đối thoại giữa hai hay nhiều nhà kinh doanh (đại diện cho một doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh…) nhằm thoả thuận được với nhau về những điều kiện giao dịch (điều kiện mua bán, điều kiện thanh toán, điều kiện chất lượng, giá cả hàng hoá..) mà mỗi bên có thể chấp nhận được. Kết thúc các cuộc đàm phán này thường đưa đến kết quả (nếu có) là các hợp đồng xuất khẩu.
Hợp đồng xuất khẩu là một cam kết bằng văn bản quy định quyền lợi và trách nhiệm mỗi bên về các hoạt động xuất khẩu.
Các nội dung chính cần có của môt hợp đồng xuất khẩu là:
Tên, địa chỉ và người đại diện của các bên tham gia ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Điều kiện về hàng hoá: Tức là hàng hoá xuất khẩu là loại hàng gì, số lượng xuất khẩu là bao nhiêu, tiêu chuẩn kĩ thuật của hàng hoá và giá cả hàng hoá, bao bì và ký mã hiệu.
Điều kiện giao hàng: là hàng hóa sẽ được giao theo phương thức nào, địa điểm và ngày giờ giao hàng. Hiện nay điều kiện giao hàng xuất nhập khẩu thường áp dụng theo điều kiện Incoterm 2000. Ở Việt Nam chủ yếu giao hàng theo điều kiện FOB và CIF của Incoterm 2000.
Điều kiện thanh toán: là việc bên mua sẽ trả tiền cho bên bán theo phương thức nào. Hiện nay, phương thức thanh toán được sử dụng nhiều nhất là thanh toán bằng tín dụng chứng từ (L/C).
Điều kiện tranh chấp: là vệc giải quyết giữa hai bên sẽ thực hiện như thế nào nếu có tranh chấp xảy ra, địa điểm giải quyết tranh chấp và luật áp dụng.
Ngoài ra còn có các điều khoản khác như: Điều khoản bất khả kháng, thời hạn hiệu lực, chiết khấu thương mại, quyền hạn và trách nhiệm của các bên…
Sau khi các bên thống nhất các điều khoản trên sẽ đi đến kí kết hợp đồng.
Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Thực hiện hợp đồng xuất khẩu chính là việc các bên thực hiện các điều
khoản đã ghi trong hợp đồng. Việc thực hiện hợp đồng có thể tó gọn theo quy trình sau:
Xin giấy phép xuất khẩu.
Thông quan hàng xuất khẩu.
Kiểm tra thanh toán.
Giao hàng cho chủ vận tải.
Chuẩn bị hàng xuất khẩu.
Xử lý khiếu nại (nếu có)
Kiểm tra hàng xuất khẩu.
Mua bảo hiểm (nếu có)
Làm thủ tục thanh toán (nếu có)
Thuê tàu (nếu có)
Hình 1.1 Quy trình nghiệp vụ xuất khẩu
Bước 1: Xin giấy phép xuất khẩu: Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu, đơn vị xuất khẩu chuẩn bị các thủ tục cần thiết để xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá. Trong số các thủ tục cần chuẩn bị phải có hợp đồng xuất khẩu.
Bước 2: Kiểm tra thanh toán: Đối với phương thức thnah toán bằng L/C (Letter of Credit – Tín dụng chứng từ), người xuất khẩu cần xác nhận lại việc mở L/C tại ngân hàng của người xuất khẩu. Đồng thời kiểm tra các điều khoản của L/C đã mở xem có phù hợp với các thoả thuận đã nêu trong hợp đồng chưa.
Bước 3: Chuẩn bị hàng xuất khẩu: Sau khi kiểm tra tính chính xác của L/C, đơn vị xuất khẩu cần chuẩn bị hàng cho xuất khẩu. Đối với đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu thì lập kế hoạch sản xuất, đối với đơn vị không tự sản xuất thì tiến hành thu mua hàng xuất khẩu từ các doanh nghiệp, tổ chức sản xuất khác.
Bước 4: Kiểm tra hàng xuất khẩu: Kiểm tra hàng xuất khẩu là hoạt động kiểm kê số lượng hàng xuất khẩu đã đủ hay chưa, chất lượng có đạt tiêu chuẩn xuất khẩu hay không. Đối với các doanh nghiệp không tự kiểm tra được chất lượng hàng hoá hoặc có nhưng không đảm bảo thì phải mời các tổ chức có uy tín và thẩm quyền tiến hành kiểm tra chất lượng cho hàng hoá xuất khẩu. Tại Việt Nam tthì tổ chức này là Vina Control. Việc kiểm tra chất lượng là để lấy chứng
nhận xuất xứ và chứng nhận chất lượng
Bước 5: Thuê tàu (nếu có): Đối với những điều kiện giao hàng mà bên xuất khẩu phải thực hiện nghĩa vụ thêu tàu hoặc do 2 bên thoả thuận do bên xuất khẩu thuê tàu thì bên xuất khẩu thực hiện việc lựa chọn và thuê tàu để chở hàng xuất khẩu theo yêu cầu bên nhập khẩu.
Bước 6: Mua bảo hiểm (nếu có): Trong điều kiện giao hàng theo Incoterm 2000 có quy định các điều kiện người xuất khẩu phải mua bảo hiểm cho hàng hoá đối với một số điều kiện giao hàng, do đó nếu lựa chọn những điều kiện này thì người xuất khẩu phải tiến hành mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất khẩu (Các điều kiện mà người xuất khẩu phải mua bảo hiểm cho hàng hoá là: CIF, CIP).
Bước 7: Thông quan hàng xuất khẩu: Thông quan hàng xuất khẩu là bên xuất khẩu làm các thủ tục cho hàng hoá được phép vận chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc vận chuyển hàng hóa từ khu chế xuất ra tiêu dùng tại thị trường Việt Nam. Cơ quan cấp phép thông quan hàng hoá tại Việt Nam là Cục Hải quan Việt Nam.
Bước 8: Giao hàng cho chủ vận tải: Là hoạt động đưa hàng hoá đã thông quan xuất khẩu đặt dưới sự chịu trách nhiệm của người vận chuyển và nhận vận đơn. Vận đơn là chứng từ thể hiện quyền sở hữu hàng hoá, là chứng từ thanh toán nên rất quan trọng. Đối với điều kiện FOB và CIF thì sau khi giao hàng rủi ro được chuyển giao từ người xuất khẩu sang người nhập khẩu.
Bước 9: Làm thủ tục thanh toán (nếu có):
Nếu đối tác nhập khẩu lựa chọn phương thức thanh toán khác phương thức thanh toán tiền mặt thì sau khi giao hàng xong cho hãng vận tải, bên xuất khẩu phải chuẩn bị các giấy tờ làm thủ tục thanh toán. Với phương thức thanh toán bằng nhờ thu thì tổng hợp giấy tờ cần thiết gửi cho ngân hàng để nhờ thu tiền người nhập khẩu. Đối với phương thức thanh toán bằng L/C thì tổng hợp chứng từ cần thiết theo L/C yêu cầu gửi lên ngân hàng thanh toán để làm thủ tục thanh toán.
Bước 10: Xử lý khiếu nại (nếu có): Sau khi hoàn thanh nghĩa vụ giao hàng và thực hiện thanh toán, mọi khiếu nại có liên quan đến hàng hoá do hai bên thoả thuận với nhau hoặc tiến hành giải quyết theo thoả thuận trong hợp đồng.
Đánh giá hoạt động xuất khẩu.
Đánh giá hoạt động xuất khẩu chính là việc xem xét lại các hoạt động đã thực hiện có hiệu quả không bằng cách so sánh các kết quả đã thực hiện với mục tiêu đề ra. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho lần tới.
Các hình thức xuất khẩu
Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là một trong những hình thức xuất khẩu được các công ty kinh doanh quốc tế sử dụng nhiều nhất hiện nay.
“Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của một công ty cho khách hàng của mình ở thị trường nước ngoài”. Khác hàng của công ty ở đây không đơn thuần là nhũng người tiêu dùng mà là bất cứ ai có nhu cầu mua hàng hoá, dịch vụ của công ty. Về ưu, nhược điểm của hình thức này sẽ được tìm hiểu kĩ trong phần sau của chuyên đề.
Gia công xuất khẩu
Gia công xuất khẩu là một phương thức kinh doanh, trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên kia (gọi là bên đặt gia công) để chế biến thành thành phẩm rồi giao lại cho bên đặt gia công và nhận phí gia công.
Hình thức này đang được sử dụng rộng rãi tại các nước đang phát triển, có nhiều nguồn tài nguyên, lao động dư thừa và rẻ, nhưng lại thiếu vốn, công nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hình thức ga công xuất khẩu hiện nay được sử dụng rộng rãi trong ngành dệt may ở các nước như: Trung Quốc, Ấn Độ, Bănglađet, Mehico, Việt Nam….
Xuất khẩu ủy thác
Xuất khẩu uỷ thác là một hình thức kinh doanh trong đó các đơn vị ngoại thương đóng vai trò trung gian thay cho người sản xuất ký kết các hợp đồng mua bán, tiến hành các thủ tục cần thiết cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ nhằm thu một khoản hoa hồng, thù lao nhất định.
+ Ưu điểm của hình thức này là:
Nhà sản xuất không phải trực tiếp tiến hành các thủ tục cần thiết và đàm phán với đối tác để ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Rủi ro đối với nguời trung gian thấp do họ chỉ có trách nhiệm ký kết thay cho người uỷ thác, trách nhiệm xử lý tranh chấp thuộc về người uỷ thác.
Đơn vị trung gian chỉ phải bỏ ra lượng vốn ít để tiến hành kinh doanh.
Tạo công ăn việc làm cho các lao động và thu một khoản thù lao nhất định.
+ Nhược điểm của hình thức nàylà:
Nhà sản xuất thu được lợi nhuận không cao do phải chia sẻ với người trung gian.
Trách nhiệm xử lý tranh chấp thuộc nhà sản xuất.
Buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu là phương thức trao đổi hàng hóa trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương đương với lượng hàng nhập về.
+ Ưu điểm của hình thức này là:
Vì mỗi bên vừa là người xuất khẩu vừa là người nhập khẩu nên tránh được những rủi ro do biến động về tỷ giá hối đoái trên thị trường. Đồng thời chi phí cũng rẻ hơn và thường phù hợp với những nước kém phát triển.
+ Nhược điểm của hình thức này là: Khó tìm được các đối tác phù hợp với nhu cầu và khả năng cung cấp hàng hoá của mình.
Xuất khẩu tại chỗ
Xuất khẩu tại chỗ là hình thức xuất khẩu mà hàng hoá, dịch vụ không lưu chuyển qua biên giới của một quốc gia. Trong trường hợp này hàng hoá, dịch vụ được sản xuất tại các khu chế xuất và tiêu dùng ngay tại các nước sở tại. Đây là hình thức kinh doanh mới và đang phát triển mạnh mẽ.
+ Ưu điểm của hình thức này là:
Giảm chi phí vận chuyển hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu.
Không phải mua bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu.
Tăng được lợi nhuận do giảm chi phí kinh doanh.
Tái xuất khẩu
Tái xuất khẩu là việc xuất khẩu những hàng hoá ra nước ngoài mà những hàng hoá này trước đây đã nhập khẩu và chưa qua chế biến tại nước nhập khẩu
với mục đích thu được số lượng ngoại tệ lớn hơn.
Bên cạnh việc kinh doanh bằng tái xuất khẩu thì một số mặt hàng cũng bị chính phủ nước nhập khẩu buộc phải tái xuất nếu mặt hàng đó bị coi là chất thải, phế liệu có ảnh hưởng đến môi trường sống.
+ Ưu điểm của hình thức này là: Doanh nghiệp có thể có lợi nhuận cao mà không cần tổ chức sản xuất.
+ Nhược điểm của hình thức này là:
Đòi hỏi cán bộ phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao.
Phải có sự nhạy bén với thị trường, giá cả và hiểu biết chặt chẽ về hợp đồng mua bán hàng hoá.
Xuất khẩu theo nghị định thư.
Xuất khẩu theo nghị định thư là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là hàng trả nợ) được ký kết giữa chính phủ của hai nước. Xuất khẩu theo hình thức này thường có các ưu đãi như: hàng hóa xuất khẩu với số lượng lớn, giá cả ưu
đãi, thời gian thanh toán cũng có thể kéo dài hơn.
Lý luận chung về xuất khẩu trực tiếp
Khái niệm xuất khẩu trực tiếp.
Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của một công ty cho khách hàng của mình tại thị trường nước ngoài.
Hình thức xuất khẩu này rất phổ biến ở các nước phát triển bởi nó giúp các nhà xuất khẩu thu được nhiều lợi nhuận hơn so với các hình thức xuất khẩu khác. Các doanh nghiệp hoàn toàn chủ động khi thực hiện xuất khẩu theo hình thức này mà không chịu ràng buộc hay phải thông qua bất kỳ một trung gian nào.
Để có thể áp dụng hình thức này đòi hỏi các công ty phải có một lượng vốn lớn, đội ngũ nhân viên có trình độ nghiệp vụ cao vì công ty phải thực hiện toàn bộ các hoạt động từ khâu nghiên cứu thị trường, đối tác, khách hàng… đến việc thực hiện hợp đồng đã ký kết.
Ưu, nhược điểm của hoạt dộng xuất khẩu trực tiếp.
+ Ưu điểm.
Xuất khẩu trực tiếp giúp các công ty thu được lợi nhuận cao hơn do không phải chia sẻ lợi nhuận với các trung gian.
Xuất khẩu trực tiếp giúp các công ty quảng bá thương hiệu và hình ảnh của công ty đến người tiêu dùng và khách hàng nước ngoài.
Thông qua hình thức xuất khẩu trực tiếp các công ty có thể thu được nhiều kinh nghiệm quốc tế.
+ Nhược điểm.
Bên cạnh những ưu điểm trên thì hình thức xuất khẩu trực tiếp cũng có những nhược điểm sau:
Công ty thực hiện xuất khẩu trực tiếp đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn vì chi phí ban đầu cho việc nghiên cứu thị trường là rất tốn kém.
Hoạt động xuất khẩu trực tiếp cũng mang lại những nguy cơ rủi ro cao hơn cho các doanh nghiệp do họ phải tự mình làm mọi công việc từ việc tìm kiếm sản phẩm xuất khẩu đến việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ, làm thế nào để đưa sản phẩm đến người tiêu dùng và để người tiêu dùng chấp nhận sản phẩm đó.
Các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu trực tiếp
Nhân tố khách quan
- Giá cả hàng hóa: Giá cả hàng hoá là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến cung và cầu về hàng hoá. Khi giá cả tăng lên thì cầu hàng hoá giảm đi và ngược lại. Tuy nhiên hàng may mặc là hàng hoá ít có nhu cầu ít thay đổi do giá mà người ta sẵn sàng trả giá cao cho sản phẩm đã có thương hiệu trên thị trường.
- Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là nhân tố vĩ mô ảnh hương trực tiếp tới tất cả các hoạt động kinh doanh quốc tế. Đặc biệt là ngành may mặc của Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn là nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài nên sự thay đổi của tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu và chi phí sản xuất của ngành. Khi tỷ giá tăng (VNĐ mất giá) thì doanh thu xuất khẩu tăng nhưng chi phí nhập khẩu nguyên liệu cũng tăng và ngược lại. Do đó, sự thay đổi của tỷ giá ảnh hưởng rất lớn đến hàng may mặc xuất khẩu.
- Luật pháp quốc gia và quốc tế: Quy định các loại hàng hoá được phép xuất khẩu và kinh doanh, quy định tiêu chuẩn kĩ thuật hàng hoá. Trước khi Việt nam gia nhập WTO (07/11/2006), mặt hàng may mặc của Việt Nam còn bị hạn chế về hạn ngạch xuất khẩu. Hiện nay hạn ngạch dệt may của Việt Nam đã bị dỡ bỏ nhưng để được xuất khẩu thì cũng phải đáp ứng rất nhiều các tiêu chuẩn kỹ thuật như: Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 – 2000, Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000, Hệ thống quản lý trách nhiệm xã hội SA 8000.
- Quan hệ chính trị giữa các quốc gia: Hiện nay Việt Nam có quan hệ song phương và đa phương với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Điều này đã tạo ra thị trường xuất khẩu tiềm năng cho hàng may mặc Việt Nam.
Nhân tố chủ quan
- Cơ sở vật chất kỹ thuật: Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng của sản phẩm xuất khẩu. Để có được sản phẩm chất lượng tốt phải có trang thiết bị công nghệ tiến tiến. Với những sản phẩm tốt sẽ có cơ hội xuất khẩu cao hơn.
- Đội ngũ làm công tác xuất khẩu của công ty: Một đội ngũ nhân viên làm công tác xuất khẩu có năng lực sẽ đảm bảo cho việc thực hiện các hợp đồng xuất khẩu diễn ra thuận lợi tăng thêm uy tín của công ty.
Lý luận chung về gia công xuất khẩu.
Khái niệm và đặc điểm về gia công xuất khẩu.
Gia công xuất khẩu là một hình thức xuất khẩu khá phổ biến trong hoạt
động ngoại thương củ các nước đang phát triển hiện nay.
Gia công xuất khẩu là một phương thức kinh doanh, trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên kia (gọi là bên đặt gia công) để chế biến thành thành phẩm rồi giao lại cho bên đặt gia công và nhận phí gia công.
Gia công xuất khẩu thực chất là hoạt động đưa các yếu tố sản xuất (ngyên liệu, bán thành phẩm) từ nước ngoài về để sản xuất hàng hoá nhưng không phải để tiêu dùng trong nước mà để xuất khẩu và thu phí gia công. Như vậy, hoạt động gia công xuất khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất sản phẩm, chúng không tách rời nhau.
Phân loại các hình thức gia công xuất khẩu.
Hiện nay có nhiều căn cứ phân loại các hình thức gia công xuất khẩu. Dưới đây là một số căn cứ phân loại chủ yếu.
Xét về quyền sở hữu nguyên liệu
Nếu xét theo căn cứ này, gia công xuất khẩu được phân chia thành 3 hình thức.
Hình thức nhận nguyên liệu, giao thành phẩm.
Hình thức này còn được còn được gọi là hình thức gia công xuất khẩu đơn thuần. Đây là hình thức sơ khai của hoạt động gia công xuất khẩu. Trong hình thức này bên đặt gia công sẽ giao cho bên nhận gia công nguyên liệu, bán thành phẩm, có khi cả các thiết bị máy móc, kĩ thuật phụ vụ cho quá trình gia công. Bên nhận gia công tiến hành sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công, sau đó giao lại thành phẩm cho bên đặt gia công và nhận phí gia công.
Trong quá trình sản xuất, chế tạo quyền sở hữu nguyên vật liệu, bán thành phẩm vẫn thuộc bên đặt gia công và chỉ chuyển quyền sử dụng nguyên liệu, bán thành phẩm sang cho bên nhận gia công.
Hình thức gia công này có ưu điểm là bên nhận gia công không phải bỏ chi phí mua nguyên vật liệu nên vốn đầu tư ít. Tuy nhiên hiệu quả kinh tế không
cao do chỉ nhận được phí gia công (phí này thường không cao và đang có xu hướng giảm xuống).
Hình thức mua đứt bán đoạn.
Đây là hình thức phát triển của hình thức gia công xuất khẩu nhận nguyên liệu và giao thành phẩm.
Theo hình thức này thì bên đặt gia công sẽ bán nguyên liệu, bán thành phẩm cho bên nhận gia công hoặc bên nhận gia công phải mua nguyên liệu từ nhà cung cấp do bên đặt gia công chỉ định. Sau một thời gian bên đặt gia công sẽ mua lại thành phẩm từ bên nhận gia công. Trong hình thức này, quyền sở hữu và quyền sử dụng nguyên liệu, bán thành phẩm đều chuyển giao từ bên đặt gia công sang bên nhận gia công.
Trong hình thức gia công này bên nhận gia công phải mua lại nguyên vật liệu từ bên nhận gia công nên dễ bị ép giá. Tuy vậy thì hình thức gia công xuất khẩu này cũng mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với hình thức nhận nguyên liệu giao thành phẩm.
Hình thức kết hợp.
Bên đặt gia công sẽ giao cho bên nhận gia công nguyên vật liệu chính, còn bên nhận gia công sẽ chịu trách nhiệm nguyên vật liệu phụ. Sau một thời gian bên nhận gia công sẽ giao cho bên đặt gia công thành phẩm và nhận phí gi công kèm theo chi phí nguyên vật liệu phụ.
Trong hình thức này thì nguyên liệu chính vẫn thuộc sở hữu bên đặt gia công, còn nguyên vật liệu phụ thuộc sở hữu bên nhận gia công.
Hiện nay một số đối tác đặt gia công chỉ giao mẫu mã và các thông số kỹ thuật cho bên nhận gia công, bên nhận gia công tự lo nguyên vật liệu, sản xuất và bán lại thành phẩm cho bên đặt gia công.
Xét về giá cả gia công xuất khẩu
Theo căn cứ này thì gia công xuất khẩu được chia làm hai hình thức:
Hợp đồng thực chi thực thanh.
Trong hình thức này thì bên nhận gia công thanh toán với bên đặt gia công toàn bộ chi phí thực tế của mình cộng với phí gia công.
Đây là hình thức gia công mà bên nhận gia công được quyền chủ động trong việc tìm các nhà cung cấp nguyên vật liệu cho mình nhưng lại gây khó khăn cho bên đặt gia công vì bên nhận gia công có thể khai khống những chi phi thực tế.
Hình thức này chỉ áp dụng trong trường hợp gia công những mặt hàng đơn chiếc hoặc những nhu cầu kinh tế đặc biệt.
Hợp đồng khoán.
Trong hình thức gia công này, hai bên sẽ xác định mức giá định mức cho mỗi đơn vị sản phẩm bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức. Bên đặt gia công sẽ không quan tâm bên nhận gia công xem chi phí thực tế như thế nào mà chỉ thanh toán theo định mức.
Hình thức gia công này khuyến khích bên nhận gia công tiết kiệm định mức để giảm chi phí, từ đó có thể tăng lợi nhuận từ số nguyên liệu tiết kiệm được.
Xét về số bên tham gia gia công xuất khẩu
Gia công hai bên.
Trong hình thức gia công này, hoạt động gia công chỉ gồm hai bên là bên nhận gia công và bên đặt gia công. Mọi công việc liên quan đến hoạt động sản xuất do bên nhận gia công đảm nhiệm, bên đặt gia công có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ phí gia công cho bên nhận gia công.
Gia công nhiều bên ( còn gọi là gia công chuyển tiếp).
Ở hình thức gia công này thì sản phẩm gia công của đơn vị trước là nguyên liệu của đơn vị sau. Việc giao nhận giữa bên đặt gia công và bên nhận gia công có thể trải qua nhiều bước hoặc nhiều đơn vị gia công khác nhau.Hình thức này đã có từ lâu, về cơ bản cũng giống như hình thức nhận nguyên liệu giao thành phẩm thông thường nhưng có khác về chủ thể trong mối quan hệ gia công: bên đặt gia công vẫn là một bên trong hợp đồng gia công, còn bên nhận gia công có thể là nhiều đối tượng khác nhau, nhưng những đối tượng gia công chuyển tiếp này phải được bên nhận gia công chỉ định.
Bên đặt gia công sử dụng hình thức này là nhằm mục đích tận dụng tối đa năng lực sở trường, tay nghề của các doanh nghiệp. Đồng thời trong một số trường hợp vẫn giữ được bí mật công nghệ và độc quyền mặt hàng.
Xét về công đoạn sản xuất
Gia công đảm nhận một công đoạn.
Đây là hình thức gia công mà bên nhận gia công sẽ nhận gia công một hay một số công đoạn bất kỳ nào đó trong quá trình sản xuất sản phẩm gia công. Sau khi hoàn thành các công đoạn gia công bên nhận gia công sẽ giao lại thành phẩm cho bên đặt gia công.
Hình thức này được áp dụng với những sản phẩm có độ phức tạp cao mà bên nhận gia công không đảm nhận sản xuất tốt hoặc tên của hàng hoá gắn liền với danh tiếng của bên nhận gia công. Các sản phẩm thường áp dụng hình thức này như hàng điện tử… Do vậy hình thức này khai thác triệt để lợi thế của bên nhận gia công về nguyên liệu, tay nghề, nhân công và máy móc thiết bị cho gia công tốt phần công đoạn đó.
Gia công hoàn chỉnh một sản phẩm.
Trong hình thức này bên nhận gia công nhận nguyên liệu và sản xuất hoàn chỉnh một thành phẩm sau đó giao cho bên đặt gia công. Hình thức này áp dụng cho những hàng hoá thông dụng, độ phức tạp không cao như hàng dệt may, giầy dép…
Gia công chi tiết.
Bên nhận gia công sẽ gia công một chi tiết sản phẩm mà bên đặt gia công
yêu cầu. Bên đặt gia công sẽ giao nguyên liệu và các mẫu chi tiết sau đó nhận chi tiết đã hoàn thành từ bên nhận gia công. Hình thức này áp dụng cho những sản phẩm có độ phức tạp cao, đòi hỏi chất lượng kỹ thuật cao như hàng máy móc thiết bị: ôtô, xe máy…
Xét về nghĩa vụ của bên nhận gia công
Các hình thức này thường được áp dụng trong ngành may mặc và giầy dép. Bao gồm:
CM (Cutting and making).
Bên nhận gia công chỉ tiến hành pha cắt và chế tạo sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công.
CMP (Cutitng, making and packing).
Bên nhận gia công phải thực hiện tất cả các công đoạn liên quan đến việc hoàn thiện sản phẩm bao gồm pha cắt, chế tạo và đóng gói sản phẩm.
CMPQ (Cutitng, making, packing and quota fee).
Ở hình thức này thì bên nhận gia công ngoài việc cắt may, đóng gói sản phẩm còn phải trả phí hạn ngạch theo quy định đối với những mặt hàng được quản lý theo hạn ngạch.
1.2.3 Ưu điểm và hạn chế của hình thức gia công xuất khẩu.
Mỗi hình thức gia công xuất khẩu trên đều có các ưu thế riêng, tuy nhiên chúng cũng có những ưu, nhược điểm chung sau.
Đối với bên đặt gia công._..
+ Ưu điểm của hình thức gia công xuất khẩu đối với bên đặt gia công là:
Gia công xuất khẩu giúp cho bên đặt gia công tận dụng được lợi thế giá rẻ về nguyên vật liệu và giá nhân công của các nước nhận gia công. Vì hầu hết các nước nhận gia công đều là các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển, các nước này có nguồn lao động dồi dào, giá lao động rẻ và có nguồn tài nguên phong phú.
Bên đặt gia công còn có thể tiết kiệm một khoản chi phí cho việc đào tạo lao động, trên cơ sở đó có điều kiện tập trung vào các công việc khác như: nghiên cứu và phát triển thị trường mới, nghiên cứu phát triển sản phẩm mới.
+ Bên cạnh những ưu điểm hình thức gia công xuất khẩu cũng có những hạn chế sau:
Do không trực tiếp sản xuất nên sản phẩm gia công thường có chất lượng không ổn định và đồng đều. Nguyên nhân là do trình độ công nghệ và tay nghề của công nhân bên nhận gia công chưa đảm bảo.Mặt khác, thời hạn giao hàng có thể không được bên gia công đảm bảo.
Đối với bên nhận gia công.
+ Ưu điểm của gia công xuất khẩu đối với bên đặt gia công là:
Gia công xuất khẩu giúp cho bên nhận gia công giải quyết một số lượng
lớn công ăn việc làm cho lao động trong nước, ngoài ra còn tận dụng được lợi thế về nhân công giá rẻ và tài nguyên phong phú.
Bên nhận gia công còn có cơ hội tiếp cận với các công nghệ sản xuất tiên tiến do bên dặt gia công đầu tư và chuyển giao cho.
Gia công xuất khẩu làm tăng nguồn thu nhập ngoại tệ, tiết kiệm phần lớn chi phí nghiên cứu thị trường, thiết kế mẫu mã…Và độ rủi ro của hình thức kinh doanh này thấp, không phải lo đầu ra cho sản phẩm.
+ Hạn chế của gia công xuất khẩu đối với bên đặt gia công.
Bên đặt gia công có sự phụ thuộc lớn vào bên đặt gia công về nguyên vật liệu, số lượng sản xuất… dẫn đến không chủ động trong kế hoạch sản xuất của mình.Lợi nhuận đem lại từ hoạt động gia công cũng thấp do chỉ nhận được phần phí gia công.
Ý nghĩa của việc chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp.
Trong những năm trước đây, gia công xuất khẩu là một trong những bước đi ban đầu của các nước đang phát triển trong qua trình hội nhập nền kinh tế quốc tế - trong đó có cả Việt Nam, và gia công xuất khẩu hàng may mặc là một trong những ngành phát triển nhất. Thời gian đó hầu hết các nước đang phát triển đều có nguồn lực dồi dào về tài nguyên và đội ngũ lao động giá rẻ nhưng lại thiếu thốn về nguồn vốn đầu tư và công nghệ sản xuất tiên tiến. Bên cạnh đó, tại các nước đang phát triển lại có sự gia tăng về chi phí sản xuất dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường kinh doanh. Để giảm chi phí sản xuất tăng doanh thu các công ty tại các nước đang phát triển đã ttiến hành thuê các công ty tại nước dang phát triển gia công hàng hoá để tận dụng nguồn tài nguyên và nguồn nhân công giá rẻ tại đây. Để giải quyết công ăn việc làm cho lao động trong nước và thu hút vốn đầu tư cùng công nghệ sản xuất tiên tiến, đồng thời để học hỏi kinh nghiệm quốc tế các công ty nhận gia công đã thực hiện các hợp đồng gia công cho các công ty tại các nước phát triển. Hình thức gia công ban đầu là các công ty đặt gia công giao nguyên vật liệu cho bên nhận gia công, sau một thời hạn sẽ nhận lại thành phẩm và trả phí gia công cho bên nhận gia công. Cũng vì thế mà sự phụ thuộc về nguồn nguyên vật liệu và tính chủ động trong quá trình sản xuất của bên nhận gia công bị phụ thuộc vào bên đặt gia công rất lớn. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, các hình thức gia công cũng phát triển từ hình thức giao nguyên liệu nhận thành phẩm sang mua nguyên liệu giao thành phẩm. Nhưng hình thức này cũng gây ra khó khăn cho bên nhận gia công là nguyên liệu mua về phải được cung cấp bởi bên đặt gia công hoặc do bên gia công chỉ định nhà cung cấp dẫn đến bên gia công bị ép giá sản phẩm đầu và mà giá đầu ra vẫn không tăng. Do đó, bên nhận gia công xuất khẩu đang dần chuyển đổi từ hình thức gia công xuất khẩu sang hình thức xuất khẩu trực tiếp. Với hình thức này, bên nhận gia công đã giảm bớt sự phụ thuộc của mình vào bên đặt gia công về nguyên vật liệu và tránh bị ép giá trong trường hợp nhập khẩu nguyên liệu sản xuất.
Với hình thức xuất khẩu trực tiếp công ty có điều kiện tìm kiếm những nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào khác với giá phù hợp mà vẫn đảm bảo chất lượng làm cho chi phí sản xuất giảm đi và tăng doanh thu cũng như lợi nhuận kinh doanh, cải thiện mức tiền lương trả cho công nhân.
Mặt khác, với hình thức xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm bán ra thị trường được gắn nhãn hiệu và biểu tượng của công ty, điều này góp phần quảng bá hình ảnh và xây dưng thương hiệu cho công ty.
Hiện nay, các sản phẩm may mặc của Việt Nam đã có mặt tại rất nhiều nước trên thế giới nhưng sản phẩm xuất khẩu trực tiếp vẫn còn ít chỉ bao gồm một số công ty lớn như: May 10, May Nhà Bè, May Thăng Long, May Đức Giang, May Việt Tiến và một số thương hiệu khác. Vì vậy khuyến khích các công ty chyển đổi hình thức gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp để xây dựng và quảng bá thương hiệu dệt may Việt Nam.
Ngoài ra, với hình thức xuất khẩu trực tiếp các công ty sẽ có được sự chủ
động trong quá trình sản xuất kinh doanh và đưa ra những chiến lược cạnh tranh phù hợp.
Các cách thức chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp.
Có rất nhiều cách thức chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào điều kiện của doanh nghiệp mà lựa chọn cách thức nào cho phù hợp. Sau đây là ba cách thức cơ bản để chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp.
+ Cách 1: Chuyển một phần sang xuất khẩu trực tiếp, gia công xuất khẩu vẫn là chủ yếu. Tức là công ty vẫn tập trung nguồn lực vào hoạt động gia công xuất khẩu, doanh thu đem lại từ gia công xuất khẩu vẫn chiếm tỷ lệ cao so với xuất khẩu trực tiếp.
+ Cách 2:Chuyển ngay sang xuất khẩu trực tiếp trong thời gian ngắn, gia công xuất khẩu chỉ là thứ yếu. Tức là trong thời gian ngắn công ty chuyển gần như hoàn toàn sang xuất khẩu trực tiếp. Doanh thu xuất khẩu trực tiếp chiếm tỷ lệ cao so với gia công xuất khẩu.
+ Cách 3: Chuyển hoàn toàn sang xuất khẩu trực tiếp, bỏ gia công xuất
khẩu. Tức là công ty bỏ hẳn gia công xuất khẩu và tập trung vào xuất khẩu trực
tiếp.
1.5 Các điều kiện cần thiết để chuyển từ gia công xuất khẩu hàng may mặc sang xuất khẩu trực tiếp
1.5.1 Điều kiện về sản phẩm
Hầu hết các sản phẩm thì chất lượng sản phẩm tốt luôn là điều kiện tiên quyết đến viếc sản phẩm đó có thành công hay không trên thị trường, đặc biệt là các sản phẩm xuất khẩu. Tuy nhiên, đối với mặt hàng may mặc thì chất lượng sản phẩm tốt thôi chưa đủ để khẳng định điều gì về khả năng cạnh tranh của sản phẩm cũng như sự ưa thích của người tiêu dùng với sản phẩm. Ngoài việc đảm bảo chất lượng phù hợp thì mẫu mã, kiểu dáng của sản phẩm cũng phải được chú ý thì mặt hàng may mặc mới có cơ hội cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Với mỗi nền văn hoá khác nhau, mỗi độ tuổi khác nhau, mỗi gu thẩm mỹ khác nhau thì sẽ có những nhu cầu khác nhau về kiểu dáng, màu sắc, chất lượng khác nhau của sản phẩm may mặc.
Ngày nay, một yếu tố quan trọng luôn được các công ty chú ý xây dựng và gắn liền với sản phẩm đó là thương hiệu sản phẩm. Một sản phẩm có thương hiệu luôn giành được những ưu thế cạnh tranh đặc biệt trên thị trường và đem lại những nguồn thu khổng lồ nhờ thương hiệu.
Ngoài ra sản phẩm hàng may mặc xuất khẩu còn phải đáp ứng những tiêu chuẩn như: Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000, Hệ thống quản lý trách nhiệm xã hội SA 8000.
1.5.2 Điều kiện về thị trường
Để có thể thực hiện việc chuyển đổi từ gia công xuất khẩu hàng may mặc sang xuất khẩu trực tiếp thì hoạt động nghiên cứu và tìm hiểu thị trường là rất quan trọng.
Do nguồn nguyên liệu sản xuất hàng may mặc hiện nay trong nước của Việt Nam hiện nay chưa đủ đáp ứng yêu cầu cả về chất lượng lẫn số lượng nên phải nhập khẩu từ nước ngoài mà chủ yếu là nhập khẩu từ Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc…nên chi phí sản xuất rất cao dẫn đến hiệu quả xuất khẩu không cao, mặt khác nguồn nguyên liệu này phục vụ phần lớn cho gia công xuất khẩu nên được mua theo sự chỉ định của bên đặt gia công nên khi chuyển đổi sang xuất khẩu trực tiếp sẽ gặp khó khăn về nguồn nguyên liệu đầu vào. Vì thế cần tìm kiếm các đối tác cung ứng nguyên liệu lâu dài và ổn định khi chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp.
Bên cạnh đó, thị trường đầu ra cho sản phẩm may mặc xuất khẩu cũng là vân đề lớn. Trước đây khi thực hiện gia công xuất khẩu các công ty nhận gia công không phải lo đầu ra cho sản phẩm, khi chuyển đổi sang xuất khẩu trực tiếp họ phải tự lo đầu ra cho sản phẩm của mình. Do vậy cần đầu tư cho công tác nghiên cứu thị trường để đầu ra cho sản phẩm. Xét thực tế các doanh nghiệp may mặc Việt Nam khi thực hiện chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp đã gặp rất nhiều khó khăn. Một phần là do công tác nghiên cứu thị trường chưa thực sự hiệu quả, một phần là do sản phẩm may mặc của Việt Nam chưa có thương hiệu hoặc có nhưng chưa mạnh nên dù đã có mặt tại nhiều thị trường nhưng vẫn chưa được người tiêu dùng biết đến. Do đó việc nghiên cứu và tìm kiếm thị trường đầu vào và đầu ra cho sản phẩm là rất quan trọng và ảnh hưởng quyết định đến sự thành công của quá trình chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp.
1.5.3 Điều kiện về công nghệ sản xuất:
Công nghệ sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm và năng suất lao động. Một dây chuyền công nghệ sản xuất tiên tiến sẽ là đảm bảo cho việc thực hiện các hợp đồng xuất khẩu đúng thời hạn và đảm bảo chất lượng. Hiện nay, khi các dây chuyền sản xuất hàng may mặc đang dần được tự động hoá thì việc đầu tư trang thiết bị sản xuất tiên tiến sẽ giúp cho công ty nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, từ đó hạ giá thành để tăng khả năng cạnh tranh khi xuất khẩu trực tiếp.
1.5.4 Điều kiện về lao động
Các lao động trong ngành may mặc Việt Nam hiện nay chủ yếu được đào tạo từ những cơ sở dạy nghề do những người có kinh nghiệm tự mở, kỹ thuật may đơn giản, lao động có tay nghề cao rất ít. Do đó các sản phẩm may mặc của Việt Nam có kiểu dáng đơn giản, độ phức tạp của sản phẩm không cao dẫn đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thấp.
Để có thể chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp, Việt Nam cần có những lao động tay nghề cao, sản xuất những sản phẩm có độ phức tạp cao để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời phải đào tạo thêm nhiều nhà thiết kế giỏi để thiết kế những mẫu mã đẹp, phù hợp với thị trường
tiêu thụ, đẩy nhanh thời gian tạo dựng thương hiệu.
1.5.5 Điều kiện về vốn đầu tư
Vốn đầu tư là nơi xuất phát điểm của mọi kế hoạch kinh doanh. Dù ý tưởng kinh doanh có khả thi đến đâu và lợi nhuận cao như thế nào mà không có vốn đầu tư thì đó vẫn chỉ là những ý tưởng trên giấy. Dù công ty của bạn hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực nào thì vốn đầu tư là điều kiện không thể thiếu để duy trì và nắm bắt những cơ hội kinh doanh. Trong ngành dệt may thì vốn đầu tư càng đặc biệt quan trọng vì nguồn nguyên liệu sản xuất hiện nay chủ yếu là nhập khẩu nên cần một lượng vốn rất lớn. Mặt khác, chi phí nghiên cứu thị trường và đầu tư, cải tiến dây chuyền sản xuất cũng cần những nguồn vốn lớn.
Nguồn vốn đầu tư còn là kinh phí duy trì các hoạt động xây dựng thương hiệu, thiết lập hệ thống phân phối cho sản phẩm trên thị trường. Từ đó có thể thấy vốn đầu tư là điều kiện quyết định phần lớn đến sự thành công của việc chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp.
1.5.6 Các điều kiện khác.
Ngoài những điều kiện trên thì hoạt động Marketing hiệu quả sẽ làm tăng uy tín và tạo dựng hình ảnh cho công ty trên thị trường.
Xây dựng một hệ thống thông tin thông suốt về thị trường giúp công ty đưa ra những chiến lược cạnh tranh hiệu quả.
Bên cạnh đó, chính phủ cần có những chính sách thúc đẩy hoạt động xuất khẩu trực tiếp như: Đơn giản các thủ tục hành chính, cho các doanh nghiệpp sản xuất hàng xuất khẩu vay vốn, xây dựng hệt thống thông tin thị trường thông qua các đại sứ quán và đào tạo lao động có tay nghề cao trong ngành may mặc để donh nghiệp có được đội ngũ lao động lành nghề
Tóm lại, trong chương I chuyên đề đã hệ thống lại lý luận chung về gia công xuất khẩu và xuất khẩu trực tiếp. Đồng thời cũng đưa ra các điều kiện cần thiết để một doanh nghiệp may mặc có thể chuyển đổi từ hình thức gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG GIA CÔNG XUẤT KHẨU VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ CHUYỂN TỪ GIA CÔNG XUẤT KHẨU SANG XUẤT KHẨU TRỰC TIẾP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN MAY NÔNG NGHIỆP
Tổng quan về Công ty cổ phần may nông nghiệp.
Quá trình hình thành và phát triển của Công ty cổ phần may nông nghiệp.
2.1.1.1 Quá trình hình thành của Công ty cổ phần may nông nghiệp.
Tên Công ty: Công ty cổ phần may nông nghiệp.
Tên tiếng anh: Agriculture Garments Joint-stock Company.
Tên viết tắt: AGJC.
Địa chỉ: Số 1 - Ngõ 120, Đường Trường Chinh, Hà Nội.
Công ty trước đây là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Tổng Công ty Xây dựng và phát triển nông thôn của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn (BNN&PTNT). Lúc đó Công ty có tên là “Công ty May xuất khẩu”. Công ty may xuất khẩu Phương Mai được thành lập ngày 02/10/1990 theo quyết định số 02 NN – TCCB/QĐ của BNN&PTNT.
Sau hơn 13 năm đi vào hoạt động sản xuất và kinh doanh, ngày 05/12/2003 BNN&PTNT đã ra quyết định số 5364/QĐ/BNN - TCCB tiến hành cổ phần hóa Công ty May xuất khẩu và đổi tên thành Công ty cổ phần may nông nghiệp.
2.1.1.2 Các giai đoạn phát triển của Công ty
Trong quá trình hoạt động sản xuất và kinh doanh của Công ty có thể chia thành hai giai đoạn chủ yếu là: Giai đoạn trước khi cổ phần hóa và giai đoạn sau khi đã cổ phần hóa. Nhưng trong chuyên đề này ta chỉ tập trung nghiên cứu giai
đoạn Công ty sau khi cổ phần hoá.
Giai đoạn một là trước khi cổ phần hóa được tính từ ngày 02/10/1990 đến ngày 05/12/2003. Đây là giai đoạn Công ty còn là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Tổng Công ty Xây dựng và phát triển nông thôn do BNN&PTNT quản lý. Khi thành lập thì nhiệm vụ chủ yếu của Công ty lúc này là sản xuất quần áo bảo hộ lao động và gia công xuất khẩu.
Cơ sở ban đầu của Công ty là một dãy nhà kho và một dãy nhà cấp 4 đã dột nát cùng với một số máy móc cơ bản như: máy may, bàn là, máy chữ… và một số thiết bị khác. Trong quá trình hoạt động Công ty đã đầu tư cải tạo lại nhà kho thành một xưởng sản xuất 2 tầng, tầng 1 để sản xuất, tầng 2 để chứa thành phẩm và nguyên vật liệu, và Công ty cũng đầu tư để xây dựng thêm một dãy nhà mới và mua sắm thêm trang thiết bị phục vụ cho sản xuất. Trong điều kiện sản xuất khó khăn như vậy nhưng công ty cũng đã có gắng vượt qua và đạt được những thành quả nhất định trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bảng 2.1 Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty may xuất khẩu từ năm 1999 – 2002.
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
Doanh thu
Triệu đồng
9 235
10 970
12 807
14 871
11 250
Tốc độ tăng trưởng doanh thu
%
0
18,8
16,7
16,1
-24,4
Thu nhập bình quân
Nghìn đồng/ người/tháng
500
650
700
750
825
Tốc độ tăng trưởng thu nhập B.quân
%
0
30
7,7
21,4
10
Nguồn: Phòng tài vụ (*Tốc độ tăng trưởng = (Năm sau – Năm Trước) / Năm trước).
Giai đoạn hai là sau khi Công ty được cổ phần hóa và đổi tên thành “Công ty cổ phần may nông nghiệp”. Giai đoạn này được tính từ ngày 05/12/2003 đến nay. Sau khi cổ phần hóa công ty đã có nhiều thay đổi cả về tổ chức lẫn quy mô. Số công nhân viên giảm từ 300 người trước khi cổ phần xuống còn 131 người sau khi cổ phần xong, trong đó đội ngũ nhân viên quản lý giảm từ 25 xuống còn 18 người. Đến năm 2007 tổng số công nhân viên của công ty là 150 người trong đó nhân viên quản lý là 18. Công ty cũng tến hành củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý theo luật doanh nghiệp.
Trong giai đoạn này Công ty cũng tiến hành mua sắm thêm một số máy móc mới. Năm 2004, Công ty mua mới 10 máy may 1 kim điện tử GC 6180ME3, 10 máy may 1 kim thường GC 6150M và một máy đính bọ ZUKI với tổng giá trị đầu tư là 160 triệu đồng. Năm 2005, công ty mua 1 máy ep mex trị giá 31,7 triệu đồng. Năm 2006, Công ty lại mua 2 bàn là hơi + bàn hút chân không trị giá 13,6 triệu đồng.
Bên cạnh việc đầu tư mua sắm thiết bị để nâng cao năng lực sản xuất, Công ty còn đầu tư mở rộng các lĩnh vực kinh doanh như xây dựng nhà xưởng cho thuê, chuyển đổi dần từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp để nâng cao lợi nhuận xuất khẩu. Đa dạng hóa sản phẩm sản xuất, trước đây chỉ sản xuất quần áo bảo hộ lao động và gia công xuất khẩu thì ngày nay còn sản xuất thêm nhiều sản phẩm mới như: áo sơ-mi, áo Jacket, áo Jile, quần âu, quần bò, váy, quần áo thể thao… phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Tuy nhiên giai đoạn này hoạt động kinh doanh của Công ty cũng bị ảnh hưởng do việc chuyển đổi cơ chế quản lý gây ra. Điều này được thể hiện rõ qua bảng số liệu sau.(Xem bảng 2.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty CP may nông nghiệp giai đoạn 2004 – 2007)
Chức năng và nhiệm vụ của Công ty cổ phần may nông nghiệp
Chức năng của Công ty là sản xuất, gia công sản phẩm may mặc trong nước
và xuất khẩu.
Bảng 2.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty CP may nông nghiệp giai đoạn 2004 – 2007
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm
2004
2005
2006
2007
Doanh thu
Triệu đồng
9 677
8 183
9 426
10 584
Tốc độ tăng trưởng doanh thu
%
0
-15,4
15,2
12,3
Thu nhập bình quân
Nghìn đồng/người/tháng
720
915
1 549
1 700
Tốc độ tăng trưởng thu nhập BQ
%
0
27,08
69,2
9,7
Nguồn: Phòng tài vụ.
* chú ý: Tốc độ tăng trưởng = (Năm sau – năm trước)/năm trước
Nhiệm vụ của Công ty là tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách hiệu quả đem lại lợi nhuận cho các cổ đông, đảm bảo công ăn việc làm cho những người lao động trong Công ty với mức lương ổn định ngày càng cao, đồng thời xây dựng hình ảnh Công ty với uy tín và thương hiệu trên thị trường tiêu dùng may mặc trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó Công ty cũng phải luôn hoàn thành tốt nghĩa vụ đóng thuế với nhà nước và giúp đỡ cộng đồng.
Công ty cổ phần may nông nghiệp lúc thành lập có số vốn cổ phần là 1.741.500.000 VNĐ do các cổ đông đóng góp, với 131 công nhân viên trong đó có 18 nhân viên quản lý. Hiện nay, Công ty có 150 nhân viên với số vốn chủ sở hữu là 2.148.000 VNĐ.
Giám đốc của Công ty hiện nay là ông Phan Thế Vịnh.
Cơ cấu tổ chức sản xuất và tổ chức bộ máy quản trị của Công ty cổ phần may nông nghiệp.
Cơ cấu tổ chức sản xuất theo không gian
Công ty CP may nông nghiệp được xây dựng trên khu đất có diện tích khoảng 3.200 m2 thuộc khu D, Phương Mai, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. Cơ sở hạ tầng của công ty bao gồm:
Có 1 tòa nhà 5 tầng, đây là nơi làm việc của bộ máy tổ chức trong công ty.
3 dãy nhà xưởng dùng để sản xuất và đóng gói thành phẩm
1 dãy nhà kho gồm kho thành phẩm và kho nguyên vật liệu
1 cửa hàng giới thiệu sản phẩm nằm cạnh cổng ra vào của công ty
1 phòng cho nhân viên bảo vệ
Khu công trình phụ bao gồm bếp, nhà ăn và khu vệ sinh.
Cơ cấu bộ máy quản trị
+ Hội đồng quản trị
+ Chủ tịch hội đồng quản trị - kiêm giám đốc điều hành
Các nhà quản trị cấp thấp
+ Quản đốc phân xưởng may
+ Quản đốc phân xưởng đóng gói
Các trưởng phòng ban đóng vai trò tham mưu cho giám đốc.
Bộ máy quản trị của Công ty được xây dựng theo mô hình quản trị trực tuyến – chức năng. Các bộ phận cấp dưới nhận mệnh lệnh trực tiếp từ giám đốc.
Chức năng của các chức danh và của các bộ phận là:
Hội đồng quản trị: là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Công ty, có nhiệm vụ hoạch định chiến lược kinh doanh của Công ty, bầu và bãi nhiễm ban giám
Giám đốc
Phó giám đốc
Phòng tài vụ
Phòng tổng hợp
Phòng kĩ thuật
Phòng hành chính
QĐ Phân xưởng đóng gói
QĐ Phân xưởng may
HĐQT
Phòng Bảo vệ
Thủ kho
Chú thích.
Quan hệ chức năng:
Quan hệ trực tuyến:
Hình 2.1 Sơ đồ tổ chức Công ty CP may nông nghiệp
đốc của công ty. Đồng thời giám sát các hoạt động của Công ty. Hội đồng quản trị lãnh đạo công ty bằng nghị quyết.
Giám đốc: Do Hội đồng quản trị bầu ra. Là người đại diện của Công ty pháp luật, được giao trách nhiệm quản trị Công ty, người chỉ huy cao nhất trong Công ty và là người có nhiệm vụ quản lý toàn diện các vấn đề của Công ty. Đồng thời Giám đốc cũng phải chịu trách nhiệm về mọi vấn đề sản xuất kinh doanh, kinh tế, đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty, Giám đốc có nhiệm vụ:
- Tạo dựng và phát triển mối quan hệ với bên trong và bên ngoài công ty.
- Ban hành các quyết định lớn có ảnh hưởng lớn đến hướng đi và hoạt động của toàn bộ công ty
- Đưa ra các giải pháp tình thế để giải quyết các khó khăn, vướng mắc trước mắt nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược của Công ty
- Tổ chức bộ máy quản lý điều hành hoạt động của Công ty
Phó giám đốc: Là người giúp Giám đốc điều hành công ty theo phân công và ủy quyền của Giám đốc, chịu trách nhiệm trước Giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được phân công hoặc ủy quyền.
Quản đốc phân xưởng: Là người phụ trách phân xưởng, phân xưởng là đơn vị sản xuất cơ bản trong doanh nghiệp, quản đốc phân xưởng thực hiện một số chức năng như giám sát, đôn đốc việc thực hiện các công việc của công nhân, chấm công, báo cáo kết quả thực hiện công việc…
Các phòng chuyên môn nghiệp vụ của Công ty bao gồm: Phòng Hành chính - tổ chức, Phòng Kế toán tài vụ, Phòng kinh doanh tổng hợp, Phòng Kỹ thuật chất lượng, Phòng Bảo vệ.
- Phòng hành chính tổ chức có niệm vụ quản lý tình hình lao động và tổ chức cơ cấu cán bộ công nhân viên trong công ty. Đồng thời xây dựng các kế hoạch về nhân lực, tuyển dụng và bố trí cán bộ công nhân viên, giải quyết các vấn đề thuộc nhân sự trong công ty.
- Phòng tài vụ có nhiệm vụ tham mưu cho lãnh đạo Công ty và tổ chức thực hiện các mặt công tác sau: hạch toán kế toán đầy đủ chính xác, kịp thời toàn bộ tài sản, vật tư, tiền vốn, các hoạt động thu chi tài chính và kết quả kinh doanh theo quy định nội bộ của Công ty; tư vấn tham mưu giúp lãnh đạo Công ty chỉ đạo và trực tiếp thực hiện kiểm tra, giám sát việc quản lý và chấp hành chế độ tài chính và kế toán chung của Nhà nước cũng như quy định nội bộ của Công ty.
- Phòng tổng hợp có nhiệm vụ: Báo cáo trước ban giám đốc Công ty về
các hoạt động của phòng thuộc các lĩnh vực bao gồm hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, hoạt động kinh doanh tại thị trường nội địa, hoạt động đấu thầu quốc tế, thực hiện khuếch trương xúc tiến giới thiệu sản phẩm, bán hàng giao dịch qua các kênh - sàn giao dịch - cổng thương mại điện tử và các công việc khác do ban giám đốc giao.
- Phòng bảo vệ có nhiệm vụ gìn giữ, bảo vệ tài sản của Công ty khỏi bị mất mát do kẻ gian lấy trộm và đảm bảo an ninh cho Công ty.
2.2 Thực trạng gia công xuất khẩu của Công ty cổ phần may nông nghiệp trong thời gian qua.
Sản phẩm và thị trường gia công từ 2003 đến nay
Sản phẩm gia công.
Hiện nay Công ty cổ phần may nông nghiệp sản xuất và tiêu thụ tất cả các loại mặt hàng may mặc. Tuy nhiên do đặc điểm công nghệ và lao động thì Công ty chỉ gia công những mặt hàng mà công ty có thế mạnh và là những mặt hàng gia công truyền thống của các doanh nghiệp may mặc Việt Nam như: áo Jilê, quần âu nam nữ, váy các loại. Đây là những mặt hàng gia công đơn giản nên hiệu quả gia công cũng chưa cao.
Bảng 2.3 Cơ cấu gia công theo mặt hàng của Công ty CP may nông nghiệp giai đoạn 2004 – 2007.
Tên mặt hàng
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số lượng (chiếc)
Tỷ trọng (%)
Số lượng (chiếc)
Tỷ trọng (%)
Số lượng (chiếc)
Tỷ trọng (%)
Quần âu
80 000
61,54
100 000
57,14
127 000
61,35
Áo Jile
30 000
23,07
45 000
25,71
50 000
24,15
Váy
20 000
13,59
30 000
17,15
30 000
14,5
Tổng
130 000
100
175 000
100
207 000
100
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo quyết toán hàng năm của AGJC.
Từ bảng số liệu trên ta thấy, số lượng các sản phẩm xuất khẩu tăng dần qua các năm, nhưng cơ cấu sản phẩm không có sự thay đổi lớn qua các năm, vì các số lượng xuất khẩu được sản xuất theo hợp đồng đã được ký kết trước và đây cũng là những mặt hàng mà công ty có khả năng sản xuất tốt.
Thị trường gia công và đối tác gia công.
Công ty cổ phần may nông nghiệp từ khi thành lập cho đến nay chủ yếu gia công cho các đối tác thuộc các nước Âu như Đức, Tiệp Khắc. Nhưng do nhu cầu phát triển của công ty và sự lớn mạnh dần lên thì hiện nay công ty còn nhận gia công cho một số đối tác của các nước khác như Đài Loan...
Bảng 2.4 Danh sách các đối tác đặt gia công của Công ty cổ phần may nông nghiệp từ 2003 đến nay.
STT
Đối tác đặt gia công
Quốc tịch của đối tác đặt gia công
1
Hãng STELMAN
Đức
2
Hãng STMETRO COMPANY LMT
Đức
3
Cty COMERCIOGERAL
Đức
4
Cty NOBEL- IMPORT- EXPORRT
Mỹ
5
Cty DAOIMPORT - EXPORTTEX
Đài Loan
6
Cty GZEATEST INTLDEVELOP
Tiệp Khắc
7
Cty TNHH PHÚ HÁN
Trung quốc
Nguồn: Phòng kinh doanh tổng hợp
Hiệu quả gia công xuất khẩu từ 2003 đến nay.
Hiện nay Công ty cổ phần may nông nghiệp đang thực hiện gia công xuất khẩu theo hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm là chủ yếu. Mặt khác, do yêu cầu của một số đối tác, Công ty cổ phần may nông nghiệp cũng thực hiện gia công xuất khẩu theo hình thức nhận nguyên liệu và giao thành phẩm.
Các mặt hàng mà công ty nhận gia công là những mặt hàng phổ biến, có độ phức tạp trong gia công không được cao nên hiệu quả cũng chưa cao. Nhưng đối với Công ty cổ phần may nông nghiệp là một công ty nhỏ thì đây cũng là nguồn thu đáng kể giúp cho Công ty cổ phần may nông nghiệp từ đó phát triển lên.
Từ biểu đồ trên cho thấy, doanh thu từ gia công hàng năm của công ty luôn luôn chiếm một tỷ lệ tưong đối cao từ 50% trở lên.
Trong hoạt động gia công của công ty thì dựa trên quy mô và công nghệ hiện tại công ty cũng nhận gia công với mức giá cả mà thị trường gia công đã định sẵn. Theo đó, giá cả gia công của các sản phẩm của công ty đuợc thể hiện qua bảng số liệu sau.
Bảng 2.5 Giá gia công của một số loại sản phẩm của Cty CP may nông nghiệp năm 2007.
STT
Mặt hàng
Đơn giá (USD/chiếc)
1
Quần âu các loại
2,2 -2,7
2
Áo Jile các loại
2 - 2,5
3
Váy
1,8 - 2,5
Nguồn: Phòng tổng hợp
2.3 Phân tích thực trạng về các điều kiện chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp của Công ty cổ phần may nông nghiệp.
2.3.1 Thực trạng về điều kiện sản phẩm.
Như đã phân tích ở chương I của chuyên đề này, một sản phẩm may mặc muốn có cơ hội xuất khẩu phải đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng do thị trường nhập khẩu yêu cầu. Ngoài ra, sản phẩm cần có kiểu dáng, mẫu mã đẹp, thương hiệu có uy tín là yếu tố cạnh tranh thuận lợi giúp cho sản phẩm chinh phục thị trường.
Hiện nay, các sản phẩm của Công ty cổ phần may nông nghiệp là các sản phẩm gia công xuất khẩu, đã đảm bảo yếu tố về chất lượng xuất khẩu. Do đó, nếu Công ty chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp thì việc đáp ứng yêu cầu chất lượng của sản phẩm là hoàn toàn có khả năng đáp ứng. Nhưng Công ty từ khi thành lập chỉ chuyên môn vào gia công xuất khẩu nên các mẫu mã của sản phẩm là do bên đặt gia công cung cấp, đồng thời việc xây dựng thương hiệu riêng cho sản phẩm của công ty cũng chưa được đầu tư xây dựng. vì vậy thương hiệu và mẫu mã là điểm yếu của sản phẩm của Công ty cổ phần may nông nghiệp.
Bên cạnh đó các sản phẩm của Công ty cổ phần may nông nghiệp sản xuất là những mặt hàng đơn giản như: áo Jilê, quần âu, váy, áo sơmi, áo Jacket… Đây là những mặt hàng phổ biến nên sự cạnh tranh sẽ rất khó khăn khi sản phẩm không có kiểu dáng mẫu mã đẹp và thương hiệu để gây sự khác biệt. Cùng với đó là số lượng sản phẩm sản xuất hàng năm của Công ty còn nhỏ lẻ. Sản lượng hàng năm của Công ty đạt từ 190.000 – 260.000 sản phẩm/năm. (Xem bảng 2.1)
Năm 2007, sản lượng quần âu tăng lên 30 000 chiếc so với năm 2005 nhưng tỷ trọng lại giảm đi 1,97%. Còn mặt hàng áo Jile, và váy tăng khoảng 13 – 1,5 %. Sở dĩ số lượng các sản phẩm được sản xuất có sự thay đổi không đáng kể qua các năm là do Công ty chuyên gia công xuất khẩu là chính nên kế hoạch sản xuất phụ thuộc vào các đơn hàng của đối tác.
Bảng 2.6 Cơ cấu sản phẩm của Công ty qua các năm.
STT
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
S.Lượng (Chiếc)
Tỷ trọng (%)
S.Lượng (Chiếc)
Tỷ trọng (%)
S.Lượng (Chiếc)
Tỷ trọng (%)
1
Quần âu
100 000
52,91
120 000
48,78
130 000
49,94
2
Váy
20 000
10,58
30 000
12,2
30 800
11,83
3
Áo Jile
35 000
18,51
50 000
20,33
50 500
19,4
4
Áo sơ-mi
20 000
10,58
30 000
12,2
30 000
11,52
5
Áo Jaket
4 000
2,13
4 000
1,6
4 000
1,55
6
Các sản phẩm khác
10 000
5,29
11 000
4,89
15 000
5,76
7
Tổng
189 000
100
246 000
100
260 300
100
Nguồn: Phòng tổng hợp.
Thực trạng về điều kiện thị trường
Thị trường nguyên vật liệu chính dùng trong sản xuất hàng gia công xuất khẩu hiện nay của Công ty cổ phần may nông nghiệp được các đối tác chỉ định nhập khẩu từ Đài Loan - Trung Quốc, còn các nguyên phụ liệu được công ty mua từ các công ty sản xuất trong nước như: Công ty Dệt 8/3, Tổng công ty dệt may Việt Nam, Công ty TNHH Bảo Long. Từ thực trạng trên cho thấy nguồn nguyên liệu chính dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu bị phụ thuộc và thị trường nước ngoài rất lớn.
Đối với thị trường đầu ra cho sản phẩm hiện tại của công ty do các đối tác đặt gia công chịu trách nhiệm. Các đối tác này được xây dựng trên mối quan hệ gia công lâu năm. Các sản phẩm được phân phối trên thị trường dưới tên của đối tác gia công và kênh phân phối của họ, chính vì thế mà thị trường tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu trực tiếp sẽ phải được xúc tiến ngay từ bây giờ. Đến cuối năm 2007 Công ty cổ phần may nông nghiệp đã có một số sản phẩm xuất khẩu trực tiếp để thăm dò thị trường.
Thực trạng về điều kiện lao động
Tổng số cán bộ và lao động tại Công ty cổ phần may nông nghiệp hiện nay là 150 người. Số lượng lao động gián tiếp là 18 người, tất cả đều có trình độ đại học. Số lượng lao động trực tiếp tại công ty cổ phần may nông nghiệp hiện nay là 128 công nhân. Lực lượng lao động của Công ty hiện nay có tay nghề chưa cao, đội ngũ thiết kế chưa được đầu tư đúng mức, thiếu nhà thiết kế giỏi.
Bảng 2.7 Cơ cấu lao động trực tiếp của Công ty CP may nông nghiệp
năm 2007
Chỉ têu
Nam (người)
Nữ (người)
Tổng
(người)
Tỷ lệ (%)
Bậc 2
0
50
50
39.1
Bậc 3
2
33
35
27.3
Bậc 4
0
20
20
15.6
Bậc 5
4
7
11
8.6
Bậc 6
2
5
7
5.5
Bậc 7
0
5
5
3.9
Tổng (người)
8
120
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26432.doc