Tài liệu Hỗ trợ xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam: Hiện trạng và giải pháp: ... Ebook Hỗ trợ xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam: Hiện trạng và giải pháp
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1417 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hỗ trợ xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam: Hiện trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
CHƯƠNG I: TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA SME Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...................................................................................................................................... 7
I- Khái quát chung về SME ........................................................................ 7
1. Tiêu thức xác định SME ở một số nước trên thế giới............................ 7
2. Tiêu thức xác định SME ở Việt Nam .................................................... 9
2.1 Định nghĩa SME ở Việt Nam ............................................................ 9
2.2 Tiêu thức xác định SME ở Việt Nam .............................................. 10
II- Đặc điểm của SME ở Việt Nam .......................................................... 11
1. Quá trình hình thành và phát triển SME ở Việt Nam ......................... 11
1.1. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 1995 .......................................... 12
1.2. Giai đoạn trong thời kỳ đổi mới .................................................... 12
1.3. Trong giai đoạn hiện nay .............................................................. 13
2. Đặc điểm chung của các SME ở Việt Nam: ........................................ 13
III- Thực trạng XNK của SME ở Việt Nam: .......................................... 16
1. Khái quát thực trạng hoạt động kinh doanh của SME ở Việt Nam hiện nay: ........................................................................................................... 16
1.1. Về số lượng SME ........................................................................... 16
1.2. Xét về ngành nghề kinh doanh ...................................................... 18
1.3. Xét về doanh thu của các SME ...................................................... 18
2. Thực trạng hoạt động XNK của SME ở Việt Nam hiện nay ............... 20
2.1 Những đóng góp của SME vào kim ngạch XNK ở Việt Nam ......... 21
2.2 Tình hình đầu tư của SME trong sản xuất kinh doanh .................. 21
2.3. Về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu SME.............................................. 23
3. Đánh giá hoạt động kinh doanh XNK của SME ở Việt Nam hiện nay
.................................................................................................................. 25
3.1. Ưu điểm ......................................................................................... 26
3.2. Các hạn chế ................................................................................... 26
CHƯƠNG II: CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ XNK CHO SME Ở VIỆT NAM VÀ
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC. ................. 30
I- Vai trò của SME trong nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam và tính cấp thiết phải hỗ trợ cho SME ........................................................................ 30
1. Vai trò của SME trong nền kinh tế quốc dân: ..................................... 30
1.1 Mức độ đóng góp của SME Việt Nam trong nền kinh tế................ 30
1. 2 SME giữ vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm ..................... 31
1. 3 SME làm cho nền kinh tế năng động và có hiệu quả hơn ............. 31
1.4 SME góp phần tích cực trong việc lưu thông hàng hoá và XK ...... 32
1.5 Các SME dễ dàng duy trì sự tự do cạnh tranh ............................... 32
1.6 Các SME có khả năng ứng biến nhanh nhạy ................................. 33
1.7 Các SME là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp............................. 35
2. Tính cấp thiết phải hỗ trợ XNK cho SME ở Việt Nam ....................... 35
II- Các chính sách hỗ trợ XNK cho SME ở Việt Nam hiện nay ........... 37
1. Chính sách hỗ trợ tín dụng đối với các SME:...................................... 37
1.1 Về kim ngạch .................................................................................. 37
1.2 Mối quan hệ giữa SME với Ngân hàng trong hoạt động hỗ trợ tín dụng. ..................................................................................................... 39
1. 3 Đánh giá hoạt động tín dụng đối với SME: .................................. 41
2. Chính sách thuế trong việc hỗ trợ SME............................................... 42
2.1 Các chính sách thuế........................................................................ 42
2.2 Đánh giá việc thực hiện các chính sách thuế đối với SME ............ 45
3. Chính sách thị trường sản phẩm hỗ trợ các SME ................................ 46
4. Các biện pháp hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu ............................................. 49
5. Các quy chế thương mại trong việc hỗ trợ SME ................................. 51
III- Kinh nghiệm hỗ trợ xuất nhập khẩu cho SME của một số nước .. 54
1. Các biện pháp hỗ trợ của Đài Loan ..................................................... 55
1.1 Về chiến lược kinh doanh ............................................................... 55
1.2 Về chính sách thuế.......................................................................... 55
1.3 Về ngoại thương ............................................................................. 57
2. Các biện pháp hỗ trợ của Malaysia...................................................... 58
2.1 Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu đối với công nghiệp. ........ 58
3. Các biện pháp hỗ trợ của Hàn Quốc .................................................... 60
3.1 Về chiến lược kinh doanh ............................................................... 61
3.2 Về chính sách tín dụng ................................................................... 61
3.3 Các chính biện pháp hỗ trợ khác ................................................... 62
CHƯƠNG III- MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH XNK CỦA SME Ở VIỆT NAM ............................................. 64
I- Cơ hội và những thách thức của SME trong hoạt động kinh doanh
XNK trong cơ chế thị trường hiện nay.................................................... 64
1. Cơ hội của SME trong hoạt động kinh doanh XNK............................ 64
2. Những thách thức mà SME Việt Nam gặp phải trong hoạt động kinh doanh XNK .............................................................................................. 66
2.1 Khó khăn về vốn hoạt động ............................................................ 66
2.2 Khó khăn về tìm kiếm thị trường xuất khẩu. .................................. 66
2.3 Khó khăn trong việc tiếp cận nguồn thông tin ............................... 67
2.4 Sự cản trở của các quy chế thương mại ......................................... 68
2.5 Các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đối với SME trong thời gian qua còn rất nhiều hạn chế .................................................................... 68
II- Một số kiến nghị nhằm hỗ trợ hiệu quả hoạt động XNK cho SME ở
Việt Nam ..................................................................................................... 69
1. Kiến nghị đối với Nhà nước ................................................................ 69
1.1. Nâng cao và kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước đối với SME ... 69
1.2. Đối sử công bằng giữa các khu vực kinh tế .................................. 73
1.3. Đổi mới hoạt động hỗ trợ tín dụng cho SME để có vốn tham gia
vào XNK................................................................................................ 74
1.4 Tiếp tục đổi mới chính sách thuế theo hướng hỗ trợ cho SME. ..... 76
1.5 Thành lập các Quỹ hỗ trợ SME trong hoạt động kinh XNK: ........ 78
2. Kiến nghị đối với các Bộ ngành .......................................................... 80
2.1 Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại đối với SME ............ 80
2.2 Xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ xuất nhập khẩu...................... 81
2.3 Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế giới. ................... 81
2.4 Tăng cường hỗ trợ khả năng cạnh tranh cho SME trên thị trường thế giới. ................................................................................................. 82
3. Kiến nghị đối với các nhà quản lý doanh nghiệp ................................ 83
Lời nói đầu
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng: cơ cấu kinh tế có chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng trưởng ổn định trong một thời gian khá dài. Kết quả đó có sự đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) thuộc các thành phần kinh tế ở nước ta.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian qua có bước phát triển tương đối nhanh về số lượng, sự đóng góp trong GDP ngày một cao. Tuy nhiên trong xu thế hiện nay, với quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trong khu vực và trên thế giới đã bước sang một giai đoạn phát triển với tốc độ hết sức nhanh chóng và sâu sắc, làm cho nền kinh tế thế giới ngày càng trở thành một chỉnh thể thống nhất, các quan hệ kinh tế được phát triển đa phương, đa dạng hoá dưới nhiều hình thức.Trong bối cảnh đó, đối với một nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra những cơ hội cho các doanh nghiệp nói chung và những SME nói riêng như là mở rộng thị trường cho hàng xuất khẩu, tiếp nhận vốn và công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp, nhờ đó tạo ra công ăn việc làm và đảm bảo tăng trưởng kinh tế, học tập được công nghệ quản lý mới, nhưng mặt khác lại đặt các doanh nghiệp Việt Nam vào tình thế phải cạnh tranh khốc liệt hơn. Thêm vào đó, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu ở Việt Nam, đặc biệt là các SME ngoài quốc doanh đang gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất cũng như tiêu thụ trên thị trường quốc tế. Việc khuyến khích, hỗ trợ các SME nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu là một trong nội dung quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Nhận thấy tầm quan trọng của việc hỗ trợ xuất nhập khẩu cho các SME trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta trong thập kỷ tới, trong thời gian làm việc tiếp cận với nhiều các SME em mạnh dạn nghiên cứu đề tài "Hỗ trợ
xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam: Hiện trạng và giải pháp" nhằm phân tích những khó khăn trong lĩnh vực xuất nhập khẩu của các SME để từ đó đưa ra những kiến nghị tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của khu vực này.
Các SME được đề cập trong chuyên đề tốt nghiệp này được xác định theo công văn số 681/CP-KTN của Chính phủ ngày 20/6/1998, trong đó quy định SME là những doanh nghiệp có vốn và có số lao động dưới 200 người, không phân biệt ngành công nghiệp hoặc dịch vụ.
Bố cục của Koá luận tốt nghiệp bao gồm ba chương sau:
Chương I: Tình hình xuất nhập khẩu của SME ở Việt Nam hiện nay. Chương II: Các chính sách hỗ trợ XNK cho SME ở Việt Nam và bài học kinh nghiệm của một số nước trong khu vực.
Chương III- Một số kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động kinh doanh XNK của SME ở Việt Nam
Trong suốt quá trình thực hiện, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, chyên đề có thể chưa đầy đủ và còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự thông cảm, góp ý xây dựng của quý thầy cô cùng các bạn sinh viên để chuyên đề này được thành công hơn.
Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo Thạc sĩ Nguyễn Hoàng Ánh người
đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em nghiên cứu khoá luận tốt nghiệp này.
S/v : Nguyễn Thuý Hà
Lớp : A4-CN8
CHƯƠNG I: TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA SME Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY I- Khái quát chung về SME:
Hầu hết các nước đều nghiên cứu tiêu thức phân loại SME. Tuy nhiên, không có tiêu thức để phân loại SME cho tất cả các nước và ngay trong một số nước việc phân loại cũng có sự khác nhau tuỳ theo từng thời kỳ, từng ngành nghề, địa bàn...
Có 2 nhóm tiêu chí phổ biến dùng để phân loại, đó là: tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng.
Tiêu thức định tính: Dựa trên những đặc trưng cơ bản của SME như không có vị thế độc quyền trên thị trường, chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít,..các tiêu thức này có ưu thế là phản ánh đúng của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó, nó chỉ được làm cơ sở để tham khảo mà ít được sử dụng trên thực tế để phân loại.
Tiêu thức định lượng: Thường sử dụng các tiêu thức như là số lao động thường xuyên và không thường xuyên trong doanh nghiệp, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó:
- Số lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách, lao động thường xuyên, lao động thực tế,..
- Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản hay vốn cố định, giá trị tài sản còn lại...
- Doanh thu có thể là tổng doanh thu trong một năm, tổng giá trị gia tăng trong một năm(hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ tiêu này).
1. Tiêu thức xác định SME ở một số nước trên thế giới:
Ở các nước, tiêu chí định lượng để xác định quy mô doanh nghiệp rất đa dạng. Dưới đây là một số tiêu chí phân loại SME qua điều tra ở 12 nước trong khu vực APEC. Trong các nước này, tiêu chí số lao động được sử dụng phổ biến nhất (12/12 nước sử dụng). Còn một số chỉ tiêu khác thì tuỳ thuộc
vào điều kiện của từng nước: vốn đầu tư (3/12), tổng giá trị tài sản (4/12), doanh thu (4/12) và tỷ lệ góp vốn (1/12). Số lượng tiêu chí chỉ có từ một đến hai và cao nhất là ba chỉ tiêu. Điều này được thể hiện một cách cụ thể dưới bảng 1 như sau:
Bảng 1: Tiêu chí phân loại SME ở các nước APEC.
Nước
Tiêu chí phân loại
Australia
Canada Hongkong Indonesia Japan Malaysia Mexico Philippines Singapore Taiwan Thailand US
Số lao động
Số lao động; Doanh thu
Số lao động
Số lao động; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu
Số lao động; Vốn đầu tư
Số lao động; Tỷ lệ góp vốn
Số lao động
Số lao động; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu
Số lao động; Tổng giá trị tài sản
Vốn đầu tư; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu
Số lao động; Vốn đầu tư
Số lao động
Nguồn: Ban thương mại và đầu tư, tiểu ban kinh doanh vừa và nhỏ của
các nước APEC, 1995.
Ở Indonesia; Tổng cục thống kê nước này phân loại dựa vào số lao động: Doanh nghiệp có dưới 19 lao động được coi là nhỏ, doanh nghiệp có trên 20 lao động được coi là vừa và lớn. Bộ công nghiệp xác định SME dựa trên vốn đầu tư vào máy móc: dưới 70 triệu rupi và tính bình quân trên một lao động có dưới 625 nghìn rupi là doanh nghiệp nhỏ. Còn Ngân hàng Indonesia coi doanh nghiệp có tài sản dưới 100 triệu rupi là SME. Ở Hồng kông; doanh nghiệp có lao động dưới 200 người là SME. Ở Hàn Quốc; tiêu thức phân loại doanh nghiệp chủ yếu dựa vào số lao động và phân biệt theo hai lĩnh vực sản xuất và dịch vụ: trong lĩnh vực sản xuất dưới 1000 lao động, trong lĩnh vực dịch vụ dưới 20 lao động là các DNV&N. Ở Đài Loan doanh nghiệp có số lao động dưới 300 người và vốn đầu tư dưới 1,5 triệu USD là
SME. Ở Malaysia; doanh nghiệp có vốn cổ đông dưới 500 nghìn USD hay tài sản ròng dưới 200 nghìn USD, số lao động dưới 20 người, doanh nghiệp có vốn cổ đông hay tài sản ròng từ 0,5- 2,5 triệu USD, lao động dưới 100 người là các SME. Ở Thái Lan; doanh nghiệp có số lao động tối đa 250 người và vốn đầu tư không quá 99.500 USD là SME.
Theo các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) thì các SME là những công ty hạch toán độc lập không phải là các công ty con của các công ty lớn; tuyển dụng ít hơn một số lượng lao động đã được quy định. Số lượng này khác nhau giữa các hệ thống thống kê quốc gia. Giới hạn trần phổ biến nhất là 250 lao động tại các nước thuộc liên minh Châu Âu (EU). Tuy nhiên, một số nước đặt ra giới hạn ở mức 200 lao động, trong khi Mỹ coi SME bao gồm các công ty có ít hơn 500 lao động. Tài sản tính bằng tiền cũng được sử dụng để xác định SME. Tại EU SME phải có doanh thu hàng năm bằng hoặc ít hơn 40 triệu EURO và hoặc giá trị bảng cân đối tài sản không vượt quá 27 triệu EURO.
2. Tiêu thức xác định SME ở Việt Nam:
2.1 Định nghĩa SME ở Việt Nam:
Trong luật doanh nghiệp và luật công ty nước ta có quy định rõ về về doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, các loại công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã.... nhưng lại chưa có một định nghĩa chính xác hay hệ thống như những chỉ tiêu để phân loại thế nào là SME. Trong thực tế, SME tồn tại trong cả trong khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh SME đã chiếm đa số.
Trong một số nghiên cứu gần đây của các tổ chức kinh tế thế giới vể các SME ở Việt Nam, người ta thường dựa trên các phân tích do phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng tiến hành đưa ra trên cơ sở định nghĩa về các SME đang được sử dụng trước khi thông qua một định nghĩa chính thức. Người ta sử dụng 2 tiêu thức về số lao
động thường xuyên và vốn sản xuất để phân loại doanh nghiệp. Đây là 2 tiêu thức được sử dụng rộng rãi và có thể xác định được hai tiêu thức này ở mọi cấp. Từ cách hiểu này có thể đưa ra được định nghĩa về SME như sau: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân với mục đích chính là kiếm lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp (tính theo các tiêu thức khác nhau) trong giới hạn nhất định đối với từng thời kỳ cụ thể”1.
2.2 Tiêu thức xác định SME ở Việt Nam:
Để xác định tiêu chí SME ở Việt Nam một cách phù hợp, cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam ( là một nước có trình độ phát triển kinh tế còn thấp, năng lực quản lý hạn chế, thị trường còn thiếu, chưa có thước đo quy mô doanh nghiệp một cách đích thực) và tính đến các yếu tố tác động tới việc phân loại nêu trên như mục đích phân loại, tính chất ngành nghề, địa
bàn.
Việc phân loại SME chủ yếu dựa theo 2 tiêu thức là: lao động thường xuyên và vốn sản xuất, vì lý do sau: tất cả các doanh nghiệp đều có số liệu về 2 tiêu thức này ( tính phổ dụng); có thể xác định 2 tiêu thức này ở mọi cấp độ, toàn bộ nền kinh tế, ngành, doanh nghiệp ( tính khả thi). Trong điều kiện của Việt Nam đây là 2 tiêu thức có thể xác định được chính xác trị số của chúng (tính chuẩn xác).
Tuy vậy 2 tiêu thức này mới chỉ thể hiện được quy mô đầu vào mà chưa phản ánh được kết quả tổng hợp thông qua kết quả kinh doanh.
Các tiêu thức khác như doanh thu, vốn pháp định, vốn cố định, vốn lưu động, lợi nhuận... đều có hạn chế là rất khó xác định hoặc không có nhiều ý nghĩa. Tiêu thức doanh thu ( hoặc giá trị gia tăng) có nhiều ý nghĩa vì nó phản ánh quy mô doanh nghiệp qua kết quả hoạt động của nó ( gắn với hiệu
quả). Tuy nhiên trong điều kiện của Việt Nam, tiêu thức này rất khó xác định
1 Kỷ yếu khoa học, dự án chính sách hỗ trợ phát triển SME ở Việt Nam (trang 18-22)
và không có số liệu chính xác ( chẳng hạn do việc dấu doanh thu để chốn thuế).
Các tiêu thức khác như vốn pháp định, vốn cố định hay số dư vốn lưu động không phản ánh đầy đủ và thực chất quy mô của doanh nghiệp trong các ngành khác nhau. Vốn pháp định thường khác xa vốn thực tế và chỉ mang tính hình thức. Vốn cố định có sự khác biệt lớn giữa các ngành sản xuất và thương mại, vốn lưu động cũng khác biệt rất lớn giữa các lĩnh vực, ngành
nghề.
Trên cơ sở những luận giải đó, có thể đi đến ước lượng tiêu thức để
phân loại SME ở bảng 1 dưới đây.
Bảng 2: Tiêu thức phân loại SME ở Việt Nam.
Lĩnh
vực
Tiêu thức
Công nghiệp
Thương mại, dịch vụ
SME
Doanh nghiệp nhỏ
SME
Doanh nghiệp nhỏ
Vốn sản xuất (VND)
< 5 tỷ
< 1tỷ
< 2 tỷ
< 1 tỷ
Lao động thường
xuyên (người)
< 300
< 50
< 200
< 30
(Nguồn: Học viện chính trị quốc gia và Viện Friedrich Ebert - Đức)
II- Đặc điểm của SME ở Việt Nam
1. Quá trình hình thành và phát triển SME ở Việt Nam:
Sự hình thành và phát triển SME ở Việt Nam theo nhiều xuất xứ khác
nhau:
Các SME được hình thành từ HTX tiểu thủ công nghiệp và nông
nghiệp có từ lâu đời, tồn tại và phát triển qua cả thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hoặc từ các doanh nghiệp của Nhà nước thành lập trong cơ chế cũ ( các doanh nghiệp trung ương và địa phương).
Hiện nay có thêm một số lượng lớn các SME mới được thành lập trong thời kỳ đổi mới kinh tế, do sắp xếp lại các doanh nghiệp quốc doanh, thành lập theo các văn bản quy phạm pháp luật ban hành từ năm 1990 đến nay.
1.1. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 1995
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy quy định chế độ, chính sách đối với hộ gia đình, hộ cá thể, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã HTX), doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Đáng chú ý là nghị quyết 16 của Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (1998), nghị định 27, 28, 29 của Hội đồng Bộ trưởng (1998) về kinh tế cá thể , kinh tế hợp tác và hộ gia đình... và một loạt các luật như Lật Công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật HTX, Luật DNNN... đã tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các SME phát triển.
Nhiều cơ quan quản lý, cơ quan khoa học và nhiều địa phương nghiên cứu về SME như: Bộ khoa học và đầu tư, Viện nghiên cứu quản lý trung ương, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Hội đồng liên minh các HTX Việt Nam... đã có nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc tế bàn về chính sách hỗ trợ các SME. Nhiều tổ chức quốc tế hỗ trợ về tài chính, khoa học cho các SME, trong đó có Viện Fredrich Ebert (FES) của Đức.
Trước những kết quả to lớn cũng như những khó khăn, vướng mắc của các SME, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế đất nước, Chính phủ đã có Công văn số 681/CP-KTN ngày 20-06-1998 định hướng chiến lược và chính sách phát triển SME.
1.2. Giai đoạn trong thời kỳ đổi mới
Số lượng SME của các thành phần kinh tế có sự biến động rất lớn. Trong khi số lượng các DNNN giảm liên tục. Riêng trong ngành công nghiệp từ 3.141 đơn vị (năm 1986) xuống còn 2.002 đơn vị (năm 1995), số lượng hợp tác xã trong công nghiệp giảm mạnh từ 37.649 cơ sở ( năm 1986) xuống còn 1.199 (năm 19950). Khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp ( doanh nghiệp và công ty) tăng nhanh, từ 567 doanh nghiệp (năm 1986) lên 959 doanh nghiệp (năm 1991) và 6.311 doanh nghiệp (năm 1995).
Theo tính toán của nhóm nghiên cứu của Học viện chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh thì nếu xét cả tiêu chí lao động thì cở Việt Nam hiện nay có
98,9% số doanh nghiệp là thuộc SME, trong đó 84,8% DNNN và 99,1%
doanh nghiệp ngoài quốc doanh là thuộc SME. Trong năm 2000 có 14.000
SME được thành lập, năm 2001 là 21.000 và ước tính trong năm 2002 là
23.000 SME. Như vậy sau 3 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp đã có thêm
58.000 SME, đưa tổng số SME của cả nước ta lên đến gần 80.000 doanh nghiệp. Con số này là rất đáng khuyến khích nhưng chưa phải là nhiều như một số ý kiến nhận định mà đang còn là quá ít so với cơ cấu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống nhân dân. Ở các nước phát triển như Pháp, Đức... hàng năm có tới 100.000 đến 200.000 doanh nghiệp mới thành lập mà chính phủ các nước này vẫn thúc đẩy thành lập thêm với các trương trình khởi sự doanh nghiệp. Trong năm 2001 vừa qua Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP về hỗ trợ phát triển SME. Tuy nhiên tính đến nay việc triển khai Nghị định còn chậm so với tốc độ phát triển của các SME.
1.3. Trong giai đoạn hiện nay
SME ở việt nam có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế. Trong đó phần lớn tập trung ở 3 lĩnh vực chính: Thương mại dịch vụ sửa chữa chiếm tỷ trọng lớn (46,2%); công nghiệp và xây dựng (18%); vận tải, dịch vụ kho bãi (10%). Riêng trong lĩnh vực công nghiệp đã có tới 37,3% số SME hoạt động trong ngành chế biến thực phẩm; 11% trong ngành dệt, may, da; 18,6% trong ngành sản xuất các sản phẩm kim loại.
Sự phân bố SME tập trung chủ yếu ở vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long chiếm 50% tổng số doanh nghiệp cả nước, Đồng bằng Sông Hồng là 20%, duyên hải Miền Trung chiếm 12%.
Hiện nay, SME đang từng bước sử lý, củng cố lại và tiến hành cổ phần hoá, cho thuê và bán cho các thành phần khác. Đồng thời thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng (khoá VIII) theo hướng phát huy nội lực, đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, SME sẽ có xu hướng và điều kiện phát triển mạnh hơn nữa.
2. Đặc điểm chung của các SME ở Việt Nam:
Với tốc độ phát triển nhanh chóng, các SME ở Việt Nam đã có những đóng góp tích cực cho nền kinh tế quốc dân. Phần lớn các SME ở Việt Nam đều mang những đặc điểm dưới đây:
a. Về số lượng và cơ cấu theo ngành nghề:
Tính đến nay cả nước có khoảng 50% DNNN trung ương và khoảng
70-80% số NDNN địa phương thuộc loại doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ.
Nếu xét đến khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thì các SME chiếm hơn
90% doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô vừa và nhỏ, trừ loại hình công ty cổ phần.
b. Về phân bổ SME theo vùng lãnh thổ:
Đồng bằng Sông Cửu Long và Đông Nam Bộ đã chiếm gần 50% tổng số SME của cả nước. Hai vùng tiếp theo là Đồng bằng Sông Hồng (22%), Duyên hải Miền Trung (12%), các vùng còn lại chiếm gần 16%.
c. Về vốn:
SME ở Việt nam hiện nay nói chung đều gặp khó khăn về vốn để sản xuất kinh doanh ở những mức độ khác nhau. Theo thống khê của nhóm nghiên cứu Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, tính đến năm 1999 vốn của doanh ghiệp ngoài quốc doanh chỉ chiếm 11,9% tổng số vốn của doanh nghiệp nhà nước. Thời điểm năm 2000 con số này tăng lên đến 12,8%.
Trong khu vực kinh tế Nhà nước, vốn bình quân mỗi doanh nghiệp là khoảng 8 tỷ VNĐ so với vốn bình quân mỗi doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân là 340 triệu VNĐ. Như vậy, quy mô vốn của doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta đã nhỏ thì quy vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh lạu càng nhỏ hơn.
d. Về công nghệ, thiết bị của SME:
Do hầu hết các SME có khăn về vốn nên công nghệ thiết bị lạc hậu từ
hai đến ba thế hệ và chậm được đổi mới: tỷ lệ đổi mới máy móc thiết bị là 5-
10%/năm tính theo vốn đầu tư.
e. Về thị trường và khả năng cạnh tranh:
80 triệu dân số VN có mức độ yêu cầu về chất lượng hàng hoá và dịch vụ chưa cao, nhất là ở nông thôn (80% dân số cả nước) là thị trường tiềm năng rất lớn cho các SME. Tuy nhiên thị trường VN đang bị ảnh hưởng rất lớn của hàng hoá nhập lậu và tác động đến SME.
Khả năng cạnh tranh của các SME ở Việt Nam rất yếu: do công nghệ, thiết bị lạc hậu, trình độ quản lý và kinh doanh trên thị trường còn hạn chế, thông tin thị trường kém.
g. Về lao động và đội ngũ quản lý của SME:
Chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo, thiếu kỹ năng, trình độ
văn hoá thấp.
6% lao động trong khu vực ngoài quốc doanh có trình độ đại học chủ
yếu tập trung vào các công ty TNHH và công ty cổ phần (hơn 80%).
44% chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh là cán bộ, công nhân viên chức nhà nước chuyển ngành.
48,4% số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có bằng chuyên
môn.
III- Thực trạng XNK của SME ở Việt Nam:
1. Khái quát thực trạng hoạt động kinh doanh của SME ở Việt
Nam hiện nay:
Như chúng ta đều biết, sự tồn tại và phát triển của khu vực tư nhân mới được chính thức thừa nhận từ năm 1990, khi luật doanh nghiệp và luật công ty được thông qua. Từ đó đến nay, loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam cũng trở nên phong phú hơn, với những hình loại như cá nhân và nhóm kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Hy vọng rằng sau khi Nhà nước xem xét và sửa đổi lại Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân thì các hình thức SME ngoài quốc doanh ngày càng phát triển hơn.
1.1. Về số lượng SME
Theo số liệu điều tra về khu vực SME tiến hành trong 2 năm 1995-
1996, thì đến ngày 31/12/19962, có 1.439.683 đơn vị kinh doanh tư nhân, trong đó gồm 1.412.166 cá nhân và nhóm kinh doanh; 17.535 doanh nghiệp tư nhân, 6.883 công ty TNHH, 153 công ty cổ phần và 2.946 HTX. Điều này phần nào nói nên sự phong phú của các DNV&N ngoài quốc doanh trong
thời gian qua. Như vậy, xét về số lượng đơn vị kinh doanh thì hình thức cá
2 Do chưa có số liệu điều tra chính thức trong thời gian gần đây nên phần này tạm thời phân tích trên cơ sở số liệu cuối năm 1998 (31/12/1998) với giả định cho rằng cơ cấu (theo vùng và theo ngành) không có sự thay đổi lớn trong ba năm qua
nhân và nhóm kinh doanh và tiếp đến là doanh nghiệp tư nhân là hình thức phổ biến ở Việt Nam hiện nay.
Số lượng các đơn vị kinh doanh chủ yếu tập trung ở ba vùng: (i) vùng đồng bằng sông Cửu Long 24%, (ii) vùng đồng bằng sông Hồng 21%, và (iii) vùng miền Đông Nam Bộ 19%. Tiếp đó là 13% ở vùng khu Bốn cũ, 10% ở vùng Duyên hải Miền Trung, 9% ở miền núi và trung du, và 4% ở vùng Tây Nguyên. Như vậy, 3 vùng [(i) - (iii)] đã chiếm hơn 60% tổng số đơn vị kinh doanh tư nhân trên địa bàn cả nước. Sự phân bố đó được thể hiện trong bảng
3 dưới đây:
Bảng 3: Phân bố SME theo vùng lãnh thổ.
Đơn vị:%
Phân theo vùng lãnh thổ
Loại hình doanh nghiệp
DNTN Công ty Công ty Hợp Kinh tế
TNHH cổ phần tác xã cá thể
1.Vùng núi và trung du
2.Đồng bằng sông hồng
3.Khu bốn cũ
4.Duyên hải miền Trung
5.Tây nguyên
6.Đông nam Bộ
7.Đồng bằng sông Cửu
Long
Phần trăm tổng số
3,91 3,79 1,69 12,49 9,62
5,32 32,70 22,88 48,07 21,19
2,74 2,44 1,31 8,72 13,26
20,64 4,71 7,19 11,20 10,25
2,46 1,09 1,31 2,14 3,72
24,80 51,27 53,59 12,80 18,43
40,14 4,00 11,76 4,58 23,63
1,22 0,48 0,01 0,20 98,09
9,53
21,11
13,07
10,25
3,68
18,66
23,69
100
Tổng số
100 100 100 100 100
100
Nguồn: CIEM
Theo bảng 3, sự phân bố SME tập trung chủ yếu ở vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long (42,35%), Đồng bằng sông Hồng (21,11%), Khu bốn cũ (13,07%), Duyên hải miền Trung (10,25%).
1.2. Xét về ngành nghề kinh doanh
Các đơn vị kinh doanh thuộc khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu hoạt động trong ba ngành: (i) dịch vụ thương nghiệp, sửa chữa xe động cơ, mô tô xe máy 46%; (ii) trong công nghiệp chế biến (22%); và (iii) khách sạn nhà hàng (13%). Điều đáng lưu ý là có 21% doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực thuỷ sản và 26% công ty cổ phần ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực tài chính tín dụng, riêng trong lĩnh vực công nghiệp chế biến có tới 37,3% số SME hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, 11% trong ngành dệt, may, da và 18,6% trong ngành sản xuất các sản phẩm kim loại. Sơ đồ 1sẽ chứng minh về cơ cấu ngành nghề kinh doanh của
SME.
Sơ đồ 1: Cơ cấu ngành nghề kinh doanh của SME:
4
46%
1
13%
2
19%
3
22%
Chú thích:
Nguồn: CIEM
)1: Khách sạn, nhà hàng
)2: Các ngành khác
)3: Công nghiệp chế biến
)4: Dịch vụ thương nghiệp
1.3. Xét về doanh thu của các SME
Trong khu vực kinh tế tư nhân, thì cá nhân và nhóm kinh doanh chỉ
chiếm 40% tổng doanh thu của khu vực kinh tế tư nhân. Như vậy, về khía
cạnh này, các SME đăng ký chính thức, gồn doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, chiếm phần quan trọng hơn (khoảng
57%). Điều này có thể có khần do cá nhân và nhóm kinh doanh không khai báo đúng mức doanh thu của họ, mà khai báo thấp hơn thực tế là đIều có thể xảy ra. Tuy vậy, nó phản ánh một thực tế là các SME có đăng ký chính thức có quy mô kinh doanh lớn hơn. Và nếu muốn kinh doanh quy mô lớn thì chắc chắn phải chuyển sang hình thức doanh nghiệp đăng ký chính thức, hoạt động theo nguyên tắc luật lệ của cơ chế thị t._.ruờng.
Doanh thu của khu vực SME ngoài quốc doanh được thể hiện chi tiết dưới bảng sau:
Bảng 4: Doanh thu các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh
theo vùng lãnh thổ.
Đơn vị:%
Phân theo vùng lãnh thổ
Loại hình doanh nghiệp
DNTN Công ty Công ty Hợp Kinh tế
TNHH cổ phần tác xã cá thể
1.Vùng núi và trung du
2.Đồng bằng sông hồng
3.Khu bốn cũ
4.Duyên hải miền Trung
5.Tây nguyên
6.Đông nam Bộ
7.Đồng bằng sông Cửu
Long
Phần trăm tổng số
2,90 1,34 0,26 4,68 4,97
2,97 15,89 7,48 12,90 12,07
1,40 0,62 0,12 25,39 4,48
6,19 4,37 1,34 9,03 7,91
1,98 1,85 0,05 4,53 3,22
41,44 68,05 86,01 31,98 38,96
40,14 7,87 4,73 11,49 28,02
17,18 36,04 3,75 2,43 40,60
3,12
11,73
3,05
6,12
2,43
51,46
22,08
100
Tổng số
100 100 100 100 100
100
Nguồn: CIEM
Theo bảng 4, điều đáng chú ý là doanh thu của khu vực miền Đông Nam Bộ, gồm cả thành phố Hồ Chí Minh, chiếm 51,46% tổng doanh thu của khu vực SME ngoài quốc doanh trên cả nước. Tiếp đến là Vùng đồng bằng
sông Cửu Long chiếm 22,08%, và Vùng đồng bằng sông Hồng chiếm
11,73%. Như vậy, xét theo doanh thu, thì hoạt động của SME ở Việt Nam chủ yếu tập trung ở miền Nam Việt Nam.
Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam được thực hiện dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm tỷ trọng đáng kể. Tổng số vốn đang ký của hai loại hình doanh nghiệp này chiếm khoảng
60% tổng số vốn đăng ký của kinh tế tư nhân. cá nhân và nhóm kinh doanh chiếm khoảng 30%. Điều đáng chú ý là gần 50% vốn đăng ký của khu vực kinh tế tư nhân ở đồng bằng sông Hồng được thưc hiện dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, trong khi đó khoảng 60% vốn đăng ký ở Đồng bằng sông Cửu Long được thực hiện dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân.
2. Thực trạng hoạt động XNK của SME ở Việt Nam hiện nay
Trong hệ thống thống kê của Việt Nam hiện nay chưa có thống kê chi tiết các hoạt động của các SME trong nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như trong hoạt động ngoại thương nói riêng. Mặc dù thống kê chưa cho phép tách biệt hoạt động thương mại giữa hai khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh (chủ yếu là các doanh nghiệp SME, nhưng thực tế cho thấy các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hiện vẫn chiếm ưu thế trong hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi chế độ độc quyền ngoại thương trước đây đã tồn tại trong một thời gian dài trong nền kinh tế đã phần nào cản trở các SME tham gia vào các hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, các DNNN vẫn có ưu thế trong các ngành xuất nhập khẩu, xuất phát từ những ưu thế về vốn, kỹ thuật, lao động và kinh nghiệm maketing.
Ngày 31/7/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 57/NĐ-CP hướng dẫn thi hành chi tiết Luật thương mại. Theo Nghị định này, kể từ ngày
1/9/1998 các doanh nghiệp Việt Nam được kinh doanh xuất nhập khẩu theo nội dung Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà không bị yêu cầu phải có giấy phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Tuy vậy, vẫn có nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh (SME) phải tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu thông qua các DNNN.
2.1 Những đóng góp của SME vào kim ngạch XNK ở Việt Nam
Tuy gặp phải những cản trở không nhỏ trong việc thực hiện mở rộng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, nhưng các SME cũng đóng góp một phần tích cực vào sự nghiệp phát triển ngoại thương Việt Nam. Từ năm
1997-1999, xuất khẩu của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng rất nhanh và nhanh hơn rất nhiều so với các DNNN, trong hai năm 1998-1999, xuất khẩu không phải dầu thô của các DNNN tăng là 4,6%, thì các SME tăng
72,5%. Do đó, mặc dù quy mô nhỏ, nhưng khu vực SME trong nước đã chiếm tỷ lệ 39,1% tăng trưởng xuất khẩu không phải dầu thô của giai đoạn này. Cụ thể sự đóng góp của các SME vào kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam được thể hiện dưới đây:
Bảng 5: Tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng xuất khẩu không kể dầu thô giai đoạn 1997-1999.
1997
Tr USD
1999
Tr USD
Tăng XK của
2 năm (%)
Tỷ lệ đóng góp vào
tăng trưởng XK(%)
DNNN
DN FDI
Khu chế xuất
SME Tổng số
5.207
1.790
292
915
7.732
5.260
2.590
581
1.578
9.428
4,6
44,7
98,8
72,5
21,9
13,7
47,2
17
39,1
100
Nguồn: Kết quả hoạt động XNK và dự báo năm tiếp theo. Báo cáo không chính tức của
WB, phiên họp 6/2000.
2.2 Tình hình đầu tư của SME trong sản xuất kinh doanh
Xuất khẩu của khu vực SME tăng mạnh mặc dù đầu tư năm 1997 giảm mạnh (xem sơ đồ 2), theo các nhà quản lý của các SME định hướng xuất khẩu, điều này đạt được là do đầu tư trong những năm qua 1996-1997 đã dẫn đến việc dư thừa công suất vào năm 1998-1999, khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á nổ ra. Do đó, tăng xuất khẩu trong những năm 1999 một
phần lớn là do mức sử dụng công suất hiện có cao hơn. Các công ty cũng cho biết đã chuyển hướng khỏi việc xuất qua trung gian sang xuất khẩu trực tiếp (FOB) với giá trị tăng cao hơn hẳn. Xuất khẩu FOB tăng từ 30% trong tổng xuất khẩu năm 1998 lên 50% năm 19993. Hầu hết số xuất khẩu trực tiếp này là sang các thị trường mới thường là Châu Mỹ-Lating và Đông Âu. Giá trị gia tăng theo xuất khẩu FOB cao hơn hẳn so với xuất khẩu theo hình thức gia công, nhưng rủi ro cũng cao hơn do các SME phải tự tìm kiếm khách hàng cho mình. Như đã trình bày ở trên tình hình đầu tư trong những năm qua đối với khu vực SME ngoài quốc doanh giảm rất mạnh vào năm 1997 (giảm
3,7%) và tăng dần vào những năm tiếp theo 1998 (2,5%) năm 1999 (2,4%).
Điều này được thể hiện một cách rõ nét nhất dưới sơ đồ sau:
sơ đồ 2: tốc độ tăng vốn đầu tư trong khu vực SME năm 96-99
6.00%
4.00%
2.00%
0.00%
3.90%
2.50% 2.40%
-2.00%
-4.00%
-6.00%
1996
-3.70%
1997 1998
1999
Nguồn: Báo cáo không chính tức của WB, phiên họp 6/2000.
Bên cạnh đó, những cải cách nhằm mở rộng quyền thương mại và khả năng tiếp cận với thị trường xuất nhập khẩu cho phép các SME của Việt Nam đã có tác dụng tăng xuất khẩu trong thời gian qua. Nếu tiếp tục có những cải cách nhằm hỗ trợ tự do hoá khu vực SME và nếu khả năng tiếp cận bình thường với tất cả các thị trường trên thế giới được mở rộng, các SME sẽ tiến
hành đầu tư giúp duy trì tăng trưởng xuất khẩu cao cho Việt nam.
3 Theo báo cáo không chính thức của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, 6/2000
Hiện nay, các SME tuy không chiếm một tỷ lệ lớn trong giá trị xuất nhập khẩu, nhưng lại có một vị trí không kém phần quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu thông qua vai trò cung cấp nguồn hàng cho các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu, tạo ra công ăn việc làm đáng kể trong lực lượng lao động nhàn rỗi
2.3. Về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu SME
Nhìn vào cơ cấu của các thành phần kinh tế trong GDP, có thể thấy các mặt hàng xuất khẩu chính của các SME hiện nay bao gồm chủ yếu các loại hàng, nhóm hàng sau:
- Hàng nông lâm, thuỷ hải sản chế biến và chưa chế biến.
- Hàng thủ công, mỹ nghệ (đồ gỗ trạm, khắc, hàng thêu ren, mây tre, hàng mỹ nghệ, lụa tơ tằm...)
- Hàng công nghiệp nhẹ (giày dép, may mặc, thảm...)
Thật vậy, tuy chưa có sự thống kê riêng rẽ về tỷ lệ xuất khẩu các ngành hàng xuất khẩu của khu vực SME nhưng để chứng minh cho điều đó em xin được sử dụng số liệu của cuộc điều tra khảo sát được tiến hành thực hiện giữa Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) và MPDF. Qua số liệu điều tra tại 457 SME đã chỉ ra rằng các doanh nghiệp này xuất khẩu chiếm
3/4 sản lượng của mình (xem bảng 8). Điều này có nghĩa là các SME ngoài quốc doanh đã định hướng xuất khẩu mạnh hơn các DNNN.
Bảng 6: Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của các SME.
Ngành hàng xuất khẩu
Tỷ trọng XK/tổng số sản phẩm
(%)
Các sản phẩm da
Hàng may mặc Chế biến gỗ Cao su nhựa
Các sản phẩm phi kim loại
85
80,5
75,1
75
73,2
Thực phẩm đồ uống
63,2
Các sản phẩm hoá chất
20
Các sản phẩm khác
74,4
Nguồn: CIEM
Mặc dù, với số lượng 475 doanh nghiệp được chọn làm mẫu chiếm tỷ lệ không lớn so với số lượng SME hiện nay, nhưng kết quả thông qua cuộc khảo sát đã phản ánh phần nào về cơ cấu hàng hoá kinh doanh xuất khẩu của SME ở VN.
Điều đáng lưu ý trong trường hợp hải sản có thể coi là đại diện cho những ngành hàng xuất khẩu của các SME. Bảng 9, cho thấy rằng về hải sản khu vực quốc doanh chiếm phần lớn 73% xuất khẩu năm 1999 nhưng xuất khẩu của khu vực này lại tăng chậm hơn khu vực các SME: 14% so với trên
50% của khu vực các SME. Điều đó khẳng định rằng mặt hàng kinh doanh xuất khẩu của các SME ngày càng có hiệu quả trong công tác xuất khẩu.
Bảng 7: xuất khẩu thuỷ sản của SME giai đoạn 1997 - 1999
Gia tăng xuất
khẩu (%)
Xuất khẩu
tăng trưởng(%)
Tỷ trọng
1999(%)
DNNN
50,6
14,6
73,0
DN FDI
3,4
50
1,9
SME
46
50,7
25,1
Tổng số
100
22,5
100
Nguồn: Báo cáo không chính tức của WB, phiên họp 6/2000.
Nhìn chung, hàng hoá mà các SME kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay chủ yếu là những mặt hàng cần ít vốn và công nghệ đơn giản, nhưng cần nhiều lao động. Giá trị gia tăng của một số mặt hàng không cao, nhưng điều quan trọng là việc sản xuất và tiêu thụ những mặt hàng này đã mang lại công ăn việc làm và thu nhập cho người sản xuất, mà phần lớn là các hộ kinh tế gia
đình.
Những mặt hàng do các SME sản xuất có đặc điểm chung là sản phẩm của quy trình sản xuất nhỏ, sử dụng máy móc, kỹ thuật lạc hậu, thô sơ, tốn
nhiều sức lao động. Gần đây nhờ quá trình cải cách kinh tế mở cửa, các SME đã có mặt hàng sản xuất mang tính công nghiệp, nhưng thuộc loại công nghệ chưa thật cao và còn sử dụng nhiều lao động. Nhưng số SME có khả năng tiếp cận với loại hình này còn ít. Do vậy, trừ những mặt hàng sản xuất theo quy trình công nghiệp như dệt may, giày dép...Thì quy cách phẩm chất của các hàng hoá nhìn chung không đồng đều, không ổn định, đặc biệt là hàng thủ công mỹ nghệ, hàng mang tính chất nghệ thuật dân gian.
Đặc điểm của hàng hoá, sản phẩm của khu vực SME tạo ra thường kém sức cạnh tranh trên thị trường, chi phí sản xuất cao, khó có thể thay đổi mẫu mã thường xuyên. Bản thân các SME cũng khó thu thập thông tin về hàng hoá trên thị trường. Còn đối với những hàng hoá sản xuất công nghiệp như dệt may, giày dép thì hàng hoá thay đổi nhanh chóng theo mẫu mốt và thay đổi theo thị hiếu người tiêu dùng, mà các doanh nghiệp lại thiếu nguồn thông tin và cơ hội tiếp xúc với thị trường bên ngoài, hoặc là thiếu những kỹ năng thiết kế hàng hoá hiện đại. Nhưng loại hàng này, họ thường thụ động sản xuất theo mẫu mã, quy cách phẩm chất do khách hàng đưa ra.
Với những đặc điểm trên đã làm cho hàng hoá của các SME có khả năng cạnh tranh kém trên thị trường quốc tế, các mặt hàng có khả năng cạnh tranh kém là đó là những mặt hàng chế biến thực phẩm, hàng may mặc, sản phẩm nhựa, hàng nội thất, sản phẩm làm từ gỗ, đồ da và đồ gốm. Nói cách khác, tính cạnh tranh xem ra rất kém ở những ngành hàng đòi hỏi công nghệ cao, điều này phản ánh một hiện thực là phần lớn các SME vẫn chưa sẵn sàng cạnh tranh với các doanh ngiệp nước ngoài một khi các doanh nghiệp này tham gia hội nhập khu vực và toàn cầu.
Tin tưởng vào khả năng kinh doanh của người trực tiếp sản xuất, tin tưởng vào khả năng hợp tác, đoàn kết của họ trong hiệp hội mang tính tự nguyện để xoá bỏ cơ chế xuất nhập khẩu có thể sẽ tạo điều kiện cho các SME tăng cường khả năng xuất khẩu của mình nói riêng và cải thiện cán cân thương mại Việt Nam nói chung.
3. Đánh giá hoạt động kinh doanh XNK của SME ở Việt Nam hiện nay
3.1. Ưu điểm
Nếu xét hệu quả kinh tế đơn thuần trên một số tiêu thức truyền thống thì hiệu quả hoạt động của các SME lớn hơn nhiều, điều này thể hiện ở:
- Các SME thu hút được một lượng vốn nhàn rỗi rất lớn trong nhân dân (số tiền này dân giữ không sinh lãi hoặc sinh lãi rất ít) và đưa vào hoạt động kinh doanh, sinh lãi cao hơn.
- Tạo ra nhiều việc làm với chi phí chủ yếu là bằng vốn của dân mà lẽ ra Nhà nước phải tốn rất nhiều vốn đầu tư để giải quyết việc làm ( trung bình Nhà nước phải đầu tư hơn 10triệu đồng để tạo ra một chỗ làm việc).
- Làm cho nền kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn hoạt động hiệu quả hơn. Các SME có thể hoạt động như những cơ sở phụ trợ, cung cấp nguyên vật liệu cho các ngành công nghiệp lớn phát triển. SME sẽ làm tăng khả năng liên kết giữa các doanh nghiệp, đảm bảo tăng cường năng lực sản xuất, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá.
- Tăng cường khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế vì số lượng, chủng loại sản phẩm do SME sản xuất tăng lên rất lớn.
Tăng mức độ an toàn, giảm bớt rủi ro trong nền kinh tế thị trường đầy biến động, đó là do tính linh hoạt ứng biến của các trước sự biến động của thị trường, khẳ năng thay đổi mặt hàng...
- Đáp ứng tốt hơn những nhu cầu của người tiêu dùng với giá rẻ hơn và thuận tiện hơn.
- Phân phối đồng đều hơn về lao động, xoá đói giảm nghèo rất thiết thực cho xã hội.
- Một ưu điểm nữa là sự phát triển của SME là ít chịu sự tác động trực tiếp của các cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực và quốc tế vì sản phẩm của nó hầu hết thuộc loại thiết yếu.
3.2. Các hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm trên, SME còn có những hạn chế như sau:
- Khả năng thâm nhập thị trường kém. Môi trường kinh doanh là một yếu tố rất quan trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp. Khái niệm về môi
trường kinh doanh rất rộng và có nhiều cách phân loại khác nhau. Theo cách phân loại phổ biến hiện nay, môi trường kinh doanh bao gồm: môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường khoa học công nghệ, môi trường chính trị - xã hội,...
Đối với SME thì môi trường kinh tế có ý nghĩa quan trọng hơn cả, trong đó phải kể đến yếu tố thị trường. Thị trường nước ta còn kém phát triển, thiếu đồng bộ và bị chia cắt. Hiện nay mới chỉ có thị trường hàng hoá và dịch vụ là chủ yếu còn các thị trường khác chưa có hoặc mới bắt đầu phát triển. Thị trường còn bị độc quyền nặng nề làm cho SME ngay từ khi mới ra đời đã phải cạnh tranh không cân sức. Khó khăn nhất của thị trường trong nước là sức mua thấp, đặc biệt là ở nông thôn mà phần lớn SME vươn ra thị trường ngoại tỉnh và nước ngoài.
Về thị trường ngoài nước: do bị hạn chế về công nghệ, chất lượng, mẫu mã, thiếu thông tin và ít có điều kiện tiếp xúc với thị trường nước ngoài nên khó xuất khẩu. Trên thực tế, SME nước ta chủ yếu là làm gia công cho các tổ chức trung gian trong và ngoài nước, XNK uỷ thác cho các doanh nghiệp lớn. Như vậy khó khăn về thị trường là do cả hai phía. Một mặt do năng lực, trình độ tay nghề, quản lý, chất lượng hàng hoá thấp, mặt khác do môi trường thị trương chưa tốt, giá đầu vào cao, sức mua thấp, thiếu thông tin và bị hàng ngoại chèn ép. Đây là một khó khăn lớn đối với SME ở nước ta.
- Thiếu nguồn vốn: “ Vốn” là vấn đề tài chính đang quan tâm nhất của SME nước ta hiện nay. Vốn kinh doanh được huy động bằng nhiều cách, trong khu vực kinh tế SME vốn được huy động bằng các cách sau:
+ Chủ doanh nghiệp đầu tư bằng vốn của mình, đây là nguồn chủ yếu, nó chiếm hơn 70% số doanh nghiệp.
+ Huy động vốn từ các thân hữu bằng hình thức vay mượn với lợi tức thoả thuận, hoặc là góp vốn thành một khoản ngay từ đầu và người góp sẽ cùng sở hữu doanh nghiệp. Hình thức này thường được áp dụng cho loại
công ty TNHH. Hình thức này thường áp dụng ở khoảng 28~30% số doanh nghiệp.
+ Bán cổ phiếu: Người mua cổ phiếu trở thành cổ đông của doanh nghiệp, dạng huy động vốn này thực hiện trong các công ty cổ phần, loại này chiếm 0,5~1% tổng số doanh nghiệp.
+ Vay ngân hàng: hình thức này phải qua các thủ tục nghiêm ngặt, phiền hà và thế chấp chặt chẽ, phải có luận chứng phương án kinh doanh cụ thể. Thực tế chỉ có khoảng 30~40% số chủ doanh nghiệp có nhu cầu được vay,mà hiện nay lãi suất vay vốn của ngân hàng vẫn chưa ưu đãi đối với các doanh nghiệp SME.
Trong khu vực kinh tế quốc doanh, SME chịu cơ chế quản lý vốn của Nhà nước. Thứ nhất, doanh nghiệp được giao và bảo toàn vốn. Thứ hai, khả năng tăng vốn được thực hiện thông qua quỹ khấu hao cơ bản, qua lợi nhuận chích lại để sản xuất. Thứ ba là vay ngân hàng. Thế nhưng khả năng vay vốn từ ngân hàng của doanh nghiệp quốc doanh chỉ thực hiện được nếu triển vọng doanh thu của doanh nghiệp có khả năng trả nợ được trong 2 năm.
Vì vậy phần lớn SME huy động vốn phi chính thức với lãi suất cao và không ổn định. Hiện nay các doanh nghiệp này chưa có thị trường vốn đặc biệt là thị trường vố dài hạn. Mặt khác, hiệu quả sử dụng vốn còn thấp, chưa có sự hỗ trợ của các tổ chức trung gian như các tổ chức bảo lãnh tín dụng.
- Khả năng tiếp cận công nghệ bị hạn chế: Như đã đề cập ở trên, hiện nay SME vẫn còn sử dụng máy móc, thiết bị lạc hậu từ hai đến ba thế hệ. Nguyên nhân chủ yếu là do vốn để nhập khẩu các thiết bị mới tiên tiến chưa có, mặt khác cũng do trình độ tay nghề của cán bộ công nhân còn yếu chưa bắt kịp với những thay đổi tiến bộ của khoa học kỹ thuật công nghệ.
- Yếu kém trong công tác quản lý và tổ chức: trình độ của các cán bộ còn thiếu kinh nghiệm, lúng túng. Đặc biệt khi kinh tế đang chuyển dịch cơ cấu gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý và tổ chức.
- Yếu kém trong quan hệ kinh doanh và mạng lưới tiêu thụ sản phẩm Đối với các SME thì những yếu kém này cũng rất phổ biến. Những khó khăn mà các doanh nghiệp thườg gặp là:
+ Tiêu thụ sản phẩm trên thị trường trong nước, đặc biệt là tiêu thụ
hàng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
+ Thiếu khả năng nghiên cứu và phát triển (R&D) để đáp ứng những thay đổi trong sản xuất hàng xuất khẩu (mặt hàng mới, chất lượng hàng,...) thường xuyên liên tục diễn ra trong nền kinh tế thị trường.
+ Ít hoặc không có điều kiện tổ chức bồ dưỡng nâng cao kỹ thuật, tay nghề cho công nhân viên, nhất là nghiệp vụ marketing- xuất khẩu cho các cán bộ làm công tác xuất khẩu.
+ Trình độ hiểu biết về luật pháp còn yếu, đặc biệt những thông lệ quốc tế. Ngoài ra các doanh nghiệp này ít có điều kiện và khả năng XNK trực tiếp nên dễ bị thụ động.
CHƯƠNG II
CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ XNK CHO SME Ở
VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC.
I- Vai trò của SME trong nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam và tính cấp thiết phải hỗ trợ cho SME
1. Vai trò của SME trong nền kinh tế quốc dân:
Các SME có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế. Họ góp phần vào sự gia tăng tổng thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 70% GDP mỗi nước.
Ở Việt Nam hiện nay SME vừa có diện rộng, phổ cập chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp và có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội. Cùng với kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông thôn, SME được xem như là những nhân tố đảm bảo cho sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, khai thác tận dụng hiệu quả tiềm năng về vốn, tay nghề và những nguồn lực tiềm ẩn trong dân cư. Nó còn góp phần phân bố công nghiệp trên các địa bàn khác nhau; giữ vai trò bổ sung cho công nghiệp lớn; bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống, thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc.
1.1 Mức độ đóng góp của SME Việt Nam trong nền kinh tế
Cho đến nay, chưa có số liệu chính thức được công bố về đóng góp của khu vực SME trong nền kinh tế Việt Nam. Tuy vậy, theo ước tính, DNNN và doanh nghiệp có vốn đầu nước ngoài chiếm khoảng 43 - 45% GDP, sản xuất nông nghiệp chiếm khoảng 27- 30% GDP, thì phần còn lại là sản phẩm của khu vực SME. Như vậy, các SME không kể sản xuất nông nghiệp, đã tạo ra khoảng 25-28% GDP. Theo báo cáo gần đây của Tổng cục Thống kê thì DNTN, Công ty TNHH, Công ty cổ phần đã tạo ra 8% GDP;
Hộ kinh doanh cá thể tạo ra 8-9% GDP và các Hợp tác xã đã tạo ra khoảng
9% GDP.
- Do số lượng SME tăng nhanh nên mặt hàng phong phú, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội, tính cạnh tranh tăng lên làm cho chất lượng hàng hoá và dịch vụ được nâng cao, thị trường sôi động hơn. SME còn góp phần khai thác tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế như tài nguyên, lao động, vốn thị trường, đặc biệt là tay nghề tinh xảo và truyền thống dân tộc.
1. 2 SME giữ vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm
SME giữ vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm, giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội. Chỉ tính riêng kinh tế cá thể trong công nghiệp và thương mại, năm 1995, đã thu hút 3,5 triệu lao động, các công ty và doanh nghiệp tư nhân thu hút gần nửa triệu lao động. Chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm việc trong các SME chỉ bằng 10% so với doanh nghiệp lớn.
1. 3 SME làm cho nền kinh tế năng động và có hiệu quả hơn
Một vai trò nữa rất quan trọng của SME là làm cho nền kinh tế năng động và có hiệu quả hơn. Do số lượng doanh nghiệp tăng lên rất lớn nên động lực cạnh tranh làm cho nền kinh tế thêm năng động và hiệu quả. Hơn nữa, các doanh nghiệp này có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ và hướng kinh doanh một cách nhanh chóng. Ngoài ra, do có nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh một số mặt hàng nên sẽ giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế: khi một doanh nghiệp đổ vỡ thì có các doanh nghiệp khác thay thế.
Phát triển SME, làm cho số lượng doanh nghiệp tăng lên rất lớn, làm tăng tính cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro, đồng thời tăng số lượng chủng loại hàng hoá, thoả mãn nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Đảng ta chủ trương thực hiện công nghiệp hoá, coi trọng công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. SME với mạng lưới rộng khắp đã có truyền thống gắn bó với nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn sẽ là động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, nông thôn phát triển. Sẽ hình thành những tụ điểm, cụm công - nông nghiệp để tác động chuyển hoá sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.4 SME góp phần tích cực trong việc lưu thông hàng hoá và XK
Trong những năm 1950 các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ lấy mục tiêu phục vụ thị trường trong nước là chính, đáp ứng nhu cầu trong nước và sử dung có hiệu quả nguồn nhân lực. Khi nêng kinh tế phát triển, sức mua tăng lên, nhu cầu lớn hơn, các SME nhạy bén trong việc điều chỉnh cơ cấu, tăng doanh thu. Điều này rất khó thực hiện ở các doanh nghiệp lớn khi muốn đa dạng hoá các mặt hàng sản xuất. Trong khi các SME số lượng đông đảo và hoạt động có hiệu quả, họ có thể tự sản xuất thay thế nhập khẩu.
Đầu thập kỷ 60, Chính phủ nhiều nước đã quyết định phát triển SME theo định hướng xuât khẩu. Bên cạnh việc góp phần lưu thông hàng hoá trong nước, các doanh nghiệp đều lấy thị trường quốc tế làm thị trường chính.
Trước đây việc tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài phải do trung gian ngoại thương làm môi giới, nhưng trong những năm gần đây SME đã có khả năng tự thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá trên thế giới. Đây cũng là sự tương đồng ở Việt Nam, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, khả năng lưu thông trong nước lẫn ngoài nước đều hết sức khó khăn, đặc biệt là lưu thông trong nước do bị ép giá). Nhưng với các cơ sở doanh nghiệp tổ chức xuất khẩu, giá thu mua dù sao cũng tốt hơn so với thị trường trong nước dã buộc các SME phải tính tới các hoạt động xuất khẩu.
1.5 Các SME dễ dàng duy trì sự tự do cạnh tranh
Sự tự do cạnh tranh là con đường đúng nhất để phát huy tiềm lực vốn có của doanh nghiệp. Một quốc gia nào muốn tạo nên các SME đều phải có chế độ tư hữu và tự do cạnh tranh. Các doanh nghiệp lớn thường cần những thị trường lớn, đòi hỏi phải có sự bảo trợ của Chính phủ và phải có sự độc quyền.
Còn ở SME thì tình trạng độc quyền không xảy ra, họ sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. So với các doanh nghiệp lớn, SME có tính tự chủ cao, họ không ỷ lại sự giúp đỡ của Nhà nước. Vì mưu lợi họ sẵn sàng khai thác các cơ hội để phát triển mà không ngại rủi ro. Ở các nước trong khu vực mỗi
năm bình quân có khoảng 203% số SME bị phá sản và cũng có khoảng 3%
loại doanh nghiệp này mới được hình thành.
Loại hình SME có điều kiện thuận lợi trong việc tập trung vốn, tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Sự phát triển của các ngành có hàm lượng kỹ thuật cao không chỉ cho phép các SME cạnh tranh dễ dàng mà còn cho phép chúng chiếm ưu thế trong một số ngành.
1.6 Các SME có khả năng ứng biến nhanh nhạy
Những biến động kinh tế xã hội trên thị trường quốc tế và trong nước đã nhiều lần gây cú sốc lớn cho nền kinh tế nhiều nước, như hai cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới thập niên 80, 90, nạn lạm phát, ô nhiễm,... Nhưng các SME đã thích nghi nhanh chóng, thay đổi hoàn cảnh, tự điều chỉnh tổ chức sản xuất. Với tư thế nhỏ gọn, năng động, dễ quản lý, không cần thiết quá nhiều vốn, các SME rất linh hoạt trong việc đòi hỏi, phát triển và tránh những thiệt hại to lớn do môi trường khách quan tác động. Trong những năm gần đây, các SME của các nước phải ứng phó với sự tăng giá của đồng tiền trong nước, sự thiếu lao động tạm thời và vấn đề ô nhiễm môi trường. Do dễ dàng quản lý, các SME rất linh hoạt trong việc điều chỉnh kết cấu sản xuất, chuyển kênh tiêu thụ ở nước ngoài để tránh sự mất mát ngoại hối do đồng tiền trong nước tăng giá. Khả năng ứng biến của SME đối với sự đột biến của hoàn cảnh không thể không kể đến vai trò trợ giúp tích cực của Chính phủ.
Các SME dễ dàng tạo nên sự phát triển cân đối giữa các vùng và góp phần giảm bớt nạn thất nghiệp. Vấn đề phát triển cân đối giữa các vùng không thể thành công nếu nước đó chỉ chú trọng đến việc phát triển cân đối giữa các doanh nghiệp đại quy mô. Ở nhiều nước, tính phổ biến các SME rất có lợi thế trong việc tuyển dụng nhân công tại địa phương và tận dụng các tài nguyên, tư liệu sẵn có của địa phương. Lợi nhuận của các SME góp phần tái sản xuất, đầu tư cho địa phương, do đó hiệu quả kinh tế của các SME cũng là hiệu quả về ổn định và phát triển kinh tế ở địa phương. Các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ là khu vực kinh tế thu hút nhiều lao động, có thể tạo ra nhiều công ăn việc làm,góp phần giảm bớt nạn thất nghiệp của mỗi địa phương nói
riêng và của nền kinh tế nói chung. Theo tư liệu mấy năm gần đây, các SME trong ngành thương nghiệp là các doah nghiệp tạo việc làm nhiều nhất cho công nhân. Bởi vì số lượng các doanh nghiệp loại này rất lớn, phân bố rộng rãi khắp các cùng nên có vai trò rất lớn trong việc phát triển công bằng giữa các thành thị và nông thôn.
1.7 Các SME là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp
Thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh trong các SME nhiều nhà quản lý cấp thấp khi thấy mình đã có đầy đủ kinh nghiệm liền tự mình tạo lập nên một cơ nghiệp khác, bỏ doanh nghiệp mình đã từng làm việ. Nguồn gốc của sự thành công là ở chỗ: hộ sẵn sàng học hỏi, chịu gian khổ trong thời gian còn là công nhân làm thuê để tích luỹ thành quả cho riêng mình. Chính phủ nhiều nước đã khuyến khích quá trình tự lập sáng tạo của mỗi cá nhân. Khác với doanh nghiệp lớn, các nhà doanh nghiệp thường là những người có học vị cao, đào tạo chính quy để trở thành các nhà doanh nghiệp. Các SME là một nơi sàng lọc đào tạo các nhà doanh nghiệp thông qua kinh nghiệm thực tiễn và kinh nghiệm tiếp thu lĩnh vực có thể phát triển được của mình.
Với vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế như vậy, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế để góp phần cải thiện cán cân thương mại Việt Nam trong thời gian qua, các SME đã không ngừng tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cho khu vực này nói riêng và cả nước nói chung. Để đạt được những kết quả đó, là sự nỗ lực của mỗi bản thân các doanh nghiệp.
2. Tính cấp thiết phải hỗ trợ XNK cho SME ở Việt Nam
Từ nay đến năm 2005, ở nước ta với xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, mở rộng xuất khẩu và tăng cường nhập khẩu nhằm phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế là con đường thực hiện thành công công nghiệp hoá đất nước.
Tình hình chung
- Hệ thống quota xuất khẩu trong quan hệ thương mại quốc tế có dự kiến sẽ bãi bỏ vào ngày 01/01/2005 theo thoả thuận của ngành dệt của tổ chức WTO.
- Việt Nam sẽ xoá bỏ hàng rào thương mại phi thuế quan và giảm thuế nhập khẩu xuống 5% hoặc thấp hơn cho phù hợp với quy định của AFTA vào ngày 01 tháng 01 năm 2006, hạn chế định lượng và kiểm soát ngoại hối, mở
rộng hơn con đường tiếp cận của bên ngoài và thị trơừng nội địa. Do đó công nghiệp thay thế nhập khẩu, chủ yếu là các doanh nghiệp được nhà nước bảo hộ sẽ chịu những tác động lớn.
- Khi Việt nam trở thành thành viên của WTO, chúng ta bắt buộc phải tuân thủ theo những hướng dẫn của WTO vào năm 2010 hoặc sau đó. Do vậy, Nhà nước cần tạo ra những cơ hội kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau. Điều đáng chú ý là các lợi ích mà hiện nay một số doanh nghiệp được độc quyền lúc đó sẽ bị xoá bỏ.
- Khó khăn lớn nhất đối với các SME là các doanh nghiệp này còn non trẻ làm thế nào để cạnh tranh trong điều kiện hội nhập để tồn tại và phát triển. Nói một cách cụ thể hơn, trong điều kiện thiếu vốn, công nghệ cũ kỹ, trình độ chuyên môn, tay nghề trình độ quản lý thấp phải chống chọi với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của thương mại điện tử, của công nghệ thông tin là một thử thách to lớn đối với các SME.
Như đã nêu ở trên, nếu SME bị bỏ lại đằng sau thì các doanh nghiệp nước ta khó có thể gánh vác được trọng trách của nó trong nền kinh tế Việt Nam vào năm 2005 và sau đó, khi mà các thử thách khốc liệt bắt đầu. Do đó, sự quan tâm hỗ trợ của nhà nước trong việc hoàn thiện một số chính sách cụ thể nhằm khuyến khích, hỗ trợ, phát triển SME như thị trường thông qua hợp đồng phụ, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, khuyến khích xuất khẩu, hình thành quỹ bảo lãnh tín dụng để khắc phục tình trạng thiếu vốn, ưu đãi về thuế đối các SME mới khởi sự hoặc hoạt động trong lĩnh vực được khuyến khích trong điều kiện hội nhập kinh tế là một việc hết sức cần thiết.
Không những thế hỗ trợ cho các SME không chỉ có lợi cho doanh nghiệp mà còn có lợi cho cả Nhà nước và xã hội. Đó là những lợi ích cơ bản
sau:
- Hỗ trợ cho các SME là cách thức để nuôi dưỡng những nguồn thu cho ngân sách Nhà nước bởi vì thực tế số lượng SME chiếm chủ yếu trong các doanh nghiệp.
- Hỗ trợ SME là một hình thức đầu tư gián tiếp của Nhà nước. Bởi vì, thay vì Nhà nước đầu tư trực tiếp để thành lậph các doanh nghiệp nhà nước thì nay chuyển sang hỗ trợ các doanh nghiệp đã có, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Bằng việc hỗ trợ SME, Nhà nước cũng có thể giải quyết những vấn đề xã hội mà bất cứ Nhà nước nào cũng phải đương đầu. Đó là giải quyết nạn thất nghiệp, tạo việc làm rất hiệu quả với nguồn vố rất hạn hẹp của Nhà nước ( thay vì thành lập các doanh nghiệp nhà nước, thì số vốn có thể hỗ trợ cho rất nhiều các doanh nghiệp sẵn có - điều đó rõ ràng hiệu quả hơn).
- Thông qua các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, việc đầu tư phát triển sản xuất sẽ hiệu quả hơn vì huy động._.ỗ trợ chứ không trực tiếp thực hiện các hoạt động, chính các SME mới là hạt nhân. Nhà nước sẽ đưa ra các chủ trương, biện pháp giúp các SME hoạt động theo đúng mực tiêu chung đồng thời đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Điều tiết và hỗ trợ các doanh nghiệp ở những khâu cần thiết. Mỗi doanh nghiệp lại có những khó khăn, vướng mắc ở những khâu khác nhau vì vậy không thể đổ đông tất cả các doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp cần
hỗ trợ về vốn, có doanh nghiệp yếu ở khâu tìm hiểu thông tin thị trường,... như vậy vai trò của nhà nước là phải có một chiến lượng hỗ trợ bao quát nhưng lại phù hợp cho từng doanh nghiệp.
- Kiểm soát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bằng việc xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, chặt chẽ, tạo hành lang pháp lý cho SME hoạt động kinh doanh hiệu quả. Thông qua đó nhà nước có thể tiến hành kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp, giúp họ sản xuất kinh doanh công bằng.
Trên thực tế, SME có quá nhiều mối “quản”, các cơ quan chính quyền, các tổ chức xã hội, thậm trí các tổ chức đoàn thể... gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do vậy việc lập ra các cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước đối với SME là vấn đề cần thiết. Cần nghiên cứu xem xét để thành lập một cơ quan quản lý thống nhất thụôc cấp nhà nước đối với SME chứ không phân tán như hiện nay.
1.2. Đối sử công bằng giữa các khu vực kinh tế
Do vai trò to lớn của SME nên nhà nước Việt Nam cũng như Chính phủ nhiều nước rất quan tâm khuyến khích, có các chính sách và chương trình hỗ trợ phát triển SME rất đa dạng, phong phú. Mặc dù đã tạo ra khối lượng GDP lớn hơn, tạo tăng trưởng tốc độ kinh tế của đất nước, nhưng khu vực kinh tế tư nhân chưa được đối xử bình đẳng so với khu vực kinh tế quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vẫn bị kỳ thị, phân biệt đối xử nên chưa giải toả được tâm lý e ngại, không phát huy được năng lực của khu vực kinh tế này. Điều này thể hiện rất rõ khi nhiều doanh nghiệp SME chưa được tham gia XNK trực tiếp mà phải uỷ thác qua các công ty khác. Luật lệ đối với khu vực kinh tế tư nhân không rõ ràng, không ổn định, khong đồng bộ, thiếu tính thực tế, đang là trở ngại to lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo cơ hội cho những tiêu cực nảy sinh.
Các chuyên gia nhấn mạnh rằng, chỉ khi nào xác định rõ vai trò, vị trí của SME trong nền kinh tế thì các chính sách khuyến khích hỗ trợ mới thực
sự có hiệu quả. Lâu nay do quan điểm không thông suốt về vấn đề này mà hàng loạt các vướng mắc kéo dài về cơ chế, vốn, đất đai, thuế, đào tạo của SME chưa được giải quyết thấu đáo, gây tâm lý thân phận “con nuôi” đối với các chủ doanh nghiệp. Vì thế phải khắc phục ngay cả trong nhận thức, cách đặt vấn đề cũng như trong các văn bản pháp luật và hoạ động thực tiễn của bộ máy hành chính Nhà nước.
1.3. Đổi mới hoạt động hỗ trợ tín dụng cho SME để có vốn tham gia vào XNK
Trong những năm vừa qua, hoạt động hỗ trợ tín dụng đã đạt được những kết quả đáng mừng, tuy vậy, đó mới chỉ xảy ra đối với các DNNN còn các SME vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Để tạo ra sự công bằng giữa các doanh nghiệp, cần có một cơ chế, chính sách tín dụng hợp lý, phù hợp với thực tế ở nước ta hiện nay.
Trong thời gian sắp tới, cần chú ý một số giải pháp đổi mới chính sách tín dụng nhằm hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển của SME nói chung và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Chính sách tín dụng trong việc giải quyết khó khăn về vốn trong việc sản xuất kinh doanh xuất khẩu.
Bên cạnh khó khăn về thông tin, các SME cũng đang gặp khó khăn rất lớn về vốn để sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Theo MPDF thì 80% SME dựa vào nguồn tiết kiệm của mình hoặc vay từ bạn bè người thân. Điều này đồng nghĩa với lãi suất lớn hơn lãi suất của ngân hàng, trong khi đó quỹ hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước chưa đáp ứng được nhu cầu này từ các doanh nghiệp. Vì vậy, nhằm giúp các SME tiếp cận được nguồn vốn trung hạn và dài hạn bằng cách tạo ra một "sân chơi bình đẳng" để tất cả các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn tín dụng hỗ trợ này đều tuân thủ những thể lệ giống nhau cần xem xét để: sửa đổi và ban hành các Luật, các quy định nhằm xây dựng một khung pháp luật toàn diện và hiện đại tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các SME vay tín dụng ưu đãi như vấn đề thực hiện và thực thi tài sản cầm cố thế chấp. Ngoài ra, để hỗ trợ tín
dụng cho SME trong hoạt động xuất nhập khẩu, Nhà nước có thể cho phép các Ngân hàng thương mại dành từ 20-25% tiền hoạt động tín dụng của mình để cho các SME vay.
Thứ hai: Hoạt động hỗ trợ tín dụng thương mại cho các SME.
Việc mở thư tín dụng thương mại bị hạn chế do yêu cầu phải đặt cọc trước một khoản tiền 0-80% trị giá L/C đã gây ra khó khăn không nhỏ trong hoạt động xuất khẩu. Chính vì vậy, cần phải có hoạt động tín dụng thương mại trong việc hỗ trợ xuất khẩu. Tuy nhiên, cũng cần phải xác định rõ từng loại hàng hoá xuất nhập khẩu, từng loại hình doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu để có biện pháp hỗ trợ tín dụng thương mại phù hợp.
Hoạt động hỗ trợ tín dụng thương mại được hình thành và hoàn thiện theo loại hình sau:
- Tín dụng thương mại hỗ trợ SME xuất khẩu hàng hoá. Đây là loại tín dụng do người nhập khẩu ứng trước cho người có hàng hoá xuất khẩu nhằm tạo điều kiện thuận tiện cho việc nhập khẩu hàng hoá. Vì vậy còn gọi là tín dụng nhập khẩu.
Để các SME xuất khẩu thuận tiện và có lợi, Nhà nước cần hỗ trợ tín dụng thương mại xuất khẩu hấp dẫn đối với nhà nhập khẩu nước ngoài, sao cho họ ứng vốn trước cho các nhà xuất khẩu Việt Nam, song các nhà xuất khẩu Việt Nam không ở vào thế bị chèn ép, bất lợi như ràng buộc về thời hạn trả, giao hàng xuất khẩu, lãi suất cao hoặc vi phạm hợp đồng xuất khẩu(nếu có) với tỷ lệ cao,..Muốn vậy, điều kiện quan trọng ràng buộc pháp lý là Nhà nước phải có khung luật pháp rõ ràng với những quy phạm pháp luật chặt chẽ cho cả hai bên xuất khẩu và nhập khẩu.
- Tín dụng thương mại hỗ trợ cho SME nhập khẩu hàng hoá. Đó là loại tín dụng do người xuất khẩu ứng trước cấp cho nhà nhập khẩu để tăng cường khả năng xuất khẩu hàng hoá của nhà xuất khẩu. Do vậy còn gọi là tín dụng xuất khẩu.
Thực chất đây là quan hệ tín dụng mua bán chịu. Thời hạn thanh toán phụ thuộc vào thoả thuận của hai bên. Song các quốc gia vẫn thường can
thiệp bằng pháp luật để tránh rủi ro cho các nhà xuất nhập khẩu. Mỗi quốc gia có quy định thời hạn thanh toán khoản tín dụng này rất khác nhau, từ 1 đến 3 tháng (ở Anh, Pháp), trong khi ở Mỹ quy định 180 ngày, còn ở Nhật Bản là 6 tháng đến 1 năm thậm chí tới 720 ngày.
Với Việt Nam, SME rất cần nhập khẩu, trong khi chúng có rất ít khả năng để thanh toán cho các nhà xuất khẩu nước ngoài. Nhằm đảm bảo tạo điều kiện khả năng nhập khẩu cho SME, tạo luồng thông tin cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ tín dụng cho SME nhập khẩu hàng hoá thiết bị, nguyên vật liệu, công nghệ...cần thiết. Hỗ trợ với tỷ lệ lãi suất ưu đãi- tuỳ loại.
Thứ ba: Mở rộng, phát triển thị trường thuê mua.
Trong điều kiện hiện nay, trong việc hỗ trợ các SME thúc đẩy xuất khẩu, thì Nhà nước mở rộng hình thức tín dụng thuê mua hỗ trợ cho các doanh nghiệp này. Loại hình tín dụng thuê mua này là biện pháp thay thế vốn ngân hàng. Tín dụng thuê mua có đặc điểm của hoạt động tín dụng, nhưng các SME ít vốn có thể vay vốn tín dụng mà không phải thế chấp để tiến hành ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu cũng như sản xuất hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, các tổ chức thuê mua sẽ hỗ trợ, đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật cho người thuê để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu.
Tóm lại, hỗ trợ tín dụng đối với các SME là một yêu cầu khách quan, rất cấp bách hiện nay, nhưng để hoạt động có hiệu quả, đòi hỏi sự tác động đồng bộ của các loại chính sách hỗ trợ khác. Cần có sự phân loại, tập trung hỗ trợ cho SME thuộc khu vực ngoài quốc doanh có tính hiệu quả và thiết thực, tạo ra một môi trường thuận lợi cho các SME hoạt động.
1.4 Tiếp tục đổi mới chính sách thuế theo hướng hỗ trợ cho SME.
Mặc dù, chính sách thuế trong thời gian qua đã có sự hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và SME nói riêng. Nhưng thực sự vẫn chưa khuyến khích SME. Trong thời gian tới chính sách thuế tiếp tục đổi
mới đảm bảo sự công bằng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, không phân biệt kinh tế ngoài quốc doanh với kinh tế quốc doanh.
Chính sách thuế phải xác định đúng đối tượng được ưu đãi, cho đến nay, trong các chính sách thuế của Nhà nước, loại đối tượng được ưu đãi thường mang tính chính sách xã hội như: ưu đãi các doanh nghiệp ở miền núi, hải đảo, một số doanh nghiệp trong ngành chế biến nông sản. Trong chính sách thuế, chưa quan tâm ưu đãi theo quy mô, chưa tạo điều kiện để SME vượt lên sự yếu ớt của họ để đứng vững và kinh doanh có hiệu quả. Do đó, trong chính sách thuế ưu đãi hỗ trợ cho các doanh nghiệp cần xác định đúng đối tượng và tiêu thức ưu đãi, thực hiện theo quy mô để hỗ trợ cho các SME ngoài quốc doanh kinh doanh xuất nhập khẩu.
Tăng mức ưu đãi cho các SME, trong thời gian qua, mức ưu đãi còn rất dè dặt, chỉ miễn giảm thuế cho SME 1- 2 năm (trong khi các nước khác là 4-5 năm. Miễn thuế cho SME đầu tư công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch, đầu tư vào sản xuất các sản phẩm mới xuất khẩu. Đối với các ngành chế biến thuỷ sản xuất khẩu, việc thuế khấu trừ 5% đối với đầu vào nguyên liệu chỉ khuyến khích doanh nghiệp mua bán nguyên liệu, thì trong thời gian tới có thể đổi mới thành hai mức: 3% đối với hàng có chứng từ, 2% đối với hàng không có chứng từ nhưng phải lập bảng kê. Bên cạnh đó, thời hạn 3 tháng chờ thoái thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp là quá lâu làm cho "mất sức" các SME. Do đó, cần có biện pháp tích cực hơn để hỗ trợ trong thời gian tới. Giảm đáng kể các mức thuế suất cao, làm lành mạnh hoá trong cơ cấu thuế theo hướng giảm dần tỷ trọng thuế xuất nhập khẩu và tăng dần tỷ trọng thuế trực thu, nhất là thuế thu nhập cá nhân. Chính sách thuế đổi mới phải đảm bảo tính ổn định trong một thời gian tối thiểu là hai năm, ngoài ra còn cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan hải quan và các cơ quan tài chính nhằm tránh tình trạng xấu xảy ra trong công tác hoàn thuế (Một ví dụ cụ thể: Do việc trao đổi thông tin giữa cơ quan thuế và cơ quan hải quan kém, nên nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các SME đã nộp thuế nhưng vẫn bị các cơ
quan hải quan "cưỡng chế nhầm" vì cơ quan tài chính vẫn chưa thông báo cho hải quan biết doanh nghiệp đã hoàn thành nghĩa vụ thuế7.
Nhìn chung, chính sách thuế đối với SME cần được đặt trong hệ thống chính sách hỗ trợ SME nói chung, tạo nên sự tổng hợp thúc đẩy sự phát triển của SME trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở nước ta.
1.5 Thành lập các Quỹ hỗ trợ SME trong hoạt động kinh XNK:
Hiện nay tại Việt Nam, tài trợ xuất khẩu vẫn chưa được quan tâm đúng mức, các hệ thống bảo hiểm thương mại và tín dụng xuất khẩu chưa hoạt động một cách có hiệu quả. Do vậy, khu vực SME vẫn phải phụ thuộc vào thư tín dụng trả chậm và hoạt động tài trợ thông thường. Để mở rộng các cơ hội xuất khẩu, cần phải có sự bảo đảm về tài trợ xuất khẩu và quỹ phục vụ nhu cầu về vốn.Trong năm 1999, Bộ tài chính và Ngân hàng nhà nước đã công bố đề xuất thành lập Quỹ tín dụng xuất khẩu. Căn cứ vào Nghị định 51/NĐ-CP ban hành vào tháng 7/1999, việc thành lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu đã được công bố.
Nhưng việc sử dụng Quỹ hỗ trợ này đối với SME vẫn gặp nhiều khó khăn: có doanh nghiệp làm đơn xin vay từ Quỹ tín dụng xuất khẩu, sau 14 tháng chờ đợi, vẫn không có hồi âm gì8. Do vậy, trong thời gian tới Nhà nước nên thành lập và triển khai rộng rãi thêm các quỹ hỗ trợ SME như:
Thứ nhất: Thành lập và triển khai rộng rãi mô hình "Quỹ bảo lãnh tín dụng SME" nhằm hỗ trợ cho SME có điều kiện tiếp cận với các ngân hàng và vay bảo lãnh ở ngân hàng. Quỹ này giúp cho SME không đủ tài sản thế chấp vay vốn của các tổ chức tín dụng, và hoạt động không vì mục đích lợi nhuận trên nguyên tắc bảo toàn vốn, tự bù đắp chi phí và được miễn các khoản thuế. Thực tế cho thấy Quỹ bảo lãnh tín dụng SME được thực hiện thành công ở một số nơi mà điển hình là trung tâm tư vấn SME Bắc Giang.
Với nguồn vốn 100.000 USD do Đức tài trợ, trung tâm đã thực hiện hơn 40 lượt vay trong 4 năm từ 1994-1998 với tổng số vốn cho vay lớn gấp 3
lần vốn của Quỹ. Khoản vay lớn nhất là 80 triệu đồng và ít nhất là 30 triệu
7 Theo báo cáo của MECANIMEX SAIGON trong buổi gặp mặt với thủ tướng Chính phủ (3/2000)
8 Theo thời báo Sài Gòn, số 13-2001 ngày 25/3/2001, trang11
đồng trong thời hạn từ 1 năm đến 3 năm. Nên chăng mô hình này được nhân rộng trong toàn quốc dựa trên điều kiện cụ thể của từng vùng.
Thứ hai: Nhà nước có thể thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm hỗ trợ SME trong việc tiếp cận các nguồn vốn đầu tư giúp các SME trong việc sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Hiện đã có 6 Quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động ở Việt Nam với tổng vốn đầu tư là 68 triệu USD. Tuy nhiên, các quỹ này mới chi hỗ trợ 18 triệu USD cho các SME. Đó là các quỹ Beta, Veil, Vietnam Frontier, và Quỹ Việt Nam, còn hai Quỹ Lazard và Templeton đã chuyển trọng tâm hoạt động sang các nước trong khu vực. Ngoài ra, Chính phủ cần có biện pháp nhằm tạo điều kiện về mặt tài chính cho SME như trợ cấp vốn không hoàn lại cho các dự án của SME ở các vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, các lĩnh vực độc hại...
Thứ ba: Trong điều kiện hiện nay thành lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu cho SME là cực kỳ cần thiết.
Hầu hết các quốc gia bên xuất khẩu đều có hệ thống bảo hiểm xuất khẩu do Chính phủ bảo trợ mà trong đó bên xuất khẩu có thể mua bảo hiểm rủi ro tín dụng và các rủi ro khác của bên nhập khẩu và ngược lại. Các nghiệp vụ bảo hiểm cần được nghiên cứu áp dụng bao gồm: bảo hiểm xuất khẩu toàn diện, trong đó bên xuất khẩu được bảo hiểm từ khi ký kết hợp đồng xuất khẩu đến khi thanh toán xong; bảo hiểm hoá đơn xuất khẩu, các tổ chức bảo hiểm sẽ bảo vệ quyền lợi của bên xuất khẩu khi bên nhập khẩu không chịu thanh
toán.
Thứ tư: Nhà nước có thể triển khai và khuyến khích các hiệp hội ngành nghề thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu (có sự tham gia của đối tác nước ngoài). Quỹ này sẽ cấp tín dụng ưu đãi hoặc bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp đã có hợp đồng xuất nhập khẩu. Nhà nước cũng có thể tổ chức riêng Ngân hàng phá triển SME, mọi hoạt động của Ngân hàng này nhằm đáp ứng hỗ trợ cho SME trong sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu.
Thành lập các Quỹ hỗ trợ xuất khẩu nhằm hỗ trợ cho các SME trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là rất cần thiết mà Nhà nước cần quan tâm chú ý đến.
2. Kiến nghị đối với các Bộ ngành
2.1 Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại đối với SME
Đây là một hoạt động thiết thực, ý nghĩa nhất trong tình hình thương mại Việt nam hiện nay, nhờ nó các SME có thể có được cơ hội thu thập thông tin các loại cần thiết cho mình về thị trường, giá cả, cung cầu, mẫu mã, chất lượng, chủng loại sản phẩm hàng hoá, cả trong lẫn ngoài nước. Xúc tiến thương mại là một điều kiện quan trọng để hỗ trợ cho SME hoạt động xuất nhập khẩu một cách có hiệu quả. Xúc tiến thương mại được thực hiện bằng nhiều phương thức quy mô khác nhau.
- Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các SME ra nước ngoài, kể cả các đoàn cấp cao của Đảng, Nhà nước để thâm nhập thị trường, tiếp cận cơ hội xuất khẩu, phát triển kinh doanh;
- Phối hợp và hỗ trợ các SME thực hiện chiến lược maketing cho từng ngành hàng, mặt hàng quan trọng và tham gia các hội trợ, triển lãm và các hoạt động xúc tiến thương mại khác ở nước ngoài.
- Có cơ chế tiếp xúc và tham vấn định kỳ giữa Bộ thương mại và các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề về các vấn đề có liên quan đến xuất nhập khẩu.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến thương mại cho các Sở thương mại và các doanh nghiệp. Mở rộng các quan hệ hợp tác đa phương và song phương với nước ngoài trong công tác xúc tiến thương mại.
- Bước đầu xây dựng cơ sở pháp lý cho thương mại điện tử, tổ chức
đào tạo nhân lực trong lĩnh vực này.
Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và đặc biệt là các SME nói riêng tiến hành xuất nhập khẩu đã gặp phải không ít những khó khăn về thị
trường nước ngoài, về đối tác nước ngoài,...do đó, hỗ trợ các SME đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại là cần thiết.
2.2 Xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ xuất nhập khẩu.
Thông tin thị trường là một trong những nhân tố quan trọng đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Cho đến nay, tại Việt Nam vẫn còn ít những trung tâm thông tin hỗ trợ xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp. Việc tìm hiểu các thông tin về thị trường, luật pháp của các nước khác đối với SME là điều hoàn toàn khó khăn. Hệ thống thương vụ của Việt Nam tại các quốc gia hoạt động chưa có hiệu quả để cung cấp những thông tin thị trường và quy định thương mại của nước đó.
Việc xây dựng và khuyến khích thành lập các trung tâm thông tin hỗ trợ xuất khẩu một cách thông suốt từ các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, Bộ thương mại đén các Sở thương mại và các doanh nghiệp là việc mà Nhà nước nên xem xét xúc tiến khẩn trương trong thời gian tới. Biện pháp này sẽ được thay thế đắc lực và hiệu quả cho biện pháp định hướng sản phẩm xuất khẩu, trợ giá xuất khẩu mà Nhà nước vẫn thực hiện cho đến nay. Các trung tâm này có thể do một hiệp hội ngành nghề hoặc do Tổ chức chức phi chính phủ thành lập, Nhà nước có thể hỗ trợ một phần tài chính, đặc biệt trong thời gian đầu, phần còn lại là thu lệ phí từ các doanh nghiệp.
Các trung tâm này tổ chức tốt việc thu thập, xử lý và cung cấp định kỳ hàng năm, hàng quý các ấn phẩm về thị trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp. Ngoài việc cung cấp thông tin theo phương thức hỗ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp, cần thực hiện thương mại hoá thông tin và áp dụng các phương thức linh hoạt khác nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể, kịp thời cho SME.
2.3 Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế giới.
Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế giới là biện pháp cần thiết để giúp doanh nhiệp tìm kiếm và mở rộng thị trường của mình. Không có sự hỗ trợ của Nhà nước, SME khó có thể có điều kiện để tham dự những hội trợ, triển lãm ở nước ngoài. Cho đến nay, thông qua một số dự án, Nhà
nước đã hỗ trợ một phần tài chính cho doanh nghiệp trong việc tham gia các cuộc triển lãm, hội trợ quốc tế.
Tuy vậy, biện pháp này cần được mở rộng cả về phạm vi lẫn hình thức hỗ trợ. Ví dụ: hỗ trợ thêm một phần tài chính nếu doanh nghiệp ký kết được hợp đồng cho sản phẩm mới hoặc thị trường mới, khấu trừ một phần thuế thu nhập doanh nghiệp theo một tỷ lệ nhất định với chi phí tham dự triển lãm, hội trợ ở nước ngoài.
Bên cạnh đó, Nhà nước có thể khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng ở nước ngoài mạng lưới đại lý, phân phối hàng, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày sản phẩm; áp dụng các phương thức mua bán linh hoạt như gửi bán, thanh toán chậm, đổi hàng phù hợp với từng mặt hàng, từng thị trường.. Đây là biện pháp đối với khả năng của các SME hiện nay là cực kỳ khó khăn, nhưng cũng nên áp dụng dần dần để sau này sẽ hiệu quả hơn trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp này xuất khẩu.
2.4 Tăng cường hỗ trợ khả năng cạnh tranh cho SME trên thị trường thế giới.
Khả năng cạnh tranh là mối quan ngại đầu tiên của tất cả những ai quan tâm đến sự phồn vinh của nền kinh tế nước nhà, đặc biệt là khả năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu có vai trò quyết định trong sự phát triển kinh tế. Trong khi các SME ngoài quốc doanh vẫn chưa sẵn sàng cạnh tranh với các hãng nước ngoài một khi Việt Nam tham gia quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá. Điều đáng lưu ý là cạnh tranh hiện nay là một trong những vấn đề lớn nhất, không chỉ đối với những hãng lớn mà còn đối với các hãng nhỏ.
Nói đến khả năng cạnh tranh người ta thường nói đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giá cả...xem xét trong mối tương quan so sánh với các doanh khác. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào khả năng cạnh tranh. Vì vậy, nâng cao khả năng cạnh tranh phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và SME nói riêng.
Các SME trông chờ vào khả năng cạnh tranh xuất khẩu sẽ tăng lên nhờ cắt giảm thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, một số doanh nghiệp cũng có ý kiến cho rằng sẽ không ảnh hưởng gì do cạnh tranh mạnh trong nước hoặc do mối quan hệ lỏng lẻo giữa xuất khẩu và nhập khẩu với các nước ASEAN.
Trong thời gian tới, có thể tăng cường hỗ trợ khả năng cạnh tranh cho SME bằng việc khuyến khích hỗ trợ cải tiến công nghệ và trang thiết bị thông qua trợ giúp xúc tiến nghiên cứu và phát triển kỹ thuật. Tuy nhiên, nếu chỉ cải tiến công nghệ, trang thiết bị thì chưa đủ bởi vì với những trang thiết bị như nhau nhưng hai doanh nghiệp vẫn có thể có năng suất lao động khác nhau, hay nói cách khác là khả năng cạnh tranh khác nhau. Do đó, bên cạnh sự hỗ trợ đó thì Nhà nước cần phải quan tâm đến vấn đề hỗ trợ tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động, hỗ trợ đào tạo cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu giúp SME, hỗ trợ tư vấn quản lý cho các SME. Sự hỗ trợ này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho SME tiến hành áp dụng phương thức quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9000, và các tiêu chuẩn khác. Bởi vì đây chính là giấy thông hành cho các SME đưa sản phẩm của mình ra thị trường thế giới trong thời gian tới.
Ngoài ra, chính sách hỗ trợ sản phẩm và sản phẩm xuất khẩu giúp đỡ các SME nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của mình trên thương trường. Trong thời gian qua, các sản phẩm xuất khẩu của SME mới chỉ dựa trên lợi thế cạnh tranh "tĩnh". Hầu như các SME ở Việt Nam mới đang dừng lại ở chỗ có gì gọi là thế mạnh đem chào bán. Vì thế, chính sách sản phẩm trong thời gian tới cần có sự quan tâm sát sao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu là phải tạo ra lợi thế cạnh tranh "động" cho các mặt hàng xuất khẩu.
3. Kiến nghị đối với các nhà quản lý doanh nghiệp
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, nhà quản lý nào biết tạo dựng một chiến lược để phát triển lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm, dịch vụ của mình và thực hiện hiệu quả chiến lược đó thì doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và
phát triển, nếu không thì sẽ thất bại. Lợi thế cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp được hiểu là khả năng sản xuất, cung ứng ra thị trường những sản phẩm, dịch vụ tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Cụ thể, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được xem xét trên bốn khía cạnh:
- Sự linh hoạt: Khả năng đáp ứng nhu cầu khác nhau của khách hàng, ví dụ: chủng loại, cách thức, cung ứng dịch vụ đi kèm...
- Chất lượng của sản phẩm, dịch vụ: đặc tính kỹ thuật, độ tin cậy, dịch vụ hậu mãi, kiểu dáng,...
- Tốc độ phản ứng trên thị trường: thời gian từ khi khách hàng đặt hàng cho đến khi được phục vụ, tốc độ phát triển sản phẩm mới,...
- Chi phí: chi phí sản xuất của doanh nghiệp thấp hơn của đối thủ cạnh
tranh.
Doanh nghiệp muốn đạt được các lợi thế cạnh tranh này cần phải có ba
nguồn lực quan trọng: nhân lực, vốn, công nghệ. Nguồn nhân lực tham gia trực tiếp toàn bộ quá trình đánh giá, lựa chọn và phát triển lợi thế của doanh nghiệp.
Qua hoạt động XNK, các doanh nghiệp phải đương đầu với sự cạnh tranh trên thị trường thế giới trong bối cảnh toàn cầu hoá, các nhà quản lý doanh nghiệp cần phải có trình độ, biết đưa ra những giải pháp cho doanh nghiệp của mình như:
- Mặt hàng sản cuất ra phải đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, với các
DNNN có thế mạnh là mặt hàng phong phú đa dạng.
- Mặt hàng phải có khả năng cạnh tranh để XK, đúng quy cách, phẩm chất khi XK đòi hỏi cao hơn và giá cả phải hợp lý, đôi khi phải thấp hơn so với những mặt hàng tương tự nhưng do các doanh nghiệp lớn sản xuất.
- Có kiến thức kinh doanh XNK, kinh nghiệm quản lý và tổ chức, thiết lập được các mối quan hệ bạn hàng rộng rãi, nắm bắt được những thông tin thiết thực phục vụ cho công tác kinh doanh của mình.
- Tránh sự cạnh tranh không bình đẳng, chèn ép lẫn nhau nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong kinh doanh XNK. Nâng cao sự uy tín và độ tin cậy của doanh nghiệp mình với đối tác.
Trên đây là những kiến nghị chính nhằm hỗ trợ cho các SME ở Việt Nam trong thời gian tới phù hợp với tiến trình hội nhập khu vực và thế giới. Tất nhiên, còn rất nhiều những biện pháp mà Nhà nước cần phải hỗ trợ cho các SME như việc hỗ trợ SME thầu phụ các doanh nghiệp lớn, hỗ trợ lãi suất đầu tư, hỗ trợ cơ sở hạ tầng, hình thành "vườn ươm" cho SME ( Một loại hình hỗ trợ SME đang có xu hướng phát triển ở các nước trên thế giới, song chưa thực sự phát huy tác dụng ở nước ta. Một mô hình rất mới đối với Việt Nam). Tuy nhiên, để thúc đẩy phát triển xuất khẩu cho các SME bên cạnh sự hỗ trợ từ bên ngoài thì các cố gắng nỗ lực của bản thân doanh nghiệp là một nhân tố quyết định. Nếu các doanh nghiệp không tự cố gắng thúc đẩy sự phát triển của chính mình thì không có ai có thể thay thế họ, mọi sự hỗ trợ về chính sách và cơ chế của Nhà nước, của tổ chức hỗ trợ khác...chỉ là tạo điều kiện thuận lợi hơn cho SME phát triển sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Vì vậy, để gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu của khu vực SME cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa công tác hỗ trợ của Nhà nước và sự nỗ lực của bản thân từng doanh nghiệp.
Kết luận
Năm 2003, năm triển khai mạnh mẽ thực hiện các Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ IX, thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005 và chiến lược 10 năm phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 - Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp
hoá theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp.
Thành quả đạt được qua những năm đổi mới, nhất là 10 năm gần đây, đã tạo thế và lực mới; công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đã có những bước tiến cơ bản; các mặt xã hội, trình độ dân trí, chất lượng nguồn lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên; tình hình chính trị xã hội cơ bản được ổn định.
Những kết quả trên có sự đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay để phát huy vai trò của khu vực kinh tế này thì sự hỗ trợ của Chính phủ đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Qua phân tích thực trạng và tác động của các chính sách kinh tế đến hoạt động của các SME ở Việt Nam trong thời gian vừa qua có thể thấy được những tác động tích cực của những giải pháp mà Chính phủ đề ra. Tuy nhiên, trong thời gian tới, để tạo sự bình đẳng trong hoạt động xuất nhập khẩu giữa các loại hình doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Vì vậy, việc tiếp tục cải tạo và đổi mới các chính sách kinh tế nhằm hỗ trợ các SME đối với hoạt động xuất nhập khẩu là một vấn đề cấp bách hiện nay.
Thị trường XNK hàng hoá chắc chắn sẽ còn sôi động hơn rất nhiều trong thời gian tới, liệu các SME có tận dụng được thời cơ và đương đầu với những thách thức phía trước hay không, câu trả lời nằm ngay chính các doanh nghiệp. Hy vọng rằng cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, các Bộ ngành, các tổ chức trong và ngoài nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ tìm được chỗ đứng vững chắc cho riêng mình.
Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2003.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TW, Đánh giá tổng kết Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân và Nghị định 66/HĐBT, Hà Nội 4/1999
- Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TW, Báo cáo kinh tế Việt Nam 2002
- Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TW, Khuyến khích đầu tư và phát triển kinh tế, Hà Nội/1994
- Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TW, Kết quả điều tra hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam và một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu
- CIEM - MPDF, Tài liệu hội thảo về các dịch vụ phát triển kinh doanh tại
Việt Nam, 4/2001
- FES - Hội Hữu Nghị Việt Đức TW, Các tập kỷ yếu hội thảo về DNV&N
- MPDF, Các báo cáo trong chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân
- Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê các năm 1999, 2000, 2001
- Dự án VIE/97/016, Dự thảo báo cáo điều tra doanh nghiệp, Hà Nội 5/2000
- Dự án US/VIE/95/004 (Lê Đăng Doanh, J. Bentley, Nguyễn Đình Cung, Trần Kim Hào, Trần Đình Thái, Lê Viết Thái, Hoàng Văn Thành, Phan Nguyên Toàn) Báo cáo nghiên cứu hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô và đổi mới các thủ tục hành chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của DNV&N tại Việt nam, Hà Nội 1/2000
- Chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan, Đề án " Đánh giá vai trò của các hình thức huy động vốn phi chính thức trong phát rtiển các DNV&N ở Việt Nam", Trần Kim Hào,1996
- Nguyễn Cúc, Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển DNV&N ở
Việt Nam đến năm 2005, NXB Chính trị Quốc gia, 2000
- Lê Văn Tư, Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ- NXB Thống kê, 2001
- Phạm Thái Quốc, Kinh tế Đài Loan - tình hình và chính sách, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội/1999
- Biện pháp đề xuất nhằm tăng khả năng tiếp cận tín dụng chính thức cho các DNV&N - Tin kinh tế - xã hội, số 48/2000
- DNV&N ngoài quốc doanh cần có "sự tiếp" sức cần thiết - Tạp chí
Thương Mại số 57/2001
- Hiện trạng phát triển của khu vực tư nhân- Tạp chí Kinh tế xã hội,2001 số 46
- Hỗ trợ tài chính cho DNV&N của Đài Loan - Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Hà Nội, 2001 số 37
- Quỹ đầu tư và thành lập quỹ đầu tư tại Việt Nam- Tạp chí Ngân hàng số 6, 2002
- Các giải pháp về kinh tế- tài chính để DNV&N phát triển- Tạp chí
Cộng sản số 19
- Doanh nghiệp tư nhân cái nhìn bi quan- Thời báo ngân hàng, Hà Nội,
11/2001
- Tín dụng xuất khẩu hình thức áp dụng vào Việt Nam- Tạp chí thị
trường tài chính - tiền tệ Hà Nội, 2001 số 5
- Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu- làm gì để tăng thị phần, Báo thương mại, Hà Nội 5/2001 số 20
- Dự án hợp tác nghiên cứu Việt Nam - Nhật Bản: Hội thảo về chính sách phát triển kinh tế, Hà Nội 8 - 9/12/2001
- Một số bài báo tham khảo đượ rút ra từ các báo Đầu tư, Thời báo Kinh tế, Lao động, Hải quan, Tài chính,...
DANH MỤC VIẾT TẮT
1. SME : Doanh nghiệp vừa và nhỏ
2. MPDF : Chương trình Phát triển Dự án Mêkông
3. OECD : Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
4. DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
5. DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
6. DNFDI : Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
7. Công ty TNHH: Công ty trách nhiệm hữu hạn
8. Cty CP : Công ty Cổ phần
9. CIEM : Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế TW
10. XNK : Xuất nhập khẩu
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8386.doc