Mục lục
Tài liệu tham khảo............................................................................81
Phần mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay tiền lương có một ý nghĩa hết sức to lớn cả về mặt kinh tế cũng như về mặt xã hội.
Trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế thì tiền lương là sự cụ thể hoá của quá trình phân phối của cải vật chất do người lao động làm ra.Do đó việc xây dựng một hệ thông thay lương và một bảng lương và lựa chọn được các hình thức trả lương hợp lý để làm sao cho t
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện các chính sách trả lương ở Công ty Dệt 8/3 Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iền lương đảm bảo được cả về nhu cầu về mặt vật chất cũng như về mặt tinh thần của người lao động đồng thời trở thành động lực thúc đẩy người lao động làm việc với hiều quả cao hơn là việc hết sức cần thiết và quan trọng.
Đối với người lao động tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu và hết sức quan trọng cho họ có thể đảm bảo được cuộc sống của bản thân và gia đình họ. Còn đối với doanh nghiệp thì tiền lương trả cho người lao động phải thu được hiệu quả cao nhất. Thông qua chính sách tiền lương của mình mà một doanh nghiệp có thể tạo nên được động lực thúc đẩy người lao động làm việc cũng như có thẻ làm triệt tiêu động lực đó. Nếu chính sách tiền lương của doanh nghiệp mà hợp lý thì nó sẽ thúc đẩy người lao động làm việc với hiệu quả và năng xuất lao động cao hơn và ngược lại nếu chính sách của doanh nghiệp mà không hợp lý thì nó sẽ làm triệt tiêu mất động lực lao động dẫn đến hậu quả là năng xuất lao động sẽ thấp kém.
Công ty dệt 8-3 là một doanh nghiệp sản xuất do đó hiện nay công ty đang áp dụng các hình thức trả lương chủ yếu là hình thức trả lương theo sản phẩm và hình thức theo thời gian.
Trong thời gian thực tập ở công ty tôi thấy có những vấn đề cần được hoàn thiện để phát huy tốt hơn nữa vai trò của tiền lương do đó tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện các hình thức trả lương ở công ty dệt 8-3 Hà Nội”.
Đề tài này ngoài phần mở đầu và kết luận ra gồm có:
Phần I :Những lý luận chung về tiền lương và sự cần thiết phải hoàn thiện các hình thức trả lương.
Phần II :Những đặc điểm có ảnh hưởng đến công tác trả lương ở công ty.
Phần III :Phân tích việc áp dụng các hình thức trả lương ở công ty dệt 8 - 3
Phần IV :Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác trả lương ở công ty dệt 8-3.
Phần I
Lý luận chung về tiền lương và sự cần thiếtphải hoàn thiện các hình thức trả lương
I. Lý luận chung về tiền lương
1. Bản chất của tiền lương
Tiền lương là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền kinh tế hàng hoá, nó là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động khi họ hoàn thành một công việc nào đó.
Theo quan điểm cũ thì tiền lương là một bộ phận của thu nhập quốc dân được phân phối cho người lao động căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động của mỗi người. Theo quan điểm này chế độ tiền lương mang nặng tính phân phối, cấp phát. Tiền lương vừa được trả bằng tiền, vừa được trả bằng hiện vật hoặc dịch vụ như y tế, giáo dục...Chế độ tiền lương này mang nặng tính bao cấp và bình quân nên nó không gắn liền với lợi ích của người lao động và không đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động. Theo quan điểm mới thì sức lao động được nhìn nhận là hàng hoá do vậy tiền lương không phải là cái gì khác mà chính là giá cả của sức lao động. Sức lao động tồn tại ở trong mỗi người lao động và được người lao động sử dụng để làm ra hàng hoá. Người lao động khi đi làm thuê có nghĩa là họ đem sức lao động của mình đi bán và nhận được một khoản thu nhập. Về phía người sử dụng lao động họ phải trả cho người sở hữu sức lao động một khoản tiền nhất định để đổi lấy quyền sử dụng sức lao động của người lao động.
Giữa người lao động và người sử dụng sức lao động nẩy sinh quan hệ mua bán. Các mà dùng để trao đổi mua bán ở đây chính là sức lao động và giá cả của sức lao động ở đây chính là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động, hay nó một cách khác thì tiền lương chính là giá cả của sức lao động.
Với quan điểm này về tiền lương nhằm trả đúng với giá trị sức lao động, tiền tệ hóa tiền lương triệt để hơn, xoá bỏ tính phân phát và trả lương bằng hiện vật đồng thời khắc phục lợi ích cá nhân trước kia, tiền lương được sử dụng đúng vai trò đòn bẩy kinh tế của nó kích thích người lao động gắn bó hăng say với công việc.
Đối với nhà quản lý tiền lương còn được coi là công cụ quản lý. Để sản xuất ra một loại hàng hoá thì phải có các yếu tố đầu vào, sức lao động là một trong các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất nhưng nó có đặc tính khác biệt với các yếu tố khác ở chỗ sức lao động có thể tạo ra được giá trị thặng dư. Tiền lương là một công cụ để người quản lý thực hiện quản lý con người, sử dụng lao động có hiệu quả. Tiền lương là yếu tố kích thích, xúc tiến sự phát triển kinh tế, tiền lương là động cơ lao động của người lao động được nhà quản lý sử dụng để quản lý người lao động hoạt động đúng hướng nhằm mục đích kết hợp hài hoà ba mục đích: Nhà Nước, Doanh nghiệp và cá nhân người lao động
Đối người lao động thì tiền lương là một khoản thu nhập và phương tiện để duy trì và khôi phục năng lực lao động (tái sản xuất sức lao động). Tiền lương nhận được là khoản tiền phân phối theo lao đông mà họ đã bỏ ra.
Tóm lại tiền lương là một khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động khi họ hoàn thành một công việc nào đó. Tiền lương biểu hiện giá cả của sức lao động. Người sử dụng lao động phải căn cứ vào số lượng, chất lượng của lao động, mức độ phức tạp, tính chất độc hại của công việc để tính và trả lương cho người lao động.
Tiền lương là một khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động nên nó là một khoản chi phí tạo nên giá thành sản phẩm. Do vậy, nó là một khoản khấu trừ vào doanh thu khi tính kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên tiền lương còn được chủ doanh nghiệp dùng như một công cụ để tác động lên người lao động. Tiền lương gắn liền với nâng cao nâng suất lao động và tiết kiệm thời gian. Bởi tăng năng suất lao động là cơ sở để tăng tiền lương phần tiết kiệm do năng suất lao động được dùng để tăng lương, lại là đông lực để thúc đẩy tăng số lượng và chất lượng sản phẩm. Tiền lương là lợi ích vật chất trực tiếp mà người lao động được hưởng từ sự cống hiến sức lao động của họ. Trả lương xứng đáng với sức lao động mà họ đã bỏ ra sẽ có tác dụng khuyến khích người lao động tích cực lao động từ đó tạo điều kiện tăng năng suất lao động, thúc đẩy sản xuất phát triển
Quan điểm về tổ chức tiền lương
Tổ chức tiền lương là quá trình thực hiện việc trả lương cho người lao động. Công tác tổ chức tiền lương bao gồm toàn bộ các công việc từ việc lập quỹ lương, quỹ tiền thưởng cho đến việc tính toán, vận dụng các hình thức trả lương, trả thưởng và các khoản phụ cấp khác cho người lao động. Nguồn hình thành của quỹ tiền lương chủ yếu từ hai nguồn sau: Hình thành từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các hoạt động khác. Ngoài ra còn có những trường hợp quỹ lương được hình thành từ sự trợ giúp của ngân sách nhà nước
Việc xác định quỹ tiền lương theo thời gian và quỹ tiền lương sản phẩm có sự khác nhau
Quỹ tiền lương thời gian được hình thành dựa vào số lượng người hưởng lương thời gian và bậc lương của họ. Bậc lương được xác định căn cứ vào trình độ và thâm niên công tác của người lao động
Quỹ lương sản phẩm được hình thành dựa vào doanh thu hoặc đơn giá tiền lương và số lượng sản phẩm được sản xuất ra. Quy mô của quỹ tiền lương phụ thuộc vào quy mô của lao động và giá trị tổng sản phẩm của doanh nghiệp. Như vậy cơ sở để tính quỹ tiền lương là những yếu tố thuộc về kế hoạch của doanh nghiệp được gọi là quỹ lương kế hoạch. Quỹ lương kế hoạch thường được xác định vào đầu tháng, cuối tháng dựa vào những số liệu thực tế để tính ra quỹ tiền lương thực tế. Sự chênh lệch giữa quỹ tiền lương thực tế và quỹ tiền lương kế hoạch được thanh quyết toán vào cuối tháng
2. Các yêu cầu và chức năng của tiền lương.
2.1 Yêu cầu.
Khi tổ chức tiền lương cho người lao động cầu phải đạt được các yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải đảm bảo tái sản xuất lao động và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người lao động.
Thứ hai, làm cho năng suất lao động không ngừng được nâng cao.Thứ ba là phải đảm bảo tính đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu và đảm bảo sự công bằng cho người lao động.
Mỗi một doanh nghiệp phải lo được cho người lao động có mức tiền lương cao hơn mức tiền lương tối thiểu144.000 (1 tháng). Tiền lương phải đáp ứng được nhu cầu về vật chất và nhu cầu về tinh thần của người lao động. Tiền lương phải được trả dựa vào sự cống hiến sức lao động của người công nhân. Những lao động như nhau phải được trả lương như nhau...
2.2 Chức năng của tiền lương.
Tiền lương là một phạm trù kinh tế tổng hợp, nó phản ánh mỗi quan hệ kinh tế trong việc tổ chức trả lương, trả công cho người lao động, do đó tiền lương bao gồm các chức năng sau:
Tiền lương là một công cụ để thực hiện chức năng phân phối thu nhập quốc dân, chức năng thanh toán giữa người sử dụng lao đông và người lao động.
Tiền lương có nhiệm vụ tái sản xuất sức lao động thông qua việc sử dụng tiền lương để trao đổi lấy các tư liệu tiêu dùng của người lao động.
Tiền lương còn có chức năng kích thích con người tham gia lao động, bởi lẽ tiền lương là một quan trọng vế thu nhập, chi phối và quyết định mức sống của người lao động. Do đó người ta sử dụng nó để quản lý nhằm thúc đẩy người lao động trong công việc hăng hái lao động và sáng tạo.
Như vậy tiền lương có vai trò hết sức quan trọng. Trong việc giải quyết các vấn đề phải đặt nó trong mối quan hệ và sự tác động qua lại với nhiều vấn đề kinh tế khác, đặc biệt là với sự phát triển của xã hội và nâng cao năng suất lao động. Trong doanh nghiệp thì tiền lương phải đảm bảo được sự công bằng và phải khuyến khích được người lao động tăng khả năng làm việc của họ
3. Những nguyên tắc cơ bản của tiền lương.
3.1 Đảm bảo năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân.
Năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân là một nguyên tắc hết sức quan trọng trong tổ chức tiền lương. Vì chỉ có như vậy thì mới tạo cơ sở để giảm giá thành, hạ giá bán và tăng tích luỹ. Tiền lương bình quân tăng lên phụ thuộc vào những nhân tố chủ quan do nâng cao năng suất lao động (nâng cao trình độ lành nghề, giảm bớt tổn thất về thời gian lao động..). Năng suất lao động tăng lên không chỉ vì những lý do trên mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan khác (áp dụng kỹ thuật mới..). như vậy tốc độ tăng năng suất lao động rõ ràng là có khả năng khách quan hơn tăng tốc độ của tiền lương bình quân.
Trong mỗi doanh nghiệp muốn hạ giá thành sản phẩm, tăng tích luỹ thì việc làm tăng năng suất lao động nhanh hơn tốc độ tăng lương bình quân là hết sức quan trọng. Nếu vi phạm vào những nguyên tắc trên thì sẽ tạo nên những khó khăn trong việc phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của người lao động .
3.2. Tiền lương ngang nhau cho những người lao động như nhau.
Nguyên tắc này đưa ra nhằm đảm bảo sự công bằng trong công tác trả lương cho người lao động. Những người có cùng tay nghề và năng suất lao động như nhau thì phải được trả lương như nhau không được có sự phân biệt đối sử về tuổi tác cũng như về giới tính.
3.3. Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao động làm nghề khác nhau trong những doanh nghiệp khác nhau.
Trình độ lành nghề bình quân của những người lao động, điều kiện lao động và những ý nghiã kinh tế của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân là khác nhau. điều này có ảnh hưởng đến tiền lương bình quân của người lao động. Đương nhiên là những nghề có tính chất phức tạp về kỹ thuật cao hoặc có vị trí mũi nhọn trong nền kinh tế thì mức lương trả cho những người lao động trong các ngành này phải cao hơn so với các ngành khác. Tuy nhiên việc trả lương như thế nào để tránh sự chênh lệch quá lớn góp phần vào sự phân hoá giầu nghèo trong xã hội là điều đáng lưu ý. Tiền lương trả đúng sức lao động sẽ khuyến khích người lao động làm việc. Tiền lương trả cao hơn sẽ làm giảm năng suất lao động vì vậy trả lương cho người lao động cần hoạt động đúng nguyên tắc của tiền lương.
4. Các hình thức trả lương.
4.1 Hình thức trả lương theo thời gian.
Hình thức trả lương theo thời gian dựa vào thời gian lao động và bậc lương của người lao động. Tiền lương tính theo cách này không gắn trực tiếp với kết quả sản xuất của người lao động. Cách tính suất lương theo cấp bậc như sau:
S giờ i = S giờ 1 x Ki
S ngày i = S ngày 1 x Ki
S tháng i = S tháng 1 x Ki
Trong đó:
S giờ i, S ngày i, S tháng i :Suất lương giờ, ngày, tháng của công nhân bậc i kí hiệu chung là STGi
S giờ 1, S ngày 1, S tháng1 :Mức lương của công nhân bậc 1 được quy định ở tháng lương.
Ki :Hệ số lương của công nhân bậc i được quy định ở tháng lương. Sau khi tính được STGi ta tính lương thời gian theo công thức sau:
(1-I)
Lương Tgi= STGi x thời gian làm việc thực tế
Hình thức trả lương theo thời gian bao gồm hai chế độ. Theo thời gian giản đơn và theo thời gian có thưởng.
4.4.1 Chế độ trả lương theo thời gian giản đơn.
Người lao động được trả lương theo chế độ này thì tiền lương của họ được tính theo công thức (1). Tiền lương cao hay thấp phụ thuộc vào bậc lương và thời gian làm việc thực tế của người lao động. Chế độ tiền lương này có mặt hạn chế ở chỗ tiền lương không gắn với kết quả lao động. Ngoài ra nó còn không có tác dụng khuyến khích người lao động hoàn thành công việc với kết quả cao. Ưu điểm của chế độ này là việc tính lương dễ dàng.
4.1.2 Chế độ trả lương theo thời gian có thưởng.
Người lao động nếu được trả lương theo chế độ này thì ngoài phần tiền lương họ được nhận theo công thức (1) thì họ còn nhận được thêm phần tiền thưởng khi họ đạt được những chỉ tiêu về số lượng, chất lượng theo quy định. Chế độ này đã phần nào khắc phục được những nhược điểm của chế độ trả lương theo thời gian giản đơn. Kết quả lao động có ảnh hưởng tới tiền lương của người lao động. Việc tính toán chỉ tiêu thưởng là tương đối phức tạp vì những người hưởng lương theo hình thức trả lương thời gian thường là lao động làm công tác quản lý do đó rất khó để xác định được kết quả lao động của họ để đặt ra chỉ tiêu thưởng cụ thể.
4.2 Hình thức trả lương theo sản phẩm.
4.2.1 Các điều kiện áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm
Thứ nhất là các điều kiện để bảo đảm tính toán chính xác hơn giá sản phẩm.
Phải xây dựng được các mức lao động có căn cứ khoa học đây là yếu tố cơ bản nhất. Chỉ có xác định được mức có căn cứ kho học thì sản lượng giao cho người lao động mới đúng từ đó mới xác định chính xác được đơn giá sản phẩm.
Mức lao động là đại lượng lao động cần thiết được quy định để làm ra được một khối lượng sản phẩm nhất định hoặc một công việc cụ thể.
Cần nhận thức rõ định mức và xác định đơn giá trong chế độ trả lương theo sản phẩm là công tác hết sức quan trọng. Định mức là cơ sở để xác định đơn giá do đó công việc đầu tiên là phải tiến hành định mức lao động một cách đúng đắn.
Cần phân công bố trí lao động một cách hợp lý, phù hợp với cấp bậc công việc. Đi đôi với định mức lao động cần phải xét cấp bậc công việc một cách chính xác. Cấp bậc công việc xác định mức độ phức tạp hay việc làm của công nhân. Trả lương sản phẩm phải theo đơn giá trả lương tính theo cấp bậc công việc. Do đó muốn đơn giá chính xác ngoài việc có hệ thống định mức lao động thì còn phải xác định đúng đắn cấp bậc công việc.
Thứ hai là các điều kiện đảm bảo tái sản xuất liên tục và chất lượng.
Phải tổ chức phục vụ tốt nơi làm việc. Kết quả hoàn thành trong ca làm việc ngoài sự cố gắng của công nhân còn do trình độ tổ chức và phục vụ nơi làm việc quyết định. Tổ chức và phục vụ tốt nơi làm việc, hạn chế tới mức tối đa thời gian không làm việc sẽ tạo điều kiện cho công nhân hoàn thành vượt mức quy định.
Để tiến hành trả lương theo sản phẩm chính xác còn phải căn cứ vào chất lượng sản phẩm được sản xuất ra. Muốn vậy cần thực hiện tốt công tác thông kê nghhiệm thu sản phẩm. Do thu nhập của công nhân phụ thuộc vào số lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quy định trong sản xuất vì thế để đảm bảo tính chính xác, công bằng trong công việc trả lương thì cần phải tổ chức tốt công tác thống kê, kiểm tra nghiệm thu sản phẩm thường xuyên.
4.2.2 Các chế độ trả lương theo sản phẩm.
Tiền lương trả theo sản phẩm là hình thức cơ bản đang được áp dụng trong các khu vực sản xuất vật chất hiện nay. Việc tính lương theo sản phẩm cho người lao động được căn cứ vào đơn giá, số lượng, chất lượng sản phẩm của người công nhân làm ra lương sản phẩm được tính theo công thức sau:
(2-I)
Lsp = ĐG x Q
Trong đó:
Lsp :Lương trả theo sản phẩm
ĐG :Đơn giá sản phẩm. Được tính theo công thức sau
(3-I)
ĐG =
L--------------M
Hoặc
(4-I)
ĐG = Lx T
Trong đó:
ĐG :Đơn giá sản phẩm
L :Lương tính theo cấp bậc công việc
M :Mức sản lượng
T :Mức thời gian
Q :Số lượng sản phẩm thực tế được sản xuất ra trong kỳ tính lương
So với hình thức trả lương thời gian thì hình thức trả lương theo sản phẩm có ưu điểm hơn hẳn. Quán triệt đầy đủ nguyên tắc trả lương theo số lượng và chất lượng lao động, gắn liền tiền lương với kết quả sản xuất của mỗi người. Do đó kích thích người lao động nâng cao chất lượng lao động khuyến khích họ học tập về văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ để nâng cao trình độ lành nghề của mình, từ đó cải tiến kỹ thuật, sử dụng tốt máy móc thiết bị. Trả lương theo sản phẩm giúp cán bộ quản lý công nhân và kết quả kinh doanh dễ dàng hơn.Góp phần thúc đẩy công tác quản lý, rèn luyện đội ngũ lao động có tác phong làm việc tốt.
Dưới đây là các chế độ trả lương của hình thức trả lương theo sản phẩm.
Chế độ trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân
Được áp dụng rộng rãi đối với người trực tiếp sản xuất trong điều kiện quá trình lao động của họ mang tính chất độc lập tương đối, có thể định mức và kiểm trả, nghiệm thu sản phẩm một cách cụ thể riêng biệt. Ưu điểm của chế độ này là mối quan hệ giữa tiền lương của công nhân nhận được và kết quả lao động thể hiện rõ ràng, do đó kích thích người công nhân nâng cao trình độ lành nghề nâng cao năng suất lao động nhằm tăng thu nhập.
Chế độ tiền lương này dễ hiểu, người công nhân có thể dễ dàng tính toán lương của mình sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Nhược điểm của chế độ này là ở chỗ: tinh thần tập thể kém, công nhân ít quan tâm tới việc sử dụng tốt máy móc thiết bị và nguyên vật liệu, ít quan tâm đến công việc chung của tập thể.
Chế độ trả lương theo sản phẩm tập thể.
áp dụng cho các công việc cần một tập thể thực hiện ưu điểm là khuyến khích công nhân trong tổ, nhóm nâng cao tinh thần trách nhiệm trước tập thể, quan tâm đến kết quả cuối cùng của tổ đồng thời chế độ này cũng đơn giản dễ hiểu và dễ áp dụng. Nhược điểm của chế độ này là sản lượng của mỗi cá nhân không trực tiếp quyết định tiền lương của họ.Do đó họ ít quan tâm tới việc nâng cao năng suất lao động của bản thân.
Chế độ trả lương theo sản phẩm gián tiếp.
áp dụng đối với công nhân phụ mà công việc của họ có ảnh hưởng nhiều đến kết quả lao động của công nhân chính hưởng theo sản phẩm.
Tiền lương của công nhân phụ có thể tính bằng cách lấy phần trăm hoàn thành mức sản lượng của công nhân chính nhân với lương cấp bậc của công nhân phụ. Ưu điểm của chế độ này là chỗ để tiền lương của công nhân phụ thuộc vào mức năng suất lao động của công nhân chính mà họ phụ thuộc. Do đó đòi hỏi người công nhân phụ phải có trách nhiệm và tìm cách phục vụ tốt cho người công nhân chính hoàn thành công việc. Nhược điểm là do tiền lương của người công nhân phụ thuộc vào sản lượng của người công nhân chính nếu không đánh giá chính xác được công việc của công nhân phụ
Chế độ trả lương khoán
áp dụng cho những công việc nếu làm từng chi tiết, từng bộ phận công việc theo thời gian thì không có lợi về mặt kinh tế và không đảm bảo về mặt thời gian. Chế độ này có thể áp dụng cho cá nhân hoặc cho tập thể. Đơn giá khoán có thể tính theo đơn vị công việc cần hoàn thành hoặc có thể tính theo khối lượng công việc cần hoàn chỉnh. Ưu điểm của chế độ này là người công nhân biết trước được tiền lương nhận được khi hoàn thành công việc do đó khuyến khích họ hoàn thành được nhiệm vụ trước thời hạn. Nhược điểm là đơn giá phải hết sức tỷ mỉ nếu không sẽ không chính xác.
Chế độ trả lương theo sản phẩm có thưởng
Thực chất là các chế độ trả lương như trên và áp dụng các hình thức tiền thưởng. Khi áp dụng chế độ này, phần tiền lương được tính theo đơn giá cố định còn tiền thưởng thì căn cứ vào mức độ hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu và mặt số lượng.
Yêu cầu cơ bản khi áp dụng chế độ tiền lương này là phải quy định đúng các chỉ tiêu, điều kiện thưởng và tỉ lệ thưởng bình quân. Tỉ lệ thưởng bình quân không phải là bình quân hoá cho mọi người trong doanh nghiệp mà nó xác điịnh tiền thưởng nói chung cho doanh nghiệp về tiền lương.
Ưu điểm: Khuyến khích người lao động hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao.
Nhược điểm: Việc xác định tỉ lệ thưởng tương đối phức tạp.
Chế độ trả lương sản phẩm luỹ tiến.
Chế độ này thường được áp dụng cho những khâu trọng yếu trong sản xuất bởi giải quyết được khâu này sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất ở những khâu khác có liên quan góp phần hoàn thành vượt mức kế hoạch ở doanh nghiệp.
Với chế độ này sản phẩm nằm trong mức quy định được tính theo đơn giá cố định. Những sản phẩm vượt mức quy định được tính theo đơn giá luỹ tiến (cao hơn so với giá quy định). Đơn giá luỹ tiến được tính dựa vào đơn giá cố định và có tính đến tỷ lệ tăng đơn giá. Công thức tính tỷ lệ tăng đơn giá như sau:
(5-I)
k =
dcd x tc---------------------d1
x 100
Trong đó
k :Tỷ lệ tăng đơn giá hợp lý
dcd :Tỷ trọng chi phí sản xuất gián tiếp cố định trong giá thành sản phẩm
tc :Tỷ lệ về số tiền tiết kiệm về chi phí sản xuất gián tiếp cố định dùng để tăng đơn giá
d1 :Tỷ trọng của tiền công công nhân sản xuất trong giá thành sản phẩm khi hoàn thành vượt mức 100%
Tiền lương công nhânđược tính theo công thức
(6-I)
(Đg x Q1) + Đg x k(Q1 - Q0)
TL :Tổng số tiền công nhân nhận được
Q1 :Sản lượng thực tế
Q0 :Sản lượng đạt mức khởi điểm để tính đơn giá luỹ tiến
Đg :Đơn giá cố định tính theo sản phẩm
Chế độ này có ưu điểm là khuyến khích người lao động nhanh chóng hoàn thành vượt mức sản lượng, góp phần thúc đẩy sản xuất ở các khâu khác. Nhược điểm là luôn làm cho tốc độ tăng tiền lương bình quân cao hơn so với tốc độ tăng năng suất bình quân
Mỗi một chế độ tiền lương đều có ưu nhược điểm của nó việc áp dụng trả lương nào là phụ thuộc vào công việc cụ thể thích hợp với chế độ lương đó.
5. Tác dụng của hình thức trả lương.
5.1 Hình thức trả lương theo thời gian.
Tiền lương trả theo thời gian áp dụng chủ yếu là đối với lao động làm công tác quản lý. Hình thức này chủ yếu dựa vào thời gian làm việc của người lao động và bậc lương của họ bởi vậy tiền lương không gắn liền với kết quả sản xuất và hiệu quả làm việc của người lao động. Điều này cần phải được khắc phục.
5.2 Hình thức trả lương theo sản phẩm.
Lương được trả theo hình thức lương sản phẩm căn cứ trực tiệp vào kết quả lao động của mỗi người, nó kích thích người lao động rèn luyện tay nghề, không ngừng nâng cao năng suất lao động, hạn chế những hành động thiếu trách nhiệm, làm bừa, làm ẩu. Hình thức trả lương theo sản phẩm quán triệt đầy đủ hơn nguyên tắc trả lương theo số lượng và chất lượng lao động. Nó gắn tiền lương với kết quả sản xuất của mỗi người công nhân do đó kích thích được người công nhân nâng cao năng suất lao động
Mục đích của việc trả lương theo sản phẩm là nhằm phân phối hợp lý tiền lương trong lao động, thực hiện đầy đủ nguyên tắc hưởng thụ theo lao động
Việc trả lương theo sản phẩm kích thích người lao động nâng cao trình độ tay nghề, kiến thức chuyên môn, sáng tạo trong sản xuất để tăng năng suất lao động, làm ra nhiều sản phẩm hơn vì tiền lương cá nhân của mỗi người lao động được trực tiếp quyết định bởi số lượng cũng như chất lượng sản phẩm mà họ làm ra
Lương sản phẩm cũng phản ánh khách quan về tiêu hao sức lao động giữa những người thành thạo về nghề nghiệp cũng một cấp bậc nhưng khác nhau về kỹ năng sản xuất, kỹ thuật, cách thức làm việc, sức khoẻ... Do đó khuyến khích được người thợ quan tâm đến công việc của mình hơn, tìm tòi, học hỏi để đạt được hiệu quả cao nhất, sử dụng triệt để công suất máy móc thiết bị để nâng cao năng suất lao động đem lại lợi ích cho cá nhân và cho tập thể
Việc trả lương theo sản phẩm còn có tác dụng cải tiến việc tổ chức lao động, tổ chức sản xuất, củng cố kỹ thuật lao động, hình thành phong cách lao động công nghiệp, phát huy tinh thần lao động tập thể của người lao động vì bất cứ hiện tượng nào ảnh hưởng đến quy trình kỹ thuật làm đình trệ sản xuất (cung cấp nguyên vật liệu, dụng cụ... bị gián đoạn) là đều ảnh hưởng đến kết quả lao động, làm giảm sản lượng. Do đó khi có hiện tượng xảy ra, nó không những đòi hỏi người thợ khắc phục một cách nhanh chóng mà còn đòi hỏi tập thể lao động cũng tìm hướng giải quyết. Từ đó nêu cao tinh thần trách nhiệm của người thợ trong sản xuất
II. Sự cần thiết phải hoàn thiện các hình thức trả lương.
Công tác trả lương của các doanh nghiệp được thể hiện có ý nghĩa rất quan trọng. Lựa chọn được các hình thức, chế độ trả lương hợp lý không những trả đúng, đủ cho người lao động mà còn làm cho tiền lương trở thành một động lực mạnh mẽ thúc đẩy mỗi người hăng say làm việc.
Lương trả theo thời gian là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào thời gian thực tế đã tiêu hao dài hay ngắn và trình độ thành thạo của người thợ để quy định, mà không quan tâm đến sản phẩm thực tế sản xuất ra như vậy việc trả lương theo thời gian chỉ phản ánh được số lượng và thời gian của mỗi công nhân mà chưa phản ánh được về mặt chất lượng.
Qua đó ta thấy rằng lương trả theo sản phẩm có ưu điểm hơn hẳn lương trả theo thời gian ở chỗ lương trả theo sản phẩm được trả căn cứ và số lượng, chất lượng sản phẩm làm ra. Lương của người lao động nhiều hay ít, tuỳ thuộc vào sản phẩm mình làm ra nhiều hay ít tốt hay xấu. Vì thế đây là một hình thức trả lương công bằng hợp lý cần áp dụng nhất là những nơi trực tiếp tạo ra sản phẩm.
Để chuyển sang cơ chế thị trường, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp không thể không hoàn thiện các hình thức trả lương vì nó chính là một nọi dung của tự chủ sản xuất.Mặt khác nó có tác dụng tích cực trong quá trình tổ chức sản xuất, đẩy nhanh quá trình tự chủ. Do đó hình thức trả lương theo sản phẩm thể hiện tính khoa học cao hơn so với hình thức trả lương theo thời gian và là hình thức thích hợp nhất để thực hiện phân phối theo lao động, kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động. Vì thế việc các doanh nghiệp chọn hình thức trả lương hợp lý có thể tiết kiệm được chi phí sản xuất mà vẫn thu được lợi nhuận cao. Bởi tiền lương cao là động lực thúc đẩy người lao động làm việc tốt hơn và giá trị thặng dư do họ đem lại cũng lớn hơn nhiều. Công tác trả lương trong các doanh nghiệp bao gồm rất nhiều nội dung từ việc lập và sử dụng quỹ lương các chế độ trả lương lao động. Việc tính toán phân phối tiền lương đúng đủ công bằng gắn tiền lương với số lượng và chất lượng đến việc chi trả tiền lương đến tay người lao động. Thực tế cho thấy việc tính toán xác định đơn giá tiền lương trong hình thức trả lương sản phẩm là rất phức tạp liên quan đến vấn đề kinh tế, kỹ thuật, như hệ thống các định mức lao động, định mức vật tư đông thời còn đòi hỏi phải thay đổi do biến động của giá cả, máy móc..
Trong các doanh nghiệp đa số các hệ số định mức là lạc hậu hoặc xây dựng thiếu chính xác. Có những khâu những đoạn có thể xây dựng định mức để tiến hành trả lương theo sản phẩm như doanh nghiệp vẫn trả lương theo thời gian. Từ đó do chủ quan mà đơn giá tiền lương tính cao hơn thực tế. Người lao động nhận tiền lương cao hơn so với giá trị mà họ bỏ ra. Hoặc là đơn giá thấp hơn thực tế, thiệt thòi cho người lao động. Vì vậy vấn đề này rất cần thiết các doanh nghiệp cần chú ý.
Mặt khác một số công tác như phục vụ nơi làm việc, kiểm tra chất lượng sản phẩm là nội dung không thể thiếu được để đảm bảo cho công tác trả lương được thực hiện tốt.
Trong nền kinh tế thị trường khi các doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh dưới sự điều tiết của cả bàn tay vô hình (thị trường) và bàn tay hữu hình (nhà nước) thì việc quản lý sản xuất kinh doanh cần phải có sự kết hợp hài hoà giữa tính khoa học và tính nghệ thuật làm sao cho vừa đúng theo quy định của nhà nước nhưng vẫn có tính mềm dẻo, nhạy bén cần thiết. Trong công tác trả lương cũng vậy hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp dựa trên các hình thức chế độ trả lương họ đã tìm được những phương pháp trả lương mới. Để đảm bảo việc phân phối tiền lương công bằng, Phù hợp với đặc điểm của sản xuất của doanh nghiệp. Đồng thời phát huy tối đa vai trò đòn bẩy kinh tế của tiền lương.
Bên cạnh các doanh nghiệp làm tốt công tác trả lương còn có không ít những doanh nghiệp làm chưa tốt bởi những nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan. Hệ thống chính sách tiền lương của nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chưa mang tính ổn định, trình độ và kinh nghiệm của cán bộ làm công tác tiền lương còn thấp chưa coi trọng đúng mức lợi ích kinh tế của người lao động.
Không ngừng hoàn thiện công tác trả lương là một yêu cầu khách quan đối với một doanh nghiệp. Theo hướng lựa chọn được thể hiện tốt các hình thức trả lương hợp lý và hoàn thiện các điều kiện để thực hiện tốt các hình thức trả lương. Hoàn thiện chế độ trả lương theo sản phẩm và chế độ trả lương theo thời gian là hai chế độ trả lương chính được áp dụng phổ biến theo cơ sở hoàn thiện việc tính đơn giá sản phẩm, kết hợp tiền lương với kết quả kinh doanh thực tế của doanh nghiệp
Trong thời gian thực tập tại Công ty Dệt 8 - 3, tôi nhận thấy rằng Công ty đã áp dụng các hình thức trả lương một cách tương đối có hiệu quả. nhưng vẫn còn tồn tại một số mặt yếu kém. Do đó tôi đã chọn đề tài “Hoàn thiện các hình thức trả lương cho người lao động tại Công ty Dệt 8 - 3” nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác trả lương tại đơn vị
Phần II
Các đặc điểm có ảnh hưởng đến công táctrả lương của công ty.
I. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty dệt 8 - 3 nằm ở phía đông nam Hà Nội địa chỉ là 460 đường Minh Khai với diện tích toàn bộ là 24 ha. Là một nhà máy dệt vải hoàn tất từ khâu kéo sợi đến khâu dệt - nhuộm in hoa vải.
Công suất thiết kế ban đầu là hơn 35 triệu mét vải thành phẩm một năm.
Đầu năm 1959 Chính phủ ra quyết định cho xây dựng nhà máy Liên hiệp Sợi - Dệt - Nhuộm ở Hà Nội do Chính phủ nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa giúp đỡ. Đầu năm 1963 dây truyền sản xuất sợi bắt đầu đi vào sản xuất. Đến năm 1965 nhân ngày quốc tế phụ nữ 8-3 nhà máy được cắt băng khánh thành nên được mang tên là nhà máy liên hiệp dệt 8-3. Năm 1985 cùng với sự chuyển đổi sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường nhà máy đã lắp đặt thêm._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Q0006.doc