Hỗ trợ xuất khẩu trong khuôn khổ thanh toán tín dụng chứng từ ở Sở Giao dịch 1 Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) VN

Lời mở đầu “Hội nhập” và “phát triển” là hai cụm từ liên tục được nhắc đến gần đây. Có thể nói hai hoạt động này luôn gắn liền với nhau và là xu hướng chung của toàn thế giới. Một đất nước muốn phát triển thì phải hội nhập và muốn hội nhập thì phải là một nước có nền kinh tế phát triển và nước ta cũng phải vậy. Một trong các cách thức để có thể hội nhập đó là xuất khẩu (XK). XK luôn được Đảng và nhà nước khẳng định là định hướng cơ bản trong phát triển kinh tế VN. Song thực tế, trong những năm

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hỗ trợ xuất khẩu trong khuôn khổ thanh toán tín dụng chứng từ ở Sở Giao dịch 1 Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
qua đầu tư cho XK không đáng kể so với đầu tư cho ngành sản xuất hàng thay thế nhập khẩu. Vậy mà VN vừa mới kí Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ, sắp tham gia vào AFTA và đang xin gia nhập vào WTO. Liệu chúng ta có thể nắm bắt được những cơ hội mà cũng là thách thức lớn này không, chúng ta sẽ tiếp tục phát triển dựa vào những thế mạnh của mình hay là bị “đè bẹp”. Để cho XK VN có thể phát triển ta không thể không nhắc tới vai trò của NH - một nhân tố trung gian quan trọng trong quá trình XK. Bất kỳ một DN XK nào cũng phải cần đến NH như một “người mẹ đỡ đầu” về mọi mặt: tư vấn, thanh toán quốc tế (TTQT), tín dụng, bảo hiểm... Trong đó, phương thức TTQT luôn là điều kiện quan trọng và không thể thiếu được của bất kì một hợp đồng ngoại thương nào. Muốn hỗ trợ XK, NH phải phát triển nghiệp vụ này. Nhưng làm sao để có thể thực hiện được? Theo em để vừa hoàn thiện nghiệp vụ này vừa có thể hỗ trợ XK, ta cần phải tìm kiếm và thoả mãn mọi yêu cầu của DN XK đến TTQT tại NH, cần phải đẩy mạnh dịch vụ bên cạnh hoạt động thanh toán của NH. Đã nói đến TTQT, ta cũng phải nhắc đến phương thức thanh toán ưu việt và chiếm ưu thế hiện nay ở VN – TT tín dụng chứng từ (TDCT). ý định của em là phát triển TTQT qua phương thức này. Sở giao dịch I NHĐT&PT là một trong những cánh tay đắc lực của NHĐT&PT VN, đã có những bước phát triển mạnh mẽ xứng đáng với vai trò của mình. Qua thời gian thực tập ở Sở em nhận thấy TTQT ở đây cần được quan tâm hơn nữa để cho SGD có thể tiếp cận đến một thị trường mới đó là thị trường các DN XK, một thị trường đầy triển vọng trong những năm tới. Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Hỗ trợ XK trong khuôn khổ thanh toán tín dụng chứng từ ở Sở giao dịch I NHĐT&PT VN”. Gồm các phần sau: Chương I: Những vấn đề cơ bản về hỗ trợ XK trong khuôn khổ TT TDCT Chương II: Tình hình hỗ trợ XK trong khuôn khổ TT TDCT ở SGD I NHĐT&PT . Chương III: Giải pháp hỗ trợ XK trong khuôn khổ TT TDCT ở SGD I NHĐT&PT. Hỗ trợ XK vốn là một vấn đề rộng lớn, mang tầm vĩ mô, trong quá trình thực hiện còn nhiều tranh cãi. Mà lại được đưa vào khuôn khổ của một NH. Vì vậy, bài luận này không thể không tránh khỏi nhiều thiết sót về hình thức cũng như nội dung. Em rất mong được sự góp ý, phê bình của thầy cô và bạn đọc. Thông qua đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Thạc sỹ Đặng Ngọc Đức người nhiệt tình chỉnh sửa cho em từ đề cương, chuyên đề đến luận văn hoàn chỉnh. Đến tập thể các anh chị phòng TTQT cũng như toàn bộ anh chị, cô chú ở SGD I NHĐT&PT VN đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em về nghiệp vụ. Em cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo ở khoa NH – TC đã giảng dạy cho em kiến thức để hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Sinh viên thực hiện Phạm Hà Thanh Chương I: Những vấn đề cơ bản về hỗ trợ Xuất khẩu Trong khuôn khổ thanh toán bằng Tín dụng chứng từ 1. 1- Ngân hàng thương Mại (NHTM) và sự hỗ trợ xuất khẩu (XK) . 1. 1. 1. Khái niệm và nghiệp vụ cơ bản của NHTM. NHTM xuất hiện trước khi có chủ nghĩa tư bản, nó được hình thành từ những thương nhân làm nghề kinh doanh tiền tệ. Tính chất vô danh của đồng tiền khiến cho những người kinh doanh tiền tệ có thể chuyển từ việc chỉ giữ hộ tiền (vàng) sang đổi hộ tiền, vận chuyển hộ tiền và dần dần khi họ tích luỹ được một số vốn nhất định họ sẽ tiến hành cho vay lấy lãi. Lúc này việc giữ hộ tiền thu lệ phí chuyển sang hoạt động huy động vốn phải trả lãi để khuyến khích, động viên số vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Đồng thời họ tiến hành nghiệp vụ thanh toán hộ khách hàng. Khi cả ba nghiêp vụ nợ (huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay) và nghiệp vụ trung gian (thanh toán, thực hiện các dịch vụ ...) được hình thành thì lúc đó ngân hàng (NH) thực thụ đã xuất hiện. Như vậy có thể nói NHTM là một tổ chức kinh tế mà hoạt động thường xuyên của nó là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện một số dịch vụ cho khách hàng. Xuất khẩu (XK) và sự cần thiết của xuất khẩu trong nền kinh tế hiện đại. Nói đến XK ta không thể nói đến thương mại quốc tế. Đó là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán. Là một phần của thương mại quốc tế, XK là hoạt động kinh doanh bán hàng hoá, dịch vụ của một nước sang các nước còn lại trên thế giới. Trong quá trình hội nhập và phát triển của toàn thế giới, thương mại quốc tế cũng như XK có tính chất sống còn của mỗi nước. Tại sao lại vậy? Đó là vì thương mại quốc tế nói chung và XK nói riêng tồn tại là một sự cần thiết khách quan trong nền kinh tế. Bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không chỉ dựa vào sản xuất trong nước mà còn dựa vào các giao dịch quan hệ với nước khác. Do khác nhau về điều kiện tự nhiên như tài nguyên thiên nhiên, khí hậu,... Nếu chỉ dựa vào nền sản xuất trong nước không thể cung cấp đủ những hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dụng như nguyên liệu, vật tư, máy móc, thiết bị, hàng tiêu dùng thiết yếu mà trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất được nhưng giá cả cao so với nhập. Vai trò XK đối với nền kinh tế là đem lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho đất nước; Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Tạo điều kiện cho các ngành kinh tế có cơ hội phát triển thuận lợi, đặc biệt các ngành kinh tế có thể khai thác một cách có hiệu quả các nguồn lực trong nước, XK tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất nâng cao nguồn lực sản xuất trong nước (vì nhu cầu sản xuất hàng XK có sức hút lợi nhuận nên khuyến khích ngành hàng phục vụ đầu vào cho XK phát triển); XK còn tạo tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tiến trang thiết bị sản xuất; XK đào tạo ra những nhà quản lý năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm vì sự canh tranh gay gắt của thị trường thế giới. .. Để thúc đẩy XK chúng ta không thể không nói đến việc hỗ trợ các Doanh nghiệp (DN) XK phát triển. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu về mối quan hệ giữa NH và DN XK. Vai trò của NHTM đối với doanh nghiệp (DN) Xuất khẩu (XK) và vai trò của DoaNH nghiệp xuất khẩu đối với nhtm. Vai trò của NHTM đối với DN XK NH là một tổ chức kinh doanh tiền tệ. Tiền vừa là nguyên liệu vừa là giá trị phản ánh hiệu quả kinh doanh của NH. Dưới nền kinh tế chỉ huy, mọi hoạt động của NH không có hiệu quả, các NHTM đứng ngoài sản xuất, tác động của tổ chức này tới nền sản xuất là rất yếu. Tuy nhiên dưới nền kinh tế thị trường, NH đóng vai trò ngày càng quan trọng, liệu nền kinh tế hiện nay của các nước trên thế giới có thể thiếu NH?. Đã xuất hiện nhiều căn bệnh hiểm nghèo do hậu quả của hoạt động không tốt của NH gây ra như: khủng hoảng, lạm phát,... Mặc dù vậy, NH vẫn giữ một vị trí hết sức to lớn trong nền kinh tế thị trường đặc biệt đối với các DN (và đặc biệt hơn nữa đối với DN XK). Cụ thể là: NH tạo ra tín dụng giúp cho nhà kinh doanh có điều kiện mở rộng sản xuất, kinh doanh. Trên cơ sở nguồn tiền nhàn rỗi tạm thời chưa sử dụng phát sinh trong nền kinh tế mà NH huy động được, NH tiến hành phân phối cho nhu cầu của nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu về vốn để mở rộng quá trình tái sản xuất. Các DN hoạt động trong nền kinh tế hàng hoá luôn phải nâng cao trình độ khoa học kĩ thuật, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Phần lớn các DN khi mở rông sản xuất bao giờ cũng thiếu vốn. NH là nguồn cung cấp vốn bảo đảm đầy đủ nhu cầu của DN. Ngoài việc bổ sung vốn lưu động, NH còn cho vay đầu tư dài hạn, giúp cho họ hiện đại hoá các qui trình công nghệ. Như vậy NH là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. NH giúp cho các tổ chức sản xuất kinh doanh quản lý DN có hiệu quả. Đặc trưng cơ bản của tín dụng NH là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức. Qua lãi suất tín dụng, NH thúc đẩy các đơn vị phải hạch toán kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng vòng quay của vốn, giảm chi phí, tăng khả năng sinh lời để có thể trả lãi vay NH mà đơn vị vẫn có lãi. Mặt khác qua việc thẩm định NH chỉ quyết định cho vay đối với những đơn vị có khả năng hoàn trả cả vốn và lãi, đơn vị nào hoạt động có hiệu quả thì cho vay nhiều và ngược lại. Như vậy một đơn vị muốn vay vốn NH để sản xuất kinh doanh trước hết phải sắp xếp tổ chức sản xuất kinh doanh tốt mới lấy được lòng tin của NH. NH khích lệ sự tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh của DN. Lãi suất khích lệ các tổ chức kinh tế cũng như dân cư gửi tiền vào NH. Các nhà sản xuất kinh doanh muốn có lợi nhuận lớn phải tiết kiệm tối đa chi phí mới đảm bảo trả được lãi vay NH. Như vậy lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay đóng vai trò quan trọng trong tiết kiệm đầu tư và tiết kiệm tiêu dùng. NH góp phần tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho DN XK. NH góp phần chống lạm phát, ổn định tỷ giá và là một trong những công cụ quản lý Nhà nước có hiệu quả tạo nên sự công bằng và ổn định. Có hai con đường dẫn đến lạm phát, trong đó có một con đường qua lạm phát tín dụng. NH với các biện phảp của mình đã ngăn chặn lượng tiền thừa vào lưu thông, góp phần chống lạm phát. NH xác định được hướng đầu tư vốn, có biện pháp xử lý những biến động không hợp lý trong nền kinh tế, kiểm soát quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội. Ngoài ra, NH là cơ quan quản lý tiền tệ nên thông qua nghiệp vụ của mình, điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền nội tệ. ổn định tỷ giá sẽ giúp cho nhà XK giảm được rủi ro. NH giúp cho nền kinh tế phân bổ vốn giữa các vùng trong một quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Giữa các vùng trên lãnh thổ một quốc gia thường có sự phát triển kinh tế xã hội không đồng đều mà nguyên nhân chính là do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên. Các NHTM lúc này sẽ đứng ra điều hoà vốn từ nơi thừa (huy động mà không sử dụng hết) đến nơi thiếu đảm bảo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế vùng, xoá dần sự khác biệt giữa các vùng lãnh thổ về kinh tế và xã hội. NHTM là cầu nối giữa trong nước và thế giới bên ngoài, là một trung gian quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của DN XK. Trên cơ sở bản hợp đồng mua bán, người XK sẽ thực hiện giao hàng hoặc cung cấp dịch vụ, sau đó sẽ ký phát hối phiếu đòi tiền người nhập khẩu hoặc nhận được hối phiếu, séc của người nhập khẩu chuyển đến NH nước mình nhờ thu số tiền ghi trên các phương tiện thanh toán đó. Các NH này chuyển các phương tiện thanh toán cho các NH ở nước người nhập khẩu để thu hộ. Như vậy việc thanh toán giữa bất kỳ nước nào với nhau sẽ được thực hiện thông qua NH và vai trò của NH trong Thanh toán Quốc tế chính là chất xúc tác, là điều kiện đảm bảo cho các bên tham gia hoạt động XNK. Đồng thời NH cũng là một nhà tài trợ cho họ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế hiện đại do áp dụng những thành quả khoa học kỹ thuật (đặc biệt là công nghệ tin học), để có thể tồn tại và phát triển theo kịp tốc độ phát triển của thế giới, DN cần đổi mới, cần bám sát thị trường, nắm bắt thông tin kịp thời. Và NHTM chính là chiếc cầu nối giữa hoạt động sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước, cầu nối thông tin và cầu nối thanh toán giữa DN XK và đối tác. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển, NHTM đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc mở rộng xuất nhập khẩu hàng hoá, trong quá trình phát triển, hội nhập. Vai trò của DN XK đối với NH. DN XK đóng một vai trò hết sức quan trọng trong các khách hàng của NH, nói chung đây là một khách hàng thích sự ổn định tức khi họ đã có ý định thiết lập mối quan hệ với một NH nào là họ có ý muốn giữ quan hệ lâu dài. Đây là một khách hàng thường xuyên tiềm năng của NH. NH không chỉ thu phí từ hoạt động TTQT mà còn có thể thu được phí từ nhiều dịch vụ kèm theo như: mở L/C, sửa L/C, bảo lãnh, bảo hiểm... Ngoài ra từ số tiền ký quỹ, gửi để thanh toán, NH có thể tăng số vốn huy động với chi phí rẻ, tăng khả năng thanh khoản. Đây là loại khách hàng thường sử dụng ngoại tệ trong kinh doanh, như vậy sẽ giúp NH trong việc tạo nguồn ngoại tệ, thu phí từ kinh doanh ngoại tệ (đây là điểm khác của DN XK với DN kinh doanh trong nước)... Trong bài viết này, em xin đề cập đến một hoạt động của NH vốn đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc hỗ trợ DN XK phát triển kinh doanh. Đó là hoạt động Hỗ trợ XK. Đây là hoạt động không những giúp cho khách hàng mà cả NH cùng phát triển một cách an toàn và hiệu quả. Sự hỗ trợ XK: ở đây “hỗ trợ” không có nghĩa là thực hiện giúp đỡ không có tính thương mại, mà hỗ trợ theo ý nghĩa là giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho DN sản xuất kinh doanh, thanh toán, đầu tư. Và mục đích của hỗ trợ đó là “tạo mối quan hệ gắn bó giữa NH và khách hàng, giữ vững và mở rộng thị phần bằng cách thu hút thêm khách hàng mới”. Các hình thức hỗ trợ XK: Các hình thức hỗ trợ sau thật ra không nằm tách biệt nhau mà có sự gắn kết, xen kẽ lẫn nhau. Trong hình thức này có chứa đựng hình thức khác. Và bất kì hình thức nào, NH luôn thực hiện hoạt động hết sức cần thiết đó là cung cấp thông tin và các dịch vụ tư vấn cho DN XK. Và hoạt động thanh toán hàng XK cũng là một hoạt động hỗ trợ XK của NH. Hỗ trợ trong khuôn khổ của tín dụng chứng từ: Thực hiện thanh toán TDCT. Cấp tín dụng cho DN XK: + Cho vay thực hiện hàng XK theo L/C đã mở (mỗi lô hàng giao ra nước ngoài đều đòi hỏi một loại tài trợ nào đó trong quá trình vận chuyển). + Cho vay ứng trước hoặc chiết khấu chứng từ hàng XK (để đáp ứng nhu cầu vốn của nhà XK sau khi giao hàng.). Hỗ trợ trong khuôn khổ phương thức nhờ thu kèm chứng từ Thực hiện thanh toán: Trong nghiệp vụ kèm chứng từ này, nhà XK uỷ thác các chứng từ về hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm và các chứng từ khác cho NH của mình; NH này chuyển tiếp chúng tới NH của nhà NK hoặc tới NH giao dịch với chỉ thị giao các chứng này khi đã thanh toán (D/P) hoặc chấp nhận một hối phiếu đòi nợ kèm theo (D/A). Cũng giống như ở phương thức TDCT, NH có thể cho vay thu mua, sản xuất hàng XK, chiết khấu hoặc ứng trước bộ chứng từ hàng XK. Hỗ trợ trên cơ sở hối phiếu NH có thể thực hiện hỗ trợ bằng cách chiết khấu hối phiếu. Đây là một hình thức tín dụng của NH cấp dưới hình thức mua lại hối phiếu trước khi thanh toán (để phục vụ nhu cầu vốn sớm của nhà XK) Bảo lãnh hối phiếu (hình thức tín dụng qua cam kết bằng chữ ký). Là hình thức cam kết trả tiền hối phiếu của NH khi đến hạn thanh toán hối phiếu Tín dụng bao thanh toán Là hình thức mà NH sẽ mua lại các chứng từ thanh toán và các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán từ những hoạt động XK, cung ứng hàng hoá để thành chủ nợ trực tiếp đứng ra đòi nợ nhà nhập khẩu. Tín dụng thuê mua Là hình thức cho vay trung dài hạn. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động hỗ trợ XK của NH Chính sách và luật pháp của nhà nước: Hoạt động hỗ trợ XK nằm trong tổng thể các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế một quốc gia vì thế chịu sự điều chỉnh của hệ thống chính sách và luật pháp nhà nước. ảnh hưởng ở những mặt sau: Lãi suất và phí của hoạt động hỗ trợ XK: mỗi sự thay đổi về chính sách và luật pháp đều trực tiếp hoặc gián tiếp làm lãi suất cho vay và phí dịch vụ tăng hoặc giảm. Chẳng hạn trong trường hợp nhà nước muốn thu hút nhiều vốn nhàn rỗi trong dân nhiều hơn bằng cách tăng lãi suất đầu vào từ đó làm tăng lãi suất và phí đầu ra cho các hoạt động khác của NH, một trong số đó là lãi suất tín dụng cho vay hỗ trợ XK. Ngược lại, chính sách của nhà nước là kích thích nhu cầu đầu tư và tiêu dùng của hộ dân cư bằng cách giảm tỷ lệ lãi suất huy động thì tất yếu lãi suất đầu ra có xu hướng giảm. Chất lượng của hoạt động hỗ trợ XK: Các sự thay đổi của nhà nước như: tăng tỷ giá hối đoái, tăng thuế XK, tăng thuế nhập khẩu nguyên vật liệu... khiến chi phí sản xuất của DN XK tăng, làm cho DN gặp khó khăn, nhiều khi mất khả năng thanh toán, hoạt động XK đình đốn... Làm cho chất lượng của hoạt động hỗ trợ XK của NHTM giảm xuống. Cơ cấu của hoạt động hỗ trợ XK: Nhà nước có chính sách khuyến khích các DN đầu tư theo chiều sâu vào hoạt động kinh doanh XK bằng cách tăng lãi suất cho vay ngắn hạn và giảm lãi suất đối với các khoản vay trung dài hạn. Để giảm chi phí vốn vay và tăng quy mô vốn đầu tư, nhà nước thực hiện ngược lại. Tình hình kinh tế, chính trị quốc gia và thế giới: Hệ thống NH có mối quan hệ mật thiết (có tác động và chịu tác động) với các ngành sản xuất trực tiếp khác. Hoạt động của hệ thống NHTM nói chung, hoạt động hỗ trợ XK nói riêng chỉ có thể tồn tại và phát triển khi môi trường kinh tế chính trị trong nước, quốc tế ổn định. Nếu tình hình kinh tế – chính trị của quốc gia và thế giới ổn định, chất lượng hoạt động XK của các DN tăng lên, khả năng thu hồi vốn lớn... Khả năng tài chính của DN kinh doanh XK: Khả năng tài chính (năng lực kinh doanh) của các DN cũng là một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động hỗ trợ XK. DN có vốn kinh doanh lớn thì ít bị chịu ảnh hưởng của các biến động nhỏ của môi trường kinh doanh nên là những bạn hàng uy tín của NHTM. Và ngược lại đối với DN có khả năng tài chính kém. Chính vì vậy, nó đòi hỏi NH phải có sự điều tra kỹ về khả năng tài chính của DN khi thực hiện hỗ trợ XK. Thực hiện hỗ trợ Xuất khẩu (Xk) trong khuôn khổ thanh toán (TT) bằng Tín dụng chứng từ (TDCT). Trong nội dung bài viết này, em không có ý đề cập đến việc cấp tín dụng để hỗ trợ XK mà mục đích của là đi sâu xem có cách nào có thể thu hút khách hàng tín dụng từ hoạt động TTQT. Thay vì bình thường, khách hàng TTQT đều xuất phát từ nhu cầu tín dụng. Chính vì vậy đề tài này cũng như đề tài: “Nâng cao chất lượng hoạt động TT XK TDCT bằng cách nắm bắt và thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng”. Như vậy ta cần phải biết về phương thức thanh toán TTDT. Sau đây, em xin đi sâu vào phương thức thanh toán qua NH mà DN XK hay sử dụng nhất thông qua NH – Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Một phương thức thanh toán thông dụng, phổ biến và an toàn nhất. 1. 2. 1. Tín dụng chứng từ (TDCT) Phương thức thanh toán bằng TDCT (documentary credit), thường sử dụng phương tiện thanh toán là thư tín dụng (letter of credit), được hình thành dần dần theo đà phát triển của buôn bán quốc tế trong quá trình các NH và cơ quan tiền tệ tham gia vào kết toán buôn bán quốc tế. Phương thức thanh toán TDCT giúp người nhập khẩu thực hiện trách nhiệm thanh toán sang NH thực hiện thanh toán, đảm bảo người XK nhận hàng tiền hàng an toàn, nhanh chóng, bên mua nhận được hoá đơn vận chuyển hàng đúng thời hạn. Do đó, về mức độ nhất định đã giải quyết được mâu thuẫn không tín nhiệm nhau giữa các bên xuất nhập khẩu; đồng thời cũng tạo sự dễ dàng cho lưu thông vốn của hai bên xuất nhập khẩu. 1.2.1.1. Khái niệm Tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán trong đó một NH theo yêu cầu của khách hàng cam kết sẽ trả một số tiền nhất định cho người thụ hưởng hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó nếu người này xuất trình dc bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những qui định nêu ra trong thư tín dụng. Thư tín dụng là một văn bản pháp lý hết sức quan trọng của phương pháp đối chứng từ, không có L/C thì người XK không giao hàng và như vậy phương thức này cũng không hình thành. L/C hoạt động trên hai nguyên tắc: độc lập, tuân thủ nghiêm ngặt. Nói tóm lại, thư tín dụng là một loại văn kiện cam kết thanh toán có điều kiện do NH mở. Các bên tham gia trong quá trình thanh toán bằng TDCT (1) Người xin mở thư tín dụng (Applicant). Là chỉ người xin NH mở thư tín dụng, tức người nhập khẩu hoặc chủ mua thực tế, trong thư tín dụng còn gọi là người mở thư tín dụng (Opener). Nếu NH tự chủ động mở thư tín dụng, thì trong số các bên đương sự (mà loại thư tín dụng này có liên quan đến) không có người xin mở thư tín dụng. (2) NH mở thư tín dụng (Opening Bank, Issuing Bank). Là chỉ NH mở thư tín dụng với sự uỷ thác của người xin mở thư tín dụng. Nó cam kết sẽ trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định trong L/C. NH mở thư tín dụng thường là NH sở tại nơi người nhập khẩu. (3) NH thông báo (Advising Bank, Notifying Bank). Chỉ là NH chuyển thư tín dụng giao cho người XK với sự uỷ thác của NH mở thư tín dụng. Nó chỉ chứng minh tính chân thực của thư tín dụng, chứ không có các nghĩa vụ khác. NH thông báo là NH sở tại nơi người XK. (4) Người nhận tiền (Beneficiary). Là chỉ người có quyền sử dụng thư tín dụng này quy định trong thư tín dụng, tức người XK hoặc người cung cấp hàng thực tế. Ngoài các thành viên trên, trong một số trường hợp còn có các thành viên: - NH xác nhận (Confirming Bank): Là NH theo yêu cầu của NH mở L/C đứng ra xác nhận cho L/C được mở. NH có nghĩa vụ trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu và thanh toán hối phiếu khi đến hạn cho người được hưởng lợi nếu NH phát hành không thể thực hiện được nghĩa vụ của mình. Thường NH này phải là NH có uy tín lớn trên thị trường tín dụng và tài chính quốc tế. Muốn xác nhận NH mở L/C phải mở thủ tục phí rất cao và đôi khi phải đặt cọc trước (Cash cover). - NH chiết khấu: Là NH thực hiện chiết khấu bộ chứng từ do người thụ hưởng xuất trình và có quyền đòi NH phát hành hoàn trả tiền theo đúng điều khoản L/C. - NH hoàn trả (Reimbursing Bank): Là NH được NH phát hành chỉ thị và/hoặc uỷ quyền hoàn trả tiền theo uỷ quyền hoàn trả của NH phát hành L/C. Thực tế, quá trình thanh toán TDCT không nhất thiết phải có đủ các NH nói trên cùng tham gia mà tùy từng trường hợp cụ thể sẽ xác định các thành viên tham gia. Thông thường chỉ có 2 và đôi khi chỉ có 1 NH đứng ra làm tất cả các chức năng nói trên về nghiệp vụ thanh toán và tín dụng chứng từ. 1.2.1.3. Trình tự thanh toán tín dụng chứng từ. Sử dụng phương thức thư tín dụng để kết toán tiền hàng từ lúc người nhập khẩu xin NH mở thư tín dụng cho tới sau khi thanh toán thư tín dụng rồi lại thu về khoản tiền ứng trước của người nhập khẩu, trong đó phải qua nhiều khâu, đồng thời còn làm nhiều loại thủ tục, lại thêm chủng loại thư tín dụng không giống nhau, điều khoản thư tín dụng có các quy định khác nhau, những khâu này và những quy định này cũng có sự đơn giản, phức tạp khác nhau. Nhưng phân tích theo nguyên lý chung, quá trình thanh toán thư tín dụng bao gồm các khâu cơ bản nhất như sau: Ngân hàng thông báo Ngân hàng thanh toán Nhà Xuất khẩu Nhà Nhập khẩu Hàng hoá (5) Giao hàng đến nơi quy định (7) Hoàn trả tiền (3): Thư tín dụng (8): Bộ chứng từ thanh toán (9): Hoàn trả tiền Ngân hàng mở L/C Ngân hàng phát hành Ngân hàng Nhập khẩu Ngân hàng Xuất khẩu (4) Chuyển L/C (6) Bộ chứng từ thanh toán (1) Ký hợp đồng (11) Bộ chứng từ thanh toán (10) Hoàn trả tiền (2) Đơn xin mởL/C (12) Nhận hàng (1). Trong hợp đồng buôn bán, người xuất nhập khẩu quy định sử dụng phương thức thư tín dụng thanh toán cùng các điều kiện khác như: khối lượng, số lượng, chất lượng hàng, cách thức vận chuyển,... (2) Căn cứ vào hợp đồng mua bán ngoại thương, người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng đưa ra đề nghị với NH phục vụ mình là mở một L/C cho người XK. Khi mở L/C, nhà nhập khẩu phải ký quỹ để đảm bảo thanh toán cho người XK hoặc thực hiện các kiểu bảo đảm khác. (3) Căn cứ vào yêu cầu mở thư tín dụng và các chứng từ khác có liên quan, nếu đồng ý, NH mở thư tín dụng sẽ trích tài khoản tiền gửi của đơn vị ký quỹ mở L/C cho người XK (người nhận tiền), đồng thời giao cho chi nhánh NH hoặc NH đại lý (gọi chung là NH thông báo) sở tại nơi người XK. (4) Sau khi NH thông báo kiểm tra thấy không sai sót gì, sẽ giao thư tín dụng cho người XK. Nếu có sai sót gì, NH có thể đưa ra những lời khuyên về L/C. (5) Sau khi người XK kiểm tra thấy thư tín dụng phù hợp với hợp đồng sẽ bốc xếp hàng hoá chuyển đến nơi thoả thuận và chuẩn bị đầy đủ các hoá đơn vận chuyển hàng, mở hối phiếu theo quy định của thư tín dụng. (6) Trong thời gian thư tín dụng có hiệu lực, nhà XK gửi cho NH (NH thoả thuận thanh toán) bộ chứng từ thanh toán đề nghị thanh toán. (7) NH thoả thuận thanh toán sẽ thanh toán cho người XK (8) NH thoả thuận thanh toán gửi cho NH mở thư tín dụng hối phiếu và hoá đơn vận chuyển yêu cầu thanh toán. (9) NH mở thư tín dụng (hoặc NH thanh toán chỉ định) sau khi kiểm tra bộ chứng từ thanh toán xong, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì thanh toán cho NH thoả thuận thanh toán. (Trường hợp mua hàng trả chậm: NH mở L/C sẽ gửi hối phiếu cho tổ chức nhập khẩu để ký chấp nhận trên hối phiếu và sẽ trả tiền khi hối phiếu đến kỳ hạn thanh toán. ) (10) Cùng lúc đó, NH mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu. (11) Sau khi nhận được tiền từ phía nhà nhập khẩu, NH mở thư tín dụng chuyển giao bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu để đi nhận hàng (12) Với những chứng từ có được, người nhập khẩu có thể nhận được hàng. 1.2.1.4. Ưu nhược điểm L/C ã Ưu điểm: - Đối với người mua: Nhà nhập khẩu có thể mở rộng nguồn cung cấp hàng hoá cho mình mà không phải tốn kém thời gian và công sức trong việc tìm kiếm những đối tác có quan hệ lâu dài và uy tín ở những nước khác. Các NH ở nước sở tại giúp họ ở khâu này vì mọi chứng từ, giấy tờ được sử dụng thanh toán trong L/C đều được NH kiểm tra và mọi sai sót trách nhiệm đều thuộc về NH. Vì vậy nhà nhập khẩu sẽ được đảm bảo là họ chỉ trả tiền cho người bán khi người bán giao hàng phù hợp với L/C thể hiện trên bộ chứng từ xuất trình tại NH. - Đối với người bán: Trong phương thức này, người bán chắc chắn thu được tiền hàng với một bộ chứng từ hoàn hảo. Việc thanh toán không phụ thuộc vào nhà nhập khẩu. NH sẽ khống chế bộ chứng từ do đó nhà XK không sợ mất quyền sở hữu về hàng hoá hay tốn chi phí vận chuyển hàng nếu làm đúng theo yêu cầu của thư tín dụng. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, thu thập bộ chứng từ đúng và phù hợp với các điều khoản của L/C, nhà XK sẽ được thanh toán khi họ xuất trình bộ chứng từ với NH phát hành hoặc NH xác nhận hoặc NH được chỉ định thanh toán. Do vậy, nhà XK sẽ nhanh chóng thu hồi được vốn, không bị đọng vốn trong thời gian thanh toán. Hơn nữa người bán còn có thể nhận được những tài trợ XK từ phía NH thông qua L/C (chiết khấu L/C, vay để đầu tư cho sản xuất,... ) - Đối với NH: Tiến hành nghiệp vụ này, NH thu được một khoản lợi ích như thủ tục phí khá lớn. Ngoài ra NH còn huy động thêm một khoản tiền gửi (khi có ký quỹ) phục vụ cho hoạt động của các nghiệp vụ khác như: cho vay xuất nhập khẩu, bảo lãnh, xác nhận, kiểm tra,... Từ đó mở rộng nghiệp vụ kinh doanh, đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ, giảm bớt rủi ro,... và nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ NH. Như vậy, phương thức TDCT phần nào giải quyết được mâu thuẫn và dung hoà được quyền lợi giữa người mua và người bán. ã Nhược điểm: Tuy có nhiều ưu điểm, song phương thức TDCT vẫn còn một số nhược điểm. Trong đó, nhược điểm lớn nhất là phải thanh toán theo quy trình tỉ mỉ, máy móc đòi hỏi các bên tiến hành cẩn thận, nhất là khâu lập và kiểm tra chứng từ. Chỉ cần một sơ xuất nhỏ trong việc lập chứng từ và kiểm tra chứng từ cũng có thể trở thành nguyên nhân bác bỏ việc thanh toán. Phương thức thanh toán này rất phức tạp, thể hiện trong việc lập chứng từ. Chứng từ là căn cứ duy nhất để NH trả tiền, do vậy NH chỉ chịu trách nhiệm duy nhất về chứng từ chứ không chịu trách nhiệm về hàng hoá, nên người mua khó loại trừ người bán giả mạo chứng từ hoặc thay đổi chứng từ để đi nhận trong khi giao hàng không phù hợp với các điều khoản như trên chứng từ thanh toán. Nếu người mua và người bán không có thiện chí với nhau, người mua có thể tìm ra lỗi rất nhỏ trên chứng từ để từ chối thanh toán, mặc dù hàng hoá giao rất đúng phẩm chất, chất lượng và thời hạn quy định. Người bán đôi khi gặp khó khăn trong việc đáp ứng những đòi hỏi về chứng từ chặt chẽ, chính xác. Vì vậy, nó đòi hỏi các bên tham gia phải có trình độ nghiệp vụ cao trong việc mở L/C và lập bộ chứng từ hoàn hảo. Hơn nữa, thời gian thanh toán bằng phương thức TDCT kéo dài đôi khi gây ra nhiều khó khăn, rủi ro bất ngờ cho cả bên bán và bên mua. Chẳng hạn như: tồn đọng vốn do ký quỹ quá lâu, rủi ro hối đoái, sự hư hỏng của hàng hoá do thời gian kéo dài, do khí hậu thời tiết... Tuy nhiên, phương thức này vẫn là một phương thức ưu việt nhất trong TTQT hiện nay. Tóm lại, TDCT đã đạt tới sự thoả thuận có thể chấp nhận được về mặt thương mại giữa những lợi ích đối kháng hiện nay của người mua và người bán thông qua việc làm cho thời gian trả tiền phù hợp với thời hạn giao hàng. Phương thức này thực hiện như vậy là nhờ việc trả tiền dựa vào các chứng từ hàng hoá chứ không dựa vào hàng hoá. 1.2.2. Các hỗ trợ XK trong khuôn khổ tt TDCT Tại sao phải hỗ trợ XK trong khuôn khổ TT TDCT Do nhu cầu của DN XK: Các DN khi bắt đầu ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài thường có những thắc mắc như: tình hình thị trường XK như thế nào ?. Uy tín của đối tác thương mại ra sao ? Chọn phương thức thanh toán nào có lợi nhất ? Chọn điều kiện thương mại nào an toàn nhất đối với hàng của mình? NH mở L/C có uy tín, có khả năng tài chính không ? Cần phải vay tiền ở đâu để có thể tiến hành sản xuất, có cần phải cải tiến dây chuyền sản xuất không ? Nếu cần thì bằng cách nào, lấy vốn ở đâu? Làm thế nào để có thể đáp ứng về những đòi hỏi của đối tác trong việc đảm bảo việc thực hiện đúng hợp đồng, việc thanh toán của mình,... Chính những nhu cầu này của DN đã xuất hiện các dịch vụ tương ứng của NH như: tư vấn về việc đàm phán hợp đồng, tư vấn lựa chọn phương thức thanh toán thích hợp, cho vay để tiến hành sản xuất, cho thuê tài chính, bảo lãnh, nhận bảo lãnh,... Rồi sau đó, khách hàng còn gặp các khó khăn như: trong lúc chờ đợi thanh toán (nếu sử dụng phương thức TDCT), DN cần phải tiếp tục quay vòng sản xuất tiếp, hoặc cần mua nguyên vật liệu sản xuất, những rủi ro mà DN gặp phải trong việc chờ đợi thanh toán (rủi ro hối đoái, rủi ro chính trị, thương mại),... Từ đó, NH đã có những hỗ trợ kịp thời như cho vay, bảo lãnh cho vay thông qua L/C, chiết khấu L/C, thực hiện việc bảo hiểm rủi ro cho khách hàng,... Các rủi ro của việc thanh toán bằng phương thức TDCT đối với người XK (như trong phần nhược điểm của phương thức đã nói). Đối với các phương thức đơn giản như chuyển tiền, nhờ thu, trao chứng từ giao tiền,... thì vai trò của NH chỉ làm trung gian trong việc thực hiện lệnh chi trả hay nhờ thu được tiền hay không, hay không thể chủ động trong việc thanh toán. Cũng chính vì vậy mà khi tham gia thực hiện các phương thức này NH ít bị rủi ro là mất tiền hay không thu được tiền do người bán không chịu trả tiền và NH ch._.ỉ có thể thu được lợi nhuận bằng phí các bên khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Nhìn chung TTQT không phải là thế mạnh của SGD, và TTXK cũng không giữ vai trò quan trọng trong TTQT như tiềm năng vốn có của nó. Xem bảng 6: Bảng 6: Tình hình hoạt động TTQT của qua các năm 1999-2001 Đơn vị 1000 USD Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Trị giá % so với 1999 Trị giá % so với 2000 I. Doanh số TTQT 140000 460000 336% 521000 113% 1. Doanh số TT XNK (Mậu dịch) 78650 252500 321% 350000 139% 1. 1 Nhập khẩu 75000 226000 301% 282000 125% 1. 2 XK 3650 26500 726% 68000 257% 2. Doanh số thanh toán khác (phi MD) 620 1170 189% 7569 647% 3. Doanh số thanh toán còn lại 60730 206330 340% 163431 79% II. Số lượng giao dịch thực hiện 1050 2013 180% 7650 380% III. Khách hàng TTQT thường xuyên 20 70 350% 90 129% - Là DN chỉ XK 6 20 333% 30 150% - Là DN chỉ nhập khẩu 13 42 323% 50 119% - Là DN vừa nhập vừa xuất. 1 8 800% 10 125% (Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh của phòng TTQT của Sở năm 1999-2001) Qua bảng trên ta thấy doanh số TT XK có giá trị nhỏ trong tổng doanh số TTXNK (xem biểu đồ 4), số lượng khách hàng TTQT là DN XK thường xuyên cũng chiếm tỷ lệ nhỏ. Tuy nhiên ta thấy mọi doanh số trong TTQT đều tăng mặc dù tốc độ có giảm so với năm trước (TTQT năm 2000 tăng với tốc độ 3,36 lần, còn năm 2001 tăng có 1,13 lần). Tuy nhiên ta có thể thấy tốc độ tăng của doanh số TT XK cao hơn là doanh số TT NK rất nhiều (năm 2001, XK tăng 2,57 lần, NK tăng 1,25 lần). Điều này chứng tỏ NH đang dần chú ý đến lĩnh vực TT XK, khách hàng là DN đã tín nhiệm và tìm đến NH. Một số DN còn thực hiện TT cả XNK qua NH. Nói tóm lại về doanh số TT XK vẫn chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng doanh số TTQT, điều này đã đặt ra một vấn đề là làm thế nào để có thể nâng cao doanh số của hoạt động này. Biểu đồ 4: Tỷ trọng TT XK trong TTXNK qua các năm. Tình hình TT XK bằng phương thức TDCT (xem bảng 7) Bảng 7: Kim ngạch TT XK bằng các phương thức thanh toán qua các năm 1999-2001. Đơn vị 1000 USD Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Trị giá Tỷ trọng Trị giá Tỷ trọng %so với 99 Trị giá Tỷ trọng % so với 00 Doanh số TT nhờ thu xuất 8 0,22% 1815,068 6,85% 22178,65% 2,500 3,68% 137,74% Doanh số TT chuyển tiền đến 3274 89,69% 15609,59 58,90% 476,84% 27,500 40,44% 176,17% Doanh số TT L/C xuất 368 10,09% 9075,342 34,25% 2464,29% 38,000 55,88% 418,72% Doanh số TT XK 3650 100% 26500 100% 726,03% 68,000 100% 256,60% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của phòng TTQT năm 1999-2001) Qua bảng trên ta thấy tỷ trọng của TT XK bằng phương thức TDCT trong TT XK dần dần tăng. Năm 1999, khi chuyển tiền và nhờ thu xuất được thực hiện thì tỷ trọng TTQT theo L/C giảm xuống chỉ còn 10,09 % (1998 tỷ trọng là 100 %). Còn năm 2000, SGD đưa mạng SWIFT vào sử dụng làm cho dù cho mức tăng doanh số TT L/C tăng nhưng vẫn chậm hơn mức tăng của doanh số chuyển tiền điện. Nhưng sau đó tỷ trọng lại tăng dần. Đó là vì TT theo phương thức này có tình ưu việt hơn so với các phương thức thanh toán khác. Để thấy được sự phát triển của hoạt động TTXK bằng phương thức L/C ta xem bảng 8 sau: Bảng 8: Số món và trị giá của thông báo L/C và đòi tiền L/C của SGD qua các năm 1998-2001 Đơn vị: 1000 USD Năm Thông báo L/C Đòi tiền L/C Số món Trị giá Số món Trị giá % so với năm n-1 % so với năm n-1 % so với năm n-1 % so với năm n-1 1998 39 2806 85 3007 1999 58 149% 4300 153% 150 176% 4500 150% 2000 65 112% 5200 121% 300 200% 10000 222% 2001 141 217% 14000 269% 910 303% 38000 380% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh phòng TTQT năm 1999-2001) Ta thấy, tốc độ của số lượng cũng như giá trị của việc thông báo và đòi tiền L/C xuất đều tăng qua các năm và với tốc độ cao (năm 2001, thông báo L/C tăng 2,17 lần, đòi tiền L/C tăng 3,8 lần). Ngoài ra có một điều đặc biệt là số lượng món và giá trị của thông báo L/C luôn lớn hơn lượng món và giá trị đòi tiền L/C, và tốc độ tăng cũng nhanh hơn. Điều đó chứng tỏ uy tín của NH, nhiều khách hàng mặc dù thông báo L/C ở NH khác nhưng lại chỉ định NH là NH thanh toán. Tuy nhiên, ta cần phải hiểu tại sao khách hàng không chỉ định NH là NH thông báo luôn. Năm 2001, số lượng món và trị giá đòi tiền L/C tăng đột biến. Đó là do đây là năm đầu tiên NH được chính thức áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 phiên bản 2000. Sau đó, uy tín của NH được nâng cao. Trong 3 sản phẩm đạt tiêu chuẩn ISO có dịch vụ thanh toán. 2. 2. 3. Tình hình hỗ trợ XK bằng chiết khấu L/C ở SGD. 2. 2. 3. 1. Quy trình nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất. Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất có truy đòi là hình thức NH căn cứ giá trị bộ chứng từ để ứng trước một phần giá trị bộ chứng từ cho nhà XK trên cơ sở nhà XK chuyển nhượng quyền đòi tiền bộ chứng từ cho NH với điều kiện: Khách hàng phải cam kết hoàn trả toàn bộ số tiền đã được chiết khấu (như một khoản vay NH). NH được quyền truy đòi khách hàng số tiền đã chiết khấu (kể cả phí chiết khấu và phí dịch vụ) trong trường hợp NH nước ngoài từ chối thanh toán bộ chứng từ vì bất kỳ lý do nào. Đối tượng để xem xét chiết khấu: Là khách hàng được phép hoạt động sản xuất, kinh doanh XNK trực tiếp . Không phải là hàng cấm, không bị hạn chế XK bởi nhà nước trong từng thời kỳ. Hoạt động thường xuyên tại NH, có tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại NH, hoạt động tín nhiệm, có năng lực tài chính. Nguyên tắc chiết khấu của SGD: Số tiền chiết khấu: Số tiền không vượt quá 95% trị giá hoá đơn. Số tiền chiết khấu cho bộ chứng từ phải nhỏ hơn 150000 USD. Tổng số tiền chiết khấu cho một khách hàng không quá 500000 USD. Trường hợp khách hàng yêu cầu lớn hơn 1.000.000 thì phải trao đổi để quyết định. Thời hạn chiết khấu được tính từ ngày chiết khấu cho đến ngày được NH nước ngoài thanh toán, tối đa không được qua 60 ngày. Số tiền chiết khấu và phí phải được khách hàng cam kết trả đủ và đúng hạn. Loại tiền chiết khấu có thể là VNĐ hoặc USD theo yêu cầu của khách hàng. SGD có thể tự định giá bộ chứng từ tuỳ vào khả năng nguồn vốn. Quy định cụ thể Điều kiện về L/C L/C trả ngay hoặc chậm thời hạn không quá 30 ngày, đã được xác nhận, mã khoá đúng. Nội dung, các điều khoản và điều kiện của L/C hợp lý, có tính khả thi. NH phát hành L/C là NH có uy tín. Thanh toán XK hàng hoá là thị trường quen thuộc. Số tiền chiết khấu Căn cứ xác định số tiền chiết khấu: Độ tín nhiệm của khách hàng. Uy tín của NH phát hành L/C, NH thanh toán. Độ hoàn hảo của bộ chứng từ. Mức chiết khấu cụ thể: Đối với chứng từ hoàn hảo: Số tiền chiết khấu Max là 95% giá trị hoá đơn đối với L/C trả ngay và 85% đối với L/C trả chậm. Đối với bộ chứng từ có sai sót: Số tiền chiết khấu Max là 80% giá trị hoá đơn đối với L/C trả ngay và 70% đối với L/C trả chậm. Phí chiết khấu (được tính trên cơ số số tiền chiết khấu, mức phí chiết khấu và số ngày chiết khấu). Mức phí chiết khấu được tính tối đa bằng lãi suất cho vay ngắn hạn theo loại tiền chiết khấu tại thời điểm chiết khấu. Mức phí chiết khấu cụ thể do giám đốc quyết định trong phạm vi lãi trận và chính sách khách hàng của SGD. Cách tính phí chiết khấu: Phí chiết khấu = Số tiền chiết khấu* Số ngày chiết khấu*Lãi suất cho vay tương ứng/ngày Thủ tục chiết khấu Khách hàng có nhu cầu chiết khấu bộ chứng từ gửi tới SGD bộ hồ sơ gồm: Bản gốc L/C cùng bản sửa đổi (nếu có). Bộ chứng từ hợp lệ. Đơn xin chiết khấu (4 bản) theo mẫu. Hợp đồng uỷ thác, giấy uỷ quyền của người XK trực tiếp (trường hợp khách hàng đề nghị chiết khấu không phải là người hưởng lợi trực tiếp). Thanh toán viên tiến hành kiểm tra bộ chứng từ và L/C, sau đó thông báo cho khách hàng ý kiến chấp nhận hay từ chối thanh toán trong vòng 2 ngày làm việc. Nếu đồng ý chiết khấu, TTV trình lãnh đạo duyệt đơn xin chiết khấu. TTV giao 1 bản đơn xin chiết khấu cho khách hàng . 2 bản giao cho kế toán hạch toán, lưu hồ sơ (gồm 2 bản đơn xin chiết khấu được duyệt và thư gửi chứng từ đòi tiền). 1 bản TTV lưu vào sổ theo dõi chiết khấu. Bồi hoàn chiết khấu SGD gửi bộ chứng từ sang NH mở L/C đòi thanh toán. Khi nhận được báo có của NH nước ngoài, SGD tiến hành lần lượt thu số tiền đã chiết khấu, thu phí, thu nợ khác của SGD (khi được uỷ quyền), chuyển trả khách hàng số tiền còn lại. Trường hợp báo có không đủ thanh toán NH thu lại số tiền đã chiết khấu, phần chênh lệch chuyển sang tài khoản nợ quá hạn và thực hiện truy đòi. TTV chuyển kế toán chứng từ thu phí và thông báo tất toán toàn bộ chứng từ hàng xuất. Theo dõi và xử lý vướng mắc trong quá trình đòi tiền: Nếu quá 15 ngày kể từ ngày bộ chứng từ được chiết khấu theo L/C trả ngay, 2 ngày sau khi hối phiếu trả chậm đáo hạn mà chưa nhận được tiền thanh toán từ NH nước ngoài, TTV thông báo cho khách hàng biết và thực hiện các biện pháp cần thiết để yêu cầu NH mở L/C thanh toán. Quá 60 ngày kể từ ngày chiết khấu bộ chứng từ mà NH mở vẫn chưa thanh toán, TTV tích cực yêu cầu NH mở thanh toán và yêu cầu khách hàng trả nợ. 7 ngày sau thời hạn chiết khấu bộ chứng từ, nếu chưa nhận được tiền chiết khấu, kế toán làm thủ tục chuyển số tiền chiết khấu thành nợ vay quá hạn, lãi suất 150% mức phí chiết khấu. Nói tóm lại: Việc thực hiện thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tương đối phức tạp đòi hỏi quy trình nghiệp vụ phải chặt chẽ, cụ thể đảm bảo thanh toán nhanh chóng, chính xác. Quy trình nghiệp vụ TTQT do NHĐT&PT VN quy định đã đáp ứng được yêu cầu đó đồng thời phù hợp với các thông lệ quốc tế về thanh toán tín dụng chứng từ theo quy định trong UCP 500 và URR 525 đảm bảo chất lượng thanh toán cũng như tránh được các rủi ro tranh chấp trong TTQT. 2. 2. 3. 2. Tình hình thực hiện hỗ trợ XK bằng chiết khấu L/C ở SGD ở NH, việc chiết khấu L/C do phòng TTQT thực hiện. Xem bảng 9 : Bảng 9: Số món và trị giá chiết khấu L/C và tỉ trọng so với L/C đòi tiền của SGD từ năm 1998 đến 2001. Đơn vị 1000 USD Năm Chiết khấu L/C Đòi tiền L/C Tỉ trọng so với L/C đòi tiền Số món Trị giá Số món Trị giá Số món Trị giá 1999 0 0 150 4500 0,00% 0,00% 2000 15 500 300 10000 5,00% 5,00% 2001 (% so với 2000) 44 2000 910 38000 4,84% 5,26% (293%) (400%) (303%) (380%) (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phòng TTQT từ 1999-2001) Năm 1998, 1999, hoạt động chiết khấu L/C chưa được thực hiện, tới năm 2000, hoạt động này mới được chú ý tuy mức tăng L/C chiết khấu tăng nhanh nhưng số lượng L/C, giá trị L/C được chiết khấu rất nhỏ do khách hàng chỉ chiết khấu khi gặp khó khăn về tài chính còn các khách hàng lớn có khả năng về tài chính mạnh thường không chiết khấu. Một nhược điểm nữa là hình thức chiết khấu của NH không đa dang chủ yếu là chiết khấu L/C có truy đòi. Để khuyến khích được khách hàng tới, Sở đặt mức chiết khấu khá linh hoạt mà đồng nghĩa là rủi ro cao, ngoài ra còn cho phép chiết khấu với chứng từ còn sai sót tới 80 % nhưng điều đó cũng có nghĩa là rủi ro không thu được tiền là rất cao. Nếu SGD thu hút bằng chính sách dễ dãi sẽ đẩy SGD vào tình trạng rủi ro cao. Tuy nhiên, có thể thấy lượng chiết khấu L/C năm 2001 tăng cao (3,03 lần số món, 3,8 lần giá trị năm 2000). Đó là do NH đã chú ý phát triển hoạt động này và khách hàng có nhu cầu chiết khấu tăng. Tình hình hỗ trợ XK bằng cách tài trợ vốn cho DN XK thực hiện TT TDCT qua NH. 2. 2. 4. 1. Quy trình nghiệp vụ của hoạt động hỗ trợ vốn cho DN XK. Quy trình này cũng giống như quy trình của nghiệp vụ cho vay ngắn hạn. Sở thực hiện theo Quy chế tạm thời cho vay tài trợ XK trong hệ thống NHĐT&PT VN và dựa vào Công văn của Phòng tín dụng số 1246 NHĐT- TTXNK ngày 21-10-97 về việc đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ XNK như sau: Vốn cho vay XK trên dùng để tài trợ cho các DN làm nhiệm vụ thu mua chế biến, mua nguyên vật liệu để gia công hàng XK, các mặt hàng như: gạo, cà phê, cao su, lúa, thuỷ sản... Thông qua việc cho vay trực tiếp hoặc chiết khấu các chứng từ hàng XK của DN. Đặc biệt ưu tiên các DN XK VN chỉ định NHĐT&PT là NH thông báo và thanh toán L/C hoặc các DN cam kết bán lại ngoại tệ thừ doanh thu hàng xuất cho NHĐT&PT. Việc vay trả thực hiện chủ yếu bằng VNĐ. NH dành cho DN các ưu đãi sau: Xác định hạn mức tín dụng cho DN tương ứng L/C hoạc hợp đồng hàng XK. Lãi xuất cho vay từ 0,81 - 0,9%/1 tháng tuỳ theo mức độ tin cậy và an toàn. Trường hợp DN có hình thức đảm bảo chắc chắn (DN có tài khoản tiền gửi USD tương đương) thì được vay tiền VNĐ nhưng đảm bảo theo giá trị USD và theo lãi suất 8-8,5%/1năm. Trường hợp DN cam kết bán USD cho NHĐT&PT thì được vay USD tương ứng với số ngoại tệ sẽ bán cho NH. Việc tổ chức thực hiện: Sở giao dịch phải tích cực tìm kiếm các dự án có hiệu quả, các DN hoạt động tốt. Đây là hoạt động nhằm đa dạng hoá hoạt động tín dụng cổ điển, mở rộng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan (biến động tỷ giá ngoại hối, giá cả trên thị trường thế giới) nên việc tìm kiếm dự án phải được thực hiện từng bước và có xem xét lựa chọn chắc chắn. Sau khi lựa chọn sơ bộ các dự án, khách hàng có nhu cầu vay vốn để XK, SGD phải tiếp cận phối hợp cùng với phòng tín dụng để xem xét thực hiện các giai đoạn. 2. 2. 4. 2. Tình hình hỗ trợ XK bằng cách tài trợ vốn cho DN XK thực hiện TT TDCT qua NH : ở SGD, có các hoạt động hỗ trợ vốn cho DN XK thực hiện TT TDCT qua NH như sau: Tài trợ vốn lưu động để thu mua, chế biến, sản xuất hàng hoá theo quy định của L/C. Tín dụng ứng tiền trước khi bộ chứng từ được TT. Thực hiện tín dụng ngắn, trung dài hạn trực tiếp cho DN XK thanh toán TDCT qua NH. Các hoạt động tài trợ tín dụng XK trên đều được thực hiện ở phòng Tín dụng mà không liên quan gì đến phòng TTQT. Bảng 10: So sánh doanh số tài trợ vốn XK với tổng cho vay của SGD qua các năm 1999-2001 Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Trị giá Tỉ trọng Trị giá Tỉ trọng % so với 99 Trị giá Tỉ trọng %so với 00 Cho vay ngắn hạn 564800 938288 166% 1310429 140% Tài trợ vốn ngắn hạn cho XK 208976 37% 422229,6 45% 202% 511067,3 39% 121% Cho vay trung, dài TM 546915 725964 133% 1813109 250% Tài trợ vốn trung, dài cho XK 54691,5 10% 130673,5 18% 239% 344490,7 19% 264% Cho vay đồng tài trợ 380679 6400 2% 304738 4762% Tài trợ vốn dồng tài trợ cho XK 95169,75 25% 768 12% 1% 60947,6 20% 7936% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của SGD năm 1999-2001) Qua bảng trên ta thấy tỉ lệ tài trợ vốn XK bằng cách cho vay ngắn hạn so với tổng cho vay ngắn hạn chiếm tỷ lệ khá lớn (37-45%), nhưng luôn tăng dần (năm 2000 tăng 2,02 lần, năm 2001 tăng 1,21 lần). Và tỉ trọng tài trợ XK bằng cách cho vay ngắn hạn có giá trị nhỏ hơn so với tổng cho vay trung, dài TM (502.680 triệu đồng). Tuy nhiên có thể nói tốc độ cho vay trung dài hạn để tài trợ XK tăng với tốc độ nhanh hơn là cho vay ngắn hạn. Điều này cũng dễ hiểu, vì thế mạnh của NH là cho vay để đầu tư và phát triển. Và cũng phải nói đến tình hình cho vay đồng tài trợ để hỗ trợ XK, doanh số cho vay này biến động thất thường (năm 2000, doanh số chỉ bằng 0,01 lần năm 1999, năm 2001, doanh số lại là 79,36 lần). Đó là do tuy từng năm, NH tìm được đối tác để đồng tài trợ hay không và tuỳ vào nhu cầu khách hàng. Nếu cần tài trợ nhiều thì NH mới tìm đối tác để cùng tài trợ. Tuy nhiên có thể thấy tỉ lệ tài trợ XK trong tổng cho vay đồng tài trợ khá cao. (12-25%). (xem biểu đồ 5) Biểu đồ 5: So sánh tài trợ vốn XK với tổng vay của Sở qua các năm (triệu đồng) Để tìm hiểu thêm về tình hình hỗ trợ vốn XK trong khuôn khổ thanh toán TDCT, ta xem xét bảng 11 và biểu đồ 6 sau: Bảng 11: So sánh doanh số tài trợ vốn XK trong khuôn khổ TT TDCT với doanh số tài trợ vốn XK của SGD I NHĐT&PT qua các năm 1999-2001 Đơn vị Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Trị giá Tỉ trọng Trị giá Tỉ trọng % so với 99 Trị giá Tỉ trọng % so với 00 Tài trợ vốn XK ngắn hạn trong đó: 50832 65680,16 129% 104834,3 160% Tài trợ vốn XK trong khuôn khổ TT TDCT 15249,6 30% 18390,44 28% 121% 31450,3 30% 171% Tài trợ vốn XK trung, dài hạn trong đó: 32814,9 29038,56 88% 126917,6 437% Tài trợ vốn XK trong khuôn khổ TT TDCT 3281,49 10% 1451,9 5% 88% 7615,058 7% 262% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của SGD năm 1999-2001) Biểu đồ 6 : So sánh tài trợ XK trong khuôn khổ TTTDCT với tài trợ XK tương ứng qua các năm (Đơn vị : triệu VNĐ) Qua bảng và biểu đồ trên ta thấy tỉ trọng tài trợ XK ngắn hạn trong khuôn khổ TT TDCT tài trợ tín dụng XK ngắn hạn là khá lớn (30%). Còn tỉ trọng trong tài trợ XK trung dài hạn thì khá nhỏ (5-10%). Điều này chứng tỏ tài trợ XK trung, dài hạn trong khuôn khổ TT TDCT ít được khách hàng yêu cầu ở NH hoặc NH không chú ý lắm đến việc cho vay này. Còn tình hình tài trợ XK đồng tài trợ trong khuôn khổ TT TDCT thì hầu như không. Tuy nhiên có thể thấy tốc độ tăng về doanh số tài trợ XK trong khuôn khổ TT TDCT tăng liên tục qua 3 năm. Tốc độ của hoạt động tài trợ XK trung dài hạn trong khuôn khổ TTTDCT nhanh hơn rất nhiều so với tín dụng ngắn hạn (năm 2001, trung dài hạn tăng 2,62 lần, ngắn hạn tăng 1,71 lần). Tình hình hoạt động bảo lãnh của NH cho DN XK TT TDCT qua NH: NH thực hiện bảo lãnh thực hiện các hình thức bảo lãnh sau: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho DN XK. Bảo lãnh cho DN XK vay vốn. 2. 2. 5. 1. Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh DN XK (cũng tương tự như nghiệp vụ bảo lãnh khác) Gồm: Chuẩn bị bảo lãnh: tìm kiếm khách hàng bảo lãnh, giới thiệu nghiệp vụ bảo lãnh, hưỡng dẫn khách hàng lập hồ sơ bảo lãnh, tiếp nhận và hoàn chỉnh hồ sơ Quyết định bảo lãnh: Thẩm định hồ sơ bảo lãnh, kiểm tra thực tế DN, ra quyết định bảo lãnh. Thực hiện bảo lãnh: hoàn chỉnh hồ sơ, thực hiện biện pháp bảo đảm, ký kết hợp đồng bảo lãnh và phát hành bảo lãnh, kiểm tra theo dõi thực hiện dự án... Xử lý sau khi bảo lãnh: Kiểm tra theo dõi DN, thu phí bảo lãnh, đôn đốc thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh.. Kết thúc bảo lãnh: Thanh lý hợp đồng bảo lãnh, giải toả tài sản đảm bảo, lưu trữ hồ sơ. 2. 2. 5. 2. Tình hình thực hiện bảo lãnh cho DN XK TT TDCT( Xem bảng 12) Bảng 12: So sánh doanh số bảo lãnh cho DN XK TT TDCT với doanh số bảo lãnh của SGD năm 1999-2001 Đơnvị: Triệu VNĐ Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Doanh số Tỷ trọng Doanh số Tỷ trọng % so với 99 Doanh số Tỷ trọng % so với 00 Bảo lãnh thực hiện hợp đồng 351959 42% 291700 30,57% 83% 295000 29,50% 101% trong đó: cho nhà XK TT TDCT 0 0% 2025 0,21% 2500 0,25% 123% Bảo lãnh vay vốn 20851 3% 47000 4,93% 225% 48000 4,80% 102% trong đó: cho nhà XK TT TDCT 0 0% 2040 0,21% 2300 0,23% 113% Bảo lãnh khác 482067 58% 662350 69% 137% 652200 65,22% 98% Tổng 834026 100% 954050 100% 114% 1000000 100% 105% (Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm của Sở năm 1999-2001). Kể từ năm 2000, NH mới thực hiện bảo lãnh cho nhà XK TT TDCT qua NH. Qua bảng trên ta thấy doanh số bảo lãnh của NH SGD tăng qua các năm tuy nhiên năm 2001 tốc độ tăng có giảm (đó là do những nhân tố khách quan như đã nói). Nhưng trong đó, doanh số bảo lãnh cho nhà XK thực hiện thanh toán TDCT qua NH còn rất hạn chế, chiếm tỷ trọng nhỏ, có tăng nhưng tốc độ rất chậm. Bởi khách hàng chủ yếu của NH là các DN quốc doanh lớn, hầu như không có nhu cầu về việc bảo lãnh. Còn các hoạt động hỗ trợ XK khác như bảo hiểm cho XK, factoring, thuê mua tài chính, tài trợ gián tiếp cho nhà XK bằng cách tài trợ thương mại cho nhà NK... ở NH hầu như không thực hiện. 2. 3. Các điểm Hạn chế trong hoạt động hỗ trợ XK khuôn khổ TT TDCT ở SGD I NHĐT&PT. Về dịch vụ tư vấn: Chưa đa dạng, chưa đáp ứng được một cách đầy đủ nhu cầu của khách hàng. Theo kết quả điều tra về nhu cầu của các DN XK Việt nam, các biện pháp hỗ trợ XK của NH được DN coi trọng lần lượt theo thứ tự sau: Cung cấp thông tin về các thị trường XK và uy tín của các đối tác thương mại. Được cung cấp tín dụng XK và thành lập một hệ thống bảo hiểm thương mại. Cung cấp dịch vụ tư vấn về XK. Hỗ trợ nghiên cứu và triển khai công nghệ tiên tiến để tăng cường khả năng cạnh tranh. Như vậy nhu cầu của khách hàng đối với hoạt động tư vấn cung cấp thông tin về thị trường XK được đặt trên cả hoạt động cấp tín dụng XK. Thế nhưng SGD chỉ thực hiện việc tư vấn cho khách hàng chỉ ở mức: tư vấn sửa chữa L/C, đưa ra những lời khuyên khi L/C có sai sót, và việc thực hiện tư vấn lúc kí kết hoạt động thì hầu như không có, chủ yếu cho các khách hàng truyền thống. Việc thực hiện tư vấn cho khách hàng về thông tin thị trường quốc tế, thông tin về đối tác nước ngoài, về tình hình luật pháp, kinh tế, chính trị,... và việc tham gia khi lập chứng từ XK cho đúng với yêu cầu của L/C, thì hầu như chưa thực hiện được. Nguyên nhân: Hệ thống cung cấp thông tin về kinh tế quốc tế của NH còn yếu. Không có sự chuyên môn hoá trong lĩnh vực này. Những thông tin mà NH thu được chủ yếu là từ trung tâm thông tin tín dụng của NH Nhà nước, từ bộ phận chuyên môn của NHĐT&PT TW còn từ NH khác còn quá sơ sài và không có thông tin chuyên sâu về lĩnh vực quốc tế. Đội ngũ TTV còn trẻ, số lượng TTV còn ít vì vậy không thể thực hiện chu đáo một lượng công việc lớn như vậy, với số lượng khách hàng lớn với nhu cầu đa dạng như vậy được. Cho đến nay, phòng có 10 người, trong đó có 2 người tạm thời làm tại Phòng Giao Dịch ở Tràng Tiền Plaza, 1 người nghỉ “đẻ”, 2 người mới vào. Những người còn lại hầu hết là những người trẻ tuổi năng nổ, nhiệt tình nhưng thiếu kinh nghiệm. Nói chung, hiện nay số lượng người làm thường xuyên tại phòng là 5 người, trong đó chỉ có 3 người là người có kinh nghiệm, mọi công việc đều phải dồn về. Chính vì vậy phòng TTQT không thể chú ý quan tâm đến từng khách hàng một cách sâu sát được. Hơn nữa, các TTV phải thực hiện rất nhiều nghiệp vụ cùng một lúc chứ không chuyên sâu về một vấn đề là thanh toán XK bằng phương thức TDCT. Chính vì vậy đã gây ra sự dàn trải, thực hiện chức năng sẽ khiến cho TTV khó có thể thực hiện được tốt nhất nghiệp vụ của mình. Hơn nữa trong phòng TTQT, gần đây thường xảy ra những việc di chuyển người, số lượng người và người thực hiện thường xuyên thay đổi, dao động. Luôn luôn phải có sự bàn giao công việc, bàn giao hồ sơ khách hàng từ người này sang người khác. Điều này đã làm cho khách hàng thiếu đi sự tin tưởng ở NH, và chính bản thân TTV cũng khó có thể thích ứng được ngay với khách hàng lạ. Hoạt động Marketing của NH còn chưa chú trọng và nói rõ những tiện ích, dịch vụ mà khách hàng nhận được khi tham gia TTQT qua NH. Do đó nhu cầu của khách hàng về việc tư vấn này là có nhưng khách hàng không tự tìm đến NH hỏi. Về hoạt động tài trợ bằng cách thực hiện thanh toán theo phương thức TDCT. Về hoạt động TT XK : Kim ngạch thanh toán XK còn chưa cao, loại hình L/C chưa đa dạng Mặc dù qua 3 năm thanh toán XK theo phương thức TDCT tăng nhanh chóng nhưng so với các NH khác trên địa bàn Hà Nội thì ta thấy qui mô hoạt động còn nhỏ. Ta có thể so sánh thông qua hoạt động thanh toán XK bằng phương thức TDCT của Sở giao dịch I NH Ngoại thương. Bảng 13: Tình hình TT XK bằng phương thức TDCT tại SGD I NHĐT&PT so với SGD NH ngoại thương VN qua các năm 1999-2001 Đơn vị 1000 USD Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Số món Số tiền Số món Số tiền Số món Số tiền Doanh số L/C xuất SGD I NHĐT&PT 150 4500 300 10000 910 38000 Doanh số L/C xuất SGD NH NT 1067 52639 2056 1548250 2988 2001520 % Doanh số L/C xuất ở SGD I NHĐT&PTvà ở SGD NHNT 14% 9% 15% 1% 30% 2% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của SGD NH ĐT & PT và của SGD NH NT VN qua các năm 1999-2001). Ta thấy tổng kim ngạch TT L/C xuất ở NH chỉ bằng 30 % về số món và 2% về Số tiền của tổng kim ngạch ở SGD NH NT VN. Như vậy tổng kim ngạch còn khá khiêm tốn so với NH bạn. Ước lượng thị phần thanh toán QT bằng phương thức TDCT của SGD trên địa bàn Hà Nội là 4-5%, như vậy là chưa cao. Tuy nhiên ta thấy triển vọng phát triển của hoạt động này ở SGD thông qua tốc độ phát triển của doanh số TT L/C xuất cao hơn rất nhiều so với NH bạn. Nguyên nhân: -Thứ nhất, trước đây hoạt động TTQT hoàn toàn do NH ngoại thương độc quyền thực hiện. Đầu năm 1998, SGD mới tham gia hoạt động này. Nhiều khách hàng không biết đến dịch vụ này của Sở. Khách hàng tới giao dịch với SGD chủ yếu là khách hàng quen có quan hệ tín dụng, gửi tiền nhận dịch vụ khép kín tại NH. TTQT là hoạt động có độ rủi ro cao, khách hàng không coi trọng phí thanh toán mà quan tâm đến uy tín, khả năng thực hiện các nghiệp vụ TTQT, khả năng tư vấn giải quyết rủi ro cho kháhc hàng sẽ được quan tâm hàng đầu. Khách hàng quan tâm tới NH có truyền thống TTQT. Mặt khác, các DN xuất nhập khẩu lâu đời quen sử dụng các dịch vụ của NH ngoại thương, Sở không thể thu hút được khách hàng bằng cách giảm phí. Chính vì vậy, Sở chỉ thu hút dược những khách hàng có quan hệ vay vốn với phòng tín dụng. - Thứ hai, từ khi pháp lệnh NH có hiệu lực thi hành từ năm 1991, số lượng NH thành lập tăng lên một cách nhanh chóng. Đặt Sở vào tình trạng cạnh tranh gay gắt với hơn 40 NHTM khác nhau trên địa bàn Hà nội về các hoạt động NH. Nhất là hoạt động TTQT, NH phải cạnh tranh với những “lão già khổng lồ đầy kinh nghiệm” như: NH ngoại thương, các chi nhánh: City Bank, ANZ, Ambor, Bank of American,... là những NH có ưu thế về ngoại tệ, công nghệ, uy tín, kinh nghiệm trong hoạt động TTQT, nhất là TT TDCT. Đòi hỏi Sở không ngừng vươn lên nâng cao uy tín của mình để thắng trong cạnh tranh. - Thứ ba, do thiếu văn bản pháp lý hướng dẫn nên Sở không mạnh dạn trong việc thực hiện phát triển hoạt động TTQT. Xét riêng về hoạt động TTQT, ở Việt nam gần như tuyệt đối không có văn bản hướng dẫn thanh toán L/C để các NH áp dụng vào thực tế khi có phát sinh tranh chấp quyền lợi, nhằm bảo vệ quyền lợi, nhằm bảo vệ lợi ích của NH, của doanh nghiệp trong nước đồng thời tạo niềm tin đối tác nước ngoài với DN VN vì họ thấy có văn bản pháp luật quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia. Văn bản qui định về phương tiện thanh toán như hối phiếu, séc, cũng như nghiệp vụ hỗ trợ XNK như chiết khấu chứng từ L/C cũng chưa có. Mặt khác UCP, văn bản hướng dẫn thanh toán L/C có tính chất chung cho tất cả các nước nên nó chứa đựng những điều bất hợp lý không phù hợp với VN, nó chỉ đóng vai trò như là một thông lệ chứ không đóng vai trò như là pháp luật có tính bắt buộc. Bên cạnh đó có sự thiếu đồng bộ và chặt chẽ giữa các bộ luật tạo kẽ hở cho DN có hoạt động lừa đảo gây rủi ro cho người được hưởng lợi và NH. - Thứ tư, trình độ tham gia XNK của các DN VN còn yếu kém cản trở hoạt động mở rộng thanh toán theo L/C tại Sở do rủi ro cao. Trình độ hiểu biết về XNK của các cán bộ DN còn thấp: Trước đây VN chỉ thực hiện XNK với các nước XHCN cho đến nay nước ta tham gia hội nhập với tất cả các nước trên thế giới vì vậy các DN có cơ hội thử sức trên thị trường quốc tế. Sự hụt hẫng ban đầu về trình độ và kinh nghiệm buôn bán là điều không thể tránh khỏi. Thêm vào đó hiện nay các DN VN chưa có sự hiểu biết đầy đủ thông tin về buôn bán quốc tế cũng như luật pháp các nước đối tác, đồng thời việc dự báo tình hình xuất khẩu dài hạn còn yếu. Theo số liệu điều tra của phòng thương mại và công nghiệp VN, hiện nay có tới 70 % giám đốc các DN vừa và nhỏ chưa qua đào tạo chính quy về nghiệp vụ ngoại thương. Thực lực tài chính của các DN XK còn kém. Hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay NH. Do vậy trong quá trình buôn bán với nước ngoài nếu các DN bị thua lỗ hoặc bị lừa đảo sẽ gây hậu quả nghiêm trọng liên quan đến chất lượng thanh toán, tín dụng của NH. TTQTchủ yếu dựa vào khách hàng truyền thống, chưa chủ động tìm kiếm khách hàng mới. Tuy gần đây, TTQT của Sở đã thu hút được thêm nhiều khách hàng mới là các Công ty trách nhiệm hữu hạn, khách hàng chủ yếu của NH vẫn là các khách hàng lớn truyền thống. Đó hầu như là khách hàng có quan hệ tín dụng với NH từ trước. Các khách hàng thực hiện TT tại NH đều do phòng tín dụng đưa sang. Phòng TTQT hầu như không mang lại khách hàng cho phòng tín dụng. Tức là khách hàng không đến với NH vì TTQT trước, mà đến với nghiệp vụ tín dụng, hoặc nghiệp vụ thanh toán trong nước của NH trước. Những khách hàng truyền thống này hầu hết là những công ty, tổng công ty lớn. Giao dịch của họ rất lớn và đôi lúc mang tính mùa vụ, chính vì vậy doanh số TTQT của NH bị ảnh hưởng rất nhiều vào những khách hàng này. Lúc thì lượng TTQT lớn, dồn dập, lúc thì không có gì. Nguyên nhân chính chủ yếu là: - Ngân hàng chưa đóng vai trò như là một người khởi xướng, hướng khách hàng vào các hợp đồng, vào thị trường XK có triển vọng. Như các NH nước ngoài vẫn đang áp dụng việc hỗ trợ hoặc tìm thị trường giúp DN. Việc này sẽ giúp NH chủ động hơn trong việc thanh toán. Để làm được điều này thì NH phải có nguồn thông tin chính xác, đầy đủ về thị trường XK. Đối với NH, ở đây có sự khó khăn trong việc tìm kiếm thông tin về thị trường quốc tế. NH có kinh nghiệm, có mối quan hệ nhưng mối quan hệ của NH với các đại lý (một nguồn cung cấp thông tin cho NH) không được gắn bó. Nếu muốn mua thông tin thì chi phí cho việc mua thông tin lại quá cao đối với NH... ứng dụng các biện pháp Marketing vào TTQT còn hạn chế. Hoạt động kinh doanh của NH có đặc điểm là thị trường thông dụng, sản phẩm mang tính đồng nhát, điều đó đòi hỏi NH phải linh hoạt sáng tạo mới có thể giành phần thắng trong cạnh tranh. Mặc dù việc lôi kéo là rất khó nhưng cần phải đi tìm khách hàng. Mặc dù NH cũng đã có một phòng Quản lý khách hàng riêng thực hiện Marketing nhưng như thế vẫn chưa đủ, cần phải thấy rõ một điều là “bất kì nhân viên nào, phòng ban nào thuộc NH thì đều phải làm Marketing”, phải chủ động tìm đến khách hàng. Các hoạt động Marketing hiện nay chỉ dừng lại ở việc ưu đãi cho khách hàng quen biết về phí dịch vụ, điều này quá quen thuộc đối với các NHTM VN hiện nay. Mà nguyên nhân sâu sa của việc ứng dụng hạn chế Marketing vào hoạt động kinh doanh của Sở là xuất phát từ đặc điểm chung của các NH Quốc doanh VN, chịu ảnh hưởng của cơ chế bao cấp. Mặt khác việc áp dụng Marketing vào NH là một vấn đề hết sức khó khăn đòi hỏi NH phải có đội ngũ cán bộ chuyên sâu lĩnh vực Marketing, có sự sáng tạo riêng trong hoạt động Marketing và đòi hỏi sự thống nhất của các phòng ban trong việc thực hiện. Về hoạt độn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34233.doc
Tài liệu liên quan