Hoạch định chính sách công trong quá trình xây dựng mô hình nông thôn mới trên địa bàn Quảng Nam

Tài liệu Hoạch định chính sách công trong quá trình xây dựng mô hình nông thôn mới trên địa bàn Quảng Nam: ... Ebook Hoạch định chính sách công trong quá trình xây dựng mô hình nông thôn mới trên địa bàn Quảng Nam

doc126 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1851 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoạch định chính sách công trong quá trình xây dựng mô hình nông thôn mới trên địa bàn Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nước ta hiện vẫn là một nước nông nghiệp, nông dân đang chiếm gần 74% dân số và chiếm đến 60,7% lao động xã hội. “Thu nhập hộ nông dân hịên chỉ bằng 1/3 so với dân cư khu vực thành thị, ở vùng núi có tỉ lệ mù chữ trên 22,6%, hiện còn 2,25 triệu hộ nghèo (90% ở nông thôn), 300.000 hộ thường xuyên thiếu đói, 400.000 hộ đồng bào dân tộc thiểu số sống du canh” [44, tr.248]. Trong khi đó nông nghiệp nông thôn đóng góp lớn cho nền kinh tế quốc dân với 20% GDP, trên 25% giá trị kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù vậy, các chính sách phát triển nông nghiệp trước đây thường thiên về thúc đẩy phát triển ngành, có phần xem nhẹ vai trò, lợi ích của chủ thể chính, động lực chính của phát triển nông nghiệp là nông dân. Phần lớn các chính sách hầu như chưa quan tâm xử lý tổng thể và hợp lý mối quan hệ giữa các vùng, các lĩnh vực trong ngành, giữa nông thôn và thành thị, chưa đặt ra và giải quyết triệt để mối quan hệ giữa các yếu tố chính của mô hình phát triển nông nghiệp nông thôn … Đây là nguyên nhân chủ yếu, khiến cho sau nhiều thập kỷ chuyển đổi nền nông nghiệp sang thị trường, đến nay về cơ bản nông nghiệp, nông thôn Việt Nam vẫn mang tính khép kín, tự cấp tự túc. Khi nước ta gia nhập WTO, tham gia vào các diễn đàn hợp tác kinh tế lớn của khu vực và thế giới, sức ép của hội nhập và phát triển ngày một lớn, đặt ra yêu cầu rất cao đối với nền kinh tế nước ta, trong đó lĩnh vực nông nghiệp là lĩnh vực phải đối mặt với nhiều thách thức nhất. Trước yêu cầu phát triển và hội nhập hiện nay, thực hiện mục tiêu đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đã đến lúc đòi hỏi phải có nhiều chính sách đột phá và đồng bộ nhằm giải quyết toàn diện các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá nông thôn. Giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn có ý nghĩa chiến lược đối với sự ổn định và phát triển đất nước. Ở nước ta thời gian qua, Nhà nước đã phối hợp với các tổ chức quốc tế, các tổ chức xã hội trong nước đã có nhiều nỗ lực nhằm xoá đói giảm nghèo, cải thiện môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội ở nông thôn. Như, Chương trình định canh định cư và xây dựng vùng kinh tế mới (năm 1968); Chương tình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001-2005; Chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc (327/CT) và Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng; Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; Chương trình phát triển kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó khăn ở vùng sâu vùng xa. Chủ trương chính sách xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ba chương trình: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu; CNH và HDH nông nghiệp, nông thôn; xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư,... Một trong số chương trình lớn có sự phối hợp, tài trợ của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, Chương trình 135 về giúp đỡ các xã đặc biệt khó khăn; các chương trình quốc gia lớn nhằm nâng cao thu nhập cho nông dân đã thu hút trên 13,07 triệu hộ với trên 58,41triệu lượt người ở nông thôn tham gia; các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta về đất đai, sản xuất nông sản hàng hoá, kinh tế hợp tác, kinh tế trang trại,… đã và đang đưa nước ta từ nền kinh tế kế hoạch hoá- tập trung - quan liêu - bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, nhìn chung, các chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn chưa thực sự hiệu quả, thiếu bền vững, ở nhiều mặt có thể nói chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, chưa đưa sản xuất nông nghiệp ở nông thôn thành sản xuất hàng hoá thực sự. Một trong những nguyên nhân cơ bản là chưa định hướng rõ mô hình phát triển, thể hiện ở việc nhận thức chưa thấu đáo các vấn đề như: Tầm nhìn (mục tiêu), mô hình phát triển và các nguồn lực và thiếu sự xác định lợi ích thực tế của các bên liên quan trong phát triển nông nghiệp nông thôn. Vì vậy dẫn đến tình trạng thiếu cụ thể, thiếu tính khoa học trong quy trình hoạch định và triển khai chính sách; có nhiều chính sách, nhưng hiệu quả kinh tế, hiệu ứng xã hội của các chính sách không tương xứng với nguồn lực đầu tư, hoặc thiếu bền vững. Góp phần khắc phục một cách cơ bản tình trạng trên, đưa Nghị quyết của Đảng về nông nghiệp, nông thôn đi vào cuộc sống, đẩy nhanh tốc độ CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn, việc cần làm trong giai đoạn hiện nay là xây dựng cho được các mô hình nông thôn mới đủ đáp ứng yêu cầu phát huy nội lực của nông dân, nông nghiệp và nông thôn, đủ điều kiện hội nhập nền kinh tế thế giới. Để thực hiện các mục tiêu trên, cần có nhiều chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn mang tính đồng bộ, nhưng trong đó chính sách có ý nghĩa quyết định là chính sách xây dựng mô hình nông thôn mới. Đây là chính sách về một mô hình phát triển của nông nghiệp và nông thôn, nên vừa mang tính tổng hợp, bao quát nhiều lĩnh vực, vừa đi sâu giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, đồng thời phải giải quyết các mối quan hệ với các chính sách khác, các lĩnh vực khác trong sự tính toán, cân đối mang tính tổng thể, khắc phục được tình trạng tuỳ tiện, rời rạc, ngẫu hứng hoặc duy ý chí trong các chính sách nói chung và chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn ở nước ta nói riêng từ trước đến nay. Quảng Nam là một tỉnh nghèo, không nhiều thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên và điều kiện khí hậu, lại vừa mới chia tách từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (được 10 năm), cơ sở vật chất kỹ thuật nhìn chung còn thiếu hụt, trình độ phát triển hiện còn thấp so với bình quân cả nước; cơ sở hạ tầng điện, đường, trường, trạm và các dịch vụ công cộng thiếu và yếu; số lượng gia đình chính sách xã hội tương đối đông…Để có bước phát triển nhanh, bền vững, hiện nay tỉnh đang cố gắng hoạch định và thực thi nhiều chính sách kinh tế xã hội mang tính bứt phá. Trong nông nghiệp và nông thôn, là một tỉnh nông nghiệp, các cơ quan hoạch định chính sách đang tìm tòi mô hình phát triển nông thôn thật sự phù hợp, có khả năng đảm bảo ổn định chính trị, kinh tế xã hội, phát huy được các truyền thống lịch sử văn hoá, thích ứng nhanh với những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH đất nước và nông nghiệp nông thôn…Mô hình nông thôn như vậy, thể hiện trong ý tưởng của TƯ Đảng, Chính phủ và Bộ NN & PTNT, cũng như của Hội Nông dân Việt Nam là Mô hình nông thôn mới. Xây dựng mô hình nông thôn mới đòi hỏi phải có chính sách cụ thể. Hiện nay, tuy ý tưởng đã có, Bộ NN & PTNT đã có những chỉ thị, hướng dẫn, các nhà khoa học đã bắt đầu nghiên cứu và đã có một số đề án thí nghiệm nhằm đưa ra những tiêu chí của mô hình này…Nhưng vẫn chưa có một chính sách cụ thể. Đối với một địa phương như Quảng Nam, chính sách xây dựng mô hình nông thôn mới có ý nghĩa đặc biệt quan trong trong thực hiện các nhiệm vụ mang tính chiến lược của tỉnh nhà. Với tất cả những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đề "Hoạch định chính sách công trong quá trình xây dựng mô hình nông thôn mới trên địa bàn Quảng Nam" làm luận văn thạc sĩ chính trị học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm đổi mới, phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết vấn đề nông dân là những chủ đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều cơ quan lãnh đạo, quản lý, các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học trên thế giới cũng như ở nước ta. Trên thế giới, trước hết phải kể đến công trình: “Chính sách nông nghiệp trong các nước đang phát triển” của tác giả Frans Ellits do Nhà xuất bản nông nghiệp ấn hành năm 1994. Trong tác phẩm này, tác giả đã nêu lên những vấn đề cơ bản của chính sách nông nghiệp ở các nước đang phát triển thông qua việc nghiên cứu lý thuyết và khảo cứu thực tiễn ở nhiều nước Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh. Cuốn sách đã đề cập những vấn đề về chính sách phát triển vùng, chính sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, chính sách thương mại nông sản, những vấn đề phát sinh trong quá trình đô thị hoá. Điều đặc biệt cần lưu ý là công trình này đã xem xét nền nông nghiệp của các nước đang phát triển trong quá trình chuyển sang sản xuất hàng hoá gắn liền với thương mại nông sản trên thế giới, đồng thời cũng nêu lên những mô hình thành công và thất bại trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết vấn đề nông dân. Công trình: “Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân nông thôn ở các nước và Việt Nam” của các tác giả Benedict J.tria kerrkvliet, Jamesscott Nguyễn Ngọc và Đỗ Đức Định sưu tầm và giới thiệu, Nxb Hà Nội ấn hành năm 2000. Trong công trình này, các tác giả đã nghiên cứu về vai trò, đặc điểm của nông dân, thiết chế nông thôn ở một số nước trên thế giới và những kết quả bước đầu trong nghiên cứu làng truyền thống ở Việt Nam. Những điểm đáng chú ý của công trình này có giá trị tham khảo cho việc giải quyết những vấn đề của chính sách phát triển nông thôn nước ta hiện nay như, tương lai của các trang trại nhỏ; nông dân với khoa học; hệ tư tưởng của nông dân ở thế giới thứ ba; các hình thức sở hữu đất đai; những mô hình tiến hoá nông thôn ở các nước nông nghiệp trồng lúa... Đặc biệt lưu ý là những kết quả nghiên cứu của công trình về làng truyền thống ở Việt Nam; quan hệ làng xóm - Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế. Ở trong nước, có hàng loạt công trình nghiên cứu, giới thiệu kinh nghiệm phát triển nông nghiệp, nông thôn của nước ngoài. Theo hướng này, một số nhà nghiên cứu và chỉ đạo thực tiễn ở nước ta như PGS,TS. Chu Hữu Quý; GS,TS. Nguyễn Thế Nhã; GS,TS. Phạm Thị Mỹ Dung, GS. Đoàn Trọng Truyến, PGS,TS. Nguyễn Sinh Cúc... đã có những công trình nghiên cứu công phu và có giá trị. Điểm chung nhất của các nghiên cứu này và sau khi phân tích thực tiễn giải quyết vấn đề quản lý Nhà nước nói chung và việc xây dựng chỉ đạo chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ngoài, các tác giả đều cố gắng gợi mở, nêu lên những kinh nghiệm để có thể vận dụng cho giải quyết những vấn đề thực tiễn của Việt Nam. Tác phẩm: “Gia nhập WTO, Trung Quốc làm gì? được gì?” do TS. Nguyễn Kim Bảo chủ biên, xuất bản năm 2004. Những phân tích, đánh giá của công trình này về những việc đã làm của Trung Quốc, những kết quả bước đầu cũng như những vấn đề đặt ra cần được giải quyết về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng, đã cung cấp những thông tin có giá trị tham khảo cho Việt Nam. Đặc biệt trong công trình này, tác giả cảnh báo những thách thức, những khó khăn trong phát triển kinh tế - đặc biệt là phát triển nông nghiệp nông thôn trước và sau khi Trung Quốc gia nhập WTO. Tác phẩm: “Vai trò của Nhà nước trong phát triển nông nghiệp của Thái Lan” của các tác giả GS, TS. Nguyễn Thế Nhã và TS. Hoàng Văn Hoan do Nxb Nông nghiệp ấn hành năm 1995. Trong công trình này các tác giả đã đi sâu phân tích quá trình hoạch định và chỉ đạo thực hiện chính sách nông nghiệp của Thái Lan từng thời kỳ. Trong đó một số nội dung được các tác giả đề cập có giá trị tham khảo rất tốt cho Việt Nam như chính sách phát triển các hợp tác xã nông nghiệp, chính sách xuất khẩu nông sản, chính sách tín dụng và đặc biệt là những chính sách liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế của ngành nông nghiệp. Những công trình liên quan đến chính sách nông nghiệp, nông thôn và nông dân ở nước ta có khối lượng rất đồ sộ, cách thức tiếp cận cũng rất đa dạng. Công trình: “Phát triển nông thôn " do GS. Phạm Xuân Nam (chủ biên) Nxb Khoa học xã hội ấn hành năm 1997, là một công trình nghiên cứu chuyên sâu về phát triển nông thôn. Trong công trình này, tác giả đã phân tích khá sâu sắc một số nội dung về phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nước ta như dân số, lao động, việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; vấn đề sử dụng và quản lý nguồn lực tài nguyên thiên nhiên; vấn đề phân tầng xã hội và xoá đói giảm nghèo… Trong lúc phân tích những thành tựu, yếu kém và thách thức đặt ra trong phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta, các tác giả đã chỉ ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống chính sách và cách thức chỉ đạo của Nhà nước trong quá trình vận động của nông thôn. Về mô hình nông nghiệp, nông thôn trong lịch sử dân tộc là vấn đề rất được nhiều nhà khoa học quan tâm. Đây cũng là vấn đề không thể thiếu vắng khi xác định mô hình nông thôn mới hiện nay. Công trình: “Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử” do GS. Phan Đại Doãn và PGS. Nguyễn Quang Ngọc làm chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành năm 1994, là công trình nghiên cứu những vấn đề lịch sử trong phát triển nông thôn nước ta. Sau khi nêu lên sự quan tâm của Nhà nước trong các thời kỳ về quản lý làng xã và xây dựng thiết chế chính trị - xã hội nông thôn nước ta, các tác giả đã trình bày khá toàn diện về quản lý nông thôn nước ta trong lịch sử như vấn đề Nhà nước quản lý nông thôn trong các thế kỷ XVI - XVIII; nhà Nguyễn đối với vấn đề nông thôn trong thế kỷ XIX; phát triển nông thôn trong thời kỳ Pháp thuộc (1945 - 1954); cơ cấu quản lý hành chính làng xã Việt Nam từ 1954 - 1975. Công trình còn đề cập mô hình phát triển làng xã nông thôn Việt Nam ở các vùng cụ thể ở nước ta nhất là ở Bắc bộ và Nam bộ. Công trình đã cung cấp những sử liệu rất có gía trị về vai trò của Nhà nước, tính cộng đồng và tính bền vững của mô hình làng xã Việt Nam; những nhân tố tác động những việc hình thành thiết chế làng xã và mô hình hoạt động của chúng. Những nghiên cứu chuyên sâu về chính sách phát triển kinh tế xã hội nói chung và chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng cũng được các tác giả Việt Nam rất quan tâm. GS. Hồ Văn Thông; PGS, TS. Phạm Chi Mai; PGS,TS. Ngô Đức Cát v.v... đã trình bày những công trình có tính lý thuyết về hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã hộichính trị - xã hội . Công trình nghiên cứu: “Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới” của PGS,TS. Nguyễn Sinh Cúc, Nxb Thống kê, năm 2003. Đây là công trình nghiên cứu dài hơi rất công phu của tác giả bởi ngoài những phân tích có tính thuyết phục về quá trình đổi mới nông nghiệp Việt Nam sau gần 20 năm, công trình còn cung cấp hệ thống tư liệu về phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta như là một Niên giám thống kê nông nghiệp thu nhỏ. Công trình đã luận giải rõ quá trình đổi mới, hoàn thiện chính sách nông nghiệp, nông thôn nước ta trong những năm đổi mới, những thành tựu và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Những gợi mở về những vấn đề cần giải quyết của phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta như vấn đề đầu tư, vấn đề phân hoá giàu nghèo, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh, xuất khẩu nông sản... đã được tác giả lý giải với nhiều luận cứ có tính thuyết phục. Công trình nghiên cứu của PGS, TS. Nguyễn Văn Bích và TS. Chu Tiến Quang do Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành năm 1996 với tiêu đề: “Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam” đã luận giải nhiều nội dung liên quan đến chủ đề nghiên cứu như khái niệm về chính sách, các nội dung của chính sách kinh tế và quá trình thay đổi chính sách nông nghiệp Việt Nam trong 10 năm đổi mới và những tác động của chúng. Công trình nghiên cứu: “Chính sách nông nghiệp, nông thôn sau Nghị quyết X của Bộ Chính trị” do PGS,TSKH Lê Đình Thắng chủ biên do Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành năm 1998 đã đề cập nhiều nội dung quan trọng liên quan đến chủ đề nghiên cứu như phân tích quá trình phát triển nông nghiệp của Việt Nam dưới sự tác động của hệ thống chính sách, đi sâu phân tích một số chính sách cụ thể như chính sách đất đai, chính sách phân phối trong phát triển nông nghiệp nông thôn nước ta. Về những mô hình hợp tác xã nông nghiệp nước ta, được coi là một mô hình phát triển nông nghiệp nông thôn trong quan niệm xây dựng chủ nghĩa xã hội kiểu Xô viết, cũng được một tập thể các nhà khoa học Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh nghiên cứu khá sâu sắc trong Đề tài tổng kết thực tiễn "Mô hình hợp tác xã nông nghiệp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta" (2003) do GS,TS Lưu Văn Sùng làm chủ nhiệm Đặc biệt công trình nghiên cứu do PGS. TS. Vũ Trọng Khải chủ trì được Nxb nông nghiệp ấn hành năm 2004 là một công trình nghiên cứu công phu về mô hình phát triển của nông thôn Việt Nam. Công trình nghiên cứu này được xuất bản trên cơ sở đề tài cấp Nhà nước do tác giả làm chủ nhiệm với tiêu đề: “Tổng kết và xây dựng mô hình phát triển kinh tế- xã hội nông thôn mới, kết hợp truyền thống làng xã với văn minh thời đại”. Việc hội nhập kinh tế quốc tế của nông nghiệp Việt Nam cũng đã bước đầu được nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm. Một số tác giả như GS,TS Bùi Xuân Lưu; GS,TS Nguyễn Điền, TS. Nguyễn Từ; Th.s Nguyễn Thu Hằng... Công trình nghiên cứu: “Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” do GS,TS Bùi Xuân Lưu, Nxb Thống kê ấn hành năm 2004. Trong công trình này, các tác giả đã phân tích những đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế trong nông nghiệp; phân tích khái quát những thành tựu cũng như hạn chế của nông nghiệp nước ta trong hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời khuyến nghị về sửa đổi các chính sách và hoàn thiện vai trò của Nhà nước để nông nghiệp, nông thôn nước ta hội nhập thành công. Công trình nghiên cứu: “Tăng cường năng lực hội nhập kinh tế quốc tế cho ngành nông nghiệp” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng tổ chức Ausaid nghiên cứu đã đi sâu phân tích những quy định của WTO về thương mại nông sản. Qua đó dự báo khả năng tương thích của hệ thống chính sách nông nghiệp Việt Nam so với những quy định của WTO, khuyến nghị những sửa đổi về chính sách để phát triển nông nghiệp Việt Nam khi trở thành thành viên WTO. Công trình nghiên cứu: “Hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của nó đến phát triển nông nghiệp Việt Nam” là một dự án nghiên cứu tập thể do TS. Nguyễn Từ phụ trách. Trong công trình này, các tác giả đã tập trung phân tích các liên kết kinh tế quốc tế về thương mại và đầu tư trong nông nghiệp; đánh giá chính sách phát triển nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam; đồng thời khuyến nghị những giải pháp chủ yếu để phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt các tác giả đã tập trung phân tích những quy định của WTO về chính sách nông nghiệp của các nước đang phát triển và nêu những hướng bổ sung, sửa đổi chính sách nông nghiệp của Việt Nam để hội nhập thành công. Phát triển nông nghiệp, nông thôn không thể tách rời các nhân tố phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và môi trường...Rất nhiều tác giả quan tâm đến khía cạnh này của vấn đề. GS,TS Hoàng Chí Bảo về "hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn" (Nxb CTQG. H. 2004); "Các đoàn thể nhân dân trong đảm bảo dân chủ cơ sở" của PGS, TSKH Phan Xuân Sơn (Nxb. CTQG. H. 2002), TS. Nguyễn Văn Sáu và GS. Hồ Văn Thông về "Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay" (Nxb. CTQG. H. 2003). PGS,TSKH Phan Xuân Sơn và Th.S Lưu Văn Quảng đã trực tiếp bàn về chính sách, hơn nữa lại là chính sách liên quan đến nông nghiệp nông thôn và chính sách dân tộc trong cuốn "Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay" (Nxb LLCT. H. 2005)… Những công trình đó đã cung cấp những luận cứ, luận chứng, những dữ liệu rất quan trọng cho việc hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết vấn đề nông dân trong thời kỳ mới ở nước ta. Tuy nhiên, các công trình ấy không đi sâu nghiên cứu quá trình hoạch định chính sách công về nông nghiệp, nông thôn nói chung và mô hình nông thôn mới của một tỉnh (Quảng Nam) của Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu đã nêu cũng là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng mà tác giả tiếp thu và sử dụng trong quá trình hoàn thành luận văn này và trong những công trình nghiên cứu của mình về sau. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích - Thông qua nghiên cứu, đánh giá quá trình hoạch định chính sách công trong phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay nói chung, và Quảng nam nói riêng, luận văn nghiên cứu quá trình hoạch định chính sách công trong xây dựng nông thôn mới ở Quảng Nam, đề xuất các khuyến nghị mang tính giải pháp làm cơ sở để các cơ quan, ban, ngành thực hiện tốt hơn các chu trình hoạch định chính sách công trong phát triển nông nghiệp, nông thôn ở địa phương, xây dựng thành công nông thôn mới. 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ cơ sở lý luận về chính sách công và việc hoạch định chính sách công. - Phân tích quá trình hình thành và phát triển của chính sách công trong phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung, xây dựng mô hình nông thôn mới nói riêng của Đảng và Nhà nước ta từ sau đổi mới đến nay; - Phân tích quá trình hoạch định chính sách xây dựng mô hình nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. - Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra những kiến nghị mang tính giải pháp nhằm thực hiện một cách khoa học các chu trình hoạch định chính sách công trong xây dựng mô hình nôn thôn mới, góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của tỉnh nhà. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Cỏc chớnh sỏch và chu trỡnh hoạch định chính sách công trong phát triển nông nghiêp, nông thôn nói chung và mô hỡnh nụng thụn mới núi riờng. 4.1. Phạm vi nghiờn cứu - Chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn của Đảng và Nhà nước ta từ khi đổi mới; chính sách của địa phương từ khi tái lập tỉnh Quảng Nam năm 1997 đến nay. - Nghiên cứu việc hoạch định chính sách công theo quy định phân cấp của chính quyền cấp tỉnh ở tỉnh Quảng Nam trong lĩnh vực phỏt triển nụng nghiệp, nụng thôn hướng đến xõy dựng mụ hỡnh nụng thụn mới. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Lý luận: Chủ nghĩa Mỏc - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, các khung khổ lý thuyết về chớnh sỏch cụng. Thực tiễn: Quỏ trỡnh hoạch định chính sỏch phỏt triển nụng nghiệp, nụng thụn, xõy dựng mụ hỡnh nụng thụn mới ở nước ta và tỉnh Quảng Nam. Đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể: Phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra xó hội học, so sỏnh, dự bỏo, khảo sỏt văn bản. 6. Ý nghĩa của luận văn - Trên phạm vi tỉnh Quảng Nam luận văn là công trỡnh đầu tiên được nghiên cứu ở quy mô và phạm vi một luận văn thạc sĩ chính trị học. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong lĩnh vực chính sách công. Các khuyến nghị và dự báo có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan lónh đạo, quản lý, hoạch định chính sách ở trung ương và địa phương. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 8 tiết. Chương 1 NHỮNG CĂN CỨ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH CễNG VỀ Mễ HèNH NễNG THễN MỚI 1.1. CÁC KHUNG KHỔ LÝ THUYẾT VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG 1.1.1. Quan niệm về chớnh sỏch cụng Có nhiều định nghĩa khác nhau về “chính sách công”. Nhà kinh tế học Anh (Frank Ellis) cho rằng: Không có một định nghĩa duy nhất về thuật ngữ “chính sách công” phù hợp với tất cả mọi người. Cách hiểu thông thuờng được nói đến nhiều nhất: Chính sách (Politique) là các chủ trương và các biện pháp của một đảng phỏi hoặc chớnh phủ trong cỏc lĩnh vực chớnh trị - kinh tế - xó hội; là sỏch lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định. Tuy vậy, có rất nhiều cách cắt nghĩa. Frank Ellis cho rằng chính sách là “nghệ thuật của Chính phủ” tạo ra các điều chỉnh và sự can thiệp cần thiết. Chớnh sỏch cụng ngụ ý sự can thiệp của Nhà nước vào xó hội. Từ đó ông nêu ra định nghĩa: “Chính sách được xác định như là đường lối hành động mà Chính phủ lựa chọn đối với một lĩnh vực của nền kinh tế, kể cả các mục tiêu mà Chính phủ tỡm kiếm và sự lựa chọn cỏc phương pháp để theo đuổi mục tiêu đóchỳ thớch ” [10, tr.121]. E. Anlerson cho rằng chính quyền là cơ quan thực hiện sự uỷ quyền của dân, thực hiện ý chớ của mọi người. Vỡ thế nú là một thể chế cụng cộng điển hỡnh nhất, hoạt động của nó là hoạt động công cộng vỡ lợi ích công cộng. Chính quyền có khả năng huy động nguồn lực của toàn xó hội và tác động đến các bộ phận của xó hội với những mục đích nhất định. Những tác động này được gọi là chính sách. E. Anlerson cho rằng hoạt động của chính quyền là chính sách công. Từ đây, ông định nghĩa: "Chính sách công là những hoạt động mà chính quyền chọn làm và không làm" [10, tr.122]. Nhiều quan điểm cho rằng chính sách công là một chuỗi các hoạt động nhằm trong một hệ thống với một trật tự xác định. Hệ thống này có mục tiêu dài hạn hay ngắn hạn, được xây dựng trên cơ sở pháp lý và loại trừ cỏc yếu tố ngẫu nhiờn. Như vậy chính sách công là hệ thống hoạt động có tính toán và mục tiêu của chính quyền tác động đến cuộc sống của người dân. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính, “Chính sách công (Politique publique) là chiến lược sử dụng các nguồn lực để làm dịu bớt những vấn đề của quốc gia hay những mối quan tõm của Nhà nước. Chính sách công cho phép chính phủ đảm nhiệm vai trũ của người cha đối với cuộc sống của nhân dân. Nó tạo thời cơ, giữ gỡn hạnh phỳc và an toàn cho mọi người; tạo ra an toàn tài chớnh và bảo vệ an toàn Tổ quốc” [49, tr.47]. Cỏc tỏc giả tập bài giảng chớnh trị học của Viện Khoa học chớnh trị cho rằng “chớnh sỏch là tập hợp những văn bản theo một hướng xác định được quyết định bởi những chủ thể cầm quyền nhằm quy định quá trỡnh hành động của những đối tượng nào đó, để giải quyết những vấn đề mà nhóm chủ thể - đối tượng đó quan tâm theo một phương thức nhất định để phân bổ giỏ trị” [18, tr.125]. Cỏc tỏc giả của tập bài giảng cũn cho rằng khái niệm chính sách công xuất phát từ các vấn đề của thực tiễn như: Sử dụng các nguồn lực đúng và hiệu quả. Chính sách chứa đựng hai mặt của vấn đề kỹ thuật và hệ giá trịchỳ thớch . Cỏch hiểu ngắn gọn cô đúc song tất yếu: Chính sách công là Chương trỡnh hành động của Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể. Hay chớnh sỏch cụng cũn được hiểu là chuỗi các văn bản, được quyết định bởi chủ thể nắm quyền lực nhà nước, nhằm quy định mục đích và cách thức, hành động của những đối tượng liên quan, để giải quyết những vấn đề mà xó hội quan tõmchỳ thớch . Qua các cách hiểu như trên về chính sách công, có thể khái quát rằng: Chớnh sỏch cụng là một hệ thống bao gồm tổng thể những tác động cú ý thức (tự giỏc, khụng phải là ngẫu nhiờn) của Nhà nước đến đời sống nhân dân, nhằm đạt được cỏc mục tiêu Nhà nước đó đặt ra trong quá trỡnh quản lý xó hội. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tuỳ thuộc tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xó hội... Muốn định ra chính sách đúng phải căn cứ vào tỡnh hỡnh thực tiễn trong từng lĩnh vực, từng giai đoạn, phải vừa giữ vững mục tiêu, phương hướng được xác định trong đường lối nhiệm vụ chung, vừa linh hoạt vận dụng vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể. Đối với Việt Nam, chính sách là các quan điểm, cách thức, biện pháp của Nhà nước nhằm cụ thể hoá đường lối của Đảng tác động đến các lĩnh vực trong đời sống xó hội nhằm đạt được mục tiêu trong mỗi thời kỳ khác nhau. Nhiều trường hợp chủ trương đường lối, nghị quyết của Đảng cũng được coi là chính sách. Như vậy, chính sách công bao hàm các vấn đề rất cơ bản như sau: Thứ nhất, chính sách công là các “chương trỡnh” bao gồm cỏc mục tiờu và biện phỏp liờn quan với nhau, phụ thuộc lẫn nhau, được luận giải khoa học. Điều đó giúp phân biệt chính sách với các quyết định nhất thời mang tính chất tỡnh thế. Thứ hai, “Tính định hướng đích, cụ thể” của chính sách công phân biệt được rừ giữa định hướng, chính sách và biện pháp theo mức độ cụ thể hoá. Thứ ba, “Tớnh hợp pháp” của chủ thể ra chính sách (Nhà nước) từ đó khẳng định khả năng cưỡng chế của bộ máy quyền lực. Nó là tiêu chí chính thể hiện sự khác biệt giữa chính sách công với các chính sách của các tổ chức trong khu vực tư nhân hay của các đảng, đoàn thể xó hội vốn là những chủ thể không nắm quyền lực công cộng mặc dù có ảnh hưởng nhất định đến quyền lực đó. Thứ tư, " tớnh hệ thống", " tớnh lịch sử",cỏc chớnh sỏch luụn luụn phụ thuộc nhiều,chớnh sỏch liờn quan, chế tài bởi các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách có thời hiệu trong một thời gian, không gian nhất định. Thứ năm, chính sách phụ thuộc vào bộ máy, cơ chế, cán bộ nhằm hoạch định, chỉ đạo thực hiện chính sỏch hiệu quả. Bộ mỏy gọn nhẹ, minh bạch, không chồng chéo, cơ chế phối hợp rừ ràng, triển khai chính sách thuận lợi hơn. Thứ sỏu, chính sách phụ thuộc vào tính đúng đắn của chính sách. sự chỉ đạo vận dụng vào thực tiễn từng địa phương. Nhiều chớnh sỏch do chủ quan, núng vội hoặc khụng thực tiễn, sẽ khú thực hiện. 1.1.2. Chớnh sỏch cụng ở Trung ương và địa phương Để nghiên cứu chính sách công, chúng ta có thể phân loại chúng. Có thể phân loại theo các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xó hội, đối ngoại, an ninh, quốc phũng…Cũng cú thể phõn loại theo thời gian: Ngắn hạn hoặc dài hạn; phõn loại theo hiệu quả, phõn loại theo phương pháp triển khai, như chính sách phõn bổ, chính sách điều tiết, chính sách có tính cưỡng chế hay thuyết phục, phõn loại theo chớnh sỏch toàn thể hoặc chớnh sỏch bộ phận… Trong phân loại chính sách, tất nhiên tuỳ từng đề tài để sử dụng cách phân loại nào là chính trong quá trỡnh nghiờn cứu. Khi nghiờn cứu chớnh sỏch phỏt triển nông nghiệp và nông thôn ở một tỉnh như Quảng Nam mà luận văn đó lựa chọn, thỡ cỏch phõn loại theo cấp độ của chớnh sỏch (ở trung ương và ở địa phương) cú ý nghĩa quan trọng, mặc dự chỳng cú sự khỏc biệt rất tương đối. Chính sách trung ương là cấp có thẩm quyền ban hành ở trung ương và cả nước hoặc một vài địa phương cụ thể nào đó. Cũn chớnh sỏch địa phương là ở tính cụ thể hoá các chủ trương, chớnh sách Trung ương, của chính quyền địa phương, hoặc là giải quyết những vấn đề của địa phương nhưng khụng trỏi với chớnh sỏch và phỏp luật của Nhà nước Trung ương. Chính sách của Trung ương xuất phát từ nhu cầu tổng thể của đất nước, sử dụng nguồn lực của cả nước, giải quyết mối tương quan lợi ích của mọi giai cấp, tầng lớp và của tất cả các địa phương. Vỡ vậy, chớnh sỏch của Nhà nước Trung ương mang tính chi phối, quyết định quỏ trỡnh thực thi quyền lực Nhà nước ở địa phương. Vỡ vậy, chớnh sỏch cụng (Nhà nước) của Trung ương mang tính toàn diện. Bao gồm: - Cỏc chớnh sỏch về phỏt triển kinh tế, như: Chính sách về sở hữu, phát triển cơ sở hạ tầng, thay đổi cơ cấu kinh tế, phát triển khoa học công nghệ, xây dựng các thể chế thị trường, tạo dựng các khung khổ pháp lý cho hoạt động kinh tế, các chiến lược phát triển kinh tế… - Chớnh sỏch phỏt triển văn hoá, như: Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy truyền thống văn hoá, khai thác những di sản văn hoá trong phát triển và hội nhập, tạo dựng những giá trị mới về văn minh vật chất và tinh thần trong các quan hệ xó hội,… - Chớnh sỏch chớnh trị - xó hội là những chớnh sỏch nhằm đảm bảo và phát huy quyề._.n làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước và xó hội; chính sách giáo dục đào tạo, xõy dựng nguồn lực con người, trong đó đặc biệt là đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý và đội ngũ những nhà khoa học, đội ngũ lao động có trỡnh độ công nghệ cao, có khả năng tạo ra các sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao; cỏc chớnh sỏch xoỏ đói giảm nghốo, thực hiện cụng bằng xó hội, chớnh sỏch bỡnh đẳng giới, bỡnh đẳng cùng phát triển đối với các dân tộc thiểu số… Ngoài ra, cũn nhiều chớnh sỏch liờn quan đến an ninh quốc phũng, chớnh sỏch tụn giỏo, dõn tộc, đối ngoại, chính sách trực tiếp giải quyết những vấn đề của một địa phương hoặc giải quyết mối quan hệ phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương. Tuy vậy, chính sách của Trung ương không thể bao quát hết các vấn đề cụ thể, độc đáo của từng địa phương. Chính quyền từng địa phương cần cụ thể hoá các chính sách của Trung ương phù hợp với đặc điểm, nguồn lực và phương thức thực hiện của địa phương mỡnh. Ngoài ra, mỗi địa phương cũn cú nhu cầu riêng không phản ánh trong chính sách của Trung ương. Nếu không có chính sách địa phương thỡ khụng thực hiện được chính sách của Trung ương và không thể giải quyết đầy đủ những vấn đề của từng địa phương. Vỡ vậy, chớnh sỏch cụng của bất kỳ nước nào cũng là tổng thể cỏc chớnh sỏch của Nhà nước Trung ương và chính quyền địa phương. Nước ta là một nước nông nghiệp đang trong quá trỡnh đẩy mạnh CNH, HĐH, chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn có vị trí quan trọng hàng đầu. Chính sách nông nghiệp và nông thôn của Trung ương trực tiếp liên quan đến hầu hết các địa phương. Hơn bất kỳ một chớnh sỏch nào, việc thực hiện chớnh sỏch nụng nghiệp và nụng thụn phụ thuộc nhiều vào quỏ trỡnh triển khai, thực hiện ở cỏc địa phương và cơ sở, chúng đũi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa chớnh sỏch Trung ương và chính sách địa phương. 1.1.3. Chu trỡnh chớnh sỏch cụng Khỏi niệm Chu trỡnh hoạch định chính sách (quy trỡnh, trỡnh tự...) là tất cả cụng việc từ đầu đến cuối của một chính sách, kể từ khi nảy ra ý tưởng tới việc định hỡnh, kiểm nghiệm, sửa đổi hoặc huỷ bỏ nó. Hoạch định chính sách công diễn ra theo một lôgic, có trật tự và đặc biệt có tính kế thừa rất cao. Quỏ trỡnh hoạch định và thực hiện chính sách công chính là việc lần lượt thực hiện các bước sau: Lập nghị trỡnh hành động, lập chính sách hay ra quyết định, triển khai thực hiện, đánh giá chương trỡnh hay phõn tớch tỏc động và cuối cùng là những phản hồi dẫn tới việc xem xét lại hay chấm dứt chính sách công đó. Như vậy, nú là chu trỡnh khộp kớn. Quỏ trỡnh hỡnh thành chớnh sỏch cụng trờn thực tế là quỏ trỡnh cỏc quần thể lợi ớch đưa ra yờu cầu của mỡnh và cỏc chủ thể chớnh sỏch căn cứ vào yêu cầu lợi ích của xó hội để điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích phức tạp. Một chu kỳ chính sách công gồm các bước sau: Bước 1: Xỏc lập nghị trỡnh Thực chất là xác định vấn đề chính sách, cỏc yếu tố đầu vào của hệ thống hoạch định chớnh sỏch. Một chính sách ra đời bao giờ cũng là sản phẩm đầu ra của hệ thống hoạch định chính sách. Ở tầm vĩ mô, đó là sản phẩm của hệ thống chính trị. Trong quá trỡnh tạo ra được một "sản phẩm đầu ra" là chính sách, hệ thống hoạch định phải thực hiện nhiều công đoạn của một chu trỡnh. Trước hết, đó là xác định vấn đề của chính sách. Vấn đề của chính sách nằm trong các nhu cầu về chính sách (hay cũn gọi là nhu cầu chớnh trị). Cỏc nhu cầu này xuất phỏt từ lợi ớch của cỏ nhõn, cỏc nhúm xó hội, cỏc đảng chính trị, thậm chí là các quốc gia cần được đáp ứng ngay. Trong thời điểm mà những vấn đề nêu trên trở thành bức xúc, trong xó hội vẫn cũn nhiều vấn đề bức xúc khác nữa, liên quan đến lợi ích của các nhóm dân cư, các lực lượng chớnh trị, xó hội khỏc nhau. Vậy làm sao lựa chọn được vấn đề đúng cho một chính sách? Điều này liên quan đến yếu tố đầu vào thứ hai là thông tin. Ai là người có khả năng cung cấp những thông tin, diễn giải về vấn đề cho hệ thống hoạch định chính sách? Có nhiều kờnh thụng tin từ truyền miệng, gây dư luận, kiến nghị bằng văn bản qua hệ thống chính quyền, truyền thông đại chúng, các nghiên cứu khoa học, vận động hành lang, gây áp lực và kênh thu thập thông tin chính thức của hệ thống hoạch định chính sách…Vấn đề đặt ra ở đây là cho dù một vấn đề xó hội thực sự bức xỳc hoặc một sỏng kiến chớnh sỏch rất tốt, nhưng nếu không có cách nào đưa vào được nghị trỡnh chớnh sỏch thỡ sẽ khụng thể trở thành chớnh sỏch được. Đây là quá trỡnh thực thi quyền lực chớnh trị và quyền lực Nhà nước rất phức tạp thông qua hệ thống chính trị và hệ thống xó hội, mà kết quả phụ thuộc rất nhiều vào năng lực chủ quan của các lực lượng chính trị - xó hội, của cỏc nhà hoạch định chính sách. Bước 2: Xõy dựng và ban hành chớnh sỏch Từ tất cả các thông tin, hệ thống hoạch định phải xác định cho được vấn đề nào cần đặt lên chương trỡnh nghị sự. Để có kết quả đó, người hoạch định chính sách cần sử dụng ba công cụ chủ yếu: - Tầm nhỡn. - Nguồn lực được sử dụng. - Lợi ích và thiệt hại tiềm năng của cỏc bờn liờn quan. Trên cơ sở đó, cơ quan hoạch định chính sách tiến hành các bước: - Thu thập, phõn tớch thụng tin. - Phỏt triển các phương án giải quyết vấn đề. - Xõy dựng liờn minh chớnh trị. - Đàm phán, thoả hiệp và thụng qua chớnh sỏch. - Các vấn đề chính trị trong quá trỡnh ra quyết định chính sách. Bước 3: Triển khai chớnh sỏch - Nguồn lực cho chớnh sỏch. - Chủ thể triển khai: trong và ngoài chớnh phủ, đối tượng chịu tác động của chính sách. - Diễn giải chính sách: Các vấn đề về cưỡng chế và khuyến khớch việc thực thi chớnh sỏch Bước 4: Tổng kết, đỏnh giỏ chớnh sỏch - Đánh giá quá trỡnh triển khai, hiệu quả triển khai và cỏc tỏc động thực tế của chính sách - Đánh giá chính trị; đánh giá kỹ thuật; đỏnh giỏ toàn diện - Chủ thể đánh giá: Phõn tích từ góc độ thông tin và quyền lực chính trị. - Phõn tớch chi phí lợi nhuận và những hạn chế của phương pháp này. Chu trỡnh hoạch định chính sách công nhằm xây dựng mô hỡnh nụng thụn mới cần tuân theo các bước của chu trỡnh chớnh sỏch mang tớnh lý thuyết đó được trỡnh bày ở mục 1.1.3. Vấn đề đặt ra ở chỗ: Thứ nhất, mục đích của các cơ quan hoạch định chính sách (Nhà nước Trung ương và địa phương) đặt ra mục tiêu là cải thiện rừ rệt tỡnh trạng yếu kộm, thiếu tương thích với các điều kiện mới của mô hỡnh nông thôn hiện có, nhằm đáp ứng yêu cầu của một nông thôn văn minh, hiện đại, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế. Thứ hai, xác định cho được những cấu trúc của mô hỡnh nụng thụn mới trờn cỏc mặt kinh tế, chớnh trị, văn hoá, xó hội, mụi trường…bằng những tiêu chí định tính và định lượng tương đối cụ thể. 1.1.4. Khỏi niệm mụ hỡnh nụng thụn mới Khái niệm “nông thôn” thường đồng nghĩa với làng, xóm, thôn. Theo các tài liệu nghiên cứu, “làng” là từ nôm, là tiếng nói dân dó, ngụn ngữ đời sống trong dân gian ăn sâu vào trong tâm lý, ý thức của người Việt. Nó gợi ra môi trường kinh tế sản xuất với nghề trồng lúa nước cổ truyền - không gian sinh tồn; đồng thời là không gian xó hội và cảnh quan văn hoá xây đắp nên nền tảng tinh thần, tạo thành lối sống, cốt cách và bản lĩnh của người Việt. Nhà nghiờn cứu Trần Từ cho rằng “Làng là tế bào sống của xó hội Việt cổ, là sản phẩm tự nhiờn tiết ra từ quỏ trỡnh định cư và cộng cư của người Việt trồng trọt”. Cùng nhận xét đó, GS,TS Hoàng Chớ Bảo trong cụng trỡnh nghiờn cứu về “Hệ thống chớnh trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay” cũng cho rằng làng Việt vốn hỡnh thành một cỏch tự nhiờn, ra đời không qua bàn tay nhào nặn của chính quyền Trung ương, mang nét đặc trưng riêng; cùng với sự thay đổi của các triều đại trị vỡ trong lịch sử mà tờn gọi của làng cú khỏc nhau: “làng” cũn gọi là "thụn" hoặc "làng xó", cũng cú khi làng cũng chớnh là "xó". Theo PGS,TSKH.Phan Xuân Sơn: Trong lịch sử, đơn vị "xó", cú nơi là "làng -xó" một đơn vị quần cư- hành chính có từ lâu đời trong kết cấu nụng thụn Việt Nam [39, tr.43]. Trong quỏ trỡnh phỏt triển kinh tế - xó hội của làng- xó, những đặc điểm kinh tế, văn hoá, xó hội của nú là những yếu tố đặc biệt quan trọng quyết định đến sự nghiệp dân chủ hoá cấp cơ sở nói riờng và sự phỏt triển nụng nghiệp, nụng thụn núi chung. Làng - xó là một cộng đồng địa vực, có ranh giới lónh thổ tự nhiờn và hành chớnh xỏc định. Làng là một đơn vị tự cấp, tự túc về kinh tế. Làng xó vừa cú ruộng, cú nghề, cú chợ tạo thành một khụng gian khộp kớn thống nhất. Làng - xó là một cộng đồng tương đối độc lập về phong tục tập quán văn hoá. Làng- xó cũn là một đơn vị tự trị về chính trị. Ngày nay, khái niệm “nông thôn” đó mở rộng nội hàm so với “làng”, “bao gồm cả những thị trấn mà sự tồn tại và phát triển của nó phụ thuộc vào nông nghiệp, gắn với nông thôn và bảo đảm các dịch vụ cần thiết cho dân cư ở nông thôn”. Tuy hiện nay chưa có định nghĩa có tính kinh điển để phân biệt nông thôn và thành thị nhưng có thể hiểu những đặc trưng cơ bản của nông thụn so với thành thị ở những tiờu chớ sau: Thứ nhất, về cơ cấu kinh tế, hoạt động cơ bản - nhất là trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoỏ nụng thụn cũn thấp thỡ nụng nghiệp là ngành kinh tế cơ bản. Hoạt động công nghiệp, dịch vụ vừa hỡnh thành và phát triển độc lập vừa liên quan chặt chẽ, cùng hướng tới phục vụ cho nông nghiệp và dân cư nông thôn. Thứ hai, cơ cấu dân cư, lao động nông nghiệp cũn chiếm đa số. Thứ ba, thiết chế, quy chế, quy ước, hương ước gắn liền với từng làng, từng dân tộc, từng vựng kinh tế sinh thỏi. Mụ hỡnh tiờu biểu trong xõy dựng nụng thụn mới hiện nay là nụng thụn cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá. Do vậy, Hội nghị TW5 (khoá IX) của Đảng đề ra mục tiêu, nội dung tổng quát và những giải pháp để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Nghị quyết khẳng định: CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất nước. 1.1.5. Vai trũ của làng xó với tư cách là đơn vị cơ bản của mụ hỡnh nụng thụn trong lịch sử dõn tộc Do được hỡnh thành một cỏch tự nhiờn và cú tớnh tự trị rất cao, nờn trong lịch sử “làng”, “thụn” hay “làng xó” đó từng đóng vai trũ rất quan trọng đối với sự phát triển đất nước, quốc gia. Trong nghỡn năm Bắc thuộc, các thế lực phong kiến phương Bắc luôn tỡm cỏch nắm lấy và sử dụng làng Việt như công cụ phục vụ cho mưu đồ thống trị và đồng hoá của chúng. Tuy nhiên, làng Việt cổ truyền trở thành pháo đài, chiến luỹ nhằm đương đầu với mọi âm mưu xâm lăng, thôn tính, đồng hoá của phong kiến phương Bắc để gỡn giữ các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc. Dân gian Việt Nam cũng thường truyền tụng câu nguyền: "Đá trôi nhưng làng không trôiChỳ thớch: vớ dụ (2. 245) ", cho thấy sức sống mạnh mẽ của làng. Dưới thời phong kiến, làng xó là người quản lý đất công cho nhà vua và nụng dõn cày ruộng đất công làng xó trở thành tỏ điền của Nhà nước. Những làng xó tương đối tự trị trước kia trở thành một đơn vị kinh tế phụ thuộc Nhà nước, vừa cung cấp lương thực phẩm, lao dịch, binh dịch, vừa cung cấp đất đai để Nhà nước ban cho viên chức của mỡnh. Nếu Nhà nước phong kiến biết chấp nhận nhu cầu tự trị của làng xó, tổ chức được nó sẽ nắm quyền quản lý và phỏt huy được sức mạnh. Ngược lại, đẩy làng xó về phớa đối lập với mỡnh và trong thực tế khụng nắm được quyền quản lý làng xó đó. Thời thuộc Phỏp, là nơi nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, ý thức dõn tộc của nhõn dõn ta, nhiều làng xó đó trở thành những căn cứ chống Pháp, lật đổ ách thống trị thực dân phong kiến và xác lập chế độ dân chủ cộng hoà, giành lại độc lập chủ quyền và xõy dựng chớnh quyền thực sự của dõn, do dõn làm chủ. Trong khỏng chiến chống Mỹ và cụng cuộc xõy dựng chủ nghĩa xó hội, làng xó, nụng thụn Việt Nam phỏt huy tối đa vai trũ hậu phương, đóng góp sức người, sức của cho sự nghiệp Cách mạng. Nông thôn từng là pháo đài chiến luỹ, quân với dân tay súng tay cày cùng đánh giặc; khắp nông thôn miền Bắc dấy lên phong trào “tất cả vỡ miền Nam ruột thịt”; “thúc khụng thiếu một cõn, quõn khụng thiếu một người”. Hoà bỡnh lập lại trờn miền Bắc, phong trào hợp tỏc hoỏ nụng nghiệp với tinh thần “hợp tỏc xó là nhà, xó viờn là chủ”, hầu như khắp các làng xó của nụng thụn đóng góp sức người, thậm chí cả xương máu, lôi cuốn toàn bộ tinh thần và nỗ lực của dân tộc cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam. “Không có phong trào tập thể hoá và hợp tỏc xó nụng nghiệp, khụng cú hy sinh to lớn của cả cộng đồng, trong đó có mấy chục triệu nông dân ở nông thôn chúng ta không thể giành chiến thắng mà nhờ đó dân tộc ta đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân vỡ độc lập dõn tộc và chủ nghĩa xó hội” [3, tr.104]. Đó cũng chính là đóng góp to lớn của nông dân, nụng nghiệp và nụng thụn miền Bắc thời kỳ tập thể hoỏ và xõy dựng hợp tỏc xó nụng nghiệp. Từ đó đến nay, nhiều mô hỡnh sản xuất kinh doanh, xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn thực sự là điển hỡnh trở thành phỏo đài xó hội chủ nghĩa trong nụng nghiệp, nụng thụn như: xó Duy Sơn, nông trường Lam Sơn, nông trường Sông Hậu,… không chỉ đem lại cuộc sống tốt đẹp cho hàng triệu con người mà cũn đóng góp cho cả nước một số bài học kinh nghiệm, chứng minh và làm rừ hơn sự đúng đắn trong chủ trương, đường lối của Đảng. Tóm lại, sau năm 1975 và 20 năm đổi mới, nụng dõn, nụng nghiệp và nụng thụn Việt Nam đó gúp phần quan trọng vào việc đưa nước ta ra khỏi tỡnh trạng khủng hoảng kinh tế - xó hội và nõng cao đời sống nhân dân. Chiến lược phát triển kinh tế - xó hội 2001- 2010 thụng qua tại Đại hội IX và đến Đại hội X vẫn tiếp tục khẳng định: Nông nghiệp, nông thôn là những vấn đề có tầm chiến lược, là vấn đề trung tâm đảm bảo sự thành công của chiến lược chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Như vậy, từ trong lịch sử cũng như hiện tại hội nhập kinh tế quốc tế, chất lượng, trỡnh độ phát triển nông thôn là cái gốc quyết định sự phát triển bền vững, hưng vong của một quốc gia có nền nông nghiệp lâu đời như Việt Nam; mô hỡnh phỏt triển nụng thụn đúng đắn là nhân tố đảm bảo sự thành cụng của chiến lược phỏt triển kinh tế - xó hội nụng thụn và phỏt triển kinh tế - xó hội đất nước. 1.1.6. Cỏc tiờu chớ của mụ hỡnh nụng thụn mới Sự hỡnh dung chung của cỏc nhà nghiờn cứu về mụ hỡnh nông thôn mới là những kiểu mẫu cộng đồng theo tiêu chí mới, tiếp thu những thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại, song vẫn giữ được những nét đặc trưng, tính cách Việt Nam trong cuộc sống văn hoá tinh thần. Nông thôn mới được quy định bởi các tính chất: Đáp ứng yêu cầu phát triển; có sự đổi mới về tổ chức và vận hành đạt hiệu quả cao nhất trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xó hội, tiến bộ hơn so với mô hỡnh cũ, chứa đựng các đặc điểm chung có thể phổ biến và vận dụng trên cả nước. Túm lại, mụ hỡnh nụng thụn mới là tổng thể những đặc điểm, cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra cho nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn được xây dựng so với mô hỡnh nụng thụn cũ (truyền thống, đó cú) ở tớnh tiờn tiến về mọi mặt, được hỡnh dung trờn những nột rất cơ bản như sau: Một là, nụng thụn làng-xó thực sự là một cộng đồng, trong đó quản lý của Nhà nước khụng can thiệp sõu vào đời sống nông thôn trên tinh thần tôn trọng tính tự quản của người dân thông qua hương ước, lệ làng (không trái với phỏp luật của Nhà nuớc). Quản lý nhà nước và tự quản của nông dân được kết hợp hài hoà; các giá trị truyền thống làng xó được phát huy tối đa, tạo ra bầu khụng khớ tõm lý xó hội tớch cực, bảo đảm trạng thái cân bằng trong đời sống kinh tế - xó hội ở nụng thụn, giữ vững an ninh trật tự xó hội,… nhằm hỡnh thành mụi trường cho phát triển kinh tế nông thôn. Hai là, nụng thụn đáp ứng yêu cầu đô thị hoá để chuẩn bị những điều kiện vật chất và tinh thần giúp nông dân làm ăn sinh sống và trở nên thịnh vượng ngay trên mảnh đất mà họ đó gắn bú từ ngàn đời. Trước hết, tạo cho người dân điều kiện chuyển đổi lối sống và canh tác tự cung tự cấp, thuần nông (cổ truyền) sang điều kiện sản xuất hàng hoá, đa dạng hoá cơ cấu kinh tế nông thôn gắn với công nghiệp, dịch vụ, du lịch; để người nông dân “ly nông bất ly hương”. Ba là, nụng thụn khai thỏc hợp lý và nuụi dưỡng các nguồn lực về sinh thái cho thế hệ ngày nay và mai sau; có mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, có môi trường sinh thái được giữ gỡn, tiềm năng du lịch được khai thác, khôi phục làng nghề truyền thống, làng nghề tiểu thủ công nghiệp. Vận dụng các công nghệ cao về quản lý, sinh học để kinh tế nông nghiệp, nông thôn đạt hiệu quả. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp phát triển hài hoà, hội nhập địa phương, khu vực, cả nước và quốc tế. Bốn là, dân chủ nông thôn mở rộng và đi vào thực chất; các chủ thể nông thôn (lao động nụng thụn, chủ trang trại, hộ nụng dõn, cỏc tổ chức phi chớnh phủ, Nhà nước, tư nhân,...) tham gia tích cực trong mọi quá trỡnh ra quyết định về chính sách phát triển nông thôn; thông tin minh bạch, thông suốt và hiệu quả giữa các tác nhân có liên quan; phân phối công bằng. Người nông dân thực sự “được tự do và quyết định trên luống cày và thửa ruộng của mỡnh”, lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh làm giàu cho mỡnh, cho quờ hương theo đúng chủ trương đường lối của Đảng và chớnh sỏch, phỏp luật của Nhà nước. Năm là, nông dân, nông thôn có văn hoá phát triển, trí tuệ được nõng lờn, sức lao động được giải phúng, nhiệt tỡnh cỏch mạng được phát huy. Đó chính là sức mạnh nội sinh của làng trong công cuộc xây dựng nông thôn mới hôm nay. Người dân có cuộc sống ổn định, giàu cú, trỡnh độ văn hoá, khoa học kỹ thuật và tay nghề cao, lối sống văn minh hiện đại nhưng vẫn giữ gỡn những giỏ trị văn hoá, bản sắc truyền thống, “tối lửa tắt đèn có nhau”, tin tưởng vào sự lónh đạo của Đảng, tham gia tích cực mọi phong trào chớnh trị, kinh tế, văn hoá, xó hội, an ninh, quốc phũng, đối ngoại nhằm vừa tự hoàn thiện bản thân, nâng cao chất lượng cuộc sống của mỡnh, vừa góp phần xây dựng quê hương văn minh, giàu đẹp. Các tiêu chí này đó và đang trở thành mục tiêu, yêu cầu trong hoạch định chớnh sỏch cụng nhằm xõy dựng mụ hỡnh nụng thụn mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 1.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ NÔNG DÂN, NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN TRONG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẤT NƯỚC 1.2.1. Những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nông dân, nông nghiệp và nông thôn Nụng dõn, nông thôn là vấn đề rất quan trọng trong liờn minh cụng nụng. Vì vậy, Mác -Ăngghen cho rằng trong các cuộc cách mạng nếu giai cấp công nhân không liên minh được với giai cấp nụng dõn thỡ những cuộc cỏch mạng vô sản sẽ trở thành bài ca ai điếu. Về vấn đề nông dân và nhiệm vụ của người cộng sản trong sự nghiệp cỏch mạng nụng dõn, nụng thụn vẫn mang tớnh thời sự. Trong tác phẩm “Vấn đề nông dân ở Pháp” viết năm 1894 khi trỡnh bày những nguyờn lý của chớnh sỏch nụng nghiệp xó hội chủ nghĩa, Ăngghen có nói: “Nhiệm vụ của chúng ta đối với tiểu nông trước hết phải hướng quyền sở hữu cá thể và nền kinh doanh cá thể vào con đường kinh doanh hợp tác” [1, tr.9]. Ph.Ănghen cũn cho rằng: “Chúng ta kiên quyết đứng về phía người tiểu nông, chỳng ta cố tỡm đủ mọi cách để làm cho số phận của họ dễ chịu hơn, để cho họ chuyển sang hợp tác xó được dễ dàng hơn, nếu họ quyết như thế” [1, tr.10]. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của vấn đề nông dõn nụng nghiệp nông thôn, Ăngghen cho rằng: “Chúng ta làm như thế là vỡ chớnh ngay lợi ớch của Đảng”. Vỡ thế mà sau này, Lờnin tiếp tục khẳng định: “Có công nông là có chính quyền, có tất cảCỏc chỳ thớch? ” [1, tr.10]. Luận chứng về vai trũ quyết định của giai cấp nông dân rằng: “Nhân tố thắng lợi ở chỗ không phải giai cấp công nhân, tức giai cấp vô sản chiếm ưu thế trong dân số trên toàn quốc và ở tính tổ chức của họ mà ở chỗ giai cấp vô sản được sự ủng hộ của giai cấp nụng dõn” [13, tr.6]. Chủ tịch Hồ Chớ Minh luụn quan tâm và đề cao vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp cách mạng: “Phát triển nông nghiệp là việc cực kỳ quan trọng. Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính. Nếu không phỏt triển nụng nghiệp thỡ khụng cú cơ sở để tiêu thụ hàng hoỏ của cụng nghiệp làm ra” [37, tr.180]. 1.2.2. Sự phát triển quan điểm và quá trình đổi mới chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng Cộng sản Việt Nam Ngay trong cương lĩnh chính trị đầu tiên (1930), Đảng ta đã khẳng định vai trò của nông dân trong cách mạng nước ta. Qua mỗi một giai đoạn cách mạng quan điểm, đường lối của Đảng về vấn đề này cũng được cụ thể hoá, thay đổi, phát triển đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn đề ra. Sau năm 1954, trong khôi phục kinh tế, Đảng rất quan tâm đến sản xuất nông nghiệp, sản xuất lương thực. Quan điểm Nghị quyết TW 8 khoá II (8-1955): “Phải nhận thức đầy đủ và sâu sắc về tính chất trọng yếu của sản xuất nông nghiệp đối với cả nền kinh tế nước ta hiện nay và sau này”. Về sau, tiếp tục tinh thần đó, Đại hội V (1982) chỉ rõ: “Cần tập trung phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu”. Trong 20 năm đổi mới vừa qua (1986 - 2006), Đảng và Nhà nước ta đó cú nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường. Những chủ trương, chính sách đó là sự cụ thể hoá quan điểm, đường lối đổi mới theo tinh thần Đại hội VI của Đảng (1986). Tư duy kinh tế đối với phát triển nông nghiệp của Đảng tại Đại hội VI là: “Bố trí lại cơ cấu sản xuất, bố trí lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện cho được ba chương trỡnh mục tiờu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu [12, tr.47]. Các chương trỡnh đó là sự cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá xó hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên”[12, tr.48]. Mặc dự vậy, trong những năm 1987, 1988 diễn biến tỡnh hỡnh vẫn chưa mấy khả quan, lạm phát vẫn ở ba con số, nạn đói xảy ra ở nhiều vùng, phải nhập khẩu lương thực hàng năm. Trước tỡnh hỡnh đó, Bộ chính trị khoá VI đó cú nhiều Nghị quyết quan trọng nhằm cụ thể hoỏ quan điểm của Đảng trong công cuộc đổi mới, dấu ấn đậm nét nhất thời kỳ này là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý nông nghiệp (5/4/1988). Việc thực hiện Nghị quyết 10 đó đem lại sự đổi thay rất lớn cho nông nghiệp nông thôn như: Cơ chế quản lý mới trong nụng nghiệp dần hỡnh thành, thay đổi căn bản vị trí, vai trũ và mụ hỡnh tổ chức, quản lý của cỏc đơn vị kinh tế cơ sở (hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, đóng vai trũ chủ yếu trong kinh tế nụng thụn); hợp tỏc kiểu cũ dần thay đổi chức năng, nội dung, phương thức hoạt động; doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp, nông thôn cũng phải tự đổi mới để chuyển sang tự chủ, tự hạch toán kinh doanh xó hội chủ nghĩa. Nhỡn chung, giai đoạn từ năm 1989 - 1999 là giai đoạn sản xuất nông nghiệp chuyển từ tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hoá, từng bước chuyển dần hướng về xuất khẩu. Chính sách nhà nước ở cấp vĩ mô có sự thay đổi căn bản so với trước, góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, tạo tiền đề chuyển dịch cơ cấu theo hướng ngày càng phù hợp, hiệu quả, tăng thu nhập và ổn định đời sống nhân dân, thoát khỏi khủng hoảng, giành được nhiều kết quả to lớn. Bước vào thập niên 90, Đại hội VII (1991) chỉ rừ “ Phỏt triển nụng, lõm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tỡnh hỡnh kinh tế - xó hội” [13, tr.63], mở ra thời kỳ mới cho phát triển nông nghiệp nông thôn theo chủ trương: Nông nghiệp, kinh tế nông thôn là mặt trận hàng đầu. Cụ thể hoá đường lối Đại hội VII, Hội nghị BCHTW lần thứ 5 (10/6/1993) đó ra Nghị quyết quan trọng tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xó hội nụng thụn với trọng tõm là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu của Nghị quyết là trên cơ sở phát triển nhanh và vững chắc nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh doanh mà thu hút đại bộ phận lao động dư thừa, tăng năng suất lao động xó hội, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nông dân. Trên cơ sở xúc tiến công nghiệp hoá nói chung, công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng mà thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển mạnh, vững chắc, có hiệu quả. Đối với công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn, phương hướng chung là tăng nhanh tỷ trọng những ngành này trong cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn, đa dạng hoá ngành nghề và dịch vụ phi nông nghiệp, phấn đấu đến năm 2010 đạt cơ cấu 15-16% nụng nghiệp, 43-44% cụng nghiệp - xõy dựng và 40-41% dịch vụ. Về chớnh sỏch tài chớnh, NQTW5 chỉ rừ: Nhà nước giành phần đầu tư thoả đáng từ ngân sách; đồng thời có chính sách và hỡnh thức huy động nguồn đầu tư của các thành phần kinh tế khác cho xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Thay thuế nông nghiệp bằng thuế sử dụng đất, dành toàn bộ nguồn thu từ thuế sử dụng đất đầu tư trở lại cho nông nghiệp và kết cấu hạ tầng nông thôn, giảm giá thuỷ lợi phí và giá điện nông thôn... Thỏng 7/1993, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoỏ IX thụng qua, Luật Đất đai với nhiều nội dung mới, trong đó có nội dung quan trọng là Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ gia đỡnh và cỏ nhõn sử dụng với 5 quyền: Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp. Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp ra đời với thuế suất thấp hơn thuế nông nghiệp đó gúp phần giảm đóng góp của nông dân và khuyến khích hộ gia đỡnh sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả hơn. Thực hiện đường lối của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đó ban hành Nghị định 64 về giao đất nông nghiệp cho hộ gia đỡnh, cỏ nhõn sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp; về thuế sử dụng đất nông nghiệp (NĐ74/CP) và nhiều chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Việc ban hành Luật Đất đai và Luật Thuế sử dụng đất năm 1993 đó đáp ứng kịp thời nguyện vọng của hộ nông dân: Làm chủ thực sự ruộng đất của mỡnh với quyền lợi, nghĩa vụ rừ ràng, cú lợi cho người nông dân với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ. Đại hội VIII của Đảng (1996) đề ra nhiệm vụ công nghiệp hoỏ, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Ra Nghị quyết về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong đó trọng tâm là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn (12/1996). Nội dung cơ bản của CNH, HĐH trong những năm cũn lại của thập kỷ 90 là: Đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp- nụng thụn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, xuất khẩu, các dịch vụ cho sản xuất và đời sống nông dân, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xó hội nụng thụn, tiến bước hỡnh thành nụng thôn mới văn minh - hiện đại. Cụ thể hoá NQ Đại hội VIII, Quốc hội và Chính phủ đó ban hành nhiều chớnh sỏch và văn bản phỏp luật thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Luật hợp tác xó (1996), trong đó nội dung quan trọng là: Chuyển đổi các Hợp tỏc xó sản xuất nụng nghiệp trước đây sang theo mụ hỡnh HTX nụng nghiệp kiểu mới, làm dịch vụ cho kinh tế hộ. Ra đời nhiều chính sách mới về nông nghiệp, nông thôn, tiêu biểu là chính sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn theo hướng tăng 50% vốn ngân sách trong năm 1999. Chủ trương hỗ trợ lói suất tớn dụng cho cỏc doanh nghiệp xuất khẩu gạo để mua lúa tạm trữ ở ĐBSCL, chính sách cho vay vốn đến hộ nông dân không phải thế chấp. Nhiều chương trỡnh, dự ỏn lớn của Chớnh phủ đầu tư vào nông thôn, nông nghiệp được thực hiện với nguồn vốn ngân sách, vốn vay, vốn viện trợ quốc tế như: Phủ xanh đất trống đồi núi trọc (327); trồng mới 5 triệu ha rừng; đánh bắt thuỷ sản xa bờ; xoá đói giảm nghèo; nước sạch nông thôn, kiên cố hoá kênh mương, khuyến khích xuất khẩu nông sản, mở rộng thị trường... Thỏng 11/1998, Bộ Chớnh trị tiếp tục ra Nghị quyết 06 về một số vấn đề nông nghiệp, kinh tế nụng thụn đó mở ra những cơ chế và chính sách mới, thông thoáng hơn để giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, nhất là tiềm lực về đất đai, rừng, biển và lao động nông thôn. Nghị quyết 06 khẳng định vai trũ, vị trớ quan trọng của nụng nghiệp, nụng thụn, nông dân trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH và những thập kỷ đầu thế kỷ XXI; lần đầu tiên, thừa nhận kinh tế trang trại, tạo điều kiện cho các ngành, các địa phương và các chủ trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất hàng hoá, làm giàu chính đáng. Trờn cơ sở Nghị quyết 06, Nhà nước đó ban hành một số chớnh sỏch mới khuyến khớch phỏt triển nụng nghiệp và kinh tế nụng thụn theo hướng CNH, HĐH. Nghị quyết 03 của Chính phủ về kinh tế trang trại (2/2000) là cơ sở pháp lý để các ngành, các cấp đề ra chủ trương, giải pháp phát triển kinh tế trang trại đúng hướng, hiệu quả. Trong tỡnh hỡnh thị trường và giá cả nông sản không ổn định, Chính phủ đó đề ra chính sách kinh tế, tài chính hỗ trợ sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển nhanh và vững chắc. Đặc biệt, Nghị quyết 09/NQ-CP ngày 15 tháng 6 năm 2000 của Chính phủ cho phép chuyển một phần diện tích trồng lỳa hiệu quả thấp sang nuụi trồng thuỷ sản và kinh doanh nông sản phi lương thực đó thỳc đẩy nhanh chóng việc mở rộng diện tích nuôi trồng thuỷ sản. Bước sang thế kỷ XXI, Đại hội IX của Đảng với nhiệm vụ trọng tâm là tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH vỡ mục tiờu dõn giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh đó quyết định đường lối, chiến lược phát triển kinh tế - xó hội nước ta 10 năm (2001 - 2010), trong đó tiếp tục giành sự quan tâm đặc biệt đến lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn: “Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn theo hướng hỡnh thành nền nụng nghiệp hàng hoỏ lớn phự hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, tạo việc làm thu hút nhiều lao động nông thôn. Đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp... phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Giá trị gia tăng nông nghiệp (kể cả thuỷ sản, lâm nghiệp) tăng bỡnh quõn hàng năm 4,0 - 4,5%” [14, tr.125]. Một loạt các chính sách bổ sung, sửa đổi mới ra đời (chính sách đất đai, chính._. hoạt động có ý nghĩa quyết định trong quản lý nhà nước, xa hơn là trong sự lãnh đạo của Đảng. Biểu hiện trước hết là đổi mới cách thức ra nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp theo hướng dân chủ, khoa học, đại chúng (tính đối tượng). Do vậy, phương thức ban hành nghị quyết được xem là có gía trị thực tiễn và tính chính trị cao trong thời đại hôm nay là phải tập hợp được ý kiến chuyên gia, nhà khoa học, các cơ quan tham mưu tư vấn chính sách kể cả những góp ý rất cảm tính của người nông dân về chính sách đang được triển khai. Về mặt nhận thức, phải xác định vấn đề gì là ưu tiên đối với từng địa phương để có lộ trình và bước đi thích hợp nhằm xây dựng mô hình nông thôn mới. Đổi mới nhận thức của Đảng trong các quá trình chính sách theo hướng tăng cường trách nhiệm và tính khả quy trách nhiệm của từng tổ chức Đảng, đảng viên giải quyết những bức xúc trong cuộc sống người dân. Kịp thời tiến hành sơ kết tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm cả thất bại và thành công để bổ sung tư duy lý luận. Tích cực nghiên cứu lý luận, lý thuyết mô hình nông thôn mới ở các nước, các địa phương khác để bổ sung hoàn thiện chính sách. Cần thiết phải đổi mới cách thức tuyên truyền Nghị quyết, đưa pháp luật vào cuộc sống nhằm tạo ra sự thống nhất nhận thức về mục đích chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, quan điểm giải quyết những vấn đề lớn của tỉnh để có sự nhất trí hành động. Đổi mới nhận thức còn ở chỗ nhà hoạch định chính sách thấy được tính hai mặt của vấn đề để từ đó đó dự liệu được các phương án biện pháp chính sách. Ví dụ nếu chiến lược du lịch tại Quảng Nam không mang tính toàn diện thì nguy cơ đánh mất các giá trị văn hóa nông thôn sau khi được triển khai cũng như sự ảnh hưởng ngược lại tới chính người dân nông thôn ở đây là tất yếu. Hay chính sách chuyển đổi cơ cấu kinh tế có liên quan đến tình trạng di dân tự do từ nông thôn ra thành thị; phát triển công nghiệp nông thôn phải giải quyết vấn đề môi trường,… nhận thức được tiềm năng của nông thôn để có thể khai thác, song cũng phải thấy được hạn chế của tỉnh để có hướng khắc phục nhằm phát triển bền vững là yêu cầu của quá trình hoạch định chính sách xây dựng nông thôn mới mà nhà hoạch định chính sách Quảng Nam phải quan tâm. Mở rộng hơn đối tượng tiếp nhận kiến thức về công nghệ hoạch định chính sách từ lãnh đạo Đảng và chính quyền các cấp, sở ban ngành, đoàn thể, tổ chức hoạch định và cả người dân thực thi cũng như trực tiếp hưởng lợi từ chính sách. Tổ chức điều tra xã hội học, lấy ý kiến rộng rãi đánh gía mức độ lợi ích đạt được so với dự kiến cũng như thăm dò ý tưởng chính sách sắp tới. Nhận thức đúng đắn vai trò quan trọng, tiếng nói của Hội nông dân các cấp trong tư vấn đánh giá kết quả, đề xuất phương án, các kiến nghị chính sách. Đổi mới hoạt động lập pháp (của HĐND và UBND tỉnh) theo hướng vừa mang tính sáng tạo vừa mang tính giải phóng. Phân định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành, các cấp chính quyền trong việc tổ chức chỉ đạo, triển khai, theo dõi và đánh giá chương trình. Trong đó, tăng cường giám sát độc lập, đầu tư vật chất, con người cho công tác nghiên cứu phục vụ hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn. Cụ thể hoá chương trình thực hiện Quyết định số 15/2003/QĐ-UB của UBND tỉnh về hoạt động tư vấn phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật tỉnh Quảng Nam đóng góp vào việc nâng cao chất lượng hoạch định chính sách. Chủ động lập kế hoạch kiểm tra giám sát (định kỳ, bất thường) việc tổ chức triển khai nghị quyết của các cấp uỷ Đảng về vấn đề nông dân nông nghiệp nông thôn. Trên cơ sở đó, tiến hành sơ kết tổng kết đánh giá mức độ thành công (lợi ích đạt được của các bên tham gia: người dân, Nhà nước) khi triển khai chủ trương chính sách. Về nội dung chính sáchxây dựng mô hình nông thôn mới trên địa bàn Quảng Nam: Lãnh đạo Đảng và chính quyền nhận thức đầy đủ hơn về mô hình nông thôn mới, thể hiện ở việc đề ra quan điểm, mục tiêu phát triển nông nghiệp nông thôn, phương hướng phát triển các ngành và lĩnh vực xã hội, định hướng phát triển không gian lãnh thổ, các chương trình phát triển và các dự án trọng điểm. Trên cơ sở chủ trương, chính sách của Tỉnh, các cấp, các ngành, địa phương cụ thể hoá thành các mục tiêu nhiệm vụ cụ thể. Nghiên cứu điều kiện từng địa phương để lựa chọn giải pháp cụ thể nhằm thực hiện dự án, quy hoạch đã đề ra như: quy hoạch sử dụng đất, phát triển làng nghề truyền thống, cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, khu dân cư, giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục và đào tạo, văn hóa, du lịch, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, cây trồng, sản xuất công nghiệp,.. Định hướng phát triển kinh tế-xã hội Quảng Nam phải đặt trọng tâm vào một số dự án như: nuôi cá tra, du lịch Phú Ninh, du lịch làng quê, các dịch vụ phục vụ du lịch, một số khu, cụm công nghiệp, làng nghề nông thôn,...nhằm khai thác thế mạnh của mỗi vùng với đất đai, tiềm lực khác nhau trong tỉnh. Trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, tiến hành quy hoạch và phân vùng sản xuất. Tỉnh có chính sách đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, điện, hệ thống kênh mương, xí nghiệp chế biến, trung tâm giống... để phục vụ cho sản xuất hàng hóa trong vùng. Trực tiếp chỉ đạo, giao nhiệm vụ cho các đơn vị, cơ sở liên quan hướng dẫn về kỹ thuật cũng như tổ chức kiểm tra, giám sát và hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Giải quyết tận gốc tình trạng phá sản liên kết nhà nông và doanh nghiệp trong thu mua sản phẩm nguyên liệu. Tạo lập và khuyến khích các doanh nghiệp đủ sức mạnh về tài chính, tổ chức quản lý để đầu tư vào quá trình sản xuất, tổ chức thu mua chế biến và tiêu thụ sản phẩm cho hộ gia đình nông dân, sản xuất hàng hóa trong vùng đã được quy hoạch, tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp với hộ gia đình nông dân, thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Nhận thức về vị trí vai trò người dân nông thôn với tư cách là chủ thể thực thi chính sách tác động tới nông thôn, học tập các mô hình một số nơi đã làm, biến nông dân trở thành cổ đông của các nhà máy. Thực hiện nghiêm các cam kết chính sách dịch chuyển cơ cấu cây trồng, vật nuôi giữa tỉnh với nông dân. Có biện pháp thiết thực như: khuyến khích thành lập doanh nghiệp nông nghiệp dưới dạng công ty cổ phần, người nông dân góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất và góp sức trong quá trình hoạt động của công ty, hoặc chuyển quyền sử dụng ruộng đất cho công ty thuê thời gian dài và được nhận hợp đồng lao động vào lam việc tại doanh nghiệp. Thực chất của giải pháp này là tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác nông dân nông thôn nhằm hiện thực hoá lợi ích của người nông dân, đảm đảm trên thực tế năng lực cầm quyền của Đảng. Hai là, kiện toàn cơ chế chính sách phát trỉển nông nghiệp nông thôn, thúc đẩy thể chế nông thôn phát triển phù hợp kinh tế, giải quyết các xung đột trong cộng đồng, các vấn đề về nông dân-nông nghiệp-nông thôn và mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Cam kết WTO cho phép trợ cấp khuyến nông và phục vụ phát triển nông nghiệp. Do vậy, tỉnh cần có cơ chế giúp nông dân gia nhập vào sân chơi lớn này thông qua việc xây dựng chiến lược đầu tư, hỗ trợ về vốn, công nghệ kỹ thuật và con người nhằm quy trình hoá sản xuất an toàn; hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ lao động. Xây dựng cơ chế hợp tác giữa nhà hoạch định chính sách với sở Khoa học công nghệ, các chuyên gia nghiên cứu khoa học phục vụ hoạch định chính sách nông nghiệp nông thôn. Phát huy hết công năng của Cổng thông tin điện tử UBND tỉnh Quảng Nam để đưa vào sử dụng nhằm thực hiện tốt công tác chỉ đạo, điều hành, các quận huyện trong tỉnh; cung cấp thông tin kịp thời đến mọi tầng lớp nhân dân. Đây còn là một văn phòng “số” để UBND tỉnh Quảng Nam quảng bá du lịch, kêu gọi và xúc tiến đầu tư, thương mại. Ngoài chế độ báo cáo trong cơ quan Nhà nước, cơ quan Đảng, cần xây dựng cơ chế thông tin rộng rãi các vấn đề, kết quả chính sách đến tổ chức cá nhân có nhu cầu. Trong điều kiện thông tin đa chiều và mang tính chất dân chủ, điều đó giúp thúc đẩy công tác phản biện chính sách mang lại lợi ích cao nhất cho người dân, làm tăng tính thời sự trong đề xuất vấn đề chính sách cho các cấp lãnh đạo. Xây dựng cơ chế chính sách động viên tối đa hoạt động "hiến kế", sáng kiến kinh nghiệm của các tổ chức, cá nhân, đặc biệt sáng kiến trong lĩnh vực quản lý điều hành xã hội, trong nghiên cứu các đề tài phát triển nông thôn. Mặt khác, đẩy mạnh việc thực hiện Quyết định số 29/2004/QĐ-UB ngày 18/5/2004 của UBND “Quy định về xác định các nhiệm vụ khoa học cấp tỉnh trên địa bàn Quảng nam” huy động tối đa chất xám cộng đồng. Những ý kiến đóng tâm huyết của các chuyên gia, các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức và cá nhân đặc biệt là đối tượng hưởng lợi chủ yếu-người nông dân là một cơ sở quan trọng cho việc hoạch định chính sách phát triển nông thôn sắp tới. Phân cấp quản lý để nâng cao tính chủ động, sáng tạo của từng ngành, từng cấp; đề cao trách nhiệm cá nhân, những người đứng đầu trong các cơ quan quản lý nhà nước. Cụ thể hoá tinh thần Nghị quyết số 65/2003/NQ-HĐND Tỉnh ban hành ngày 22/ 5/2003 về chủ trương giải pháp nâng cao hiệu lực bộ máy quản lý điều hành các cấp, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công chức thực thi nhiệm vụ. Có chế tài, biện pháp ngăn chặn và xử lý các trường hợp cán bộ, công chức lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhũng nhiễu, phiền hà nhân dân. Thể chế hóa bằng văn bản sự phân công, phân nhiệm trong giải quyết các vấn đề chính sách giữa UBND tỉnh với Sở Tài nguyên - Môi trường, Sở Kế hoạch Đầu tư, Sở Tài chính Vật giá, các ban ngành chuyên trách trực tiếp thực hiện; các chủ đầu tư quản lý và khai thác các dự án, các ban chuyên môn của đảng, HĐND, các tổ chức đoàn thể trong nghiên cứu đề xuất lựa chọn phương án phù hợp thực tế khách quan, đề cao lợi ích chung. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cụ thể hóa thành quy trình giải quyết từng vụ việc liên quan đến nhiệm vụ của từng ngành, cấp chính quyền. bảo đảm tính khoa học và trách nhiệm pháp lý của chính sách. Phát huy vai trò sở tư pháp trong rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật, bãi bỏ những quy định không gắn với thực tiễn cuộc sống. Thể chế hóa hoạt động giám sát, phản biện của các tổ chức CT-XH, các hội quần chúng. Đưa Nghị quyết số 71/2003/NQ-HĐND tỉnh về vai trò, hoạt động xây dựng và giám sát của nhân dân thông qua UBMTTQ và các tổ chức thành viên đối với chính quyền địa phương đi vào thực chất, tạo thêm một kênh phản hồi đủ mạnh, thúc đẩy dân chủ ở nông thôn. Ba là, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước: - Phân trách nhiệm cụ thể, thực hiện cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành và các địa phương (huyện, xã) về phát triển nông thôn. - Kiện toàn hệ thống cơ quan chuyên ngành về phát triển nông thôn tạiáở Nông nghiệp, phòng kinh tế (nông nghiệp), ban nông nghiệp xã. - Tăng cường năng lực cán bộ quản lý nhà nước về phát triển nông thôn của tỉnh, huyện, xã. Đào tạo cán bộ có chuyên môn thuộc lĩnh vực hoạch định chính sách, có kỹ năng nghiên cứu, phân tích, đề xuất phương án chính sách, có trách nhiệm tăng cường giáo dục lý luận hình thành thế giới quan phương pháp luận khoa học, lý tưởng mục tiêu và quyết tâm xây dựng tỉnh giàu đẹp cho cán bộ. Nâng cao ý thức công dân, ý thức xã hội, ý thức pháp luật, đặc biệt là ý thức trách nhiệm với dân, với nước. Cán bộ có năng lực trình độ am hiểu rõ đối tượng tác động của chương trình, dự án, chính sách (người dân nông thôn), nắm bắt được những thách thức đối với nông dân trong thời hội nhập để có kế hoạch chủ động. Cán bộ hoạch định chính sách phải nhận thấy được hạn chế của hoạch định chính sách xây dựng nông thôn theo mô hình truyền thống là tiếp cận chính sách dựa vào nhu cầu, mang tính chất bù đắp sự thiếu hụt cho nông dân nông thôn. Tâm lý đó có ở cả cấp hoạch định cũng như người chấp hành chính sách, xem dự án đầu tư là của nhà nước, cơ hội đầu tư chỉ được chờ đợi từ bên ngoài (nhà nuớc, tổ chức quốc tế). Do đó đào tạo cán bộ hiểu được yêu cầu qui hoạch mô hình nông thôn mới phải đáp ứng được sự phù hợp, khả thi, phản ánh đúng nhu cầu thiết thực của người dân. Tăng chi phí quản lý, đầu tư các hoạt động như nghiên cứu thực tế, làm nền tảng cho mọi hoạt động chính sách; Cần đầu tư mạnh vào công tác nghiên cứu đối tượng thực thi chính sách để hiểu toàn diện, nắm được đặc điểm, tâm lý, văn hóa, đặc biệt là nhu cầu, nguyện vọng của họ để có hướng chính sách tác động phù hợp. Tăng chi ngân sách cho hoạt động điều tra (xã hội học, nghiên cứu thực tế ở cơ sở, nghiên cứu tài liệu,...) về ý thức pháp luật, mức độ dân chủ cơ sở, đặc biệt ý kiến đánh giá chính sách ở những vùng nông thôn miền núi, ven biển. Ngoài ra, nghiên cứu về tài nguyên vùng, địa phương để tìm ra lợi thế so sánh, đặc điểm văn hóa, phong tục, tâm lý,...là cơ sở thực tiễn để làm luận cứ khoa học ban hành chính sách. Đây là hoạt động rất tốn kém cả về nhân lực và kinh phí nếu đầu tư thực sự. Đòi hỏi phải chuẩn bị, đào tạo cán bộ làm công tác này, thu hút các tổ chức, cá nhân trong cả nước tham gia. Kết quả của nó sẽ làm căn cứ cho các quyết sách của tỉnh. Ngoài ra, chú trọng đầu tư trang thiết bị hiện đại cho công tác hoạch định chính sách phải được xem là chi phí điều hành và quản lý chính quyền của tỉnh, trang thiết bị máy móc và cả một hệ thống nhân lực vận hành nó. Tập trung có trọng điểm ngân sách đầu tư cho giáo dục đào tạo cán bộ ngành nông lâm nghiệp. Thực tế, người dân và cán bộ cơ sở đóng vai trò chủ yếu và quan trọng quyết định sự thành bại của mô hình phát triển nông thôn mới. Trên tinh thần thực hiện đề án Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cơ sở của tỉnh Quảng Nam (theo Quyết định số 130 ngày 23/2/2003 của UBND tỉnh), triển khai chương trình phát triển nông thôn (dự án về khuyến nông, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn) lồng ghép một số chương trình đào tạo cán bộ. Thường xuyên làm tốt công tác cử cán bộ tham gia hoạch định và thực thi chính sách đi tập huấn bồi dưỡng, nhằm nâng cao nhận thức về nông thôn mới và các nội dung nhiệm vụ xây dựng mô hình tại địa phương. Cùng với đào tạo bồi dưỡng, xây dựng nội dung tuyên truyền giáo dục chuẩn mực đạo đức mới, đạo đức của nền hành chính công- đạo đức công vụ để qua đó làm tiêu chuẩn đánh giá cán bộ nhằm mục tiêu thay đổi ý thức xã hội tiến tới cải tạo hành vi của các cán bộ công chức. Rõ ràng cũng cần phải tạo dư luận lên án, chế độ xử phạt nặng với những hành vi vi phạm đạo đức công vụ, tắc trách, nhũng nhiễu dân trong thực thi chính sách. Bốn là, tuyên truyền nâng cao nhận thức xây dựng mô hình nông thôn mới. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền sâu rộng về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho người nông dân hiểu biết về chính sách phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và thách thức trong sản xuất nông sản đáp ứng quy định WTO mà Việt Nam cũng như Quảng Nam đang thiếu: “Số lượng hàng hóa lớn, kích cỡ, màu sắc, bao bì đồng bộ, thời gian giao hàng chính xác; chất lượng có chứng chỉ xác nhận nguồn gốc giống; giá rẻ để có thể cạnh tranh, yếu tố quyết định; có chứng chỉ nông nghiệp an toàn- nông nghiệp tốt đảm bảo vệ sinh và an toàn sản phẩm” [34]. Trang bị cho người dân nông thôn những kỹ năng cơ bản về họp cộng đồng, trao đổi ý kiến, cách thức xây dựng và đề xuất giải pháp chính sách để họ thụân lợi trong tham gia xây dựng kế hoạch phát triển làng xã của mình, thực hiện tốt vai trò theo dõi, giám sát đối với các công trình, dự án được đầu tư tại nơi mình sinh sống. Tăng cường các hoạt động tuyên truyền với nhiều hình thức phong phú như: thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, phát hành tờ rơi,... Thực hiện các biện pháp tuyên truyền tác động và làm thay đổi nhận thức, trách nhiệm của mỗi người dân và cộng đồng đối với phát triển nông thôn mới nhằm khơi dậy phong trào tự vận động phát triển trong cộng đồng dân cư nông thôn. Huy động sự tham gia của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội để vận động hội đoàn viên, hiểu rõ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nông thôn, tích cực tham gia cùng chính quyền các cấp để thực hiện xây dựng mô hình nông thôn mới ở làng, thôn, bản... Năm là, nội dung chính sách xây dựng mô hình nông thôn mới trên địa bàn Quảng Nam. Như trình bày ở các phần trên với thực tiễn ở Quảng Nam để xây dựng mô hình nông thôn mới với đơn vị làng, thôn cần tập trung vào các nội dung: - Về quy hoạch phát triển nông thôn mới: Căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch ngành của Tỉnh các địa phương triển khai quy hoạch làng, thôn giai đoạn 2007-2020 để trình xã phê duyệt. - Tổng kết đánh giá, hệ thống lại các cơ chế chính sách hiện hành rút ra kinh nghiệm thành công và không thành công ở từng chính sách để rút ra nguyên nhân Từ từng khâu quy trình hoạch định chính sách, tìm ra trong đó nguyên nhân thành công, thất bại chính, để điều chỉnh khắc phục. - Đề suất các chính sách về thu hút cán bộ có trình độ về công tác tại các cơ quan chuyên môn của tỉnh, huyện, xã. Chính sách đào tạo nghề cho người dân nông thôn, chính sách hỗ trợ nông dân thay đổi nghề, chính sách phát huy vai trò cộng đồng trong phát triển nông thôn, chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn. Sáu là, giải pháp về vốn. Ngoài ngân sách đầu tư phát triển của địa phương hằng năm ưu tiên bố trí vốn cho các chính sách đã được ban hành đồng thời lồng ghép các chương trình dự án, chương trình mục tiêu của Chính phủ trên địa bàn, đảm bảo tăng nguồn lực đầu tư cho các chương trình xây dựng mô hình nông thôn mới. Huy động cac nguồn tài trợ từ bên ngoài, kêu gọi và đề nghị sự hỗ trợ của các tổ chức Quốc tế như: WB, ADB... các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước. Khai thác các dự án quỹ đất để đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn, huy động các doanh nghiệp đóng trên địa bàn gốp một phần vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi của địa phương. Tuỳ theo điều kiện và khả năng của từng địa phương để xây dựng cơ chế đóng góp phù hợp bằng sức người, sức của, phát huy tối đa tính sáng tạo và sự tham gia đóng góp của người dân địa phương. Bảy là, tổ chức thực hiện. Mọi chính sách được triển khai thực hiện tốt hay không tuỳ thuộc vào việc phân công thực hiện. Trước hết Sở Nông nghiệp Phát triển nông thôn Tỉnh Quảng Nam có trách nhiệm phối hợp với các sở ban ngành địa phương, căn cứ vào sự phân công của UBND tỉnh, để tổ chức thực hiện từng dự án, từng chính sách. Tham mưu cho UBND tỉnh lựa chọn triển khai một số mô hình thí điểm, sơ kết, tổng kết có đề suất bổ sung hoàn chỉnh từng chính sách. Chỉ đạo kiểm tra, giám sát, thực hiện theo đúng kế hoạch mà chính sách đã ban hành. Kết luận chương 2 Hoạch định chính sách công trong quá trình xây dựng mô hình nông thôn mới trên địa bàn Quảng Nam cơ bản bảo đảm tính khoa học, tính chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập. Mặc dù còn những hạn chế về chất lượng chính sách, quy trình hoạch định song nhìn chung các chính sách được hoạch định ở Quảng Nam thời gian qua trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã phát huy tác dụng. Nhờ đó, cơ cấu kinh tế nông thôn có bước chuyển dịch, hệ thống hạ tầng, giao thông nông thôn được kiện toàn, các mặt y tế giáo dục, văn hoá, xã hội có được cải thiện, đời sống nhân dân được nâng lên. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển tỉnh Quảng Nam trong hiện tại và thời gian tới, chất lượng chính sách nông nghiệp nông thôn, xây dựng mô hình nông thôn mới cần phải có bước đột phá. Cần phải thực hịên một hệ các giải pháp hoạch định chính sách xây dựng mô hình nông thôn mới theo hướng khoa học, hiện đại, gắn với nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh Quảng Nam, phù hợp chiến lược phát triển vùng, miền và lợi thế kinh tế biển, kinh tế vùng trọng điểm miền trung của Quảng Nam. Để đạt được mục tiêu đó, trước hết cần có sự phối kết hợp thực hiện các giải pháp một cách đồng bộ nhằm thúc đẩy hoàn thiện, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả chính sách. Do đó cần phát huy các nguyên nhân thành công từ chương trình thực hiện chính sách, đồng thời rút ra được các khâu còn yếu kém dẫn đến không thành công. Nguyên nhân không thành công có thể nhận thấy từ những thiếu sót như: Không thực hiện đúng quy trình hoạch định, bộ máy Nhà nước, cơ chế nhà nước, cán bộ nhân viên Nhà nước còn yếu, các cơ quan quyền lực; cán bộ thừa hành công vụ vì lợi ích cục bộ, vì cá nhân làm lệch hướng chính sách, thiếu tổng kết, kiểm tra, chống tiêu cực, tham nhũng, công bằng xã hội, dân chủ chưa được phát huy đó là những nguyên nhân dẫn đến không thành công của một số chính sách nông nghiệp, nông thôn ở một số địa phương và một số chính sách ở ngành, địa phương thực hiện được, trong khi ngành hoặc địa phương khác lại không. Từ đó, có thể đưa ra giải pháp hoạch định chính sách công trong quá trình xây dựng mô hình nông thôn mới trên địa bàn Quảng Nam; lãnh đạo tỉnh cần có đầy đủ thông tin chính xác trước khi quyết định chính sách, từ Quốc tế, từ Trung ương, từ nhân dân và thực tiễn địa phương. Để hoạch định chính sách tốt hơn cần phân cấp về chính sách, tài chính, thủ tục hành chính.... Và vấn đề cốt lõi là cán bộ cần được đào tạo, thu hút bồi dưỡng cán bộ giỏi, vừa chuyên vừa hồng cho các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách, tiền lương, thu nhập chính đáng đảm bảo cuộc sống và tạo điều kiện công tác cống hiến cho nhân dân, phục vụ nhân dân tốt hơn. KẾT LUẬN Hoạch định chính sách công trong quá trình xây dựng mô hình nông thôn mới là một vấn đề rất cấp bách trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn hiện nay ở nước ta. Các nhà khoa học ở Viện chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn khi bàn vấn đề “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn thời kỳ hội nhập” cũng nhấn mạnh: “Nông thôn là mô hình chiếc ly với 1/2 nước. Phần có nước là xây dựng tổ chức nông thôn và đổi mới quản lý nhà nước; phần còn lại là khoan sức dân, tiếp sức dân. "Phần có nước” chú trọng cải cách hành chính, đổi mới dịch vụ công, phát triển kinh tế hợp tác, thu hút đầu tư về nông thôn. Phần còn lại là miễn thuế, phí cho nông dân; hỗ trợ dịch vụ; xây dựng kết cấu hạ tầng; hỗ trợ sản xuất; phát triển khoa học công nghệ” [35]. Đó cũng là những nhiệm vụ cơ bản trong xây dựng phát triển nông thôn Quảng Nam hiện nay. Thời gian qua, hoạch định chính sách công trong quá trình xây dựng nông thôn mới của tỉnh Quảng Nam đạt được một số thành công trên những nét lớn như: Xác định rõ mục tiêu, thiết kế nội dung chính sách phù hợp, gắn với thực tiễn địa phương, khơi dậy được tính tích cực chấp hành chính sách ở người dân. Nhận thức lãnh đạo, cán bộ hoạch định chính sách về mô hình nông thôn mới có rõ hơn, hiểu biết về khoa học chính sách có tiến bộ. Nhờ sự tác động đúng hướng của hệ thống chính sách của tỉnh, Quảng Nam đã đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các mặt kinh tế-xã hội, củng cố lòng tin của dân vào Đảng, vào chủ trương chính sách nhà nước. Trong điều kiện chia tách tỉnh sau 10 năm, những kết quả đạt được trên nhiều mặt, song rõ nhất là thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, y tế, văn hóa, giáo dục phát triển, lối sống, điều kiện canh tác của người nông dân được thay đổi,...thu nhập của người dân có tăng lên, đời sống của nông dân ngày một khá. Bộ mặt nông thôn Quảng Nam nhìn chung có khởi sắc. Hiệu lực cầm quyền của Đảng và Nhà nước qua đó được tăng cường. Từ những thành công đó có thể khẳng định quá trình hoạch định chính sách xây dựng nông nghiệp nông thôn Quảng Nam dựa trên tinh thần tôn trọng khách quan, đáp ứng mục tiêu chính trị, phù hợp nguyện vọng nhân dân, khơi dậy ở người dân tính tích cực chính trị xã hội, tích cực lao động sản xuất. Song, từ kết quả chính sách vẫn còn khiêm tốn so với yêu cầu, tiềm năng của tỉnh, hội nhập vùng, quốc tế, cần nhận thức và khắc phục một số hạn chế sau: Chưa thật sự tôn trọng tính khách quan trong xây dựng phương án chính sách, giải pháp tổ chức thực thi chính sách còn mang tính chủ quan. Sự phối kết hợp liên ngành, ngành dọc, giữa lãnh đạo chỉ đạo của Đảng với chính quyền, giữa UBND và các cơ quan thực thi (sở, ban, ngành, huyện, xã) chưa đi vào nề nếp, chưa có biện pháp chính sách hữu hiệu kịp thời điều chỉnh giảm nhẹ thiệt thòi cho nông dân khi có vướng mắc, trở ngại. Trong tình hình mới hiện nay, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế nông nghiệp khu vực và quốc tế, hoạch định chính sách Quảng Nam cần chú ý các vấn đề sau: Tập trung nguồn lực, trí tuệ và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy thuận lợi về điều kiện tự nhiên- kinh tế- xã hội, đặc biệt tranh thủ sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của TW, học tập kinh nghiệm mô hình nông thôn mới ở các nước và địa phương để kiện toàn công tác hoạch định chính sách. Bên cạnh đó, cần có hệ các giải pháp, chú trọng giải pháp đổi mới nhận thức của lãnh đạo Đảng về công tác hoạch định chính sách, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách, cơ chế chính sách, bộ máy, nhân lực,... tạo ra sự hợp lực nhằm hiện thực hóa cao nhất lợi ích nhân dân, thực hiện mục tiêu xây dựng mô hình nông thôn mới. Đặc biệt chú ý giải pháp tăng cường sự tham gia của người dân trong hoạch định chính sách. Nội dung chương trình xây dựng nông thôn mới được dựa trên niềm tin của chính những người dân, những người hiểu rất rõ thực tế của vùng đất của mình và họ có thể và cần phải hợp tác một cách tích cực trong việc đưa ra giải pháp cho những vấn đề của chính người dân nông thôn. Xem công cuộc hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là đòn bẩy đưa Quảng Nam trở thành tỉnh động lực miền Trung, CNH-HĐH trước năm 2015 như Nghị quyết Đại hội lần thứ XIX của đảng bộ tỉnh đề ra. Trong đó phải bắt đầu từ hướng hoạch định chính sách xây dựng mô hình nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, vốn được xác định là chiến lược, bước đột phá. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Ban Dân vận Trung ương (2000), Một số vấn đề về công tác vận động nông dân nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2002), Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết hội nghị lần V, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. GS.TS Hoàng Chí Bảo (chủ biên) (2004), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hịên nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006), Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2006-2010. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006), Quyết định số 2614/QĐ/BNN-HTX ngày 08/9/2006 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Đề án thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới. PGS.TS Trần Thị Minh Châu (chủ biên) (2006), Về chính sách nông nghiệp ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc qia, Hà Nội. Cục Thống kê Quảng Nam (2006), Niên giám thống kê 2005, Quảng Nam. Cục Thống kê tỉnh Quảng Nam (2007), Kinh tế-xã hội Quảng Nam 10 năm, Quảng Nam. PGS.TS. Trần Đức Cường (2000), Quá trình hình thành chính sách nông nghiệp của Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước”, Tiểu luận tốt nghiệp chương trình lí luận cao cấp, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội. TS. Lê Vinh Danh (2001), Chính sách công của Hoa Kỳ giai đoạn 1930-2001, Nxb Thống kê, Hà Nội. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (2006), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XIX, Quảng Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành trung ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. GS Nguyễn Điền, Vũ Hạnh, Nguyễn Thu Hằng (1999), Nông nghiệp thế giới bước vào thế kỷ XXI, Trung tâm kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Chính trị học (2004), Tập bài giảng chính trị. ) Vũ Trọng Khải (chủ biên) (2004), Phát triển nông thôn Việt Nam từ làng xã truyền thống đến văn minh thời đại, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Thang Văn Phúc (chủ biên) (2002), Vai trò của các hội trong đổi mới và phát triển đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. PGS,TSKH Phan Xuân Sơn (2003), Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. PGS,TSKH Phan Xuân Sơn - Th.S Lưu Văn Quảng (2006), Những vấn đề cơ bản của chính sách dân tộc ở nước ta, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Sở Văn hoá Thông tin Quảng Nam (2005), Quảng Nam xây dựng đời sống văn hoá, Quảng Nam. Sở Văn hoá thông tin (2007), Hội nghị biểu dương gia đình văn hoá tiêu biểu xuất sắc tỉnh Quảng Nam lần thứ nhất - năm 2007, Quảng Nam. GS.TS Lưu Văn Sùng (2004), Một số kinh nghiệm điển hình về phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. GS. Hồ Văn Thông (chủ biên) (2005), Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. TS Nguyễn Từ (2004), Quá trình nhận thức của Đảng ta về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thời kỳ đổi mới, Nxb Lý luận, Hà Nội. Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính (2002), Nxb Đà Nẵng. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2005), Báo cáo số 92-UBND ngày 16-11về tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2006 và định hướng phát triển kinh tế - xã hội năm 2007, Quảng Nam. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2007), Chương trình hành động về thực hiện Nghị Quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XIX, Nghị Quyết HĐND tỉnh khóa VII và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010, Quảng Nam. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2007) Báo cáo về cung cấp số liệu phục vụ cho việc áp dụng thực hiện cơ chế theo Quyết định số 120/2003/QĐ-TTg nhằm nhằm phát triển kinh tế- xã hội đối với các xã, huyện thuộc tuyến biên giới Việt - Lào, Quảng Nam.  www.rced.com.vn/?page=tintuc&code=news&id=476. www.baoquangnam.com.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=5725&Itemid=130. www2.vietnamnet.vn/xahoi/2007/06/703256. www.povertyenvironment.net/pep/?q=filestore2/download/224/PRSP_Vietnam_Country_Review-VT.pdf ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2472.doc
Tài liệu liên quan