Hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam và giải pháp phát triển

Tài liệu Hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam và giải pháp phát triển: ... Ebook Hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam và giải pháp phát triển

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng: cơ cấu kinh tế có chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng trưởng ổn định trong một thời gian khá dài. Kết quả đó có sự đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) thuộc các thành phần kinh tế ở nước ta. SME trong thời gian qua có bước phát triển nhanh về số lượng, tham gia vào các loại hình kinh tế và sự đóng góp vào sự tăng trưởng GDP của nước ta ngày một cao. Tuy nhiên trong xu thế hiện nay, với quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trong khu vực và trên thế giới đã bước sang một giai đoạn phát triển với tốc độ hết sức nhanh chóng và sâu sắc, làm cho nền kinh tế thế giới ngày càng trở thành một chỉnh thể thống nhất, các quan hệ kinh tế được phát triển đa phương, đa dạng hoá dưới nhiều hình thức.Trong bối cảnh đó, đối với một nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra những cơ hội cho các doanh nghiệp nói chung và những doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng như là mở rộng thị trường cho hàng xuất khẩu, tiếp nhận vốn và công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp, nhờ đó tạo ra công ăn việc làm và đảm bảo tăng trưởng kinh tế, học tập được công nghệ quản lý mới, nhưng mặt khác lại đặt các doanh nghiệp Việt Nam vào tình thế phải cạnh tranh khốc liệt hơn. Thêm vào đó, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu ở Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất cũng như tiêu thụ trên thị trường quốc tế. Việc khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu là một trong nội dung quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Qua thời gian tìm hiểu, thu thập và tham khảo tài liệu về các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam, nhận thấy tầm quan trọng của việc hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta trong thập kỷ tới, nên tôi đã mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài: “Thực trạng hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam và giải pháp phát triển”. Đối tượng nghiên cứu của khóa luận tập trung vào các vấn đề thực trạng hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm qua đó đưa ra những giải pháp phát triển kinh doanh hàng xuất khẩu cho khối doanh nghiệp này trong nền kinh tế mở với những khó khăn, thách thức khi Việt Nam tham gia vào hội nhập kinh tế trong khu vực và thế giới. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ được đề cập trong khoá luận tốt nghiệp này được xác định theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/11/2001, trong đó quy định doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Nội dung của khoá luận tốt nghiệp bao gồm ba chương sau: Chương I: Khái quát chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ và chính sách hỗ trợ xuất khẩu. Chương II: Doanh nghiệp vừa và nhỏ và các chính sách hỗ trợ xuất khẩu ở Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp nhằm hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Do giới hạn về mặt thời gian cộng với trình độ còn hạn chế nên khoá luận tốt nghiệp này không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo của các thầy cô giáo trong Trường Đại học Ngoại thương cùng các bạn để khoá luận này được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo Thạc sỹ Phạm Thị Hồng Yến đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi nghiên cứu hoàn thành bản Khoá luận tốt nghiệp này. Sinh viên Phạm Thị Bích Thủy CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ XUẤT KHẨU. I- KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ. 1- Tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ Việc đưa ra khái niệm chuẩn xác về doanh nghiệp vừa và nhỏ có ý nghĩa rất lớn để xác định đối tượng được hỗ trợ. Vì vậy, hầu hết các nước đều nghiên cứu tiêu thức phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, trên thế giới không có tiêu thức thống nhất để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thậm chí ngay trong một nước, sự phân loại cũng khác nhau tuỳ theo từng thời kỳ, từng ngành nghề, địa bàn...Có hai nhóm tiêu thức chủ yếu dùng để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ: Tiêu thức định tính và tiêu thức định lượng. - Tiêu thức định tính: Dựa trên những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp vừa và nhỏ như không có vị thế độc quyền trên thị trường, chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít...các tiêu thức này có ưu thế là phản ánh đúng của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó, nó chỉ được làm cơ sở để tham khảo mà ít được sử dụng trên thực tế để phân loại. - Tiêu thức định lượng: Thường sử dụng các tiêu thức như là số lao động thường xuyên và không thường xuyên trong doanh nghiệp, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó: - Số lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách, lao động thường xuyên, lao động thực tế,.. - Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản hay vốn cố định, giá trị tài sản còn lại... - Doanh thu có thể là tổng doanh thu trong một năm, tổng giá trị gia tăng trong một năm(hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ tiêu này). Ở các nước, tiêu chí định lượng để xác định quy mô doanh nghiệp rất đa dạng. Dưới đây là một số tiêu chí phân loại SME qua điều tra ở 12 nước trong khu vực APEC. Trong các nước này, tiêu chí số lao động được sử dụng phổ biến nhất (12/12 nước sử dụng). Còn một số chỉ tiêu khác thì tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nước: vốn đầu tư (3/12), tổng giá trị tài sản (4/12), doanh thu (4/12) và tỷ lệ góp vốn (1/12). Số lượng tiêu chí chỉ có từ một đến hai và cao nhất là ba chỉ tiêu. Điều này được thể hiện một cách cụ thể dưới bảng 1.1 như sau: Bảng 1.1: Tiêu chí phân loại SME ở các nước APEC. Nước Tiêu chí phân loại Australia Canada Hongkong Indonesia Japan Malaysia Mexico Philippines Singapore Taiwan Thailand USA Số lao động Số lao động; Doanh thu Số lao động Số lao động; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu Số lao động; Vốn đầu tư Số lao động; Tỷ lệ góp vốn Số lao động Số lao động; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu Số lao động; Tổng giá trị tài sản Vốn đầu tư; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu Số lao động; Vốn đầu tư Số lao động Nguồn: Ban thương mại và đầu tư, tiểu ban kinh doanh vừa và nhỏ của các nước APEC, 2001. Ở Indonesia; Tổng cục thống kê nước này phân loại dựa vào số lao động: Doanh nghiệp có dưới 19 lao động được coi là nhỏ, doanh nghiệp có trên 20 lao động được coi là vừa và lớn. Bộ công nghiệp xác định SME dựa trên vốn đầu tư vào máy móc: dưới 70 triệu rupi và tính bình quân trên một lao động có dưới 625 nghìn rupi là doanh nghiệp nhỏ. Còn Ngân hàng Indonesia coi doanh nghiệp có tài sản dưới 100 triệu rupi là SME. Ở Hồng kông, doanh nghiệp có lao động dưới 200 người là SME. Ở Hàn Quốc; tiêu thức phân loại doanh nghiệp chủ yếu dựa vào số lao động và phân biệt theo hai lĩnh vực sản xuất và dịch vụ: trong lĩnh vực sản xuất dưới 1000 lao động, trong lĩnh vực dịch vụ dưới 20 lao động là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ở Đài Loan doanh nghiệp có số lao động dưới 300 người và vốn đầu tư dưới 1,5 triệu USD là SME. Ở Malaysia; doanh nghiệp có vốn cổ đông dưới 500 nghìn USD hay tài sản ròng dưới 200 nghìn USD, số lao động dưới 20 người, doanh nghiệp có vốn cổ đông hay tài sản ròng từ 0,5- 2,5 triệu USD, lao động dưới 100 người là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ở Thái Lan; doanh nghiệp có số lao động tối đa 250 người và vốn đầu tư không quá 99.500 USD là SME. Theo các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) thì SME là những công ty hạch toán độc lập không phải là các Công ty con của các Công ty lớn; tuyển dụng ít hơn một số lượng lao động đã được quy định. Số lượng này khác nhau giữa các hệ thống thống kê quốc gia. Giới hạn trần phổ biến nhất là 250 lao động tại các nước thuộc liên minh Châu Âu (EU). Tuy nhiên, một số nước đặt ra giới hạn ở mức 200 lao động, trong khi Mỹ coi SME bao gồm các Công ty có ít hơn 500 lao động.1 2. Các yếu tố tác động đến phân loại SME. Sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lớn, vừa, nhỏ hoàn toàn mang tính tương đối phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: - Trình độ phát triển kinh tế của một nước: trình độ phát triển càng cao thì chỉ số các tiêu chí càng tăng lên. Như vậy, ở một số nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao động, vốn để phân loại SME sẽ thấp hơn so với các nước phát triển. Chẳng hạn, ở Nhật Bản, doanh nghiệp có 300 lao động và 1 triệu USD tiền vốn là SME, còn doanh nghiệp có quy mô như vậy ở Thái Lan lại là doanh nghiệp lớn. 1 Nguồn: Tổ chức lao động Quốc tế (ILO-SAAT): Chính sách vĩ mô và công nghiệp nhỏ-Bài học từ Châu Á và Châu phi, New Delhi, 2001. - Tính chất ngành nghề: do đặc điểm của từng ngành nghề, có ngành sử dụng nhiều lao động (như dệt, may), có ngành sử dụng nhiều vốn ít lao động (như hoá chất, điện). Do đó, cần tính đến tính chất này để có sự so sánh đối chứng trong phân loại SME giữa các ngành khác nhau. Chẳng hạn: các ngành sản xuất có tiêu chí thường cao hơn, còn các ngành dịch vụ có tiêu chí thấp hơn. - Vùng lãnh thổ: do trình độ phát triển giữa các vùng khác nhau nên số lượng và quy mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Chẳng hạn, một doanh nghiệp ở thành phố được coi là nhỏ nhưng ở vùng miền núi, nông thôn lại được coi là lớn. Do đó, cần tính đến cả hệ số vùng để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh quy mô doanh nghiệp giữa các vùng khác nhau. - Tính chất lịch sử: một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn, nhưng với quy mô như vậy, hiện tại hoặc tương lai có thể là nhỏ hoặc vừa. Chẳng hạn, ở Đài Loan năm 1967, trong ngành công nghiệp, doanh nghiệp có quy mô dưới130.000 USD (5 triệu đô la Đài Loan là doanh nghiệp vừa và nhỏ khi đó, năm 1989 tiêu chí này là 1,4 triệu USD (hay 40 triệu đô la Đài Loan). - Phụ thuộc vào mục đích phân loại: khái niệm SME sẽ có sự khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích phân loại. Chẳng hạn, nếu mục đích phân loại để hỗ trợ các doanh nghiệp yếu, mới ra đời, sẽ khác với mục đích là để làm giảm thuế cho các công nghệ sạch, hiện đại, không gây ô nhiễm môi trường. II- VAI TRÒ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ. Trên thế giới, người ta đã thừa nhận rằng khu vực SME đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế và xã hội của mỗi nước. Tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế mỗi nước mà vai trò cũng thể hiệ47n khác nhau. Đối với các nước công nghiệp phát triển cao như CHLB Đức, Nhật Bản, Mỹ,... Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò hết sức quan trọng. Ở CHLB Đức, SME vẫn có vai trò quan trọng trên nhiều mặt. Ở Nhật Bản người ta coi SME là một nguồn lực bảo đảm cho sức sống của nền kinh tế, là bộ phận quan trọng của cơ cấu quy mô nhiều tầng của các doanh nghiệp. Đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển thì ngoài vai trò là bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân, tạo công ăn việc làm, góp phần tăng trưởng kinh tế, SME còn có vai trò quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiến hành công nghiệp hoá đất nước, xoá đói giảm nghèo, giải quyết những vấn đề xã hội. Đối với các nước ở Châu Á như Hàn Quốc, Thái Lan, Philippin, Inđônêsia, SME có vai trò tích cực trong việc chống đỡ các tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, góp phần đáng kể vào sự ổn định kinh tế - xã hội và từng bước khôi phục nền kinh tế. Vai trò của SME được cụ thể hoá bằng các chỉ tiêu chủ yếu sau đây: Thứ nhất: SME chiếm tỷ trong cao về số lượng trong tổng số các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh của các nước: Theo tiêu chí xác định SME thì số doanh nghiệp này ở các nước chiếm tỷ lệ từ 90-99% tổng số doanh nghiệp của các nước. Cụ thể: Nhật Bản: 99,1%, các nước Tây Âu: 99% (riêng Đức: 99,7%), Mỹ và lãnh thổ Đài Loan : 98%, Singapore: 90%, Thái Lan, Malaysia, Indonesia: 95-98%. Thứ hai: Thu hút lượng lao động của toàn xã hội. Tuy số doanh nghiệp của khu vực SME chiếm tỷ trọng cao nhưng do số lượng lao động của từng doanh nghiệp không nhiều, nên tổng số lao động làm trong SME không nhiều, nhưng vẫn chiếm tỷ lệ đáng kể, từ 50-80%. Thứ ba: Đóng góp phần đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân và tăng trưởng kinh tế. Theo tính toán của các nước thì SME góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước. Sở dĩ SME có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước vì nó có tính linh hoạt cao, thích ứng với sự biến động của thị trường, khả năng thay đổi mặt hàng, mẫu mã nhanh theo thị hiếu người tiêu dùng. Bên cạnh đó, nhu cầu đầu tư vốn ít và sử dụng nguyên liệu, vật liệu có ở địa phương, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật - công nghệ nhanh nhạy hơn, đào tạo người lao động và người quản lý ít tốn kém hơn, yêu cầu về quản lý kinh doanh không đòi hỏi quá cao. Nhìn chung trên đây là những vai trò quan trọng của SME trong mỗi nền kinh tế các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, ngoài các chỉ tiêu quan trọng cơ bản nói trên, vai trò của SME còn thể hiện ở một vài chỉ tiêu khác như: gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh, góp phần giảm bớt chênh lệch trong xã hội, tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư của dân cư địa phương, cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau. III- NHỮNG BIỆN PHÁP HỖ TRỢ XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC. 1- Các biện pháp hỗ trợ: Trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu trở thành phương hướng chủ yếu của chính sách ngoại thương. Trong xu thế hiện nay, việc hỗ trợ đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu cho SME nói riêng và các doanh nghiệp kinh doanh khác nói chung là vấn đề cấp bách đối với các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển nhằm đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhìn chung có một số biện pháp chính để hỗ trợ xuất khẩu cho SME như sau: 1.1- Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng để thực hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu nói riêng chịu ảnh hưởng của cả tỷ giá hối đoái chính thức (TGHĐCT) và tỷ giá hối đoái thực tế (TGHĐTT). Tỷ giá hối đoái chính thức là tỷ giá do Nhà nước công bố tại một thời điểm nhất định như: TGCT giữa VND và USD ngày 23/3/2001 là 14.527 VND/USD. Nhưng tỷ giá hối đoái thực tế thì không phải như vậy mà còn phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát trong nước và tỷ lệ lạm phát của các nước có quan hệ thương mại. TGHĐTT và TGHĐCT có mối quan hệ như sau: TGHĐCT x Chỉ số giá trong nước TGHĐTT = ------------------------------------------- Chỉ số giá cả nước ngoài Việc đưa ra chỉ số giá cả nước ngoài vào tính toán tỷ giá thực tế cần phải được cân nhắc kỹ bởi vì, một nước có quan hệ thương mại với nhiều nước khác. Để sử dụng có hiệu quả chính sách tỷ giá hối đoái có thể phải tính tỷ giá hối đoái song phương đối với từng bạn hàng thương mại quan trọng. TGHĐTT thay đổi ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh xuất khẩu của SME nói riêng. Do đó, nó có thể gây tác động thúc đẩy hay kìm hãm hoạt động xuất khẩu. Điều này thể hiện: nếu TGHĐTT quá cao có nghĩa là đồng bản tệ có giá trị tăng lên so với đồng ngoại tệ thì hàng nhập khẩu trở nên rẻ tương đối so với sản phẩm nội địa mà chúng chịu chi phí tăng do lạm phát nhưng các nhà xuất khẩu trở nên kém sinh lợi do ngoại tệ thu được phải bán với tỷ giá chính thức cố định thấp. Nếu các nhà xuất khẩu tăng giá xuất khẩu để bù đắp chi phí thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề chiếm lĩnh thị trường. Như vậy, khi tỷ giá thực tế tăng so với tỷ giá chính thức thì sẽ khuyến khích nhập khẩu nhưng lại kìm hãm xuất khẩu. Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt thúc đẩy xuất khẩu, Nhà nước cần có biện pháp giảm lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền nội địa và có tỷ giá chính thức hợp lý, phù hợp với mục tiêu chung trong chiến lược phát triển hướng ngoại. 1.2. Thực hiện các biện pháp tài chính tín dụng: Việc Nhà nước áp dụng các biện pháp tài chính tín dụng nhằm mở rộng xuất khẩu là rất quan trọng, nhất là đối với các nhà xuất khẩu có quy mô vừa và nhỏ. Để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, thị trường mà ở đó cạnh tranh cực kỳ khốc liệt, nhà xuất khẩu phải thực hiện việc bán chịu, trả chậm, hoặc dưới hình thức tín dụng hàng hoá với lãi suất ưu đãi cho người mua. Trong trường hợp này, sự hỗ trợ của nhà nước là rất cần thiết đối với SME. Sự hỗ trợ trong việc đảm bảo tài chính tín dụng được thể hiện qua các hình thức: 1.2.1- Thực hiện biện pháp cấp tín dụng xuất khẩu: Vốn bỏ ra cho việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu thường rất lớn. Người xuất khẩu phải có vốn trước và sau khi giao hàng để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nhiều khi người xuất khẩu cần phải có vốn để kéo dài khoản tín dụng ngắn hạn dành cho khách hàng. Đặc biệt đối với SME vấn đề vốn đang là vấn đề rất khó khăn nên cần có sự cung cấp tín dụng của nhà nước với lãi suất ưu đãi. Cấp tín dụng trực tiếp cho SME không chỉ đơn thuần là trợ giúp để thực hiện xuất khẩu mà còn giúp đỡ doanh nghiệp giảm chi phí về vốn cho hàng xuất khẩu và giảm giá thành xuất khẩu. Tín dụng xuất khẩu có hai hình thức chủ yếu: Thứ nhất: Tín dụng trước khi giao hàng. Trước khi giao hàng SME cần có một lượng vốn nhất định để trả cho phần nhập khẩu nguyên vật liệu và các đầu vào trung gian trong nước, các bộ phận cấu thành trong nước khác như: tiền lương, lãi vay, địa tô cần thiết cho sản xuất hàng xuất khẩu và tồn kho thành phẩm xuất khẩu thông thường được chấp nhận dựa theo đơn đặt hàng xuất khẩu và được cung trong thời gian nhất định. Nhiều khi SME phải bỏ ra một số vốn lớn để ứng cho nhà sản xuất hàng xuất khẩu. Lãi suất tín dụng xuất khẩu là yếu tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của SME. Lãi suất thấp cho phép SME bán được giá thấp để cạnh tranh với hàng khác, đặc biệt là các nhà xuất khẩu nước ngoài như Thái Lan, Trung Quốc... Thứ hai: Tín dụng sau khi giao hàng. Đây là hình thức mua hối phiếu xuất khẩu hoặc tạm ứng theo chứng từ hàng hoá của Ngân hàng đối với SME. Loại tín dụng này thường để trả các khoản tín dụng trước khi giao hàng. 1.2.2. Biện pháp bảo lãnh tín dụng: Trong điều kiện cho phép, để chiếm lĩnh thị trường một số SME đã thực hiện bán chịu - trả chậm cho nước ngoài. Việc bán chịu như vậy thường có rủi ro dẫn đến mất vốn. Trong trường hợp này, để hỗ trợ xuất khẩu cho SME Nhà nước cần phải phát huy cao hơn hiệu quả của dịch vụ bảo hiểm xuất khẩu nhằm thực hiện đền bù vốn đã mất của SME cũng như các nhà kinh doanh khác để họ yên tâm hoạt động và giảm được rủi ro. Tuy nhiên, bản thân SME cũng sẽ quan tâm đến việc kiểm tra khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu và thu tiền bán hàng khi hết thời hạn tín dụng. Việc bảo lãnh tín dụng ngoài việc thúc đẩy xuất khẩu còn nâng cao hiệu quả xuất khẩu vì: Nếu có vốn SME có thể thực hiện việc bán chịu mà giá bán chịu bao gồm cả giá cả bán trả ngay công với phí tổn đảm bảo lợi tức. 1.3- Biện pháp trợ cấp xuất khẩu: Mục đích của việc trợ cấp xuất khẩu là giúp SME tăng thu nhập nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá xuất khẩu. Do đó đẩy mạnh được xuất khẩu. Có hai loại trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp trực tiếp và trợ cấp gián tiếp. Thứ nhất: Trợ cấp trực tiếp là áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với các nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu, cho nhà sản xuất được hưởng giá ưu đãi đối với các yếu tố đầu vào của sản xuất (như điện nước, vận tải, thông tin liên lạc, trợ giá xuất khẩu...). Đối với SME hình thức này rất có tác dụng và có hiệu quả. Thứ hai: Trợ cấp gián tiếp là hình thức trợ cấp của nhà nước thông qua việc Nhà nước dùng ngân sách của mình để giới thiệu, triển lãm, quảng cáo ... tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch xuất khẩu hoặc Nhà nước trợ giúp về kỹ thuật và đào tạo chuyên gia. Trong điều kiện cạnh tranh cả trong lẫn ngoài nước như hiện nay nhất là cạnh tranh ngoài nước, SME rất cần sự giúp đỡ của Chính phủ trong việc nghiên cứu thị trường, cung cấp các thong tin về thị trường, giới thiệu triển lãm và quảng cáo mặt hàng xuất khẩu. Những vấn đề này, bản thân SME không có khả năng làm hoặc nếu làm thì không có hiệu quả cao. Việc trợ giúp kỹ thuật và chuyên gia, không ai khác ngoài Nhà nước phải đảm nhận. SME cần có sự giúp đỡ về đào tạo chuyên gia, về cả nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu và cả về chuyên gia sản xuất. 1.4- Biện pháp hỗ trợ về thể chế - tổ chức: Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu bằng việc áp dụng các biện pháp thâm nhập thị trường và tạo điê kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ hàng hoá ở nước ngoài. Điều này thường được thể hiện như sau: - Lập các trung tâm cung cấp thông tin cho nhà xuất khẩu. - Đào tạo cán bộ, chuyên gia giúp các nhà xuất khẩu. - Lập các cơ quan Nhà nước ở nước ngoài để nghiên cứu tại chỗ tình hình thị trường hàng hoá, thương nhân và chính sách của chính phủ nước sở tại. - Nhà nước đứng ra ký kết các Hiệp định thương mại, Hiệp định hợp tác kỹ thuật, vay nợ, viện trợ trên cơ sở thúc đẩy xuất khẩu. 2- Kinh nghiệm hỗ trợ xuất khẩu cho SME của một số nước. Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đặt ra những thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung đặc biệt là SME nói riêng trong mọi lĩnh vực và quan trọng nhất là lĩnh vực xuất khẩu. Với những khó khăn đó, SME sẽ phải quyết tâm rất lớn, bên cạnh đó thì sự hỗ trợ của Nhà nước trong là một điều rất cần thiết đối với họ. Một trong những biện pháp có ý nghĩa lúc này là những kinh nghiệm thành công cũng như thất bại của các nước đi trước có thành tựu lớn trong phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá nhanh, có điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hoá tương đồng với chúng ta. Sau đây tác giả xin trình bầy kinh nghiệm của một số nước trong khu vực Châu Á. 2.1. Các biện pháp hỗ trợ của Đài Loan. Đài Loan là một quốc gia điển hình có nhiều SME. Sự thần kỳ của kinh tế Đài Loan cũng gắn với mức tăng trưởng cao và sự phồn vinh của SME. Quá trình phát triển này cũng gắn liền với nỗ lực của các xí nghiệp nhỏ và vừa trong sản xuất, tiết kiệm nhằm tăng sức cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu. Sự phát triển kinh tế Đài Loan luôn gắn chặt với hoạt động ngoại thương. Ngoại thương thực sự là động lực thúc đẩy các ngành sản xuất vươn lên, đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng. Do nhận thức được những giới hạn của thị trường nội địa, từ những năm 60 Đài Loan đã coi mở rộng xuất khẩu như một chính sách chỉ đạo, một phương châm chiến lược. Ngay trong những năm đầu thực hiện chiến lược "hướng về xuất khẩu", ngành ngoại thương Đài Loan đã trở thành lực lượng nâng đỡ và nuôi dưỡng các ngành công nghiệp. Cuối những năm 50, công nghiệp tư nhân của Đài Loan đã phát triển khá mạnh, thị trường nội địa đã tới mức bão hoà, công nghiệp Đài Loan chuyển từ "thay thế nhập khẩu" sang "đẩy mạnh xuất khẩu". Lúc này khu vực tư nhân đã có cơ sở khá vững, chính quyền Đài Loan đã khuyến khích họ phát triển ngoại thương, xâm nhập thị trường quốc tế qua hàng loạt các biện pháp cải cách kinh tế như chuyển thống nhất tỷ giá hối đoái, nới lỏng những hạn chế nhập khẩu... Năm 1965 Đài Loan đã mở "khu chế biến xuất khẩu" với nhiều ưu đãi về ngoại thương. Đồng thời các biện pháp tăng cường thực lực kinh tế và khả năng cạnh tranh, chính sách bảo hộ mậu dịch cũng dần được thay thế bằng chính sách tự do mậu dịch. Trong những năm cuối thập kỷ 50, đầu thập kỷ 60, Đài Loan đã áp dụng phương châm "hy sinh thuế cao, đẩy mạnh kinh tế, bồi dưỡng nguồn thuế", liên tục ban hành các pháp lệnh "khuyến khích đầu tư", "đầu tư Hoa Kiều"...Với nhiều ưu đãi dành cho SME thực hiện tái sản xuất mở rộng và đổi mới thiết bị. Chẳng hạn, Chính phủ miễn thuế 5 năm cho các xí nghiệp mới xây dựng, miễn thuế 4 năm cho các xí nghiệp đổi mới thiết bị tính từ lúc bắt đầu bán sản phẩm. Bên cạnh đó, Đài Loan còn thực hiện biện pháp "hạn chế lập xưởng", nghĩa là trên cơ sở đánh giá thị trường, chính quyền hạn chế khắt khe đầu tư vào một số ngành nào đó để đảm bảo có thị trường cho SME trọng điểm, tránh tình trạng sản xuất trùng lặp, gây lãng phí tiền lương, lao động và vốn. Trong thời gian 1970-1977 Đài Loan đã miễn giảm thuế, việc giảm thuế đã kích thích đầu tư. Do đó, số SME mới không ngừng tăng nên, SME cũ không ngừng gia tăng tài sản, khiến cho mức thuế cơ bản tăng lên, và giá trị tuyệt đối của thuế cũng không ngừng tăng lên. Cho tới những năm 80, Chính quyền Đài Loan ban hành một hệ thống chính sách tổng hợp hỗ trợ SME và ngay lập tức đã có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của khu vực này, tạo nên một làn sóng phát triển SME. Hệ thống chính sách hỗ trợ SME của Đài Loan từ năm 2000 đến nay bao gồm: 1. Chính sách hỗ trợ về tài chính tín dụng 2. Chính sách hỗ trợ về công nghệ 3. Chính sách nghiên cứu và phát triển 4. Chính sách về kiểm soát chất lượng sản phẩm 5. Chính sách quản lý đào tạo 6. Chính sách an toàn công nghiệp 7. Chính sách hỗ trợ nghiên cứu thị trường quốc tế 8. Chính sách trợ giúp SME hợp tác lẫn nhau cùng phát triển 9. Chính sách trợ giúp SME thích ứng với hệ thống pháp luật Với hệ thống chính sách này, Đài Loan đã thành công trong phát triển SME . Các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Đài Loan đóng góp bình quân mỗi năm tới 40% GNP, 60% kim ngạch xuất khẩu và tạo công ăn việc làm cho khoảng 68% lực lượng lao động cả nước.2 Ngoài những điểm nêu trên, về các phương tiện khai thác thăm dò tài nguyên, cung ứng nguyên liệu, mở rông thị trường, chuyển giao công nghệ, chính quyền Đài Loan đều căn cứ vào nhu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế, trực tiếp tham gia dẫn dắt, nâng đỡ khu vực SME ở các khu vực khác nhau. Về ngoại thương, Đài Loan tổ chức đặt trụ sở và mạng lưới mậu dịch ở hơn 50 nước và khu vực. Đồng thời còn tham gia triển lãm, hội trợ quốc tế, thường xuyên mời khách nước ngoài và các nhà kinh doanh đến Đài Loan tham quan, cử người đi nước ngoài để chào hàng. Để mở rộng mạng lưới mậu dịch quốc tế, Đài Loan đã xây dựng các trạm "phục vụ mậu dịch quốc tế"cung cấp cho SME các đường dây điện thoại và khuyến khích các cơ sở SME đặt đại lý ở nước ngoài… Với những biện pháp nâng đỡ điển hình như trên, trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, kết hợp với sự nỗ lực của bản thân SME, viện trợ của Mỹ... đã góp 2 Nguồn: vụ kinh tế Ngân hàng Đài Loan, 2002 phần giúp Đài Loan đạt được những thành tựu lớn trong ngoại thương. Cụ thể xin xem dưới bảng 1.2 sau: BẢNG 1.2: TỶ LỆ XUẤT KHẨU CỦA SME Ở ĐÀI LOAN THỜI KỲ 1996-2001. Đơn vị:% Thời kỳ Doanh nghiệp lớn SME Tổng số 1996 43,2 56,8 100 1997 41,8 58,2 100 1998 40,9 59,2 100 1999 40,2 59,8 100 2000 33,3 66,7 100 2001 25,2 74,8 100 Nguồn:Vụ nghiên cứu kinh tế ngân hàng Đài loan, 2002 Nhìn vào bảng trên ta nhận thấy xuất khẩu của SME ở Đài Loan có vai trò to lớn trong thương mại của công cuộc thực hiện chiến lược "hướng về xuất khẩu". 2.2. Các biện pháp hỗ trợ của Hàn Quốc. Xem xét quá trình phát triển kinh tế của Hàn Quốc từ cuối thập kỷ 50 đến nay, có thể nhận thấy nổi lên 3 giai đoạn phát triển với những ưu điểm phát triển khác nhau. Giai đoạn thứ nhất kéo dài cho đến thập kỷ 70 và trọng tâm ưu tiên phát triển là khuyến khích và thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu. Giai đoạn thứ hai kéo dài trong suốt thập kỷ 80, trong đó ưu tiên phát triển được dành cho công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất. Giai đoạn thứ ba bắt đầu từ đầu thập kỷ 80 mà trọng tâm của nó đã chuyển sang khu vực SME. Các biện pháp khuyến khích và ưu đãi đầu tư ở Hàn Quốc đã thay đổi theo từng giai đoạn phát triển và nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn. Để thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu cho đến đầu thập kỷ 70, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện chiến lược thúc đẩy xuất khẩu hơn là thay thế nhập khẩu. Chính phủ Hàn Quốc đã hỗ trợ mạnh mẽ cho các nhà xuất khẩu, với nhiều biện pháp khác nhau, gồm đối sử ưu đãi trong cấp vốn tín dụng và trong chế độ thuế khoá. Hệ thống cấp vốn tín dụng xuất khẩu đã đóng vai trò rất quan trọng nhằm hỗ trợ xuất khẩu cho đến giữa những năm 80 khi có được thặng dư về cán cân vãng lai. Bản chất của hệ thống này là chính sách tái chiết khấu của hệ thống ngân hàng để cung cấp tín dụng với lãi suất thấp thông qua các ngân hàng thương mại cho SME đã nhận được tín dụng thư. Các khoản cho vay chiết khấu của ngân hàng Trung ương Hàn Quốc cũng được mở rộng cho xuất khẩu trước khi giao hàng nhằm hỗ trợ cho việc mua nguyên liệu và các sản phẩm trung gian để sản xuất hàng xuất khẩu. Trước những năm 1980 lãi suất cho vay đối với xuất khẩu từ 6-10%/ năm, trong khi mức lãi suất chung là 17-23%/năm. Từ cuối những năm 1980, sự chênh lệch lãi suất mới được xoá bỏ. Nếu xem xét mức lãi suất trên thị trường tài chính phi chính thức tại thời điểm đó vào khoảng hơn 30%, thì sự ưu đãi đối với xuất khẩu qua tín dụng lãi suất thấp thật lớn. Hầu như mọi khoản tín dụng xuất khẩu đều được hỗ trợ thông qua cơ chế tạo tiền của Ngân hàng Trung ương dưới hình thức chiết khấu. Trong khoảng thời gian từ 1976-1986 tỷ lệ tín dụng của Ngân hàng Hàn Quốc trong tổng số khoản vay của Ngân hàng nội địa là 79,4%, đặc biệt vào những năm 1973-1981 tỷ lệ này lên tới 90,1%. Ngoài ra còn có rất nhiều biện pháp hỗ trợ khác của Chính phủ đối với hoạt động xuất khẩu của SME như chiết khấu thuế ra khỏi giá mua thiết bị và phương tiện đầu tư để sản xuất; trợ cấp cho việc cải tiến đóng gói và mẫu mã sản phẩm, mở rộng các phương tiện cung cấp dịch vụ kiểm tra hàng xuất khẩu, mở các trung tâm đào tạo tiếng nước ngoài, gửi các đoàn đến hội trợ triển lãm ở nước ngoài, tổ chức các cuộc triển lãm ở nước ngoài, tổ chức các cuộc triển lãm thương mại tại Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc cũng theo dõi chặt chẽ kết quả hoạt động xuất khẩu và hàng tháng hoặc hàng quý cung cấp các thông tin về các vấn đề kinh tế trong nước, về xu hướng của thị trường nước ngoài. Thông qua các cuộc họp thường kỳ do Tổng thống làm chủ tọa với sự tham dự của các quan chức cấp cao của Chính phủ để thực hiện xem xét kết quả hoạt động xuất khẩu. Nếu kết quả hoạt động xuất khẩu là yếu kém, thì Tổng thống sẽ thúc giục các quan chức có liên quan của Chính phủ và các nhà ngân hàng phải cung cấp hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa đối với xuất khẩu nhằm đạt được khối lượng xuất khẩu đề ra theo kế hoạch. Bằng cách đó, những cản trở đối với xuất khẩu được xoá bỏ một cách kịp thời phục vụ cho việc hỗ trợ SME. Một đặc điểm khác trong chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Chính phủ Hàn Quốc là sự hỗ trợ của Chính phủ cho xuất khẩu căn cứ vào kết quả xuất khẩu thực sự đạt được. Các nhà xuất khẩu được quyền nhận hỗ trợ chỉ là những doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu hàng năm vượt một mức nhất định. Để nhận được sự ưu đãi lớn hơn, các nhà xuất khẩu phải làm việc chăm chỉ và chuyên cần hơn, để cạnh tranh với nhau và với nước ngoài. Chiến thu._.ật buộc các doanh nghiệp Hàn Quốc phải cạnh tranh với các công ty nước ngoài đã mang lại những lợi ích lớn trong việc đẩy mạnh sự học hỏi, tiếp thu kiến thức mới qua làm việc, qua đó rút ngắn thời gian cần thiết cho học tập. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu toàn diện nói trên đã đóng vai trò cơ bản để SME của Hàn Quốc được mở rộng nhanh chóng và thu được kết quả mong muốn. Trên đây là những kinh nghiệm hỗ trợ cho SME trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu của một số nước trong khu vực Châu Á. Tuy nhiên, khi đưa ra những chính sách hỗ trợ xuất khẩu cho SME, quốc gia nào cũng khó có có khả năng áp dụng những chính sách, biện pháp hỗ trợ công khai khi muốn hoà nhập với nền kinh tế trong khu vực và thế giới. Do vậy, các chính sách hỗ trợ xuất khẩu đưa ra phải phù hợp với thông lệ quốc tế, nếu không sẽ gây ra phản ứng đối phó từ phía các đối tác. Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm của các nước đã trình bày ở trên, có thể làm bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hỗ trợ xuất khẩu cho SME trong điều kiện hiện nay, tuy nhiên, chúng ta áp dụng những bài học này một cách có chọn lọc không dập khuân máy móc. CHƯƠNG II: DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM I- KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM. 1. Khái niệm về các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) ở Việt Nam. Ở Việt Nam, trước đây, khái niệm SME đã được sử dụng để phân loại doanh nghiệp nhà nước với mục đích xác định mức cấp phát trong cơ chế bao cấp, xác định mức lương cho các giám đốc doanh nghiệp: Doanh nghiệp cấp 1, Doanh nghiệp cấp 2, Doanh nghiệp cấp 3. Tiêu thức phân loại chủ yếu là số lao động trong biên chế và theo phân cấp Trung ương - địa phương. Hiện nay, khi chuyển sang cơ chế thị trường, mục đích, cách thức, tiêu thức phân loại và đối tượng cũng khác trước. Phương pháp phân loại thường được sử dụng theo các tiêu chí: lao động, vốn (pháp định, cố định và lưu động), doanh thu. Trong đó hai tiêu chí được thống nhất chung là số lao động và vốn để xác định SME. Trước yêu cầu thực tiễn kinh doanh, vấn đề này đã được giải quyết tạm thời bằng Công văn số 681/CP-KTN ban hành ngày 20/6/1998, theo đó doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có số công nhân dưới 200 người và số vốn kinh doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 387.000USD)3. Tiêu chí này được xác định nhằm xây dựng một bức tranh chung về các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam phục vụ cho việc hoạch định chính sách. Trên thực tế, tiêu chí này không cho phép phân biệt doanh nghiệp nhỏ hay doanh nghiệp cực nhỏ, và nhất là đối với hộ kinh doanh cá thể hiện đang cần lưu tâm đặc biệt. Theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/11/2001, các doanh nghiệp vừa và nhỏ được xác định như sau: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Thông qua Nghị định này, Nhà nước ta đã thể hiện sự nhìn nhận tích cực về vai trò của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy vậy, cần có thời gian để đánh giá chính sách này và cần chuẩn bị các biện pháp kế hoạch cụ thể cho việc thực hiện chính sách. Chính sách hỗ trợ này không đi theo phương thức can thiệp trực tiếp vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa để tránh tình trạng SME phụ thuộc quá nhiều vào sự hỗ trợ của Nhà nước, mà phải khuyến khích tinh thần tự lực của SME. 2. Khái quát thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Như chúng ta đều biết, sự tồn tại và phát triển của khu vực tư nhân mới được chính thức thừa nhận từ năm 1990, khi luật doanh nghiệp và luật công ty được thông qua. Các bộ luật này đã được thay thế bởi Luật doanh nghiệp, có hiệu lực từ ngày 1/01/2000. Luật doanh nghiệp đưa ra 4 hình thức pháp lý cơ bản của doanh nghiệp: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp danh. Phần lớn các doanh nghiệp đăng ký dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Cho đến nay, việc phân loại các doanh nghiệp theo quy mô vẫn chưa được thực hiện trên phạm vi toàn quốc. Những tiêu chí phân loại quy mô đôi khi cũng rất khác nhau khiến cho việc tổng hợp số liệu chưa thực hiện được một cách có 3 Theo tỷ giá giữa đồng Việt Nam và Đôla Mỹ tại thời điểm ngày 20/06/1998. hệ thống. Dưới đây là một số bảng phân loại doanh nghiệp theo quy mô từ nhiều nguồn khác nhau: Bảng 2.1: Phân loại doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân chính thức theo số lượng lao động, 2001: Đơn vị:% Chỉ tiêu 1-100 lao động Trên 100 lao động Tổng cộng Số lượng 25.399 622 26.021 Số phần trăm 97,6 2,4 100 Nguồn: Tổng cục thống kê: Kết quả điều tra toàn bộ doanh nghiệp ngoài quốc doanh năm 2001, Nxb Thống kê, 2002 Bảng 2.2: Phân loại cơ sở kinh doanh phi nông nghiệp tại các vùng nông thôn theo quy mô (bao gồm các hộ kinh doanh cá thể) Đơn vị: % Chỉ tiêu 1-10 lao động 11-50 lao động 51-100 lao động Trên 100 lao động Tổng cộng Cơ sở kinh doanh 52,7 37,2 4,6 4,5 100 Hộ KD phi nông nghiệp 98,7 1,2 0,6 - 100 Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Các ngành nghề nông thôn Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2002 Xét về ngành nghề kinh doanh, thì các đơn vị kinh doanh thuộc khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu hoạt động trong ba ngành: (I) dịch vụ thương nghiệp, sửa chữa xe động cơ, mô tô xe máy 46%; (II) trong công nghiệp chế biến (22%); và (III) khách sạn nhà hàng (13%). Điều đáng lưu ý là có 21% doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực thuỷ sản và 26% công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực tài chính tín dụng, riêng trong lĩnh vực công nghiệp chế biến có tới 37,3% số SME hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, 11% trong ngành dệt, may, da và 18,6% trong ngành sản xuất các sản phẩm kim loại. Biểu đồ 2.1sẽ chứng minh về cơ cấu ngành nghề kinh doanh của SME. BIỂU ĐỒ 2.1 CƠ CẤU NGÀNH NGHỀ KINH DOANH CỦA SME: 4 46% 1 13%  2 19% 3 22% Chú thích:  )1: Khách sạn, nhà hàng )2: Các ngành khác )3: Công nghiệp chế biến )4: Dịch vụ thương nghiệp Nguồn: Chương trình phát triển dự án Mêkông (MPDF): Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân số 10: Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trên đường tiến tới phồn vinh, Leila Webster, Hà Nội, 2002. Xét về doanh thu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khu vực kinh tế tư nhân, thì cá nhân và nhóm kinh doanh chỉ chiếm 40% tổng doanh thu của khu vực kinh tế tư nhân. Như vậy, về khía cạnh này, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đăng ký chính thức, gồm doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, chiếm phần quan trọng hơn (khoảng 57%). Điều này có thể có khần do cá nhân và nhóm kinh doanh không khai báo đúng mức doanh thu của họ, mà khai báo thấp hơn thực tế là điều có thể xảy ra. Tuy vậy, nó phản ánh một thực tế là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có đăng ký chính thức có quy mô kinh doanh lớn hơn. Và nếu muốn kinh doanh quy mô lớn thì chắc chắn phải chuyển sang hình thức doanh nghiệp đăng ký chính thức, hoạt động theo nguyên tắc luật lệ của cơ chế thị truờng. Doanh thu của khu vực SME được thể hiện chi tiết dưới bảng sau: BẢNG 2.3:DOANH THU CÁC CƠ SỞ KINH TẾ THEO VÙNG LÃNH THỔ.  Đơn vị:% Phân theo vùng lãnh thổ Loại hình doanh nghiệp DNTN Công ty Công ty Hợp Kinh tế TNHH cổ phần tác xã cá thể 1.Vùng núi và trung du 2.Đồng bằng sông hồng 3.Khu bốn cũ 4.Duyên hải miền Trung 5.Tây nguyên 6.Đông nam Bộ 7.Đồng bằng sông Cửu Long 2,90 1,34 0,26 4,68 4,97 2,97 15,89 7,48 12,90 12,07 4,38 0,62 0,12 25,39 4,48 6,19 4,37 1,34 9,03 7,91 1,98 1,85 0,05 4,53 3,22 41,44 68,05 86,01 31,98 38,96 40,14 7,43 4,73 11,49 28,39 3,12 11,73 3,05 6,12 2,43 51,46 22,08 Tổng số 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW (CIEM), 2002 Theo bảng 2.3, điều đáng chú ý là doanh thu của khu vực miền Đông Nam Bộ, gồm cả thành phố Hồ Chí Minh, chiếm 51,46% tổng doanh thu của khu vực SME trên cả nước. Tiếp đến là Vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm 22,08%, và Vùng đồng bằng sông Hồng chiếm 11,73%. Như vậy, xét theo doanh thu, thì hoạt động của khu vực SME ở Việt Nam chủ yếu tập trung ở miền Nam Việt Nam. Vốn đầu tư thuộc khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam được thực hiện dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm tỷ trọng đáng kể. Tổng số vốn đang ký của hai loại hình doanh nghiệp này chiếm khoảng 60% tổng số vốn đăng ký của kinh tế tư nhân. cá nhân và nhóm kinh doanh chiếm khoảng 30%. Điều đáng chú ý là gần 50% vốn đăng ký của khu vực kinh tế tư nhân ở đồng bằng sông Hồng được thưc hiện dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, trong khi đó khoảng 60% vốn đăng ký ở Đồng bằng sông Cửu Long được thực hiện dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân. Nhìn vào bảng 2.4 dưới đây ta có thể thấy rằng vốn đầu tư phân bổ chủ yếu vào các ngành kinh tế như thương nghiệp, sửa chữa xe động cơ, mô tô chiếm 38,38% trong tổng số vốn đầu tư vào các ngành kinh tế của khu vực SME. Tiếp đến là ngành công nghiệp chế biến chiếm 26,98%, vận tải kho bãi và thông tin liên lạc chiếm 9,41%, ngành thuỷ sản chiếm 6,79%, xây dựng chiếm 6,17%. Như vậy, tổng số vốn đầu tư vào ngành thuỷ sản còn rất thấp trong khi kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của khu vực này chiếm tỷ lệ rất lớn cụ thể trong giai đoạn 1998-2002 chiếm tỷ trọng 25,1% trong kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của cả nước. Để tăng kim ngạch xuất khẩu hải sản trong thời gian tới cần phải chú ý đến việc đầu tư vốn cho khu vực này nhiều hơn. Sự phân bố vốn của khu vực kinh tế nhìn chung được thể hiện dưới bảng sau: Bảng 2.4: Vốn các loại hình kinh doanh phân theo ngành kinh tế (đến ngày 31/12/2002) Phân theo Loại hình doanh nghiệp  Đơn vị: % ngành kinh tế DNT N Công ty TNHH Công ty cổ phần Hợp tác xã Kinh tế cá thể 1. Nông nghiệp 2. Thuỷ sản 3. Công nghiệp khai thác mỏ 4. Công nghiệp chế biến 5. SX, phân phối điện, khí đốt và nước 6. Xây dựng 7. Thương nghiệp, sửa chữa xe động cơ mô tô 8. Khách sạn 9. Vận tải kho bãi và thông tin liên lạc 10. Tài chính tín dụng 11. Hoạt động khoa học và công nghệ 12. Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng 13. Ngành nghề khác 0,04 15,25 0,13 30,41 0,04 3,48 42,38 5,48 0,53 0,02 0,00 2,05 0,19 0,27 0,47 0,31 26,51 0,06 15,57 43,51 2,89 3,83 0,03 0,08 0,42 6,04 0,09 0,61 0,00 23,03 0,00 7,94 7,33 1,49 0,69 55,89 0,00 0,00 2,94 0,18 0,78 1,61 26,71 0,19 3,98 15,73 0,18 47,49 3,05 0,00 0,02 0,08 0,22 5,58 0,17 24,38 0,02 0,10 37,85 5,60 20,24 0,01 0,00 1,4 4,42 0,17 6,79 0,26 26,98 0,04 6,17 38,38 4,33 9,14 3,02 0,02 1,2 2,44 Tổng số 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW (CIEM), 2002. Khu vực SME là nơi tạo ra nhiều việc làm trong nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, sự phân bố lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn phụ thuộc vào phân bố địa lý của nước ta. Cụ thể xin xem thêm dưới bảng sau: BẢNG 2.5: LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ PHÂN THEO VÙNG LÃNH THỔ ( CÓ ĐẾN 31/12/2002). Đơn vị: % Phân theo vùng lãnh thổ Loại hình doanh nghiệp DNTN Công ty TNHH Công ty cổ phần Hợp tác xã Kinh tế cá thể 1. Vùng núi và trung du 2. Đồng bằng sông Hồng 3. Khu bốn cũ 4. Duyên hải miền Trung 5. Tây nguyên 6. Đông Nam Bộ 7. Đồng bằng sông Cửu Long 7,43 7,49 4,71 17,17 2,95 28,68 31,57 4,03 23 2,54 6,13 1,09 58,62 4,59 0,06 12,15 0,18 2,96 0,10 75,95 8,60 5,34 34,99 9,49 14,81 3,17 26,35 5,84 7,40 19,06 11,86 10,95 2,93 22,57 25,24 6,98 19,38 10,52 11,01 2,77 26,40 22,94 Tổng số 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế TW (CIEM ),2002 Như vậy theo bảng 2.4 thì khoảng gần một nửa (49,34%) số lao động của khu vực SME làm việc ở vùng miền Đông Nam Bộ và vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tiếp đó là vùng đồng bằng sông Hồng (19,38%), Duyên hải miền Trung (11%), và vùng Khu Bốn cũ(10,52%). Trong đó, số lao động làm việc trong loại hình kinh tế cá thể chiếm 81,21%, tiếp đến là các công ty TNHH chiếm 7,98%, DNTN chiếm 5,54%. Từ quá trình xem xét thực trạng khu vực SME ở Việt Nam, như trình bày ở trên đây, có thể rút ra một số nhận xét tổng quát như sau: Một là, xét trên tất cả các tiêu chí, phần lớn hoạt động của khu vực SME ở Việt Nam hiện nay chủ yếu tập trung ở miền nam Việt Nam, đặc biệt là vùng Đông Nam Bộ (gần 50%). Hai là, xét về ngành nghề kinh doanh, thì hoạt động của khu vực SME ở Việt Nam hiện nay hoạt động chủ yếu trong hai ngành. Đó là thương mại, dịch vụ sửa chữa và công nghiệp chế biến (cả hai ngành này chiếm 69% tổng số doanh nghiệp). Ba là, có thể nói, người Việt Nam vẫn chưa ưa chuộng sử dụng các hình thức doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn. Hình thức doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn năm 1997 chỉ chiếm 0,48% trong tổng số doanh nghiệp , trong khi đó hình thức kinh tế cá thể chiếm 98%. Điều này có thể xuất phát từ các nguyên nhân sau đây: - Phần nhiều trong số những người kinh doanh đều là người tự tìm việc làm cho mình. Họ khởi sự kinh doanh chỉ đơn giản là nhằm mục đích kiếm sống cho bản thân và gia đình họ, mà chưa suy nghĩ đến tương lai phát triển, cũng chưa có mục tiêu phát triển một cách rõ ràng. - Quy mô nhỏ, phạm vi giao dịch, quy mô giao dịch, số lượng giao dịch và tính chất của các giao dịch của họ cũng đơn giản; và bản thân người kinh doanh chưa có yêu cầu nhận biết và không nhận biết các rủi ro liên quan kinh doanh. - Hoạt động của họ chủ mang tính phi hình thức, vì vậy họ không có yêu cầu phải sử dụng luật lệ của nhà nước. Trong môi trường đó, sự tin cậy lẫn nhau, quen biết nhau là trên hết và chủ yếu. - Cho đến nay, kỹ năng và hiểu biết về quản trị kinh doanh của người Việt Nam mới bắt đầu xây dựng. Sự đào tạo về quản lý doanh nghiệp tại các trường đại học tập trung nhiều hơn vào các kiến thức chuyên môn quản lý bậc trung cho các công ty lớn, đặc biệt là nghiệp vụ kế toán, thống kê, quản lý tiền lương…Các sinh viên có ít cơ hội được đào tạo thực tiễn về lập kế hoạch kinh doanh cũng như khuyến khích phát triển những kỹ năng quản trị như kỹ năng bán hàng, tiếp thị, quản trị nhân sự… Nhiều doanh nghiệp hoạt động theo cách suy đoán của riêng họ. Có thể nói, trên đây là những vấn đề chung nhất về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Phần tiếp theo chúng ta sẽ nghiên cứu các vai trò của khối doanh nghiệp này. 3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong xuất khẩu và sự nghiệp phát triển kinh tế. 3.1- Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế: Ở nước ta SME có diện rộng, phổ cập chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp và có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội. Cùng với kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông thôn, SME được xem như là những nhân tố đảm bảo cho sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, khai thác tận dụng hiệu quả tiềm năng về vốn, tay nghề và những nguồn lực tiềm ẩn trong dân cư. Nó còn góp phần phân bố công nghiệp trên các địa bàn khác nhau; giữ vai trò bổ sung cho công nghiệp lớn; bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống, thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc. Bảng 2.6 cho thấy phần đóng góp vào GDP của doanh nghiệp tư nhân chính thức thường xuyên giữ ở mức 7,5%. Phần đóng góp của hộ kinh doanh cá thể và trang trại vào GDP giảm một ít từ 36% năm 1997 xuống còn 33,18% năm 2001. Phần đóng góp của khu vực kinh tế nhà nước tăng lên 41,4% năm 1999 và giảm xuống 41% năm 2001. Đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 7% lên hơn 10% GDP trong 5 năm cuối. Thực tế phần đóng góp 40,5% vào GDP của hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân chính thức (năm 2001) bao gồm phần đóng góp của các trang trại nông nghiệp và hộ kinh doanh nông nghiệp. Ước tính phần đóng góp của hộ kinh doanh phi nông nghiệp là 19% GDP4. Do vậy, toàn bộ khu kinh tế tư nhân đóng góp 26,31% GDP. Bảng 2.6: Đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế trong giai đoạn 1997-2001 (so sánh 1996) Đơn vi: % Các thành phần Kinh tế 1997 1998 1999 2000 2001 Khu vực quốc doanh 40,1 40,8 41,4 41,3 41,1 Khu vực ngoài quốc doanh 59,9 59,2 58,6 58,7 58,9 4 Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam: Điều tra về các doanh nghiệp nhỏ và vừa”,2002. -Trong nuớc 53,2 51,9 50,4 49,5 48,9 -Hộ KD cá thể và trang trại 35,9 35,0 34,2 33,4 33,1 -Tư nhân chính thức 7,75 7,7 7,5 7,5 7,2 -Tập thể 9,7 9,1 8,7 8,5 8,6 -Đầu tư nước ngoài 6,7 7,3 8,2 9,2 10,4 Tổng cộng 100 100 100 100 100 Nguồn: Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 2001, NXB. Thống kê, Hà Nội, 2002 Do số lượng SME tăng nhanh nên mặt hàng phong phú, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội, tính cạnh tranh tăng lên làm cho chất lượng hàng hoá và dịch vụ được nâng cao, thị trường sôi động hơn. SME còn góp phần khai thác tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế như tài nguyên, lao động, vốn thị trường, đặc biệt là tay nghề tinh xảo và truyền thống dân tộc. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân có ý nghĩa rất quan trọng trong vấn đề tạo công ăn việc làm, hiện nay khu vực này hầu hết là doanh nghiệp nhỏ và vừa với số lượng ước tính khoảng 70.000 doanh nghiệp có đăng ký (Trong số này bao gồm các loại hình như: Doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, công ty cổ phần và công ty hợp danh) và 2,1 triệu hộ kinh doanh51. Một thức tế tồn tại là những quy chế, chính sách không rõ ràng, khó khăn trong tiệp cận vốn, công nghệ và thị trường đã hạn chế tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân. Vì vậy, đóng góp của doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam vào việc tăng số lượng việc làm mang ý nghĩa rất quan trọng, vì khoảng 64,8% tổng số lao động được trả lương (không kể lao động trong các tổ chức hành chính, sự nghiệp) được tạo ra bởi khu vực này. Con số này thật đáng kể nếu so với con số 22,5% lao động được tạo ra bởi khu vực kinh tế nhà nước (Xem biểu đồ 2.2). 5 Nguồn: Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam,2002 BiÓu ®å 2.2: Tû lÖ lao ®éng ®−îc tr¶ l−¬ng trong khu vùc s¶n xuÊt n¨m 1993 - 1998 (%) 80 74.61 70 60 50 47.3 40 30 20 17.3 10 0  22.5  7.1  0.19  0.24  17.5  0.8  12.5  1993 1998 SOE Hîp t¸c x· Doanh nghiÖp t− nh©n Hé kinh doanh Doanh nghiÖp cã vèn ®Çu t− n−íc ngoμi Nguồn: Tổng cục thống kê: Điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1997-1998, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2001. Nếu xét từ góc độ tạo việc làm trên tổng số lao động thì hộ kinh doanh cá thể chiếm ưu thế trong khu vực kinh tế tư nhân (30,4%), nhưng đóng góp của chúng có xu hướng giảm vì số việc làm được tạo bởi cơ sở kinh doanh thuộc loại hình này rất ít. Tuy đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân chính thức vào GDP còn thấp (khoảng7.31% tập trung chủ yếu vào khối công nghiệp và dịch vụ), nhưng khu vực này lại tiềm tàng khả năng tạo nhiều công ăn việc làm hơn. Số liệu thống kê sơ bộ về thực trạng lao động ở Việt Nam năm 2001 cho thấy xu thế tương tự khi phân nhóm dân số từ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên theo ngành kinh tế và khu vực thành phần kinh tế (xem bảng 2.7): Bảng 2.7: Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên chia theo ngành kinh tế và khu vực thành phần kinh tế (năm 2001): Ngành kinh tế quốc dân Đ.vị Tổng số Thành phần kinh tế N.nước Tập thể Tư nhân và hỗn hợp Cá thể Vốn Đ.tư N.ngoài Tổng số -Trong đó: Người % 100 3.769.151 10 6.144.862 16,31 1.361.376 3,61 26.048.291 69,14 353.750 0,94 1. N.nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản Người % 23.654.058 62,78 279.478 0,74 5.916.336 15,70 165.396 0,44 17.279.805 45,86 13.026 0,03 2. Các ngành nghề khác(phi N.nghiệp) Người % 13.880.937 37,22 3.488.976 9,26 226.114 0,61 1.173.101 3,17 8.652.566 23,28 340.189 0,91 Tỷ lệ LĐ ngành nghề phi N.nghiệp % 100 24,8 1,65 8,55 62,55 2,45 Nguồn: Ban chỉ đạo điều tra việc làm Trung ương: Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra lao động – việc làm, ngày 1/7/2001. Một vai trò nữa rất quan trọng của SME là làm cho nền kinh tế năng động và có hiệu quả hơn. Do số lượng doanh nghiệp tăng lên rất lớn nên động lực cạnh tranh làm cho nền kinh tế thêm năng động và hiệu quả. Hơn nữa, các doanh nghiệp này có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ và hướng kinh doanh một cách nhanh chóng. Ngoài ra, do có nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh một số mặt hàng nên sẽ giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế: khi một doanh nghiệp đổ vỡ thì có các doanh nghiệp khác thay thế. Mặc dù khái niệm “Doanh nghiệp nhỏ và vừa” mới được xuất hiện ở Việt Nam sau thời kỳ đổi mới (năm 1986) song khu vực này đã phát triển với số lượng rất nhanh (Từ một số lượng không đáng kể là 4.000 doanh nghiệp có đăng ký chính thức lên tới trên 70.000 doanh nghiệp trong vòng một thập kỷ)6, đóng góp đáng kể cho GDP nói chung và ngành xuất khẩu nói riêng. Phát triển SME, làm cho số lượng doanh nghiệp tăng lên, làm tăng tính cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro, đồng thời tăng số lượng chủng loại hàng hoá, thoả mãn nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Nhà nước ta chủ trương thực hiện công nghiệp hoá, coi trọng công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn; SME với mạng lưới rộng khắp đã có truyền thống gắn bó với nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn sẽ là động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, nông thôn 6-Nguồn: Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam : “Tạo việc làm tốt bằng các chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ” (TS.Phạm Thị Thu Hằng) phát triển, sẽ hình thành những tụ điểm, cụm công - nông nghiệp để tác động chuyển hoá sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế như vậy, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế để góp phần cải thiện cán cân thương mại Việt Nam trong thời gian qua, SME đã không ngừng tham gia kinh doanh xuất khẩu nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cho khu vực này nói riêng và cả nước nói chung. Để đạt được những kết quả đó, là sự nỗ lực của mỗi bản thân các doanh nghiệp, kết quả đó được thể hiện dưới đây. 3.2-Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đối với ngành xuất khẩu Tuy gặp phải những cản trở không nhỏ trong việc thực hiện mở rộng hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhưng SME cũng đóng góp một phần tích cực vào sự nghiệp phát triển ngoại thương Việt Nam. Từ năm 1997- 2001, xuất khẩu của SME tăng rất nhanh và nhanh hơn rất nhiều so với các DNNN, trong hai năm 1998-1999, xuất khẩu không phải dầu thô của các DNNN tăng là 4,6%, thì SME tăng 72,5%. Do đó, mặc dù quy mô nhỏ, nhưng khu vực SME trong nước đã chiếm tỷ lệ 39,1% tăng trưởng xuất khẩu không phải dầu thô của giai đoạn này. Cụ thể sự đóng góp của SME vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam được thể hiện dưới đây: BẢNG 2.8:TỶ LỆ ĐÓNG GÓP CỦA SME VÀO TĂNG TRƯỞNG XUẤT KHẨU KHÔNG KỂ DẦU THÔ GIAI ĐOẠN 1997-2001. 1997 Tr USD 2001 Tr USD Tăng XK của 2 năm (%) Tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng XK(%) DNNN DN FDI (khu chế xuất) SME Tổng số 5.207 1.790 292 915 7.732 5.260 2.590 581 1.578 9.428 4,6 44,7 98,8 72,5 21,9 13,7 47,2 17 39,1 100 Nguồn: Kết quả hoạt động xuất khẩu và dự báo năm tiếp theo. Theo báo cáo không chính thức của Ngân hàng thế giới, TP Đà Lạt, 2002. Xuất khẩu của khu vực SME tăng mạnh mặc dù đầu tư năm 1997 giảm mạnh (xem sơ đồ 2.3), theo các nhà quản lý của SME định hướng xuất khẩu, điều này đạt được là do đầu tư trong những năm qua 1996-1997 đã dẫn đến việc dư thừa công suất vào năm 1998-1999, khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á nổ ra. Do đó, tăng xuất khẩu trong những năm 1999 một phần lớn là do mức sử dụng công suất hiện có cao hơn. Các công ty cũng cho biết đã chuyển hướng khỏi việc xuất qua trung gian sang xuất khẩu trực tiếp (FOB) với giá trị tăng cao hơn hẳn. Xuất khẩu FOB tăng từ 30% trong tổng xuất khẩu năm 1998 lên 50% năm 1999. Hầu hết số xuất khẩu trực tiếp này là sang các thị trường mới thường là Châu Mỹ-Lating và Đông Âu. Giá trị gia tăng theo xuất khẩu FOB cao hơn hẳn so với xuất khẩu theo hình thức gia công, nhưng rủi ro cũng cao hơn do SME phải tự tìm kiếm khách hàng cho mình. Như đã trình bày ở trên tình hình đầu tư trong những năm qua đối với khu vực SME giảm rất mạnh vào năm 1997 (giảm 3,7%) và tăng dần vào những năm tiếp theo 1998 (2,5%) năm 1999 (2,4%). Điều này được thể hiện một cách rõ nét nhất dưới sơ đồ sau: SƠ ĐỒ 2.3: TỐC ĐỘ TĂNG VỐN ĐẦU TƯ TRONG KHU VỰC SME NĂM 96-99 6.00% 4.00% 2.00% 0.00% -2.00% -4.00%  3.90% 1996  -3.70%  2.50% 2.40% 1999 -6.00% 1997 1998 Nguồn: Theo báo cáo không chính thức của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, 6/2000 Bên cạnh đó, những cải cách nhằm mở rộng quyền thương mại và khả năng tiếp cận với thị trường xuất khẩu cho phép SME của Việt Nam đã có tác dụng tăng xuất khẩu trong thời gian qua. Nếu tiếp tục có những cải cách nhằm hỗ trợ tự do hoá khu vực SME và nếu khả năng tiếp cận bình thường với tất cả các thị trường trên thế giới được mở rộng, SME sẽ tiến hành đầu tư giúp duy trì tăng trưởng xuất khẩu cao cho Việt Nam. Hiện nay, SME tuy không chiếm một tỷ lệ lớn trong giá trị xuất khẩu, nhưng lại có một vị trí không kém phần quan trọng trong hoạt động xuất khẩu thông qua vai trò cung cấp nguồn hàng cho các công ty kinh doanh xuất khẩu, tạo ra công ăn việc làm đáng kể trong lực lượng lao động nhàn rỗi. Về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu. Nhìn vào cơ cấu của các thành phần kinh tế trong GDP, có thể thấy các mặt hàng xuất khẩu chính của SME hiện nay bao gồm chủ yếu các loại hàng, nhóm hàng sau: - Hàng nông lâm, thuỷ hải sản chế biến và chưa chế biến. - Hàng thủ công, mỹ nghệ (đồ gỗ trạm, khắc, hàng thêu ren, mây tre, hàng mỹ nghệ, lụa tơ tằm...) - Hàng công nghiệp nhẹ (giày dép, may mặc, thảm...) Thật vậy, tuy chưa có sự thống kê riêng rẽ về tỷ lệ xuất khẩu các ngành hàng xuất khẩu của khu vực SME nhưng để chứng minh cho điều đó tôi xin được sử dụng số liệu của cuộc điều tra khảo sát được tiến hành thực hiện giữa Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) và Chương trình phát triển Dự án Mêkông (MPDF). Qua số liệu điều tra tại 457 SME đã chỉ ra rằng các doanh nghiệp này xuất khẩu chiếm 3/4 sản lượng của mình (xem bảng 2.9). Điều này có nghĩa là SME đã định hướng xuất khẩu mạnh hơn các DNNN. BẢNG 2.9: CƠ CẤU HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU CỦA CÁC SME. Hàng hoá xuất khẩu Tỷ lệ xuất khẩu/tổng số lượng (%) Các sản phẩm da Hàng may mặc Chế biến gỗ Cao su nhựa 85 80,5 75,1 75 Các sản phẩm phi kim loại 73,2 Thực phẩm đồ uống 63,2 Các sản phẩm hoá chất 20 Các sản phẩm khác 74,4 Nguồn:Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW (CIEM),2002 Mặc dù, với số lượng 475 doanh nghiệp được chọn làm mẫu chiếm tỷ lệ không lớn so với số lượng SME trong khu vực hiện nay, nhưng kết quả thông qua cuộc khảo sát đã phản ánh phần nào về cơ cấu hàng hoá kinh doanh xuất khẩu của SME ở Việt Nam. Điều đáng lưu ý trong trường hợp hải sản có thể coi là đại diện cho những ngành hàng xuất khẩu của SME. Bảng 2.10, cho thấy rằng về hải sản khu vực quốc doanh chiếm phần lớn 73% xuất khẩu năm 2001 nhưng xuất khẩu của khu vực này lại tăng chậm hơn khu vực SME: 14% so với trên 50% của khu vực SME. Điều đó khẳng định rằng mặt hàng kinh doanh xuất khẩu của SME ngày càng có hiệu quả trong công tác xuất khẩu. BẢNG 2.10: XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA SME GIAI ĐOẠN 1999 - 2002 Loại hình Doanh nghiệp Gia tăng xuất khẩu (%) Xuất khẩu tăng trưởng(%) Tỷ trọng 1999(%) DNNN 50,6 14,6 73,0 DN FDI 3,4 50 1,9 SME 46 50,7 25,1 Tổng số 100 22,5 100 Nguồn: Theo báo cáo không chính thức của Ngân hàng thế giới, TP Đà Lạt, 2002 Nhìn chung, hàng hoá mà SME kinh doanh xuất khẩu hiện nay chủ yếu là những mặt hàng cần ít vốn và công nghệ đơn giản, nhưng cần nhiều lao động. Giá trị gia tăng của một số mặt hàng không cao, nhưng điều quan trọng là việc sản xuất và tiêu thụ những mặt hàng này đã mang lại công ăn việc làm và thu nhập cho người sản xuất, mà phần lớn là các hộ kinh tế gia đình. Những mặt hàng do SME sản xuất có đặc điểm chung là sản phẩm của quy trình sản xuất nhỏ, sử dụng máy móc, kỹ thuật lạc hậu, thô sơ, tốn nhiều sức lao động. Gần đây nhờ quá trình cải cách kinh tế mở cửa, SME đã có mặt hàng sản xuất mang tính công nghiệp, nhưng thuộc loại công nghệ chưa thật cao và còn sử dụng nhiều lao động. Nhưng số SME có khả năng tiếp cận với loại hình này còn ít. Do vậy, trừ những mặt hàng sản xuất theo quy trình công nghiệp như dệt may, giày dép...Thì quy cách phẩm chất của các hàng hoá nhìn chung không đồng đều, không ổn định, đặc biệt là hàng thủ công mỹ nghệ, hàng mang tính chất nghệ thuật dân gian. Đặc điểm của hàng hoá, sản phẩm của khu vực SME tạo ra thường kém sức cạnh tranh trên thị trường, chi phí sản xuất cao, khó có thể thay đổi mẫu mã thường xuyên. Bản thân SME cũng khó thu thập thông tin về hàng hoá trên thị trường. Còn đối với những hàng hoá sản xuất công nghiệp như dệt may, giày dép thì hàng hoá thay đổi nhanh chóng theo mẫu mốt và thay đổi theo thị hiếu người tiêu dùng, mà các doanh nghiệp lại thiếu nguồn thông tin và cơ hội tiếp xúc với thị trường bên ngoài, hoặc là thiếu những kỹ năng thiết kế hàng hoá hiện đại. Nhưng loại hàng này, họ thường thụ động sản xuất theo mẫu mã, quy cách phẩm chất do khách hàng đưa ra. Với những đặc điểm trên đã làm cho hàng hoá của SME có khả năng cạnh tranh kém trên thị trường quốc tế, các mặt hàng có khả năng cạnh tranh kém là đó là những mặt hàng chế biến thực phẩm, hàng may mặc, sản phẩm nhựa, hàng nội thất, sản phẩm làm từ gỗ, đồ da và đồ gốm. Nói cách khác, tính cạnh tranh xem ra rất kém ở những ngành hàng đòi hỏi công nghệ cao, điều này phản ánh một hiện thực là phần lớn SME vẫn chưa sẵn sàng cạnh tranh với các doanh ngiệp nước ngoài một khi các doanh nghiệp này tham gia hội nhập khu vực và toàn cầu. Tin tưởng vào khả năng kinh doanh của người trực tiếp sản xuất, tin tưởng vào khả năng hợp tác, đoàn kết của họ trong hiệp hội mang tính tự nguyện để xoá bỏ cơ chế xuất khẩu có thể sẽ tạo điều kiện cho SME tăng cường khả năng xuất khẩu của mình nói riêng và cải thiện cán cân thương mại Việt Nam nói chung. II- LỢI THẾ VÀ THỰC TRẠNG HỖ TRỢ XUẤT KHẨU CỦA CÁC SME Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 1. Những lợi thế của SME so với các doanh nghiệp khác ở Việt Nam trong hoạt._.ện nay, nhưng để hoạt động có hiệu quả, đòi hỏi sự tác động đồng bộ của các loại chính sách hỗ trợ khác. Cần có sự phân loại, tập trung hỗ trợ cho SME thuộc khu vực có tính hiệu quả và thiết thực, tạo ra một môi trường thuận lợi cho SME hoạt động. 2. Tiếp tục đổi mới chính sách thuế theo hướng hỗ trợ cho SME. Mặc dù, chính sách thuế trong thời gian qua đã có sự hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và SME nói riêng. Nhưng thực sự vẫn chưa khuyến khích SME. Trong thời gian tới chính sách thuế tiếp tục đổi mới đảm bảo sự công bằng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, không phân biệt kinh tế với kinh tế quốc doanh. Chính sách thuế phải xác định đúng đối tượng được ưu đãi, cho đến nay, trong các chính sách thuế của Nhà nước, loại đối tượng được ưu đãi thường mang tính chính sách xã hội như: ưu đãi các doanh nghiệp ở miền núi, hải đảo, một số doanh nghiệp trong ngành chế biến nông sản. Trong chính sách thuế, chưa quan tâm ưu đãi theo quy mô, chưa tạo điều kiện để SME vượt lên sự yếu ớt của họ để đứng vững và kinh doanh có hiệu quả. Do đó, trong chính sách thuế ưu đãi hỗ trợ cho các doanh nghiệp cần xác định đúng đối tượng và tiêu thức ưu đãi, thực hiện theo quy mô để hỗ trợ cho SME kinh doanh xuất khẩu. Tăng mức ưu đãi cho SME, trong thời gian qua, mức ưu đãi còn rất dè dặt, chỉ miễn giảm thuế cho SME 1- 2 năm (trong khi các nước khác trong khu vực như Inđônêxia, Đài Loan là 4-5 năm. Hệ thống thuế của nước ta được cho là khá phức tạp với nhiều ưu đãi, miễn thuế và nhiều mức thuế suất (đặc biệt là thuế xuất nhập khẩu) nên các thông tin về chính sách thuế không phải lúc nào cũng sẵn có và đến kịp thời tới các doanh nghiệp. Do ranh giới giữa các tiêu chí để áp dụng mức thuế không rõ ràng nên việc áp dụng mức thuế này hay mức thuế khác đối với cùng loại sản phẩm hay nhóm sản phẩm, thậm chí giữa các loại hình doanh nghiệp phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của cán bộ thuế, tính không rõ ràng về thuế là một trong những khe hở lớn gây nên tình trạng tham nhũng, thông đồng giữa cán bộ thu thuế với người nộp thuế, gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước. Mặt khác, không có phán quyết mang tính trọng tài nên nhiều doanh nghiệp phải “ngậm đắng nuốt cay”. Theo thống kê của Tổng Cục thuế năm 2001, trong giai đoạn 1991-2000, tốc độ tăng thuế của khu vực các doanh nghiệp tư nhân tăng gấp 4,5 lần, tăng bình quân khoảng 40-50%/năm, trong khi đó mức tăng GDP của khu vực kinh tế này chỉ khoảng 15-20%/năm. Các cơ quan thu thuế còn ấn định giá trị đầu vào sản xuất, kể cả tiền lương nhằm cố gắng thu tối đa thuế thu nhập doanh nghiệp . Đây cũng là một lý do tại sao các doanh nghiệp nhỏ và vừa không dám trả lương có cho công nhân. Ngoài chi phí trực tiếp, các doanh nghiệp thường phải trả những chi phí gián tiếp vô hình như: - Bồi dưỡng không chính thức cho cán bộ thuế. - Thời gian hoàn thuế giá trị gia tăng kéo dài dẫn đến chiếm dụng vốn của doanh nghiệp. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đối với SME. - Thời gian phát hành các giấy chứng nhận để nhận thuế ưu đãi kéo dài. - Sự thay đổi đột ngột của chính sách thuế (đặc biệt là thuế xuất nhập khẩu) gây ra những thất thoát không dự tính khi ký hợp đồng. Bên cạnh đó, nhà nước cần điều chỉnh chính sách thuế để nâng cao hàm lượng nội địa và tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu. Hàm lượng nội địa không chỉ làm tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu mà còn có ý nghĩa quyết định khi xác định xuất xứ để hưởng các ưu đãi thuế quan trong các định chế song biên và đa biên. Một trong những lý do khiến hàm lượng nội địa trong sản phẩm xuất khẩu tăng chậm là do nếu dùng nguyên liệu ngoại nhập để sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp được nộp chậm thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng trong vòng 270 ngày, nhiều trường hợp còn được khách hàng cho nợ tiền nguyên liệu khi xuất khẩu mới quyết toán và khâú trừ. Trong khi đó, nếu đi mua nguyên liệu trong nước phải trả tiền và nộp thuế giá trị gia tăng ngay từ lúc mua vaò. Điều này giải thích tại sao một số doanh nghiệp gia công đến cả bao bì nilon, thùng carton, móc treo quần áo cũng nhập khẩu. Các doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu cho xuất khẩu , nhưng không có hợp đồng với nước ngoài, hoặc không có hợp đồng 3 bên tham gia xuất khẩu mà chỉ đơn thuần làm vệ tinh cho doanh nghiệp xuất khẩu vẫn chưa được ưu đãi theo Quyết định 908/QĐ-TTg ngày 26/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Vì vậy, Bộ Tài chính cần khẩn trương có những chính sách điều chỉnh về vấn đề này. Trong nhưng năm qua chính sách thuế nước ta có nhiều bước tiến đáng kể song những quy định về mức thuế, cách tính thuế vẫn còn cồng kềnh phức tạp và nghĩa vụ thuế đang chở thành gánh nặng cho các doanh nghiệp nhất là đối vơi doanh nghiệp vừa và nhỏ kể cả mặt chi phí lẫn thủ tục nộp thuế. Miễn, giảm thuế thường là hình thức để được cung cấp theo theo quy định hiện hành, xong doanh nghiệp vừa và nhỏ hiếm khi nhận được ưu đãi này, do vậy cũng không dễ dàng khi nhận được ưu đãi về thuế. Do đó, cần có biện pháp tích cực hơn để hỗ trợ trong thời gian tới. Giảm đáng kể các mức thuế suất cao, làm lành mạnh hoá trong cơ cấu thuế theo hướng giảm dần tỷ trọng thuế xuất khẩu và tăng dần tỷ trọng thuế trực thu, nhất là thuế thu nhập cá nhân. Chính sách thuế đổi mới phải đảm bảo tính ổn định trong một thời gian tối thiểu là hai năm, ngoài ra còn cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan hải quan và các cơ quan tài chính nhằm tránh tình trạng xấu xảy ra trong công tác hoàn thuế (Một ví dụ cụ thể: Do việc trao đổi thông tin giữa cơ quan thuế và cơ quan hải quan kém, nên nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là SME đã nộp thuế nhưng vẫn bị các cơ quan hải quan "cưỡng chế nhầm" vì cơ quan tài chính vẫn chưa thông báo cho hải quan biết doanh nghiệp đã hoàn thành nghĩa vụ thuế13. Khi có các thay đổi trong chính sách thuế, cơ quan Thuế cần thông báo rỗng rãi kịp thời đến các doanh nghiệp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, bằng văn bản ….Cơ quan thu thuế cũng cần đặt ra thời gian hoàn thuế giá trị gia tăng hợp lý tránh tình trạng chiếm dụng vốn, nhất là đối với SME. Nhìn chung, chính sách thuế đối với SME cần được đặt trong hệ thống chính sách hỗ trợ SME nói chung, tạo nên sự tổng hợp thúc đẩy sự phát triển của SME trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở nước ta. 3. Tăng cường hoạt động của các Quỹ hỗ trợ SME trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Hiện nay tại Việt Nam, tài trợ xuất khẩu vẫn chưa được quan tâm đúng mức, các hệ thống bảo hiểm thương mại và tín dụng xuất khẩu chưa hoạt động một cách có hiệu quả. Do vậy, khu vực SME vẫn phải phụ thuộc vào thư tín dụng trả chậm và hoạt động tài trợ thông thường. Để mở rộng các cơ hội xuất khẩu, cần phải có sự bảo đảm về tài trợ xuất khẩu và quỹ phục vụ nhu cầu về vốn.Trong năm 1999, Bộ tài chính và Ngân hàng nhà nước đã công bố đề xuất thành lập Quỹ tín dụng xuất khẩu. Căn cứ vào Nghị định 51/NĐ-CP ban hành vào tháng 7/1999, việc thành lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu đã được công bố. Ngày 23/11/2001, Nghị định số 90/2001/NĐ_CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển 13 Theo báo cáo của MECANIMEX SAIGON trong buổi gặp mặt với thủ tướng Chính phủ (3/2000) doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng đã đưa ra việc thành lập thêm các cơ quan hỗ trợ như: Quỹ Bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, trên thực tế việc sử dụng Quỹ hỗ trợ xuất khẩu đối với SME vẫn gặp nhiều khó khăn: có doanh nghiệp làm đơn xin vay từ Quỹ tín dụng xuất khẩu, sau 14 tháng chờ đợi, vẫn không có hồi âm gì14. Do vậy, trong thời gian tới Nhà nước nên triển khai hoạt động của các quỹ hỗ trợ SME như: Thứ nhất: Triển khai rộng rãi mô hình "Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa" nhằm hỗ trợ cho SME có điều kiện tiếp cận với các ngân hàng và vay bảo lãnh ở ngân hàng. Quỹ này giúp cho SME không đủ tài sản thế chấp vay vốn của các tổ chức tín dụng, và hoạt động không vì mục đích lợi nhuận trên nguyên tắc bảo toàn vốn, tự bù đắp chi phí và được miễn các khoản thuế. Thực tế cho thấy Quỹ bảo lãnh tín dụng SME được thực hiện thành công ở một số nơi mà điển hình là Quỹ Bảo lãnh tín dụng của Ngân hàng Công thương Việt Nam và tỉnh Bắc Giang đã hình thành thí điểm “Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa”. Chúng ta cần nhân rộng thêm mô hình hoạt động của Quỹ này trong toàn quốc. Thứ hai: Nhà nước có thể thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm hỗ trợ SME trong việc tiếp cận các nguồn vốn đầu tư giúp SME trong việc sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Hiện đã có 6 Quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động ở Việt Nam với tổng vốn đầu tư là 68 triệu USD. Tuy nhiên, các quỹ này mới chi hỗ trợ 18 triệu USD cho SME. Đó là các quỹ Beta, Veil, Vietnam Frontier, và Quỹ Việt Nam, còn hai Quỹ Lazard và Templeton đã chuyển trọng tâm hoạt động sang các nước trong khu vực. Ngoài ra, Chính phủ cần có biện pháp nhằm tạo điều kiện về mặt tài chính cho SME như trợ cấp vốn không hoàn lại cho các dự án của SME ở các vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, các lĩnh vực độc hại... Thứ ba: Trong điều kiện hiện nay thành lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu cho SME là cực kỳ cần thiết. Hầu hết các quốc gia bên xuất khẩu đều có hệ thống bảo hiểm xuất khẩu do Chính phủ bảo trợ mà trong đó bên xuất khẩu có thể mua bảo hiểm rủi ro tín 14 Theo thời báo Sài Gòn, số 13-1999 ngày 25/3/1999, trang11 dụng và các rủi ro khác của bên nhập khẩu và ngược lại. Các nghiệp vụ bảo hiểm cần được nghiên cứu áp dụng bao gồm: bảo hiểm xuất khẩu toàn diện, trong đó bên xuất khẩu được bảo hiểm từ khi ký kết hợp đồng xuất khẩu đến khi thanh toán xong; bảo hiểm hoá đơn xuất khẩu, các tổ chức bảo hiểm sẽ bảo vệ quyền lợi của bên xuất khẩu khi bên nhập khẩu không chịu thanh toán. Thứ tư: Nhà nước có thể triển khai và khuyến khích các hiệp hội ngành nghề với sự hỗ trợ từ các Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Quỹ này sẽ cấp tín dụng ưu đãi hoặc bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp đã có hợp đồng xuất khẩu. Nhà nước cũng có thể tổ chức riêng Ngân hàng phát triển SME, mọi hoạt động của Ngân hàng này nhằm đáp ứng hỗ trợ cho SME trong sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Triển khai, tăng cường mở rộng hoạt động của các Quỹ hỗ trợ xuất khẩu nhằm hỗ trợ cho SME trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là rất cần thiết mà Nhà nước cần quan tâm chú ý đến. 4. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại nói chung, đối với SME nói riêng. Đây là một hoạt động thiết thực, ý nghĩa nhất trong tình hình thương mại Việt nam hiện nay, nhờ nó SME có thể có được cơ hội thu thập thông tin các loại cần thiết cho mình về thị trường, giá cả, cung cầu, mẫu mã, chất lượng, chủng loại sản phẩm hàng hoá, cả trong lẫn ngoài nước. Xúc tiến thương mại là một điều kiện quan trọng để hỗ trợ cho SME hoạt động xuất khẩu một cách có hiệu quả. Xúc tiến thương mại được thực hiện bằng nhiều phương thức quy mô khác nhau. Hiện nay, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã đảm nhận lĩnh vực này. Đó là: - Hỗ trợ và tạo điều kiện cho SME ra nước ngoài, kể cả các đoàn cấp cao của Đảng, Nhà nước để thâm nhập thị trường, tiếp cận cơ hội xuất khẩu, phát triển kinh doanh; - Phối hợp và hỗ trợ SME thực hiện chiến lược maketing cho từng ngành hàng, mặt hàng quan trọng và tham gia các hội trợ, triển lãm và các hoạt động xúc tiến thương mại khác ở nước ngoài. - Có cơ chế tiếp xúc và tham vấn định kỳ giữa Bộ thương mại và các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề về các vấn đề có liên quan đến xuất khẩu. - Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến thương mại cho các Sở thương mại và các doanh nghiệp. Mở rộng các quan hệ hợp tác đa phương và song phương với nước ngoài trong công tác xúc tiến thương mại. - Mở rộng và khai thác thương mại điện tử, tổ chức đào tạo nhân lực trong lĩnh vực này. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và đặc biệt là SME nói riêng tiến hành xuất khẩu đã gặp phải không ít những khó khăn về thị trường nước ngoài, về đối tác nước ngoài,...do đó, hỗ trợ SME đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại là vô cùng cần thiết và cấp bách. 5. Xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ xuất khẩu. Thông tin thị trường là một trong những nhân tố quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu. Cho đến nay, tại Việt Nam vẫn còn ít những trung tâm thông tin hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Việc tìm hiểu các thông tin về thị trường, luật pháp của các nước khác đối với SME là điều hoàn toàn khó khăn. Hệ thống thương vụ của Việt Nam tại các quốc gia hoạt động chưa có hiệu quả để cung cấp những thông tin thị trường và quy định thương mại của nước đó. Việc xây dựng và khuyến khích thành lập các trung tâm thông tin hỗ trợ xuất khẩu một cách thông suốt từ các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, Bộ thương mại đến các Sở thương mại và các doanh nghiệp là việc mà Nhà nước nên xem xét xúc tiến khẩn trương trong thời gian tới. Biện pháp này sẽ được thay thế đắc lực và hiệu quả cho biện pháp định hướng sản phẩm xuất khẩu, trợ giá xuất khẩu mà Nhà nước vẫn thực hiện cho đến nay. Các trung tâm này có thể do một hiệp hội ngành nghề hoặc do Tổ chức chức phi chính phủ thành lập, Nhà nước có thể hỗ trợ một phần tài chính, đặc biệt trong thời gian đầu, phần còn lại là thu lệ phí từ các doanh nghiệp. Các trung tâm này tổ chức tốt việc thu thập, xử lý và cung cấp định kỳ hàng năm, hàng quý các ấn phẩm về thị trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp. Ngoài việc cung cấp thông tin theo phương thức hỗ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp, cần thực hiện thương mại hoá thông tin và áp dụng các phương thức linh hoạt khác nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể, kịp thời cho SME. 6. Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế giới. Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế giới là biện pháp cần thiết để giúp doanh nhiệp tìm kiếm và mở rộng thị trường của mình. Không có sự hỗ trợ của Nhà nước, SME khó có thể có điều kiện để tham dự những hội trợ, triển lãm ở nước ngoài. Cho đến nay, thông qua một số dự án, Nhà nước đã hỗ trợ một phần tài chính cho doanh nghiệp trong việc tham gia các cuộc triển lãm, hội trợ quốc tế. Tuy vậy, biện pháp này cần được mở rộng cả về phạm vi lẫn hình thức hỗ trợ. Ví dụ: hỗ trợ thêm một phần tài chính nếu doanh nghiệp ký kết được hợp đồng cho sản phẩm mới hoặc thị trường mới, khấu trừ một phần thuế thu nhập doanh nghiệp theo một tỷ lệ nhất định với chi phí tham dự triển lãm, hội trợ ở nước ngoài. Bên cạnh đó, Nhà nước có thể khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng ở nước ngoài mạng lưới đại lý, phân phối hàng, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày sản phẩm; áp dụng các phương thức mua bán linh hoạt như gửi bán, thanh toán chậm, đổi hàng phù hợp với từng mặt hàng, từng thị trường.. Đây là biện pháp đối với khả năng của SME hiện nay là cực kỳ khó khăn, nhưng cũng nên áp dụng dần dần để sau này sẽ hiệu quả hơn trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp này xuất khẩu. 7. Tiếp tục đổi mới chính sách thương mại trong việc hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để gia tăng kim ngạch xuất khẩu, SME không chỉ cần sự hỗ trợ về mặt vật chất hoặc các yếu tố sản xuất, mà còn cần sự hỗ trợ về thể chế, đặc biệt là cần một quy chế thương mại rõ ràng và thuận lợi cho các hoạt động xuất khẩu của mình. Ở nước ta, quy chế và thể chế của chính phủ tuy không có chủ đích phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp lớn và SME . Nhưng trong thực thi lại rất rõ sự phân biệt đó. Sự phân biệt đó được thể hiện rất rõ trong các chính sách thương mại. Nhìn chung, SME vừa chịu bất lợi về chính sách, về thể chế của chính phủ. Chính phủ đưa ra quy định về bảo hộ đặc biệt cao trong những ngành có tỷ trọng SME thấp; Chính phủ tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp lớn; những hạn chế có tính chất "vô hình" trong quy chế của chính phủ như: về thị trường xuất khẩu, năng lực kinh doanh, các tiêu chuẩn quy định chất lượng...không phù hợp với SME. Do vậy, để thúc đẩy SME tham gia mạnh mẽ vào công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế thì Nhà nước phải có chính sách thương mại phù hợp hỗ trợ cho SME, tạo điều kiện thông thoáng hơn cho SME thúc đẩy xuất khẩu. Để tiếp tục theo đuổi những nỗ lực quan trọng của Chính phủ nhằm mở rộng thị trường quốc tế cho tất cả các doanh nghiệp, kể cả SME. Để khắc phục sự hạn hẹp do cách ghi ngành hàng cụ thể trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hiện hành nghiên cứu bãi bỏ quy định chỉ cho xuất khẩu theo ngành hàng đã đăng ký kinh doanh, cho phép doanh nghiệp tự do xuất khẩu những mặt hàng mà Nhà nước không cấm hoặc không hạn chế xuất khẩu. Đồng thời cần xem xét sửa đổi để đẩy nhanh quá trình cấp mã thuế. Trong thời gian tới, quy chế thương mại cần có sự thay đổi như: xoá bỏ đầu mối xuất khẩu đối với một số mặt hàng như gạo xuất khẩu, và nhập khẩu đối với phân bón; sử dụng có hiệu quả các công cụ bảo hộ nhằm tạo điều kiện cho SME chủ động hơn trong việc tìm kiếm đối tác xuất khẩu. "Đầu mối xuất khẩu" nếu có, cũng chỉ nên thông qua một hiệp hội xuất khẩu do các thành viên tham gia hoàn toàn một cách có tự nguyện, thực hiện tiến tới đấu thầu toàn bộ lượng quota xuất khẩu (ví dụ đối với may mặc). Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thương mại theo hướng xoá bỏ thủ tục phiền hà, thay đổi căn bản về phương thức quản lý xuất khẩu, đơn giản hoá thủ tục xuất khẩu. Ngoài ra, trong thời gian tới, Chính phủ cần quan tâm hơn nữa về vấn đề thủ tục hải quan, đây là vấn đề mà các doanh nghiệp trong thời gian qua gặp phải khó khăn rất lớn. Đơn giản hoá thủ tục xuất nhập cảnh sẽ hỗ trợ mạnh mẽ cho doanh nghiệp đặc biệt là SME trong tìm kiếm thị trường, chuyển gia công nghệ, tạo điều kiện cho các nhân viên SME đi ra nước ngoài dự các hội trợ triển lãm,.. Nhìn chung, việc đổi mới các quy chế thương mại ở Việt Nam cần chú ý và quan tâm sát sao hơn đối với SME tránh tình trạng tạo ra sự phân biệt giữa DNNN và SME . 8. Tăng cường hỗ trợ khả năng cạnh tranh cho SME trên thị trường thế giới. Khả năng cạnh tranh là mối quan ngại đầu tiên của tất cả những ai quan tâm đến sự phồn vinh của nền kinh tế nước nhà, đặc biệt là khả năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu có vai trò quyết định trong sự phát triển kinh tế. Trong khi SME vẫn chưa sẵn sàng cạnh tranh với các hãng nước ngoài một khi Việt Nam tham gia quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá. Điều đáng lưu ý là cạnh tranh hiện nay là một trong những vấn đề lớn nhất, không chỉ đối với những hãng lớn mà còn đối với các hãng nhỏ. Nói đến khả năng cạnh tranh người ta thường nói đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giá cả...xem xét trong mối tương quan so sánh với các doanh khác. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào khả năng cạnh tranh. Vì vậy, nâng cao khả năng cạnh tranh phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và SME nói riêng. SME trông chờ vào khả năng cạnh tranh xuất khẩu sẽ tăng lên nhờ cắt giảm thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, một số doanh nghiệp cũng có ý kiến cho rằng sẽ không ảnh hưởng gì do cạnh tranh mạnh trong nước hoặc do mối quan hệ lỏng lẻo giữa xuất khẩu và nhập khẩu với các nước ASEAN. Trong thời gian tới, Nhà nước có thể tăng cường hỗ trợ khả năng cạnh tranh cho SME bằng việc khuyến khích hỗ trợ cải tiến công nghệ và trang thiết bị thông qua trợ giúp xúc tiến nghiên cứu và phát triển kỹ thuật. Tuy nhiên, nếu chỉ cải tiến công nghệ, trang thiết bị thì chưa đủ bởi vì với những trang thiết bị như nhau nhưng hai doanh nghiệp vẫn có thể có năng suất lao động khác nhau, hay nói cách khác là khả năng cạnh tranh khác nhau. Do đó, bên cạnh sự hỗ trợ đó thì Nhà nước cần phải quan tâm đến vấn đề hỗ trợ tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động, hỗ trợ đào tạo cán bộ kinh doanh xuất khẩu giúp SME, hỗ trợ tư vấn quản lý cho SME. Sự hỗ trợ này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho SME tiến hành áp dụng phương thức quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9000, và các tiêu chuẩn khác. Bởi vì đây chính là giấy thông hành cho SME đưa sản phẩm của mình ra thị trường thế giới trong thời gian tới. Ngoài ra, chính sách hỗ trợ sản phẩm và sản phẩm xuất khẩu giúp đỡ SME nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của mình trên thương trường. Trong thời gian qua, các sản phẩm xuất khẩu của SME mới chỉ dựa trên lợi thế cạnh tranh "tĩnh". Hầu như SME ở Việt Nam mới đang dừng lại ở chỗ có gì gọi là thế mạnh đem chào bán. Vì thế, chính sách sản phẩm trong thời gian tới cần có sự quan tâm sát sao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu là phải tạo ra lợi thế cạnh tranh "động" cho các mặt hàng xuất khẩu. Nói tóm lại, trên đây là những giải pháp chính nhằm hỗ trợ cho SME ở Việt Nam trong thời gian tới phù hợp với tiến trình hội nhập khu vực và thế giới. Tất nhiên, còn rất nhiều những biện pháp mà Nhà nước cần phải hỗ trợ cho SME như việc hỗ trợ SME thầu phụ các doanh nghiệp lớn, hỗ trợ lãi suất đầu tư, hỗ trợ cơ sở hạ tầng, hình thành "vườn ươm" cho SME ( Một loại hình hỗ trợ SME đang có xu hướng phát triển ở các nước trên thế giới, song chưa thực sự phát huy tác dụng ở nước ta. Một mô hình rất mới đối với Việt Nam). Tuy nhiên, để thúc đẩy phát triển xuất khẩu cho SME bên cạnh sự hỗ trợ từ bên ngoài thì các cố gắng nỗ lực của bản thân doanh nghiệp là một nhân tố quyết định. Nếu các doanh nghiệp không tự cố gắng thúc đẩy sự phát triển của chính mình thì không có ai có thể thay thế họ, mọi sự hỗ trợ về chính sách và cơ chế của Nhà nước, của tổ chức hỗ trợ khác...chỉ là tạo điều kiện thuận lợi hơn cho SME phát triển sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy, để gia tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực SME này cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa công tác hỗ trợ của Nhà nước và sự nỗ lực của bản thân từng doanh nghiệp. KẾT LUẬN Thành quả đất nước ta đạt được qua những năm đổi mới - nhất là 10 năm gần đây, đã tạo thế và lực mới; công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đã có những bước tiến cơ bản; các mặt xã hội, trình độ dân trí, chất lượng nguồn lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên; tình hình chính trị xã hội cơ bản được ổn định. Mặc dù khái niệm “Doanh nghiệp vừa và nhỏ” mới được xuất hiện sau thời kỳ đổi mới (năm 1986) song khu vực này đã phát triển với tốc độ rất nhanh kể cả về số lượng, đóng góp đáng kể cho GDP và thu hút một số lượng lớn lao động trong xã hội. Những thành quả kinh tế nước ta đều có sự đóng góp không nhỏ của SME trong đó có hoạt động xuất khẩu. Tỷ trọng của khu vực này trong xuất khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam đã lên tới 48,5% vào năm 2002, xấp xỉ bằng khu vực quốc doanh. Đặc biệt có những ngành hàng mà sự tham gia của khu vực SME chiếm tỷ trọng lớn như xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, rau quả chế biến… Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là một nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những biện pháp hỗ trợ của nhà nước có thể khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát huy được tính chủ động, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các laọi hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường; phát triển sản xuất kinh doanh , tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay để phát huy vai trò của SME thì sự hỗ trợ của Chính phủ đối với khu vực đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Qua phân tích thực trạng và tác động của các chính sách kinh tế đến hoạt động của SME ở Việt Nam trong thời gian vừa qua có thể thấy được những tác động tích cực của những giải pháp mà Chính phủ đề ra. Tuy nhiên, trong thời gian tới, nhà nước cần có những biện pháp chính sách hỗ trợ tích cực hơn nữa trong hoạt động xuất khẩu giữa các loại hình doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Vì vậy, việc tiếp tục cải tạo và đổi mới các chính sách kinh tế nhằm hỗ trợ SME đối với hoạt động xuất khẩu là một vấn đề cấp bách hiện nay. Do giới hạn về mặt thời gian và những hạn chế về bản thân nên khoá luận tốt nghiệp này không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo của các thầy cô giáo và bạn đọc để khoá luận này được hoàn thiện hơn. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo TH.S Phạm Thị Hồng Yến đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành Khoá luận tốt nghiệp này. DANH MỤC BẢNG Bảng số Nội dung Trang 1.1 Tiêu chí phân loại SME ở các nước APEC 04 1.2 Tỷ lệ xuất khẩu của SME ở Đài Loan thời kỳ 1996 - 2001 14 2.1 Phân loại doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân chính thức theo 19 số lượng lao động, 2001 2.2 Phân loại cơ sở kinh doanh phi nông nghiệp tại các vùng nông 19 thôn theo quy mô (bao gồm các hộ kinh doanh cá thể) 2.3 Doanh thu các cơ sở kinh tế theo vùng lãnh thổ 21 2.4 Vốn các loại hình kinh doanh phân theo ngành kinh tế 23 2.5 Lao động trong SME phân theo vùng lãnh thổ 24 2.6 Đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế trong giai đoạn 26 1997 – 2001 (so sánh 1996) 2.7 Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên chia theo 28 ngành kinh tế và khu vực thành phần kinh tế (năm 2001) 2.8 Tỷ lệ đóng góp của SME vào tăng trưởng xuất khẩu không kể dầu 30 thô giai đoạn 1997 – 2001 2.9 Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 32 2.10 Xuất khẩu thuỷ sản của SME giai đoạn 1999 – 2002 33 2.11 Nhu cầu tín dụng và khả năng tiếp cận các nguồn tài chính 41 2.12 Ảnh hưởng của các yếu tố tới các quyết định liên quan đến số 59 lượng lao động và điều kiện lao động 3.1 Thị trường xuất khẩu của SME 2001- 2005 62 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001: Về trợ giúp phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 2. Báo cáo chuyên đề: Một số vấn đề về định hướng và giải pháp phát triển xuất khẩu năm 2003, Bộ Thương mại, ngày 6/02/2003. 3. Đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển thị trường nội địa góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội năm 2003, Báo cáo của Bộ Thương mại tại Hội nhị thương mại toàn quốc ngày 20- ngày 22 tháng 02 năm 2003. 4. Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010, Công văn số 3936/TM-XNK của Bộ Thương mại, tháng 11/2000. 5. Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ: Về việc ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. 6. Thông tư số 42/2002/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 07/05/2002: Hướng dẫn một số điểm quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, (ban hành kèm theo Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ). 7. Chương trình phát triển dự án Mêkông (MPDF): Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân số 10: Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trên đường tiến tới phồn vinh, Leila Webster, Hà Nội, 2002. 8. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam: Điều tra về các doanh nghiệp nhỏ và vừa, 2002. 9. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 2001, NXB. Thống kê, Hà Nội, 2002 10. Tổng cục thống kê: Điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1997-1998, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2001. 11. Ban chỉ đạo điều tra việc làm Trung ương: Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra lao động – việc làm, ngày 1/7/2001. 12. Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam : Tạo việc làm tốt bằng các chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ (TS.Phạm Thị Thu Hằng) 13. Kết quả hoạt động xuất khẩu và dự báo năm tiếp theo - Báo cáo không chính thức của Ngân hàng thế giới, TP Đà Lạt, 2002. 14. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam: Báo cáo điều tra doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ năm 2001. 15. Cải cách các doanh nghiệp vừa và nhỏ – Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW (CIEM),2002 16. Chương trình phát triển Dự án Mêkông (MPDF): Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân số 12 – kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp mới. Trần Phương Quỳnh Trang và Công ty trách nhiệm hữu hạn Concentti, Hà Nội, 2001. 17. Báo cáo của MECANIMEX SAIGON trong buổi gặp mặt với Thủ tướng Chính phủ (3/2000) 18. Thời báo Sài Gòn, số 13-1999 ngày 25/3/1999, trang11 19. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TW: Kết quả điều tra hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam và một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu,2001 20. FES - Hội Hữu Nghị Việt Đức TW, Các tập kỷ yếu hội thảo về SME 21. Nguyễn Cúc: Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển SME ở Việt Nam đến năm 2005, NXB Chính trị Quốc gia, 2000 22. Phạm Thái Quốc: Kinh tế Đài Loan - tình hình và chính sách, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,2001. 23. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần có "sự tiếp" sức cần thiết - Tạp chí Thương Mại số 57/2000 24. Hỗ trợ tài chính cho SME của Đài Loan - Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Hà Nội,2001 25. Quỹ đầu tư và thành lập quỹ đầu tư tại Việt Nam- Tạp chí Ngân hàng, 2002 26. Các giải pháp về kinh tế- tài chính để các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển - Tạp chí Cộng sản số 19. 27. Doanh nghiệp tư nhân cái nhìn bi quan- Thời báo ngân hàng, Hà Nội, 1/2000 28. Tín dụng xuất khẩu hình thức áp dụng vào Việt Nam- Tạp chí thị trường tài chính - tiền tệ Hà Nội. 29. Bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu- làm gì để tăng thị phần, Báo thương mại, Hà Nội 5/2000. 30. Nguyễn Đình Cung, Trần Kim Hào, Lê Viết Thái, Tô Đình Thái, Hoàng Văn Thành: Doanh nghiệp nhỏ và vừa – Hiện trạng và những kiến nghị giải pháp, NXB Giao thông vận tải, Hà Nội, 2000. 31. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế vĩ mô và đổi mới các thủ tục hành chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, ấn phẩm của Dự án US/VIE/95/004, Hà Nội, 1999. 32. Bộ Lao động, Thương binh và xã hội: Số liệu thống kê Việt Nam: Lao động – Việc làm ở Việt Nam 1996 – 2000, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2001. 33. UNIDO: Tài liệu hành động số 5, Hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, Vienne, 2000 34. Chương trình phát triển Dự án Mêkông (MPDF): Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân số 8: Động lực, tăng trưởng chưa đủ lớn của Việt Nam, kết quả điều tra 95 doanh nghiệp sản cuất tư nhân lớn, Leila Webster, Markuss Taussig, Hà Nội, 1999). 35. UNTAC: Chiến lược phát triển và dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa: các tài liệu của bốn cuộc họp quốc tế giữa các chuyên gia, UN, New york và Geneva, 2000. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8395.doc